Saturday, April 26, 2014

SOUTH Korean Prime Minister has resigned

South Korean PM Chung Hong-won offers resignation over sinking of Sewol ferry
Source:http://www.news.com.au/travel/travel-updates/south-korean-pm-chung-hongwon-offers-resignation-over-sinking-of-sewol-ferry/story-fnizu68q-1226897120885
http://cdn.newsapi.com.au/image/v1/external?url=http://content6.video.news.com.au/oybHlpbTpXVfJE2VHnmmlBdGBPcEP_p_/promo222775051&width=650&api_key=kq7wnrk4eun47vz9c5xuj3mc
All 15 crew members involved in the navigation of the capsized South Korean ferry have been detained.

SOUTH Korean Prime Minister has resigned over the deadly sinking of the Sewol ferry that claimed 187 lives.


Chung Hong-won offered his resignation saying he held himself responsible for the government’s poor response to the tragedy, Yonhap reports.

“The right thing for me to do is to take responsibility and resign,” Chung said.
“I wanted to resign earlier but handling the situation was the first priority and I thought that it was a responsible act to help before leaving. But I’ve decided to resign now not to be any burden on the administration.
“I offer my apology for having been unable to prevent this accident from happening and unable to properly respond to it afterwards.
“I believed I, as the prime minister, certainly had to take responsibility and resign.”

Prime Minister Chung Hong-won’s offer comes as the government faces increasing anger from relatives of victims that it didn’t do enough to rescue or protect their loved ones.

South Korean executive power is concentrated in the president, Park Geun-hye, so the offer appears to be largely symbolic. There was no immediate word from Park about whether she would accept the resignation.

Chung was heckled by relatives and his car was blocked when he visited a shelter on an island near the site of the sinking a week ago.
Angry outburst ... South Korean Prime Minister Chung Hong-won is shielded by his bodyguar
Angry outburst ... South Korean Prime Minister Chung Hong-won is shielded by his bodyguards from a bottle of water thrown by an angry relative of passengers on the Sewol ferry. Picture: Yonhap Source: AP

More arrests in ferry tragedy

Meanwhile all surviving crew members of a sunken ferry are in custody, as bad weather prevents the recovery of any of the more-than 100 bodies still missing.

The Sewol’s captain, Lee Joon-Seok, and 10 crew members had already been arrested on charges ranging from criminal negligence to abandoning passengers. The remaining four were arrested late on Saturday after warrants were issued, prosecutors said.

The confirmed death toll from the tragedy stands at 187, with 115 unaccounted for — many bodies are believed trapped in the ferry that capsized on April 16 on a routine voyage to southern Jindo island with 476 people on board.

The ship’s captain has been criticised for delaying the evacuation until the ferry was listing so badly escape was almost impossible.

Prosecutors have raided a host of businesses affiliated with the ferry operator, the Chonghaejin Marine Company, as part of a probe into corrupt management.
All sunken ferry crew in custody
In custody ... crew members of sunken ferry Sewol prepare to leave a court which issued their arrest warrant in Mokpo, South Korea. Source: AP

The widening investigation has also seen travel bans put on eight current and former executives of the Korea Register of Shipping — the body responsible for issuing marine safety certificates.

A looming storm and high tides put a temporary halt to operations to recover the remains of those still missing over a week after the disaster.

Despite Saturday’s difficult conditions, divers made several attempts to get into the ship, search officials said, but to no avail.

Making up the bulk of the passengers on the 6825 tonne Sewol when it sank were 325 high school students — around 250 of whom are either confirmed or presumed dead.

Although all hope of finding survivors has been extinguished, there is still anger and deep frustration among relatives of the missing over the pace of the recovery operation.
Recovery operation ... a diver wears a helmet to look for people still missing from the s
Recovery operation ... a diver wears a helmet to look for people still missing from the sunken ferry in the water off South Korea’s southern coast, near Jindo. Source: AP

Frogmen have battled strong currents, poor visibility and blockages caused by floating furniture as they have tried to get inside the upturned vessel, which rests on a silty seabed.

The challenging conditions have meant divers are unable to spend more than a few minutes in the ship each time they go down.

Even so, they are coming across horrifying scenes in the murky water, including one dormitory room packed with the bodies of 48 students wearing life jackets.

Around a quarter of the dead recovered so far have been found in waters outside the sunken vessel, and there are fears some of the missing may have drifted free from the wreck.

That could be exacerbated if the sea is churned by the gathering storm, scattering bodies.
Prayers ... South Korean Buddhists put candles to form the words meaning "Together", for
Prayers ... South Korean Buddhists put candles to form the words meaning "Together", for cherishing the memory of deceased persons and safe return of passengers aboard the sunken ferry, on a street in Seoul. Source: AP

“As efforts to find the missing people are becoming protracted, there are growing concerns among their families that bodies might be lost for good,” a coastguard official said.

Authorities — wary of the palpable anger among relatives — have mobilised trawlers and installed 13-kilometre-long nets anchored to the seabed across the Maenggol sea channel to prevent the dead being swept into the open ocean.

Dozens of other vessels and helicopters have been scouring the site and beyond, with the search operation expanded up to 60 kilometres from the scene of the disaster.

Police and local government officials will also be mobilised to search coastal areas and nearby islands, a coastguard official said.
--------------oOo-----------
Tưởng thú của cái đảng súc sinh việt gian cộng sản buôn dân bán nước Việt Nam, có làm được như
Thủ tướng Nam Hàn Chung Hong-won?




Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu Biểu Tình QUỐC HẬN 30-04-2014

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu Biểu Tình
QUỐC HẬN 30 Tháng 4
trước tòa "đại sứ" việt cộng tại thủ đô Canberra ngày 26-04-2014
 
Phát biểu của Trần Hương Thủy đại diện cho CĐNVTD/Wollongong tại Canberra,
biểu tình 30/4 năm 2014

****
Kính thưa quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo,
Kính thưa Ông CT/CĐ NVTD/Liên Bang,
Kính thưa quý vị CT/CĐ các Tiểu-Bang & Lãnh Thổ,
Kính thưa quý vị đại diện các hội đoàn và đoàn thể,

Quý đồng hương & các bạn trẻ thân mến,

Lời đầu tiên xin được thay mặt cho tất cả đồng hương Việt Nam tại Wollongong, chúng tôi xin gởi lời chào mừng và lòng ngưỡng mộ của chúng tôi đến tất cả quý vị đã từ khắp miền đất nước, tụ hội về thủ đô Canberra  hôm nay để biểu dương khí thế và bày tỏ lòng quyết tâm đấu tranh cho một nước Việt Nam tự do và dân chủ.

Chúng tôi cũng xin gởi lời chân thành cảm ơn đến anh Lê Công và tất cả đồng hương CĐNVTD tại Canberra đã lo toan và soạn sẵn chu đáo những nhu cầu cho buổi biểu tình ngày hôm nay.

Kính thưa quý vị,

Suốt thế kỷ 20, các phong trào cộng sản đã phát triển, nổi lên cướp chánh quyền và thành lập những chế độ độc tài trong suốt thế kỷ 20 vừa qua hầu hết đều nhờ vào hai sách lược chánh:  đó là khủng bố và dối trá. Họ đã công khai nâng hai yếu tố này lên thành một yếu tính chiến lược của chế độ.

Trong thời kỳ đấu tranh, cộng sản đã ra sức tuyên truyền đưa ra những lý tưởng tuyệt vời nhất, cao cả nhất, đồng thời cũng gieo vào lòng người dân những hình ảnh tươi đẹp của chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng thực tế chuyên chính vô sản đã diễn ra vô cùng bạo liệt, tàn khốc, chà đạp man rợ lên đạo lý, văn hóa và quyền con người.

Tại Việt Nam, để nắm vững chánh quyền ở miền Bắc sau hiệp định Geneve 54, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát động phong trào cải cách ruộng đất mà thực chất là dùng bạo lực khủng bố để làm tê liệt ý chí chống đối của người dân. Những án tử hình rùng rợn mà chúng ta chỉ nghe trong sử sách thời trung cổ đã được các cán bộ cộng sản đem ra sử dụng cho mọi trường hợp. Điểm nổi bật mà tôi muốn nêu lên ở đây là đối tượng bị sử chỉ là phương tiện mà cứu cách cho những hành động dã man này chính là tầng lớp nhân dân bị lùa ra đình làng để chứng kiến. Họ bị buộc phải vấy vào máu của những nạn nhân này để phải mang một mặc cảm tội lỗi và qua đó ý chí của họ bị đánh gục. Nhìn những người bạn láng giềng hiền lành mà hôm qua mình còn thân tình đi lại, bỗng hôm nay trở thành tội đồ, bị bắt quỳ gục mặt trước sân làng để nhận chịu những tội ác tưởng tượng do chính mình vì sợ hãi mà bịa đặt tố cáo thì thật khủng khiếp.

