Saturday, May 16, 2015

Dương Nguyệt Ánh nói chuyện tại Giỗ Tổ Hùng Vương

Dương Nguyệt Ánh nói chuyện tại Giỗ Tổ Hùng Vương, Montreal May 3, 2015

    Ánh xin trân trọng kính chào tất cả quý vị.
Trước hết, Ánh xin chân thành cảm tạ ông Lê Văn Trang, BS Chủ Tịch Đào Bá Ngọc và Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Vùng Montreal đã có nhã ý mời Ánh đến đây để gặp gỡ và thưa chuyện với quý vị. Và quan trọng hơn hết, Ánh xin cảm ơn sự hiện diện của tất cả quý vị hôm nay, nhất là những quý vị ở xa đã phải lái xe nhiều giờ để đến đây. Chưa sang đến Montreal mà từ mấy tuần trước Ánh đã nhận được nhiều điện thư chào đón ân cần, Ánh xin nhân dịp nầy trân trọng ghi nhận và tri ân những thịnh tình này, và biết là Ánh sẽ còn phải cố gắng thật nhiều nữa thì mới xứng đáng.
    Kính thưa quý vị,
Đây là lần đầu tiên mà Ánh tham dự lễ Giỗ Tổ và Quốc Hận được tổ chức chung vào cùng một ngày, và cái buồn lần này cũng vì thế mà thấm thía hơn so với mọi năm. Vì Ngày Giỗ Tổ là để nhớ ơn dựng nước và mở mang bờ cõi của tiền nhân, mà ngày nay nước thì đang mất dần vào tay Trung Cộng, tài nguyên VN thì đang bị cho không hay sang nhượng với giá rẻ mạt. Thế hệ hậu sinh như chúng ta thì ngậm ngùi với lễ Quốc Hận, còn những đứa con bất hiếu như Đảng CSVN thì đang mặc sức phung phí và làm băng hoại hết gia tài của mẹ VN.

Bốn mươi năm trước, khi ngồi trên chiếc phi cơ trực thăng bay ra biển Đông trong buổi sáng cuối cùng, dù chưa đủ lớn để hiểu thấu hết cái tai họa to lớn sắp đổ xuống đầu người dân miền Nam nói riêng và cả tổ quốc VN nói chung, nhưng Ánh cũng đã đủ lớn để biết lần ra đi này sẽ là vĩnh biệt. Vĩnh biệt 15 năm tuổi thơ tự do và bình yên của Ánh trong vòng tay bao bọc của chiến sĩ VNCH, và vĩnh biệt VNCH. Cái cảm giác đau đớn nhất lần đầu tiên trong đời là khi đứng nhìn tầu Hải Quân của mình hạ lá cờ của VNCH xuống và thay thế bằng cờ Hoa Kỳ để được phép cặp bến Phi Luật Tân, rồi khóc vì biết mình từ đây là một người vô tổ quốc, rồi lo sợ cho những người còn ở lại, những người đang cố thoát mà không thoát được, thương nhất là những chiến sĩ của mình còn đang cố chiến đấu đến viên đạn sau cùng và thương binh của mình đang còn trong các Quân Y Viện. Ánh tự hỏi số phận của họ rồi ra sao, ai lo cho họ và cho vợ con họ.

Bây giờ thì tất cả chúng ta đều biết chuyện gì đã xảy ra cho những người ở lại. Quân dân miền Nam đã phải chịu đựng một cuộc trả thù tàn bạo nhất, man rợ nhất trong lịch sử dân tộc bởi chính những người đồng chủng, những người từng rêu rao với cả thế giới là họ chiến đấu để giải phóng cho miền Nam. Còn nhớ những ngày sau 30/4/75 Đảng đã tuyên bố là "Chỉ Có Đế Quốc Mỹ là kẻ chiến bại. Toàn thể nhân dân VN, kể cả những viên chức, binh sĩ miền Nam, đều là những người chiến thắng..." và "nhân dân miền Bắc chúng tôi, và đồng bào ruột thịt miền Nam sẽ cùng nhau xây dựng một đất nước Việt Nam hùng mạnh..". Đã có nhiều người tưởng rằng Đảng muốn thật tâm "Hòa Hợp Hòa Giải" mà không hiểu rằng đấy chỉ là thủ đoạn của Đảng để lừa cho các nạn nhân ngoan ngoãn hợp tác và không kháng cự nữa. Sau đó trong số “những đồng bào ruột thịt miền Nam” đã có cả trăm ngàn người bị xử tử ngay lập tức. Mấy triệu người đi tù và trong số đó hơn trăm ngàn người đã chết trong những nhà tù khổ sai được mệnh danh là trại cải tạo. Lớp không phải đi tù thì bị bóc lột vơ vét đến tận cùngxương tuỷ qua hàng loạt chiến dịch đổi tiền và những trò gian manh khác của chính quyền để cướp tài sản của dân, rồi nhà tan cửa nát, gia đình ly tán, rồi bị đầy đi cái gọi là vùng kinh tế mới, cũng là nơi vùi thây của hàng trăm ngàn người dân vô tội khác.
Còn quân dân miền Bắc thì sao? Ban đầu họ ngỡ ngàng trước sự trù phú của miền Nam, trước những dấu vết rất hiển nhiên của một nền tự do dân chủ dù chỉ mới được xây dựng trong 20 năm. Một thí dụ là cái tài sản đáng kể về văn chương, thi ca, âm nhạc, nghệ thuật của miền Nam. Từ ngỡ ngàng họ đi đến tức giận vì nhận ra mình bị lừa, vì đã tin lời Đảng hy sinh xương máu để giải phóng một miền Nam không cần và không muốn giải phóng chút nào. Tệ hại hơn nữa là khi họhiểu ra rằng họ đã hy sinh xương máu để ăn cướp miền Nam cho Đảng thì đúng hơn. Và sau khi ăn cướp được rồi, Đảng chia nhau hết và trở thành giai cấp tư bản Đỏ để phung phí tài nguyên quốc gia và hưởng thụ. Còn những con người ngày trước còng lưng hy sinh cho Đảng đi ăn cướp thì nghèo vẫn hoàn nghèo, khổ vẫn hoàn khổ, rồi vẫn chung số phận Dân Oan bị cướp đất cướp ruộng y như dân miền Nam. Bẽ bàng nhất là những kẻ phản bội VNCH, đã từng ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản hoặc hăng hái đi theo cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Họ tưởng rằng sẽ được Đảng đền ơn trọng hậu, nhưng không ngờ bị Đảng trở mặt phản bội, quyền không được chia mà lợi cũng hụt. Những tấm bằng ban khen, tuyên dương liệt sĩ gì gì chỉ là mớ giấy lộn. Khi họ sáng mắt ra thì đã muộn.

Trong khi các quốc gia Á Châu khác như Nam Hàn, Đài Loan, Singapore, Mã Lai, v.v., dồn mọi nỗ lực xây dựng đất nước, đã đưa đất nước họ lên hàng phú cường chỉ vỏn vẹn trong vài thập niên, thì ngay sau khi chiếm được miền Nam đảng CS đã đưa toàn cõi VN đi thụt lùi lại cả hằng 50 năm. Còn nhớ sau 30/4/75 những tiện nghi cuả một xã hội tân tiến ở miền Nam như TV, tủ lạnh, điện thoại v.v... biến mất hết. VN là một nước nông nghiệp mà cả nước phải ăn bo bo, khoai sắn độn cơm. Rồi đảng CSVN lại tiếp tục làm tay sai cho CS Liên Xô gây ra thêm hai cuộc chiến tranh với Campuchia và Trung Cộng, phung phí thêm mấy trăm ngàn sinh mạng thanh niên Việt, tiêu diệt thêm tiềm năng dân tộc. Cũng vì cái chế đó độc ác, man rợ đó mà cả triệu người bỏ nước ra đi bằng cách vượt biên,vượt biển. Theo thống kê cuả Liên Hiệp Quốc thì có khoảng 900 000 thuyền nhân VN đã đến được bến bờ tự do và họ ước tính rằng cứ mỗi một người thoát được thì có 2 người khác đã bỏ mình trên đường tìm tự do, tức là đã có khoảng gần 2 triệu người thiệt mạng.

Đói nghèo và thất học thường dẫn đến suy đồi đạo đức, khi con người tìm mọi cách để thoát ra cái đói nghèo và sẵn sàng trả bằng những giá đắt nhất, nhất là khi cái giàu sang xa xỉ và vô đạo đức của giai cấp lãnh đạo diễn ra nhan nhản trước mặt. Và cái thành phần phải gánh chịu hậu quả nhiều nhất bao giờ cũng là thành phần ở vào thế yếu nhất, đó là phụ nữ và trẻ em. Trong lịch sử hơn 4000 năm văn hiến của chúng ta, chưa bao giờ có sự kiện hàng lớp phụ nữ và trẻ em VN bị bán ra nước ngoài để làm nô lệ tình dục hoặc những cảnh nhục nhã ê chề cuả các thiếu nữ VN khoả thân sắp hàng để cho ngoại kiều lựa như lựa một món hàng. Đó là chuyện của những người dân VN nghèo khổ. Chuyện của giai cấp lãnh đạo giàu có thì sao? Đạo đức của họ còn suy đồi tệ hại hơn. Không có gì xấu hổ, nhục nhã bằng những tấm bảng viết bằng tiếng VN để cảnh cáo không được ăn cắp ở những nước Á Châu có nhiều khách du lịch từ VN. Nếu đã đủ tiền để đi du lịch thì chắc chắn là không đến nỗi đói nghèo mà phải làm liều.
Vì sao mà ra nông nỗi này? VN chúng ta đã bao lần bị ngoại bang đô hộ và bóc lột, cả ngàn năm Bắc thuộc tăm tối, cả 80 năm đọa đày dưới tay thực dân Pháp, cả triệu người chết đói vì phát xít Nhật, mà giấy rách vẫn giữ được lề, không bao giờ đi đến sự nhục nhã tột cùng như bây giờ. VN ngày nay là một quốc gia có chủ quyền, với đảng cầm quyền là người VN, mà tại sao VN lại thụt lùi thảm hại về cả vật chất lẫn tinh thần như thế, tại sao phụ nữ VN và trẻ em VN lại bị đẩy vào bước đường cùng như thế, tại sao tình trạng VN lại tồi tệ hơn cả khi bị ngoại bang đô hộ và một trời một vực so với thời VN từng được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông?

Câu trả lời là vì trong suốt 40 năm qua chính quyền CS không hề có một nỗ lực nào để xây dựng đất nước, không hề có một quan tâm nào đến phúc lợi của người dân nên mới ra nông nỗi này. Họ có thật sự là người VN không mà sao hành xử y như thực dân ngoại bang, chỉ lo vơ vét thật nhiều và thật nhanh mọi tài nguyên quốc gia, bất chấp những mối đại họa đường dài như tàn phá môi sinh, đốn rừng, chặt gỗ quý, tàn phá di tích lịch sử, v.v... Không chăm lo cho dân thì chớ, họ tán tận lương tâm đến nỗi công nhân VN xuất cảnh lao động bị chủ ngoại quốc đánh đập chạy đến cầu cứu mà tòa đại sứ làm ngơ không can thiệp, ngư dân VN bi tầu Trung Cộng hà hiếp ngay trong hải phận VN mà họ không phản ứng.

Và cái tội tầy đình nhất của Đảng CSVN ngày nay là vì tham vì hèn mà dâng đất dâng biển cho Trung Cộng để dựa vào Trung Cộng mà củng cố quyền lực. Ít nhất 720 cây số vuông biên giới VN, kể cả Ải Nam Quan và Thác Bản Giốc và 10000 cây số vuông biển VN gồm cả quyền khai thác hải sản đã nằm gọn trong tay Trung Cộng mà chúng không hề phải tốn một viên đạn. Chưa kể đến việc cho Trung Cộng khai thác Bauxite ở Tây Nguyên và cho Trung Cộng thuê 300,000 mẫu rừng ở 6 tỉnh miền Bắc 50 năm. Trung Cộng tha hồ di dân và đem quân đội của chúng vào những vùng này đóng chốt sẵn. Sau này nếu có xẩy ra chiến tranh Trung-Việt thì địch đã ở sẵn ngay trong lòng ta rồi, lại càng khó mà đánh bật được chúng.

Bán nước, phá hoại tài nguyên quốc gia, dập tắt tinh thần ái quốc và niềm tự hào dân tộc, bóc lột, đàn áp, khủng bố dân. Một chính quyền thực dân đỏ, một đảng lãnh đạo bất nhân bất nghĩa như thế là đại hoạ cho tổ quốc Việt Nam thì người Việt quốc gia hải ngoại không thể nào hợp tác hay hòa hợp hòa giải gì với họ được. Nhân đây, xin một lần nữa nhắc nhở những ai đã, đang hoặc có ý định hợp tác với chính quyền CS, về cái bản chất phản bội, dối trá và lừa lọc của ĐảngCSVN. Cả miền Bắc đã bị lừa, đã không thiếu gì những bài viết chửi Đảng của những cựu đảng viên hay cựu cán bộ vì uất ức. Cả miền Nam đã bị lừa khi Đảng giả vờ hòa hợp hòa giải chỉ để dễ bề thẳng tay tàn sát trả thù và dễ dàng lùa cả triệu quân cán chính miền Nam vào nhà tù mà ai cũng tưởng chỉ là đi học tập vài ngày rồi về. Cả Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã bị lừa. Đây là những kẻ nai lưng hy sinh xương máu cho Đảng rồi bị Đảng trở mặt phản bội sau khi xong việc. Vậy thì huống gì là người Việt hải ngoại, thành phần đã từng bị Đảng nhục mạ vu khống là một lũ ma cô đĩ điếm tội phạm nên mới bỏ nước ra đi. Ngày nay Đảng đổi giọng quỷ quyệt gọi chúng ta là những khúc ruột ngàn dặm vì muốn biến chúng ta thành những con bò ngây thơ để cho Đảng vắt sữa. Đảng hô hào hòa hợp hòa giải để chúng ta tự nguyện làm tay sai không công giúp Đảng thi hành nghị quyết 36. Đảng dựng lên những lãnh tụ đối lập ma để sau nầy diễn kịch "VN có đa đảng" hầu che mắt thế giới, để mượn tay những kẻ nhẹ dạ thi hành âm mưu của đảng. Sau khi Đảng xong việc, đạt được mục đích, thì cái bản chất phản bội lừa lọc mới lộ ra và quý vị đó cũng sẽ là những cái vỏ chanh tội nghiệp mà Đảng sẽ không ngần ngại vứt bỏ sau khi vắt hết nước.

Vừa rồi chúng ta đã ôn lại câu chuyện tang thương của những người ở lại và quê hương bỏ lại. Còn chuyện của những người ra đi?

