Thursday, May 5, 2016

Giám mục Vintcent Nguyễn Văn Long: Vai trò của tôn giáo trước hiện tình đất nước


Ngày 28.04 vừa qua Đức Cha Vinhsơn Nguyễn Văn Long, Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Melbourne, Úc, đã có một bài nói chuyện với cộng đồng người Việt hải ngoại nhân dịp “Tưởng Niệm Tháng Tư Đen”, do Quỹ Yểm Trợ Đấu Tranh cho Nhân Quyền Việt Nam tổ chức tại nhà hàng Seafood Palace, thành phố Westminster.

Giám mục Vintcent Nguyễn Văn Long:
 Vai trò của tôn giáo trước hiện tình đất nước

Kính thưa quý vị đại diện lãnh đạo các tôn giáo, các tổ chức và quý đồng bào,

Hôm nay, tôi rất hân hạnh được đến Thủ Đô của người Việt tỵ nạn trên thế giới, một nơi tuy không phải là quê cha đất tổ của chúng ta, nhưng nó mang đầy sắc thái của một tổ ấm của đàn chim Việt đang tản mác khắp bốn phương trời. Với cái tên Sài Gòn nhỏ, với những lá cờ vàng ba sọc đỏ tung bay ngạo nghễ, với những sinh hoạt văn hóa truyền thống và lịch sử trong một môi trường dân chủ, tự do, pháp quyền, đây không chỉ là nơi “đất lành chim đậu” hay là một điểm son của một nước siêu cường Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.

Trong hoàn cảnh quê hương chúng ta bị thể chế cộng sản độc tài đảng trị làm băng hoại về mọi mặt, đây cũng là nơi bảo trì và phát triển văn hóa, lịch sử và truyền thống tinh túy của cha ông chúng ta. Nơi đây chúng ta không đóng khung, không quên nguồn gốc, không an phận trong tâm trạng tha phương cầu thực mà thực hiện trách nhiệm thiêng liêng với đồng bào quốc nội và với tiền đồ dân tộc. Nơi đây, chúng ta – những người tỵ nạn cộng sản, những con dân nước Việt còn trăn trở cho hiện tình đất nước – cùng nhau thực hiện giấc mơ chưa thành của những người đã hy sinh cho tổ quốc. Giấc mơ đó là gì thưa quý vị và đồng bào? Đó là ngày khải hoàn của công lý, của sự thật, của sự nhân bản, của những giá trị Chân-Thiện-Mỹ trên quê hương. Đó là ngày chiến thắng của ánh sáng trên tối tăm, sự lành trên sự dữ, chí nhân trên cường bạo và đại nghĩa trên hung tàn. Đó là ngày cánh chung của chế độ Cộng Sản và ngày quang phục của một Việt Nam thực sự độc lập, dân chủ và vững mạnh trước những thử thách mới. Bao lâu còn bị cai trị bởi chế độ cộng sản, quê hương chúng ta sẽ mãi mãi còn bị băng hoại và bế tắc toàn diện.
    Tôn giáo và chính trị:
Tôn giáo và chính trị là hai thực thể mà nhiều người cho là không được trộn lẫn hay phải tách rời. Có nhiều người Công Giáo rất quảng đại với các dự án tình thương ở Việt Nam, xây nhà thờ, nhà xứ, Trung tâm Hành Hương v..v… nhưng họ lại rất dị ứng với các vấn đề Nhân Quyền và Công Lý. Họ có thể cho 5,3 ngàn cho giáo xứ này, dòng tu nọ ở Việt Nam. Còn mua một cái vé số $10.00 để ủng hộ cho Tù Nhân Lương Tâm thì họ đắn đo ngại ngùng. Họ cho rằng đó là làm chính trị! Thế thì Chúa Giêsu có làm chính trị hay không khi Ngài thực thi sứ mạng cứu thế: “Thần khí Chúa ... giải thoát cho kẻ bị giam cầm, đòi tự do cho kẻ bị áp bức…”?

Nhưng không ai, kể cả những người tu hành như tôi, có thể dửng dưng với những vấn nạn xã hội do sự lãnh đạo hay thể chế chính trị gây ra. Chúng ta không thể sống đạo tức là tìm những điều hay lẽ phải mà lại không quan tâm tới sự dữ và sự bất công đang tràn lan trên quê hương. Chúng ta không thể yêu Thiên Chúa mà lại không để ý tới tiếng kêu than của dân oan. Trước khi làm người Công Giáo, trước khi làm giám mục, tôi là người Việt Nam; tôi chịu ơn những anh hùng hào kiệt đã hy sinh không bao giờ tách lìa lý tưởng một Việt Nam phi cộng sản và một Việt Nam nhân bản ra khỏi sứ mạng giám mục của tôi.
cho tiền đồ dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử. Tôi chịu ơn những chiến sỹ Việt Nam Cộng Hòa đã bảo vệ tự do cho tôi. Tôi chịu ơn những thuyền nhân đã không may mắn như tôi, nhưng cũng chính vì những cái chết thương tâm của họ mà thế giới tự do đã đón nhận những người tỵ nạn cộng sản còn sống sót như tôi. Tôi không thể không trăn trở với hiện tình đất nước; tôi không thể không nhắm mắt làm ngơ với hệ thống chính trị lỗi thời là chế độ cộng sản đang làm cho đất nước băng hoại hoàn toàn. Trên huy hiệu giám mục của tôi có lá cờ VNCH trải ngang như làn sóng trên nền xanh là đại dương. Tôi không thể bỏ quên quá khứ và căn tính tỵ nạn của mình. Tôi không ngần ngại khẳng định lập trường của mình.

Năm 1982 khi về quê hương mình còn đang sống dưới chế độ cộng sản, ĐGH Gioan Phaolô II đã mạnh dạn công bố trong Thánh Lễ đại trào: “Anh chị em thân mến. Dù đời sống của người Ba Lan khó khăn thế nào, chúng ta cũng đừng nản lòng tranh đấu cho công lý và sự thật, cho tự do và nhân phẩm của con người”. Điều này đã cho chúng ta thấy rằng, tranh đấu cho công lý và sự thật, cho tự do và nhân phẩm không phải là việc làm của những kẻ muốn chính trị hóa tôn giáo mà là bổn phận‘nhập thể hóa’ Tin Mừng và ‘Kitô hóa’ môi trường của chúng ta. Nếu chúng ta chỉ giữ đạo trong nhà thờ hay chùa chiền, nếu chúng ta chỉ đóng khung tôn giáo trong những vấn đề siêu nhiên mà hoàn toàn vô cảm với những vui mừng và hy vọng, những sợ hãi và lo âu của đồng loại, thì phải chăng tôn giáo chỉ là thứ thuốc phiện ru ngủ chúng ta như lời Karl Marx? Đây cũng là chiêu bài của cộng sản. Họ muốn tôn giáo chỉ là thứ thuốc phiện ru ngủ dân chúng. Họ muốn biến tôn giáo trở thành một công cụ của chế độ và phục vụ sự độc quyền chính trị của họ.
    Công lý xã hội dưới ánh sáng Phúc Âm
Phúc Âm và đời sống không thể tách lìa nhau; tôn giáo và chính trị không thể không liên hệ với nhau. Vai trò ngôn sứ của Giáo hội đòi buộc người tín hữu ở mỗi bậc và mỗi hoàn cảnh phải tranh đấu cho một xã hội phản ảnh Vương Quốc của Thiên Chúa.

Thực thế, truyền thống công lý xã hội trong Kinh Thánh là bằng chứng hùng hồn về sự nhập thế của các giá trị siêu nhiên vào đời sống tự nhiên của con người. Ơn cứu độ không chỉ có nghĩa là một sự giải thoát của linh hồn và đời sống vĩnh hằng trên Thiên Quốc mà là sự giải thoát con người toàn diện. Ngay trên cõi đời này vàngay trong xã hội này, con người được mời gọi để sống cuộc sống sung mãn với Thiên Chúa và tha nhân. Do đó, sống đức tin và sống thánh thiện không chỉ có một chiều dọc, tức là thờ phượng kính mến Chúa. Sống đức tin và sống thánh thiện không thể tách lìa khỏi tiến trình công lý hóa xã hội và phong phú hóa đời sống con người.

Tiên tri Isaiah đã định nghĩa cho chúng ta thế nào là giữ đạo, đó là “phá vỡ xiềng xích của bọn ác nhân, cất đi gánh nặng của kẻ lầm than, giải thoát cho kẻ bị áp bức và phá tan mọi gông xiềng” (Isaiah 58:6). Đức Kitô đi đến đâu cũng quan tâm đến người cùng khốn trong xã hội. Ngài đứng về bên những người nghèo hèn, bị áp bức, bắt bớ, thiệt thòi và bất công. Ngài lên án những người dùng quyền lực, địa vị và ảnh hưởng của mình để làm tổn thương, triệt hạ người khác và khuynh đảo xã hội.
    Quan hệ giữa Công giáo và cộng sản qua những giai đoạn lịch sử
Một số quý vị lớn tuổi ở đây chắc đã từng trải qua thời kỳ Việt Minh vào những năm sau Đệ Nhị Thế Chiến. Ở Bắc Việt, Đức Giám Mục Lê Hữu Từ, đã có thời lập ra khu Bùi Chu – Phát Diệm tự trị với cả những đội vũ trang Tự vệ Công giáo, chống lại chính quyền Việt Minh do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo. Đối với ngài cũng như rất nhiều giám mục miền Bắc trong thời kỳ đó đã không ngần ngại dấn thân cho quê hương và có thể nói vượt qua cái ranh giới thông thường của đạo và đời, tôn giáo và chính trị. Hôm nay, tôi không có ý hoài niệm về một quá khứ mà nhiều người trong thế hệ cha anh rất tự hào về giáo hội Việt Nam; tôi càng không có ý cổ võ một con đường chống đối bạo động dù đối với chế độ vong bản phi nhân. Tuy nhiên, khi lấy cuộc sống sung mãn làm mục đích, chúng ta không thể mặc nhiên để sự ác hoành hành khống chế xã hội. Sự ác này không những thể hiện nơi cá nhân hay đoàn thể. Tôi cho rằng sự ác lớn nhất đang hoành hành trên đất nước chúng ta hôm nay chính là tà quyền và hệ thống chính trị đưa con người vào chỗ bế tắc. Tôi cho rằng chỉ có một Việt Nam hết nô lệ bởi ý thức hệ cộng sản, hết trói buộc bởi cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh, hết bị xiềng xích bởi định hướng xã hội chủ nghĩa thì mới có thể vươn mình đứng dậy.