Cũng vậy, để bắt các nhà trí thức phải phục tùng và qui phục, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã dựng lên vụ án Nhân Văn Giai Phẩm để làm nhục và làm cớ bắt bớ giới trí thức trong nước. Bọn chúng đã dùng sách lược cô lập, bỏ đói toàn gia tộc để bắt các nhà văn nhà báo phải cúi đầu vâng phục và chấp nhận làm tay sai cho chánh quyền.

Cùng với quốc sách khủng bố nêu trên, Đảng Cộng Sản đã dùng sự dối trá để che mắt toàn dân tộc. Họ nói dối một cách vô liêm sĩ – và tột cùng của sự gian ác này là bọn chúng đã điềm nhiên giết chết trí tuệ của tuổi trẻ - nền móng của quốc gia tương lai bằng một hệ thống giáo dục học đường đầy tính bạo động và cổ võ sự gian trá.  Những huyền thoại thần thánh kiểu anh hùng Lê Văn Tám hay những tấm gương tốt tưởng tượng của Hồ Chí Minh đã được nhồi nhét vào những trí óc non trẻ của tầng lớp thiếu nhi. Mọi phương tiện truyền thông và xuất bản đều phải quy vào một mối là cơ quan tuyên truyền của chế độ.

Nói tóm lại, Cộng Sản đồng nghĩa với bạo lực và dối trá.

Suốt trong thế kỷ 20 vừa qua, nhân loại đã phải lúng túng khi phải đối đầu với hai thứ khí giới độc hại này của Cộng sản. Lương tâm và đạo lý con người không cho phép phe quốc gia chúng ta nhân danh hành động tự vệ để cũng sử dụng đòn phép như dĩ độc trị độc hay cứu cách biện minh cho phương tiện như bọn cầm thú Cộng Sản đã làm.

Thưa quý vị,

Bước vào thế kỷ 21, thế kỷ của tin học - Thời thế đã thay đổi.

Nhờ vào sự phổ quát của tin học ngày nay, các huyền thoại dối trá, những che đậy dơ bẩn của lịch sử mà chế độ Cộng Sản tuyên truyền hàng bao năm qua đã được đưa ra ánh sáng.  Bọn chúng quằn quại như con sâu quỷ quyệt đang ẩn nấp dưới lớp đất đen bị bới lên dăng thân dưới sức nóng của mặt trời sự thật. Sự cáo chung của chủ nghĩa gian trá Cộng sản đã đến hồi chung cuộc.  Mọi người chúng ta hãy vung những nhát cuốc tin học đào bới cho hết đám côn trùng ăn hại cộng sản lên để chúng đối mặt với lịch sử.

Người ta không thắp đèn rồi để dưới gầm giường mà phải kê lên cao cho sáng khắp căn nhà… Cũng vậy, tất cả chúng ta hãy cùng nhau sử dụng vũ khí tin học để tố cáo cho toàn thế giới biết, cho đồng bào trong nước biết những tội ác của cộng sản. Hãy mở mắt cho các đảng viên cộng sản thấy được sự bịp bợm của chủ nghĩa khốn nạn mà họ đang u mê theo đuổi. Và nhất là nhắn nhủ với đồng bào ta trong nước rằng bên họ vẫn có ta, những người con xa xứ luôn hướng về tổ quốc và sẽ ủng hộ họ vô điều kiện để lật đổ chế độ man rợ cộng sản.

Thống kê chánh thức từ Facebook Statistics cho biết tính đến đầu tháng Giêng năm nay, tổng số người sử dụng Facebook trên thế giới đã lên đến con số một tỷ ba trăm triệu người. Riêng tại Việt Nam, số liệu cho biết có đến hơn 22 triệu người thường xuyên sử dụng Facebook - Gần một phần tư dân số, thưa quý vị.

Ai đó đã nói: “Miền Nam không thua trên chiến trường, nhưng đã thất trận trên các đường phố thủ đô thế giới như Paris, Sydney, Washington, v.v..”.

Đúng vậy, thưa quý vị. Chúng ta đã để cho bọn cộng sản đầu độc thế giới bằng dối trá và tuyên truyền đưa đến việc đồng minh bỏ rơi Miền Nam Việt Nam - Năm 1975, vì cạn kiệt vũ khí, cha anh của chúng ta đã phải uất hận tan hàng. Thì nay, vũ khí đã có trong tầm tay, chúng ta còn chần chờ gì nữa?. Một người, mọi người hãy dùng internet, facebook, tweeters … phóng vào trong nước những tin tức cập nhật, tường trình những cuộc nổi lên của tầng lớp dân bị áp bức đó đây, vũ khí này sẽ như cái kính chiếu yêu để phá tan đi những huyền thoại dối trá của lũ ma sói và tái tạo niềm tự hào bất khuất trong lòng người đồng bào trong nước.

Cách mạng Hoa Lài thành công tại Tunisia là một thí dụ điển hình của vũ khí tin học này.

Hỡi đồng bào tôi – chúng ta không cần đợi ai cả, hãy tự phân tách tình hình, nếu thấy đúng và hợp lý có lợi cho tiền đồ dân tộc thì cứ mạnh dạn dấn thân. Xin đừng bi quan cho rằng tôi chỉ là một cá nhân nhỏ nhoi không đáng kể. Hãy săn tay áo lên và nhập cuộc.

Một hành động sẽ tạo nên hiện tượng, trăm hiện tượng sẽ sẽ tạo nên biến cố và triệu biến cố sẽ làm nên lịch sử.

Cầu mong cho tất cả chúng ta ý thức được nghĩa vụ của mình đối với đất nước.

Cầu mong cho tất cả chúng ta chân cứng đá mềm trên đường phục hưng đất Việt.

Nguyện xin anh linh tiên tổ phù trợ dân tộc và đất nước Việt Nam của chúng ta.

Im lặng là đồng nghĩa với tội ác.

Freedom is not free, we have to fight to get it. Muốn có tự do, chúng ta phải tranh đấu cho tới khi nào đạt được mới thôi

Freedom for Vietnam
Human Rights for Vietnam
Democracy for Vietnam
VN muôn năm

Kính chào quý vị.

Trần Hương Thủy
Canberra 26 April 2014
***
Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc châu
Đặt Vòng hoa Tưởng Niệm Những Chiến sĩ Việt-Úc
đã hy sinh cho lý tưởng Tự Do tại Việt Nam 1962-1973

ANZAC: Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
diễn hành tại Sydney, NSW Australia


Thề Không Phản Bội Quê Hương




Thursday, April 24, 2014

Vì đâu nên nỗi? - Mặc Giao

Vì đâu nên nỗi?
Mặc Giao

Lý do mất miền Nam vào tay cộng sản đến bây giờ vẫn còn được tranh cãi, dù ai cũng thấy nguyên nhân chính là việc Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam VN. “Tiền đồn chống cộng” này không còn cần thiết nữa, sau khi Mỹ biết Trung Cộng vào thời gian đó không có ý định và chưa đủ khả năng nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á. Những sửa soạn cho việc Mỹ rút khỏi VN đã được thực hiện với chương tình Việt Nam Hóa chiến tranh. Đến năm 1972, sau khi Cố vấn An ninh Kissinger và TT Nixon sang Tàu nói chuyện với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai thì ván bài đã được lật ngửa. Không đầy một năm sau, ngày 27-1-1973, Hiệp Định Paris chấm dứt chiến tranh VN được ký kết, với phần thua thiệt về phiá Nam VN, phần thắng lợi bất ngờ về phiá Bắc Việt, và Hoa Kỳ được “rút lui trong danh dự”.

