Saturday, January 30, 2010

Trung Quốc là gì của Việt Nam ? - Giáp Văn Dương

(Bài này của tác giả Giáp Văn Dương sau khi đăng trên Tuần Việt Nam đã bị rút xuống sau đó. Xin đăng lại từ blog Bauxit Việt Nam)

Giáp Văn Dương

Từ xưa đến nay, quan hệ Việt-Trung luôn phức tạp. Để có chiến lược ứng xử thích hợp, đã đến lúc phải thẳng thắn trả lời câu hỏi: Trung Quốc là gì của Việt Nam?

Định vị lại Trung Quốc

Khi xem xét chiến lược ứng xử với Trung Quốc, có ý kiến cho rằng, với Việt Nam, Trung Quốc đồng thời là: người thầy vĩ đại, người bạn thân thiết và đối thủ nguy hiểm.

Nhìn vào lịch sử quan hệ và những ảnh hưởng qua lại giữa hai nước, thì thấy rằng Trung Quốc đã từng đóng tất cả các vai ấy trong mối quan hệ thăng trầm với Việt Nam.

Tuy nhiên, vào thời điểm hiện nay, nếu coi đây là xuất phát điểm cho chiến lược ứng xử với Trung Quốc thì cần phải xem xét lại.

Nếu coi Trung Quốc là người thầy vĩ đại, thì sẽ có xu hướng bắt chước thầy, chịu sự chỉ dẫn của thầy với tư cách học trò. Khi xảy ra tranh chấp, điều đã từng xảy ra nhiều lần trong lịch sử, thì trò khó lòng có thể thắng được thầy.

Còn nếu coi Trung Quốc vừa là người bạn thân thiết, vừa là đối thủ nguy hiểm thì lại tự mâu thuẫn nhau. Đã là bạn thì không thể là kẻ thù, vì cơ sở của tình bạn là sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau. Còn đã coi nhau là kẻ thù thì không thể là bạn.

Nếu coi Trung Quốc vừa là thầy, vừa là bạn, vừa là đối thủ của Việt Nam, tất yếu dẫn đến những lúng túng và yếu thế trong chiến lược ứng xử với Trung Quốc. Nói cách khác là gây ra bối rối ngay từ khâu lên kế hoạch, nên thua thiệt là điều khó tránh khỏi.

Một nhận định khác cũng thường được nói đến nhiều: Trung Quốc và Việt Nam là anh em “môi hở răng lạnh”. Việc tự coi mình là em đã đặt Việt Nam vào thế bất lợi toàn diện trong quan hệ với Trung Quốc, tất yếu sẽ rất đến những thua thiệt trong ngoại giao, trao đổi văn hóa, thương mại, thậm chí cả trong bảo vệ chủ quyền và lợi ích hợp pháp của đất nước, v.v.

Vậy Trung Quốc là gì của Việt Nam?

Đối tác bình đẳng

Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi viết rằng:
    “Nước non bờ cõi đã chia,
    Phong tục Bắc Nam cũng khác.
    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập.
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”

Qua đó có thể thấy, Nguyễn Trãi không coi Trung Quốc là thầy, bạn, hay kẻ thù hoặc kết hợp của cả ba thứ này. Nguyễn Trãi cũng không coi Trung Quốc là anh em với Việt Nam. Ông chủ trương Trung Quốc là một đối tác độc lập, bình đẳng trong quan hệ với Việt Nam về mọi mặt.

Đây là chiến lược sáng suốt của Nguyễn Trãi, dù ra đời đã gần 600 năm. Chủ trương này vẫn còn là kim chỉ nam cho chiến lược ứng xử với Trung Quốc ngày nay, không chỉ trong quan hệ ngoại giao, mà còn cả trong trao đổi văn hóa, thương mại, v.v.

Trong ngoại giao, việc xác định Trung Quốc là đối tác bình đẳng sẽ giúp định ra các chính sách và thái độ ngoại đúng đắn, góp phần củng cố vị thế Việt Nam trên trường quốc tế và bảo vệ quyền lợi chính đáng của đất nước, nhất là khi tranh chấp biển đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc đang có những diễn biến phức tạp.

Trong văn hóa, việc coi Trung Quốc là đối tác chứ không phải là người thầy, bạn bè, đối thủ hay bậc đàn anh sẽ giúp Việt Nam giữ được bản sắc văn hóa của mình trong khi vẫn sàng lọc được những điều hay cần học hỏi.

Trong mậu dịch, Việt Nam đang yếu thế so với Trung Quốc: cán cân thương mại Trung Quốc-Việt Nam đang có những mất cân đối nghiêm trọng. Nhập siêu từ Trung Quốc đang ở mức đáng lo ngại và tăng liên tục: ước tính khoảng 11 tỷ USD năm 2008, so với 200 triệu USD năm 2001. Cơ cấu mậu dịch cho thấy Việt Nam chủ yếu xuất khẩu tài nguyên và sản phẩm thô, ước tính khoảng 80% tổng giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc, trong khi nhập về chủ yếu hàng công nghiệp. Do đó cần phải có chiến lược điều chỉnh thích hợp, phấn đấu đưa Trung Quốc trở thành đối tác thương mại ngang hàng với Việt Nam.

Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện từ xuất phát điểm: coi Trung Quốc là đối tác bình đẳng, chứ không phải là thầy-bạn-đối thủ hay anh-em của Việt Nam.

Việc coi Trung Quốc là đối tác bình đẳng còn giúp Việt Nam tận dụng được sức mạnh của hệ thống pháp lý và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Vì một lẽ đơn giản, tất cả các nước đều bình đẳng trước các cam kết và hệ thống pháp lý quốc tế. Và cộng đồng thế giới ủng hộ sự bình đẳng này.

Do đó, Việt Nam cần phải nương vào nguyên tắc bình đẳng và sự hỗ trợ này để vươn lên vị trí bình đẳng toàn diện trong quan hệ với Trung Quốc.

Bước vào thập kỉ mới – thập kỉ bản lề ẩn chứa nhiều cơ hội và thách thức cho sự phát triển của Việt Nam, nhất là trong quan hệ với Trung Quốc – câu hỏi Trung Quốc là gì của Việt Nam cần phải được trả lời dứt khoát: Trung Quốc là đối tác bình đẳng với Việt Nam trên mọi lĩnh vực, chứ không phải là thầy-bạn-đối thủ hay anh-em như nhiều người đã và đang nghĩ.

Giáp Văn Dương

Xê ra cho người ta đi học ... đạo đức cáo Hồ! - Nguyễn Thanh Ty

Nguyễn Thanh Ty

Nhớ hồi cái nẫm, nghĩa là hồi xóm chài của tôi còn ở trong tình trạng “hiu hắt ánh đèn câu” của các ghe câu cá ban đêm trên sông, dùng đèn dầu chai, ánh lửa đỏ lập lờ, khi mờ khi tỏ … thì dân làng tôi hãy còn nhiều hủ tục mê tín dị đoan lắm.

Chẳng hạn như, khi buôn bán ế ẩm thì họ thường “đốt phong long” để xả xui. Đốt phong long coi bộ cũng ngộ và vui lắm. Thông thường họ dùng một nhúm lưới đánh cá cũ, rách nát, vất đi (loại xưa làm bằng chỉ sợi) để đốt xông khói rồi vén ống quần lên, dạng chân ra, nhảy qua nhảy lại trên đám khói vài lần. Cứ mỗi lần thấy cảnh đó, tôi không khỏi phì cười, khi nhìn nét mặt của các bà lúc nhảy trông nghiêm trang, thành khẩn lắm. Có khi họ cũng dùng mảnh buồm lác cũ để un khói thay lưới. Hoặc khi bị đau bụng đi chảy, họ đến cầu ông thầy pháp trong xóm cho lá bùa để đốt thành tro, uống với nước lạnh. Lá bùa màu vàng nghệ, trên vẽ loằng ngoằng mấy cái chữ hay hình gì đó, màu đỏ. Tôi đồ chừng đó là hình vẽ mấy con chó, lúc uống vào bụng, bầy chó này sẽ “xực” hết cái đống lỏng bỏng trong đó làm cho bệnh nhân hết đi chảy chăng?

Lưới và buồm lác cũ đốt xông khói cũng còn được dùng trong cách trị bệnh nổi mề đay ngứa. Lần này thì người có bệnh ngứa phải ở trần, trùm chiếu lại để khói ám vào người, làm tan đi cơn ngứa và các vết mẩn mề đay.

Dần dà, đến đầu thập niên 50, ánh sáng của thế giới văn minh tràn vào miền Nam, lan cả vào xóm tôi. Từ đó, ngư dân biết dùng lưới nylon Nhật Bản nhẹ hơn, bền hơn, lâu phai màu thay cho lưới đan bằng chỉ sợi mau rách, mau bạc màu. Biết dùng máy nổ để chạy ghe nhanh hơn thay cho buồm đan bằng lác, cói … và chèo tay. Nhà nhà có điện, ban đêm sáng rực rỡ. Trẻ con nô đùa thỏa thích. Ghe câu đã dùng đèn “măng xông” thay cho đèn dầu chai hay gió đá “cạc buya” để nhử cá.
Và người ta đã biết mua thuốc Tây Anacine trị phong ngứa, mề đay thay cho xông khói. Biết uống thuốc trụ sinh Tetracycline trị bệnh tiêu chảy thay vì uống bùa của ông thầy pháp.

Mấy bà bán hàng lúc ế ẩm cũng không còn nhảy qua lửa khói nữa mà chỉ lấy tờ báo cuộn tròn, đốt lên, quơ qua, quơ lại trước cửa hàng để xua đuổi “vía nặng” mà thôi.

Người dân miền Nam đang sống vui, sống sướng, sống khoẻ trong cảnh thanh bình, an cư lạc nghiệp như vậy, đùng một cái, đám bộ đội cụ Hồ đói khổ, đói giơ xương, đói vêu răng ... ở miền Bắc, liều mạng ôm bom đạn Nga, Tàu ào vào cướp lấy cái ăn, cái mặc, tài sản của người ta rồi mồm năm miệng mười lu loa lên rằng “giải phóng miền Nam”, y hệt gái đĩ già mồm đi cướp chồng người. Thật ra là cụ Hồ làm tay sai, đâm thuê chém mướn cho Nga Tàu, đem chủ thuyết mọi rợ của chúng vào nhuộm đỏ đất nước và muốn nhuộm luôn toàn cõi Đông Nam Á.

Loáng một cái, chỉ có mấy năm, tài sản, nhà cửa, đất đai, ruộng vườn, cơ xưởng, máy móc… của người miền Nam bị người miền Bắc “vào, vơ, vét, về” sạch sành sanh.

Hậu quả tàn dư để lại cho miền Nam sau đó là đói nghèo và lạc hậu không khác chi sau một cơn lũ rút đi, để lại một cảnh hoang tàn, đầy rác rưởi, xú uế.

Người dân miền Nam lại trở về thời “hiu hắt ánh đèn câu” ban đêm và ban ngày thì đi đào củ, rễ cây trên rừng để ăn, cứu đói qua ngày.

Trong lúc đó thì cờ đỏ sao vàng và khẩu hiệu “Chủ nghĩa Mác Lênin bách chiến bách thắng”, “Hồ Chủ tịch sống mãi …” viết bằng sơn đỏ trên những băng rôn đan bằng lác, cói treo khắp nơi từ thành thị tới thôn quê, từ đầu làng đến cuối xóm để phô trương sự chiến thắng.

Những tấm đệm đan bằng lác, cói nay được thấy lại sau hơn hai chục năm mất dấu. Khi xưa dân chài xóm tôi dung chúng may ghép lại, làm buồm ghe hoặc dùng che phên, che vách.

Suốt nhiều năm dài, từ sau cái tháng tư năm 1975, cao trào “cách mạng giải phóng” cứ trên đà xốc tới, khí thế xông lên hừng hực, tiếng loa vang trời, tiếng hoan hô biểu tình dậy đất để “đánh tư sản”, “cải tạo công thương nghiệp”, “đổi tiền”, “cải tạo ngụy quân, ngụy quyền”, “kinh tế mới”, “ngăn sông cấm chợ”, “kinh tế chỉ huy”, “hợp tác xã”… thì người dân cả nước lâm vào cảnh đói. Đói xanh xương. Đói lòi con mắt. Cơm không có ăn. Thuốc không có uống. Ngày ngày người dân phải nhá bo bo của ngựa thay cơm cho qua ngày. Bệnh gì cũng uống “xuyên tâm liên”, một loại thần dược của Bác Hồ làm bằng lá cây, có thể chữa bá bệnh.

Trong lúc đói khổ, tưởng chừng người dân ăn thì ăn “qua loa”, mặc thì bằng cái đống cờ đỏ sao vàng và suốt ngày theo lệnh khóm, phường, ào ra đường hò hét khẩu hiệu cũng đủ no, ấm suốt đời.

Tôi bị ngứa nổi mề đay đầy người vì ăn củ ráy cứu đói, thay cơm hàng ngày. Đi khai bệnh, Nhà nước cấp cho “xuyên tâm liên”. Uống cả bụm, ỉa ra cứt xanh lè mà ngứa vẫn cứ ngứa. Đi tìm thuốc Tây khắp chợ, đỏ con mắt, vẫn không nơi nào có.

Ông bà già lại bày đốt buồm lác xông khói như xưa để chữa.

Buồm lác của ghe đánh cá xưa cũ làm gì còn. Phải đi tìm, đi lượm những khẩu hiệu “Chủ nghĩa Mác Lê bách chiến bách thắng” viết trên băng rôn làm bằng đệm, bằng lác hồi “cách mạng” mới vô mới có.

Ai dè, lúc đi tìm mới hay, băng rôn bây giờ làm bằng vải đỏ rất xịn, viết sơn màu vàng, khẩu hiệu lại khác, toàn những là “Học tập theo đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh”, “Đổi mới hay là chết”. Còn mấy thứ đệm, lác viết khẩu hiệu “Chủ nghĩa Mác Lê bách chiến bách thắng” đã bị vất bỏ từ lâu, theo lời ông bí thư phường cho biết.

Té ra người dân trong nước vì quá đói, quanh năm, suốt tháng cứ cắm mặt xuống đất, đưa lưng cho trời để lo kiếm cái bỏ vào mồm, đâu hay biết rằng Liên xô, thành đồng vách sắt của chủ nghĩa cộng sản, đã chết không kịp giãy, còn kéo theo cả đám đàn em khối Đông Âu chết theo như bệnh dịch hạch lây nhiễm.

Kiếm không ra buồm lác cũ, tôi đành đi theo, đi dưới mấy cái băng rôn đỏ viết đầy chữ “Học tập theo đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh” treo đầy đường, đấy ngõ để hy vọng hết ngứa, bắt chước dân Trung cộng, thời kỳ “cách mạng văn hóa”, khi có bệnh cứ đọc sách đỏ (Hồng thư) của Mao Chủ tịch là khỏi bệnh ngay tức khắc.

Không biết dân Tàu khi đọc sách đỏ của Mao xếnh xáng có hết bệnh không, chứ tôi đi riết dưới mấy cái khẩu hiệu (đẹp nhất) có tên bác Hồ thì cái bệnh ngứa ngoài da đã những không bớt mà còn lây sang ngứa gan rồi ngứa miệng nữa.

Cũng là nhờ suốt ngày nhá bo bo cho vững hai đầu gối để đi dưới mấy cái băng rôn (chết tiệt) đó, tôi mới vỡ ra rằng thì là Bộ Chính trị Cộng sản lâu nay đã đẩy mạnh việc học tập “Đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh” trong dân chúng, nhất là trong hàng ngũ quân đội và đảng viên.

Ủa, ông Hồ xưa nay làm gì có tư tưởng để Bộ Chính trị làm thành bài tập để cho dân, quân, đảng học tập? Chuyện giống như “nước lã khuấy nên hồ” vậy cà?

Ngay từ đầu, ông Hồ cũng đã “dũng cảm, thật thà khai báo” rằng “Tui hổng có tư tưởng gì ráo trọi. Cỡ tui thì sức mấy mà có được nổi tư tưởng với công tưởng?”.

Còn nhớ, ông Nguyễn Minh Cần kể rằng, tại hội nghị cán bộ Việt Bắc năm 1949, ông Hồ tuyên bố “Các vị lãnh tụ thế giới Staline, Mao Trạch Đông thì không thể sai lầm, nghĩa là những gì cần nói và đáng nói thì họ đã nói hết rồi và nói đúng, thì mình còn gì nữa, nhất là điều mình nói có thể sai”.

Lại nữa, khi ông Nguyễn văn Trấn, một đảng viên kỳ cựu, đề cập đến tư tưởng chỉ đạo cho đảng Cộng sản Việt Nam, ông Hồ Chí Minh trả lời “Không, tôi chẳng có tư tưởng gì, ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác Lê. Tôi chỉ có phương pháp để giải quyết thỏa đáng từng vấn đề của ta.Chớ còn tư tưởng là quan niệm về vũ trụ, về thế giới và xã hội con người thì tôi là học trò của Mác, Ăng ghen, Lê nin chớ làm gì có tư tưởng ngoài triết học Mác”.

Không những chỉ thú thiệt với đồng chí đảng viên của mình, ông Hồ còn nói toạc móng heo chẳng cần che đậy cả với người ngoại quốc nữa. Theo ký giả Pháp Jean Lacouture, khi khách ngoại quốc hỏi ông Hồ sao ông không viết sách như Mao Trạch Đông, ông ta trả lời “Mao đã nói hết rồi, còn gì để nói nữa đâu!”.

Chuyện rõ như ban ngày như thế, bỗng một sáng đẹp trời, tại xóm Ba Đình, tư tưởng ông Hồ khi khổng, khi không lại xuất hiện giống như “con cóc trong hang con cóc nhảy ra, con cóc nhảy ra con cóc ngồi đó, con cóc ngồi đó con cóc nhảy đi” rất ngộ nghĩnh và rất buồn cười.

Thật ra trên đời làm gì có chuyện “bỗng dưng”. Nhân quả luôn cặp kè nhau cả đấy. Năm 1989, Bộ Chính trị gồm bộ ba Nguyễn văn Linh, Trường Chinh, Đỗ Mười đã hoảng hồn, mất vía, sợ mất mật, sau một đêm truy hoan trác táng với em út, khi thức dậy nghe tin bức tường ô nhục Bá Linh bị phá sập, đánh dấu sự phá sản của chủ nghĩa và chế độ Mác Lê tại các nước Đông Âu như những quân bài đô mi nô: Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi và Đông Đức hè nhau giãy chết hàng loạt. Liên xô là “tổ quốc” là “thành trì” của chủ nghĩa Cộng sản cũng bị sụp đổ tan tành theo. Đế quốc Cộng sản Liên xô tan rã. Đệ tam Quốc tế vô sản tiêu vong. Cộng sản Việt Nam, cẩu nô trung thành của Nga, làm sao mà sống được khi không có ông chủ đỡ đầu, chăn dắt?