Tôi mở ngoặc ở đây để nói về những lời phát biểu được coi là rất đột phá của một số đại biểu tại quốc hội cộng sản Việt Nam (Trương Trọng Nghĩa, Dương Trung Quốc). Họ dám mạnh dạn lên tiếng về tình trạng không an toàn về pháp lý, các quyền tự do dân chủ không bảo đảm đầy đủ và lo sợ ở đất nước bị lệ thuộc. Thế nhưng, cả những đại biểu phản tỉnh này vẫn còn trong cái vòng luẩn quẩn của chủ nghĩa xã hội. Họ chưa có can đảm để nói lên cái cội rễ của sự bế tắc toàn diện, thậm chí còn thần thánh hóa ông Hồ Chí Minh: Bao lâu còn bị nô lệ bởi ý thức hệ cộng sản, bấy lâu đất nước sẽ không có lối thoát. Chỉ khi không còn cái quái thai do Hồ Chí Minh sinh ra và đảng cộng sản tiếp tục nuôi dưỡng thì dân tộc ta mới ra khỏi cơn ác mộng.

Trong cuốn “Chứng từ của một giám mục” mà các bác trong nhóm “Diễn Đàn Giáo Dân” đã xuất bản năm 2009, người đọc có cảm tưởng tìm được một đóa hoa sen tinh khiết lừng lững vươn lên giữa bùn lầy nhơ bẩn. Sống qua những biến cố hãi hùng nhất khi Việt Minh cướp chính quyền, thanh trừng nội bộ, cải cách ruộng đất, chủ trương bạo động cách mạng, di cư 54, xâm lăng miền nam v..v.. Giám Mục Lê Khắc Trọng luôn có cái nhìn sâu sắc để nhận biết hư thật trong cái chế độ gỉa dối tuyên truyền. Quan trọng hơn nữa, ngài luôn giữ vững lập trường không thỏa hiệp và không nhượng bộ trước những âm mưu khống chế và lợi dụng tôn giáo của cộng sản. Thái độ dứt khóat của ngài về cái tổ chức tiền nhân của “Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo” là một điều tiêu biểu.

Những năm gần đây, tiếp theo chính sách đổi mới của đảng CSVN, một phong trào tô điểm cho chế độ với những nới lỏng về kinh tế, tôn giáo, du lịch v.v.. được tuyên truyền rầm rộ. Thực tế là như thế nào? Đó chỉ là một sự đổi mới giả tạo, một kiểu sơn phết bên ngoài trong khi cả hệ thống chính trị như căn nhà đã mục nát từ bên trong cái nền tảng của nó.

Theo chính sách đổi mới nửa vời này, cái tôn giáo cũng đã được hưởng một số tự do “xin cho” của chế độ. Vì thế, gần đây chùa chiền, nhà thờ, dòng tu, trung tâm hành hương v.v.. cứ như trăm hoa đua nở trên khắp nước. Thậm chí có những nơi người dân sống thật cơ cực nhưng nơi thờ phượng thì vẫn sang trọng. Nếu là một du khách từ Úc hay Mỹ thăm Việt Nam, họ sẽ ngạc nhiên khi thấy các nhà thờ hay chùa chiền xây lên với mức kỷ lục. Những khu công giáo di cư như ở Hố Nai Gia Kiệm, người ta có cảm tưởng là có một phong trào xây và tu bổ nhà thờ. Lại nữa, họ sẽ thấy các sinh hoạt tôn giáo như rước sách, lễ hội, hành hương v.v.. thật đông đúc năng động. Có nhiều đấng bậc còn chế diễu những ai chỉ trích chế độ là chúng ta phải cám ơn cộng sản vì họ đã làm ơn cho giáo hội.

Tôi không có ý chỉ trích việc xây cất sửa sang nơi thờ phượng. Tôi cũng không phê bình việc tổ chức các lễ hội hay rước sách trọng thể. Nhưng nếu chúng ta chỉ đo lường sự năng động của Giáo Hội qua những sinh hoạt thuần tuý tôn giáo thì tôi e rằng đó là một sự thẩm định phiếm diện. Truyền thống đức tin Công Giáo luôn gắn liền với công bình xã hội, nhân phẩm con người, lợi ích chung và các giá trị căn bản. Nếu chúng ta có nhiều nhà thờ, nhiều người đi lễ, nhiều linh mục tu sĩ, nhiều lễ hội v.v.. mà chưa làm muối men cho tiến trình công lý hoá cho xã hội, chưa dấn thân trong việc phục hồi nhân phẩm con người, lợi ích chung và các gía trị căn bản thì tôi cho rằng chúng ta chưa thực hiện đầy đủ vai trò làm lương tri của xã hội.
    Tôn giáo là lương tri của xã hội hay là công cụ của chế độ?
Lịch sử Việt Nam qua nhiều thời đại đã minh chứng được sự dấn thân của người tín hữu thuộc mọi thành phần giáo hội vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước. Thế nhưng trong xã hội toàn trị, sự ru ngủ lương tri của giáo hội đã trở thành một hiện tượng phổ biến nằm trong chính sách công cụ hóa tôn giáo của ta quyền cộng sản. Các cụm từ như ‘tôn giáo và dân tộc,’ ‘tốt đời đẹp đạo,’ ‘giáo dân tốt công dân tốt,’ ‘kính Chúa yêu nước’ và ‘đồng hành cùng dân tộc’ đã trở thành những viên thuốc an thần để ru ngủ lương tri và vô hiệu hóa vai trò ngôn sứ của giáo hội. Tại La Vang năm 2010 Phó Thủ Tướng Nguyễn Thiện Nhân đã ban huấn từ cho cả các giám mục Việt Nam về việc mà ông gọi là “đồng hành cùng dân tộc”. Bằng chiêu bài đồng hóa đảng với dân tộc họ biến lòng yêu nước thành yêu đảng và chống đảng là chống lại dân tộc. Điều đáng buồn là liều thuốc an thần này đang làm ru ngủ và làm vô cảm lương tri của nhiều người Việt Nam, kể cả người tín hữu. Đồng hành cùng dân tộc không thể là đồng hành cùng chế độ, nhất là khi chế độ đó đang đưa dân tộc vào chỗ diệt vong.

Quý vị thân mến,

Nhưng tôi nghĩ rằng nếu tôn giáo mà mất vai trò ngôn sứ thì nó bị thuần hóa và trở thành công cụ của chế độ. Lúc đó, chúng ta không còn là tiếng kêu trong hoang địa như ông Gioan Tẩy Giả nữa mà sẽ là tiếng xèng kêu inh ỏi (1Cor 13:1). Thánh Phaolô nói là nếu tôi làm được nhiều điều cao trọng mà không có đức ái thì tôi chỉ là chiếc thùng rỗng kêu to. Điều này có thể áp dụng vào việc chúng ta chu toàn sứ mạng Phúc Âm. Nếu Giáo Hội chưa dấn thân trong việc phục hồi nhân phẩm con người, lợi ích chung và các gía trị căn bản, nhất là trong một xã hội không tôn trọng nhân quyền như tại Việt Nam, thì có phải chúng ta chỉ là tiếng xèng kêu inh ỏi hay không?

Gần đây tại Việt Nam, có phong trào xây cất các trung tâm hành hương và các trung tâm sinh hoạt của các địa phận và dòng tu. Riêng tại Xuân Lộc, giáo phận đã mua được hàng trăm mẫu đất và một chương trình kiến thiết đồ sộ đang được tiến hành. Được biết giáo phận lớn nhất nước này có hy vọng Trung Tâm Núi Cúi sẽ là nơi tiếp đón ĐGH Phanxicô một khi ngài được đảng CSVN cho phép đến. Tôi chắc chắn rằng nếu đặt chân tới VN, ĐGH sẽ được tiếp đón một cách vô cùng long trong. Thế giới bên ngoài sẽ nhìn thấy một hình ảnh một giáo hội công giáo hơn cả nhiều nước bên tây phương về con số giáo dân, linh mục, tu sĩ và về những biểu hiện đức tin bề ngoài. Đó sẽ là một hình ảnh để chế độ cs có thể tuyên truyền về chính sách tự do tôn giáo của họ. Thế nhưng nếu chúng ta đo lường vai trò giáo hội theo tiêu chuẩn phúc âm, tức là ảnh hưởng của giáo hội như men dậy bột, như đèn sáng trong đêm tối, như tiếng nói sự thật giữa sự giả dối thì tự hỏi sứ mạng đó đang được chu toàn như thế nào. Nếu chúng ta có đội ngũ linh mục tu sĩ đông đảo, có nhà thờ to, chùa đẹp, trung Tâm hành hương hoành tráng … nhưng với cái giá là bị vô hiệu hóa vai trò làm lương tri xã hội, làm người đồng hành với người sầu khổ, bênh vực dân oan, quan tâm tới kẻ chịu bất công, đóng góp vào tiến trình công lý hoá xã hội v..v.. thì còn ý nghĩa gì?

Tôi cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội vị Cha Chung luôn quan tâm đến những người bị bỏ rơi, nhất là những nạn nhân của bất công.Trong tông huấn mang tựa đề “Niềm vui của Tin Mừng”, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng “tôi muốn một Giáo Hội bị thương tích, đau đớn và lấm bùn vì đã dám dấn thân xuống đường thay vì một Giáo Hội ẩn mình sau một lớp bình phong của kinh kệ, lễ nghi và lề luật mà xa lìa những tâm hồn đổ nát”. Tôi cho rằng đây là một lời hiệu triệu và một sự thách thức cho Giáo Hội Việt Nam để chúng ta ẩn mình trong những cơ sở vật chất hoành tráng mà quên đi sứ mạng đồng hành với những người bị ức hiếp trong lộ trình đấu tranh cho công lý.

Cách đây 30 năm Đức Hồng Y Giacobe Sin ở Phi Luật Tân đã dẫn hơn 1 triệu giáo dân xuống đường trong cuộc “cách mạng Hoa Mân Côi”. Sở dĩ gọi như hế là vì những người biểu tình chỉ cầm trong tay có tràng hạt! Họ đọc kinh, ca hát và đồng thời kêu gọi Tổng Thống Fidel Marcos từ chức vì sự bế tắc chính trị trong nước. Ông Fidel Marcos đã bị lật đổ vì sức mạnh quần chúng (people power). Nhưng xét cho cùng, sự sai trái của ông Marcos không thể so sánh với những tội ác tầy trời của Cộng sản Việt Nam.