Cầm bản dự thảo Hiệp Định đã được Mỹ và Bắc Việt phó thự (initial), Cố vấn Kissinger đi Sài Gòn bắt TT Nguyễn Văn Thiệu ký. Nếu TT Thiệu ký ngay thì chẳng khác gì ký vào tờ khai tử của chính ông và của cả miền Nam. Bản dự thảo coi như chung quyết (final draft) này dự trù TT Thiệu phải từ chức liền, trao chính quyền cho Hội Đồng Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc gồm 3 thành phần (Quốc, Cộng và thành phần thứ ba ở giữa). Hội đồng sẽ tổ chức một cuộc tổng tuyển cử để bầu lên một chính quyền mới cai trị miền Nam. Một điều khoản khác vô cùng tai hại là trong khi các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ và của các nước đồng minh (Đại Hàn, Úc, Thái, Phi Luật Tân) phải rút đi thì những đơn vị quân đội chính qui của Bắc Việt vẫn được quyền ở lại miền Nam. Dĩ nhiên TT Thiệu, Quốc Hội và chính phủ VNCH phản đối. Kissinger không thành công trong việc thuyết phục TT Thiệu. Ông ta giận dữ ra về và thề không trở lại Sài Gòn nữa. TT Nixon phải cử tướng Alexander Haig, Tổng Quản Trị (Chief of staff) Phủ Tổng Thống, qua Sài Gòn điều đình và làm áp lực tiếp. Cuối cùng Mỹ cũng phải thỏa hiệp không đòi TT Thiệu từ chức, không thay thế chính quyền miền Nam bằng Hội Đồng Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc, nhưng giữ nguyên điều khoản không buộc quân đội Bắc Việt rút khỏi miền Nam, vì sợ cộng sản sẽ không nhượng bộ điều này. Kissinger phải đi điều đình lại với Lê Đức Thọ. Phiá cộng sản không chịu sửa đổi bản thảo Hiệp định, Mỹ phải dội bom Hà Nội và phong tỏa hải cảng Hải Phòng vào những ngày cuối năm 1972 để làm áp lực. Cuối cùng Hà Nội cũng phải nhượng bộ nhưng vẫn còn lời chán vì họ được giữ quân tại miền Nam để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm chiếm. Thế là Hiệp định Paric được ký vào ngày 27-1-1973.
Để buộc TT Thiệu phải làm theo ý Hoa Kỳ, TT Nixon dùng chiến thuật vừa dỗ vừa dọa. Một mặt ông viết thư cho TT Thiệu hứa hẹn tiếp tục gúp đỡ VNCH, trừng phạt cộng sản nếu vi phạm Hiệp định, một mặt ông chính thức hăm dọa “không muốn trường hợp TT Ngô Đình Diệm tái diễn” (Xem Palace Files và Khi Đồng Minh Tháo Chạy của Nguyễn Tiến Hưng). Những tài liệu liên quan tới những lời TT Nixon nói về TT Thiệu đã được giải mật và lưu trữ tại Thư viện Nixon ở Yorba Linda, California, cho thấy Nixon rất giận dữ trước việc ông Thiệu chống đối những điều khoản căn bản của bản dự thảo Hiệp định. Cuốn băng ghi âm từ 1973 dài 150 giờ và viết lại thành 30,000 trang đã được giải mật và đã được ông Hughes, nhà chuyên môn nghiên cứu các băng ghi âm của các tổng thống Mỹ, tiết lộ Nixon đã từng nói trong một phiên họp tại Bạch Ốc về ông Thiệu: “Tôi không rõ đe dọa đó có đủ hay không, nhưng tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì, kể cả cắt đầu của hắn nếu cần thiết” (cut off his head if necessary - Nguồn: BBCvietnam.com June 24, 2009). Dĩ nhiên, Nixon nói điều này trong lúc nóng giận nhưng cũng phản ảnh một phần sự thật. Chính tướng Alexander Haig cũng viết trong hồi ký là vào thời điểm đó, tên ông Thiệu thường được nhắc tới trong các cuộc thảo luận và có người đưa ý kiến ám sát ông Thiệu. Tướng Alexander Haig viết thêm: “Nixon rất mong muốn giải quyết chuyện Việt Nam cho xong và chia sẻ sự bực bội và tức giận như núi lửa của Kissinger đối với người đồng minh cứng đầu này (ám chỉ ông Thiệu) đã gây trở ngại lớn nhất cho ông trong việc kết thúc cuộc chiến” (1).

Dọa nhau như thế, nhưng Mỹ đã không dám làm, vì không dại gì gây chuyện rắc rối mới khi sắp đến cuộc bầu cử nhiệm kỳ 2 của TT Nixon. Vì vậy thầy trò Nixon phải thuyết phục VNCH bằng những hứa hẹn trừng phạt những vi phạm Hiệp định và tiếp tục viện trợ cho Nam VN. Khi tiếp ông Nguyễn Phú Đức, Phụ Tá Ngoại Giao của TT Thiệu tại tòa Bạch Ốc, TT Nixon đã hứa sống hứa chết (he repeated his bedrock assurance) là sẽ bỏ bom Bắc Việt một cách nặng nề nếu Bắc Việt vi phạm hỏa ước (2). Về phần Ngoại Trưởng Henry Kissinger (nhận chức Bộ Trưởng Ngoại Giao ngày 22-9-1973) cũng viết trong hồi ký rằng chính TT Nixon, Bộ trưởng Quốc Phòng và các giới chức cao cấp của Mỹ đều xác nhận nhiều lần với ông Thiệu là chính phủ Hoa Kỳ sẽ buộc Bắc Việt phải tôn trong Hiệp định (3). Hứa như vậy chỉ là để ông Thiệu yên tâm ký một hiệp ước bất lợi. Thực tế, Mỹ chỉ muốn chấm dứt chiến tranh “trong danh dự”, có nghiã là lấy được tù binh về, rút chân khỏi vũng lầy VN, mặc cho Nam VN rơi vào tay cộng sản, trong một “khoảng thời gian coi được” (decent interval). Vì thế Hành Pháp bầy trò đề nghị Lập Pháp viện trợ cho Nam VN 700 triệu Đô-la. Lập Pháp lờ đi. TT Gerard Ford lại yêu cầu viện trợ khẩn cấp 300 triệu. Quốc Hội lấy cớ nghỉ hè, không thể triệu tập phiên họp cứu xét. Một khi người ta đã quyết tâm bỏ cho chết luôn, làm sao có thể cho tiền để sống lay lứt thêm một thời gian nữa?

Sau khi miền Nam rơi vào tay cộng sản, ông đạo diễn phù thủ Kissinger mới viết vuốt đuôi: “Lúc này tôi nghĩ tới một ông tướng VN nhỏ bé, một người yêu nước”. Ở một đoạn khác, ông viết: “Tôi có rất ít tình bạn cá nhân với ông Thiệu, nhưng nhìn ông theo đuổi cuộc chiến đấu một cách cô độc sau khi người Mỹ rút lui, tôi thấy mến phục ông ấy rất nhiều. Ông ít được thương hại, cũng cũng không được nhiều người hiểu, nhưng những điều đó không ảnh hưởng gì tới nhân cách của ông” (4).

Đúng là những lời ai điếu để an ủi. Chính Kissinger đã tiên đoán với Nixon là sau 2 năm ký Hiệp định Paris, miền Nam VN sẽ sụp đổ. Các chính khách có thói quen chỉ đấm ngực nhận lỗi sau khi rời chức vụ. Về trường hợp Việt Nam, cựu Tổng Thống Richard Nixon viết cả một cuốn sách rút những kinh nghiệm sai lầm, No More Vietnams. Cựu Ngoại Trưởng Henry Kissinger viết hồi ký có những đoạn xoa vuốt Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và gần đây đã chính thức xin lỗi về những sai lầm của mình. Ông còn xác nhận trong khi Mỹ chấm dứt viện trợ cho miền Nam thì khối Xô Viết vẫn tiếp tục cung ứng đầy đủ các tiếp liệu cho Bắc Việt. Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Melvin Laird nói rằng các khoản viện trợ Mỹ dành cho VNCH đã bị cắt theo yêu cầu của các thế lực chính trị Mỹ, đưa tới kết qủa chung cuộc là chế độ miền Nam VN thua trận vào ngày 30-4-1975 (VOA 2-7-2007).

Khi nhìn thấy vấn đề thì đã trễ. Nhưng khi tại chức, họ chỉ nghĩ tới quyền lợi của nước họ, tới ghế ngồi và danh dự của cá nhân họ. Một tay cầm súng, một tay cầm túi Đô la, họ cứ bước lên đầu người khác mà đi. Vì vậy, chúng ta phải nhớ, trong trường chính trị, không có đồng minh vĩnh viễn và cũng không có kẻ thù vĩnh viễn. Lý tưởng còn thay đổi huống chi chính sách. Khi nhu cầu đòi hỏi, họ có thể xoay đổi chính sách 180 độ, bất kể bao nhiêu tiền bạc và xương máu đã đổ ra. Tiền và mạng người được coi là những chi phí cần thiết cho một giai đoạn với một chính sách giai đoạn. Lúc phải tiêu là tiêu. Tiêu rồi không tiếc.