Trước hết, xin thành kính đốt nén hương lòng cho những người đã bỏ mình trên đường tìm tự do, những người đã chọn thà chết còn hơn sống mà như chết. Còn chúng ta, từ những người tị nạn thất thểu không nhà và vô tổ quốc năm xưa chúng ta đã trở thành công dân đầy tự tin của những quốc gia tự do dân chủ bậc nhất trên thế giới. Chúng ta đã nhanh chóng khắc phục được những khó khăn kinh tế ban đầu và dựng lên những cộng đồng vững mạnh, những khu thương mại trù phú, các công ty lớn nhỏ đầy dẫy, do người Việt làm chủ. Chúng ta thành công trong mọi ngành, từ quân sự đến khoa học kỹ thuật, văn chương nghệ thuật, từ Luật Nha Y Dược đến Thẩm Mỹ, Thời trang. Con em chúng ta đang sắp hạng đầu ở mọi cấp lớp, từ mẫu giáo đến đại học. Trong lúc người VN trong nước đi ra ngoại quốc thì tủi hổ vì bị cảnh cáo không được ăn cắp, thì chúng ta, những người Gia Nã Đại gốc Việt, người Úc gốc Việt, người Mỹ gốc Việt, v.v... đi đến đâu cũng được khen phục vì những thành quả và đóng góp không nhỏ cho quê hương mới. Sự kiện này chúng minh hùng hồn rằng nếu những người Việt trong nước có điều kiện và cơ hội như người Việt hải ngoại thì họ cũng sẽ xây dựng được một đời sống no ấm và một quốc gia phú cường. Do đó, chính Đảng CS và bè lũ thực dân Đỏ đang cai trị VN là cái lý do ngăn chặn điều kiện phát triển đất nước và hạnh phúc cho dân tộc VN.

Suốt 40 năm qua người Việt hải ngoại không chỉ lo làm lại cuộc đời trên quê hương mới. Song song với việc đó chúng ta vẫn nêu cao chính nghĩa quốc gia, vẫn tranh đấu không ngừng nghỉ cho 80 triệu đồng bào trong nước, đồng thời gắt gao lên án những tội tày trời của CSVN đối với quốc gia dân tộc. Ánh xin được liệt kê một vài thí dụ.

Chẳng hạn như cuối thập niên 70, đa số người tỵ nạn còn đang chân ướt chân ráo cố hội nhập vào đời sống mới, người thì làm 2,3 jobs một lúc để dành dụm gửi tiền về VN, người thì học ngày học đêm để bắt kịp bạn đồng lớp, nhưng chúng ta vẫn bỏ giờ làm giờ học để di biểu tình tranh đấu cho thuyền nhân VN không bị đẩy trở ra biển, tổ cáo hải tặc đang giết người cướp của trên biển Đông, và kêu cứu với Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc. Ánh nhớ hồi đó bố mẹ Ánh rất khó, muốn xin đi đâu không phải dễ. Vậy mà Ánh xin đi tuyệt thực trước tòa Đại Sứ Mã Lai hay vắng nhà cả đêm 30 tháng 4 để làm Đêm Không Ngủ Tưởng Nhớ Quê Hương thì hai cụ cho con gái đi ngay mà không hề thắc mắc.

Một thí dụ nữa là việc tranh đấu cho những cựu tù cộng sản được đến Hoa Kỳ trong chiến dịch nhân đạo mà bên Mỹ vẫn gọi tắt là HO. Người có sáng kiến và có công đầu là bà Khúc Minh Thơ. Nếu không có chiến dịch HO thì con số những người tù chết trong vòng vài năm sau khi được thả sẽ còn cao hơn nữa, vì ở trong tù bị hành hạ đánh đập, bị bắt làm việc khổ sai và đói ăn triền miên thì thể lực hao mòn, nhiều khi lê về được với gia đình nhưng trong người mang cả trăm thứ bệnh.

Một thí dụ nữa là chuyện treo cờ vàng. 40 năm trước đã có nhiều hội đoàn không treo và chào cờ vàng trong các buổi sinh hoạt của người Việt ở hải ngoại, vì họchủ trương phi chính trị. Chúng ta đã phải mất rất nhiều tâm huyết mới thuyết phục được họ treo và chào cờ vàng. Rồi so với hôm nay không những mình đã thuyết phục được mình mà còn thuyết phục được người. Ánh muốn nói đến sự kiện những thành phố và Tiểu Bang Hoa Kỳ có đông người Việt cư ngụ đã lần lượt công nhận cờ vàng là biểu tượng của người Mỹ gốc Việt. Nhờ vậy lá cờ thân yêu của chúng ta đang được tung bay hiên ngang ở khắp hải ngoại mà tòa các tòa Đại Sứ CS không làm gì được. Quả là cộng đồng người Việt quốc gia chúng ta đã tiến được một bước rất dài. Và một trong những người có công đầu trong cuộc vận động kiên quyết này là chị Lữ Anh Thư, một người bạn thân và đồng chí của Ánh. Một lát nữa, chị Anh Thư sẽ giúp bổ túc thêm về những thành quả của người trẻ hải ngoại trong 40 năm qua.

Một thành quả quan trọng khác là công tác trả ơn chiến sĩ. Không đâu là không có những nỗ lực gây quỹ giúp thương phế binh và cô nhi quả phụ của tử sĩ VNCH. Cộng đồng nhỏ thì làm nhỏ, cộng đồng lớn thì làm lớn. Ở những nơi đông người Việt sinh sống như California bên Mỹ thì hàng năm vẫn có đại nhạc hội Cám Ơn Anh quy tụ hàng trăm nghệ sĩ trình diễn ngoài trời suốt từ trưa đến tối bán được cả trên 10 ngàn vé và số tiền đóng góp bao giờ cũng lên trên nửa triệu đô la.

Nãy giờ chúng ta đã ôn lại hai câu chuyện, câu chuyện tang thương của những người ở lại và câu chuyện đầy tự hào của những người ra đi. Trong bối cảnh này, câu hỏi lớn nhất là người Việt hải ngoại cần phải làm gì cho tương lai dân tộc. Mà tương lai của một dân tộc thì luôn luôn nằm trong tay những người trẻ. Vậy câu hỏi chính xác hơn là chúng ta cần làm gì để khuyến khích tuổi trẻ hải ngoại tiếp tay với những người trẻ trong nước bảo vệ quê hương và tiếp tục tranh đấu cho tự do nhân quyền. Thật vậy, ngoài việc giúp con em chuẩn bị cho tương lai cá nhân, phụ huynh chúng ta còn cần giúp đào tạo một thế hệ mới cho tương lai dân tộc Việt Nam.

Việc làm này có viển vông không, khi mà VN đang sắp sửa mất nước vào tay Trung Cộng đến nơi rồi. Thưa câu trả lời là không viển vông. Nhìn lại suốt chiều dài lịch sử, VN đã từng bị Tàu đô hộ cả ngàn năm mà hàng mấy mươi thế hệ người VN từ đời này sang đời khác vẫn nuôi dưỡng được lòng ái quốc bền bỉ và ý chí quật cường đề cuối cùng dành lại độc lập. Đó là vì cha ông ta đã nỗ lực gìn giữ cái tinh thần dân tộc cho con cháu. Nhờ đó, ta luôn ý thức được mình là người Việt và tự hào mình là người Việt, dù nền văn minh của ta có bị kẻ thống trị cướp nhận là của họ, dù lịch sử của ta có bị bôi xoá hay xuyên tạc, và văn hoá của ta bị pha loãng đi để tiêu diệt niềm tự hào dân tộc của ta và đồng hoá ta thành người Tàu. Soi tấm gương này của cha ông, ngày nào chúng ta còn nỗ lực hun đúc tinh thần dân tộc cho con cháu thì nhất định ta không sợ mất nước, và dẫu có mất thì cũng sẽ dành lại được khi thời cơ thuận tiện.

Nếu câu hỏi là đối với tuổi trẻ VN ở hải ngoại, nỗ lực hun đúc tinh thần dân tộc này có thực tế không khi con em chúng ta sinh ra và lớn lên ở đây, thì xin thưa câu trả lời là khó nhưng không phải không làm được. Lần đầu tiên trong lịch sử, chúng ta đã phải hàng hàng lớp lớp bỏ quê hương ra đi vì không chấp nhận cộng sản. Nhưng chúng ta không phải là dân tộc duy nhất đang trải rộng trong thế giới tự do. Hãy lấy một thí dụ là người Do Thái. Họ đã tha phương đi khắp nơi mà vẫn không mất hồn Do Thái, và cuối cùng đã làm được cái chuyện không tưởng là vận động cả thế giới cho họ lập quốc. Ngày nay, họ đang lợi dụng vị thế chính trị và kinh tế của họ ở những nước bên ngoài để hỗ trợ đắc lực cho người dân bên trong nước Do Thái được tự do và trường tồn. Nếu người Do Thái làm được thì sao ta không làm được. Nếu thế hệ con em chúng ta trở thành những nhà chính trị kinh tế thương gia chuyên viên lỗi lạc, nắm những cơ phận then chốt trong guồng máy các quốc gia lớn trên thế giới, nhưng luôn giữ được tinh thần VN thì dù sinh ra và lớn lên ở bất cứ đâu, họ vẫn sẽ có những quan tâm tự nhiên cho đất nước và dân tộc VN.

Nhân dịp này Ánh cũng xin bày tỏ mối lo ngại rất lớn không phải của riêng Ánh mà của tất cả chúng ta trước sự phá sản tinh thần VN đang diễn ra trong nước. Chúng ta là một dân tộc với cả một lịch sử kiêu hùng và một nền văn minh phong phú, từ trống đồng cho đến phong tục thờ cúng tổ tiên và những sinh hoạt tự trị nơi làng xã ngay cả dưới thời phong kiến. Ngày nay vì muốn lấy lòng Trung Cộng, nhà nước CS đang lặng lẽ bôi xóa đi những trang sử chống Bắc xâm lẫm liệt của ta. Mới năm ngoái, chúng ra chỉ thị bãi bỏ những ngày kỷ niệm quan trọng như kỷ niệm Trưng Vương ở cấp quốc gia mà chỉ cho làm ở địa phương nơi có đền thờ hai bà thôi. Nguy hiểm hơn là luận điệu văn hóa của ta là toàn vay mượn từ Trung Hoa, và tinh thần vọng ngoại, ưa chuộng tất cả những gì của người và chê bai của mình. Chúng ta chắc chắn sẽ mất nước khi chúng ta tự đánh mất đi hồn nước. Còn đất còn biển mà mất văn hóa, mất lịch sử, mất đi từ hào dân tộc, rồi thay vào là tinh thần nô lệ, Hán hoá thì có khác gì đã mất nước rồi. Nếu ta không giữ được quê hương ở trong chúng ta thì làm sao giữ được quê hương bên ngoài?

Trong tình huống này, nhu cầu giáo dục tuổi trẻ VN để huy động niềm tự hào dân tộc trở thành cấp thiết. Bước đầu tiên là dậy cho con em một hiểu biết tường tận và chính xác về lịch sử VN, và những anh hùng, anh thư của dân tộc. Điều khó khăn là phụ huynh chúng ta không có tài liệu sẵn sàng cho mục đích này. Hơn nữa, nếu muốn nhắm vào giới trẻ hải ngoại, chúng ta cần phải soạn thảo những tài liệu này bằng anh ngữ, pháp ngữ v.vv... Muốn gây được phong trào học sử trong giới trẻ, chúng ta cần có những bài viết ngắn, gọn để tóm lược những mốc lịch sử quan trọng đồng thời xoáy vào những giai đoạn lịch sử oai hùng nhất và đề cập thật nhiều đến những người trẻ hào hùng VN qua bao thời đại. Khi nói về họ, ta cần nhấn mạnh đến tuổi tác và thân thế của họ, thí dụ như Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản mới 16 tuổi đã tự điều khiển một đạo quân chống giặc Mông Cổ và lập bao chiến công lừng lẫy, Lý Đông A mới 15 tuổi đã theo nhà cách mạng Phan Bội Châu và 22 tuổi đã thành lập và làm tổng thư ký Đại Việt Duy Dân Cách Mệnh Đảng để đấu tranh chống Pháp. Trương Tử Anh thành lập Đại Việt Quốc Dân Đảng lúc chỉ mới 25 tuổi. Nguyễn Thái Học thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng ở tuổi 25.

Song song với việc dạy sử, chúng ta cần trang bị cho con em những hiểu biết căn bản về văn hóa của người VN, nhất là những văn hóa cổ, đặc thù của ta. Mình phải biết rõ cái gì của mình, nhất là những cái hay, cái đẹp của mình trước khi để ý học hỏi và so sánh với những cái hay cái đẹp của người. Có như vậy mình sẽ có những chọn lựa khôn ngoan để cầu tiến nhưng vẫn giữ được bản sắc và niềm tự hào dân tộc. Có như vậy thì không sợ Hán hoá, sợ mất đi hồn VN. Có như vậy thì mới giữ vững được cái VN bên trong chúng ta để bảo vệ cái VN bên ngoài.

Thế hệ tỵ nạn và di dân đầu tiên bao giờ cũng phải lo chuyện cơm áo và ổn định đời sống. Nay chúng ta đã xong bước đầu và đã thiết lập được những cộng đồng Việt trù phú ở nhiều quốc gia tân tiến. Con em chúng ta đang sắp hạng đầu ở học đường và đang thăng tiến rất nhanh trong nghề nghiệp. Đây là lúc chúng ta cần thực hiện bước kế tiếp là đẩy mạnh tuổi trẻ VN vào tiến trình khôi phục và phát huy tinh thần dân tộc. Nói một cách khác là sau khi phải bỏ quê hương ra đi nay ta đã hoàn hồn, bây giờ thì ta cần lo đến bước kế tiếp là giữ hồn, nhất là trước tình huống VN hiện nay. Ánh xin trân trọng kêu gọi sự chung sức của những vị học giả, sử gia trong và ngoài nước cho vấn để cấp thiết nầy. Chúng ta có rất nhiều hội đoàn đa số cho mục đích ái hữu, tương tế, và từ thiện. Đây là lúc chúng ta cần cho mọc lên như nấm những hội nghiên cứu về sử, về nguồn gốc, văn hóa, và phong tục VN.

Những lời nói sau cùng xin được dành cho những người trẻ VN và xin mượn tựa đề của một tác phẩm của cố văn sĩ Duyên Anh có tên là “Mơ Thành Người Quang Trung”, một trong những anh hùng chống Bắc xâm vĩ đại nhất của lịch sử VN. Vâng, tất cả chúng ta xin hãy mơ thành người Quang Trung, và xin hãy là người Quang Trung.