Tình hình căng thẳng, nguy cấp lắm, bộ tam sên Linh, Mười, Chinh vội họp “khẩn trương” với Ban Thường vụ Trung ương đảng để tìm ra biện pháp cứu nguy đảng ta hiện đang đứng bên bờ vực thẳm. Đâu thể nào để xãy ra cảnh “Trạng chết Chúa cũng băng hà, dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn” theo. Đảng ta không thể bỏ chủ nghĩa Mác Lê, cái mà đảng đã dựa lưng, đeo đuổi và thi hành hơn 60 năm. Mà bỏ chế độ Mác Lê là cả bọn sẽ bị gậy đi ăn mày ngay. Lại còn có thể bị “Cẩu đầu trảm” của nhân dân chờ sẵn trao tặng nữa. Thế mới cơ khổ!

Loay hoay như gà nuốt giây thun, cả băng đảng cái gọi là Văn Hóa Tư tưởng Trung ương gồm các tay gộc “đỉnh cao trí tuệ” như Đào Duy Tùng (con trai là Đào Duy Quát bán đảo Hoàng Trường Sa trên báo điện tử CS), Đặng Xuân Kỳ, Song Thành, Ngô Phương Bá, Lê văn Tuấn, Nguyễn Đình Cát, Hoàng Tùng… các tướng lãnh Phạm văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh… chụm đầu nhóm tới, họp lui, khẩn cấp, khẩn trương bàn bạc thầm thì nhỏ to, trăm đường, ngàn lối, trích cú tầm chương như chẻ sợi tóc làm tám, như bới bèo tìm bọ, … vẫn không tìm ra được một câu, một ý nào trong hàng vạn cuốn sách trong “tàng kinh các” Ba Đình, để được xem là tư tưởng của ông Hồ.

Cả đám “bầy tôi” cãi nhau như mổ bò. Tốn rất nhiều rượu, thịt. Hao tốn công quỹ cả tỷ.

Chuyện kể rằng, thoạt đầu Đỗ Mười đề nghị lấy bài diễn văn ông Hồ đọc ngày 2/9/1945 triễn khai thành hệ tư tưởng. Tức khắc, ý đó bị mọi người bác bỏ ngay vì bài diễn văn này do một người Mỹ tên là Archimedes L.A. Patti viết dùm cho ông Hồ và nội dung toàn là vay mượn các bản văn “Tuyên ngôn độc lập” của Pháp và Mỹ. Vậy không nên đề cập tới làm chi cho thêm hổ thẹn. Đỗ Mười, méo mó nghề nghiệp, cứ tưởng ý mình đưa ra sẽ “thiến” được mọi người, ai ngờ lòi ra cái ngu quá, bị bẻ mặt nên cúi đầu ngồi im thin thít.

Đến lượt Phạm văn Đồng đề nghị lấy câu nói “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” của bác Hồ, hiện nay đang được treo tá lả trong học đường, từ lớp Mẫu Giáo đến Đại học, khắp cả nước, làm tiêu điểm triển khai, cũng bị hội đồng lý luận ó lên, sổ toẹt, vì câu đó là của Thừa tướng Quản Trọng nước Tề bên Tàu cách đây hơn hai ngàn năm. Nguyên văn là “Bán niên chi kế bất như thụ cốc, thập niên chi kế bất như thụ mộc, bách niên chi kế bất như thụ nhân”. Ông Hồ mượn tạm của người ta mà lâu nay không chua tên tác giả nay lại đem nâng lên thành tư tưởng của Bác thì thối lắm, thối lắm. Đồng vẩu tẽn tò, bèn nhe hàm răng hô ra đếm cho bớt thẹn.

Đặng xuân Khu, Trường Chinh, người có công lớn nhất trong “Cải cách ruộng đất” đã đem cha mình ra đấu tố đầu tiên để làm gương tiêu biểu cho sự giác ngộ cách mạng, thấy hai đề nghị trên đều bị đám “trí thức cục phân” bài xích tuốt, giận tái mặt, bèn lấy khẩu hiệu “Chí công vô tư, cần kiệm liêm chính” mà hắn ta hàng ngày đem ra để huấn luyện và giáo dục cán bộ cộng sản, hùng hổ đưa ra, chắc mẽm phen này hội nghị sẽ lấy đó làm “hạt giống đỏ” để ươm mầm trổ lá, đơm hoa cây tư tưởng Bác Hồ. Ngờ đâu, lần này mọi người lại cười rộ, rõ to, bảo rằng “Ông Khu ơi! Trình độ học vấn ông quá kém thì cứ ngồi đó ôm cột mà nghe chớ có nói bậy nhé. Ông chỉ dùm coi, cái khẩu hiệu này Bác Hồ nói ở đâu, lúc nào? Bác Hồ cũng chỉ rút ra từ lời dạy của Nho giáo hơn hai ngàn năm để áp dụng mà thôi”.

Đặng xuân Khu ú ớ không trả lời được, bèn vờ vịt thò tay xuống mò khu, gãi dế, bắt chước Ông già gân Trần văn Hương: “Ngồi buồn gãi dế, dế lăn tăn”.

Cuối cùng không ai tìm ra được “tư tưởng Hồ Chí Minh” ở đâu cả. Nhưng chả nhẽ để đảng ta không có cái gì để tôn thờ, để chủ đạo, cứ lững lơ như thuyền không lái, như ngựa không cương, lông bông à? Không còn Mác Lê, Mao Xít nữa thì phải có cái gì đó đặt lên bàn thờ để lạy, đảng ta mới bịp được dân trong nước và dư luận thế giới chứ?

Giờ thì chỉ còn cái xác ông Hồ là vật duy nhất có thể dựng lên phong thánh thay cho mấy cái hồn ma quỉ vương cộng sản quốc tế vừa xuống địa ngục chịu tội. Thế là hội đồng lý luận đành phải tạm hợp ca bài suy tôn “đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh”. Sau đó vẽ thêm râu ria ra thành: “Chủ trương, đường lối, sách lược” để thay thế và che đậy âm mưu và duy trì chế độ chuyên chính Mác Lê. Hoàn toàn không có tư tưởng Hồ Chí Minh. Và cái đuôi “bách chiến bách thắng” đàng sau “Chủ nghĩa Mác Lênin …” bị đảng ta âm thầm chặt bỏ, quẵng vào sọt rác lịch sử không kèn, không trống đưa ma.

Tuy nhiên, bề ngoài bộ áo hàng mả Cộng sản Việt Nam không thể thiếu chữ MácLê bên cạnh chữ Hồ Chí Minh để bảo chứng, giống như vật dụng nào dán nhãn Made in China hay Made in Việt Nam thì có nghĩa là hàng dỏm không “đảm bảo” chất lượng vậy. Cho nên trong Đại hội 7, tháng 6/1991, bản báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương phải ghi rõ cương lĩnh và nghị quyết rằng: “Cái mới trong các văn kiện Đại hội lần này là cùng với chủ nghĩa Mác Lênin, đảng nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là điều kiện cốt yếu để công việc đổi mới giữ được định hướng chủ nghĩa xã hội và đi đến thành công trong quá trình đổi mới”.

Áp đặt, ghép chặt mấy ông Mác Lê vào cạnh ông Hồ rồi cứ thế khua chuông đánh trống, gõ phèng la, phát động phong trào học tập “đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh”, bắt toàn dân, toàn quân, toàn đảng ra sức học tập. Học cái không có chính danh, học cái ngụy tạo do Bộ Chính trị tự phịa ra rồi bôi phẩm xanh, phẩm đỏ toè loe giống như cái màng trinh của bà phán Đoan thì hậu quả ra sao không cần làm thầy bói sờ mu rùa gieo quẻ, người ta cũng biết rõ.

Trước hết hãy nói về cái di căn kế thừa đạo đức của bác Hồ.

Với sự bùng nổ internet, mạng lưới truyền thông toàn cầu hiện nay, bí mật về đời Bác, riêng cái khoản đạo đức nhiều vợ, vợ khắp nơi, em nào Bác xài xong rồi là quất ngựa truy phong, khổ công Bác dấu kín như mèo dấu kít, nay đã phơi bày nhan nhãn, lồ lộ trên các trang Web. Ai muốn tìm xem chơi cho biết sự đời cứ vào xa lộ thông tin gõ “ Hồ Chí Minh có mấy vợ” khắc rõ.

Cuộc đời tình ái của bác Hồ hơn hẵn chàng Sở Khanh trong truyện Kiều nhưng thua Bác Tú Xương nhà mình mấy bậc. Bác Tú Xương dám vỗ ngực “Cao lâu thường ăn quịt, thổ đĩ lại chơi lường”, nhưng không làm điều ác với tình nhân. Ngược lại bác Hồ thì tàn ác vô song.

Cái vụ em Nông thị Xuân có con với Bác, chỉ mỗi tội xin Bác công khai, chứ lén lút dâm với nhau thì xấu hổ, nhục nhã quá, thế mà Bác nhẫn tâm cho bộ hạ dùng búa đập đầu chết tươi để bịt miệng. Chuyện ghê tởm như thế mà đảng ta cứ khắc cho bác hai chữ “đạo đức” bằng vàng ròng để thờ lạy mỗi ngày thì quả là phong hóa suy đồi đến cùng cực rồi.

Về cái gọi là “đạo đức cách mạng” thì Bác cũng rất khiêm tốn, Bác chẳng bao giờ khoe khoang. Chỉ mới đây, đám hậu duệ của Bác xì ra có tí chút mà đã cho làm Bộ Chính trị Ba Đình và nhiều đảng viên trung kiên một lòng thờ Bác như bậc thánh, đã té ngữa, trợn trừng lòi con mắt vì bất ngờ trước thành tích “lật lọng phản phúc” quá trơ tráo của Bác.

Sách trong nước, quyển “ Thành ngữ – Từ điển – Danh nhân từ điển” Nhà xuất bản Văn Học, in năm 2008 tại Sài Gòn, của tác giả Trịnh Vân Thanh dầy 1039 trang, khổ lớn đã viết về một trong những điều kiêng kỵ về Hồ Chí Minh. Trang 742, mục nói về Phan Bội Châu, sách trên viết: “Năm 1925, nghe theo lời của Lý Thụy và Lâm Đức Thụ, Phan Bội Châu gia nhập vào tổ chức “Toàn thế giới nhược tiểu bị áp bức dân tộc”, nhưng sau đó Lý Thụy và các đồng chí lập mưu bắt Phan Bội Châu nộp cho thực dân Pháp để lấy được một số tiền thưởng, khoảng 15 vạn bạc, hầu có đủ phương tiện hoạt động”.

(Lý Thụy, một trong những bí danh của Nguyễn Sinh Cung tức Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh) Sách trong nước in và xuất bản đấy nhé. Ấy! Đừng có bảo rằng bọn “phản động hải ngoại” chuyên đặt điều bôi bẩn Bác như cái lưỡi gỗ của Lê Dũng, Nguyễn phương Nga nói nhá.

Chưa kể đến chuyện Bác là chuyên viên chôm chỉa và cầm nhầm tên người khác, sách người khác, sửa chữa thành tên mình, nhận vơ tác phẩm của mình. Ví dụ như tên Nguyễn Ái Quốc mượn của nhóm ông Phan Châu Trinh, tên Hồ Chí Minh mượn của Hồ Ngọc Lãm. Tác phẩm Ngục trung nhật ký lại là cầm nhầm của ông già người Hoa họ Lý.

Sau ba năm, đổ nhiều tỷ Mỹ kim ra để phát động phong trào học tập thật rầm rộ “đạo đức Hồ Chí Minh” nào là thi vẽ, kể chuyện, viết luận văn, luận án về đề tài này, chúng ta hãy thử điểm qua các báo trong nước xem tình trạng đạo đức của xã hội Việt Nam có khá lên chút nào không hay “chuyển bại thành xụi” luôn không biết chừng.

Trong bài viết” Đôi điều về văn hóa quan chức” tác giả Ngọc Khánh kể lại chuyện một bà già cùng hai cháu nhỏ tới một khu chơi đu quay cho trẻ em nhưng bà không thể chen mua vé được vì mắc hai đứa cháu trên tay. Bà nhờ một người đàn ông đứng cạnh đó mua dùm. Không ngờ ông này quay lại quát: “Bà có biết tôi là ai không?” Sau đó ông ta dùng lời lẽ thiếu văn hóa để mắng bà già. Bà già phản ứng lại thì ông này thẳng tay tát vào mặt bà mấy cái. Mọi người chung quanh xúm lại mới hay ông là Phó Chủ tịch huyện Mộc Hóa tỉnh Long An. Nhân chuyện này, tác giả tra cứu thêm các vụ quan chức dùng bạo lực với dân mới biết thêm nhiều vụ khác, xãy ra hàng ngày, ở khắp nơi, như “chuyện thường ngày ở huyện”:

- Một bà Chủ tịch hội Liên hiệp Phụ nữ có “sáng kiến” dùng ngón chân để hướng dẫn thủ tục cho người dân khi họ đến xin vay vốn xóa đói giảm nghèo. Khi người dân phản đối thái độ hách dịch đó thì bà ném tung hồ sơ dưới đất để họ tự nhặt lên.

- Ông Bí thư Chủ tịch Hội đồng Nhân dân thị trấn Hoài Đức đấm vào mặt dân chỉ vì bị gọi là “anh”. Theo ông Chủ tịch thì “Tao là anh của bố mày chứ anh gì mày!”

- Chuyện công an đánh dân, nhất là trên tuyến giao thông thì không thể kể hết trong một ngày. Nhất là chuyện công an đánh chết dân. Tác giả mách nước: Chỉ cần tìm từ khóa “Chết tại trụ sở công an” trên Google bạn đọc sẽ thấy vô số các thông tin liên quan đến chuyện “công an lỡ tay đánh chết người”.

Sau đó tác giả cứ băn khoăn tự hỏi “Không biết các ông quan này có được học tập đạo đức Hồ Chí Minh không mà cư xử với dân như đám lưu manh vậy?”

Tác giả lại nghĩ vẩn vơ, không biết từ “quan chức” phát sinh ra tự lúc nào chứ xưa nay họ vẫn cứ một mực cán bộ là “đày tớ của dân” kia mà. Buồn cười cho cái ông này. Đã đổi mới rồi!
Một chuyện khác, đọc được trên báo điện tử VietNamNet:

Ngày 24/12 một nhóm nữ sinh lớp 7 trường Chu văn An quận 11, TP HCM, xúm lại đánh bạn túi bụi, cầm cả dao lam hăm dọa, trong lúc các bạn khác đứng chứng kiến và quay phim.

Trả lời VietNamNet về câu hỏi: Nhà trường có biện pháp cụ thể nào đối với các học sinh tham gia vụ việc đánh bạn hội đồng, Ông Võ tuấn Kiệt, Hiệu trưởng trướng Chu văn An cho biết: “Tôi stress quá!”. Tuy nhiên thay lời ông Kiệt, bà Linh, giáo viên Chủ nhiệm, cho biết: “Vụ việc chỉ mới ở mức độ phạm tội ban đầu, nhà trường cũng không muốn xãy ra. Những vụ việc như thế này trường khác cũng có”.

Liên quan đến đạo đức của các nữ sinh đã tham gia đánh hội đồng, ông Kiệt cho biết: “Những học sinh này hầu hết là cán sự lớp như: lớp trưởng, lớp phó lao động, lớp phó văn thể mỹ, các học sinh này đều đạt hạnh kiểm tốt”.

Thảo nào! Hồng hơn chuyên là đúng rồi! Các cán sự này đạt được hạnh kiểm tốt theo tiêu chuẩn đạo đức của Bác thì phải thế thôi! Còn họp hành kỷ luật làm chi cho mất công vô ích!

Cũng chuyện học đường, trăm năm trồng người, nhưng giờ là chuyện ở Đại học.

Tại Hội thảo “Giáo dục văn hóa giao tiếp trong nhà trường” diễn ra tại ĐH Sư Phạm TP Sài Gòn ngày 10/12/09, nhiều đại biểu đã bàn đến văn hóa ứng xử giữa thầy và trò, đặc biệt tình trạng bạo lực học đường gia tăng khiến thầy cô đau long.

Thạc sĩ Trần Đình Thích, ĐH Cần Thơ, bàng hoàng kể lại cảnh đã chứng kiến sinh viên xông thẳng vào văn phòng bộ môn ngoại ngữ ĐH Cần Thơ rượt đuổi đâm chém thầy cô. Tại trường ĐH Nông Lâm TP Sài Gòn thì sinh viên tạt cả thau axit vào người thày giáo ngay đang trên bục giảng. Thầy Thích cho rằng “Không gian văn hóa học đường đang bị ô nhiễm”.

Thạc sĩ Đỗ thị Hà Giang, chuyên viên Sở GD – ĐT Bắc Giang cho biết thêm “Những hành động bạo lực như: xâm hại tình dục, xúc phạm học sinh dưới nhiều hình thức, đâm chem. Nhau, hỗn láo với thầy cô, tạt axit, bỏ thuốc chuột để hại tính mạng thầy đang diễn ra hằng ngày. “Thầy trò hành xử theo kiểu xã hội đen”. Đó là biểu hiện phản văn hóa cho thấy lâu nay chúng ta lỏng lẻo trong việc giáo dục văn hóa ứng xử trong nhà trường …”

Cô giáo Hà Giang nhắc đến “Kiểu xã hội đen” có lẽ hơi bị trễ. Nhà nước ta và đảng ta đã áp dụng “kiểu xã hội đen” vào các vụ đàn áp tôn giáo từ khuya rồi. Đậm nét nhất là các vụ Thái Hà, Tam Tòa, Chùa Bát Nhã và bây giờ đang bầy hầy ở Đồng Chiêm” đấy thôi.

Nhà nước nào xã hội nấy, quả là chân lý muôn đời.

ThS Trần Đình Thích kết luận “Rõ ràng, muốn dạy người khác làm người thì trước hết người dạy phải là “Con người” chân chính và có nhân cách tốt”. Nói như thế, có phải thầy Thích muốn bóng gió ám chỉ đến ‘Cha già dân tộc” đấy phỏng?

Tuy vậy, thầy Thích đừng có hao tâm lo bò trắng răng làm chi cho nhiệt. Sau buổi hội thảo đó Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh Hiển cho hay “Bộ GD-ĐT chịu trách nhiệm lớn nhất trước xã hội về đạo đức lối sống của học sinh.” Nhưng chịu như thế nào, cụ thể ra sao không thấy ông Thứ trưởng cho biết nên nhiều người chưa đồng tình. Báo trong nước kết luận.

Một chuyện nữa rất buồn cười, xin ghi ra đây để hải nội chư quân giải trí.

Mất chức vì hai mâm cỗ … cưới.