Một chút nữa đây, chúng ta sẽ cùng xem qua một vài hình ảnh nói lên tội ác tầy trời của Cộng Sản. Từ cải cách ruộng đất cho đến di cư 54, từ Tết Mậu Thân cho đến mùa hè đỏ lửa 72, từ biến cố 30-4.75 cho đến cuộc vượt bên vô tiền khoáng hậu. Những năm gần đây, một cuộc dàn xếp trao đổi mờ ám giữa Đảng Cộng Sản Việt Nam và quan thầy Trung Cộng đã diễn ra. Hậu quả là Đảng CSVN được bảo vệ quyền lực và bổng lộc để đổi lại sự mất chủ quyền cho Trung Cộng và khống chế toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, môi trường, quân sự, quốc phòng. Biến cố ô nhiễm tại Vũng Áng gây tổn thất sinh thái và ảnh hưởng độc hại cho hàng triệu người tại các tỉnh ven biển miền Trung là tiêu biểu cho sự trao đổi mờ ám này. Đây có phải là biến cố “tức nước vỡ bờ” và cơ hội để người dân Việt Nam vượt qua sự sợ hãi hay không? Cô giáo Trần thị Lam ở Hà Tĩnh đã viết lên một bài thơ thật ai oán:
Đất nước mình ngộ quá phải không anh?
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…
Đất nước mình lạ quá phải không anh?
Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỉ
Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…
Đất nước mình buồn quá phải không anh?
Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc
Rừng đã hết và biển thì đang chết
Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa…
Đất nước mình thương quá phải không anh?
Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại
Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải
Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu…
Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh?
Anh không biết em làm sao biết được
Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu…

Giáo Hội Phi Luât Tân đã mạnh dạn nhập vào cuộc khi chính phủ độc tài Marcos ban hành lệnh thiết quân luật và triệt hạ các đối thủ chính trị. Giáo Hội Việt Nam có thể đứng ngoài lề khi đất nước đang đứng trước bờ vụng thẳm của sự diệt vong. Muốn phục hưng đất nước, chúng ta không thể làm ngơ với hệ thống chính trị tha hóa, chúng ta phải cắt bỏ cái bưới ung thư là chế độ Cộng Sản. Tôi dám khẳng định là chúng ta không thể yêu nước mà không chống Cộng và diệt Cộng vì ý thức hệ Cộng Sản chính là căn nguyên và cỗi rẽ của mọi bế tắc, mọi băng hoại mà người dân ta đang gánh chịu.

Kính thưa qúy khách và đồng bào,

Lịch sử sẽ đào thải những gì không còn thích hợp. Dù có ngoan cố cưỡng lại, không ai có thể ngăn cản thế lực của lịch sử, cũng như không chính thể nào có thể làm ngược lòng dân mà tồn tại. Chúng ta hãy can đảm dấn thân cho tương lai của chúng ta và con cháu chúng ta, chúng ta hãy góp một bàn tay khai thông những bế tắc hầu cùng với toàn thể dân tộc mở ra một kỷ nguyên mới cho quê hương Việt Nam. Hãy VƯỢT QUA MỌI SỢ HÃI. Hãy liên kết thành sức mạnh để phá tan xiềng xích của sự bạo tàn, dối trá và gian ác là chế độ cộng sản. Hãy cùng nhau khai thông dòng sông lịch sử để nó được chảy và làm tươi mát phì nhiêu cho đất Việt thân yêu.

Xin Thiên Chúa chúc lành và kiện toàn cho mọi hy sinh và nỗ lực của chúng ta, người con dân của tổ quốc trong và ngoài nước đang khát khao và tranh đấu cho công lý. Hãy vững tin tiến về bình minh mới, ngày mùa gặt mới của quê hương, vì “người đi gieo trong đau thương sẽ về giữa vui cười”.
    Giám mục Vintcent Nguyễn Văn Long 41 năm tỵ nạn




Wednesday, May 4, 2016

Giám mục Vintcent Nguyễn Văn Long

    Vai trò của tôn giáo trước hiện tình đất nước

GNsP

Ngày 28.04 vừa qua Đức Cha Vinhsơn Nguyễn Văn Long, Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Melbourne, Úc, đã có một bài nói chuyện với cộng đồng người Việt hải ngoại nhân dịp “Tưởng Niệm Tháng Tư Đen”, do Quỹ Yểm Trợ Đấu Tranh cho Nhân Quyền Việt Nam tổ chức tại nhà hàng Seafood Palace, thành phố Westminster.

Trên Huy hiệu Giám mục của Đức Cha Vinhsơn có lá cờ Việt Nam Cộng Hòa trải ngang như làn sóng trên nền xanh là đại dương

Mở đầu bài nói chuyện Đức Cha nhắc lại nét đẹp của Sài Gòn trước năm 1975 với nền văn minh tiên tiến so với khu vực chung quanh, với những nét đẹp văn hóa và đạo đức, với những sinh hoạt đậm chất nhân văn của một xã hội dân chủ, tự do, pháp quyền.

Sau đó Đức Cha nói hiện tình của đất nước Việt Nam hôm nay dưới sự lãnh đạo toàn trị của Đảng Cộng Sản đã làm cho xã hội băng hoại về mọi mặt.

Đức cha nói đến ước mơ về tương lai của đất nước Việt Nam thực sự có công lý và sự thật, một đất nước thực sự nhân bản với những giá trị Chân-Thiện-Mỹ.

Ngài nói về một ngày mai đó như sau: “Đó là ngày chiến thắng của ánh sáng trên tối tăm, sự lành trên sự dữ, chí nhân trên cường bạo và đại nghĩa trên hung tàn. Đó là ngày cánh chung của chế độ Cộng Sản và ngày quang phục của một Việt Nam thực sự độc lập, dân chủ và vững mạnh trước những thử thách mới. Bao lâu còn bị cai trị bởi chế độ Cộng sản, quê hương Việt Nam sẽ mãi mãi còn bị băng hoại và bế tắc toàn diện.”

Nhắc đến mối tương quan giữa tôn giáo và chính trị, Đức Cha nói như sau:

“Tôn giáo và chính trị là hai thực thể mà nhiều người cho là không được trộn lẫn hay phải tách rời. Có nhiều người Công Giáo rất quảng đại với các dự án tình thương ở Việt Nam, xây nhà thờ, nhà xứ, Trung tâm Hành Hương v..v… nhưng họ lại rất dị ứng với các vấn đề Nhân Quyền và Công Lý. Họ có thể dâng cúng cả chục ngàn đồng cho giáo xứ này, dòng tu nọ ở Việt Nam nhưng mua một cái vé số mười đồng để ủng hộ cho Tù Nhân Lương Tâm thì họ đắn đo ngại ngùng. Họ cho rằng đó là làm chính trị!”

Đức Cha đặt vấn đế như sau: “Vậy thì Chúa Giêsu có làm chính trị hay không khi Ngài thực thi sứ mạng cứu thế khi tuyên bố: Thần khí Chúa ngự trên tôi sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo, giải thoát cho kẻ bị giam cầm, đòi tự do cho kẻ bị áp bức…?”

Đức Cha cũng nói rằng, mỗi người tín hữu dù là sống đời ơn gọi tu trì hay giáo dân đều không được phép dửng dưng với những vấn nạn xã hội do sự lãnh đạo hay thể chế chính trị gây ra.

Ngài nhấn mạnh như sau: “Chúng ta không thể sống đạo tốt mà lại không quan tâm tới sự dữ và sự bất công đang tràn lan trên đất nước. Chúng ta không thể nói mình yêu Thiên Chúa mà lại không để ý tới tiếng kêu than của dân oan.”

Ngài nói tiếp: “Trước khi làm người Công Giáo, trước khi làm giám mục, tôi là người Việt Nam; tôi chịu ơn những anh hùng hào kiệt đã hy sinh cho tiền đồ dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử. Tôi chịu ơn những chíên sỹ Việt Nam Cộng Hòa đã bảo vệ tự do cho tôi. Tôi chịu ơn những thuyền nhân đã không may mắn như tôi, nhưng cũng chính vì những cái chết thương tâm của họ mà thế giới tự do đã đón nhận những người tỵ nạn cộng sản còn sống sót như tôi.”

Nhắc đến nhiệm vụ Phúc Âm hóa đời sống xã hội, Đức Cha khẳng định: “Phúc Âm và đời sống không thể tách lìa nhau; tôn giáo và chính trị không thể không liên hệ với nhau. Vai trò ngôn sứ của Giáo hội đòi buộc người tín hữu ở mỗi bậc và mỗi hoàn cảnh phải tranh đấu cho một xã hội phản ảnh Vương Quốc của Thiên Chúa.”

Nhắc lại sứ mạng của Đấng Cứu Thế, Đức Cha nói rằng: “Đức Kitô đi đến đâu cũng quan tâm đến người cùng khốn trong xã hội. Ngài đứng về phía những người nghèo hèn, bị áp bức, bắt bớ, thiệt thòi và bất công. Ngài lên án những người dùng quyền lực, địa vị và ảnh hưởng của mình để làm tổn thương, triệt hạ người khác và khuynh đảo xã hội.”

Ngài cũng nhắc đến những gương sáng nơi các vị Giám mục tiền bối sẵn sàng chống lại áp bức bất công như tấm gương của Đức Giám Mục Lê Hữu Từ, Bùi Chu – Phát Diệm. Đức cha nói: “Đối với Đức Giám Mục Lê Hữu Từ cũng như rất nhiều giám mục miền Bắc trong thời kỳ đó đã không ngần ngại dấn thân cho quê hương.”

Ngài cũng cảnh tỉnh các tín hữu đối mặt với một xã hội toàn trị đang ru ngủ lương tri của Giáo hội. Cộng sản đã dùng những từ hoa mỹ như “tôn giáo và dân tộc”, “tốt đời đẹp đạo”, “giáo dân tốt công dân tốt”, “kính Chúa yêu nước”“đồng hành cùng dân tộc” như những liều thuốc an thần ru ngủ lương tri và vô hiệu hóa vai trò ngôn sứ của Giáo hội.