Dù quy trách nhiệm lớn nhất cho Hoa Kỳ trong việc mất miền Nam, chúng ta cũng phải tự nhận lỗi về những khuyết điểm của mình. Những tính toán sai của các lãnh đạo quân sự và dân sự, nạn tham nhũng, lính ma lính kiểng, hối mại quyền thế... đều có xảy ra dù không ở mức độ trầm trọng như dưới chế độ cộng sản. Không thể chấp nhận những tệ nạn này nhưng chúng không làm mất nước khi ở một mức độ thấp. Dân miền Nam vẫn sống no đủ, tự do, xây dựng hiện tại và tương lai với đà tiến triển không ngừng. Tội nặng nhất phải quy vào những kẻ chỉ biết vụ lợi, những kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”. Họ là những con buôn bán lén gạo và thuốc Tây cho cộng sản với giá cao. Họ là những người hướng về rừng với hoài cảm thời Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Họ là những trí thức viễn mơ đề cao giá trị dân tộc và chống sự hiện diện của người ngoại quốc trên đất nước. Họ lý luận rằng cộng sản hay quốc gia đều là người Việt, chắc không xử tệ với nhau như người ngoại chủng xử với dân mình. Từ đó, họ chống đối chính quyền quốc gia, gán cho mọi thứ xấu và sẵn sàng nghe theo những lời dụ dỗ của những cán bộ cộng sản nằm vùng. Họ là những người trẻ bị đàn anh phỉnh gạt bằng những lý luận sai lầm. Cuối cùng, họ là những người lãnh đạo tinh thần của một số tôn giáo đã vô tình hay hữu ý lẫn lộn chuyện đạo với chuyện đời, không phân biệt đấu tranh cho công lý với đấu tranh chính trị để lật đổ một chế độ hợp pháp, chưa kể mộ số tu sĩ là cộng sản nằm vùng khéo ngụy trang. Để cai trị một xã hội bị lũng đoạn như thế, chính quyền vẫn phải áp dụng những nguyên tắc dân chủ, hơi mạnh tay là bị kết án đàn áp, sửa đổi luật lệ cho hữu hiệu thì bị kết án độc tài. Có bàn tay cộng sản nhúng vào mọi chỗ mà nhiều người không biết, cứ tưởng mình đang tranh đấu cho hòa bình, tự do và quyền lợi của dân tộc. Chính những người như vậy đã tiếp tay cho cộng sản mau chiếm miền Nam.

Mất rồi mới tiếc. Mắt mở ra mới thấy mình lầm. Trong khi dân trong nước đang đấu tranh gian khổ để đòi lại những quyền công dân và quyền con người đã bị cướp mất, đang vật vã đòi lại và giữ gìn những phần biển, đảo mà ông cha để lại, chúng ta ở hải ngoại đang làm gì? Còn bao nhiêu người nghĩ tới quê hương? Có bao nhiêu người dấn thân trong những hành động tranh đấu đòi công lý và nhân quyền cho anh em ruột thịt trong nước? Hay đa số chúng ta vẫn thờ ơ, coi đó là việc của người khác? Có người còn tiếp tay cho những kẻ cầm quyền bán nước và hà hiếp dân dù chính họ đã từng là nạn nhân. May mắn thay, vẫn còn nhiều người âm thầm tranh đấu, hay ít ra cũng âm thầm góp công góp của để yểm trợ những người tranh đấu. Họ thuộc đa số thầm lặng, chỉ lên tiếng khi cần. Vì sống trong những xã hội tự do, các đoàn thể của người Việt đua nở như nấm gặp mưa. Có những đoàn thể tốt nhưng cũng có những đoàn thể hữu danh vô thực, thùng rỗng kêu to. Có những người tốt nhưng cũng có những người chỉ thích danh lợi, thích làm lãnh tụ, mới làm chủ tịch một hội nhỏ xíu đã mơ và cư xử như một thủ tướng, bộ trưởng, dân biểu tương lai. Do đó sự đố kỵ và chia rẽ gia tăng, cộng thêm những bàn tay bí mật của cộng sản và tay sai nhúng vào quậy phá các cộng đồng. Trước những tệ nạn trước mắt, chúng ta vẫn không thất vọng khi thấy sau 39 năm, cộng sản vẫn chưa chiếm được một cộng đồng người Việt nào ở hải ngoại, chưa đưa được khối người Việt hải ngoại vào vòng chi phối và thần phục nhà đương quyền Hà Nội, dù cộng sản đã tốn bao công sức và tiền bạc để thi hành Nghị Quyết 36.

Kỷ niệm 39 năm miền Nam bị đặt dưới chế độ cộng sản, chúng ta cần thay đổi phương cách hành động. Chúng ta nên ý thức rằng việc trực diện đấu tranh với cộng sản phải là việc của người trong nước, người ở ngoài chỉ có thể yểm trợ tinh thần, ngoại vận và phương tiện. Chúng ta không nên phí tiền bạc vào những việc phô trương bề ngoài. Hãy dồn phương tiện giúp anh chị em trong nước. Khi tranh đấu trong thời đại điện tử và thông tin nhanh chóng như hiện nay, họ cần phải có máy hình, điện thoại di động, computer... Khi ốm đau hoặc khi bị bắt vào tù, họ cần được tiếp tế lương thực và thuốc men, chưa kể những hoạt động khác đòi hỏi nhiều phương tiện hơn. Các đoàn thể ở hải ngoại nên phối hợp trong việc phân phối sự yểm trợ cho trong nước để tránh tình trạng chỗ ít qúa, chỗ nhiều qúa. Hãy tạo thêm những đường dây liên lạc mới, tìm kiếm thêm những người dấn thân mới và giúp đỡ họ. Nếu làm được như thế, đồng bào trong nước sẽ lên tinh thần và phong trào tranh đấu có cơ lớn mạnh nhanh chóng vì có sự yểm trợ cụ thể và hữu ích của đồng bào ngoài nước.

Mong rằng ngày 30-4 năm tới, chúng ta sẽ có một nước Việt Nam đẹp hơn nước Việt Nam hiện nay.

Mặc Giao

Chú thích:


(1) Alexander M. Haig, Jr., Inner Circle, tr 307, Warner Books, New York 1992

(2) Alexander Haig, sách đã dẫn, tr 306

(3) Henry Kissinger, Les Années Orageuses, tr 355, Fayard, France 1982

(4) Henry Kissinger, sách đã dẫn, tr 365


ĐỪNG BAO GIỜ TIN CỘNG SẢN, DÙ LÀ PHẢN TỈNH - Dương Thanh Đông

ĐỪNG BAO GIỜ TIN CỘNG SẢN, DÙ LÀ PHẢN TỈNH

Dương Thanh Đông

Tục ngữ thời nay có câu: "đừng tin những gì cộng sản nói, hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm" là cảnh giác cần thiết khi gặp những người cộng sản, không phân biệt những người cộng sản phản tỉnh. Đừng nghe những gì cộng sản chống đảng, hãy nhìn kỹ những gì họ làm, nói đúng hơn là dù chống đảng, nhưng cũng phải đề phòng những thành phần giả vờ chống đảng để tìm cách xâm nhập vào vùng đất của những người chống cộng thật sự, đó là những người cộng sản thường dùng khổ nhục kế và sau thời gian, họ đã lộ tông tích.

Có một số người hải ngoại ngây thơ, hay là lý luận ngụy biện, vì đã trao lập trường cho đảng Việt Tân, tay sai cộng sản ở nước ngoài. Họ cho là: những người chống đảng trong nước, phải nói là không chống đảng, tôn kính Hồ Chí Minh và lấy cờ đỏ để làm biểu tượng, để an toàn như tiến sĩ kinh tế Nguyễn Quang A, Lê Đăng Doanh, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, trung tướng Đồng Sĩ Nguyên… hay gần đây có Cù Huy Hà Vũ.

Tuy nhiên, nếu là thành phần chống đảng thực sự, nguy hiểm cho đảng, thì dù có dùng cờ đỏ sao vàng, biểu tượng Hồ Chí Minh và hàng nghìn lời nói: "tôi không và không bao giờ chống đảng, đảng muôn năm"... cũng bị đảng triệt hạ. Bài học của một số cán bộ cao cấp, công thần của đảng như thượng tướng Hoàng Văn Thái, Chu Huy Mân, Lê Trọng Tấn… chỉ khác nhau phe cánh, mà bị thanh toán như kẻ thù, ngày xưa trong cuộc chiến xâm lăng miền nam, đại tướng Nguyễn Chí Thanh vẫn luôn tôn kính Hồ Chí Minh, cờ máu và luôn hết lòng phục vụ đảng, nhưng vì thân Tàu nên đã bị các đồng chí thân Nga đưa vào nam và cử ban an ninh trung ương theo sát, giết chết trong 1 mật khu ở Tây Ninh, đổ thừa do bị trúng bom. Do đó, ngụy biện về những người cộng sản trong nước phải dùng cờ đỏ, tuyên bố không chống đảng như Cù Huy Hà Vũ… để an toàn, là sai, khó thuyết phục.

Còn những người cộng sản, bỏ nước ra đi, không sợ bị đảng thanh toán, thì thái độ của họ ra sao?. Những người cộng sản bỏ thiên đàng ảo mộng, ra nước ngoài sống, họ viết báo, sách chống các đồng chí cầm quyền hơn là chống đảng, chiến thuật bêu xấu, đấu tố cá nhân là những đảng viên cầm quyền, là lối phê, tự phê, sinh hoạt của đảng; nhưng lại được một số người ngây thơ, thấy những người phản tỉnh lên án các đồng chí tham nhũng, thì lầm tưởng là họ thật sự bỏ đỏ, họ đã lầm to, vì chống cá nhân là thành phần lãnh đạo hiện nay như Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng… chỉ là điểm, nhưng diện thì những người phản tỉnh cố tình phớt lờ.