Đó là đầu đề một bài báo đăng trên báo Pháp Luật và Dân Trí, thuật lại chuyện ông Nguyễn Hữu Dàng, đội trưởng Đội Thanh tra Xây dựng quận Hà Đông, Hà Nội làm đám cưới cho con trai lớn. Hai gia đình thông gia bàn nhau cùng đãi khách tại một khách sạn ở Hà Đông. Nhà trai đặt 40 mâm. Nhà gái đặt 40 mâm. Tổng cộng 80 mâm. Đến phút chót, có những khách không mời mà đến, số bạn bè thương binh của ông Dàng hay tin vui cùng kéo đến mừng. Ông Dàng phải mua thêm 2 mâm để đãi khách. Hai tháng sau ngày đám cưới, do cơ cấu của Sở Xây dựng thành phố thay đổi nên ông Dàng từ cán bộ thuộc quyền quản lý của Sở trở thành cán bộ thuộc quyền quản lý của UBND quận Hà Đông. Đùng một cái, tờ Pháp Luật nói, tháng 7/2009, ông Dàng nhận được quyết định của Ủy ban Quận với nội dung tạm đình chỉ chức vụ đội trưởng vì Quận ủy đang xem xét kỷ luật ông trong việc vi phạm chương trình thực hiện việc cưới theo nếp sống văn hóa. Ông Dàng ớ ra! Qui định của Quận ủy quận Hà Đông về “nếp sống văn hóa” là tiết kiệm một đám cưới không quá 40 mâm.

Ông Dàng khiếu nại rằng đám cưới đã hơn hai tháng, sao hồi đó không không kỷ luật ngay phải đợi đến bây giờ? Bà Đỗ thị Hữu, chủ nhiệm Ủy Ban Kiểm tra Quận Ủy Hà Đông cho biết: “Hồi đó đồng chí chưa thuộc quyền quản lý chúng tôi thì làm sao trảm được!

Báo Pháp Luật bình rằng “Chức vụ thanh tra của ông Dàng là chức vụ hái ra tiền, liệu có phải vì hai mâm cỗ cưới hay vì một lý do khác? Đá ông này đi để cài người khác vào cùng phe cánh để ăn tiền chạy chức chẳng hạn?”

Ngày 18/11/09, báo chí Việt Nam tường thuật một buổi họp Quốc Hội, khi bàn về đạo đức, Bộ trưởng Nội vụ Trần văn Tuấn điều trần rằng, “Khó chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền vì người chạy có báo đâu mà biết.”

Hỡi ơi! Cả một guồng máy của Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa mà không một ai học được gương dũng cảm, thật thà của Bác Hồ để có thể dám đấm ngực xưng tên với ông Bộ trưởng Nội vụ Tuấn rằng: “Tôi đang chạy chức, chạy quyền nè!” Buồn cho Bác biết bao nhiêu!

Có lẽ sẽ có người trách người viết chỉ được việc bới bèo ra bọ. Ba cái chuyện vặt trên chỉ là một mảng nhỏ trong dòng sinh hoạt xã hội thường ngày, đâu lại chả vậy. Trong lúc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa mới chỉ có độc lập hòa bình 35 năm thôi, hãy còn nhiều khó khăn do Mỹ Ngụy để lại. Cứ chờ đi! “Đảm bảo” 75 năm nữa Nhà nước Việt Nam sẽ chấp cánh bay cao lên tận trời xanh, sẽ dang rộng tay bơi ra biển lớn, sánh vai với các lân bang như Campuchia, Lào, Thái Lan … chừng đó thì đừng có mà mơ về lại quê hương ăn khế ngọt nhá. Đừng có hòng!

Cũng có kẻ đặt ngược vấn đề: Nếu một Nhà nước cầm quyền bởi một đảng ẹ như thế sao nó cứ sống dai như loài đĩa, mà nó lại còn có khả năng vươn bàn tay lông lá ra tận hải ngoại để quậy phá cộng đồng chúng ta xang bang xấc bất vậy?.

Câu trả lời dễ ợt! Người Việt tị nạn chúng ta, miệng thì chống cộng mà tay thì gửi tiền về nuôi chúng đều đều, mỗi năm tới 7 tỉ, 8 tỉ đô. Chúng chỉ cần bớt ra 1 tỉ, đánh trống khua chiêng, bắt dân chúng học tập đạo đức tư tưởng ông Hồ để ngu dân và duy trì chế độ. 1 tỉ dành cho Nghị quyết 36, tha hồ hô gió gọi mưa. Cái đám cỏ đuôi chó và bọn xanh vỏ đỏ lòng, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản chực chờ bưng bô, đội đĩa Vẹm lúc nhúc ở đây thiếu gì. Bọm Vẹm chỉ cần quẳng cho chúng một vé máy bay, ba bữa ăn chơi miễn phí là chúng sẵn sàng bán luôn bàn thờ tổ tiên, ông bà để ngoắc đuôi sũa theo liền. Còn lại 6 tỉ còn chúng chia nhau bỏ túi.

Khoẻ re như bò kéo xe.

Cứ cái mửng chống cộng kiểu này, Người Việt hải ngoại còn khuya mới có cơ phục quốc.

Nhưng biết đâu, tiền gửi về nhiều quá, chúng ăn mập thây, híp mắt, phì nộn ra như heo giống thằng Thứ trưởng Ngoại giao Vẹm, Nguyễn Thanh Sơn, đang quàng vai, bá cổ chú “hạ nghị sĩ” Cao Quang Ánh nhà ta, rồi bị nghẽn máu cơ tim, lăn đùng ra chết cả đám cũng nên!

Hoặc giả chúng thấy Người Việt hải ngoại càng chống cộng, càng gửi tiền về nhiều, chúng tức cười quá, cười ngất, đứt mạch máu mà chết cũng nên?

Nếu thật vậy thì Tết năm nay bà con ta làm “Vịt kìu yêu nước” về quê ăn Tết cho thật đông, mang thật nhiều tiền về để đè cho chúng chết. Một cách chống cộng êm ái mà hữu hiệu.
Nhất cử mà tam, tứ, ngũ tiện, bà con ơi! Lẹ lẹ lên! Chiều hôm tối rồi!

Nguyễn Thanh Ty



Mừng Xuân Canh Dần Sydney, Úc châu






Philippines investigates bomb chemicals in rice cargo Vietnam

Philippine authorities are investigating a cargo of rice from Vietnam that was found to have been mixed with chemicals that can be used to make bombs.

Authorities found at least 50 sacks of ammonium sulphate among a cargo of more than 70,000 sacks of rice.

Anti-illegal drugs agents initially thought the substance was an ingredient for methamphetamine hydrochloride but after tests found it to be a fertiliser which can be used to make explosives.

Agriculture officials insist they did not order fertiliser to go with the rice shipment.

The shipment arrived in the central Philippines aboard the Vietnamese vessel M.V. Trai Thien 66.

Customs officials have barred the ship from leaving port pending the investigation.

Source: http://www.radioaustralianews.net.au/stories/201001/2805760.htm?desktop


Friday, January 29, 2010

Võ Nguyên Giáp - Trần Bình Nam

Trần Bình Nam

Ông Võ Nguyên Giáp năm nay 98 tuổi. Có tin ông đang bệnh. Bệnh của tuổi già. Tôi cầu nguyện ông qua khỏi và sống vài năm nữa để đánh dấu 100 tuổi đời. Vinh dự của một đời người.

Cuộc đời của ông Võ Nguyên Giáp là một cuộc đời đặc biệt, và dù muốn dù không cũng không thể không viết về ông. Người ta nói tới ông trong ý nghĩa ông là một nhân vật lịch sử, chẳng những là lịch sử Việt Nam mà còn là lịch sử thế giới. Ông được ghi nhận như một danh tướng thế giới và là viên tướng đã đánh thắng quân đội của đế quốc Pháp trong phong trào giành độc lập và chấm dứt thời đại thuộc địa trên thế giới. Ông cũng đã dự phần không nhỏ vào cuộc đánh thắng quân đội Hoa Kỳ – một quân đội chưa bao giờ bại trận – tại miền Nam Việt Nam. Các nhà nghiên cứu Mác xít và quân sử trên thế giới một thời đã theo dõi từng lời phát biểu của ông để chắt lọc những nguyên tắc của cái gọi là “chiến tranh nhân dân” làm giàu kho tàng của chiến tranh giải phóng các thuộc địa và chiến tranh du kích.

Cuộc đời của tướng Võ Nguyên Giáp dính liền với lịch sử Việt Nam trong thế kỷ thứ 20 và thập niên đầu của thế kỷ 21. Ông dự phần lãnh đạo cuộc đấu tranh chống Pháp giành độc lập (1945-1954) và cuộc chiến tranh áp đặt chế độ “xã hội chủ nghĩa” mà ông tin tưởng vào miền Nam Việt Nam (1956-1975) như một nhà lãnh đạo chính trị (ở vị trí một thành viên của Bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam) và một nhà lãnh đạo quân sự (trong chức vụ Tư Lệnh các lực lượng vũ trang và sau này Bộ trưởng quốc phòng).

Nếu từ năm 1975, sau khi chiến thắng, nước Việt Nam vươn lên như một quốc gia hùng cường có “độc lập, tự do, hạnh phúc” như người cộng sản hứa, có lẽ không ai đặt vấn đề về cuộc đời tướng Võ Nguyên Giáp nếu không phải nhắc tới để khen ngợi, cảm phục và nhớ thương.

Rất tiếc 35 năm đã trôi qua, một thời gian đủ dài để một đất nước có tài nguyên phong phú với những con người đầy khả năng như dân tộc Việt Nam vươn lên thì trái lại thế giới thấy Việt Nam đứng trước một sự trì trệ khó hiểu: căn bản xã hội và văn hóa suy đồi, giáo dục khập khiễng, môi trường bị hủy hoại, nhân dân bị bịt miệng, nhân quyền bị đe dọa, tôn giáo bị kiểm soát và 80 triệu dân chỉ biết làm thuê. Người ta không khỏi tự hỏi tướng Võ Nguyên Giáp đã đóng góp gì cho dân tộc và lịch sử.

Cuộc đời của ông đầy nét kiêu hùng. Cuộc đấu tranh dũng cảm của ông chống thực dân Pháp giành lại độc lập cho nước nhà, những chiến tích oai hùng của ông lãnh đạo một đoàn quân vốn là những nông dân ít chữ nghĩa thành một quân đội nhà nghề ngang nhiên đụng trận với hai đoàn quân của hai quốc gia Tây phương là Pháp và Hoa Kỳ. Trận mạc có lúc thắng lúc thua, nhưng cuối cùng tướng Võ Nguyên Giáp đã thắng hai cuộc chiến.

Nhưng người ta sẽ không thể không ngạc nhiên khi nhìn sự nghiệp của ông. Cho đến giờ này những người cộng sản thuộc thế hệ thứ hai sau ông để cho ông sống yên ổn với đầy đủ tiện nghi tại thủ đô Hà Nội như một trang trí cho chế độ, và khi ông qua đời họ sẽ cho cử hành quốc táng. Nhưng từ năm 1973 ông chỉ còn là chiếc bóng khi Bộ chính trị giao binh quyền cho tướng Văn Tiến Dũng.
Sau khi Sàigòn thất thủ, tướng Võ Nguyên Giáp đã bay vào Nam chứng kiến cuộc chiến thắng ông đã góp phần, nhưng ông không còn quyền hành gì, dù ông còn ghế Ủy viên Bộ chính trị. Tiếng nói của ông không còn trọng lượng.

Theo dõi sự nghiệp của tướng Võ Nguyên Giáp, người ta thấy sau chiến thắng Điện Biên Phủ làm tên tuổi ông vang lừng trên thế giới ông bắt đầu bị những tranh chấp ngấm ngầm trong nội bộ đảng. Báo chí phương Tây nói đến ông nhiều hơn nói đến ông Hồ Chí Minh, và có thể đó là điều làm ông Hồ Chí Minh lo ngại cho địa vị của mình. Người cộng sản chủ trương đấu tranh giành quyền hành bằng vũ lực nên rất bén nhạy trong sự kèn cựa tên tuổi. Và đó là cái hạt nhân giúp giải thích sự yếu thế dần của tướng Giáp trong bộ máy quyền hành của đảng cộng sản Việt Nam từ cuối thập niên 1950. Sự xuống thang của ông từng bậc nhưng rất máy móc và khó gỉải thích nếu không xem sự đồng ý ngấm ngầm của ông Hồ Chí Minh là một lý do.

Trước hết người ta chặt vây cánh của ông trong quân đội với một loạt tướng lãnh bị bắt như tướng Lê Liêm, tướng Đặng Kim Giang với tội trạng vu vơ “xét lại chống đảng” và những cái chết mờ ám của tướng Lê Trọng Tấn, tướng Hoàng Văn Thái (“Đêm Giữa Ban Ngày” Vũ Thư Hiên, trang 279).

Vậy thật sự con người tướng Võ Nguyên Giáp như thế nào?

Ở trong nước không ai viết về ông, ngoại trừ những cuốn sách chính tướng Giáp viết nói về các giai đoạn đấu tranh ông tham gia, nhưng các sử gia nước ngoài viết về ông khá nhiều. Các cuốn sách viết về tướng Võ Nguyên Giáp đều có một hướng chung là nhìn ông như người vạch kế họach và lãnh đạo hai cuộc chiến tại Việt Nam, một chống Pháp và một chống Hoa Kỳ tại miền Nam. Thật ra đó là cách nhìn đơn giản và giản tiện cho sự trình bày mà thôi. Tướng Võ Nguyên Giáp tự do chỉ huy quân đội trong một giới hạn nào đó, nhưng lãnh đạo chiến tranh là lãnh đạo tập thể trong đó vai trò của Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và sau này của Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng không phải không quan trọng. Đó là chưa nói đến vai trò của các cố vấn Trung quốc trong chiến dịch biên giới 1950 và trận Điện Biên Phủ năm 1954.

Và trong sự nghiệp chính trị và quân sự tướng Võ Nguyên Giáp bị cạnh tranh không phải chỉ bởi người đồng hàng đồng lứa mà còn bởi một người kém hơn ông về nhiều mặt: tướng Nguyễn Chí Thanh. Cuộc tranh giành ngôi thứ trong quân đội chỉ được chấm dứt khi Nguyễn Chí Thanh bị bệnh trong căn cứ của Trung ương cục miền Nam (Cục R) được đưa về Hà Nội và chết cuối năm 1967 (TBN: cũng có tin nói Nguyễn Chí Thanh bị B-52 bỏ bom chết, nhưng chưa có tin tức quân sự hay tình báo nào xác nhận).

Từ năm 1964 khi sự kình chống giữa Liên Xô và Trung quốc do khác biệt chính sách, một bên Liên Xô ngả về khuynh hướng xét lại, chống chính sách sùng bái cá nhân và chủ trương hòa hoãn với Hoa Kỳ, một bên là Trung quốc của Mao chống xét lại, chống hòa hoãn, duy trì bằng mọi giá sự độc quyền của đảng cộng sản, trở thành công khai (TBN: sự khác biệt ý kiến phát xuất từ đại hội XX của đảng cộng sản Liên Xô năm 1956 nhưng được cả hai bên giữ kín) thì nội bộ đảng cộng sản Việt Nam chia rẽ giữa hai khuynh hướng. Tướng Võ Nguyên Giáp chủ trương theo Liên Xô. Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh chủ trương theo Mao. Cuối năm 1967 Lê Duẩn (Tổng bí thư) và Lê Đức Thọ (Trưởng Ban Tổ Chức đảng) bắt đầu lập hồ sơ bắt những người thân cận với tướng Võ Nguyên Giáp trong đó có cụ Vũ Đình Huỳnh thư ký riêng một thời của Hồ Chí Minh và người con là nhà văn Vũ Thư Hiên, cùng với các tướng Lê Liêm, Đặng Kim Giảng và nhiều sĩ quan cấp tá cố ý tìm bằng chứng kết tướng Võ Nguyên Giáp vào một âm mưu “đảo chánh” lật đổ chế độ để hạ bệ ông (Đêm Giữa Ban Ngày – Vũ Thư Hiên, trang 363). Vào thời gian công an của Lê Đức Thọ đang phanh phui tìm tội của tướng Võ Nguyên Giáp thì ông Giáp đang là một Ủy viên của Bộ chính trị, cơ quan toàn quyền của đảng!

Cuộc điều tra không đi tới đâu. Người ta nghĩ rằng ông Hồ Chí Minh muốn giới hạn uy tín của tướng Giáp nhưng vẫn che chở không để cho Duẩn –Thọ làm hại ông Giáp. Tướng Võ Nguyên Giáp giữ ghế ủy viên Bộ chính trị cho đến năm 1982, nhiều năm sau khi Hồ Chí Minh qua đời.

Tuy nhiên cuộc xuống thang của tướng Võ Nguyên Giáp rất có bài bản:

Tháng 4/1973 ông mất chức Tư lệnh quân đội.
Tháng 2/1980 ông mất chức Bộ trưởng quốc phòng.
Tháng 2/1982 ông mất chức Ủy viên Bộ chính trị.
Năm 1991 ông mất ghế ủy viên Trung ương đảng.

Những năm sau này tướng Giáp lên tiếng trong một số trường hợp như vụ Tổng Cục 2 (TC2), vụ cán bộ Đảng và Nhà nước tham nhũng, vụ bauxít cao nguyên Trung Việt, nhưng ông không hé răng vụ Trung quốc lấn chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ông nói (hay không nói) để được ăn ngon ngủ yên hay đó là biểu hiện sự trăn trở của một con người còn lương tâm tự vấn mình có công hay có tội đối với quốc gia dân tộc?

Lịch sử sẽ trả lời.

Ông Giáp sinh ngày 25/8/1911 tại làng An Xá, tỉnh Quảng Bình, con ông Võ Quang Nghiêm và bà Nguyễn Thị Kiên. Ông Nghiêm là một nhà nho từng theo phong trào Cần Vương chống Pháp. Bà Kiên sinh 8 người con, 3 người đầu chết khi còn trong trứng nước, sau đó hai con gái Võ Thị Điềm và Võ Thị Liên. Ông Giáp là con thứ sáu. Ông có 2 người em, Võ Thuần Nho và Võ Thị Lài (“Victory At Any cost: The Genius of Vietnam’s General Vo Nguyen Giap” của Cecil B. Currey, trang 5)

Từ 5 đến 8 tuổi ông Giáp học trường làng An Xá, rồi trường Tổng (Đại Phong), trường Huyện, và năm 11 tuổi ông lên học trường tỉnh. Năm 12 tuổi ông Gíáp đậu bằng Tiểu học và hai năm sau đậu thi tuyển vào trường Quốc Học Huế. Các thầy dạy tại trường Quốc Học đều là những nhà trí thức yêu nước có uy tín như các ông Ung Quả, Phạm Đình Ái, Nguyễn Dương Đôn, Nguyễn Huy Bảo, Nguyễn Thiệu Lâu (sách Currey, trang 13).

Thời gian học tại Huế ông Giáp đã nuôi tinh thần chống Pháp và thường đến thăm viếng cụ Phan bội Châu đang bị Pháp giam lỏng tại Bến Ngự. Sau một cuộc biểu tình chống một hành động độc tài của ông Hiệu trưởng tướng Giáp bị đuổi khỏi trường. Sau đó năm 1927 tướng Giáp gia nhập đảng Tân Việt (Tân Việt Cách Mạng Đảng).