Ngài nhắc lại vụ việc năm 2010 tại La Vang, ông Phó Thủ Tướng Nguyễn Thiện Nhân đã ban huấn từ cho cả các giám mục Việt Nam về điều mà ông gọi là “đồng hành cùng dân tộc”. Đức Cha nói: “Bằng chiêu bài đồng hóa đảng với dân tộc, ông ta biến lòng yêu nước thành yêu đảng và chống đảng là chống lại dân tộc. Điều đáng buồn là liều thuốc an thần này đang làm ru ngủ và làm vô cảm lương tri của nhiều người Việt Nam, kể cả người tín hữu. Đồng hành cùng dân tộc không thể là đồng hành cùng chế độ, nhất là khi chế độ đó đang đưa dân tộc vào chỗ diệt vong.”

Ngài cũng nói đến việc gần đây nhà Cầm quyền cộng sản cho phép xây dựng các trung tâm hành hương và các trung tâm sinh hoạt của các địa phận và dòng tu như hình thức bề ngoài để nói với thế giới rằng Giáo hội Việt Nam có tự do tôn giáo.

Nhưng theo Đức Cha thì tiêu chuẩn để đánh giá về một Giáo hội năng động hay không chính là việc đưa Tin Mừng vào cuộc sống như thế nào. “Giáo hội có thực sự như là men làm dậy cả một khối bột chưa, như đèn sáng trong đêm tối, như tiếng nói sự thật trước những giả dối chưa? Nếu chỉ dừng lại ở bề ngoài khi thất một đội ngũ linh mục, tu sĩ đông đảo, có Nhà thờ to, Trung Tâm hành hương hoành tráng… nhưng với cái giá là bị vô hiệu hóa vai trò làm lương tri xã hội, làm người đồng hành với người sầu khổ, bênh vực dân oan, quan tâm tới kẻ chịu bất công, đóng góp vào tiến trình công lý hoá xã hội v..v.. thì còn ý nghĩa gì?”

Ngài cũng nhắc lại về vai trò chính của một Giáo hội như điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói đến trong Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng: “Tôi muốn một Giáo Hội bị thương tích, đau đớn và lấm bùn vì đã dám dấn thân xuống đường thay vì một Giáo Hội ẩn mình sau một lớp bình phong của kinh kệ, lễ nghi và lề luật mà xa lìa những tâm hồn đổ nát”.

Và theo Đức Cha đó là một thách đố cho Giáo Hội Việt Nam hôm nay để đồng hành cùng với những người bị ức hiếp trong lộ trình đấu tranh cho công lý.

Sau cùng ngài nhắn gởi đến quý khách tham dự cũng như các tín hữu trên mọi miền rằng:

“Chúng ta hãy can đảm dấn thân cho tương lai của chúng ta và con cháu chúng ta, chúng ta hãy góp một bàn tay khai thông những bế tắc hầu cùng với toàn thể dân tộc mở ra một kỷ nguyên mới cho quê hương Việt Nam. Hãy VƯỢT QUA MỌI SỢ HÃI. Hãy liên kết thành sức mạnh để phá tan xiềng xích của sự bạo tàn, dối trá và gian ác là chế độ cộng sản. Hãy cùng nhau khai thông dòng sông lịch sử để nó được chảy và làm tươi mát phì nhiêu cho đất Việt thân yêu.”

Kết thúc buổi nói chuyện, Đức Cha cầu nguyện cho những hy sinh và nỗ lực của những người thành tâm thiện chí đang khát khao và tranh đấu cho công lý. “Hãy vững tin tiến về bình minh mới, ngày mùa gặt mới của quê hương, vì người đi gieo trong đau thương sẽ về giữa vui cười".

Sau cùng ngài ban phép lành cho các tín hữu tham dự.

GNsP



Tuesday, May 3, 2016

Đất nước mình ngộ quá phải không anh ?!!! - Trần Thị Lam


ĐẤT NƯỚC MÌNH NGỘ QUÁ PHẢI KHÔNG ANH ?!!!

Đất nước mình ngộ quá phải không anh ?
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…

Đất nước mình lạ quá phải không anh ?
Những chiếc bánh chưng vô cùng kỳ vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỷ
Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…

Đất nước mình buồn quá phải không anh ?
Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc
Rừng đã hết và biển thì đang chết
Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa…

Đất nước mình thương quá phải không anh ?
Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại
Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải
Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu…

Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh ?
Anh không biết em làm sao biết được
Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời dùm ... đất nước sẽ về đâu…?
Trần Thị Lam (Hà Tĩnh)





Monday, April 25, 2016

Tại sao dân Việt Nam gọi đảng CSVN là đảng Cướp

    Tại sao dân Việt Nam gọi đảng CSVN là đảng Cướp, Hồ chí Minh là Hồ tặc?

LS.Lê Duy San

Trong bài “Nếu dân Việt chọn một đảng chính trị” đăng trên Người-Việt Online, ông Ngô Nhân Dụng viết “Một đảng chính trị là của những đảng viên họ đồng ý với nhau về mục tiêu giành lấy quyền hành để cai trị theo chủ trương của họ”. Dĩ nhiên cái chủ trương ấy là một cái chủ trương mà mọi đảng viên của họ cho là tốt đẹp và được nhiều người dân ủng hộ thì họ mới giành được quyền hành. Cũng như một chính trị gia, muốn thành công không những phải là người có khả năng ăn nói mà ngay cả những chương trình tranh cử của người ấy cũng phải thu hút được sự ủng hộ đông đảo của quần chúng.

Vì thế, ngay cả đảng Cộng Sản Việt Nam, là một đảng duy nhất nắm quyền cai trị, nhưng trong cương lĩnh của đảng Cộng Sản Việt Nam cũng như những chính sách mà chúng đem ra áp dụng cũng phải dựa vào long dân với những chủ trương tốt đẹp như: Cách mạng tư sản dân quyền, cách mạng ruộng đất, xã hội tự do, nam nữ bình quyền, v.v…trong cương lĩnh của đảng năm 1930 và xã hội công bằng, do nhân dân làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân v.v… trong cương lĩnh của đảng năm 1991.

Ấy vậy mà tại sao đảng Cộng Sản Việt Nam lại bị gọi là đảng cướp? Và tại sao ông Hồ Chí Minh, người sáng lập ra đảng Cộng sản Việt Nam lại bị nhân dân Việt Nam gọi là Hồ Tặc (Hồ Tướng Cướp)?

Mặc dầu chữ “Cướp chính quyền” không những đã được nhân dân Việt Nam dùng khi đảng Cộng Sản Việt Nam núp dưới hai chữ Việt Minh để đoạt chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình Hà Nội mà chính đảng Cộng Sản Việt Nam cũng dùng mấy chữ này trong các sách vở và tài liệu. Mặc dầu trong chiến dịch cải cách ruộng đất 1954, đảng Cộng Sản Việt Nam đã cướp của (tài sản và đất đai) của các điền chủ và chính bọn chúng đã giết chết hơn 170 ngàn người dân vô tội chỉ vì có vài sào ruộng hay vài mẫu ruộng. Tết Mậu Thân năm 1968, chỉ vì không cướp được miền Nam, đảng Cộng Sản VN đã hạ lệnh giết chết trên 5 ngàn người vô tội ở Huế. Cho tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhân dân Việt Nam vẫn chưa ai gọi đảng Cộng Sản Việt Nam là đảng Cướp là tại sao ?

Bởi vì bọn Cộng Sản Việt Nam trước năm 1954 dưới chiêu bài “Chống thực dân Pháp để giải phóng dân tộc” và sau này, trước năm 1975, với chiêu bài “Chống Mỹ cứu nước”, vẫn che dấu được cái bộ mặt tay sai của Cộng San Quốt Tế là Liên Sô và Trung Quốc, vẫn bịp bợm và lừa gạt được nhân dân Việt Nam là chỉ có chúng mới là người có công giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Vì thế nhiều người vẫn tưởng rằng chúng có chính nghĩa và những tội cướp của giết người mà bọn chúng làm là đúng.

Nhưng sau tháng 4 năm 1975, đảng CSVN đã cướp 16 tấn vàng của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam đem về bắc chia nhau. Với những chính sách đổi tiền, mỗi gia đình chỉ được phép đổi có 100 ngàn đồng tiền VNCH để lấy $200 tiền VC cũng như chính sách đánh tư sản mại bản, chính sách kinh tế mới, đảng Cộng Sản VN đã cướp trắng trợn không biết là bao nhiêu tiền bạc, của cải, nhà cửa của đồng bào miền Nam và cũng kể từ đó, đảng Cộng Sản Việt Nam đã được nhân dân miền Nam gọi là đảng Cướp, thật không sai chút nào. Ngày nay chúng (bọn CSVN) còn cướp cả đất đai của các tôn giáo như Công Giáo, Phật Giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, Tin Lành v.v… và đất đai của nhân dân cả hai miền Nam, Bắc vì thế mới có những vụ giáo dân xứ Thái Hà biểu tình phản đối ở Hà Nội, giáo dân Tam Tòa mit tinh cầu nguyện ở Vinh, vụ dân oan khiếu kiện ở Saigon v.v…

Trên đây chỉ là mấy vụ điển hình, nhưng hành vi cướp của, giết người của đảng CSVN rõ ràng và có ghi vào sử sách. Ngoài ra còn không biết bao nhiêu những vụ cướp của, giết người khác mà đảng CSVN đã thi hành một cách dấu diếm như thủ tiêu, thanh toán hoặc đổ cho người quốc gia hoặc đảng phái đối lập. Ngay cả những người đã nghe theo lời dụ dỗ của bọn chúng, đem tiền về làm ăn, chúng cũng không tha, nhiều người còn bị chúng bỏ tù trước khi cướp hết tài sản. Vụ gần đây nhất là vụ Bát Nhã Làng Mai ở Lâm Đồng.

Qua những sự kiện trên, đảng CSVN đã lộ nguyên hình là một đảng Cuớp không những đúng nghĩa là một đảng cướp, mà còn là một đảng cướp dã man và tàn bạo nhất thế giới. Thực vậy, các đảng cướp, thường chỉ cướp của, ít khi chúng giết người, trừ trường hợp bất khả kháng. Nhưng đảng CSVN, sau khi cướp của, nếu chúng không giết thì cũng bỏ tù.