Dương Nguyệt Ánh - 5/2015




Sunday, May 10, 2015

Sự vô liêm sỉ đã không còn giới hạn.... - Mai Tú Ân

Sự vô liêm sỉ đã không còn giới hạn....
 Du khách không có chuyên môn vẫn ở lại giúp người địa phương cứu người trong khi các quan chức chữ thập đỏ VN qua nhờ người ta học tập lại bỏ chạy thoát thân sau khi động đất nổ ra. Nhục hơn nữa là tru tréo chữ thập đỏ nước chủ nhà  giúp đỡ để lùng vé máy bay tranh chỗ ra đi của đàn bà trẻ con.

Mai Tú Ân

Du khách không có chuyên môn vẫn ở lại giúp người địa phương cứu người trong khi các quan chức chữ thập đỏ VN qua nhờ người ta học tập lại bỏ chạy thoát thân sau khi động đất nổ ra. Nhục hơn nữa là tru tréo chữ thập đỏ nước chủ nhà giúp đỡ để lùng vé máy bay tranh chỗ ra đi của đàn bà trẻ con

Sự kiện 10 người trong " Chữ Thập Đỏ Việt Nam" đã hèn nhát bỏ về trong sự nhục nhã cùng sự vô liêm sỉ của họ khi bào chữa cho cái hèn. Họ đi học hỏi về công tác chống động đất thì gặp cơn động đất như vậy thì họ phải coi như đó là một cơ hội tốt để thực hành những điều đã học trong thực tế chứ. Họ là những người được đào tạo về các kỹ năng đối phó với khủng hoảng, và được trả tiền để làm việc đó. Nhưng họ lại làm ngược lại cái trách nhiệm được giao một cách hèn nhát, nhục nhã. Cho họ và cho đất nước của họ...
"Quan chức chữ thập đỏ" chạy thoát thân về khoe thành tích tranh vé của đàn bà trẻ con để chạy trước

Không hề đem kỹ năng được đào tạo ra để giúp cho đất nước đang gặp tai họa, không hề có một động thái nào giúp đỡ những người dân Nepal đang khốn khổ và cần lắm từng sự giúp đỡ của từng đôi tay thiện nguyện, họ lại cũng vô cảm đến mức không giúp đỡ được chút nào cho cả đồng bào VN đang gặp nạn bên ấy. Và thêm gánh nặng cho đất nước đang gặp thảm họa ấy bằng cách cuống cuồng yêu cầu được thoát thân trong khi đàn bà trẻ con của nhiều nước vẫn còn kẹt lại, trong khi đường đường là những đấng nam nhi thì họ lại tháo chạy nhanh nhất có thể. Chưa kể trên con đường bỏ chạy, hẳn họ nhìn thấy những con người tình nguyện trên khắp thế giới đang ùn ùn đổ về Nepal để cứu giúp người dân...

Và trớ trêu khi nỗi hèn của họ như còn tăng gấp đôi khi điều lo sợ của họ đã không đến. Đó là vì sau cơn động đất 7,9 độ richter đó thì Nepal liên tiếp bị những cơn dư chấn và có lẽ đây mới chính là nguyên nhân của việc bỏ chạy nhục nhã của phái đoàn CTD VN. Vì khi cả đoàn tháo chạy như thế thì Nepal không còn bị động đất nữa ngoài những cơn dư chấn kể trên. Nó giống như những kẻ hèn nhát đạp lên đầu nhau để tháo chạy khỏi con tàu đắm, nhưng khi thoát được thì tàu lại không đắm.

Hèn nhát như vậy nhưng khi về nước thì lại trơ tráo không biết ngượng khi loanh quanh chối cái hèn bằng những lý do lý trấu một cách vô liêm sỉ như ông Nguyễn Xuân Duy (hình) đã trả lời trên tivi mà tôi không thèm nhắc lại vì nó đã vượt giới hạn của sự liêm sỉ.

Rồi lãnh đạo của họ, đáng ra phải lên án họ như một thứ lên tiếng của đạo đức, lương tâm giống như người dân thì lại bào chữa, bao biện một cách không thể chấp nhận được...

Điều tra và xử lý hết những kẻ làm nhục, không phải làm nhục họ vì họ không còn liêm sỉ để nhục, mà vì tội làm nhục những người Việt Nam chúng ta...

Mai Tú Ân



40 Năm Quốc Hận: Nhận Diện Kẻ Thù - Đào Nương

40 Năm Quốc Hận: Nhận Diện Kẻ Thù
Đào Nương
    Bài số 1 (Saigon Nhỏ số ra ngày 24 tháng 4, 2015)
Trước khi báo Người Việt khởi kiện báo The Little Saigon News Inc. và cá nhân tôi, Đào Nương Hoàng Dược Thảo về bài viết “Những bí ẩn của báo Người Việt” thì tôi cũng như đa số những người trong cộng đồng người Việt tỵ nạn không cộng sản tuy không đồng ý với những bài viết có lợi cho cộng sản của báo Người Việt, (Điển hình là thư của “độc giả” Sơn Hào ngày 8 tháng 7 2012 gọi ngày 30 tháng 4 là ngày chiến thắng của toàn dân; và quân, dân, cán chính VNCH là tay sai cho giặc Mỹ. Hay một lá thư độc giả khác ngày 9 tháng 7 năm 2012 nói rằng các Linh mục công giáo Việt Nam là do thực dân Pháp huấn luyện; sau 1954, phân nửa trở thành gián điệp cho CIA) phân nửa được giao cho Ngô Đình Nhu; những hình ảnh mạ lỵ lá cờ vàng ba sọc đỏ trong chậu nước rửa chân) (Giai phẩm Xuân người Việt năm 2007) nhưng tôi không nghĩ tôi là “kẻ thù” của báo Người Việt và ngược lại.

Bài viết “Những bí ẩn của báo Người Việt” được viết sau khi báo Người Việt đăng lá thư của “đọc giả” Sơn Hào ngày 8 tháng 7, 2012 cho rằng ngày 30 tháng 4 là ngày chiến thắng của toàn dân; và quân, dân, cán chính VNCH là tay sai cho giặc Mỹ. Ngày hôm sau, 9 tháng 7 năm 2012, báo Người Việt lại đăng một bức thư độc giả khác cho rằng các Linh mục Công Giáo Việt Nam là do Pháp huấn luyện. Sau khi đất nước phân hai vào năm 1954, phân nửa số linh mục trở thành gián điệp cho CIA, phân nửa phục vụ cho chính phủ miền Nam. Cả hai lá thư này đã khiến cộng đồng người Việt tỵ nạn khắp nơi phẫn nộ. Lần đầu tiên, các bác sĩ của Việt Nam Tự Do đã ký một bản lên tiếng kêu gọi tẩy chay báo Người Việt cùng lúc với bản Thông Cáo số 3 của 151 tổ chức hội đoàn và nhân sĩ trong cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản.

Ông luật sư Đỗ Phủ của đài SBTN đã có một nhận định rất đúng sau khi bản án 4 triệu rưỡi được ông chánh án Frederic Horn tặng cho báo Người Việt là Hoàng Dược Thảo thua vì quá “khinh địch” cũng như ông đã chê những luật sư biện hộ cho báo Saigon Nhỏ đã không có khả năng thích ứng khi tình huống thay đổi.
Nhưng ông đã làm Đào Nương thất vọng khi nghe ông “hội luận” với báo Người Việt và ông Tú Gàn, thổi phồng việc chánh án Horn bác đơn xin xử lại -Motion For A New Trial - là Saigon Nhỏ “bị bác đơn kháng án” khiến nhiều độc giả Saigon Nhỏ vì tin tưởng vào các “luật gia” này mà tưởng rằng Saigon Nhỏ đã thua khi kháng án trong khi đây chỉ là một thủ tục tư pháp trước khi nộp đơn xin kháng án - Notice to Appeal. Vì chỉ khi bị bác đơn xin xử lại (phán quyết bởi cùng một chánh án của phiên xử trước) thì mới có chuyện xin kháng án, chứ nếu được xử lại thì kháng án làm chi? Đào Nương nghĩ rằng cho đến nay, ông Đỗ Phủ chưa hề đọc bài viết “Những bí ẩn của báo Người Việt” khi ông cho rằng bà Hoàng Dược Thảo “nói báo Người Việt là cộng sản” . Là một luật sư “tài ba” ông phải biết nhận định thế nào là ý kiến (opinion) và thế nào là mạ lỵ (libel).

Khi đài SBTN có xe mang chữ SBTN đi khắp Nam Bắc Việt Nam làm phóng sự, (Do Thanh Toàn đảm trách); và khi vợ chồng ông Trúc Hồ đi ra, đi vào Việt Nam nhiều lần thì cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản có ý kiến rằng đài SBTN là cộng sản hay thiên cộng, luật sư Đỗ Phủ có đi kiện những người này không?

Như đã loan báo từ hai tháng trước đây, tổ hợp luật sư kháng án danh tiếng của Hoa Kỳ, Horritz và Levi, đang thụ lý hồ sơ xin kháng án của báo Saigon Nhỏ. Trong 3 tháng qua, nhiều tổ hợp luật sư Việt Nam danh tiếng đã tiếp xúc đề nghị kháng án miễn phí cho chúng tôi. Nhiều vị khác quen thuộc với ngành tư pháp Hoa Kỳ đã tiếp xúc để làm cố vấn cho báo Saigon Nhỏ trong phiên toà sắp tới. Riêng những tổ chức đã ký tên trong bảng thông cáo số 3 kêu gọi tẩy chay báo Người Việt vì nhận định báo người Việt là tay sai cho cộng sản đã sẵn sàng làm nhân chứng cho báo Saigon Nhỏ trong phiên toà kháng án để trả lời sự cáo buộc của báo Người Việt trong phiên toà trước rằng Đào Nương Hoàng Dược Thảo là tác giả của thông cáo này vì “cạnh tranh thương mại”.

Như đã nói ở trên, trước khi báo Người Việt khởi kiện Saigon Nhỏ, Đào Nương tôi nghĩ rằng chúng tôi không cùng chính kiến với báo Người Việt như nhiều người khác trong cộng đồng, nhưng tôi không phải là kẻ thù của báo Người Việt và ngược lại. Trong 2 năm của vụ kiện, tôi đã được nghe nhiều người nói về “tai họa” của công cuộc chống cộng khi hai tờ báo lớn nhất của cộng đồng người Việt hải ngoại kiện nhau ra toà. Khi có một vụ kiện thì sẽ một bên thắng, một bên thua và bên nào thua thì cũng không có lợi cho công cuộc chống cộng. Nhưng lời khai của ông Phan Huy Đạt trước toà cho thấy rằng điều nhận định trên là hoàn toàn sai lầm. Ông Phan Huy Đạt đã xác nhận trước toà là báo Người Việt không cần sự tín nhiệm của cộng đồng chống cộng - I don't need the trust of the anti - communist community. (đã được ghi rõ trong trial Transcript). Ông Phan Huy Đạt và bà Hoàng Vĩnh xác nhận họ đã đi về Việt Nam nhiều lần. Tại sao, trong 3 tháng qua, sau khi thắng lớn, báo Người Việt vẫn tiếp tục “lải nhải” những điều không cần thiết? Vì sợ Saigon Nhỏ? Hay vì nhu cầu cần thiết phải triệt hạ uy tín một cơ quan ngôn luận chống cộng lớn nhất ở hải ngoại.

Bà Dương Nguyệt Ánh đã nhìn ra vấn đề này khi lên tiếng bênh vực cho Saigon Nhỏ. Bà đã xác định rằng bà ủng hộ báo Saigon Nhỏ vì báo Saigon Nhỏ chống cộng và báo Người Việt thân cộng. Cô Lữ Anh Thư, nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh của tổ chức Nghệ sĩ Liên kết thành lập Quỹ Pháp Lý yểm trợ Saigon Nhỏ không ngoài mục đích trên. Những nhà báo Duyên Lãng Hà Tiên Nhất, Hoàng Lan Chi, luật sư Lê Duy San, bác sĩ Trần văn Tích đã lên tiếng bảo vệ Saigon Nhỏ.

Trong 3 tháng qua, từ khi “bên thua cuộc” là Saigon Nhỏ, nhà báo Đào Nương đã im lặng. Chúng tôi đã làm những thủ tục pháp lý cần thiết để bảo vệ báo Saigon Nhỏ đúng như nguyện vọng của cộng đồng người Việt chống cộng. Đất nước Hoa Kỳ khi làm ra luật là để thi hành chứ không phải để nhìn.

Có 3 điều báo Người Việt đã không làm được khi thắng kiện báo Saigon Nhỏ:

1. Mặc dù rêu rao trước toà là kiện Saigon Nhỏ để “lấy lại danh dự - clear our name” nhưng mục đích của báo Người Việt lại là sai áp tài sản của báo Saigon Nhỏ hay cá nhân của Hoàng Dược Thảo.

Báo Người Việt rêu rao rằng lần này sẽ làm cho Saigon Nhỏ tán gia, bại sản. Họ quên rằng “tài sản” của báo Saigon Nhỏ là lòng tin tưởng và uy tín của Saigon Nhỏ của cộng đồng người Việt tỵ nạn chống cộng chứ không phải là những đồng tiền dù chìm hay nổi. Ngày ra toà, luật sư Hart của báo Người Việt thất vọng khi nói với luật sư Charles Mạnh là She has no assetts. Luật sư Mạnh đã trả lời rằng: “Now you go after her money, not to clear your clients' name”.

Vũ khí mạnh nhất của “bên thua cuộc” ở đất nước này là “không tài sản; và sổ sách chi thu đàng hoàng” . Coi như huề!

2. Báo Saigon Nhỏ có sập tiệm không?

Như đã nói ở trên, báo Người Việt rêu rao là sẽ “tịch thu báo Saigon Nhỏ. Thật là buồn cười khi nghe điều này khi chủ nhiệm báo Người Việt là một luật sư. Luật phá sản của Hoa Kỳ là để bảo vệ “bên thua cuộc”. Ở xứ này, “bên thua cuộc” không phải đi học tập cải tạo mà chỉ cười chờ kháng án. Khi khai phá sản, báo Người Việt trở thành một “chủ nợ” như nhiều chủ nợ khác của công ty The Little Saigon News, Inc.