Năm 1930 Giáp bị công an Pháp bắt cùng với người em Võ Thuận Nho, giáo sư Đặng Thai Mai và một thiếu nữ 15 tuổi tên là Nguyễn Thị Quang Thái (em ruột Nguyễn Thị Minh Khai). Bị kết án và cùng bị giam tại nhà tù Lao Bảo, Giáp và cô Quang Thái kết thân trong tù và yêu nhau. Năm 1932 ông Giáp và Quang Thái được ân xá.

Thay vì trở về An Xá Giáp trốn ra Vinh tìm việc làm và để gần người yêu (sau khi được ân xá cô Quang Thái trở về sống với cha ở Vinh) và giáo sư Đặng Thai Mai (sau khi được phóng thích ông Mai về dạy học tại Vinh). Tại Vinh, Giáp và Quang Thái cùng hoạt động cách mạng với Minh Khai (sinh năm 1910 lớn hơn tướng Giáp một tuổi) lúc này đã là một đảng viên tích cực của đảng cộng sản Đông Dương.

Năm 1933 ông Đặng Thai Mai ra Hà Nội dạy học tại trường Trung học tư thục Thăng Long do cụ Huỳnh Thúc Kháng làm hiệu trưởng. Giáp theo ông Mai ra Bắc và tạm trú với gia đình ông tại Hà Nội.

Thời gian ở Hà Nội, người phụ trách trấn áp các hoạt động chống Pháp là thanh tra mật thám Louis Marty theo dõi hoạt động của Giáp và giúp ông Giáp vào học trường Trung học Albert Sarraut tại Hà Nội với lời hứa bâng quơ nào đó của Giáp. Không có tài liệu nào nói rõ ý định của Marty, cũng không có bằng chứng hứa hẹn hợp tác làm việc của tướng Giáp. Nhưng giả thuyết dễ hiểu là Marty muốn giúp đỡ để mua chuộc Giáp sau này thành tài sẽ phục vụ cho chế độ bảo hộ. Còn ông Giáp thì giả như đã căn mồi để được tiếp tục học hành. Trong thời gian học tại Albert Sarraut ông Giáp là một học sinh học giỏi và ngoan ngoãn. Một trong những giáo sư dạy ông Giáp hồi đó là Gregoire Kherian vào năm 1972 tiết lộ rằng năm 1938 giáo sư Gaeton Pirou từ Pháp qua chấm thi hằng năm cho các sinh viên học ngành kinh tế chính trị đã chú ý đến sự xuất sắc của Giáp. Khi giáo sư Kherian cho biết cậu sinh viên Võ Nguyên Giáp giỏi nhưng có vấn đề với cơ quan an ninh, giáo sư Pirou ngỏ ý tạo điều kiện cho tướng Giáp qua Pháp học, nhưng tướng Giáp từ chối (sách Currey, trang 35). Điều này làm vững chắc thêm giả thuyết “giả dại qua ải” của ông Giáp đối với chương trình mua chuộc của Marty.

Tuy nhiên sau này Lê Đức Thọ đã dùng thời gian “tế nhị” này trong quảng đời hoạt động của ông Giáp để làm giảm uy tín của ông trong nội bộ đảng cộng sản khi có sự tranh chấp về đường lối của những năm 1964.

Năm 1934 tướng Giáp đổ tú tài II và xin được một chân dạy Sử và Pháp văn tại trường trung học Thăng Long trong khi tiếp tục học luật tại đại học luật khoa Hà Nội. Năm 1937 tướng Giáp đổ cử nhân luật. Ông tiếp tục vừa làm việc vừa học hy vọng lấy bằng tiến sĩ luật. Thời gian này ông Giáp bắt đầu chán đảng Tân Việt vì ông cho là thiếu kỷ luật nội bộ. Ông Giáp ngả dần về khuynh hướng cộng sản.

Chương trình làm việc của ông Giáp thay đổi một cách căn bản từ tháng 6 năm 1936 khi Leon Blum, đảng viên đảng Xã Hội Pháp đại diện Mặt Trận Bình Dân (Front Populaire – gồm liên minh một số chính đảng thiên tả trong đó có đảng cộng sản Pháp và đảng Xã Hội) tuyên thệ nhậm chức thủ tướng Pháp. Ông Giáp cho xuất bản tờ báo Hồn Trẻ. Sau vài số tờ Hồn Trẻ bị đóng cửa, ngày 16/9/1936 Giáp cho phát hành tờ Le Travail bằng tiếng Pháp. Thời gian này Trường Chinh và Phạm Văn Đồng, đảng viên đảng cộng sản Đông Dương (TBN: An Nam Cộng Sản Đảng thành lập tháng 2/1930 đổi danh theo khuyến cáo của Cominter tại Moscow. Sau cuộc đàn áp của Pháp do cuộc nổi dậy Xô Viết Nghệ Tỉnh 1930-31 đảng cộng sản Đông Dương bị tê liệt cho đến năm 1936 nhờ sự dễ dãi của Phong Trào Bình Dân mới hoạt động lại) đến làm việc với tờ Le Travail. Chinh và Đồng là hai người đã thuyết phục ông Giáp rằng muốn chống Pháp giành độc lập như ước vọng của ông thì con đường duy nhất là gia nhập đảng cộng sản. Ông Giáp trở thành đảng viên đảng cộng sản năm 1937. Ông Giáp tạo uy tín rất nhanh trong đảng cộng sản nhờ căn bản học vấn và sức làm việc.

Tháng 4/1939 ông Giáp lập gia đình với bà Quang Thái. Võ Thị Hồng Anh con gái đầu lòng của ông Giáp ra đời ngày 4/1/1940. Mùa hè năm 1939 Phong Trào Bình Dân bên Pháp sụp đổ, các cuộc bắt bớ tại Đông Dương bắt đầu. Đầu năm 1940, con gái vừa ra đời ông Giáp được lệnh của đảng cộng sản qua Trung quốc để gặp Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh).

Ngày 3/5/1940 Giáp chia tay vợ bên bờ Hồ Tây cùng Phạm Văn Đồng rời Hà Nội lên Lao Cay vượt biên qua Trung quốc.

Năm 1946 khi tướng Giáp trở về Hà Nội và An Xá để thăm gia đình Hồng Anh đã lên 6, nhưng vợ và chị vợ, bà Nguyễn Thị Minh Khai đã bị Pháp giết. Minh Khai bị bắt tháng 7/1940 tại Vinh, đưa vào Sàigòn và bị bắn ngày 25/4/1941 tại Hốc Môn. Tháng 5/1941 Quang Thái bị bắt cũng tại Vinh và đưa ra Hỏa Lò Hà Nội. Bà bị tra tấn cho đến chết (TBN: theo tin của tình báo Hoa Kỳ. Nguồn tin của Pháp nói bà Quang Thái tự vận vì không chịu nổi tra tấn).

Lần thăm quê này ông Giáp không gặp được cha. Ông Nghiêm không cho ông gặp. Giữa năm 1947 Pháp chiếm lại Huế và Quảng Bình. Tháng 8/1947 Pháp bắt ông Nghiêm đưa vào giam tại lao Thừa Thiên. Ông bị tra tấn và chết vì kiệt lực tháng 11/1947.

Tướng Giáp tục huyền với bà Đặng Bích Hà, con gái của giáo sư Đặng Thai Mai năm 1946. Bà Bích Hà sinh năm 1929, nhỏ hơn ông Giáp 18 tuổi. Bà Bích Hà có 2 gái 2 trai: Võ Hòa Bình (1951), Võ Hạnh Phúc (1952), Võ Điện Biên (1954, sau chiến địch Điện Biên Phủ), Võ Hoài Nam (1956).

Tháng 6/1940 Giáp gặp ông Hồ Chí Minh tại Côn Minh. Hồ Chí Minh gởi ông đi Dien An, chiến khu của Mao Trạch Đông sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh (1934-35) để học tập chính trị và nhất là quân sự chuẩn bị lãnh đạo lực lượng quân sự tương lai.

Sau khi Nhật đánh chiếm Lạng Sơn và Đồng Đăng và đưa thêm 30.000 quân vào Đông Dương, chủ quyền của Pháp tại Đông Dương chỉ còn trên hình thức. Nhân cơ hội Hồ Chí Minh quyết định thành lập ngoại vi đầu tiên của đảng cộng sản Đông Dương gọi là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt Minh (VM). Phần Giáp, ông cho thành lập đơn vị quân sự đầu tiên gồm 40 người tại làng Ca Ma trong lãnh thổ Trung quốc sát biên giới tỉnh Cao Bằng. Sau đó Giáp cùng Vũ Anh di chuyển căn cứ về hang Pắc Bó trong tỉnh Cao Bằng cách Ca Ma 16km. Pắc Bó được yểm trợ của đồng bào thiểu số trong vùng như người Nùng, Thổ, Mán, Tày, người Dao… Tháng 12/1940 tướng Giáp kết nạp Chu Văn Tấn, người Nùng đầu tiên và sau này trở thành một trong những tướng lãnh của quân đội cộng sản (Chu Văn Tấn gia nhập đảng cộng sản Đông Dương năm 1934). Đến cuối năm 1941 Giáp kiểm soát được 3 trong 9 quận của tỉnh Cao Bằng.

Tháng 5/1941 đảng cộng sản Đông Dương họp hội nghị mở rộng lần thứ 8 tại Pắc Bó và cử Trường Chinh làm Tổng bí thư. Tháng 6/1941 Hitler hủy bỏ thỏa ước trung lập với Liên Xô tuyên chiến với Nga. Phe Trục gồm liên minh Đức, Ý, Nhật trở thành kẻ thù của đảng cộng sản Đông Dương theo Nga. Lực lượng quân sự non trẻ của ông Giáp bây giờ ngoài nhiệm vụ đánh Pháp còn nhiệm vụ chống phát xít Nhật.

Đến cuối năm 1944, mặc dù Pháp tăng cường khủng bố, lực lượng của cộng sản vẫn phát triển và kiểm soát gần trọn 3 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn và Lạng Sơn.

Tháng 7/1944 chính phủ Vichy (chính phủ Pháp thân Hitler) sụp đổ, ông Giáp tin rằng thời điểm đã chín để gìanh chính quyền. Nhưng Hồ Chí Minh cho rằng còn quá sớm và ông giao cho ông Giáp nhiệm vụ tổ chức và huấn luyên quân đội trước khi hành động.

Ngày 22/12 Giáp hình thành đơn vị chính quy đầu tiên gồm 34 đồng chí gọi là Trung đội Trần Hưng Đạo, do “anh Văn” (bí danh của ông Giáp) chỉ huy. Thời gian này tướng Giáp tiếp xúc với OSS (Office of Strategic Services, tiền thân của CIA) của Hoa Kỳ và được sự giúp đỡ để chống Nhật. Ngày 29/3/1945 Hồ Chí Minh gặp tướng Claire Chennault (TBN: Theo Cecil B. Currey, sách đã dẫn, ông Hồ Chí Minh chỉ xin tướng Chennault một tấm ảnh có ký tặng, và sau này ông Hồ dùng tấm hình để phô trương với các đảng phái khác rằng ông đã được Hoa kỳ ủng hộ)
Về phía Pháp, năm 1942 tướng Eugène Mordant bỏ chính phủ Vichy theo de Gaulle chống Đức và được de Gaulle giao phó nhiệm vụ toàn quyền Đông Dương thay thế Decoux. Đoán trước toàn quyền Mordant sẽ tạo khó khăn cho lực lượng mình tại Đông Dương, đêm 9/3/1945 Nhật đảo chánh bắt hết tất cả viên chức và quân nhân Pháp. Sau cuộc đảo chánh Nhật chỉ kiểm soát được các thành phố lớn, nhiều tỉnh nhiều miền bỏ ngỏ và là cơ hội bằng vàng cho ông Giáp tổ chức và phát triển. Chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật dựng lên đặt tại Huế không có cán bộ và cơ sở.
Tháng 4/1945 Giáp lên Bắc Giang họp Quân ủy đảng do Trường Chinh chủ tọa và quyết định thời cơ tốt nhất để cướp chính quyền là sau khi Nhật đầu hàng.

Ngày 15/5/1945 ông Giáp làm lễ thành lập Quân đội Giải Phóng Nhân dân tại Chợ Chu thuộc tỉnh Thái Nguyên. Ngày 4/6 phong trào VM họp Hội nghị tại làng Kim Lung thuộc tỉnh Tuyên Quang (sau đổi thành Tân Trào) lấy Tân Trào làm thủ đô cách mạng và ông Giáp được chọn làm một trong 5 Ủy viên Ban Chấp Hành TW của đảng cộng sản Đông Dương.

Để chuẩn bị cuộc nổi dậy gìanh chính quyền ông Giáp tập dượt quân đội bằng các cuộc tấn công đồn Nhật và tiếp xúc với các bộ phận tình báo OSS nhảy dù xuống Tân Trào chuẩn bị cho máy bay thả dù vật liệu và quân dụng. Vũ khí của Hoa Kỳ tuy không bao nhiêu nhưng đã làm tăng uy tín của bộ đội ông Giáp đối với dân chúng trong vùng giải phóng.

Đầu tháng 8/1945 Hoa Kỳ thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Biết Nhật sẽ đầu hàng, Hồ Chí Minh cho triệu tập hội nghị tại Tân Trào thông qua quyết nghị khởi nghĩa giành chính quyền và cử Giáp chỉ huy một đơn vị quân sự về Hà Nội chuẩn bị.

Ngày 19/8 đảng cộng sản Đông Dương tổ chức một cuộc biểu tình trước nhà hát lớn Hà Nội, trong khi các đơn vị của ông Giáp tiến chiếm phủ toàn quyền quân Nhật đang giữ. Quân Nhật không chống cự. Cuối ngày 19/8 lực lượng thuộc đảng cộng sản Đông Dương kiểm sóat thành phố Hà Nội. Với khí thế đó từ 19/8 cho đến ngày 30/8 các chi bộ của đảng cộng sản Đông Dương kiểm soát hầu hết các tỉnh thành tại Việt Nam. Ngày 28/8 một chính phủ lâm thời được thành lập. Ông Giáp giữ bộ Nội Vụ. Ngày 30/8 hoàng đế Bảo Đại từ chức.

Ngày 2/9 trong một cuộc biểu tình vĩ đại tại Hà Nội Hồ Chí Minh lần đầu tiên xuất hiện trước quần chúng tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Giáp đứng bên cạnh Hồ Chí Minh.
Nhật đầu hàng, đồng minh giao cho Anh tước khí giới Nhật từ vĩ tuyền 16 trở xuống. Quân của Tưởng Giới Thạch tước khí giới từ vĩ tuyến 16 trở lên.

Tại miền Bắc, quân của tưởng Lư Hán có ý nâng đỡ các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ), trong khi trong Nam quân Anh muốn giúp Pháp trở lại Đông Dương. Tướng Anh Douglas Gracey đến Sài gòn thả tù binh Pháp (bị Nhật giam giữ) và trang bị vũ khí cho quân nhân Pháp. Pháp chiếm lại vùng Sàigòn và lục tỉnh một cách dễ dàng.

Ông Giáp thành lập Giải Phóng Quân, phát động phong trào Nam Tiến đánh Pháp.

Tuy nhiên ông Giáp sau khi đích thân kinh lý miền Nam để thúc đẩy tinh thần Nam Tiến ông trở về Hà Nội báo cáo với ông Hồ Chí Minh rằng với hỏa lực của Pháp bộ đội Giải Phóng không thể ngăn quân Pháp trở ra Bắc. Chỉ còn giải pháp giảng hòa để Pháp tạm trở lại Việt Nam để rảnh tay giải quyết mặt Bắc với quân Lư Hán và các đảng phái quốc gia đang được sự giúp đỡ của quân Trung quốc.

Từ đó có thỏa ước Sainteny-Hồ Chí Minh ký ngày 6/3/1946 đồng ý để Pháp đưa 15.000 quân vào miền Bắc thay quân Trung quốc giải giới quân Nhật và sẽ rút quân trong vòng 5 năm (TBN: Trung quốc đã thỏa thuận để Pháp thay và sẽ rút khỏi miền Bắc chậm nhất là ngày 30/3/1946 đánh đổi một số quyền lợi Trung quốc dành cho Pháp). Pháp công nhận Việt Nam là một nước “tự do”.

Sau khi Pháp đưa quân vào Việt Nam (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế, Cần Thơ và một số thành phố nhỏ khác) Pháp muốn kiểm soát vùng Thái Nguyên căn cứ địa của ông Hồ Chí Minh và hải cảng Hải Phòng để độc quyền đưa quân dụng đồng thời chận nguồn tiếp vận của Liên Xô cho quân của ông Giáp và tạo ra các cuộc đụng độ thường xuyên giữa quân Pháp và quân ông Giáp trên tuyến đường Hà Nội – Lạng Sơn và Hà Nội – Hải Phòng .

Ngày 23/11/1946 Pháp phối hợp Không quân và Hải quân oanh tạc thành phố Hải Phòng giết chết 20.000 dân (Pháp nói chỉ 6.000!) chiếm thành phố và sau đó đòi kiểm soát Hà Nội và con đường Hà Nội – Hải Phòng.

Ngày 19/12/1946 ông Giáp ra lệnh tấn công các cơ sở của Pháp tại Hà Nội và ngày 20/12 ông Hồ Chí Minh ban hành lệnh tòan quốc kháng chiến, rút chính phủ lâm thời và các lực lượng nòng cốt lên vùng Việt Bắc để cho các lực lượng tự vệ đánh nhau với Pháp tại Hà Nội. Sau 2 tháng cầm cự và khuấy phá quân Pháp, ngày 17/2/1947 đơn vị tự vệ cuối cùng rút khỏi Hà Nội lên Việt Bắc. Pháp chính thức trở lại Đông Dương.

Tháng 10/1947 tướng Pháp Jean Etienne Valluy điều động 15.000 quân mở chiến dịch Leo chia làm 3 mủi đánh vào chiến khu Việt Bắc của ông Giáp, mục đích bắt giết toàn bộ bộ phận lãnh đạo của đảng cộng sản Đông Dương. Mủi thứ nhất nhảy dù xuống Bắc Kạn chận không cho bộ chỉ huy VM chạy trốn chờ hai mủi kia. Mủi thứ hai từ Lạng Sơn tiến lên Cao Bằng bằng quốc lộ 4, sau đó theo quốc lộ 3 đánh xuống Bắc Kạn. Mũi thứ ba từ Hà Nội dùng tàu ngược lên sông Gấm rồi di chuyển bằng đường bộ theo quốc lộ 3 bọc phía Nam. Quân nhảy dù xuýt bắt được Hồ Chí Minh và Giáp tại Bắc Kạn (TBN: ông Giáp thuật lại rằng ông ta và ông Hồ Chí Minh chạy trốn quân Dù và ngồi đâu lưng nhau núp trong một bụi rậm. Lính Pháp đi lùng sục dùng mủi súng đập vào bụi rậm, nhưng tưởng không có gì bỏ đi – Currey, trang 139). Sau đó Hồ Chí Minh và ông Giáp lợi dụng bóng đêm thoát ra khỏi vòng vây. Ông Giáp bắt liên lạc với bộ chỉ huy và chỉ huy cuộc chống trả. Mủi Lạng Sơn bắt tay được với quân dù ở Bắc Kạn ngày 16/10 với tổn thất nặng nề. Sau đó hai đoàn quân rút lui theo hướng Nam và ngày 19/10 gặp đoàn quân của mủi thứ ba từ Hà Nội lên giữa đường cùng rút về.