Khi một đảng được gọi là đảng cướp, thì thủ lãnh của đảng cướp phải là một tướng cướp. Đảng CSVN đã là một đảng cướp, thì thủ lãnh của đảng CSVN, tức Hồ Chi Minh phải là một tướng cướp. Do đó người dân Việt Nam thường gọi Hồ Chí Minh là Hồ Tặc, nhiều người còn gọi ông Hồ là Dâm Tặc. Điều này thật cũng không có gì là quá đáng vì chính Hồ Chí Minh cũng đã từng cướp của giết người. Thực vậy, năm 1945, sau khi cướp được chính quyền, ông Hồ tổ chức một tuần lễ vàng, lấy lý do là để mua khí giới. Nhưng ông Hồ đã cướp đi số vàng này đem hối lộ tướng Tầu là Lữ Hán để y không cung cấp vũ khi cho các đảng phái quốc gia VN. Ngoài vụ cướp số vàng này, số vàng của nhân dân cúng để mua vũ khí chống Pháp, ông Hồ còn phạm tội giết người, đó là giết Nông Thị Xuân, một người làm của ông để che dấu tội lợi dụng quyền hành để hãm hiếp người làm tới có con.

Không những cướp của, giết người, ông Hồ còn cướp cả vợ của đàn em là Nguyễn thị Minh Khai, vợ của Lê Hồng Phong và cướp cả trinh tiết của không biết bao nhiêu là cháu ngoan Bác Hồ. Trong bài “Lần gặp bác Hồ, tôi bị mất trinh” , chị Huỳnh Thị Thanh Xuân ở Quảng Nam cho biết, năm 1964, chị và một số các em thiếu nhi tuổi vào khoảng 14, 15 được cơ quan và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cho ra Bắc thăm bác Hồ. Khi gặp bác, bác đã ôm hôn mỗi ngưới một cái. Riêng chị, bác không những đã hôn môi chị mà lưỡi của bác còn ngoáy ngoáy trong miệng của chị. Sau chị đã được bác dẫn tới phòng chiếu phim để coi phim cùng mọi người. Chị được ngồi cạnh bác. Một tay bác choàng lên vai chị còn tay kia bác xoa lên bộ ngực mới lớn của chị và tối hôm đó, chị đã được đưa tới phòng riêng của bác. Gặp chị, bác như con hổ đói và bác đã cướp đi mất cái trong trắng và qúi giá nhất của đời người con gái của chị.

Một bạn trẻ, anh Huỳnh Ngọc Thiên Trường, sinh ngày 22/12/1981, hiện đang sinh sống tại Saigon, trong bài “Cuộc cách mạng thanh niên trí thức sẽ bùng lên” đã viết như sau: “Chắc các bạn cũng đã nhận thấy rõ, cho đến nay thì cả Đảng Cộng Sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCNVN hiện nay đã hiện nguyên hình là một bọn cướp. Dân oan khắp nơi cùng quẫn đành đổ về Hà Nội và TP.HCM biểu tình, vì bản thân và gia đình họ bị cướp trắng hết đất đai, nhà cửa, nhưng tất cả hành động biểu tình ôn hòa của họ đều bị đám công an côn đồ đàn áp thẳng tay. Người dân làm lụng lam lũ cực khổ để đóng thuế nuôi bọn công an, để rồi đến lượt chúng ra tay giết chính chúng ta một cách tàn nhẫn, dã man như vậy hay sao?”

Tóm lại, đảng CSVN đúng là một đảng Cướp và Hồ Chí Minh đúng là Hồ Tặc. Trong lịch sử thế giới, nói chung, lịch sử Việt Nam, nói riêng, chưa hề có một đảng chính trị nào bị gọi là đảng cướp và cũng chưa hề có một vị Vua nào hay một vị Tổng Thống nào bị chính dân của mình gọi Tặc trừ đảng Cộng Sản Việt Nam và Hồ Chí Minh. Không những thế, ngày nay, nhiều người còn gọi Hồ Chí Minh là Thằng, thằng Hồ Chí Minh và coi lăng của ông Hồ Chi Minh như một cái cầu tiêu và ông Hồ Chí Minh như cái bộ phận sinh dục của người đàn ông như trong bài thơ sau:
    Một năm hai thước vải thô,
    Nếu đem may áo cụ Hồ ló ra.
    May áo thì hở lá đa,
    Chị em thiếu vải hoá ra lõa lồ.
    Vội đem cất ảnh bác Hồ,
    Sợ rằng bác thấy tô hô bác thèm
Trong bài “Việt Nam, 70 năm dưới thể chế cướp bóc”, Võ thị Hảo, một nhà văn trong nước viết: “Trên đời này có nhiều loại cướp bóc nhưng không loại cướp bóc nào có thể hủy hoại cả một đất nước như loại dùng thể chế chính trị và bộ máy chính quyền làm công cụ cướp đoạt của người dân. Bao đau thương khổ nạn của loài người cũng chủ yếu từ đó mà ra.”

Bùi Tín, Nguyên Thượng tá Quân đội Nhân dân, Phó Tổng Biên Tập báo Nhân dân của đảng Cộng Sản Việt Nam cũng nói: "Trong các văn kiện chính trị của đảng CSVN từ trước đến nay còn lưu giữ, chữ “cướp chính quyền” được hãnh diện lặp đi lặp lại rất nhiều lần, trong sách vở, báo chí và qua lời Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp v.v... mà chữ "cướp" thì ai cũng biết có hàm ý rất xấu xa. Cướp là cướp bóc, tước đoạt của cải của người khác, không phải của mình. Người ta thường gọi "kẻ cướp", "bọn cướp”, "lũ cướp”, "đồ ăn cướp". Vậy thì lānh đạo CSVN đâu phải là làm cách mạng mà họ tự khẳng định, hiện nguyên hình là một lũ cướp ngày, một băng đảng Mafia “đỏ” bất lương vô đạo giữa thế giới văn minh." (VOA 27.08.2015)

Vậy mà bọn Cộng Sản Việt Nam vẫn luôn luôn hô hào phải học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, và phải noi theo đạo đức Hồ Chí Minh. Thảo nào bọn Cộng Sản VN càng học tập tư tưởng HCM bao nhiêu và noi gương đạo đức HCM bao nhiêu thì bọn chúng lại càng tham nhũng, gian ác, dối trá, đồi bại và hủ hoá bây nhiêu.

LS.Lê Duy San
    Lời Rủa:
  • Việt Cộng chết hết và chết một cách thảm khốc.
  • Thân Cộng (ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản), VGCS chết hết và chết một cách thảm thương.
  •  Những kẻ đánh phá hoặc mạ lỵ những ngưòi chống Cộng để làm lợi cho Việt Cộng hay để gây chia rẽ hàng ngũ người Việt Quốc Gia, cũng chết hết và chết một cách thảm hại.



Quốc Hận 30-4-1975

    “Tuyên ngôn” mất độc lập, ngày 2/9/1945!
Cao Lân

Là người Việt Nam, thì ai cũng biết: Mở đầu cái gọi là “Tuyên ngôn độc lập” ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đã lấy những lời trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776:

“Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Nhưng bất hạnh thay cho toàn dân Việt, vì cũng chính ngày này, đã đánh dấu cho một ngày nước Việt Nam sẽ mất độc lập như ngày hôm nay; là ngày Hồ Chí Minh, đã dùng những thủ đoạn để cướp hết tất cả công lao của toàn dân, rồi đánh lừa cả nước bằng những lời lẽ trong Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ.



“Độc lập- bình đẳng-quyền được sống-quyền mưu cầu hạnh phúc” ở đâu?! Khi tất cả những tội ác của đảng Cộng sản do Hồ Chí Minh đem du nhập vào đất nước Việt Nam, thì ngày hôm nay, qua mạng lưới Internet, những đoạn phim, những hình ảnh kể từ sau ngày gọi là “độc lập 2/9/1945”, theo lệnh của Hồ Chí Minh, đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện những màn giết người vô cùng dã man qua các những “cuộc cải cách ruộng đất, cách mạng văn hóa”, và đặc biệt là theo lệnh của của Hồ Chí Minh, đảng Cộng sảnViệt Nam đã thi hành những cuộc tắm máu của đồng bào vô tội tại Huế, trong những ngày Xuân của Tết Mậu Thân, 1968. Những cảnh giết người còn ghê rợn cả loài ác thú, tất cả đã phơi bày cho cả thế giới đều được nhìn thấy, những hình ảnh này, đã cho các thế hệ sau này, phải kinh tởm khi nhắc đến cái tên Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã “trước sau như một” qua tên khát máu Tố Hữu, với khẩu hiệu:
    “Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ, Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong, Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng, Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt”.
Và những bàn tay vấy máu đồng bào của Cộng sản Việt Nam cho tới nay, chúng vẫn cứ “Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ”. Do đó, mà mọi người đã nhìn thấy được những hình ảnh của bọn Công an Cộng sản đã dùng những cực hình man rợ, trước khi xuống tay giết người vô cùng tàn bạo, với những xác thân đẫm máu của những đồng bào vô tội ở trong nước; đặc biệt, là chúng vẫn một lòng: “Thờ Mao chủ tịch, thờ Sit-ta-lin”, vẫn xem bọn Nga, bọn Tầu là tổ tiên của chúng, cho nên, chúng mới phải “thờ”. Không những chỉ “thờ”, mà đảng Cộng sản Việt Nam đã vì miếng đỉnh chung, mà đã đem Hoàng Sa, Trường Sa và cả những thành phố như Bình Dương, Bình Thuận, Hải Phòng, Cam Ranh, Vũng Tầu… cũng những vùng đất mầu mỡ của đất nước đem dâng, bán cho bọn giặc Tầu không hề tiếc thương những dòng máu của tiền nhân đã đổ xuống, để có một giang sơn hoa gấm như ngày hôm nay.

Nên nhớ, nếu Hồ Chí Minh “chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” không ra lệnh cho đảng Cộng sản Việt Nam xé bỏ hiệp định Genève, ngày 20/7/1954, về Việt Nam, xua quân xâm lăng nước Việt nam Cộng Hòa, với “quyết tâm” là phải tóm thâu hết cả nước Việt Nam để dâng cho giặc Tầu, thì chắc chắn không có cuộc tắm máu đồng bào vô tội trong những ngày Tết MậuThân, 1968, tại Huế, và không có ngày Quốc Hận 30/4/1975, với hàng triệu quân, Dân, Cán, Chính Việt Nam Cộng Hòa phải chịu những cảnh đày ải trong những trại tù “cải tạo” trên những “vùng kinh tế mới” hay đã chết trên những con đường vượt thoát khỏi nước để chạy trốn bọn Cộng sản bạo tàn.