Đại tá quân đội nhân dân Bùi Tín, nguyên phó chủ nhiệm cơ quan truyền thông hàng đầu là tờ Nhân Dân, sau thời gian phản tỉnh, bỏ nước sang sống ở Pháp, viết nhiều bài chống các đồng chí và nói chung chung về đảng, thì Bùi Tín khéo léo tự hào quá trình theo đảng, trong đó có lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bùi Tín khó dấu dã tâm là cộng sản ngụy phản tỉnh, khi hắn cố bào chữa cuộc thảm sát hơn 7 nghìn người trong tổng công kích tết Mậu Thân ở Huế là do cấp dưới làm, chứ đảng Cộng Sản không có chính sách. Vải thưa không thể che mắt thánh, vì tất cả các đơn vị bộ đội đều bị hệ thống đảng chỉ đạo từ cấp nhỏ đến cao, thì làm gì có bộ đội nào dám làm sai theo lệnh của đảng, họ phải thi hành lệnh đảng để tàn sát dân, là chính sách khủng bố trước sau như một.

Nhà văn nữ Dương Thu Hương, được nhiều người tin là chống đảng từ Việt Nam, nhưng lại an toàn, nếu chống đảng thực sự, thì đã bị hại bằng những dàn dựng tai nạn giao thông, du đãng đánh hay ám sát… sau khi Dương Thu Hương được sang Pháp sống, thì bà ta đã để lộ ra bản chất cộng sản, với tác phẩm Đỉnh Cao Chói Lọi, ca tụng Hồ Chí Minh.

Cán bộ văn vận Việt Thường Trần Hùng Văn, với việc xuất ngoại mù mờ, sang sống ở Anh quốc, là kẻ viết nhiều bài đấu tố các đồng chí, gây được ảnh hưởng và một số người tin, nhưng sau khi Việt Thường để lộ tông tích phản tỉnh giả là: "kêu gọi ứng cử vào quốc hội bù nhìn trong nước để tiến đến dân chủ", là lập trường giống như băng đảng Việt Tân và hỏa mù chính sách cộng sản. Việt Thường ca tụng chủ tịch Mặt Trận Hoàng Cơ Minh trong tác phẩm của hắn, ngoài ra Việt Thường Trần Hùng Văn còn khẳng định: "tôi không chống cộng, chỉ chống Việt gian".

Luật sư tốt nghiệp tại Việt Nam là Bùi Kim Thành, sau thời gian chống đảng, cũng xác nhận với Tường Thắng trong cuộc phỏng vấn: "dù sao bác Hồ cũng kính yêu". Người thanh niên mới 18 tuổi vào năm 1975 là Nguyễn Hưng Quốc, thuộc gia đình cách mạng, nên mới được học đại học và ở lại giảng dạy, sang Pháp và nay di cư sang Úc, trở thành nhà phê bình văn học tự phong, đã tuyên bố: "tôi không bao giờ chống cộng"

Nhân vật được đảng cộng sản đưa ra nước ngoài, vì nếu đảng CS không cấp visa, thì không thể xuất ngoại, đó là trường hợp tên trộm thơ Nguyễn Chí Thiện, hắn ăn cắp tập thơ của một người tù bất khuất, vô danh và đảng CS dùng tương kế tựu kế, đưa tên Nguyễn Chí Thiện, giả danh là người tù, được băng đảng tay sai là Việt Tân hứng lấy, nhịp nhàng biến thành thần tượng, với danh hiệu "ngục sĩ", hắn được đảng Việt Tân nuôi dưỡng, đưa đi thuyết trình nhiều nơi,
xuất bản sách… nhưng Nguyễn Chí Thiện đã lộ tông tích khi hắn khuyên người Việt đừng biểu tình chống lại những tên cán bộ cộng sản cao cấp sang Mỹ làm công tác ngoai giao, trái lại đến gặp và gọi là "hiền huynh" thì chúng sẽ về nước, giác ngộ và thay đổi, trả tự do cho dân. Nếu là ngục sĩ thật, thì những bài thơ nẩy lửa, tố cáo tội ác cộng sản, Hồ Chí Minh… thì Nguyễn Chí Thiện không bao giờ gọi bọn Cộng sản là hiền huynh, nhất là được tự do, sống ở Mỹ, thì sợ ai mà không tố cáo mạnh hơn nữa.

Nay Cù Huy Hà Vũ cũng tương tự, bị đảng kết án 7 năm tù và 3 năm quản chế, đã tuyên bố: "tôi không chống đảng". Trong thời gian ở tù, nhưng tù theo tiêu chuẩn các nước Tây phương, vợ hắn là Nguyễn Thị Dương Hà sang Mỹ, hộ chiếu do đảng cấp, rõ ràng là dàn dựng, vì nếu đảng không cấp Visa, thì dù có Mỹ can thiệp, cũng vô ích. Trước đây là dân biểu Mỹ là Loretta Sanchez đã bị Việt Nam không cấp Visa, cũng đành phải chào thua và lên tiếng phản đối, nhưng vô ích.

Cù Huy Hà Vũ sang Mỹ là do chế độ Hà Nội cho phép và dàn dựng, thêm một con chốt sang sông, như Bùi Tín, Dương Thu Hương, Bùi Kim Thành… Cù Huy Hà Vũ không chống đảng, vẫn bác hồ vĩ đại, thì người Việt nước ngoài nên cẩn thận, thêm một cháu ngoan bác hồ, dùng khổ nhục kế để xuất ngoại và được những kẻ đồng chí, đón gió, quan trọng là băng đảng Việt Tân, sẽ biến Cù Huy Hà Vũ thành thần tượng để lãnh đạo hải ngoại, tức nhiên là không chống đảng CS, chỉ chống các đồng chí cầm quyền, lái cuộc đấu tranh dân chủ tại Việt Nam thành cuộc đấu đá giữa hai phe cộng sản: "vô quyền và cầm quyền", phe cộng sản nào cũng "kính yêu Hồ Chí Minh và đảng muôn năm, ưu việt", thì ngày đất nước thoát khỏi gông cùm cộng sản chắc là còn gặp nhiều ngăn trở, nếu người Việt trong và ngoài nước chưa sáng mắt, cứ thấy cộng sản nói chống các đồng chí của họ là phe quốc gia, chắc chắc là thành phần phản tỉnh giả là Tám Khỏe thời đại.

Nếu Cù Huy Hà Vũ đấu tranh thành công và trở thành tổng bí thư đảng CS, thì hắn cũng chỉ là tên cộng sản, vẫn lá cờ đỏ sao vàng, tôn thờ Hồ Chí Minh, và chính sách bốc lột nhân dân vẫn không thay đổi, những dân oan khiếu kiện mà Cù Huy Hà Vũ giúp, hay bệnh vực, sẽ được ban cấp quyền hành và trả thù bằng cách trấn lột tài sản của phe cánh cầm quyền trước đây, nên ở Việt Nam sẽ có thành phần dân oan khiếu kiện mới. Vòng lẩn quẩn vẫn như cũ và đảng cộng sản vẫn cầm quyền, chỉ khác là thay đổi phe cánh mà thôi.

Hình ảnh con chó mà luật sư Nguyễn Văn Chức nói: "cộng sản là chó đẻ" không sai chút nào. Những con chó phản tỉnh, chống các đồng chí cầm quyền để tranh ăn, chúng sủa khá nhiều, dù có bị chủ nó là đảng CS trù dập, hay giả vờ bỏ tù để làm công tác khổ nhục kế… cũng luôn vẫy đuôi với chủ nó là đảng và bác. Đó là hình ảnh chung cho người cộng sản, kinh nghiệm xương máu và bài học những tên cộng sản giả vờ chống đảng, sống ở trong nước và hải ngoại, càng giúp cho người quốc gia khẳng định lần nữa:
"đừng tin những gì cộng sản nói, hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm".

Dương Thanh Đông


Thư gửi Cù huy Hà Vũ - Bút Xuân

 GS Bút Xuân Trần Đình Ngọc
Chào anh Cù huy Hà Vũ,
Đọc bài kèm đây anh viết về cha anh, nhà thơ Cù huy Cận, tôi phải bịt miệng chạy vội vào nhà tắm mấy lần để... mửa. Giờ này mà anh còn ca tụng thằng giặc Hồ tội đồ số 1 của dân tộc, bán biển dâng đất cho kẻ thù truyền kiếp, đày đọa dân tộc trong suốt gần 100 năm sống thua con chó Âu Mỹ, đất nước lùi xa vài, ba trăm năm so với lân bang mà tay sai và chủ tướng Hồ của cha con anh không hề biết nhục, cha con anh khen tướng cướp cũng không hề biết ngượng miệng, biết nhục là gì, thì tôi cũng chịu cho anh có cái gène mù đặc và luồn trôn của cha anh! Thật là cha nào con ấy. Không trách anh tuyên bố: "Tôi không chống đảng!". Trong khi toàn dân chống đảng vì những lý do gì anh quá biết! Văn Giang, Thái Hà, Cồn Dầu, Hà Tĩnh mới đây, nhiều nơi khác… đảng cướp đất của nông dân đẩy họ vào con đường đói khổ, lầm than. Anh có thấy nước nào ức hiếp người dân như thế không nhất là cha anh khi xưa, là nhà thơ, chữ nghĩa đầy mình, ca tụng nông, công nhân lên tới trời xanh!