Tháng 11 tướng Valluy cho tập trung 15.000 quân khác tung chiến dịch Ceinture (dây nịt thắt) định chiếm lại hai tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên và tiêu diệt chủ lực của ông Giáp. Lần này ông Giáp không cho quân đụng trận. Tướng Valluy không đủ quân giữ đất, tháng 12/1947 rút quân lui .

Cuộc thử lửa đầu tiên năm 1947 cho Pháp thấy khó khăn trước mắt và mang lại sự tự tin cho ông Giáp.

Qua năm 1948 quân Pháp ngưng hành quân củng cố bảo vệ vùng đồng bằng sông Hồng, trong khi tướng Giáp củng cố hậu phương.

Tháng 8/1948 trung tướng Roger C. Balisot sang thay tướng Valluy. Balisot chờ đến cuối năm mới bắt đầu hành động. Trong thời gian đó tướng Giáp cho du kích phá rối hàng rào phòng thủ đồng bằng sông Hồng và ông dùng năm 1948 để suy nghĩ tính toán kế hoạch tới.

Tháng 10/1949 Mao Trạch Đông chiếm Trung hoa lục địa, quân đội tướng Giáp bây giờ có một đồng minh lớn mà Pháp không thể mua chuộc dễ dàng như với nhà Thanh và Tưởng Giới Thạch. Quân đội của tướng Giáp được Mao trang bị và huấn luyện an toàn bên kia biên giới giúp tướng Giáp thành lập 3 sư đoàn (304, 312, 316) ở Việt Bắc, và 1 sư đoàn (320) cho miền Trung và sư đoàn pháo 351. Tướng lãnh, sĩ quan, binh sĩ mặc đồng phục không đeo phù hiệu (cho đến năm 1958). Binh sĩ đa số là nông dân tình nguyên hay bị động viên theo lệnh động viên Hồ Chí Minh ban hành ngày 4/11/1949. Quân đội của tướng Giáp từ 32 tiểu đoàn năm 1948 lên đến 117 tiểu đoàn năm 1951. Sự huấn luyện rất cam go vì binh sĩ gốc nông dân trong một nước còn lạc hậu chưa có ý niệm gì về kỹ luật tập thể và cơ giới. Đảng cộng sản thay thế nhược điểm này bằng học tập chính trị.

Về lãnh thổ tướng Giáp chia Việt Nam thành 6 Liên Khu có mức độ sinh hoạt độc lập nào đó dưới sự chỉ huy của ông. Liên khu 1 vùng Tây Bắc, Liên khu 2 vùng Đông Bắc, Liên khu 3 đồng bằng sông Hồng, Liên khu 4 bắc Trung Việt, Liên khu 5 nam Trung Việt, Liên khu 6 Nam Việt. Liên khu 6 ở xa, liên lạc khó khăn và người miền Nam ít quan hệ và hiểu tính tình của người miền Bắc nên sự hoạt động của Liên khu 6 có tính độc lập nhất.

Cuộc đấu tranh kiểm sóat đồng bằng sông Hồng trở nên gay gắt khi trung tướng Marcel Carpentier đến thay thế tướng Blaisot (9/1949). Tướng Marcel Alessandri, phụ tá tướng Carpentier là một người có nhiều kinh nghiệm về Đông Dương. Ông mở chiến địch bình định đồng bằng sông Hồng và vận động sự hợp tác của các thành phần VNQDĐ và Công giáo.

Năm 1945 đồng bào Công giáo ủng hộ Hồ Chí Minh chống Pháp giành độc lập. Nhưng đảng cộng sản Đông Dương muốn thành lập một giáo hội Công giáo độc lập do đảng cộng sản kiểm soát và không lệ thuộc Vatican nên giới Công giáo nghi ngờ thiện chí của Hồ Chí Minh. Alessandri lợi dụng tâm lý này vận động các làng Công giáo trong đồng bằng sông Hồng tổ chức tự vệ. Tướng Alessandri khá thành công trong kế hoạch nàỵ Khi tướng de Lattre de Tassigny đến thay thế Carpentier năm 1950, hầu hết các làng Công giáo trong đồng bằng sông Hồng đều trở thành khu tự trị do các linh mục địa phương quản lý. Nguồn lương thực địa phương cho quân tướng Giáp bị cắt đứt. Quân tướng Giáp phải dùng lương thực của Mao chi viện.

Năm 1950 nội bộ đảng cộng sản Đông Dương manh nha sự tranh chấp cá nhân. Sau Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, Hồ Chí Minh thăng cấp tướng cho ông Giáp và giao cho ông nhiệm vụ Tư Lệnh các lực lượng vũ trang. Trường Chinh, một đồ đề trung thành của chủ thuyết Mao phụ trách mặt lý thuyết và chính trị lo ngại ảnh hưởng của Giáp lấn lướt mình nên bất mãn và ngấm ngầm dèm pha. Chinh cho rằng tướng Giáp chưa đủ kinh nhiệm quân sự nên đề nghị với ông Hồ đưa Nguyễn Sơn làm tham mưu trưởng cho tướng Giáp. Nguyễn Sơn từng học trường võ bị tại Liên Xô, thân Trung quốc như Chinh và từng chỉ huy một trung đoàn của Mao trong cuộc Vạn lý trường chinh của Mao. Và để kềm chế thêm tướng Giáp, Trường Chinh đề nghị thiết lập một hệ thống ủy viên chính trị (gọi là quân ủy) toàn là người tin cẩn của Chinh bên cạnh các vị chỉ huy quân sự trung thành với tướng Giáp. Khó khăn của tướng Giáp bắt đầu.

Cuối năm 1950 tướng Giáp chuyển du kích chiến sang vận động chiến và dùng các sư đoàn tân lập tấn công các tiền đồn Pháp dọc biên giới Trung quốc từ Lạng Sơn lên Cao Bằng trong một chiến dịch gọi là Chiến dịch biên giới. Giữa Lạng Sơn và Cao Bằng có hai cứ điểm hỏa lực lớn là Thất Khê và Đồng Khê. Tướng Giáp dùng lực lương cấp lữ đoàn đánh chiếm Đồng Khê và tiêu diệt quân tiếp viện từ Thất Khê lên và Cao Bằng xuống. Sau 7 ngày hành quân toàn bộ lực lượng Pháp tổn thất 6000 binh sĩ và mất một số vũ khí đủ cho tướng Giáp trang bị một sư đoàn tân lập. Pháp hốt hoảng bỏ Lạng Sơn và tướng Carpentier tư lệnh lực lượng Pháp đề nghị di tản Hà Nội. Chính phủ Pháp không thuận và ngày 17/12 cử tướng de Lattre de Tassigny sang thay với nhiệm vụ giữ Đông Dương và cứu đế quốc Pháp khỏi sụp đổ.

Tướng de Lattre huy động 80.000 binh sĩ cho xây một hệ thống đồn bót nhỏ làm thành một vòng đai bảo vệ khu tam giác Hà Nội, Hải phòng, Nam Định.

Giáp thừa thắng chiến dịch biên giới tung quân vào trận với định ý chiếm thành phố Hà Nội.
Ngày 17/1/1951 hai sư đoàn 308 và 312, do khuyến cáo của Trung quốc, dùng chiến thuật biển người tấn công Vĩnh Yên với mục đích chọc thủng vòng đai bảo vệ Hà Nội. Lực lượng phòng thủ Pháp gồm một trung đoàn được yểm trợ bởi máy bay và bom napalm (do Hoa Kỳ mới viện trợ) đã chận đứng quân tướng Giáp. Chiến thuật biển người áp dụng hiệu quả tại chiến dịch biên giới không có hiệu quả tại đồng bằng nơi Pháp có công thự phòng thủ kiên cố và hỏa lực dồi dào nhất là bom napalm. Trận Vĩnh Yên, tướng Giáp thiệt 6000 quân, 8000 quân bị thương.

Mặt trận Vĩnh Yên thất bại, tướng Giáp tung hai mủi liên tiếp đánh vào mặt Đông và mặt Nam của vòng đai bảo vệ Hà Nội. Tháng Ba 3 sư đoàn bộ binh đánh Mao Khê ở phía Đông. Tháng Năm 3 sư đoàn đánh vào các thị trấn Phủ Lý, Ninh Bình và Phát Diệm ở phía Nam. Hỏa lực mạnh của bộ binh Pháp và của các đơn vị hải quân trên sông đã ngăn không cho quân tướng Giáp chọc thủng các phòng tuyến. Tại Mao Khê 3000 quân của tướng Giáp bị giết và tại mặt trận phía Nam tướng Giáp tổn thất 9000 quân.

Sau các tổn thất lớn lao này Trường Chinh (trong một phiên họp của Bộ chính trị) đề nghị cách chức Giáp. Nhưng Hồ Chí Minh không thuận (mặc dù ông Hồ Chí Minh đưa vấn đề cách chức Giáp vào nghị trình). Kết quả, tướng Giáp viết bản kiểm điểm nhận lỗi lầm, đồng ý thay thế sĩ quan đàn em bất tài và nhận cố vấn Trung quốc ở mọi đơn vị quân đội. Ảnh hưởng của Trường Chinh bắt đầu lấn tướng Giáp.

Cuối năm 1951 de Lattre de Tassigny bị bệnh ung thư chết. Tướng Raoul Salan sang thay.Tháng 11/1951 Salan đánh chiếm Hòa Bình nhưng sau nhiều tổn thất tháng 2/1952 Salan rút lui.
Sau mùa mưa, bước vào chiến dịch Đông Xuân 1952-53 tháng 10/1952 tướng Giáp mở chiến dịch Tây Bắc đánh vào phía Tây sông Hắc Giang về phía Lào theo sự gợi ý của cố vấn Trung quốc. Cuối năm 1952 trung đoàn độc lập 149 của tướng Giáp chiếm thung lũng Điện Biên Phủ trong tỉnh Lai Châu cách biên giới Lào 8 km. Trong chiến dịch Đông Xuân 1953-54 tướng Giáp đưa quân từ Vinh vượt biên giới qua Lào tấn công Thakhet và bao vây căn cứ không quân Senot và chiếm cao nguyên Bolovens ở Nam Lào.

Tháng 5/1953 tướng Navarre thay thế tướng Salan với nhiệm vụ do Paris giao phó là đạt một vài thắng lợi quân sự để có thế thương thuyết với Hồ Chí Minh.

Kế hoạch của Navarre trong chiến dịch Đông – Xuân 1953-1954 là tảo thanh cao nguyên Trung phần, liên khu 5 ở miền Trung, Liên khu 6 ở Miền Nam, bình định châu thổ sông Hồng, và xây dựng một lực lượng sẵn sàng tiêu diệt quân đội tướng Giáp tại miền núi non Tây Bắc và bảo vệ Lào. Navarre tính rằng quân tướng Giáp không thể được tiếp tế lương thực và đạn dược đầy đủ để đánh lớn và đánh lâu dài tại vùng Tây Bắc và ông sẽ có cơ hội tiêu diệt chủ lực của tướng Giáp. Tướng Navarre chọn thung lũng Điện Biên Phủ làm nơi thử lửa.

Ngày 4/11/1953 quân nhảy dù Pháp chiếm thung lũng Điện Biên và bắt đầu xây dựng một căn cứ kiên cố do đại tá de Castries chỉ huy. Trong một thời gian ngắn căn cứ Điện Biên Phủ trở thành một căn cứ vĩ đại trải dài trên hơn 9 km theo hướng bắc nam gồm 8 cứ điểm bao quanh một bộ chỉ huy với hai phi đạo bên bờ sông Nậm Yun, một con sông cạn có cầu bắc ngang và có 7000 binh sĩ chiến đấu và 4000 quân yểm trợ trấn giữ.

Trong khi công binh Pháp đang xây cất căn cứ, tướng Giáp điều động 4 sư đoàn chính quy đến vị trí. Tướng Navarre ước lượng với tiếp liệu khó khăn tướng Giáp chỉ có thể tập trung chung quanh Điện Biên Phủ tối đa một sư đoàn.

Đoàn cố vấn Trung quốc thuyết phục tướng Giáp dùng chiến thuật biển người thanh toán căn cứ trong một thời gian ngắn. Tướng Giáp thoạt tiên đồng ý và chỉ thị cho các sư đoàn của ông chuẩn bị xuất trận ngày 25/1/1954. Nhưng nhớ lại kinh nghiệm thất bại các trận đánh biển người ở Việt Trì, Mao Khê và Ninh Bình năm 1951 (TBN: và có thể ông Giáp nghi ngờ ẩn ý không tốt của đoàn cố vấn Trung quốc) tướng Giáp thỉnh ý lại với Hồ Chí Minh và đổi chiến thuật tấn công vào từng cứ điểm.

Trong khi dồn quân và tiếp liệu đến vòng đai Điện Biên Phủ tướng Giáp cho mở các cuộc tấn công vào Bắc Lào, Lai Châu, Dakto, đánh phá phi trường Cát Bí, phá hủy máy bay để vừa phân tán quân đội Pháp vừa làm yếu lực lượng Không quân Pháp.

Năm giờ chiều ngày 13/3/1954 cuộc tấn công Điện Biên Phủ bằng bộ binh mở màn sau 2 ngày pháo kích phi đạo chính. Cuộc tấn công gồm 3 đợt. Đợt đầu dùng trọng pháo làm tê liệt phi đạo chính và bộ binh tiến chiếm các cứ điểm Beatrice, Gabrielle và Anne-Marie (TBN: Castries lấy tên của tình nhân đặt cho các cứ điểm). Đợt 2 từ 30/3 đến 30/4 thắt chặt vòng vây bằng một hệ thống giao thông hào đánh vào khu trung tâm và cô lập cứ điểm Isabelle ở phía Nam. Sau cùng đợt 3 từ 1/5 thanh toán những gì còn lại. Ngày 7/5 5 giờ 30 chiều tướng Castries bị bắt, quân Pháp kéo cờ trắng. Cứ điểm Isabelle đầu hàng vào sáng hôm sau 8/5.

Trận Điện Biên Phủ kết thúc đưa đến Hiệp định Geneva chia đôi đất nước dưới áp lực của Liên Xô và Trung quốc. Cả hai đều muốn hòa hoãn với Tây phương, Liên Xô với Hoa Kỳ và Trung quốc với Pháp vì những lý do quyền lợi riêng (xem “Mao và Việt Nam” www.tranbinhnam.com Mục Bình Luận, số 304 tháng 3/2009).

Giữa năm 1954 quân tướng Giáp chính thức tiếp thu Hà Nội. Hiệp định Geneva quy định bầu cử toàn quốc để thống nhất đất nước vào năm 1956. Pháp rút vào miền Nam và rút dần về nước. Mỹ đến giúp ông Ngô Đình Diệm thành lập nước VNCH.

Chính quyền miền Nam không ký Hiệp Định Geneva nên không tổ chức bầu cử. Đáp lại, đảng cộng sản Việt Nam quyết định tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang chiếm miền Nam.

Sau Hiệp Định Geneva Hồ Chí Minh phát động lại phong trào cải cách ruộng đất do Trường Chinh cầm đầu (cuộc cải cách ruộng đất bắt đầu từ năm 1952 được tạm ngưng để bớt số người vì sợ bỏ chạy vào Nam) bằng hình thức đấu tố theo mô thức và sự hướng dẫn của Trung quốc. Cuộc đấu tố giết hàng chục ngàn địa chủ kéo dài 2 năm gieo nhiều tang tóc oan khiên cho đến năm 1956 mới chấm dứt. Ngày 10/1956 Hồ Chí Minh nhận sai lầm và mở chiến dịch sửa sai (TBN: các sử gia nghi rằng chiến dịch sửa sai chỉ là một màn kịch)

Trường Chinh mất chức Tổng bí thư và tướng Giáp được ủy thác thay mặt đảng công khai chỉ trích Trường Chinh và xin lỗi thân nhân những người đã bị giết oan. Sự chỉ trích này tăng thêm mối hiềm khích giữa tướng Giáp và Chinh. Trường Chinh, và sau này Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh đã cùng âm mưu một người một tay, một người một cách cắt cánh của tướng Giáp.

Sự xung đột giữa Liên Xô và Trung quốc sau khi Khruchev tố cáo Stalin và đả kích chính sách sùng bái cá nhân là nguyên nhân chính chia rẽ nội bộ đảng cộng sản Việt Nam.

Nguyên nhân khác là chính sách đối với miền Nam. Hòa hoãn hay chiến tranh? Và tướng Giáp là nạn nhân của các cuộc tranh chấp này.

Tháng 1 năm 1959 đảng cộng sản Việt Nam quyết định dùng chiến tranh lật đổ chính phủ miền Nam. Quyết định chính thức được công bố sau Đại Hội 3 họp tháng 9/1960 dưới chiêu bài che đậy giúp nhân dân miền Nam nổi dậy. Lê Duẩn được nâng lên hàng thứ 2 sau Hồ Chí Minh. Tướng Giáp từ thứ 4 trong Bộ chính trị tụt xuống thứ 6.

Trước đó tháng 12/1959 Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGP) ra đời tại miền Nam, và do nhu cầu giải thích với thế giới vai trò độc lập của cuộc nổi dậy, tướng Giáp không giữ một nhiệm vụ gì. Tướng Nguyễn Chí Thanh được cử vào Nam lãnh đạo trực tiếp cho đến khi Thanh qua đời.

Sau khi Nguyễn Chí Thanh vào Nam, khuynh hướng trong Bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam chia làm hai. Một do Lê Duẩn chủ trương đánh mạnh bằng lực lượng quân sự. Một do Võ Nguyên Gíáp và được sự yểm trợ của Trường Chinh chủ trương dùng du kích chiến phối hợp với công tác tuyên truyền chờ tình hình chín muồi.

Tháng 11/1963 tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Tình hình miền Nam hỗn loạn, Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh nhận định tình hình đã chín muồi để phát động chiến tranh, và dèm pha sự dè dặt lỗi thời của tướng Giáp.

Năm 1964 Hà Nội có 3 sư đoàn đóng trong vòng 80 km quanh Sàigòn và có khả năng tổ chức hành quân cấp trung đoàn trên toàn quốc. Để phá hỏng kế hoạch đánh vào Sài gòn của cộng sản, ngày 5 tháng 8/1964 Hoa Kỳ oanh tạc Bắc Việt lần đầu tiên sau khi một số tiểu đỉnh của hải quân miền Bắc bắn chiến hạm Maddox của Hoa Kỳ đang tuần hành ngoài khơi vịnh Bắc Việt với nhiệm vụ yểm trợ các cuộc đột kích của biệt kích hải quân Việt Nam đánh vào vùng duyên hải Bắc Việt.
Cuối năm 1964 tướng Giáp đưa sư đoàn 325 vào vùng cao nguyên Trung Việt định ý cắt đôi miền Trung và kết thúc chiến tranh trước khi Hoa Kỳ có thì giờ đưa quân sang. Tháng 2/1965 tướng William Westmoreland đến Việt Nam, và ngày 8/3/1965 hai tiểu đoàn TQLC Hoa Kỳ đổ bộ lên Đà Nẳng. Trước đó, ngày 2/3, tổng thống Johnson đã cho phép Không quân Hoa Kỳ mở chiến dịch Rolling Thunder oanh tạc Bắc Việt trên căn bản thường xuyên. Trong những tháng còn lại của năm 1965 quân đội Hoa Kỳ ồ ạt đến Việt Nam. Ngày 26/6/1965 tổng thống Johnson cho phép quân đội Hoa Kỳ hành quân chống quân đội tướng Giáp.