Báo Saigon Nhỏ sẽ hoạt động như bình thường nhưng sự chi thu sẽ được báo cáo với tòa qua luật sư thụ lý. Tiền lời sau chi phí sẽ do tòa quyết định phân chia cho các chủ nợ. Khi loan tin công ty The Little Saigon News Inc phá sản, báo Người Việt viết là “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”: đây có thể là do sự suy nghĩ khác biệt của báo Người Việt khi làm thương mại tại Hoa Kỳ. Khi làm ăn lương thiện, ngay thẳng thì có gì phải lo sợ khi phải báo cáo với cơ quan công quyền để nhờ bảo vệ công việc làm ăn của mình?. Người lo việc kế toán, sổ sách của báo Saigon Nhỏ từ 23 năm qua là ông Steve Holliday, người đã từng lo sổ sách kế toán cho thành phố Westminster. Ông vừa là CPA, vừa là một luật sư về thuế vụ. Khi ông Holliday tuyên bố: “công ty The Little Saigon News Inc là một trong những công ty “sạch” nhất Little Saigon” - The cleanest business in Little Saigon không phải là không có lý do. Nhưng như đã nói ở trên, thành công của báo Saigon Nhỏ không phải là những đồng tiền mà là lý tưởng và tinh thần chống cộng của mọi người có liên hệ. Do đó, không ai có thể diệt được tiếng nói của Saigon Nhỏ.

3. Báo Người Việt có gột rữa được “Dư luận Của Đồng Hương” là báo “thân cộng” vì thắng cuộc pháp lý không?

Hỏi tức là trả lời. Người Việt thắng ở tòa án (chỉ trong giai đoạn ở tòa dưới - the trial level), nhưng đã thua trận đánh của dư-luận và trận đánh để dành phần thắng trong hàng vạn con tim. They may win the battle, but they lose the war. (Xin xem Các Thông Cáo Về Ngày Quốc Hận 30 Tháng Tư Năm 2015.)

Trong 3 tháng qua, giai đoạn 1 của vụ kiện đã chấm dứt với phần thắng về phía Người Việt. Thay vì im lặng khi có cơ hội hàn gắn lại sự rạn nứt với cộng đồng người Việt chống cộng khi thắng báo Saigon Nhỏ, một cơ quan ngôn luận chống cộng về pháp lý, tìm cách hàn gắn để sinh họat trở lại với cộng đồng người Việt chống cộng thì báo Người Việt đã bằng mọi cách, mọi phương tiện tiếp tục tấn công nhằm mục đích triệt hạ uy tín của báo Saigon Nhỏ. Nhưng báo Người Việt đạt được muc đích này không? Chắc chắn là không! Báo Người Việt có gột rửa được hai chữ “thân cộng” ra khỏi cái tên “báo Người Việt” không sau khi thắng kiện? Chắc chắn là không! Có triệt hạ được Saigon Nhỏ không? Điều này được trả lời rất rõ ràng:

a. Bằng Dư Luận của Các Hội Đoàn và Tập Thể Người Việt ở Hải Ngoại qua Các Thông Cáo cho ngày 30 Tháng Tư Năm 2015.

b. Bằng lời tuyên bố của bà Dương Nguyệt Ánh: tôi yểm trợ báo Saigon Nhỏ vì báo Saigon Nhỏ chống cộng và báo Người Việt thân cộng.

c. Bằng sự yểm trợ không hề giảm sút của thân chủ quảng cáo trên báo Saigòn Nhỏ khắp nơi.

d. Bằng sự sợ hãi tiếng nói của cộng đồng người Việt chống cộng: Trong việc tuyển chọn Bồi Thẩm Đoàn trong phiên tòa vừa qua, luật sư của báo Người Việt đã loại bỏ tất cả những người gốc Việt trong số những người hiện diện để được tuyển chọn vào danh sách bồi thẩm đoàn. Với một cộng đồng đông người Việt nhất ngoài Việt Nam, đã không có một người Việt Nam nào được lọt vào Bồi Thẩm Đoàn. Ngay cả một người Mỹ có vợ cũ là người Việt cũng bị luật sư của báo Người Việt loại ra. Theo luật California, bên nguyên đơn có quyền loại trừ trước nên luật sư Saigon Nhỏ phải bó tay.

d. Việc chống án - appeal - không phải là một việc nhanh chóng nên Đào Nương tôi xin cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản kiên nhẫn và vững tin vào chính nghĩa quốc gia của chúng ta. Chúng ta nhất định sẽ thắng. Con đường xây nước và dựng nước của dân tộc Việt còn dài. Kẻ thù lớn của chúng ta là đảng cộng sản Việt Nam. Do đó, xin quý vị hãy xem vụ thua kiện vừa qua của báo Saigon Nhỏ chỉ là một hạt sạn lọt vào giày trên con đường chính nghĩa mà chúng ta đang đi mà thôi. Cá nhân Đào Nương Hoàng Dược Thảo không quan trọng. Từ 30 năm qua, báo Saigon Nhỏ trở thành một công cụ truyền thông chống cộng lớn nhất hải ngoại khiến một cơ sở báo chí như báo Người Việt xem như một kẻ thù cần phải triệt hạ không phải là nỗ lực duy nhất của một người đàn bà, một ngòi bút Đào Nương, mà là nỗ lực của một cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản chống cộng đã nuôi dưỡng nó. Khi Đào Nương liên lạc để cám ơn những người đã yểm trợ Saigon Nhỏ dù đó là những người tôi chưa một lần được hân hạnh quen biết như bác sĩ Trần Văn Tích, luật sư Lê Duy San, bà Hoàng lan Chi, bà Dương Nguyệt Ánh, cô Lữ Anh Thư và v.v... câu trả lời nghe được là: chúng tôi yểm trợ chính nghĩa quốc gia nên yểm trợ Saigon Nhỏ.

Xin thay mặt Ban Chủ Biên, xin thay mặt toàn thể nhân viên của Saigon Nhỏ, tôi xin cam kết sẽ không phụ lòng tin tưởng của quí vị. Trước mặt bồi thẩm đoàn, luật sư của báo Người Việt đưa hình ảnh của đồng bào Việt Nam biểu tình chống báo Người Việt để nói rằng chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt. Điều này đúng với người Mỹ, với thế giới nhưng không đúng với người Việt Nam. Đó cũng là quan điểm khác biệt giữa chúng ta và kẻ thù cộng sản. Đảng cộng sản Việt Nam muốn bỏ đi hai chữ “Việt cộng” để có thể bước vào cộng đồng thế giới ở bên ngoài Việt Nam nhưng bên trong đất nước thì lại đối xử với dân chúng một cách man rợ tàn độc như thời trung cổ. Đó là lý do tại sao chúng ta không thể chùng bước trước kẻ thù.

Bài số 2 (Saigon Nhỏ ra ngày 1 tháng 5, 2015)

Saigon Nhỏ vừa nhận được một thông cáo của LIÊN ỦY BAN CHỐNG CỘNG SẢN VÀ TAY SAI về việc họ tiếp tục tẩy chay, không đồng ý sinh hoạt chung với báo Người Việt trong ngày Quốc hận 30 tháng 4 năm 2015, tưởng niệm 40 năm miền Nam Việt Nam mất vào tay cộng sản tại miền Nam California. Thông cáo này nguyên văn như sau:
    LIÊN ỦY BAN CHỐNG CỘNG SẢN VÀ TAY SAI
    (COALITION OF VIETNAMESE AMERICAN AGAINST COMMUNISM)
    9078 Bolsa Ave Westminster CA 92683
    Westminster, ngày 27 tháng 4 năm 2015
    THƯ PHẢN ĐỐI
     
    Kính gởi:
    - Các cơ quan Truyền Thông & Báo Chí
    - Các Hội Đoàn, Đoàn Thể và Hội Đồng Hương
    - Toàn thể Đồng Hương Tỵ nạn tại hải ngoại
    Thông báo: Ban Tổ Chức “Đêm Tưởng Niệm 30-4-2015:
    - Ls Nguyễn XuânNghĩa, Chủ Tịch CĐNVQG/ Nam Cali
    - Ks Trương Ngãi Vinh, Chủ Tịch CĐNV/ Nam Cali
    Kính thưa quý vị,
    Theo thông lệ từ những năm trước đây, việc treo cờ Việt Mỹ trên đường phố trong những ngày Lễ Tết hay Tưởng Niệm 30 tháng 4 hàng năm, các Hội Đoàn trong Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam Cali đã ủy thác cho ông Phan Văn Chính và nhóm của ông thực hiện. Từ lúc đầu, việc mua cờ và vật liệu đều do các Hội Đoàn đóng góp. Đến những năm sau này, đã có ý kiến kêu gọi các cơ sở thương mại hoặc các nhà hảo tâm ủng hộ, dưới hình thức thực hiện những tấm phướn quảng cáo có ghi tên của các cơ sở đã đóng góp đó. Đây là việc làm có ý nghĩa và đáng trân trọng trong chuỗi sinh hoạt hàng năm.
    Đến năm nay, năm 2015, không biết do tổ chức nào chiêu dụ hoặc do áp lực từ đâu, nhóm treo cờ của ông Phan Văn Chính đã thực hiện và treo những tấm phướn có ghi rõ do sự yểm trợ của “báo Người Việt”.
    Trong cộng đồng Người Việt Quốc Gia tại Nam Cali, nhất các Hội Đoàn các Quân Binh Chủng, các Quân Trường, Cảnh Sát Quốc Gia ... trong Liên Hội Cựu Chiến Sĩ cùng với các Hội Đoàn khác tại hải ngoại đã tẩy chay báo Người Việt:
    - Lời Kêu Gọi của 80 Đơn vị Quân Y, Nha- Dược Sĩ thuộc QL/VNCH, ngày 23 tháng 7 - 2012.
    - Bản Lên Tiếng của 151 Hội Đoàn, Hội Đồng Hương, ngày 24 tháng 8 - 2012
    Vì sự thiêng liêng của việc Tưởng Niệm năm thứ 40, ngày đại tang của Dân Tộc (1975- 2015), Liên Ủy Ban Chống Cộng Sản và Tay Sai cực lực phản đối hành động tiếp tay cho kẻ phản bội báo Người Việt của phe nhóm ông Phan Văn Chính. Yêu cầu ông Phan Văn Chính phải gỡ xuống những tấm phướn có đề tên báo Người Việt, hầu tránh làm bất mãn biết bao người khi phải nhìn thấy nó. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta phải giữ cho rõ ràng lằn ranh Quốc - Cộng hiện nay.
    Vì lợi ích chung, chúng tôi mong được sự đáp ứng kịp thời của quý vị có trách nhiệm trong việc tổ chức “Đêm Tưởng Niệm 30-4” vào chiều ngày 30 tháng 4 năm 2015 này.
    Trân trọng.
    TM-LIÊN ỦY BAN CHỐNG CỘNG SẢN VÀ TAY SAI
    PHAN KỲ NHƠN
*
Đã 4 tháng trôi qua, kể từ khi báo Người Việt thắng kiện báo Saigon Nhỏ, đây là một trong những nỗ lực của báo Người Việt nhằm “xin” cái cộng đồng mà báo Người Việt qua bức thư của độc giả Sơn Hào gọi là “Tay sai cho giặc Mỹ” cho sinh hoạt cùng và thương thay, báo Người Việt lại tiếp tục bị tẩy chay. Ông Phan Kỳ Nhơn, ông Trần Vệ đều đã lên tiếng trên đài phát thanh, trên Net về vấn đề báo Người Việt “xin cho” sinh hoạt chung này. Nên nhớ, những kỳ, phướn giao cho ông Phan văn Chính đều là tài sản của cộng đồng Người Việt Quốc Gia chống cộng giao cho ông Chính để làm công tác treo cờ chứ không phải tài sản riêng của ông Chính nên ông Chính không thể quyết định về việc cho treo những cái phướn trên đó có ghi do sự yểm trợ của “báo Người Việt” mà không thông qua quyết định của các Hội Đoàn đã giao cho ông nhiệm vụ này.

Sự kiện này lại khiến Đào Nương nhớ lại vụ báo Người Việt bị đuổi ra khỏi buổi họp của Tập Thể CSVNCHHN tháng 10 năm 2013. Hai nhân viên của báo Người Việt được Trưởng Ban Báo Chí của Ban Tổ Chức mời với tư cách cá nhân vì họ đều là cựu quân nhân QLVNCH là ông Nguyễn Văn Linh và ông Nguyên Huy. Khi Thiệp mời cá nhân biến thành thiệp mời báo Người Việt, ông Trần Vệ, Trưởng Ban Tổ Chức đã nhận trách nhiệm là sơ sót của Ban Tổ Chức khi yêu cầu báo Người Việt rời khỏi buổi dạ tiệc vì đây là “một buổi họp dành cho các chiến hữu cuả chúng tôi và bằng hữu”. (Trích nguyên văn.)

Cho đến khi Đào Nương ngồi viết những giòng chữ này thì chưa nghe câu trả lời của ông Phan Văn Chính để biết do “sai lầm” nào mà nhóm treo cờ của ông Phan Văn Chính đã thực hiện và treo những tấm phướn có ghi rõ do sự yểm trợ của “báo Người Việt” khiến cộng đồng Người Việt tại Nam Cali phản đối. Ông Phan Kỳ Nhơn cho biết nếu ông Phan Văn Chính không tự ý thức và gỡ những cái phướn này xuống thì Ủy Ban Chống Cộng Sản và Tay Sai sẽ có những biện pháp thích ứng. Một trong những biện pháp được đặt ra là những tổ chức có liên hệ hay đằng sau vụ này sẽ bị khai trừ ra khỏi “Đêm Tưởng Niệm 30-4” vào chiều ngày 30 tháng 4 năm 2015 này.

Như đã viết trong số báo tuần trước (Bài 1) về việc “Nhận Diện Kẻ Thù”, trước khi báo Người Việt kiện báo Saigon Nhỏ về một bài viết mà theo nhận định của nhiều luật sư thì đó chỉ là một bài viết “nhận định – opinion” hoàn toàn không có tính cách mạ lỵ về “Những bí ẩn cuả báo Người Việt”, tuy không cùng chính kiến với báo Người Việt nhưng không nghĩ rằng báo Người Việt là kẻ thù của báo Saigon Nhỏ và cá nhân tôi, Đào Nương Hoàng Dược Thảo.

Trước khi ra một phiên toà vô cùng thiên vị của chánh án Frederick P. Horn, Đào Nương và Ban Chủ Biên của báo Saigon Nhỏ đã có một quyết định là nếu thắng kiện, chúng tôi sẽ không làm ầm ĩ vụ này vì sự kiện tụng giữa hai tờ báo lớn ở hải ngoại đem nhau ra toà chỉ làm trò cười cho người Mỹ coi thường cộng đồng người VIỆT và người thủ lợi là Việt cộng. Là những người quốc gia chân chính, chúng tôi không hề muốn điều này xảy ra. Nhưng rất tiếc làSaigon Nhỏ thất kiện và trong 4 tháng qua, những hành động kế tiếp của báo Người Việt khi tiếp tục tấn công báo Saigon Nhỏ về mặt công luận. Chúng tôi đã quyết định im lặng, cho báo Người Việt có đủ thời gian để “nhận diện” ra kẻ thù của họ. Nhưng nay, vì sự đánh phá không ngừng của Người Việt, chúng tôi đành phải phổ biến cho đồng bào biết những gì đã xảy ra tại phiên tòa sơ thẩm trong Tháng 12 vừa qua.