Đọc bài anh viết, tôi không hiểu vì sao cha anh lại ca tụng giặc Hồ như Thuợng đế vậy? Năm 1945, người dân thấy Hồ lần đầu tiên ở Hà Nội và Hải Phòng. Bố tôi chỉ là một Nhà Nho lỡ vận không được đi thi Hương vì Pháp bỏ từ năm 1911, bố tôi nhìn Hồ rồi bảo tôi: "Bố coi tướng ông Hồ này mắt to mắt nhỏ, gân máu chằng chịt, là kẻ rất hiếu sát và gian dối. Mặt chuột kẹp không phải người quân tử”. Vừa xuống cảng, Hồ đã giết người rồi (Nguyễn văn Mão, trung đội trưởng bộ đội võ trang của Hồ và Giáp, Hồ giết để thị uy, dù Mão không có tội gì, lại có nhiều công trong bộ đội Võ trang Tuyên Truyền). Bố tôi nói tiếp: "bây giờ theo ông ta rồi có ngày ông ta bán nước cho coi, còn giết người không đồng chính kiến thì ông ta giết không biết thế nào mà kể được. Bây giờ hoan hô cho lắm, sau này sẽ chửi nhiều! Con chớ đi theo ông Hồ mà lỗi với Tổ quốc và mang hận."

Đó là những lời bố tôi dặn bảo tôi ngày 20-8-1945 (hay là 21, tôi đã quên) trước Nhà hát Lớn Hải Phòng khi dân Cảng đón ông Hồ xuống hiệu triệu kháng chiến.

Ngay sau đó, Cù huy Cận theo Trần huy Liệu vào Huế tịch thu ấn tín của vua Bảo Đại. Trần huy Liệu và Cù huy Cận, ngay chuyến đó, giết Học giả Phạm Quỳnh và con cả PQ là Phạm Giao. Vì vợ PG quá đẹp, hoa khôi Đồng Khánh, Trần Huy Liệu (BT Thông Tin Tuyên Truyền của Hồ, đảng viên kỳ cựu đảng CS quốc tế uy tín hơn cả Hà huy Tập, Lê hồng Phong…) cướp chị này và cưỡng dâm, sau mấy tháng, chuyện đến tai Hồ, Hồ bắt Liệu dâng chị này cho Hồ chơi. Đó là đại giải phóng và đại cách mạng của Hồ và Cù huy Cận mà ngay thực dân Pháp dã man chó đẻ cũng không cướp vợ và tài sản của dân ngang ngược và dã man thô bỉ như thế. Cù huy Cận sao không biết những tội ác đó ? nhưng vì miếng đỉnh chung, y phải câm để hưởng tiếp và cho vợ con hưởng tiếp. Giá vợ Cù huy Cận lọt mắt xanh của con yêu râu xanh Hồ, thì chưa biết đâu được….

Một Đại tá QĐNDXHCNVN, ông Đào văn Nghệ nói Hồ chơi ráo hết vợ con thủ hạ khi Hồ thích. Chuyện “đực cái” với người CS thì cũng không khác thú vật, nào có quan trọng chi ! Được Chủ tịch nước gọi, nhiều thằng chồng rất mừng vì đời sắp lên hương! Hỏi Ký giả Bùi Tín, Việt Thường, nhà văn Dương thu Hương, BS Dương quỳnh Hoa là quá rõ.

Cù huy Cận còn giết rất nhiều nhân vật QG thời gian đó và sau này, trong đó có Tổng Đốc Ngô đình Khôi và con cả. Thằng em Phạm Giao sau này là NS Phạm Tuân, quên thù cha anh, làm bài hát:" Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng". Thằng này do vợ PG bắt Trần Huy Liệu phải nuôi bởi nó là em PG.

Cù huy Cận bị giới Văn Nghệ sĩ hồi đó chửi không còn thiếu từ gì vì y đi theo Hồ và Trần huy Liệu, tức CS quốc tế, giết rất nhiều anh em Văn Nghệ sĩ trong đó có Khái Hưng, Lan Khai, GS Dương quảng Hàm, và rất nhiều đảng viên VNQDĐ, khởi đầu từ căn nhà ở phố Ôn như Hầu, Hà Nội. Anh ruột tôi hơn tôi 10 tuổi lúc đó học ở Hà Nội, biết những chuyện đó, kể lại. Nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và ông Vũ hồng Khanh (VNQDĐ), ông Nguyễn hải Thần (VNCMĐMH) và một số khác như Bộ Trưởng Thanh Niên Phan Anh, ông Huỳnh thúc Kháng… đã quá dại theo Hồ thành lập CP Liên Hiệp các đảng phái, mà không biết rằng đó chỉ là chiêu bài để Hồ lừa người Quốc Gia mà giết cho tuyệt nọc. Quả vậy ba ông trên (NTT, VHK, NHT) nếu không đào thoát kịp thời thì đã ra nghĩa địa y như Phạm Quỳnh và Ngô đình Khôi cùng hai người con cả vô tội bị giết oan. Ngay cả Bảo Đại, Cố Vấn CP, cũng phải kiếm cớ ra ngoại quốc đi họp rồi chuồn luôn không thì Hồ và Liệu, Cận, Giáp giết rồi!

Cù huy Cận khéo luồn trôn, hôn đít bạo quyền miễn là ăn sung mặc sướng vì từ thằng nhà thơ chết đói, nay được làm BT Canh nông, Thứ trưởng, CT này Chủ tịch kia thì cái bả vinh hoa đó, bị mắc vào không phải là khó. Ân huệ đó, trải qua hơn nửa thế kỷ, thằng con là Cù huy Hà Vũ vẫn kết cỏ ngậm vành, chưa quên!

Năm 1953, Hồ bắn bà Cát hanh Long trong CCRĐ dù bà là đại, đại, đại ân nhân của Vẹm, chỉ có một “tội” là quá giầu, nhưng đã dâng cho Hồ 700 lạng vàng ngay lúc đầu và 100 lạng và hàng chục ngàn mẫu ruộng Tuần lễ Vàng. Cù huy Cận có mù mới không biết chuyện này và thay vì can gián tội ác (quá thân thiết đến nỗi ngủ chung giường với Hồ) thì lại ca tụng Hồ như Thượng đế, a dua với cái cực Ác.

Hàng trăm ngàn cán bộ VC đang làm việc với Vẹm trung ương bị qui chụp là địa chủ ác ôn, bị đấu tố, xử bắn, nhẹ thì đi cải tạo không có ngày về, mất hết chức quyền, mất cả quyền công dân, bị thóa mạ thua con chó chỉ vì có vài sào ruộng tư hay là do khôn ngoan, cần mẫn làm việc mà có dư dăm ba thùng thóc nên bị đem ra bắn. Nguyễn văn Đô, huyện ủy ngay sát Hà Nội là một ví dụ cụ thể. Trường Chinh giết bố mẹ vì có vài sào ruộng dưỡng già, báo chí đăng ầm ĩ, Cù huy Cận cũng lòi cho nên mới cắm đầu khen tướng cướp và cả bọn cướp.

Rồi sau 7-1954, cả triệu người Bắc bỏ hết mọi thứ vào Nam tránh nạn CS, có lẽ Cù huy Cận đã mù đặc và óc bùn nên không thấy gì, không thắc mắc gì, chứ cả BV người ta rầm rộ bỏ hết để vào Nam tránh nạn CS. Có lẽ Nguyễn Tuân nói câu thời danh trong kỳ này: Cái cột đèn có chân nó cũng đi ngay và vì vậy Nguyễn Tuân bị trù dập chứ không an toàn sung sướng như tên hôn đít Hồ Cù huy Cận! Năm 1945, Bút Xuân mới hơn chục tuổi, còn Cù huy Cận ít nhất cũng bằng anh cả BX tức hăm mấy, ba mươi, có ngu đần ít học mấy cũng phải biết người ta gọi Hồ là thằng CS Tam vô, y xuống Phát Diệm nịnh bợ ĐGM Lê hữu Từ và ĐGM Phạm ngọc Chi, mời Đức cha Từ làm Cố Vấn CP cho Hồ, rồi xin rửa tội, o bế giáo dân Bùi Chu Phát Diệm qua hai ông GM này, nhưng người CG không bị lừa, không sờn lòng mà nhất quyết lập hai Khu Tự Vệ, đặt CS ra ngoài, hễ vào là bị bắt giải cho huyện, tỉnh Quốc Gia xử lý. Ngược lại, người CG bị du kích xung quanh bao vây và hãm hại nếu đi đâu một mình lọt vào làng do Vẹm kiểm soát. Chúng giết người QG mỗi đêm. Có một xã vùng tôi, 2 người thay nhau lên chức Xã trưởng trong ba tháng đều bị du kích giết thảm.