Cơ hội Hồ Chí Minh và tướng Giáp chiếm miền Nam bất thành. Ngược lại Hà Nội bắt đầu lo sợ VNCH với sự yểm trợ của Hoa Kỳ tấn công ra Bắc. Tuy nhiên tướng Giáp vẫn tìm cách thử lửa với quân đội Hoa Kỳ. Trong thời gian từ 19 đến 27 /10 tướng Giáp vây đồn Pleime của lực lượng đặc biệt. Không chiếm được đồn tướng Giáp cho rút quân qua ngã thung lũng Ia Drang và tướng Westmoreland cho sư đoàn kỵ binh không vận (TBN: một sư đoàn tân lập di chuyển hòan toàn bằng trực thăng) truy kích. Trận chiến tại thung lũng Ia Drang kéo dài 6 ngày (14-20/11) hai bên tổn thất nặng, tướng Giáp cho rút quân qua Cambốt và ông biết ông không thể trực diện đương đầu với quân đội Hoa Kỳ.

Năm 1966 tướng Giáp cho hai sư đoàn đánh qua biên giới định chiếm tỉnh Quảng Trị và uy hiếp thành phố Huế. Quân đội VNCH và một ít lực lượng TQLC Hoa Kỳ đã bảo vệ dễ dàng Quảng Trị và Huế nên cuộc tấn công không tạo được tiếng vang nào. Trả lại, tướng Westmoreland tung ra một loạt hành quân “tìm và diệt” đánh vào Bình Định, Tây Ninh và chiến khu C, nơi đặt bản doanh của Bộ chỉ huy miền Nam gây nhiều tổn thất cho tướng Giáp. Đầu năm 1967 tướng Westmoreland tiếp tục các cuộc hành quân đánh vào vùng Tam giác sắt và Chiến khu C.

Tháng Tư 1967 đảng cộng sản Việt Nam họp hội nghị trung ương thứ 13 khóa 3 lượng định rằng tình hình sẽ bất lợi cho Hà Nội nếu không có một thay đổi căn bản về chiến lược. Trên nhận định đó, Trường Chinh đề nghị – và được sự ủng hộ của Duẩn và Nguyễn Chí Thanh – tung một cuộc tấn công rộng khắp vào các đô thị miền Nam vào dịp Tết Mậu Thân đầu năm 1968 với mục đích tạo một cuộc nổi dậy. Tướng Giáp cho rằng chưa đủ điều kiện, nhưng phải chấp hành ý kiến đa số. Tướng Gíáp và Nguyễn Chí Thanh được lệnh hoạch định kế hoạch tấn công.

Để đánh lạc hướng, cuối năm 1967 tướng Giáp cho nhiều sư đòan bao vây căn cứ Khe Sanh do 6000 lính Hoa Kỳ trấn giữ. Đêm 31/1/1968 cuộc tấn công của Hà Nội do ám lệnh của Hồ Chí Minh đọc trên đài phát thanh Hà Nội chính thức bắt đầu. Tướng Giáp thất bại nặng nề, 40.000 binh sĩ bỏ mình và toàn bộ cán bộ và cơ sở của MTGP bị tiêu diệt, trong khi phía VNCH và Hoa Kỳ tổn thất 3.400 binh sĩ (Currey, trang 269). Dù vậy tướng Giáp vẫn tung ra cuộc tấn công Tết đợt II vào tháng 5/1968 để yểm trợ cho cuộc hòa đàm đang được dàn xếp tại Paris.

Chiến lược của Hoa Kỳ sau trận Tết Mậu Thân là rút dần ra khỏi cuộc chiến và giao nhiệm vụ giữ miền Nam cho quân đội VNCH (gọi là chương trình Việt Nam hóa chiến tranh).

Ngày 25/1/1969 cuộc hòa đàm Paris bắt đầu và vào tháng Tư bộ tư lệnh cộng sản miền Nam ra chỉ thị chấm dứt mọi cuộc tấn công lớn, trở lại chiến tranh du kích và phá rối.

Để yểm trợ cho cuộc rút quân tháng 3/1969 Hoa Kỳ dùng B-52 oanh tạc Bộ Tư Lệnh cộng sản miền Nam tại Cambốt. Tháng 8/1969 Hoa Kỳ bắt đầu rút quân.

Tháng 9/69 Hồ Chí Minh qua đời và bộ ba Duẩn, Đồng, Giáp nắm bộ máy lãnh đạo cuộc chiến. Tiếng nói của tướng Giáp trở nên có trọng lượng hơn (TBN: Duẩn tạm cần trí tuệ của Giáp khi không còn Hồ Chí Minh). Hội đàm Paris lằng nhằng, chiến trường Việt Nam lắng dịu trong khi Hà Nội chờ Hoa Kỳ rút quân.

Để chuẩn bị cho cuộc thư hùng sắp tới với quân đội VNCH Hà Nội xây dựng một hậu cứ vững chắc trên đất Cambốt, và năm 1970 cho quân xâm nhập sâu vào Nam Lào có ý kiểm soát sông Cửu Long làm đường tiếp vận, đồng thời đánh sâu vào vùng Angkor để bảo vệ đường mòn Sihanouk.
Với mục đích trì hoãn một cuộc tấn công lớn của Hà Nội, ngày 1/5/1970 quân đội VNCH với sự yểm trợ của Hoa Kỳ đánh vào căn cứ của cộng sản tại Cambốt và tháng 2/1971 đánh vào đường mòn Hồ Chí Minh (chiến dịch Lam Sơn 719).

Sau hai cuộc tấn công để làm trì hoãn của Hoa Kỳ và VNCH, quân đội tướng Giáp trở lại Cambốt và kiểm soát đường mòn Hồ Chí Minh. Hà Nội lượng định tình hình cho là thuận lợi, và để yểm trợ đòi hỏi của Lê Đức Thọ tại cuộc hòa đàm Paris, Hà Nội ra lệnh tướng Giáp chuẩn bị một chiến dịch lớn vào năm 1972.

Cuộc tấn công năm 1972 gồm nhiều sư đoàn với xe tăng và trọng pháo bắt đầu vào mùa Xuân đánh vào 3 vị trí: một qua vĩ tuyến đánh vào Quảng Trị, một vào vùng Kontum, Pleiku phối hợp với cuộc tấn công ở đồng bằng tỉnh Bình Định mục đích cắt đôi Việt Nam (như kế hoạch năm 1965) và một đánh vào Lộc Ninh, An Lộc phía Bắc Saigòn để uy hiếp thủ đô.

Tướng Giáp thất bại trong chiến dịch vì mở mặt trận qúa rộng, đánh quá nhiều mủi làm tổn thất 100.000 quân.

Mặc dù khi thảo luận sách lược tướng Giáp không đồng ý với cuộc tấn công tướng Giáp vẫn bị khiển trách. Tháng 4/1973 Giáp mất quyền trực tiếp chỉ huy quân đội vào tay tướng Văn Tiến Dũng. Tướng Giáp chỉ còn giữ chức Bộ trưởng quốc phòng.

Lúc này quân tác chiến Hoa Kỳ sắp rút hết khỏi Việt Nam, Hà Nội không cần tướng Giáp nữa. Tin đồn nói ông bệnh đi Liên Xô điều trị.

Hiệp định Paris ký kết vào tháng 1/1973. Hà Nội trả tù binh, Hoa Kỳ rút hết quân. Năm 1975 tướng Văn Tiến Dũng lãnh đạo chiến dịch Hồ Chí Minh chiếm miền Nam kết thúc chiến tranh ngày 30/4/1975.

Sau khi thống nhất, cuối năm 1975 tướng Giáp được Duẩn ủy thác cầm đầu một phái đoàn ngọai giao đi thăm Cuba và Algeria.

Năm 1976 tướng Giáp chỉ xuất hiện trong các buổi lễ lớn. Trong đại hội 4 của đảng tướng Giáp chỉ còn đóng một vai trò mờ nhạt. Ông được ủy thác báo cáo về khoa học kỹ thuật. Văn Tiến Dũng là người đọc báo cáo quân sự, một công việc của tướng Giáp trong suốt 31 năm qua (từ năm 1945). Trong Bộ chính trị ông bị đẩy xuống sau Lê Đức Thọ.

Sau đại hội tướng Giáp lại dẫn phái đoàn đi thăm các nước Đông Âu. Trở về ông đi công tác ngoại giao Trung quốc.

Tháng 2/1980 tướng Giáp mất chức Bộ trưởng quốc phòng, được giao phụ trách khoa học và kỹ thuật. Trong năm 1980 tướng Giáp đi công tác Liên Xô hai lần, và một chuyến thăm lục địa Phi châu kéo dài cho đến tháng 1/1981.

Tháng 12/1980 Duẩn, Thọ, Mười và Dũng chủ trương tái tổ chức bộ máy chính trị và quân sự theo mẫu Liên xô. Trường Chinh và Giáp chủ trương Việt Nam nên có thái độ trung lập giữa Liên Xô và Trung quốc mặc dù Trung quốc vừa đánh Việt Nam năm trước. Sự bất hòa này kéo dài đến tháng 2/1982 khi Duẩn có đủ hậu thuẩn trong Bộ chính trị, trong Hội nghị 5 TW đảng khóa 3, Duẩn đẩy tướng Giáp ra khỏi Bộ chính trị, chức vụ quan trọng cuối cùng của tướng Giáp.

Năm 1984 tướng Giáp được giao phó phụ trách Ủy ban dân số và kế hoạch gia đình. Năm 1988 sau khi Việt Nam đổi mới qua đại hội 6 (1986) thủ tướng Đỗ Mười giao cho tướng Giáp phụ trách giáo dục. Năm 1990 sau khi Đông Âu sụp đổ, Việt Nam làm hòa với Trung quốc tướng Giáp được cử đi Trung quốc tham dự Á vận thứ 11 tại Bắc Kinh.

Tháng 8/1991 tướng Giáp được thưởng huy chương Hồ Chí Minh, một huy chương cao quý nhất của đảng, nhưng không có nghi lễ gắn huy chương.

Sau tuổi bát tuần tướng Giáp sống trầm lặng nơi căn nhà hai tầng của chính phủ dành cho ông tại đường Hoàng Diệu. Thỉnh thoảng ông tiếp khách nước ngoài với sự chấp thuận của đảng trong từng trường hợp. Bà Đặng Bích Hà săn sóc ông.

Là một nhân vật gần như huyền thọai, nên chung quanh tướng Giáp vẫn còn rất nhiều điều chưa được giải thích.

• Năm 1946 khi tướng Giáp về An Xá thăm cha, ông Võ Quang Nghiêm không cho phép ông gặp mặt. Có phải lý do là vì tướng Giáp đã điều động cuộc tàn sát các chiến sĩ quốc gia không theo đảng cộng sản trong năm 1945, 1946 không? Ông Võ Quang Nghiêm là một người không ưa chủ nghĩa cộng sản, và hẵn là không chấp nhận cách hành xử khát máu của con mình.

• Tướng Giáp có liên hệ gì với cuộc tàn sát 5000 người ở Huế trong Tết Mậu Thân 1968 không? Một cuộc tàn sát như vậy phải có lệnh từ cấp cao, và lúc đó tướng Giáp là tổng tư lệnh chiến dịch. Rất có thể tướng Giáp đã gián tiếp ra lệnh hạ sát để trả thù cha. Năm 1947 khi Pháp trở lại miền Trung, ông Nghiệm bị bắt và bị hành hạ cho đến chết tại lao Thừa Thiên, Huế.

• Tại sao tướng Giáp quá tệ bạc với các sĩ quan và tướng lãnh thân tín như vậy?

Những tướng như Lê Trọng Tấn, Hoàng Thế Thái ủng hộ tướng Giáp đã đột tử một cách đáng nghi (Đêm Giữa Ban Ngày – Vũ Thư Hiên, trang 279) tướng Giáp không lên tiếng đòi hỏi điều tra. Và khi các tướng đàn em của ông như Lê Liêm, Đăng Kim Giang bị bắt trong vụ “xét lại chống đảng” vì bị nghi là âm mưu lật đổ tập đoàn Lê Duẩn – Lê Đức Thọ cũng không thấy ông lên tiếng bênh vực. Chính bản thân ông đang là một Ủy viên Bộ chính trị cũng bị gián tiếp điều tra và theo dõi ông cũng không một lời phản đối chính thức. Ông Võ Nguyên Giáp sợ gì? Hay ông chỉ là con hổ giấy.

• Tướng Giáp có bị bệnh ung thư không?

Thất bại trong cuộc tấn công năm 1972, và sau khi mất chức Tổng tư lệnh quân đội, tướng Giáp vắng mặt tại Hà Nội 7 tháng (từ 9/1973 đến 5/1974) và tin nói ông qua Liên Xô chữa bệnh ung thư.

Theo ông Cecil B. Curry, trong tháng 12/73 hay tháng 4/74 có một nhà ngoại giao Tây phương tình cờ thấy tướng Võ Nguyên Giáp tại một bệnh viện ung thư ở Mạc Tư Khoa. Tuy nhiên nếu dựa vào cuộc phỏng vấn tướng Võ Nguyên Giáp bởi nhà báo Pháp Berengère d’Aragon của tờ Paris Match tháng 10/1997 thì việc tướng Võ Nguyên Giáp vào bệnh viện tại Mạc Tư Khoa có thật, nhưng bệnh thật hay không vẫn còn là một nghi vấn. Hay Lê Duẩn muốn đẩy tướng Võ Nguyên Giáp ra khỏi Hà Nội để chuẩn bị người thay thế ông. Trong thời gian tướng Giáp vắng mặt trung tướng Văn Tiến Dũng được thăng thượng tướng (Currey, trang 295).

Trong cuộc phỏng vấn, tướng Võ Nguyên Giáp biết bà phóng viên từng bị trọng bệnh, ông vừa cười vừa khuyên bà: “Bà đừng có tin lời của bác sĩ. Họ là những con chim mang tin xấu cho người. Họ bảo tôi bị ung thư lá lách hay ung thư gì đó đại lọai như vậy đã 30 năm rồi. Nếu họ nói đúng thì tôi đã chết mất đất ít nhất cả chục lần rồi.” (Currey, trang 293).

Dựa vào lời nói của tướng Võ Nguyên Giáp và căn cứ vào sức khỏe hiện nay của ông gần 100 tuổi ông vẫn còn khỏe và trí óc minh mẫn người ta có thể nghiêng về giả thuyết bệnh ung thư được loan truyền của ông là bệnh chính trị do các đồng chí thân mến Lê Duẩn và Lê Đức Thọ dàn cảnh.

• Tháng 12/2007 khi Trung quốc sát nhập Hoàng Sa và Trường Sa thành quận huyện của tỉnh Hải Nam ông Giáp không một lời phản đối. Trái lại năm 1979 khi Trung quốc đánh qua biên giới phía Bắc tướng Giáp trong một cuộc phỏng vấn của báo chí nước ngoài đã kết án Trung quốc bằng những lời lẽ nặng nề rằng “đây là một hành động xâm lăng vô cùng phi lý, tàn bạo và dơ bẩn nhất trong lịch sử.” (Currey, trang 309). Cái gì có thể giải thích thái độ bất nhất sợ sệt này.

Tháng 7/1991 tướng Giáp rời khỏi chức vụ Ủy viên Trung ương đảng và chính thức nghỉ hưu, một tháng trước ngày sinh nhật thứ 80 của ông.

Thời gian nghỉ hưu ông có vẻ vẫn còn quan tâm đến việc quốc gia và từng lên tiếng chống tham nhũng, chống sự lạm quyền trong quân đội trong vụ TC2, chống chương trình để cho Trung quốc khai thác quặng bauxít ở cao nguyên miền Trung.

Những việc đó cho thấy tướng Giáp luôn trăn trở với vai trò của ông và của đảng cộng sản mà ông đã phục vụ suốt đời đối với lịch sử.

Tướng Giáp đã tiếp nối cha anh bất khuất đánh Nguyên, cự Thanh ghi Việt Nam vào lịch sử thế giới là một nước nhỏ đã đánh thắng hai cường quốc Tây phương. Cá nhân ông được ghi nhận như một danh tướng trên thế giới.

Nhưng đảng cộng sản Việt Nam đã thất bại trong công cuộc đưa đất nước đến chỗ cường thịnh và làm cho thế giới kính nể như mộng ước của tướng Giáp khi ông rời bỏ Huế để ra Thanh Hóa theo chân ông Đặng Thai Mai, người thầy và sau này trở thành bố vợ của ông tìm đường chống Pháp.
Câu hỏi chính là: tướng Giáp là con người của lịch sử hay là nạn nhân của lịch sử? Tướng Giáp có trọn vẹn làm nên lịch sử không hay chỉ là “chiếc lá giữa dòng” như bao con người khác trong đó có những người lính gốc nông dân ông lùa ra chiến trường trong những trận đánh biển người của ông?
Trong khi chờ đợi lịch sử phán xét, nếu chúng ta kéo bức tranh vẽ cuộc đời của ông để nhìn thật gần chúng ta không khỏi thấy màu u ám. Nơi ông hòa hợp cái mạnh (qua lời nói) với cái yếu (trong hành động) và tỏa ra một cái gì bạt nhược. Ông đã bỏ qua nhiều cơ hội hành động khi bị các đồng chí của ông kém tài nhưng thủ đoạn hơn cắt lông cắt cánh.

Và cuối đời hình như ông lo sợ, lo sợ cái cỗ xe ông đã dày công góp sức đóng nên sẽ nghiền nát ông như đã từng nghiền nát những đàn em thân tín của ông. Ông muốn được quốc táng!

Tướng Giáp có là một danh tướng không, hay chỉ là danh hão do báo chí quốc tế tung hô? Nhưng dứt khoát ông không phải là dũng tướng. Đó là điều bất hạnh không những cho cá nhân tướng Giáp mà còn là điều bất hạnh cho dân tộc Việt Nam.