1. Trong Phiên Tòa thiên vị của Chánh án Frederick P. Horn, dù Người Việt thắng kiện, nhưng như chúng tôi đã trình bày với quý vị, họ đã thua một trận Chiến Tranh rất lớn – Báo Người Việt không bao giờ gột rửa được hai chữ “thân cộng” dù thắng cuộc pháp lý. Chính nhân viên của tờ báo này cũng đã thú nhận như vậy trong phiên tòa.

Chúng tôi sẽ lần lượt nêu lên những lời khai ở phiên tòa từ chính miệng của cộng sự viên của Báo Người Việt. Trả lời câu hỏi của Luật Sư về Bức Hình Ông Đỗ Ngọc Yến Đi Đêm Với Nguyễn Tấn Dũng, tại phiên tòa ngày 11 thang 12, nam 2014, Ông Đinh Quang Anh Thái đã thú nhận rằng bức hình ấy khiến cho Báo Người Việt bị đồng bào cho là “thân cộng”.

Q. And was Nguoi Viet News then also labeled as pro-communist as a result of that photograph?

A. Yes. (Bản Ghi Chép Lại Phiên Tòa Ngày 11 Tháng 12, trang 38, dòng 21-23).

2. Về Việc Báo Người Việt Đăng Bài Viết của “độc giả” Sơn Hào

Cũng trong phiên tòa Ngày 11 Tháng 12, Năm 2014, khi Luật Sư của Saigon Nho hỏi Ông Đinh Quang Anh Thái về Bài Viết của Ông Sơn Hào “có phải Ông đã thú nhận rằng Lá Thư [của Ông Sơn Hào] có thể [lam Nguoi Viet] bị cho rằng là thân Cộng-Sản”. Ông Đinh Quang Anh Thái đã trả lời: “Đúng vậy, và tôi đã nói như thế.”

R. And then eventually Nguoi Viet News published a letter writeen by Someone identified as Son Hao. And do you admit that this letter can be seen as pro-communist?

B. Yes. I already said that. Yes.

(Bản Ghi Chép Lại Phiên Tòa Ngày 11 Tháng 12, trang 39, dòng 21-23; trang 40, dòng 1-2).

3. Dù Báo Người Việt đã cố gắng giải thích là họ đã xin lỗi cộng đồng chống cộng bao nhiêu lần, nhưng cũng tại Phiên Tòa, Ông Phan Huy Đạt đã xác nhận là Báo Người Việt không cần sự tín nhiệm của cộng đồng chống cộng. Cô Lữ Anh Thư đã nói: Họ xin lỗi rồi vẫn lập đi lập lại những lỗi lầm cũ. (trích Ký Giả Hồng Phúc phỏng vấn Lữ Anh Thư trên đài)

Ngoài hành động ra vào Việt Nam nhiều lần cuả ông Phan Huy Đạt và bà Hoàng Vĩnh (hai nguyên cáo của vụ kiện đã xác nhận là họ đã ra vào Việt Nam nhiều lần), ông Phan Huy Đạt cũng đã xác nhận báo Người Việt là một cơ quan ngôn luận độc lập; chúng tôi không cần sự tín nhiệm của cộng đồng chống cộng – “We don't need the trust of the Anti- communist community.”

Sau phiên tòa, chúng tôi vẫn muốn dành một cơ hội “sau chiến thắng” để báo Người Việt có thể trở lại sinh hoạt cùng cộng đồng với một tinh thần chống cộng mà những nhân chứng của báo Người Việt đã cố gắng làm cho Quan Tòa và Bồi Thẩm Đoàn tin như vậy suốt phiên toà. Chỉ tiếc là trong 4 tháng qua, báo Người Việt đã không “nhận diện” được kẻ thù đích thực của họ. Đó không phải là báo Saigon Nhỏ và cá nhân tôi, Đào Nương, mà chính là những người tung ra những bài viết, những hình ảnh làm lợi cho cộng sản trên mặt báo cuả họ mà thôi.

Khi tiếp tục tấn công báo Saigon Nhỏ, một cơ quan ngôn luận mà chủ trương chống cộng, lý tưởng quốc gia đã được cộng đồng Người Việt tỵ nạn cộng sản công nhận từ 30 năm qua, khi tự đặt mình vào vị trí một kẻ thù “bất cộng đái thiên” với Saigon Nhỏ sau khi “thắng cuộc” trong suốt 4 tháng qua, báo Người Việt đã tự chận đứng con đường trở lại với cộng đồng người Việt chống cộng tại miền Nam California và trên toàn thế giới. Chúng tôi, báo Saigon Nhỏ sau khi tự bảo vệ mình về phương diện pháp lý theo đúng luật lệ của đất nước này, sẽ tiếp tục con đường bảo vệ chính nghĩa quốc gia của mình, song hành với các tổ chức chống cộng hải ngoại để tranh đấu cho dân chủ và tự do. Hiện nay, song song với những bài viết tấn công Saigon Nhỏ, báo Người Việt đã đăng tải nhiều bài viết ca tụng người và việc cuả những người mà họ đã gọi là “tay sai cho giặc Mỹ”. Nhưng họ đã không gột rửa được hai chữ “thân cộng”. Họ đã không biết nắm bắt cơ hội hàn gắn lại sự rạn nứt với cộng đồng người Việt chống cộng sau khi thắng kiện báo Saigon Nhỏ, một cơ quan ngôn luận chống cộng khi bằng mọi cách, mọi phương tiện để tiếp tục tấn công nhằm mục đích triệt hạ Saigon Nhỏ. Nhưng báo Saigon Nhỏ vẫn tiếp tục vững mạnh vì sự yểm trợ của mọi người, mọi giới trong cộng đồng người Việt chống cộng, của thân chủ quảng cáo như lời bà Dương Nguyệt Ánh: “Tôi yểm trợ báo Saigon Nhỏ vì báo Saigon Nhỏ chống cộng và báo Người Việt thân cộng”

Cuối tuần qua, khi tham dự “Chiều 40 năm Quốc Hận: Tuổi Trẻ Hải Ngoại Dấn Thân Chuyển Lửa Về Quê Hương” tại Houston, Đào Nương tôi có dịp ngồi cạnh dân biểu Sylvester Turner, người sẽ ra tranh cử chức vụ Thị Trưởng thành phố Houston vào tháng 11 sắp tới. Trong phần phát biểu, Dân Biểu Turner đã nói rằng: Khắp nơi trên thế giới và ngay tại Hoa Kỳ, chiến tranh Việt Nam thường được nhắc đến như một trang sử đã lật qua, một thời của quá khứ. Nhưng khi ông hiện diện trong buổi lễ đó, ông mới thấy là chiến tranh Việt Nam vẫn còn sống trong tim, trong tâm của mỗi người Mỹ gốc Việt. Nếu đắc cử, ông hứa sẽ nêu cao tiếng nói của cộng đồng người Mỹ gốc Việt về nhân quyền, về tự do, về dân chủ, những nguyện vọng mà cộng đồng người Mỹ gốc Việt tha thiết tranh đấu cho Việt Nam.

Khi không nhận diện được “kẻ thù” của mình là chính mình thì báo Người Việt sẽ tiếp tục đi từ sai lầm này sang sai lầm khác khi tự biến mình thành một đối tượng “bị tẩy chay” không được cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản cho đi chung trên con đường đấu tranh chống cộng. Nó không phải là những “tiểu xảo” vặt vãnh để được tham dự dạ tiệc của Tập Thể CSVNCHHN dù không được mời, không phải là “chạy án” thân cộng với một cá nhân ông “treo cờ” Phan Văn Chính mà là cái tâm, cái tinh thần yêu nước, yêu dân tộc thể hiện qua sự cẩn thận trong việc chọn lựa những bài viết, những bản tin, những hình ảnh xuất hiện trên mặt báo của mình. Cái tinh thần yêu nước, yêu dân tộc ấy cũng phải được thể hiện qua hành động quang minh chính đại của những người chủ trương là: không đi đêm với lãnh tụ cộng sản, làm sao để có được lòng tin tưởng của “cộng đồng chống cộng”, không xuất bản sách của cán bộ cộng sản, không tuyên bố những lời có lợi cho cộng sản, va cẩn thận loại bỏ những bài viết làm lợi cho cộng sản.

Đào Nương tôi xin nhắc lại: kẻ thù của báo Saigon Nhỏ là đảng cộng sản Việt Nam CHỨ KHÔNG PHẢI BÁO Người Việt. Chúng tôi không cùng chính kiến với báo Người Việt như đa số những người mang chung căn cước “tỵ nạn”. Việc báo Người Việt thắng kiện báo Saigon Nhỏ trong phiên toà sơ thẩm chỉ là một trục trặc nhỏ trên con đường chống cộng của chúng tôi. Do đó, báo Saigon Nhỏ đã không trả lời những bài vụn vặt, lải nhải của báo Người Việt từ 4 tháng qua. Hành động của báo Người Việt đã chứng minh một điều: họ không làm tròn tư cách của một cơ quan ngôn luận tôn trọng đệ tứ quyền. Việc bảo vệ Saigon Nhỏ về công lý xin dành cho các luật sư của Saigon Nhỏ. Về mặt công luận, Saigon Nhỏ sẽ không phí phạm những trang giấy quý báu của mình để lải nhải “những điều không cần thiết cho công cuộc chống cộng”. Thất bại vừa qua sẽ khiến cho Saigon Nhỏ mạnh mẽ hơn, vững tin hơn vào chính nghĩa quốc gia (vì bỗng nhiên, nhận thức được là có những người bạn đồng hành, xưa nay chưa từng quen biết, nay bỗng nhiên xuất hiện như những Thiên Sứ từ trời đến để chia xẻ với mình). Nhưng để chúng tôi được tiếp tục vững tin và phục vụ chính nghĩa quốc gia, chúng tôi rất cần sự tin tưởng và hợp tác của cộng đồng người Việt chống cộng khắp nơi, một điều mà ông Phan Huy Đạt, chủ nhiệm kiêm Tổng Giám Đốc báo Người Việt long trọng xác nhận trước toà là ông ta không cần. Do đó, trong một pha “giác đấu”, điều nguy hại nhất là vẫn là không nhận diện được “kẻ thù” của mình.

Đáng thương thay là vì vậy!

Đào Nương



Saturday, May 9, 2015

DƯƠNG THU HƯƠNG và Hai Chữ QUỐC HẬN - Lê Tuấn

DƯƠNG THU HƯƠNG và Hai Chữ QUỐC HẬN

Lê Tuấn

Nhà văn Dương Thu Hương (DTH) sinh quán tại Bắc Việt, sống ở miền Bắc, gia nhập quân đội, viết văn từ năm 1985.

Bà là một trong số những người lớn lên và sống trong chế độ Cộng Sản, sau này thất vọng về tình trạng trong nước sau khi chiến tranh chấm dứt. Bà tạo được một tiếng tăm lớn ở cả trong nước lẫn ngoài nước về văn chương. Bà viết rất nhiều sách, nhiều thể loại. Sách của bà được dịch sang nhiều thứ tiếng và đoạt nhiều giải thưởng văn chương quốc tế.

Sau ngày “Giải Phóng” miền Nam, cũng giống một số trí thức trong nước, bà nhận ra bộ mặt thật của Cộng Sản và cay đắng vì đã bị lừa. Bà trở thành một người chống đối chế độ, bị ngược đãi, giam cầm, cấm đoán và sau cùng được cho phép sang Pháp sống từ năm 2006.

Bà là một trong những người có tiếng tăm được (hay bị) chính quyền Cộng Sản cho đi sống ở nước ngoài có những bài viết, những phát biểu về Việt Nam.

Tôi bỏ quê hương, chạy Cộng Sản, sống lưu vong ở Mỹ từ năm 1975. Tôi có đọc một hai cuốn sách và một số bài viết ngắn phổ biến trên mạng của bà DTH trong mấy năm gần đây. Rất phục văn tài và văn phong cũng như tri thức, lập luận sắc bén của bà, nhất là những gì bà nói và viết về đảng Cộng Sản Việt Nam (có một người bạn rất trí thức còn nói với tôi là văn chương của bà xứng đáng để được đề cử tranh giải Nobel).

Trong một bài tôi viết về ngày 30.4.1975 năm ngoái tên là “39 Năm Nhìn Lại Cuộc Đời” trên web site của tôi có một đoạn như sau:

“Nhà văn Dương Thu Hương đã đề cập tới hiện tượng ‘hối tiếc’ phát nguồn từ dân miền Bắc vì đã nghe lời đường mật của Cộng Sản trong bài nhận định tuyệt vời ‘Giải Ảo’:

(Trích) Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi thuộc số những người vỡ mộng sớm nhất. Nhưng chỉ vài năm sau, con số những kẻ vỡ mộng tăng lên một cách không ngừng. Đầu những năm 80 sự đói khổ về vật chất là con quỷ hiện hình cả ngày lẫn đêm trên toàn cõi. Đói khổ là món quà chia đều cho toàn dân, trừ một số người nắm quyền. Sự giàu có và xa hoa của một thiểu số cộng sản giống như vòi nước lạnh hắt vào mặt dân chúng. Hiển nhiên là trong dân chúng, có vô số kẻ từ chiến trường cởi áo lính trở về (Ngưng trích)”.

Phải nói là khi đọc những giòng này tôi rất xúc động và thầm cảm ơn/phục bà đã nói ra được những gì cần phải được nói ra và sự chân thành của bà bộc lộ trong những lời nói đó.

Năm nay, 2015, tôi đang dự tính viết lại bài này, cập nhật hóa, và đổi tên là “40 Năm Nhìn Lại Cuộc Đời” thì tình cờ được đọc trên mạng cuộc nói chuyện của bà với một ký giả trên đài phát thanh Á Châu Tự Do. Trả lời câu hỏi về biến cố 30-4 sau 40 năm, bà DTH nói về chữ “Quốc Hận” mà chúng ta dùng để chỉ ngày này.