Cù huy Cận y như người mê ngủ, cứ phủ phục bái lậy Hồ mà kiếm miếng cơm thừa canh cặn, nịnh quá đến nỗi Hồ cho nằm chung giường, Cận không biết rằng cũng cái giường đó Hồ đã (và sẽ) nằm với Nông thị Xuân và hàng trăm, mấy trăm đứa con gái 13, 15 tuổi quàng khăn đỏ, chỉ tuổi con, cháu Cận, cưỡng dâm chúng và rồi có lúc lại giết chết tươi những đứa này bịt miệng để chứng tỏ Hồ Chủ tịch vẫn còn trinh. Hồ cũng giết cả Nông thị Xuân sau khi Xuân đã cho Hồ thằng Nguyễn tất Trung (nay lang thang ở Hà Nội như thằng mất trí vì cái chết đau thương của mẹ y) Nên nhớ Nông thị Ngát đã là vợ Hồ từ hang Pắc Pó, năm 1940, Ngát sinh Nông đức Mạnh. Còn Nông thị Xuân lúc về Hà Nội cung cấp cái dâm cho Hồ năm 1956 thì y thị mới khoảng 19 tuổi, tức thị sinh khoảng 1936-1937. Trước khi dâng cho Hồ, Xuân đã là cán bộ hộ lý.

Tóm lại, Cù huy Cận là một Việt gian mù đặc theo tướng cướp Hồ, Hồ có đại tội với dân tộc nhất là tội bán nước thì Cận và những tên khác như Duẩn,Giáp, Đồng, Chinh, Thọ, Bùi bằng Đoàn, Nguyễn Trọng Vĩnh, Chu Tấn, Văn tiến Dũng, Trần văn Trà, Hà sĩ Phu, Tố Hữu v...v.. không kể xiết đều có tội tòng phạm phải trả lời trước Công Lý về tội diệt chủng.

Bài này chỉ nêu sơ qua tội trạng của Trần Huy Liệu và Cù huy Cận, từ 8-1945, chưa phải là Bản Cáo trạng. Bản án của chúng phải được soạn thảo kỹ lưỡng rất nhiều.

Dân tộc VN sinh phải giờ đa đoan nhiễu sự khốn nạn, người quốc tế sống thoải mái, hạnh phúc, làm giàu, tự do dân chủ, đủ thứ sung sướng. Còn VN, đẻ ra một thằng Hồ quái thú, quái vật nên long đong lận đận, suốt trăm năm chửi bới nhau, chém giết nhau, làm nô lệ cho các đế quốc, còn người dân thì khổ nhục thua con chó Âu Mỹ, ăn chỉ khoai sắn bo bo, đi học phải đu dây, bơi hay ngồi trong bao ni lông... Dù có hết cs trở thành Dân chủ thì phải hai trăm năm mới bằng xã hội thời Pháp thuộc (Cù Vũ chưa ra đời) còn theo bằng miền Nam trước 30-4-1975 thì ít nhất phải 300 năm! Hãy coi hiện nay đám con nít ngu đần chửi tục cả ngày và đám thanh niên chỉ biết đánh chém nhau và nhậu, tiếp viên hàng không chuyên ra nước ngoài buôn lậu và ăn cắp để cả nước bị chửi là rõ mức sa đọa và chậm tiến của nước Việt dưới chế độ CS như thế nào !

Tôi không có ác cảm hay ân oán chi với Cù huy Cận và Cù huy hà Vũ, trái lại hồi nhỏ tôi rất thích bài thơ Trường giang của Cù huy Cận. Nhưng, Tổ quốc trên hết, tôi không thể không nói ra các sự thật mà tôi đã trải nghiệm và chứng kiến.

Cù huy Hà Vũ được sang đây, tôi cũng rất mừng cho anh ta, nhưng anh ta phải làm gì để khỏi phụ lòng toàn dân chứ không phải viết bài khen hồ tặc, một tội đồ của dân tộc, viết như vậy là giống như đạp vào mặt người tị nạn vgcs hải ngoại kể cả những đoàn thể bảo trợ cho vợ chồng anh ta sang đây và cưu mang.

Chớ có chơi cái mửng “khổ nhục kế” nhá, Cù huy hà Vũ!

GS Bút Xuân Trần Đình Ngọc
Cựu Dân Biểu Quốc Hội VNCH (1971-1975)


39 năm (30/4/1975 - 30/4/2014)

Nguyễn Thanh Sơn Xuyên tạc - ngụy biện gây chí thù hận

Phạm Trần

Mỗi dịp 30 Tháng Tư về lại thấy mọc thêm ra từ miệng người Cộng sản Việt Nam những cạm bẫy tẩm độc mang tên “hòa giải và hòa hợp” dân tộc.

Chiến lược năm nay (2014), 39 năm sau ngày Quân đội miền Bắc chiếm Sài Gòn 30/04/1975, bắt đầu từ cuộc vận động “kiều bào” từ 09 đến 29/03/2014 ở Gia Nã Đãi, Hoa Kỳ và Hàn Quốc của Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt ở nước ngoài (NVNONN).

Ông Nguyễn Thanh Sơn nói mục đích chuyến đi dài ngày của ông qua 3 nước là để gọi là “xóa bỏ sự ngăn cách, thù hận, tiến tới thực sự hòa giải, hòa hợp và đại đoàn kết dân tộc.”

Nhưng liệu ông Sơn có xóa bỏ được “ngăn cách” và “thù hận” không hay ông chỉ đổ thêm dầu vào lửa để đốt cháy hy vọng “hòa giải, hòa hợp và đoàn kết dân tộc”?

Tương lai không lâu sẽ trả lời, nhưng xuyên qua nội dung phỏng vấn của Thanh Mai đăng trong Tạp chí Quê Hương Online, cơ quan thông tin của Ủy ban NVNONN, ông Sơn đã tự do “phóng đại” và “tô màu” một số người ông gặp: “Tại các nước này, Đoàn đã làm việc với đại diện chính quyền sở tại,cũng như với cộng đồng người Việt thuộc nhiều thành phần đa dạng khác nhau: số bảo thủ cực đoan, giới truyền thông báo chí người Việt, doanh nhân, trí thức, số anh chị em cốt cán, cộng đồng lao động, cô dâu, đại diện thế hệ trẻ...” (Quê Hương Online, 29/03/2014)

Ngoài gặp “đại diện chính quyền sở tại” là chuyện đương nhiên theo phép ngoại giao, ông Sơn đã lạm dụng nhóm chữ “cộng đồng người Việt thuộc nhiều thành phần đa dạng khác nhau: số bảo thủ cực đoan, giới truyền thông báo chí người Việt, doanh nhân, trí thức...” để “vơ vào” và “gây ảo tưởng” cho người trong nước hiểu rằng phái đoàn Việt Nam đã được Cộng đồng chống Cộng người Việt ở Canada và Hoa Kỳ, kể cả giới đông đảo Nhà báo “Việt kiều” vốn không cảm tình với chế độ, đón tiếp nồng hậu.

Ông Nguyễn Thanh Sơn không nêu tên những người được ông “mạ kền” và “đánh bóng” là “bảo thủ cực đoan” hay “giới truyền thông báo chí”, nhưng ai cũng biết số người này, nếu có, cũng chỉ đáng xếp vào hàng “tôm tép” mà Cộng đồng nơi họ cư ngụ đã “nhẵn mặt”, đặc biệt ở hai nơi Texas và California.

Bằng chứng như đã có vài ba người, từng đi về Việt Nam một số lần theo sắp xếp của ông Nguyễn Thanh Sơn đã có mặt trong đoàn khỏang 50 “kiều bào” đi thăm Trường Sa nhân dịp 30/4/2014.

Con số đầu tiên dự kiến có 70 “Kiều bào”. Và theo Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) thì: “Đa số là các doanh nhân đang thực hiện dự án đầu tư ở Việt Nam, đã lớn tuổi, có tư tưởng yêu nước và theo đạo Phật.”

Nói cách khác thì họ là Hội viên của Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở Nước ngoài (DNVNONN)” do đảng Cộng sản Việt Nam thành lập.

Nhìn một vài người xuất hiện trên màn ảnh nói lý do tại sao họ đi Trường Sa, người coi cảm thấy thương cho ông Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn vì ông đã “lỡ thổi phồng” họ tới mức “không cần thiết” đến độ phản tuyên truyền!

Tuy vậy, ông Sơn vẫn không ngại để khoe tiếp rằng: “Chuyến đi của tôi năm 2012 là chuyến đi đầu tiên mang tính chất đột phá và thăm dò tới những người còn có tư tưởng hận thù với đất nước. Cuộc tiếp xúc lần đầu đó tôi cho là thành công, bởi vì tất cả những nơi tôi đến thì họ đều gặp tôi, đặc biệt ở Texas thì số lượng rất đông. So với chuyến đi năm 2012, thì chuyến đi lần này thành công hơn nữa vì số lượng người gặp đông hơn, thành phần cực đoan bảo thủ, đặc biệt là số cốt cán trong các phong trào chống đối chúng ta, đến gặp nhiều hơn. Tôi cho rằng như vậy là họ đã cởi mở và bắt đầu có niềm tin. Con người ta ai cũng có cội nguồn, cuối đời ai cũng muốn trở về quê hương, cũng muốn thấy quê hương đất nước phát triển tốt đẹp. Tôi hiểu tâm nguyện đó của bà con và mong sẽ đặt những viên gạch, những nền móng để bà con trở về được vững chắc, để thực sự là hòa giải, hòa hợp.”