Trần Bình Nam


CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI LÍNH TỬ THỦ AN LỘC - Phạm Phong Dinh





Phạm Phong Dinh
(Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Bão Lửa – Tri Ân những Người Lính QLVNCH)

Ngày 07.07.1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đáp xuống An Lộc tuyên dương công trạng và đặc cách thăng cấp tất cả chiến sĩ tử thủ An Lộc sau gần ba tháng ác chiến với bốn sư đoàn cộng quân 5, 7, 9 và Bình Long. Trong lúc tình hình mặt trận vẫn còn rất ngột ngạt, tuy rằng các sư đoàn địch đã lùi ra xa, nhưng không có gì bảo đảm rằng sự hiện diện của vị Tổng Tư Lệnh là không nguy hiểm cho chính bản thân ông. Tổng Thống Thiệu được đích thân Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh lái xe Jeep chở đi một vòng thành phố để quan sát những đổ vỡ của chiến tranh. Tổng Thống Thiệu đã cảm khái đứng lặng thinh bên những nấm mộ chôn vội của tử sĩ và người dân An Lộc. Chiếc xe Jeep phải chạy ngang khu bến xe An Lộc để ông có thể ngậm ngùi trông thấy được một cái nghĩa trang nhỏ, đơn sơ nhưng rất tươm tất, nơi an táng hình hài của 68 anh hùng 81 Biệt Cách Dù, mà đã được đồng đội còn sống lập nên thành.

Chiến thắng An Lộc mang một kích thước quá lớn, không còn của riêng dân tộc Việt Nam đánh bại đạo quân tiền phong của khối cộng sản quốc tế là binh đội Bắc Việt, mà nó còn là một biểu tượng của thế giới tự do đánh thắng chủ nghĩa cộng sản, là khúc dạo đầu báo hiệu sự hủy diệt cái chủ nghĩa quái thai đó 17 năm sau: Cuộc sụp đổ năm 1989 của Liên Sô và khối cộng sản Đông Âu. Tổng Thống Thiệu đã trân trọng trao tặng quân dân tử thủ ở cái thành phố nhỏ bé mà cang cường này một mỹ danh mà sẽ vĩnh viễn đi vào những trang sử dân tộc và cả quân sử thế giới: BÌNH LONG ANH DŨNG – AN LỘC ANH DŨNG. Vị Tổng Thống đã vui vẻ gọi về cho phu nhân của mình, giọng hân hoan của ông có thể được nghe rộng khắp đất nước từ hàng triệu chiếc máy thu thanh:

- Bà đừng chờ cơm tôi. Tôi ở đây ăn cơm với anh em chiến sĩ An Lộc.

Người cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đã tươi cười đứng giữa những chiến hữu của ông chụp nhiều bức hình, mà ngày hôm sau đã nằm ở trang đầu của những tờ báo Thủ Đô Sài Gòn và cả trên các báo khắp thế giới. Đó há chẳng phải là một vinh dự cực lớn mà quân dân Bình Long Anh Dũng đã xứng đáng nhận được từ chính máu xương của mình. Há chẳng phải đó là một thách thức ngạo nghễ đối với lũ âm binh què quặt của bốn sư đoàn cộng quân đang lẩn trốn đâu đó trong những cánh rừng già Miền Đông và bên kia biên giới. Há chẳng phải là một cú đấm ngàn cân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vào giữa mặt cái khối gọi là “các nước xã hội chủ nghĩa anh em”. Há chẳng phải đó mà một xác nhận cuộc chiến bại nhục nhã mà tướng tá Hà Nội dù có lật lọng đến đâu cũng phải cúi đầu câm nín hay sao.

Chiếc trực thăng phành phạch đập cánh quạt đưa Tổng Thống Thiệu và phái đoàn hùng hậu quan khách Sài Gòn ra thăm viếng đã xa dần. Nhưng đối với quân dân An Lộc, cuộc chiến đấu vẫn còn rất gian nan ở phía trước. Cộng quân đâu đã cam chịu chiến bại, các đơn vị của chúng vẫn còn lẫn quẩn bên ngoài An Lộc dội pháo quấy phá ngày đêm. Ngày 22.06.1972, các đơn vị tiền phong của Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã nhảy xuống thay thế nhiệm vụ trấn thủ An Lộc cho Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Các đơn vị Sư Đoàn 5 Bộ Binh lục tục được không vận về Căn Cứ Lai Khê, trong khi các đơn vị của Sư Đoàn 18 tiếp tục đổ vào thành phố. Vẫn còn một khối lượng công tác chiến đấu ngổn ngang đang chờ đón đoàn tinh binh tràn đầy nhuệ khí này. Đồi Gió, Đồi 169, phi trường Quản Lợi vẫn còn đang nằm trong tay quân giặc. Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo và chiến sĩ Nỏ Thần Miền Đông của ông sẽ rất bận rộn trong những ngày hành quân trước mặt. Nhưng dù thế nào mặc lòng, buổi chào cờ sáng và thượng Quốc Kỳ mỗi thứ Hai luôn được Chuẩn Tướng Đảo cho cử hành trang trọng, bất chấp địch đang pháo hay không pháo.

Trong những ngày ngột ngạt đó, phóng viên chiến trường Lưu Văn Giỏi nhận lệnh của Bộ Tư Lệnh Không Quân Việt Nam Cộng Hòa nhảy xuống An Lộc để ghi nhận những đổ nát của chiến tranh, những hoạt động âm thầm của những người lính bay Không Quân và người lính Bộ Binh, cùng quân dân An Lộc đã chiến đấu anh dũng như thế nào, đang và sẽ chiến đấu ra sao, cùng những mất mát não lòng. Anh Lưu Văn Giỏi từng là Chủ Tịch Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH Toronto, Canada nhiều nhiệm kỳ. Anh đã về hưu từ lâu và vui thú điền viên. Nhưng những thiên bút ký chiến trường ngày xưa của anh và những đóng góp của anh trong công cuộc đấu tranh chống cộng và tôn vinh Lá Cờ Vàng Đại Nghĩa cùng Những Người Lính QLVNCH vẫn luôn ghi khắc sâu trong lòng mỗi chúng ta. Bài viết Trên Vùng Trời Đất Nước của anh đã nhận được Giải Ba Cuộc Thi Phóng Sự Chiến Trường Năm 1973 của Cục Chính Huấn:

Tại Sư Đoàn 2 Không Quân, tôi nhận một công điện từ Bộ Tư Lệnh Không Quân gọi về trình diện gấp, vì nhu cầu công vụ, thời gian công tác và ngày về sẽ cho đơn vị biết sau. Một chiếc phản lực A37 đi công tác đưa tôi từ Nha Trang vào Sài Gòn. Tại Parking vãng lai, tôi thót lên “Honda ôm” trực chỉ Bộ Tư Lệnh Không Quân. Và nửa giờ sau tại đây tội nhận một sự vụ lệnh khác, thời gian và nơi đến là 8 ngày tại An Lộc. Tờ mờ sáng hôm sau, tôi có mặt trên bãi đậu trực thăng của Sư Đoàn 3 Không Quân để đi Lai Khê. Lần đi này ngoài hợp đoàn 18 chiếc trực thăng võ trang UH, còn có 6 chiếc CH 47 (loại trực thăng khổng lồ tải hàng)

30 phút ở Lai Khê

Phi trường Lai Khê là một phi trường nhỏ được dùng làm Bộ Chỉ Huy Tiền Phương, tất cả trực thăng yểm trợ cho An Lộc đều đặt ở đây để tiện đường cho quân bạn tải quân, tải hàng đến, và nhất là để thu ngắn đường chim bay đến An Lộc. Tại đây, dưới những gốc cao su già có những hàng cơm, hàng nước kiểu dã chiến, vài hoa tiêu mắc võng nằm nhai bánh mì chờ ... thời tiết.

Tôi gặp Đại Úy Đào Vũ Anh Hùng, nhà văn kiêm hoa tiêu trực thăng. Thấy tôi, Hùng hỏi:

- Đi làm hay đi chơi?

Câu hỏi ngắn và tôi cũng trả lời gọn:

- Đi làm.

Hùng moi trong túi áo bay ra một gói xôi bắp đã bẹp:

- Ăn không?

Tôi lắc đầu vỗ nhẹ tay lên bụng, trong khi anh nhìn tôi từ đầu đến chân:

- Vào Điện Biên Phủ thứ hai mà cứ y như là đi du lịch vậy? Không có áo giáp, nón sắt thì phòng không và pháo kích nó không chê bạn đâu.

Hùng chỉ chiếc máy ảnh tôi đang mang trước ngực:

- Phải có thêm một nón sắt nhỏ cho ống kính mới an toàn, nếu không thì bạn có nhiều triển vọng thất nghiệp đấy!

- Kỳ trước có một ông bạn Báo Chí lên An Lộc, khi ông ta vừa đưa máy lên ngắm thì một viên AK đã ưu ái chui vào nằm gọn trong ống kính. Cũng may là tầm đạn đã yếu nên không bị chột.

Có nhìn thấy cái cảnh phi công Việt Nam treo võng nằm tòn teng dưới những gốc cao su gậm bánh mì, cạp xôi bắp chờ phi vụ ta mới thấy thương họ. Nghỉ ngơi và ăn uống như thế mà bay như điên, bay bất kể giờ giấc và thời tiết. Có khi vừa đáp, chưa kịp nghỉ ngơi mà thấy có tên trong Phi Vụ Lệnh là lại xách nón đi bay. Cứ sáng vác tàu đi, tối vác về ... Có người đi rồi không bao giờ trở lại. Cũng có người về mà trên thân tàu lỗ chỗ đầy dấu đạn phòng không. Cũng có người khi đã đáp an toàn trên bãi đậu rồi mới biết người xạ thủ phi hành của mình đã gục đầu trên cây đại liên mà chết tự lúc nào. Cũng có khi người hoa tiêu chánh bị phòng không ngồi chết ngay ngắn trong ghế lái trong “tư thế còn sống”, cái chết thật đẹp như cái chết của một Từ Hải mà người hoa tiêu phụ vẫn cố cắn răng để nước mắt mình lăn dài xuống má, tiếp tục bay thi hành cho xong sứ mạng đã, rồi mới về. Cũng có người phải bỏ tàu giữa rừng để về bằng một tàu khác, hoặc băng rừng lội suối, rồi năm bảy ngày sau mới về với một thể xác đói khát và đầy thương tích. Ta có thể so sánh những tiện nghi cùng số giờ bay và thành tích chiến đấu một trời một vực giữa phi công Hoa Kỳ và phi công Giao Chỉ như sau:

Pilot Hoa Kỳ không biết mắc võng ở gốc cây nằm gặm bánh mì chờ phi vụ như pilot An Nam ta. Hồi tháng 4.1972, ở mặt trận Tây Nguyên, tại Bộ Chỉ Huy của tiền đồn Tân Cảnh, tôi đã thấy một Đại Úy phi công Hoa Kỳ trong bữa cơm. Ông ta đã ăn gần nửa ký thịt với bơ, sữa, hột gà, táo, nho, rồi mới bước lên chiếc trực thăng võ trang Cobra mà cất cánh, trong khi hoa tiêu Giao Chỉ cũng trước một phi vụ nhưng chỉ ... “thổi hết một cái kèn bằng bột”, rồi ngửa cổ ừng ực nước lã trong bi đông, xong ... cuốn võng leo lên ghế lái, bay vù vù, bay như điên. Về số giờ bay và thành tích, ta có thể so sánh thật thà như sau: “Chiến trận Hạ Lào chính thức khai diễn ngày 08.02.1971, trong 29 ngày đầu tại đây, người Mỹ có số giờ bay cao nhất là một Thiếu Tá, 80 giờ. Trong khi đó, phi công có số giờ bay cao nhất là Trung Úy Dương Đức Ngọc, thuộc Không Đoàn 62 Chiến thuật, Sư Đoàn 2 Không Quân, 168 giờ. Người Mỹ đánh nhiều chiến xa nhất, một Trung Úy phi công phản lực, 3 chiếc. Trong khi đó Trung Úy Dương Đức Ngọc đánh 17 chiếc T54. Số giờ bay và thành tích đó đã làm vẻ vang về tinh thần chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bên cạnh quân đội đồng minh tại Hạ Lào. Trong trận này, Ngọc cũng là người lãnh đạn phòng không nhiều nhất. Một lần phi cơ anh đứng một chong chóng, phải đáp ở Đà Nẵng lúc 23 giờ 30, 3 lần khác bị gãy cánh trái và cánh đuôi, nhưng lúc bấy giờ thời tiết ở Việt Nam không cho phép, nên anh phải dẫn tàu qua Thái Lan đáp trên phi trường Nakhom – Phakhom. Sự so sánh thật thà trên đã là một chứng minh cụ thể cho ta thấy tinh thần chiến đấu cao độ của người lính Việt Nam trên đất nước nghèo nàn này.

Đồng hồ tay chỉ 7 giờ 45, trời vẫn còn xấu. Các hoa tiêu có vẻ sốt ruột, họ tụm năm tụm ba ngồi đấu láo với nhau, nói chuyện thời tiết, nói chuyện phi vụ hôm qua, chuyện hào hoa, lả lướt đêm rồi và bàn với nhau cho phi vụ sắp tới. Một nhân viên của toán Điều Không đến nói với Hùng:

- Cứ cất cánh, vì An Lộc đang chờ.

Tôi đứng dậy nhưng không đi với Hùng, vì anh bay tàu C and C (Hướng dẫn C and C = Command and Control và chỉ huy, không đáp). Tôi theo chân một hoa tiêu ra chiếc võ trang đậu ngoài bãi. Tại đây, lương thực, vũ khí, đạn dược và chiến sĩ đổ bộ đã chờ sẵn. Tôi đi chiếc tàu tải đạn. Mười phút sau tất cả những chiếc trực thăng tại đây đã bốc khỏi mặt đất và ... trực chỉ An Lộc. Trên đường từ Lai Khê đến An Lộc trần mây thật thấp, sương mù còn thật mù, họ phải để đèn báo hiệu cho khỏi đụng nhau trên trời. Ngồi trên trực thăng nhìn chung quanh những chiếc võ trang đang lù lù bay theo, tôi có cảm tưởng như đây là một đàn ong khổng lồ bị vỡ tổ và đang di dân. Sau vài phút bay, đến một nơi quang đãng hơn, dưới mắt tôi ruộng đồng xơ xác, những hàng tre cháy xém, những hố đạn, hố bom cày nát trên ruộng đất bỏ hoang ...

Nhảy xuống An Lộc

Người xạ thủ phi hành ghé váo tai tôi:

- Anh có xuống không?

Tôi gật đầu. Anh ta lại nhìn tôi với vẻ ái ngại như thầm hỏi tôi sao không có áo giáp và nón sắt, nhưng ... tôi lờ đi. Bỗng anh khom lưng chỉa mũi minigun xuống đất bấm cò. Những hồi đạn rú dài như ... bò rống. Tôi thấy ... rức tim khi những vệt lửa từ dưới xẹt lên quanh phi cơ. Xung quanh tôi, năm chiến sĩ bộ binh thuộc Sư Đoàn 18 cũng ... lên đạn. Tôi cũng nhét vội băng đạn vào khẩu Colt của mình cho vững bụng. Đang bay, tàu bỗng xà xuống đột ngột rồi bất ngờ đáp vội trên Quốc Lộ 13, “càng” chưa chạm đất, mấy quả đạn pháo kích đã ào ào bay tới rớt quanh đó làm gãy mấy cây cao su. Tôi nhảy vội theo năm chiến sĩ rời thân tàu và lăn tròn qua mặt lộ nằm gọn dưới một hố bom. Chúng tôi chưa kịp xô hàng xuống, thì tàu đã bốc vội lên cao bay mất hút, một trái dạn khác rớt ngay chỗ phi cơ vừa đáp làm banh xác cái ba lô vô tội của một chiến sĩ vừa quăng xuống. Mấy bịch gạo xấy tung tóe trắng mặt đường. Tôi nằm dưới hố bom mà thầm nghĩ: “Người Mỹ đã dạy cho người Việt biết đánh giặc bằng trực thăng, nhưng còn lâu sự khôn lanh của họ mới bằng sự nhanh nhẹn của người Việt Nam và ... có lẽ chừng nào người Mỹ biết ăn trầu, thì họ mới có đủ được kinh nghiệm của chiến trường Việt Nam. Vì nếu lơ mơ không bốc lên kịp, thì chiếc trực thăng kia với một núi đạn 81 ly trong đó sẽ lãnh đủ trái đạn pháo vừa rồi.

Tôi nhìn theo chiếc trực thăng đã mất hút ở cuối bìa rừng cao su, như hiểu ý, một người nằm gần nói với tôi:

- Cứ nằm đây chờ, chút nữa hết pháo họ sẽ đến.

Tôi hỏi lại:

- Nhỡ đến mà nó pháo nữa thì sao?

Anh ta thản nhiên:

- Trúng thì rớt, không trúng thì bay đi.

Sau câu nói này, tôi nhớ lại cái chết của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Nhàn thuộc Phi Đoàn CH47 của Sư Đoàn 3 Không Quân trước đây một tuần tại mặt trận An Lộc. Trong một phi vụ tiếp tế, tàu của Nhàn bị trúng phòng không, bạn bè bay theo bảo anh rời vòng chiến ngay và đáp ép buộc chờ trực thăng võ trang cứu. Nhưng anh đã trả lời:

- Biết rồi, để thả hết hàng cho họ đã. Họ bị thiếu tiếp tế từ mấy ngày nay, không lẽ mình vượt bao nhiêu màn lưới phòng không mới vào được đây, mà bây giờ lại ra sao?

Anh chỉ trả lời như thế rồi tiếp tục vào vòng yểm trợ. Khi số hàng còn lại trên tàu vừa thả được xong, thì cũng là lúc chiếc CH47 anh đã nằm gọn trong màn lưới phòng không. Thiếu Tá Mai là bạn của anh bay gần đó đã nghe được những lời cuối cùng của anh qua hệ thống vô tuyến: “Hàng thả hết rồi, nhưng tất cả hệ thống điều khiển trong phòng lái đã ngưng hoạt động. Bây giờ tao đáp ép buộc đây, tụi mày hãy theo tao cover thật kỹ và pick-up thật nhanh ... “. Nhưng không còn kịp nữa, anh vừa nói xong thì chiếc trực thăng đã như một bó đuốc khổng lồ từ trời cao rơi xuống nổ tung trên mặt đất, và anh đã chết theo tàu ... Tôi và các chiến sĩ vẫn nằm trốn đạn và chờ trực thăng đến. Quanh đó, vài chiến xa T54 nằm chỏng trơ, vài chiếc khác nằm chúi đầu xuống những hố bom, phía sau tôi là rừng cao su trùng điệp. Trong phút chốc tàu bốc vội lên mây, mất hút ở cuối một khúc quanh của con lộ 13. Vài tràng đạn AK đuổi theo, mấy quả đạn pháo kích khác rớt quanh đó như xé gió phá rừng, những thân cây lại thi nhau gãy rôm rốp. Mấy thùng đạn vừa được đem xuống vẫn còn nằm trên quốc lộ. Một anh kéo tôi đi nơi khác:

- Hãy tránh xa đống đạn này, đạn pháo kích mà nó rớt vào đây thì ... bỏ bu.