(Trích): Dương Thu Hương: Về mặt những người miền Nam mà gọi là « Quốc hận » thì họ cũng phải nhìn lại. Tại sao? Tại sao lại là « Quốc hận » Trước khi hận những người khác họ phải hận chính họ. Tại sao cùng một thời điểm, người Mỹ tạo ra những điều kiện để tạo ra chính sách dân chủ của 2 nơi: miền nam Việt Nam và miền Nam Hàn Quốc. Tại sao Hàn Quốc chiến thắng mà Việt Nam chiến bại? Tại sao cùng một cơ hội lịch sử như thế, người Nam Triều Tiên họ đã chớp lấy cơ hội để biến đất nước của họ thành một xứ sở văn minh phồn thịnh, còn miền Nam thì không? Cái đó phải xét lại. (Ngưng trích)

Đọc đến đây thì tôi thấy có bổn phận phải có đôi điều nói chuyện với bà DTH.

Thưa bà,

Có lẽ trong cả cuộc đời bà, bà chưa bao giờ phải xót xa cho quê hương. Từ lúc bà sinh ra ở miền Bắc, quê hương của bà lần lượt thắng Tây, thắng Mỹ, chiếm được miền Nam thì có gì mà bà phải xót xa cho quê hương.

Và có lẽ bà không biết là chữ “Quốc Hận” đã được dùng một lần rồi. Đó là chữ miền Nam Việt Nam dùng cho ngày 20 tháng 7 năm 1954. Tôi không biết những người sống ở miền Bắc gọi cái ngày đó là ngày gì (có thể là “Ngày Chiếm Được Miền Bắc”), nhưng những người sống ở miền Nam như tôi gọi nó là “Ngày Quốc Hận” vì chúng tôi đau lòng, xót xa khi thấy đất nước bị các cường quốc họp lại, chia đôi. Vì đau lòng thấy đất nước chia đôi nên chúng tôi đặt tên cái đại lộ rộng nhất miền Nam là Đại Lộ Thống Nhất. Nhưng chính quyền miền nam chúng tôi cố gắng củng cố cho dân tình miền Nam được ổn định từ thành thị đến thôn quê, lo nơi ăn chốn ở cho gần 1 triệu người di cư từ Bắc vào Nam lánh nạn CS, lo cho học sinh – sinh viên có một nền giáo dục học đường miễn phí (tôi là một trong những người được hưởng ân huệ này). Miền Nam đặt tên con đường lớn nhất Sài Gòn là Thống Nhất nhưng những người cùng tuổi với bà ở lại miền Bắc và các thế hệ sau này chắc chắn chưa hề thấy miền Nam chúng tôi thực hiện kế hoạch nào để “Thống Nhất” quê hương về tất cả mọi lãnh vực, chính trị, kinh tế, văn hóa, và nhất là về quân sự. Sau này có những toán biệt kích nhẩy dù ra bắc hay những hải vụ hay phi vụ là nhằm phục đích “phá hoại” khi miền Bắc đem quân tấn công xâm chiếm miền Nam.

Chúng tôi gọi cái tình cảm đó là Quốc hận vì quê hương bị cưỡng chiếm. Quốc Hận là vì phải bỏ quê hương xứ sở mà đi. Quốc Hận là vì xót xa cho dân tình trong nước khốn nạn quá, đồng bào mình khốn khổ quá. Quốc Hận là vì thấy quốc gia điêu linh quá. Quốc Hận là vì bị đồng minh toa rập với Trung Hoa, Liên Sô lừa cả một dân tộc yêu hòa bình, chống ngoại xâm. Bà chỉ biết chửi Cộng Sản và cái chế độ đã lừa bà chứ bà không biết đến cái tình quê hương để có thể đưa đến sự hiểu biết của bà về hai chữ Quốc Hận.

Chưa hết. Bà còn thắc mắc: (Trích) Tại sao cùng một thời điểm, người Mỹ tạo ra những điều kiện để tạo ra chính sách dân chủ của 2 nơi: miền nam Việt Nam và miền Nam Hàn Quốc. Tại sao Hàn Quốc chiến thắng mà Việt Nam chiến bại?Cái đó phải xét lại (Ngưng trích – chữ đậm do người viết).

Bà đòi chúng tôi phải xét lại. Tại sao phải xét lại? Nhất là lời yêu cầu này thốt ra từ miệng một người (trước đây – và không còn dám nhận như thế nữa) trong đám gọi là “Bên Thắng Cuộc” tuy bà DTH đã “phản tỉnh” và bây giờ – có lẽ vì “đau” quá – nên có thái độ chống Cộng Sản VN có lẽ còn hơn chúng tôi, những người đã phải bỏ nước ra đi vì không thể chung sống với CS. Những khám phá mới của bà về sự tồi tệ của Cộng sản chúng tôi nghe từ miệng bà thốt ra cũng khoái tai, nhưng thật sự những chuyện đó quân dân miền Nam biết lâu rồi, từ năm 1954. Bà nghĩ là bà có công với dân tộc vì cái “Eureka” muộn màng lột trần mặt nạ của CS của bà nên bà mới hay lên tiếng nói những câu dậy đời như thế này.

Nhưng dậy bảo chúng tôi là phải xét lại việc dùng chữ “Quốc Hận” này thì tôi e là bà DTH với tay quá trán. Nhất là những viện dẫn của bà trong câu nói trên cho thấy bà, một là thiên lệch (chẳng thương xót gì cái gọi là VNCH, tuy thầm mơ rằng giá mà mình được di cư vào Nam hồi 54), mà còn ngây thơ (tôi không muốn dùng chữ dốt) và mù tịt về lịch sử cận đại.

Thứ nhất là Bắc Hàn chỉ “đe dọa” đòi thống nhất hai niềm Nam-Bắc. Các sự kiện xẩy ra giữa hai miền được coi là những cuộc “xung đột nhỏ” nhằm mục đích khiêu khích chứ không phải một cuộc chiến. Rất có thể là Nam Hàn, cũng như Nam Việt Nam cũng đã có những toán đặc công gửi ra Bắc với nhiệm vụ phá rối chứ không phải muốn gây chiến tranh để chiếm lại miền Bắc. Đằng này, không những Bắc Việt để một số quân nằm vùng, du kích ở lại miền Nam mà còn chính thức tấn công bằng vũ lực với cái chiêu bài giả tạo “Chống Mỹ, Cứu Nước” nhưng lại “lừa” được cả bà DTH và đám gọi là trí thức miền Bắc. Chuyện thứ hai là Mỹ không hề “đi đêm” với Tầu, với Liên Bang Sô Viết để bán đứng Nam Hàn như Nixon, Kissinger và tập đoàn tài phiệt thiên Do Thái đối xử với miền Nam Việt Nam.

Bà DTH còn nói: (Trích) Tại sao cùng một cơ hội lịch sử như thế, người Nam Triều Tiên họ đã chớp lấy cơ hội để biến đất nước của họ thành một xứ sở văn minh phồn thịnh, còn miền Nam thì không? (Hết Trích)

Xem đến câu này thì tôi chỉ còn biết cười nhạt và nghĩ rằng ở cái tuổi 68, chắc trí óc của bà không còn minh mẫn như những lời nói, bài viết của bà cách đây vài năm. Xin thưa với bà, lý do miền Nam chúng tôi không làm được như Nam Hàn là vì trong suốt hai mươi năm (54-75) chúng tôi ở miền Nam phải đối phó với một đồng minh tráo trở, và vì phải chiến đấu trường kỳ chống ngoại xâm là những người Đảng và Nhà Nước của bà đưa vào miền Nam. Một chuyện nữa là nếu đọc lại sách sử, bà sẽ thấy là, trước những năm 80, Nam Hàn thực ra chưa có gì đáng phải cho chúng ta khâm phục. Chỉ trong hơn ba thập niên sau này Nam Hàn mới thực sự tiến bộ để trở thành một “xứ sở văn minh phồn thịnh.”

Và “… còn miền Nam thì không”. Thưa bà, “Bên Thắng Cuộc” của bà đã “giải phóng” cho miền Nam Việt Nam bốn thập niên, từ ngày 30-4-75. Một phía là “Bên Bại Trận” có 20 năm để dựng nước trong một hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc; và một phía là “Bên Thắng Cuộc” với 40 năm cầm quyền trong cái gọi là Thống Nhất. Thử đặt chuyện đó lên bàn cân thì ai thắng ai thua, ai giỏi hơn ai? Cách đây trên 40 năm, miền Nam Việt Nam đã vừa phải chiến đấu chống xâm lăng, vừa phát triển đất nước, mà vẫn thành công ngang với một Nam Hàn không chiến tranh!

Có lẽ bà thù ghét cái chế độ đã lừa bà đến nỗi không thèm đọc báo Tuổi Trẻ ở trong nước. Nếu bà đọc thì chắc bà không dám mạnh miệng chê miền Nam chúng tôi vì trên tờ này, đã được tác giả Nguyễn Hoa Lư trích dẫn lại trong bài “Tuyên truyền theo phong cách ngậm ngùi rơi lệ” chỉ đạo rất kỹ cho bà về sự “khác biệt” giữa Nam Hàn và Việt Nam hiện nay: “Một quan chức cao cấp của Ban Tuyên giáo T.Ư, ông Vũ Ngọc Hoàng, đã có một phát biểu gây ấn tượng mạnh: ‘Cách đây bốn, năm mươi năm, VN và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm, tôi rà lại tư liệu thì thấy Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại VN và VN cũng có 90.000 người sống ở Hàn Quốc. Chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc tại VN làm ông chủ, làm quản lý, còn người VN ở Hàn Quốc thì chủ yếu làm ôsin. Nghe mà xót lòng”.

Thưa bà DTH, nếu bà “nghe mà xót lòng” thì cái tình cảm dấy lên trong bà gọi là Quốc Hận.

Lê Tuấn



CHUYỆN NHỎ - VIỆC KHÔNG NHỎ

CHUYỆN NHỎ - VIỆC KHÔNG NHỎ

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Chữ VIỆC ở đây ý nói là VẤN ĐỀ. Mấy bữa trước đi công chuyện về, thấy có anh bạn gọi để lại lời nhắn trong máy "Làm sao Ba Cây Trúc nó đập ông dữ thế? Vào đọc gấp đi kẻo hết". Tôi tìm vô để xem ông già Lê Hùng đập tôi ra sao. Sau đó tôi gọi qua Âu Châu để thăm dò một người bạn khác. Anh bạn giải tỏa cái ngu của tôi bằng một câu chửi bới rất dễ thương: "Mày không biết Lê Hùng và Ngô Thanh Hải là đôi bạn nối khố hay sao? Thiên hạ chửi mày ngu, đáng lắm!". Tôi hiểu ra và than thầm trong bụng: "Thì ra là thế. Thù cá nhân và trả thù. Tính quân tử của một ông già sắp xuống lỗ, nhưng lại mơ một chỗ đứng trong cái nghề làm truyền thông bựa để chống cộng cuội!"

Sau khi phổ biến bài viết "TRÒ ĐẠI BỊP" phê phán chuyện đổi chữ QUỐC HẬN thành JOURNEY to FREEDOM của Ngô Thanh Hải, tôi nhận được nhiều ý kiến phản hồi. Số lượng phản hồi nhiều có lẽ chỉ thua bài "Thánh Nữ, Đứa Con Của Thằng Cuội" trước đây của tôi. Cám ơn Ông Trời, ý tưởng trong bài của tôi đa số đều tán thành và đồng thuận. Phản hồi gay gắt và thô bạo nhất là bài viết của tác giả JB Trường Sơn với tựa đề "Bình luận về bài viết 'Trò Đại Bịp' của Duyên Lãng Hà Tiến Nhất" đăng trên trang Web Ba Cây Trúc và được một ngưòi bỏ lên internet.

Tác giả JB Trường Sơn - theo một số người - là nick của ông già Lê Hùng, chủ nhân trang mạng Ba Cây Trúc, lý do là vì cả hai đều là công giáo, có tên thánh là Jean Baptiste (JB.) Cũng có người nói là hai nhân vật này khác nhau. Dù sao, theo chỗ tôi biết thì tác giả JB Trường Sơn là một cây bút chủ lực, có quyền quyết đoán về bài vở và đường lối của Ba Cây Trúc. Theo nguyên tắc pháp lý "Tội qui vu trưởng", bài bình luận chửi bới tôi do JB Trường Sơn viết, hay Lê Hùng viết cũng thế thôi. Người chịu trách nhiệm vẫn là Lê Hùng. Trong bài bình luận, tác giả JB Trường Sơn từ đầu chí cuối chửi bới tôi ngu, và cuối cùng kết án tôi như là một quan tòa nghiêm khắc: "Đến đây chắc cũng đủ để tác giả Duyên Lãng Hà Tiến Nhất nhận biết rằng mình cần giác ngộ, kẻo càng ăn bả, càng chưởi người khác vì viết theo đơn đặt hàng… thì lời chưởi đó sẽ quật ngược vào mặt mình. Cũng xin nhắc lại lần nữa là chúng tôi không chụp mũ ông mà chúng tôi phân tích rõ ràng vết nhơ trên miệng của ông để mọi độc giả của Ba Cây Trúc thấy được sự ngu dốt của một tên bồi bút cho VC, chỉ biết nhận tiền để viết chứ chẳng hề dùng trí tuệ để phân rõ đúng sai". Điều cần nhấn mạnh là, bài gọi là bình luận của JB Trưòng Sơn không phải là một bài văn nghị luận và phê bình như thường thấy trên các diễn đàn văn học, mà là một mớ hiểu biết ấu trĩ và phản động đối với lịch sử của Dân Tộc. Tác giả viết bài này ngụy biện và xuyên tạc những luận chứng lịch sử trong bài Trò Đại Bịp của chúng tôi với mục đích bôi bẩn và triệt hạ.

JB Trường Sơn và Lê Hùng khinh miệt và chửi bới tôi ngu dốt. Chuyện này là chuyện nhỏ, tôi không care, bởi vì, ngu hay khôn, hay thông minh chẳng qua là khả năng nhận thức hơn kém giữa người này với người nọ. Cái khả năng này không phải tự mình có, mà là do Trời phú. Thượng Đế ban cho tôi có bấy nhiêu, tôi cám ơn Ngài. Thế thôi. Còn như JB Trường Sơn và Lê Hùng chửi tôi là bồi bút cho VC, nhận tiền của VC để viết, tôi coi đó là một sự nhục mạ, đồng thời là một lời vu cáo ác độc, vô liêm sỉ, và vô luân để hại tôi. Việc này làm tổn thương trầm trọng đến danh dự của tôi. Tôi không mấy tin vào luật pháp của bất cứ quốc gia nào, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào luật Trời: vu cáo làm mất danh dự của người nào phải công khai xin lỗi và đền bù thiệt hại cho người đó, nếu không là mang tội. JB Trường Sơn và Lê Hùng đều là người công giáo. Vậy tôi thách thức hai người một lời lề trước Thánh Giá Chúa. Nếu hai người vu cáo tôi, nguợc lại, nếu tôi có ăn tiền của VC mà chối, ai sai thì đời sau kẻ đó sẽ không bao giờ được nhìn thấy Chúa. Một lời thề đơn giản thôi, ông Lê Hùng và JB Trường Sơn có dám thề không?. Vấn đề tố giác tôi ăn tiền của VC để viết lách không phải là việc bầy tỏ quan điểm chính trị, càng không phải là sự thể hiện tinh thần chống cộng đứng đắn, mà là sự vu khống trắng trợn, một tội ác.