Hồ Chí Minh đã gian manh khi đã đạo văn trong Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ để lừa bịp toàn dân:

“Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được”.

“Bình đẳng- không ai có thể xâm phạm”. Vậy chúng ta nên nói lại, để cho đồng bào hiểu rằng:

Tất cả mọi đảng viên TRUNG KIÊN của đảng Cộng sản Việt Nam đều được bình đẳng - Chỉ có đảng Cộng sản Việt Nam là không ai có thể xâm phạm; và chỉ có đảng cộng sản Cộng sản Việt Nam mới có quyền xâm phạm tất cả những quyền lợi, kể cả mạng sống của người dân Việt, còn tất cả những người dân nghèo khổ, thấp cổ, bé họng, thì đừng mơ chi đến những chuyện “khiếu kiện, công bằng…”; bởi vì, những cái gọi là “tòa án nhân dân, là “ủy ban nhân dân, phòng Công an…”. Nói chung là “luật pháp, chính quyền nhân dân” tại nước Việt Nam Cộng sản, chỉ là những bức bình phong, để che đậy những hành vi tàn ác của đảng Cộng sản, để áp bức tất cả những ai dám lên tiếng chống lại Tầu Cộng và Việt Cộng, vì bọn chúng tuy hai nhưng là một; bằng chứng là chúng luôn luôn đi diễn lại những trò như, hôm nay bọn chúng lên tiếng làm ra cho có vẻ “chống Tầu”, thì ngày hôm sau, bọn chóp bu của chúng phải vội vàng khăn gói sang Tầu, khấu đầu yết kiến “Thiên triều”.

Còn “quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; thì bất kể một người bình thường nào, cũng đều thấy, những cảnh đấu tố nhau giữ những người thân yêu ruột thịt, bỏ tù những người yêu nước, tranh đấu cho tự do, dân chủ, gây ra những cảnh vợ chồng mất nhau, con cái phải lìa xa cha mẹ, đau khổ mỗi ngày càng thêm chồng chất, thì làm sao có “quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc “ ?!

Tuy nhiên, là những người Việt Nam yêu nước chân chính, đứng trước đại họa: đất nước sẽ trở thành một tiểu quận của bọn giặc Tầu, thì tất cả chúng ta, không vì bạo lực của đảng Cộng sản, mà có thể mãi mãi phải cam đành cảnh áp bức, đọa đày, bởi vì, muốn có tự do, dân chủ, muốn giành lại quê hương, đất nước, thì không còn cách nào khác, là tất cả, toàn dân Việt phải ý thức được những nguy cơ đó, mà phải cùng nhau một lòng đứng lên tự cứu lấy chính bản thân, cứu lấy non sông, và phải đập tan cái đảng Cộng sản Việt Nam, sau đó đánh đuổi giặc Tầu ra khỏi lãnh thổ và lãnh hải của Tổ quốc Việt Nam. Bởi vì, chính đảng Cộng sản Việt Nam là thủ phạm đã gây ra cả hai ngày Quốc Hận: 20/7/1954, và Ngày Quốc Hận 30/4/1975.

Cao Lân


Sunday, April 10, 2016

Uproar over restaurant name

    Protesters rally outside 'offensive' New Farm Uncle Ho restaurant
Protesters said they chose to rally after peaceful attempts to contact owners failed.
(ABC News: Anna Macdonald)

About 100 people have protested outside Brisbane's Uncle Ho restaurant, which was closed on Sunday due to "death threats" for naming the eatery after Vietnamese communist leader Ho Chi Minh.

The city's Vietnamese community said the name and advertising was ignorant and insulting and they would continue to organise protests until the name was changed.

They held a peaceful protest outside the New Farm establishment on Sunday morning, singing national songs and holding placards such as "Ho Chi Minh is nobody's uncle".

The restaurant's director Anna Demirbek was unapologetic in an Instagram post on Sunday.

She said they were fully conscious the brand would be sensitive.

"We have no position on the political or historical landscape of Vietnam," she said.

"We are not communist sympathisers.
Protesters said the restaurant's name was ignorant. (ABC News: Anna MacDonald)

"Over the past 24 hours management have received death threats and threats of burning down the building our business is housed in."

Phuong Nguyen said protesters' attempts to contact the owners of the New Farm restaurant had failed.

She said because their peaceful approach did not work, they decided to rally.

"For Vietnamese, especially from the south, who risked their lives and ran away from their country by boat in the 70s and 80s, we hate that name," she said.

"We settled in Australia and live in peace and enjoy the freedom, democracy and work hard in a country which opened its arms to us.

"We are incensed.

"The posters in there is some sort of promotion for the Vietnamese army and remind us of the invasion of Saigon.
It is not only the name which has angered the local Vietnamese community, but the advertising material.
(Instagram: Unclehonewfarm)

"It was a terrifying period for all of us, we were the losers and the winner did not treat us humanly.

"Why do you promote an eatery with all the war, guns, tanks images?"

Millions fled Vietnam as a result of Ho Chi Minh and the communist regime.

Since its opening earlier this year, the restaurant's Instagram feed has drawn criticism for making light of the history.

One post a month ago, featuring a red tank and military saying "gather your squadron and mobilise the troops" offended a number of people.

"This kind of imagery is insensitive at best and horribly offensive to so many Vietnamese Australians, many whose families fled torture and death at the hands of 'Uncle Ho', it's also a slap in the face to many Vietnam vets," patches_o wrote.

The ABC has attempted to contact the restaurant's owners.
Millions fled Vietnam as a result of Ho Chi Minh and the communist regime.
(Instagram: Unclehonewfarm)

Source: http://www.abc.net.au/news/2016-04-10/vietnamese-restaurant-uncle-ho-offensive-protest/7314068


Saturday, April 2, 2016

Nền Tảng Của Thể Chế Chính Trị VIỆT NAM CỘNG HÒA - : Nguyễn Thanh Bạch

    Nền Tảng Của Thể Chế Chính Trị VIỆT NAM CỘNG HÒA
Nguyễn Thanh Bạch

I. Sự hình thành của chế độ Việt Nam Cộng Hoà

Quốc gia Việt Nam được thành lập với cơ sở pháp lý là các hiệp ước ký kết giữa Chính phủ Pháp và Cựu hoàng Bảo Đại:

1. Hiệp ước Vịnh Hạ long ngày 07-12-1947

2. Hiệp ước Élysée ngày 08-03-1949

xác nhận “nền đôc lập của nước Việt nam”, chính thức thành lập Quốc gia Việt nam trong Liên hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc trưởng Bảo Đại.

Tính đến năm 1950, có 35 quốc gia công nhận Quốc gia Việt nam.

Và cuối cùng là Thỏa ước Matignon (Accords de Matignon) ký kết ngày 04-06-1954 giữa Thủ tướng Quốc gia Việt nam Nguyễn Phúc Bửu Lộc và Thủ tướng Pháp Joseph Laniel, xác định Quốc gia Việt nam độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và tách khỏi Liên hiệp Pháp. Chính phủ Pháp chuyển giao mọi cơ sở hành chánh, quôc phòng, an ninh cho quốc gia Việt nam.

Sau cuộc Trưng Cầu Dân Ý ngày 23 thánh 10 năm 1955, Thủ tướng Ngô đình Diệm thay thế Quốc trưởng Bảo Đại để lên nắm quyền, trở thành Quốc trưởng Việt nam.

Sau đó, Quốc gia Việt nam tổ chức bầu cử Quốc hội lập hiến vào ngày 4 tháng 03 năm 1956, khai mạc vào ngày 17 tháng tư năm 1956 với 123 dân biểu (trong số 405 ứng cử viên) Chủ tịch Quốc hội là Ông Nguyễn phương Thiệp. Quốc hội lập hiến có nhiệm vụ soạn thảo Hiến pháp. Hiến pháp được ban hành ngày 26 tháng mười năm 1956. Nước Việt Nam Cộng Hòa ra đời từ đây, trên cơ sở thừa kế Quốc gia Việt nam, thủ đô là thành phố Sài gòn. Ngày ban hành Hiến pháp trở thành ngày quốc khánh của nước Việt Nam Cộng Hòa (Đệ nhất VNCH). Danh xưng Đệ nhất Cộng hoà chỉ xuất hiện vào năm 1967 khi nền Cộng hoà thứ hai được thành lập.

Lần đầu tiên sau ngày ký kết Hiệp định Genève chia đôi đất nước, miền Nam Việt nam xây dựng nên chính thể cộng hoà, người lãnh đạo nhà nước do dân bầu, thực hiện chế độ dân chủ pháp trị, tam quyền phân lập, đa đảng và chủ trương chống Cộng.

Chiếu theo Hiến pháp, đứng đầu Hành pháp là Tổng thống, đưọc dân bầu theo phổ thông đầu phiếu, với nhiệm kỳ 5 năm và có thể ứng cử 3 nhiệm kỳ liên tiếp.

Cơ quan Lập pháp, có một Viện với 123 dân biểu, được dân bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 3 năm.

Về ngành Tư pháp, có Viện Bảo hiến với nhiệm vụ duyệt xét luật lệ ban hành cho phù hợp với Hiến pháp. Các toà án gồm có: toà vi cảnh, các toà: sơ thẩm, hoà giải, thượng thẩm, đại hình và các toà án quân sự. Toà phá án (cour de cassation) là pháp đình tối cao, trụ sở đặt tại Sài gòn.

Đệ nhất Cộng hoà tổ chức bầu cử Quốc hội khoá 2 vào năm 1959, với 441 ứng cử viên, tranh nhau 123 ghế dân biểu. Tại Sài gòn, tỉ số dân bầu ủng hộ Chính phủ là 42%. Bác sĩ Phan quang Đán thuộc khối Dân chủ đắc cử với 36.000 lá phiếu.

Trong cuộc bầu cử Tổng thống vào năm 1961, liên danh Ngô đình Diệm – Nguyễn ngọc Thơ đắc cử với 88% số phiếu. Ngoài ra còn có các liên danh Hồ nhật Tân – Nguyễn thế Truyền và liên danh Nguyễn đình Quát – Nguyễn thành Phương.