Từ hướng Xa Cam, một đoàn người gồng gánh, bồng bế nhau chạy loạn về hướng chúng tôi. Tức thì mấy quả đạn pháo kích được câu đến từ Đồi Gió rớt vào giữa đám dân chạy loạn này, gây vô số người chết, vô số người bị thương. Có những người bị thương cách đây vài giờ lại bị thương nữa. Có những người sắp chết, muốn được chết cho rảnh tay người thân chạy nạn, thì bây giờ được chết. Trong số những người chết này, một cảnh tượng thật thương tâm đã xảy ra ngay trên bìa rừng cao su An Lộc. Một người mẹ bồng đứa con khoảng sáu tháng bị mảnh pháo phá vỡ khuôn ngực và bà ngã ra chết liền tại chỗ. Đứa nhỏ không chết, cũng không bị thương, nó bò trên bụng mẹ khóc thét lên trong sự hãi hùng. Khóc mệt, nó lại gục đầu vào ngực mẹ nó mà bú. Một người khác cũng dân chạy loạn đến bế nó ra, thì mặt mũi của đứa bé bê bết máu của mẹ nó và trong mồm nó cũng có máu, mà có lẽ nó tưởng đó là chất sữa nên đã hút vào. Một lúc sau đứa bé cũng chết luôn trên tay người bế nó.

Một cảnh tượng khác mà tôi cũng không làm sao quên được. Một đứa bé gái khoảng13 tuổi mù hai mắt, gầy yếu xanh xao, cõng thằng anh nó khoảng 15 tuổi trên lưng, bị cụt một chân. Đứa nhỏ mù mắt cõng đứa lớn cụt chân. Đứa cụt chân ngồi trên lưng đứa mù mắt để chỉ đường mà chạy trốn Việt cộng. Trong xách tay tôi còn hai ổ bánh mì mua hồi sáng ở Lai Khê, tôi lấy đưa cả cho anh em nó. Trước đây tôi đã được đọc những câu in trên bích chương dán ở thành phố: “... Pháo kích bừa bãi, giết hại dân lành, nhà cháy người chết, thù hận này biết đến bao giờ mới nguôi ngoai trong lòng người dân Việt ... “. Dạo đó tôi đã nghĩ rằng những câu này chỉ là về phương diện chính trị thôi. Nghĩa là Việt cộng xuyên tạc mình thì mình xuyên tạc lại. Nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu đó là sự thật, một sự thật mà không thể đội trời chung với bọn người dã man đó được, và tự nhiên trong lòng tôi thấy dâng lên những thù hận ngút ngàn. Thật tình mà nói, trước khi bước vào An Lộc, tôi đã thầm nghĩ: “Mình chỉ chết khi bị trúng đạn, chứ nếu đối diện gần thì trên ngực áo tôi có hai chữ Báo Chí “nó” không giết đâu mà sợ, cao lắm thì chỉ bắt sống là cùng. Nhưng bây giờ thì tôi không còn nghĩ như thế nữa. Trước mặt tôi, chung quanh tôi, những người dân vô tội đang thương vong la liệt. Tôi sờ tay vào hông, khẩu Colt vẫn cồm cộm. Tôi quyết định: “Nếu đêm nay còn phải ở đây mà rủi gặp bọn chúng, thì dù thế nào tôi cũng đẩy về hướng chúng 6 viên và còn lại là cho tôi, chứ nhất định không để bị bắt sống. Nghĩ đến đây, hình ảnh vợ con tôi tại trại gia binh lại hiện ra, tôi thấy nhói trong lòng.

Từ xa có tiếng đập phần phật của trực thăng, rồi trong phút chốc 8 chiếc lượn sát những ngọn cao su và cũng bất thần đáp dài trên quốc lộ, trong khi đạn pháo kích của Việt cộng tiếp tục rải dài theo hai bên bìa đường. Các chiến sĩ đổ bộ thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh lẽ ra khi nhảy xuống thì họ di tản, nhưng họ đã đến phụ khiêng xác chết và người bị thương lên phi cơ xong mới đi. Tôi ngồi tựa lưng vào xích của một chiếc T54 bỏ hoang nhìn theo mấy chiếc trực thăng đang bốc vút về hướng Lai Khê mà trong đó có gần 100 người dân vô tội vừa chết, vừa bị thương, vừa kinh hoàng ... Cộng sản Bắc Việt vừa sát hại xong dân lành vô tội bằng công cụ giết người của chúng, thì Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đến mang những người dân đó về nơi an toàn ... Từ hướng Chi Khu An Lộc, một chiếc Jeep mui trần chở gần 20 đồng bào tiến về hướng bãi đáp trực thăng. Tôi quá giang chiếc Jeep này vào Chi Khu và tại đây tôi được gặp Đại Úy Lê Văn Vẫn, Chi Khu Phó Chi Khu An Lộc. Đại Úy Vẫn cho biết ông là người ở đây lâu nhất (bốn đời Quận Trưởng đã thay phiên nhau) từ năm 1964. Và bây giờ ông nhất định ở đây chiến đấu đến hơi thở cuối cùng chứ không đi đâu hết. Ông kể tiếp:

- Ngày mặt trận An Lộc mở màn có 6 chiếc trực thăng của Sư Đoàn 3 Không Quân đến đáp vào Chi Khu để đưa gia đình của quân nhân tại đây rời An Lộc. Tôi chạy vào hầm trú ẩn nói với vợ tôi: “Có trực thăng đến, em mau đưa các con về Sài Gòn, ở đây nguy hiểm lắm. Khi nào êm, anh sẽ về đưa mẹ con em lên. Nhưng vợ tôi nhứt định không chịu và trả lời: “Mẹ con em về nơi an toàn, ở đây rủi anh chết thì mẹ con em sống với ai ? Em xin được ở lại đây cùng sống chết với anh”. Trong lúc đó vợ con của anh em quân nhân tại đây đều đã nhất loạt trả lời như thế, nên cuối cùng sáu chiếc trực thăng phải rời Chi Khu mà không có đàn bà trẻ con nào theo ... “

Sau câu nói của Đại Úy Vẫn, tôi chợt nhớ lại gương liệt nữ Phạm Thị Thàng cách đây đã lâu. Chị Thàng là vợ của một chiến sĩ Nghĩa Quân. Chị và các con đều sống chung trong công sự chiến đấu của chồng trong làng. Một đêm nọ Việt cộng công đồn, chồng chị bị trúng đạn, chi thay chồng tung mấy chục trái lựu đạn vào đám Việt cộng khi chúng tấn công bằng biển người. Nhưng đến quả cuối cùng, bọn chúng quá gần nên chị đã chết chung với thêm mấy tên Việt cộng nữa bằng quả lựu đạn đó. Bây giờ vợ lính ở An Lộc cũng đã noi gương chị Thàng không chịu đi Sài Gòn ở lại tử thủ: sống chết với chồng con tại An Lộc. Đại Úy Vẫn tiếp:

- Sáu chiếc trực thăng vừa bốc lên thì một chiếc bị trúng đạn và rớt ngay bên ngoài vòng đai Chi Khu rồi bốc cháy. Chúng tôi nhìn theo mà đã khóc lúc nào không hay. Anh em Không Quân đã vì sinh mạng gia đình chúng tôi mà phải chết, tôi kính trọng và nhớ ơn nghĩa cử của quý anh em đó lắm. Cuối cùng tôi quyết định cho một trung đội mở đường máu ra cứu phi hành đoàn, nhưng cũng không kịp. Khi trung đội trở vào thì ... chỉ còn phân nửa quân số, bởi lúc bấy giờ chiến xa Việt cộng quá nhiều. Rồi hai hôm sau, trại gia binh của chúng tôi tại đây cũng bị pháo kích nặng, hơn tám chục phần trăm gia đình của quân nhân chết và bị thương ...

Gà trống nuôi con

Trong khi ngồi tiếp chuyện với tôi tại một căn hầm dã chiến được đào sâu dưới mặt đất, trước mặt tôi là Đại Úy Vẫn, quanh đó khoảng năm, bảy chiến sĩ mà mỗi người đang có vài em bé quấn qúit bên cạnh. Đại Úy Vẫn xoa đầu một bé gái khoảng 4 tuổi:

- Tôi có năm đứa, bây giờ chỉ còn mình nó, anh chị nó chết hết rồi, má nó cũng chết, ông nội bà nội, ông ngoại bà ngoại nó cũng chết trong trận pháo kích đó...

Ông chỉ những đứa bé đang đứng cạnh mấy chiến sĩ quanh ông:

- Đấy anh xem, bây giờ ở đây cái cảnh gà trống nuôi con rất nhiều. Cha mẹ và vợ con chúng tôi đã vì chúng tôi mà chết tại đây, nên chúng tôi đã thề tử thủ tại đây đến hơi thở cuối cùng, dù có được đổi về Sài Gòn cũng không đi. Nếu một ngày nào đó mà anh gặp lại một trong những khuôn mặt của chúng tôi tại đây trên một địa danh an toàn nào đó không phải là An Lộc mà lúc đó chúng tôi còn tại ngũ thì ... anh có quyền giết chúng tôi, nếu không phải là Lệnh hay Chỉ Thị cho chúng tôi rời An Lộc. Hôm nay anh là người Báo Chí của Không Quân đầu tiên đến đây, tôi xin được đại diện các chiến sĩ tử thủ An Lộc gửi đến anh em Không Quân, nhất là những phi hành đoàn đã lái tàu bay vào Chi Khu với ý định đưa vợ con chúng tôi đến nơi an toàn, những lời thành thật muôn đời nhớ ơn của chúng tôi, mặc dù vợ con chúng tôi không đi và ... đã chết.

Những chiếc vòng tử thủ

Nói đến đây Đại Úy Vẫn gỡ trong tay của ông ta ra 3 chiếc vòng trao cho tôi:

- Tất cả những chiến sĩ tử thủ tại đây mỗi người đều có mang ba chiếc vòng này và chúng tôi đã đặt tên là ... vòng AN LỘC TỬ THỦ. Nay tôi xin tặng anh để làm kỷ niệm ... Anh là người thứ hai, sau Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa mà chúng tôi tặng ba vòng này.

Một Thiếu Úy ngồi gần đó nhìn Đại Úy Vẫn rồi nói với tôi:

- Anh có viết bài thì nhớ nói là Thiếu Tá, vì ổng lên lon gần hai tháng nay, nhưng từ đó đến nay ở đây không ai bán “lon” mà mua nên ... ông Vẫn “vẫn” mang “lon cũ”.

Tôi nhìn Đại Úy Vẫn như thầm hỏi lại: “Có đúng thế không ?“. Thiếu Tá Vẫn gật đầu:

- Đúng vậy.

68 Ngày tử thủ An Lộc không lãnh lương

Cũng tại đây, tôi gặp một chiến sĩ còn rất trẻ, anh ta tâm sự với tôi như sau:

- Em là Binh Nhất Lê Nhâm Thình, quân nhân Không Quân, thuộc Sư Đoàn 2 Không Quân tại Phù Cát, kỹ thuật phi cơ loại C 7A. Về phép thăm nhà hôm 28.3.1972 rồi bị kẹt lại đây đến bây giờ. Trọn gia đình em bị pháo kích chết hết rồi, chỉ còn lại một người anh đang tại ngũ tại An Lộc này thôi. Đã nhiều lần em muốn ra đón tàu để về lại với Không Quân, nhưng còn ngại sẽ bị rắc rối về an ninh nên chưa dám. Tính đến nay là 68 ngày, trong suốt thời gian này tại đây em đã chiến đấu như một chiến sĩ Bộ Binh thật sự, nhưng chỉ ăn nhờ cơm gạo sấy của anh em ở đây thôi chứ không có lãnh lương. Em có lấy được một AK của tên Việt cộng mà em đã bắn chết nó. Hôm nào về Sài Gòn, nhờ anh trình lên Bộ Tư Lệnh Không Quân, nếu không bị rắc rối, anh viết thư về đây, KBC 6995, lúc đó em sẽ bằng đủ mọi cách về trình diện đơn vị ...

Buổi chiều, tôi có dịp vào thị trấn An Lộc. Phố xá thật tiêu điều, những căn nhà không người trơ vách, những tuyến kẽm gai quanh Chi Khu cháy cong queo. Đó đây một vài xác trực thăng cháy xụm, những chiến xa đứt xích nằm chỏng chơ như quái vật không đầu, vài chiếc khác chúi mũi xuống những hố bom, một chiếc dù màu trắng đỏ phất phơ theo chiều gió trên ngọn cao su. Những chiếc dù tải hàng còn vương vãi theo hai bên quốc lộ, trên mặt con lộ 13 những hố đạn, hố bom sâu hoắm. Những vỏ đạn đủ cỡ, đủ loại nằm ngỗn ngang, những thân cây cao su cháy đen ngã gục. Trong vòng đai Chi Khu, một bức tường dầy và cao lổ chổ đầy vết đạn lớn nhỏ mà phía trên còn đọc được ba chữ “QUẬN AN LỘC“. Gần đó, một vách tường khác có dấu hồng thập tự với ba chữ “TRẠM CỨU THƯƠNG“, phía sau là một trường tiểu học bị tróc nóc. Xa hơn một chút là trại gia binh An Lộc cũng đã điêu tàn. Bước ra phía ngoài, một xe Honda bốn bánh nằm lật ngang, bên hông có cẩn thận ghi hai chữ thật lớn “XE NHÀ” bằng sơn màu trắng và ... một chữ “BINH ” viết bằng đất đỏ An Lộc. Tôi thầm cười, trạm cứu thương, trại gia binh, nhà thờ, chùa chiền và đàn bà trẻ thơ vô tội còn phải lãnh đạn pháo kích của “quân giải phóng”, thì ... “Xe Nhà Binh” sức mấy mà thoát khỏi, sao không đề là ... “XE CỦA QUÂN GIẢI PHÓNG“. Tôi đâm ra phục lối chơi chữ hay hay của người nào đó đã viết thêm chữ “BINH“ sau hai chữ “XE NHÀ“ này.

Châu chấu đá voi

Cách cổng vào Chi Khu An Lộc khoảng hai cây số, một chiếc xe cần cẩu của tư nhân màu vàng nằm chắn ngang một nửa mặt con lộ 13, một chiếc khác nằm trơ bánh lên trời dưới mé lộ. Được biết, trong những ngày đầu sôi động của An Lộc, khổ chủ hai chiếc xe trên đã tình nguyện đem ra cho “đâu đít lại với nhau” nằm chắn ngang lộ, với ý định không cho chiến xa của Việt cộng vào thị trấn An Lộc thân yêu của họ. Vì họ đã nghĩ rằng, một khi mà chiến xa của Việt cộng vào được trong thị trấn thì dù cho xe cần cẩu của họ có để trong nhà cũng không còn. Nhưng ... kết quả T54 của Việt cộng là voi, mà xe cần cẩu của họ là châu chấu!

Thoát chết nhờ lối tuyên truyền láo của Việt cộng

Gần vòng đai Chi Khu vài chục thước, mấy chiếc T54 nằm quay đầu ra bất động. Hỏi, thì một chiến sĩ cho biết như sau:

- Dạo đó, khi An Lộc bị thất thủ, hàng chục chiến xa Việt Cộng đã phây phây đi vào và các tay xạ thủ cũng đã phây phây ngồi hẳn phía trên xe. Chúng tôi lúc đó chỉ còn hơn đại đội, nấp dưới những hầm hố, không dám bắn trước. Nhưng chúng tôi lấy làm lạ, không hiểu tại sao những chiến xa này không khai hỏa mà chỉ vào đậu đó, xong chạy vòng vòng, thật chậm như có ý tìm kiếm rồi quay ra và ... khi chúng quay đầu xe ra, bọn tôi xách M72 chạy theo hạ hết. Thứ này mà bắn vào đứt xích là nằm liền. Các trưởng xa và xạ thủ thoát khỏi xe cũng bị chúng tôi hạ luôn, có vài tên bị chúng tôi bắt làm tù binh và chúng cho biết: Sở dĩ khi chúng đưa xe vào tận đây mà không khai hỏa, vì trước khi vào đây, cấp chỉ huy đã cho chúng biết, hiện An Lộc hoàn toàn do quân giải phóng kiểm soát và ... làm chủ tình hình, nên chúng vào và cứ tự nhiên ngồi trên nóc xe như “người quân nhân trở về đơn vị” và chạy vòng vòng là có ý đi tìm “đồng chí”. Đến khi tìm mà không gặp được đồng chí nào hết nên mới lừng lững quay ra, và khi quay ra thì mỗi chiếc bị lãnh vài viên M72 từ mặt hậu rồi đứt xích luôn không thể quay đầu lại. Bởi thế mà anh thấy những chiến xa quanh vòng đai này phần đông đều quay đầu ra. Còn những chiếc khác xa xa thì lại quay đầu vào, những chiếc này hầu hết là lãnh bom và rocket từ phi cơ.

Nghe xong câu chuyện, tôi thầm nghĩ: “Bọn cộng sản Bắc Việt ngoài lối thí quân, nướng quân bằng những cuộc tấn công biển người ồ ạt của chúng, mặc cho hỏa lực khủng khiếp từ phi cơ ta “làm cỏ”, nay chúng có thêm một lối “nướng quân” bằng cách tuyên truyền láo với quân sĩ thuộc quyền. Bởi nếu chúng không nói láo với quân sĩ của chúng thì anh lính này đâu còn sống đến ngày nay để kể lại giai thoại “chiến xa Việt cộng phây phây vào sào huyệt ta đi tìm “đồng chí”, để rồi khi quay đầu ra vừa khỏi vòng đai, thì ... nằm đây luôn đến bây giờ. Trong lúc vui miệng anh lại kể cho tôi nghe thêm một vài chuyện khó tin, nhưng tại đây lại ... có thật.

Trong thời gian tử thủ bệnh táo bón rất quý

Có những lúc bên ngoài nó pháo rát quá, hầm trú ẩn thì nhỏ, mà anh em lại quá đông, đôi khi muốn đi cầu lại ngại lãnh đạn, nên chúng tôi cứ ... “cố nín, cố nín”. Đến khi không thể nín được mà bên ngoài vẫn còn pháo, thì dùng ... lớp trong của nón sắt làm cái “bô”. Xong, đứng ở miệng hầm liệng ra ngoài. Có người chỉ mới hai ngày đã liệng luôn cả hai lớp của nón sắt, nên ở đây mà trong thời gian đó ai có được cái bệnh táo bón là quý như vàng, thảnh thơi lắm. Mà tóm lại trong thời gian đó, người nào có táo bón mấy đi nữa thì cũng phải có một lần “liệng nón sắt”.

Một giai thoại khác: “TẮM BẰNG MỒ HÔI“, vì tại đây nước rất quý, quý hơn vàng, có khi phải dùng đến nước tiểu để làm “nở cơm sấy” khi ăn. Có nhiều người chịu không nổi phải bịt cả hai lổ mũi, nhai sơ rồi nuốt vội như cố “tống cơm vào bao tử” cho xong để có sức mà ... tử thủ nhưng không dám ăn nhiều, vì nếu ăn nhiều thì trời sẽ không cho được cái bệnh táo bón. Bởi nước quý như vàng, nên trong thời gian đó lúc nào thấy êm, ai muốn tắm thì cứ cử tạ bằng cách bưng một thùng đạn nặng trịch đưa lên, đưa xuống cho đổ mồ hôi. Xong cởi ngay quần áo ra ... ung dung ngồi kỳ đất trên da nở ra và rất dễ ... “TẮM BẰNG MỒ HÔI“.

Phạm Phong Dinh