Dù sao thì cả lời chửi bới "ngu si" và việc vu cáo làm "bồi bút" đối với tôi cũng chỉ là chuyện nhỏ. Nhưng chuyện nhỏ này đưa đến một vấn đề lớn và quan trọng mà tôi bất đắc dĩ phải nói ra. Đó là việc tôi bắt buộc phải kết thúc một chuỗi dài những nghi ngờ để đi đến kết luận rằng: "Trang web BA CÂY TRÚC do các ông Lê Hùng làm chủ và ông JB Trường Sơn trợ tá là một cơ quan tuyên truyền hòa hợp hoà giải với Việt gian cộng sản". Bài bình luận của JB Trường Sơn là sự kiện cuối cùng khiến tôi đi đến kết luận này. Nó chẳng khác gì người ta nói "giọt nước làm tràn ly" vậy. Để minh chứng nhận định của tôi không phải vô căn cứ, trong bài này, tôi sẽ đưa ra hai luận chứng. Thứ nhất, vạch ra những điểm quan trọng trong bài nghị luận của JB Trường Sơn để thấy ông ta xuyên tạc và ngụy biện như thế nào, và để hiểu tại sao ông ta lại xuyên tạc và vu cáo tôi. Thứ hai, trình bầy những sự việc và khuynh hướng hòa hợp hòa giải, cùng là sự man trá trong nghề làm truyền thông thân cộng của website Ba Cây Trúc như thế nào. Dĩ nhiên để tránh dài dòng, chúng tôi chỉ xin chú trọng vào những điểm quan trọng mà thôi.

1. Xuyên tạc và ngụy biện

1.1 Thực dân Pháp không cướp nước ta và Nhà Nguyễn nhường quyền cai trị đất nước cho Pháp.

Đấy là luận điểm của JB Trường Sơn. Ông JB Trường Sơn cho rằng nước Việt Nam dưới triều Nguyễn chưa từng bị cướp mất vào tay ngoại bang mà chỉ bị ép chia quyền cai trị với Pháp. JB Trường Sơn còn viết: "… nước Việt và người dân không hề bị ai cướp đi tự do hoặc cướp nước cả. Nhà Nguyễn có nhường một phần quyền cai trị ở Nam Bộ cho Pháp."

- Nhận định - JB Trường Sơn đã tỏ ra thiển cận, chẳng biết mô tê gì về sự phân chia lãnh thổ và nền hành chánh VN dưới thời Pháp đô hộ cả. Nước Pháp đô hộ VN, đất nước ta chia làm 3 Kỳ là Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Bắc Kỳ và Trung Kỳ là đất bảo hộ (protectorate.) Quy chế bảo hộ tại Bắc và Trung Kỳ khác nhau. Đứng đầu quan lại bảo hộ tại Bắc Kỳ là Thống Sứ, tại Trung Kỳ là Khâm Sứ. Các thành phố Đànẵng, Hànội, và Hải Phòng là vùng nhượng địa cho Pháp. Nam Kỳ là thuộc địa (Colony) của Pháp do một Thống Đốc người Pháp cai trị. Nói cách khác, Nam Kỳ là lãnh thổ hải ngoại của Pháp chứ không còn phải của Triều đình nhà Nguyễn như JB Trường Sơn viết: " miền Nam Bộ (cochinchine) vẫn thuộc về một đất nước thuần tuý Việt Nam và được mọi người dân Việt Nam xử dụng coi như đất nước của dân tộc mình". Chữ Thống Đốc (governor) tiếng Việt là một chức quan thay mặt chính phủ trung ương (ở Paris) để cai trị. JB Trường Sơn nói rằng Nhà Nguyễn nhường một phần quyền cai trị ở Nam Bộ cho Pháp thì thật là lố bịch. Sự hiểu biết quá ấu trĩ và kém cỏi. Tất cả mọi sử sách đề viết, dù dưới chế độ bảo hộ (kể cả Miên Lào) hay thuộc địa, viên Toàn Quyền Pháp tại Đông Dương nắm giữ mọi quyền hành về nội trị, ngoại giao và an ninh quốc phòng. Các vua Việt Miên Lào chỉ còn đứng làm vì, có tính cách nghi lễ hơn là nắm thực quyền. Muốn biết vua Nhà Nguyễn có nhường quyền cai trị cho Pháp hay không thì xin hãy nghe vua Hàm Nghi trả lời Pháp khi Ngài bị bắt và bị Pháp dụ hàng: "Tôi, thân đã tù, nưóc đã mất, còn dám nghĩ chi đến cha mẹ, anh chị em nữa". Chúng ta thấy, nước đã mất, vua còn không tự do thì dân được tự do sao? Nếu đất nước không bị Pháp cướp mất, thì hà tất các vua Hàm Nghi và Duy Tân lại chống Pháp?

1.2 Thực dân Pháp cướp VN. Đó chỉ là luận điêu tuyên truyền của CS. Hà Tiến Nhất ủng hộ luận điệu tuyên truyền này của CS.

JB Trường Sơn viết: "Rõ ràng luận điệu cho rằng VN đã bị Pháp cướp là luận điệu của Đảng CSVN mà tác giả Duyên Lãng đang tung hô ủng hộ".

- Nhận định - Câu viết trên của JB Trường Sơn có 3 ý, cần phân tách như sau:

1. Thực dân Pháp không cướp nước ta
2. Việc Pháp cướp VN chỉ là luận điệu tuyên truyền của đảng CSVN
3. Tác giả Duyên-Lãng phụ họa tuyên truyền theo đảng CSVN.

Chúng tôi xin trả lời cho từng ý một:

1. Pháp có cướp nước ta hay không đã là chuyện đi vào lịch sử rồi. Mọi người VN đều đã biết. Chúng tôi khỏi cần phải trình bầy. Phủ nhận vấn đề lịch sử này nếu là người VN, họ đáng được coi là kẻ theo Tây và phản quốc.

2. Cho rằng Pháp không cướp nước ta, mà đó chỉ là luận điệu tuyên truyền của CS thì rõ ràng là phủ nhận công lao chống thực dân Pháp của cả Dân Tộc VN. Theo lịch sử nước nhà, trong suốt gần một thế kỷ nước Pháp xâm chiếm nước ta, nhân dân VN luôn có những cuộc nổi lên chống Pháp. Cuộc chiến trường kỳ chống thực dân Pháp này đã sản sinh ra biết bao nhiêu anh hùng Dân Tộc mà người VN tôn kính như Nguyễn Thái Học, Đinh Công Tráng, Phan Bội Châu, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thật, Hoàng Hoa Thám v.v... Xưa nay VGCS luôn dành công chống Pháp, nhưng sự thực lịch sử là, Việt Minh chống pháp chỉ là một chiêu bài lừa bịp. Hồ Chí Minh ký Hiệp Định Sơ Bộ 6-3-1946 cho phép quân đội Pháp trở lại VN. Đó là cái tội rước voi về giầy mả tổ. Hiệp Ước Genève 1954 Việt Minh ký chia đôi VN, giao miền Nam cho Pháp. Đó là tội VC bán nước cho Pháp. Thủ Tướng Ngô Đình Diệm mới là người đuổi những lên lính Pháp cuối cùng ra khỏi VN. Lịch sử đã viết rõ như thế. Tại sao JB Trường Sơn lại xuyên tạc để chạy tôi cho thực dân Pháp. Một nghi vấn cần phải làm sáng tỏ.

3. Giải quyết vấn đề Hà Tiến Nhất có phụ họa tuyên truyền theo đảng CSVN hay không thì dễ lắm. Trên đây chúng tôi đã đưa ra một lời thề và thách đố hai ông Lê Hùng và JB Trường Sơn. Nếu hai người dám thề thì tôi xin bẻ bút, từ nay về sau không viết bình luận nữa. Nếu hai người không dám thề thì hiển nhiên là họ xuyên tạc và vu khống. Mục đích là để triệt hạ Hà mỗ này?

1.3 Hà Tiến Nhất tuyên truyền cho NQ 36

JB Trường Sơn viết, DL Hà Tiến Nhất tuyên truyền cho NQ 36, kêu gọi người Việt hải ngoại nên quay về với quê hương, khuyên người Việt tỵ nạn nên chấp nhận sự mất tự do của chế độ CS hiện tại.

- Nhận định - Trong bài viết "Trò Đại Bịp", chúng tôi nêu lên sự kiện thời Pháp thuộc, có những du học sinh VN sang Pháp học, sau khi đỗ đạt, họ từ bỏ cuộc sống tự do ở bên Pháp, trở về quê hương để sống một cuộc sống không được tự do như ở nước Pháp. Sự kiện này chứng minh cho luận điểm chúng tôi đặt ra là, Tổ Quốc, Quê Hương, và những lên hệ tình cảm còn đáng quý và giá trị hơn là tư do cá nhân của con người. Tổ Quốc và những liên hệ tình cảm quý giá như thế mà người VN tỵ nạn còn phải dứt bỏ mà ra đi thì đâu phải họ đi tìm tự do cá nhân. Kết luận, người tỵ nạn trốn chạy khỏi nước vì sợ CS chứ không phải journey to Freedom như Ngô Thanh Hải bịp bợm.

Tạm cho rằng Hà mỗ tôi tuyên truyền cho NQ 36 đi, nhưng xin hỏi người Việt tỵ nạn trở về, liệu họ có còn Tổ Quốc không mà về?. Đất nước thì còn đấy, nhưng Tổ Quốc đâu còn nữa!. Sau khi vô Saigon, VGCS đã xóa bỏ khái niệm Tổ Quốc của người dân miền Nam. Chúng đồng hóa Đất Nước (hay Tổ Quốc) với chủ nghĩa xã hội qua khẩu hiệu: Yêu Nước là yêu chủ nghĩa xã hội. Cho nên, nếu người tỵ nạn có trở về thăm lại nơi xưa chốn cũ thì không phải họ trở về Tổ Quốc của họ, mà là tới đất nước xã hội chủ nghĩa của bọn VGCS. Phải ý thức rõ ràng như thế để không bị CS và tay sai lừa bịp. Vấn đề quan trọng như thế mà JB Trường Sơn không hiểu nổi, lại xuyên tạc cho rằng Hà tiến Nhất tôi kêu gọi người tỵ nạn trở về sống trên quê hương mất tự do với VGCS thì thật là ngụy biện. Giả sử bây giờ VN không còn là Xã Hội Chủ Nghĩa nữa, người viết tin chắc rằng đại đa số dân tỵ nạn, nhất là những ông bà già hay đã về hưu, sẽ ùn ùn từ bỏ Mỹ, Úc Canada v.v... kéo nhau trở về VN sinh sống. Điều này chứng minh rằng người tỵ nạn VN bỏ nước ra đi vì không chấp nhận chế độ xã hội chủ nghĩa chứ không phải nhất thiết để đi tìm tự do.

1.4 Một chuyện khá ngạc nhiên là cho đến bây giờ JB Trường Sơn còn đem vấn đề DVD của cha Lễ ra để mạt sát Hà Tiến Nhất tôi. JB rường Sơn viết: "Tuy nhiên lập trường chính trị của tác giả Duyên Lãng cũng đáng nghi ngờ thật, vì trước đây, chắc quý vị độc giả còn nhớ, khi linh Mục Nguyễn Hữu Lễ xuất bản DVD ‘SỰ THẬT VỀ HỒ CHÍ MINH” vạch trần lý lịch lươn lẹo và tội ác của tên tay sai của CS quốc tế này thì cả thế giới đều khen tác phẩm DVD này là hay và hữu ích, ngoại trừ bọn VC. Nhưng bổng nhiên ông Duyên Lãng lại nhảy vào viết bài đả kích Linh Mục Lễ một cách cay cú như thể là muốn bênh vực cho tên giặc già HCM mà chẳng thấy đưa ra được cái sai trái cụ thể nào trong DVD mà LM này đã xuất bản. Hồi đó chúng tôi tự hỏi tại sao tác giả Duyên Lãng HTN lại có hứng thú đả kích một thành quả chống Cộng tốt đẹp như vậy thì có người đã giải thích rằng: chỉ vì quá ganh tỵ trước thành quả của người khác nên Duyên Lãng HTN đã phun ra những lời độc địa chanh chua."

- Nhận định - Vấn đề này thì khỏi cần phải dài dòng. Cuốn DVD "Sự Thật Về Hồ Chí Minh" của cha Lễ còn đấy, và bài viết "Sự Thật Về HCM: Không Biết Hay Biết Mà Không Dám Nói" của chúng tôi cũng vẫn còn đấy. Bất cứ ai cũng có thể tham khảo. Hà Tiến Nhất tôi đả kích Lm Lễ ở chỗ nào, và ganh tỵ với cha Lễ ở điểm nào. Nhất tôi là một giáo dân, đi ganh tỵ với một ông linh mục là điều hết sức nhảm nhí. Tiếu lâm thật. Chúng tôi ngày trước rất kính phục và ủng hộ Lm Nguyễn Hữu Lễ, đã ba lần ngồi ăn uống vỗ vai cha Lễ một cách xuề xòa thắm tình cha con. Nhưng từ khi cha Lễ đi theo Trần Quốc Bảo và bọn Việt Tân để bị bọn này sử dụng như cái cần câu câu dollar cho chúng thì Hà Tiến Nhất tôi chê ngài.

Cái DVD của Lm Lễ, mục đích là tố cáo các tội ác của Hồ Chí Minh. Việc này rất đúng và rất kháng khen. Tuy nhiên trong số các tội ác của Hồ, còn thiếu một tội nặng nhất không thể tha thứ được"tội bán nước". Tội này không thấy ai nói đến. Vì thế chúng tôi viết bài "Sự Thật về HCM: không biết hay biết mà không dám nói" để đánh thức dư luận. Chúng tôi tự hào đã đặt vấn đề này ra trước công luận để toàn dân VN ý thức đúng tội ác tầy trời của Hồ Chí Minh là tội bán nước của hắn. Trước khi DVD của cha Lễ ra đời thì số người nói HCM bán nước chỉ là thiểu số. Chúng tôi vui mừng vì từ sau bài viết của chúng tôi, tội ác bán nước của HCM đã được mọi người biết tới và lên tiếng tố cáo. Như vậy thì việc làm của chúng tôi đúng hay sai, và sai ở chỗ nào. Chúng tôi rất thận trọng khi viết tiểu luận này, bởi biết rằng cha Lễ đã mời nhiều vị thức giả, có bằng cấp cao, xã hội biết tiếng, lại có cả người ngoại quốc lên tiếng tố cáo tội ác của Hồ Chí Minh. Chúng tôi dùng lời lẽ lễ độ, văn phong trang nhã để đặt vấn đề thì tại sao JB Trường Sơn lại cho đó là đả kích Lm Lễ một cách cay cú để bênh vực cho HCM. Rõ ràng đây là chuyện xuyên tạc bỉ ổi và vô luân.