Trong thời gian khoảng 5 năm, thời Đệ nhất Việt nam Cộng hoà, dân chúng hưởng thái bình, xã hội ổn định, kinh tế phát triển theo mô hình kinh tế thị trường, gần một triệu dân di cư từ miền Bắc được định cư, an cư lạc nghiệp.

Cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 do một nhóm quân nhân chủ trương đưa đến sự cáo chung của Đệ nhất Cộng hoà. Trong thời gian 1963 – 1967, có thể gọi là thời kỳ quân quản, miền Nam Việt nam do quân đội nắm chính quyền. Một loạt hiến chương ra đời, thay thế cho Hiến pháp. Cơ quan lãnh đạo, liên tiếp theo thời gian, có nhiều danh xưng: Hội đồng quân nhân cách mạng, Uỷ ban lãnh đạo lâm thời (tam đầu chế), Hội đồng quân lực, Ủy ban lãnh đạo quốc gia.

Tháng 6 năm 1966, Ủy ban Lãnh đạo quốc gia với Chủ tịch là Trung tướng Nguyễn văn Thiệu và Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung Ương là Thiếu tướng Nguyễn cao Kỳ tổ chức bầu cử Quốc hội lập hiến, bầu ra118 đại biểu. Quốc hội lập hiến soạn thảo Hiến pháp và ngày 1 tháng tư năm 1967, ra tuyên cáo Hiến pháp vừa mới ban hành là cơ sở pháp lý của Việt nam Cộng hoà (Đệ nhị Cộng hoà). Ngày 3 tháng 09 năm 1967 là ngày bầu cử Tổng thống và Quốc hội. Liên danh ứng cử Tổng thống và Phó Tổng thống là liên danh Nguyễn văn Thiệu – Nguyễn cao Kỳ đắc cử với 35% số phiếu. Năm 1971, có cuộc bầu cừ lần thư nhì, liên danh Nguyễn văn Thiệu – Trần văn Hương đắc cử, không có đối thủ, do đạo luật mới được Quôc hội thông qua ngày 3 tháng 06 năm 1971 hạn chế khả năng tham gia ứng cử. Theo đạo luật nầy, ứng cử viên phải có 40 chữ ký ủng hộ của dân biểu hay nghị sĩ Quốc hội và 100 chữ ký của các thành viên Hội đồng tỉnh. Các liên danh Dương văn Minh, Nguyễn cao Kỳ rút tên vì không thoả mãn được điều kiện nầy.

Chiếu theo Hiến pháp mới, cơ quan lập pháp có lưỡng viện: Thượng viện có từ 30 tới 60 nghị sĩ, nhiệm kỳ là 6 năm, bầu theo liên danh, lấy toàn quốc làm đơn vị độc nhất. Hạ viện có từ 100 đến 200 dân biểu, nhiệm kỳ 4 năm, bầu theo cá nhân, căn cứ theo từng tỉnh.. Hiến pháp còn qui định Hạ viện phải có 6 ghế dành cho người Việt gốc Miên, 6 người Thượng, 2 người Chàm và 2 người thuộc dân tộc thiểu số Bắc Việt di cư vào Nam.

Khoá đầu tiên Thượng viện năm 1967-1973 có 6 liên danh, mỗi liên danh là 10 người, tổng cộng là 60 nghị sĩ. Ông Nguyễn văn Huyền được bầu làm Chủ tịch Thượng viện.

Khoá đầu tiên Hạ viện năm 1967-1971 có 137 dân biểu. Chủ tịch Hạ viện là ông Nguyễn bá Lương. Năm 1971, số dân biểu tăng lên là 159; mỗi dân biểu đại diện khoảng 50.000 cử tri.

Trong Quốc hội, vào năm 1974, Thượng viện có 41 nghị sĩ thân Chính phủ, 19 nghị sĩ đối lập. Hạ viện có 84 dân biểu thân Chính phủ, 59 đối lập và 16 độc lập.

Hành pháp được bầu theo liên danh hai người, một người làm Tổng thống, người kia là Phó Tổng thống.

Trong cuộc bầu cử năm 1967, liên danh Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn cao Kỳ đắc cử với 34,8% số phiếu. Tuy nhiên, nếu tính riêng thủ đô Sài gòn thì liên danh Trần văn Hương-Mai thọ Truyền được nhiều phiếu nhất (151.102), nhì là liên danh Nguyễn văn Thiệu-Nguyễn cao Kỳ (148.933), thứ ba là liên danh Trương đình Dzu-Trần văn Chiêu (83.374).

Tổng thống chỉ định Thủ tướng Chính phủ và Thủ tướng đệ trình danh sách Nội các điều hành Chính phủ. Thủ tướng của Nội các đầu tiên, nhậm chức ngày 9 tháng 11 năm 1967 là ông Nguyễn văn Lộc.

Tư pháp: Đứng đầu ngành tư pháp là Tối cao pháp viện (TCPV).

Chiếu theo các điều 81-83 của Hiến pháp VNCH, TCPV có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, phán quyết về tính cách hợp hiến hay bất hợp hiến của các đạo luật, sắc luật; tính cách hợp hiến và hợp pháp của các sắc lệnh, nghị định va quyết định hành chánh.

TCPV có thẩm quyên phán quyết về việc giải tán một chánh đảng có chủ trương và hành động chống lại chính thể Cộng hoà. Trong trường hợp nầy, TCPV sẽ họp khoáng đại toàn viện, các đại diện Lập pháp hoặc Hành pháp có thể tham dự để trình bày quan điểm.

Những quyết định của TCPV tuyên bố một đạo luật bất hợp hiến hoặc giải tán một chánh đảng phải hội đủ ¾ tổng số thẩm phán TCPV.

TCPV có thẩm quyền phán quyết về các vụ thượng tố các bản án chung thẩm.

TCPV có ngân sách tự trị và có quyền lập qui để quản trị ngành Tư pháp.

Hiến pháp quy định: TCPV gồm có từ 9 tới 15 thẩm phán, nhiệm kỳ 6 năm, luân phiên mỗi 3 năm thì bầu lấy 6 ghế.

Quy chế chọn thẩm phán:

Uỷ hội tuyển cử TCPV gồm có 7 thành viên : Chủ tịch Thượng viện Quôc hội VNCH, 1 thượng nghị sĩ, Chủ tịch Quốc hội VNCH, 1 dân biểu, 1 vị chánh án, 1 biện lý, 1 luật sư.

Điều kiện ứng cử viên: – Công dân Việt nam
  • 10 năm thâm niên làm chánh án, biện lý hoặc luật sư
  • Lý lịch sạch; không có quá khứ chống Chính phủ; hoạt động chống Cộng.
  • Nếu là phái nam thì phải hợp lệ quân dịch.
Danh sách ứng cử viên sẽ được ba hiệp hội chuyên nghiệp luật khoa : luật sư đoàn, công tố đoàn và thẩm phán đoàn tuyển chọn, mỗi hiệp hội 50 hội viên, tổng cộng là 150 . Sau đó, sẽ duyệt lại danh sách, bàn thảo, thanh lọc, rồi chọn 30 tên.

Danh sách 30 ứng cử viên sẽ được đệ trình Quốhội để bỏ phiếu, tuyển lấy 6 người và chuyển sang Phủ Tổng thống phê chuẩn. Chủ tịch TCPV sẽ do chính các vị thẩm phán TCPV tự chọn.

Trụ sở TCPV là Dinh Gia long.

Hiến pháp VNCH 1967 còn thiết lập các định chế đặc biệt: Đặc biệt Pháp viện (ĐBPV) và Giám sát viện (GSV).

ĐBPV có thẩm quyền truất quyền Tổng thống, Phó Tổng thống, Thủ Tướng, các Tổng Bộ trưởng, các Thẩm phán TCPV và các Giám sát viện trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội khác.

ĐBPV do Chủ tịch TCPV giữ chức Chánh thẩm và gồm 5 Dân biểu và 5 Nghị sĩ.. Khi Chủ tịch TCPV là bị can, Chủ tịch TNV giữ chức Chánh thẩm.

GSV có thẩm quyền :

1- Thanh tra, kiểm soát và điều tra nhân viên các cơ quan công quyền và tư nhân đồng phạm hay tòng phạm về mọi hành vi tham nhũng, đầu cơ, hối mại quyền thế hoặc phương hại đến quyền lợi quốc gia.

2- Thẩm tra kế toán đối với các cơ quan công quyền và hợp doanh.Kiểm kê tài sản các nhân viên các cơ quan công quyền kể cả Tổng thống, Phó Tổngthống, Thủ tướng,Dân biểu, Nghị sĩ, Chủ tịch TCPV.

3- Kiểm kê tài sản các nhân viên các cơ quan công quyền kể cả Tổng thống, Phó Tổng thống, Thủ tướng, Dân biểu, Nghị sĩ, Chủ tịch TCPV.

Riêng đối với Chủ tịch GSV và các GSV, việc kiểm kê tài sản do TCPV đảm trách.

GSV có quyền đề nghị các biện pháp chế tài và kỷ luật đối với nhân viên phạm pháp hoặc yêu cầu truy tố đương sự ra trước toà án có thẩm quyền.

GSV gòm từ 9 đến 18 GSV, 1/3 do Quốc hội, 1/3 do Tổng thống va 1/3 do TCPV chỉ định.

GSV có ngân sách tự trị và có quyền lập qui để tổ chưc nội bộ và quẩn trị ngành giám sát.

Hiến pháp VNCH năm 1967 có quy định trong Chương 7 về chính đảng và đối lập.

Quốc gia công nhận chánh đảng giữ vai trò thiết yếu trong chế độ dân chủ. Hánh đảng được tự do thành lập và hoạt động theo các thể thức và điệu kiện luật định.

Quốc gia khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng.

Quốc gia công nhận sự định chế hoá đối lập chính trị.

II. Các sắc thái riêng biệt của thể chế chính trị Việt Nam Cộng hoà

Chúng ta hãy cùng đọc «Lời mở đầu» và «Điều khoản căn bản» của bản Hiến pháp VNCH năm 1956 và năm 1967 để tìm ra những nét đặc thù của thể chế chính trị VNCH.

Lời mở đầu Điều căn bản ghi trong Hiến pháp VNCH năm 1956 như sau :

Tin tưởng ở tương lai huy hoàng bất diệt của Quốc gia và Dân tộc Việt nam mà lịch sử tranh đấu oai hùng của tổ tiên và ý chí quật cường của toàn dân đảm bảo;

Tin tưởng ở sự trường tồn của nền văn minh Việt Nam, căn cứ trên nền tảng duy linh mà toàn dân đều có nhiệm vụ phát huy;

Tin tưởng ở giá trị siêu việt của con người mà sự phát triển tự do, điều hoà và đầy đủ trong cương vị cá nhân cũng như trong đời sống tập thể phải là mục đích của hoạt động Quốc gia.

Chúng tôi, Dân biểu Quốc hội Lập hiến:

Ý thức rằng Hiến pháp phải thực hiện nguyện vọng của nhân dân, từ Mũi Cà mau đến Ải Nam quan;

Nguyện vọng ấy là:

Củng cố độc lập chống mọi hình thức xâm lăng thống trị;

Bảo vệ tự do cho mỗi người và cho dân tộc;

Xây dựng dân chủ về chánh trị, kinh tế, xã hội, văn hoá cho toàn dân trong sự tôn trọng nhân vị.

Ý thức rằng quyền hưởng tự do chỉ được bảo toàn khi năng lực phục tùng lý trí và đạo đức, khi nền an ninh tập thể được bảo vệ và những quyền chính đáng của con người được tôn trọng;

Ý thức rằng nước ta ở trên con đường giao thông và di dân quốc tế, dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ để hoàn thành sứ mạng trước đấng Tạo hoá và trước nhân loại là xây dựng một nền văn minh và nhân bản bảo vệ phát triển con người toàn diân.

Sau khi thảo luận, chấp nhận bản hiến pháp sau đây:

Thiên thứ nhất: Điều khoản căn bản

Điều 1: Việt nam là một nước Cộng hoà, Độc lập, Thống nhất, lãnh thổ bất khả phân.

Điều 2: Chủ quyền thuộc về toàn dân.

Điều 3: Quốc dân ủy nhiệm vụ hành pháp cho Tổng thống dân cử, và nhiệm vụ lập pháp cho Quốc hội cũng do dân cử.

Sự phân nhiệm giữa hành pháp và lập pháp phải rõ rệt. Hoạt động của các cơ quan hành pháp và lập pháp phải được điều hoà.

Tổng thống lãnh đạo quốc dân.

Điều 4: Hành pháp, lập pháp, tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ tự do, dân chủ, chính thể cộng hòa và trật tự công cộng. Tư pháp phải có một quy chế bảo đảm tính cách độc lập.

Điều 5: Mọi người dân, không phân biệt nam nữ sinh ra bình đẳng về phẩm cách, quyền lợi và nhiệm vụ, và phải đối xử với nhau theo tinh thần tương thân tương trợ.

Quốc gia công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của con người trong cương vị cá nhân hay trong cương vị tập thể.

Quốc gia cố gắng tạo cho mọi người những cơ hội đồng đều và những điều kiện cần thiết để thụ hưởng quyền lợi và thực hành nhiệm vụ.

Quốc gia tán trợ sự khuếch trương kinh tế, phát huy văn hoá, khai triển khoa học và kỹ thuật.

Điều 6: Người dân có những nhiệm vụ đối với tổ quốc, với đồng bào, mục đích là để thực hiện sự phát triển điều hoà và đầy đủ nhân cách của mọi người.

Điều 7: Những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiên một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với các nguyên tắc ghi trong Hiến pháp.

Điều 8: Nước VNCH chấp nhận những nguyên tắc quốc tế pháp không trái với sự thực hiện chủ quyền quốc gia va sự bình đẳng giữa các dân tộc.

Quốc gia cố gắng góp phần xây dựng và bảo vệ nền an ninh và hòa bình quốc tế cùng duy trì và phát triển sư liên lạc thân hữu giữa các dân tộc trên căn bản tự do và bình đẳng.

Và sau đây là Lời mở đầu và Điều khoản căn bản của Hiến pháp VNCH năm 1967:

Tin tưởng rằng lòng ái quốc, chí quật cường, truyền thống đấu tranh của dân tộc bảo đảm tương lai huy hoàng của đất nước.

Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể Cộng hoà của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn kết dân tộc , thống nhất lãnh thổ, bảo đảm độc lập, tự do, dân chủ trong công bằng bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau.

Chúng tôi một trăm mười bảy Dân biểu Quốc hội Lập hiến, đại diện nhân dân Việt nam, sau khi thảo luận, chấp thuận bản Hiến pháp sau đây :

Chương I. – Điều khoản căn bản

Điều I: Việt nam là một nước CỘNG HOÀ, độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân.
Điều 2: 
  1. Quốc gia công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của mọi công dân.
  2. Quốc gia chủ trương sự bình đẳng giữa các công dân không phân biệt nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, đảng phái. Đồng bào thiểu số được đặc biệt nâng đỡ để theo kịp đà tiến bộ chung của dân tộc. 
  3.  Mọi công dân có nghĩa vụ góp phần phục vụ quyền lợi quốc gia dân tộc.
Điều 3: Ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân quyền và phân nhiệm rõ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và điều hoà để thực hiện trật tư xã hội và thịnh vượng chung trên căn bản Tự do, Dân chủ và Công bằng xã hội.

Điều 4:
  1. VNCH chống lại chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thức.
  2.  Mọi hành vi nhằm mục đích tuyên truyền hay thực hiện chủ nghĩa cộng sản đếu bị cấm chỉ.
Điều 5:
  1. VNCH chấp nhận các nguyên tắc quốc tế pháp không trái với chủ quyền quốc gia và sự bình đảng giữa các dân tộc.
  2.  VNCH cương quyết chống lại mọi hình thức xâm lược và nỗ lực góp phấn xây dựng nền an ninh và hoà bình thế giới.
****
Trong phần mở đầu của Hiến pháp VNCH năm 1956 và 1967, chúng ta thấy, khi soạn thảo Hiến pháp, ngoài các ý niệm về dân chủ pháp trị, độc lập tự do, các vị dân biểu Quốc hội lập hiến còn chú tâm khai triển các triết lý về nhân bản, dân tộc và khai phóng, đã từng được chính thức hoá trong chính sách về giáo dục tại Đại hội Giáo dục quốc gia tại Sài gòn vào năm 1958. Các ý niệm nầy được ghi một cách cụ thể trong tài liệu «Những nguyên tắc căn bản» được Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành vào năm 1959, làm nền tảng cho triết lý giáo dục VNCH.

Theo tài liệu « Chính sách văn hoá giáo dục » của Hội đồng văn hoá giáo dục VNCH ấn hành vào năm 1972, các triết lý về « Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng » có thể hiểu như sau :

1. Tinh thần Dân tộc

Tinh thần dân tộc đề cao các giá trị của dân tộc Việt như: độc lập, tự do, tự chủ, thuần phong mỹ tục…

Thể chế VNCH tôn trọng các giá trị đặc thù, các truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp và đất nước. Nền Cộng hoà có nhiệm vụ bảo tồn và phát huy những tinh hoa của văn hoá dân tộc, đồng thời bảo đảm sự đoàn kết và sự trường tồn của dân tộc, sự phát triển điều hoà và toàn diện của quốc gia.

2. Tinh thần Nhân bản

Nhân bản là lấy con người làm gốc, đề cao giá trị thiêng liêng của con người, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời nầy làm căn bản; xem con người là một cứu cánh chứ không phải là một phương tiện hay công cụ phục vụ cho bất cứ cá nhân, đảng phái hay tổ chức riêng rẻ nào.

Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân nhưng không chấp nhận việc sử dụng các sự khác biệt để đánh giá con người vá không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo hay chủng tộc. Nhân bản là cội nguồn của đa nguyên. Xã hội nhân bản tôn trọng mọi sự khác biệt để con người cùng nhau xây dựng một cuộc sống hài hoà trong cộng đồng dân tộc. Một thể chế chính trị nhân bản là một thể chế đa đảng, quyền lực của tầng lớp lãnh đạo được pháp luật kiểm soát chặt chẽ. Mọi sinh hoạt về tôn giáo, văn hoá, nghệ thuật đều được khuyến khích và hỗ trợ một cách công bằng và không thiên vị.

Mặc dầu chưa phải là một thành viên của Liên hiệp quốc, VNCH đã nhìn nhận, áp dụng và cổ vũ quyền con người, quyền dân sự ghi trong bản Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền. Trong hoàn cảnh chiến tranh, gia đình có người thân ở phía bên kia ranh giới quốc cộng vẫn được luật pháp bảo vệ, được đối xử một cách công bằng, có thể tham gia chính trị, làm ăn buôn bán, con cháu được học hành như các con em khác tại miền Nam.

3. Tinh thần Khai phóng

Dân tộc Việt nam sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ, mở rộng, đón tiếp những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, với mục đích hiện đại hoá quốc gia và xã hội, phát triển sự hợp tác quốc tế, đóng góp vào sự thăng tiến của nhân loại.

Do tinh thần khai phóng, VNCH xây dựng một thể chế dân chủ tam quyền phân lập. Mô hình chính trị là mô hình chống cộng, đa nguyên và có thể đi đến lưỡng đảng ( Hiến pháp 1967).

Kết luận

Do hoàn cảnh lịch sử, vì miền Nam Việt nam bị bạn đồng minh bỏ rơi trong khi miền Bắc cộng sản được khối Cộng sản viện trợ đầy đủ nên miền Nam Việt nam đã bị Cộng sản thôn tính và chế độ VNCH tạm thời bị xoá tên kể từ ngày 30 tháng tư năm 1975.

Nhưng linh hồn VNCH vẫn còn sống mãi trong trái tim của người Việt quốc gia ở hải ngoại. Bản sắc VNCH cùng với tinh thần Dân tộc, Nhân bản và Khai phóng vẫn còn in sâu trong ký ức của người Việt lưu vong và sẽ lưu truyền cho các thế hệ mai sau.

Đặc biệt là, đối với giới trẻ ở trong nước đang tìm kiếm một hướng đi thích hợp về chính trị để thay thế cho chủ nghĩa cộng sản đã và sẽ thất bại, thể chế chính trị VNCH sẽ là tấm gương soi sáng hướng đi cho đất nước, thích hợp trong tương lai.

Nguyễn Thanh Bạch