Chúng tôi xin kết thúc PHẦN 1 của bài viết ở đây. Xin hẹn trở lại với bạn đọc ở PHẦN 2: Website Ba Cây Trúc chủ trương hòa hợp hòa giải với VGCS

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất



KHÔNG THỂ SO SÁNH NAM VIỆT NAM VỚI NAM HÀN - Lê Duy San

    KHÔNG THỂ SO SÁNH NAM VIỆT NAM VỚI NAM HÀN
    Ngày 30-4-1975 là ngày “Quốc Hận”: Bà Dương Thu Hương phát biểu: “Về mặt những người miền Nam mà gọi là “Quốc hận” thì họ cũng phải nhìn lại. Tại sao? Tại sao lại là “Quốc hận” Trước khi hận những người khác họ phải hận chính họ.”(trích từ bài phỏng vấn).
     So sánh Nam Việt Nam với Nam Hàn là phiến diện và khập khiễng: Bà DTH phát biểu: Tại sao cùng một thời điểm, người Mỹ tạo ra những điều kiện để tạo ra chính sách dân chủ của 2 nơi: miền nam Việt Nam và miền Nam Hàn Quốc. Tại sao Hàn Quốc chiến thắng mà Việt Nam chiến bại ? Tại sao cùng một cơ hội lịch sử như thế, người Nam Triều Tiên họ đã chớp lấy cơ hội để biến đất nước của họ thành một xứ sở văn minh phồn thịnh, còn miền Nam thì không ? (trích từ bài phỏng vấn)
Lê Duy San

Vào ngày 11 tháng 3 năm 2015, thông tín viên Tường An của đài RFA hỏi bà Dương Thu Hương là “Tại sao bà cho là phải xét lại chữ “QUỐC HẬN” của những người miền Nam, những người đã thua trong cuộc chiến này?”, bà Dương Thu Hương đã trả lời: “ …Trước khi hận những người khác họ phải hận chính họ. Tại sao cùng một thời điểm, người Mỹ tạo ra những điều kiện để tạo ra chính sách dân chủ của 2 nơi: miền nam Việt Nam và miền Nam Hàn Quốc. Tại sao Hàn Quốc chiến thắng mà Việt Nam chiến bại ? Tại sao cùng một cơ hội lịch sử như thế, người Nam Triều Tiên họ đã chớp lấy cơ hội để biến đất nước của họ thành một xứ sở văn minh phồn thịnh, còn miền Nam thì không?“

Nếu là một người không có trình độ và thiếu hiểu biết thì câu hỏi trên cũng là bình thường. Nhưng bà Dương Thu Hương cũng là một người đã bước vào ngưỡng cửa đại học, bà lại là một nhà văn có tiếng, một nhà bất đồng chính kiến nổi danh. Vậy mà bà lại hỏi một câu hỏi thiếu hiểu biết, nếu không muốn nói là ngớ ngẩn như vậy.

* Tuy Việt Nam và Triều Tiên bị chia đôi, nhưng hoàn cảnh khác nhau.
* Tuy cùng được Hoa Kỳ hỗ trợ, nhưng chính sách của Hoa Kỳ cũng khác nhau.

I. Tuy Việt Nam và Triều Tiên bị chia đôi, nhưng hoàn cảnh khác nhau.

Năm 1945, sau khi Thế Chiến thứ hai chấm dứt, Triều Tiên cũng bị chia hai. Nhưng vì Nhật là nước thua trận nên không còn một tí quyền hành gì để ảnh hưởng tới người Triều Tiên. Năm 1950, khi biết Tổng Thống Mỹ Truman không coi Nam Triều Tiên và Đài Loan là vành đai an toàn của Mỹ, thì Liên Sô đã coi đây là điều kiện thuận lợi để thống nhất Triều Tiên. Liên Sô đã tăng nguồn viện trợ quân sự và vũ khí cho Triều Tiên lên tới 870 triệu rúp và cử hơn 3,000 cố vấn quân sự sang giúp Bắc Triều Tiên, chuẩn bị tiến hành thống nhất lãnh thổ. Ngày 25/6/1950. Bắc Hàn (Bắc Triều Tiên) tấn công Nam Hàn (Nam Triều Tiên), có lúc Bắc Hàn đã tiến sát Seoul, thủ đô của Nam Hàn, khiến Tổng Thống Hoa Kỳ lúc bấy giờ là Truman phải xin Liên Hiệp Quốc để đưa quân vào can thiệp và đã đẩy lùi quân Bắc Hàn về phía bắc tới tận sông Áp Lục, giáp ranh với biên giới Trung Quốc. Nếu tướng Mac Arthur không bị cách chức, chắc chắn ông đã đẩy quân Bắc Hàn tới tận biên giới Trung Cộng và có thể đã thống nhất Triều Tiên dưới quyền của chính phủ Nam Hàn. Cuộc chiến kéo dài 3 năm, kết thúc bằng thoả hiệp ngừng bắn vào ngày 27/7/1953 và lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới chia đôi hai miền Nam Bắc.

Cuộc chiến Triều Tiên đã để lại hai hệ quả quan trọng sau:

1. Người dân Nam Hàn đã hiểu rõ Cộng Sản Bắc Hàn là gì. Do đó quân đội Nam Hàn nói riêng, người dân Nam Hàn nói chung, có lập trường chống Cộng Sản dứt khoát, không khoan nhượng.

2. Khi bị đẩy lui về phiá bắc, chính quyền Bắc Hàn, không có thì giờ và cũng không có cơ hội để chôn dấu vũ khí và cũng không có cán bộ để mà cài người ở lại nằm vùng phá hoại miền Nam. Do đó chính phủ và người dân Nam Hàn có thì giờ để kiến thiết đất nước, canh tân xứ sở.

Trái lại, sau năm 1945, Việt Nam tuy không bị chia đôi, nhưng Pháp thuộc phe đồng minh là phe thắng trận nên đã tìm cách trở lại Việt Nam. Việt Minh tức Việt Cộng vì muốn tiêu diệt phe quốc gia nên đã tìm cách đón nhận người Pháp trở lại rồi gây nên cuộc chiến Việt Pháp vào 18/12/1946 để giành chính nghĩa với người quốc gia. Người quốc gia ở thế kẹt, không thể nào vừa chống Việt Minh (Việt Cộng) vừa chống Pháp nên tạm thời phải chấp nhận nằm trong khối Liên Hiệp Pháp tức phải dựa vào người Pháp để chống lại Cộng Sản Bắc Việt.

Cuộc chiến Việt Pháp kéo dài 8 năm (1946-1954) và kết thúc bằng Hiệp Định Geneve, chia đôi đất nước Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới hai miền. Theo điều 10 của Bản tuyên bố cuối cùng ngày 21/7/1954 thì “chính phủ Pháp sẵn sàng rút quân khỏi lãnh thổ Việt Nam, Lào và Campuchia theo yêu cầu của chính phủ những nước liên quan trong thời gian do các bên lựa chọn”. Trên thực tế thì quân đội Pháp đã rút khỏi Việt Nam từ 1955 theo lời yêu cầu của chính phủ miền Nam Việt Nam tức chính phủ Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên nó đã để lại những hậu quả khác hẳn những hậu quả cuộc chiến Triều Tiên như sau:

1. Hầu hết người dân Việt Nam không hiểu rõ Cộng Sản Việt Nam là gì lại thêm sự tuyên truyền bịp bợm của Việt Cộng nên đều nghĩ là Việt Cộng có chính nghĩa. Do đó người dân Việt Nam nói chung, người miền Nam nói riêng, không có lập trường chống cộng dứt khoát. Phần lớn người dân quê miền Nam, ban ngày thì theo quốc gia, nhưng ban đêm lại hoạt động cho Cộng Sản Việt Nam. Ngay cả một số trí thức miền Nam cũng vậy, tuy sống dưới chính thể quốc gia, nhưng lòng họ vẫn hướng về miền Bắc. Họ tìm cách đả phá, chỉ trích chính quyền và đòi hỏi những điều chính quyền miền Nam không thể thỏa mãn họ được. Họ không cần biết là Việt Cộng luôn luôn tìm cách lợi dụng những sự bất an và xáo trộn của xã hội để phá họai miền Nam Việt Nam.

2. Theo Hiệp Định Geneve thì “Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập trung về miền Bắc; Chính quyền và quân đội khối Liên hiệp Pháp tập trung về miền Nam”. Nhưng trên thực tế, bọn Việt Cộng đã chôn dấu vũ khí và cài lại rất nhiều những cán bộ nồng cốt ở lại miền Nam để hoạt động trước khi chúng rút về Bắc.

Chính vì vậy, ngay sau khi chính quyền miền Nam không đồng ý thực hiện tổng tuyển cử vào năm 1956, bọn cộng sản Bắc Việt đã ra lệnh cho những cán bộ nằm vùng của chúng hoạt động trở lại. Nào là đáp mô, phá hoại cầu cống, gây cản trở lưu thông. Nào là đặt mìn khủng bố, pháo kích sát hại dân lành, gây bất ổn cho cuộc sống của người dân. Rồi tới cuối năm 1960 (20/12/60), chúng lại cho thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để chính thức gây chiến với Việt Nam Cộng Hoà.

II. Tuy cùng được Hoa Kỳ hỗ trợ, nhưng chính sách của Hoa Kỳ cũng khác nhau.

Mặc dầu Tổng Thống Truman tuyên bố vành đai an toàn của Mỹ không bao gồm Nam Triều Tiên và Đài Loan và Mỹ sẽ không dùng hành động quân sự trực tiếp bảo vệ khu vực này, nhưng khi thấy Liên Sô giúp Bắc Hàn tấn công Nam Hàn, Tổng Thống Truman đã khẩn cấp đưa vấn đề ra trước Liên Hiệp Quốc và xin Liên Hiệp Quốc đưa quân vào can thiệp. Và khi cuộc chiến kết thúc bằng thoả hiệp ngừng bắn vào ngày 27/7/1953 và lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới chia đôi hai miền Nam Bắc, chính phủ Mỹ vẫn để lại hơn mấy chục ngàn binh sĩ để bảo đảm an ninh cho Nam Hàn.

Năm 1961, tướng Park Chung Hee cầm đầu một cuộc đảo chính quân sự vào ngày 16 tháng 5 lên làm lãnh đạo của Ủy ban Cách mạng (tiền thân của Hội đồng Tối cao Tái thiết quốc gia sau này). Ông trở thành vị Tổng thống độc tài của Đại Hàn Dân Quốc vào năm 1963, tại nhiệm trong bốn nhiệm kỳ, tổng cộng 18 năm nếu tính từ năm 1961

Trái lại, Nam Việt Nam được Hoa Kỳ và thế giới coi như tiền đồn chống Cộng ở Đông Nam Á, Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tuy cũng độc tài, nhưng so với Tổng Thống Park Chung Hee của Nam Hàn thì còn thua xa. Vậy mà ông lại bị Hoa Kỳ tìm cách lật đổ chỉ vì ông muốn bảo vệ chủ quyền quốc gia, không cho Hoa Kỳ đem quân vào Việt Nam. Điều đó chứng tỏ rằng khi cần thì Hoa Kỳ tìm mọi cách vào Nam Việt Nam cho bằng được. Nhưng khi thấy không cần vì đã bắt tay được với Trung Cộng, thì Hoa Kỳ sẵn sàng ký cho bằng được Hiệp Định Paris năm 1973 và bỏ Nam Việt Nam bằng mọi giá để rút quân khỏi Việt Nam. Thực vậy, năm 1975, khi thấy Việt Cộng vi phạm Hiệp Đinh Paris, xua quân xâm chiếm miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ không những không đem quân ngăn chặn như Hoa Kỳ đã hành động trong chiến tranh Triều Tiên vào năm 1950 mà còn cắt luôn cả viện trợ cho Nam Việt Nam sớm lọt vào tay Cộng Sản.

Tóm lại, không thể so sánh Nam Việt Nam với Nam Hàn mà vội kết luận rằng những nhà lãnh đạo Nam Việt Nam quá kém cỏi, đã để mất miền Nam trong khi Nam Hàn, không những vẫn giữ vững được chính quyền mà còn phát triển được đất nước và biến đất nước của họ thành một xứ sở văn minh phồn thịnh.

Thử hỏi, trước năm 1963, tức trong thời kỳ của nền Đệ Nhất Cộng Hoà Việt Nam, trong vùng Đông Nam Á, đã có nước nào bằng Việt Nam Cộng Hoà? Quân đội thì hùng mạnh, giáo dục tốt đẹp, có chất lượng cao và đầy tính cách nhân bản, kinh tế thì tự túc, nhiều nhà máy như nhà máy giấy, nhà máy dệt, nhà mày đường, nhà máy xi măng, nhà máy bột giặt v.v… được xây dựng, xã hội thì lành mạnh và có kỷ cương v.v… Người dân miền Nam đã được đã được sống một cuộc sống thanh bình và no ấm.

Chính bà Dương Thu Hương đã phải bật khóc khi vừa từ Bắc vào Nam năm 1975 khi th ấy Saigon hoa lệ và sự sung túc của người dân miền Nam. Sao nay bà lại quên mà hỏi rằng: Tại sao cùng một thời điểm, người Mỹ tạo ra những điều kiện để tạo ra chính sách dân chủ của 2 nơi: miền nam Việt Nam và miền Nam Hàn Quốc. Tại sao Hàn Quốc chiến thắng mà Việt Nam chiến bại ? Tại sao cùng một cơ hội lịch sử như thế, người Nam Triều Tiên họ đã chớp lấy cơ hội để biến đất nước của họ thành một xứ sở văn minh phồn thịnh, còn miền Nam thì không?

Nếu Việt Cộng miền Bắc không nghe theo quan thày Liên Sô, Trung Cộng, để tấn công miền Nam hầu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á, nếu Hoa Kỳ vẫn ủng hộ và viện trợ cho miền Nam thì miền Nam để chống lại Cộng Sản miền Bắc, thì miền Nam Việt Nam đâu có mất và ngày nay đâu có thua kém gì Nam Hàn?

Lê Duy San