Hãy cứ để cho ông Sơn và Chính phủ CSVN nuôi hy vọng. Nhưng ông Sơn cũng nên thành khẩn với chính mình khi làm báo cáo với Bộ Chính trị kiểm điểm sau 10 năm thi hành “Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/3/2004 - 26/03/2014) đã thu đạt được những gì và có bao nhiêu “kế họach” lớn, nhỏ đã tan ra mây khói?

Xôi bỏng bỏng không

Cái hỏng đầu tiên và quan trọng nhất là nhà nước CSVN đã thất bại thê thảm trong kế họach chiêu dụ trên 300.000 trí thức, chuyên gia “Việt kiều” về giúp nước.

Sau 10 năm, số Trí thức-chuyên gia “Việt kiều” chịu quay về giúp Việt Nam chỉ mới chưa đầy 400 người, ở vào giai đọan cao nhất.

Lý do rất đơn giản: đảng vẫn không tin “trí thức Việt kiều” trong khi “trí thức đảng” học hành không bằng ai, nhưng lại được đảng giao quyền “cai trị” trí thức hải ngọai.

Để có bằng chứng, rất tiếc tôi (Phạm Trần) phải lập lại thông tin dưới đây lần thứ 3, sau khi đã sử dụng 2 lần trong các bài viết trước vì tình trạng vẫn như thế.

Năm 2012, Giáo sư Nguyễn Quốc Vọng của Đại học danh tiếng Kỹ thuật và Thiết kế RMIT, Úc Đại Lợi, nói:

“Qua thực tiễn 2 năm trở về nước được làm việc, tôi thấy có những nguyên nhân chính sau đây:

- Việt Nam chưa thực sự thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa khoa học kỹ thuật và phát triển kinh tế, nên một số chính sách và cơ chế để thu hút trí thức không được nghiêm chỉnh thực hiện. Một khi trí thức trong nước chưa được sử dụng đúng mức thì việc trở về của trí thức Việt kiều sẽ không bao giờ xảy ra vì họ đang được làm việc trong điều kiện tốt nhất của nước sở tại;

- Chưa làm tốt việc cung cấp thông tin về những vấn đề nhạy cảm (ví dụ như biên giới biển đảo, Hoàng Sa Trường Sa, quặng mỏ bauxit Tây Nguyên...) nên trí thức Việt kiều không thấy được Việt Nam đã có sự thay đổi, tiến bộ về mặt dân chủ, phản biện, tự do tôn giáo, từ đó đâm ra hoang mang, lo sợ… không muốn trở về nước;

- Chưa có đầu mối để tìm tòi, liên lạc, mời gọi… do chính trí thức Việt kiều đảm trách vì trong hàng trăm, hàng ngàn công nghệ cao của thế giới, phải là người có kiến thức mới có thể lựa chọn những công nghệ tốt nhất, thích hợp nhất và có lợi nhất cho đất nước;

- Thủ tục giấy tờ về nước phải thông qua nhiều Bộ ngành nên rất rườm rà, mất thời gian;

- Tinh thần “vọng ngoại” của một số ít người trong nước vẫn thích “mắt xanh mũi lõ” dù rằng có nhiều khi “mắt xanh mũi lõ” lại ở trình độ khoa học kỹ thuật thấp hơn, không hiểu Việt Nam hơn trí thức Việt kiều;

- Tính “địa phương” và “trong ngoài” còn khá phổ biến, môi trường làm việc dựa nhiều vào cảm tính nên nhiều khi không công bằng, thiếu tin tưởng làm trí thức Việt kiều trở thành những thứ trang trí, không có thực quyền và cơ hội đóng góp sở trường khoa học kỹ thuật của mình.”

Giáo sư Vọng kết luận bài viết của ông trên Tạp chí Tia Sáng (Bộ Khoa học và Công nghệ) ngày 07/09/2010: “Từ những năm 1970 Hàn Quốc đã mạnh dạn triển khai chính sách mời gọi trí thức Hàn kiều ở Mỹ trở về đóng góp. Ba mươi năm sau Hàn Quốc vươn lên trở thành nền kinh tế thứ 13 của thế giới. Cũng thế Trung Quốc đã ứng dụng chính sách ưu đãi mời gọi trí thức Hoa kiều, và họ cũng đã tiến rất nhanh trong công cuộc hiện đại hóa công nghiệp hóa đất nước, trở thành nền kinh tế thứ ba trên thế giới. Chỉ có Việt Nam, đã hơn ba mươi năm sau ngày giải phóng, mà vẫn còn loay hoay mãi với câu hỏi về trí thức Việt kiều.”

Ông Nguyễn Di Niên, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao là người có nhiều công trong việc hình thành Nghị quyết 36 giải thích với Báo Việt Nam Net ngày 23/01/2012: “Cái quan trọng nhất là làm thế nào để sự phân biệt giảm đi và người trong nước phải gần gũi hơn, chìa bàn tay ra để kéo lại. Như chuyện anh muốn vỗ tay thì phải vỗ bằng hai tay, chứ không thể một tay. Nó phải từ hai phía. Hai phía phải tìm cách để cùng gặp nhau. Cần thúc đẩy, làm mạnh hơn như tạo điều kiện cho kiều bào đầu tư rộng rãi hơn.”

Ông Niên nhìn nhận con đường kéo được người Việt ở nước ngoài về hợp tác với Nhà nước CSVN còn dài.

Ông nói: “Gần tròn 10 năm thực hiện Nghị quyết, nhìn lại, không thể phủ nhận đã có những bước rất tốt nhưng đoạn đường còn phải đi tiếp vẫn dài lắm. Nhưng sau 10 năm thì thực tiễn cũng cho thấy cần những đổi mới, bổ sung trong triển khai trên thực tế, có những điều phải sửa, phải chấn chỉnh và quyết liệt hơn.”

Ngoài chuyên gia “Việt kiều”, Đảng cũng thất bại trong kế hoạch dùng ông Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Phó Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa vào công tác “hòa hợp dân tộc”, sau chuyến về Việt Nam đầu tiên của tướng Kỳ vào tháng 01/2003.

Đã có thời gian, dưới thời Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết-Thủ tướng Phan Văn Khải, nhiều giới trong đảng CSVN đã hy vọng ông Kỳ sẽ tạo được một “gạch nối” để các thành phần lãnh đạo cũ của Việt Nam Cộng Hòa quay về “hòa hợp” với chế độ mà họ từng cầm súng chống lại.

Rất tiếc, quyết định “tự quên đi quá khứ hào hùng của một Thiếu tướng Không Quân VNCH” rồi quay lưng lại với các “chiến hữu và đồng bào miền Nam”, để về Việt Nam với hy vọng được chế độ nhờ cậy, ông Kỳ đã bị cả hai phía “Quốc-Cộng” đẩy vào chân tường cô đơn cho đến khi ông qua đời tại Mã Lai Á tháng 7/2011.

Thất bại ở nước ngoài

Trong khi đó, vào dịp kiểm điểm “thành tích” sau 8 năm thi hành Nghị quyết 36 (2012), Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn đã thừa nhận: “Công tác nắm tình hình ở nhiều địa bàn chưa sâu, chưa có biện pháp hữu hiệu trong việc củng cố các hội đoàn tích cực, phát triển lực lượng nòng cốt làm cơ sở để vận động tập hợp kiều bào. Chưa mạnh dạn mở rộng diện tiếp xúc, đấu tranh trực diện với một số đối tượng có các hoạt động đi ngược lại lợi ích của cộng đồng và đất nước.

Công tác thông tin, tuyên truyền đối với cộng đồng NVNONN tiếp tục được đẩy mạnh hơn so với trước, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng lớn và đa dạng của kiều bào.” (Báo điện tử ĐCSVN, 20-01-2012)

Tuy nhiên, theo dõi từ “lời nói đến hành động” của viên Thứ trưởng 57 tuổi Nguyễn Thanh Sơn mới thấy bên cạnh những lời “đường mật hòa giải-hòa hợp” để đoàn kết dân tộc, còn hiện ra một Nguyễn Thanh Sơn có đầu óc “quân phiệt quyết ăn thua đủ” với những “Việt kiều” không muốn “hòa hợp” với chế độc độc tài CSVN.

Ông Sơn đã để lộ ra tâm địa này trong bài viết trên báo Quân đội Nhân dân ngày 12/09/2011: “Các cơ quan đại diện(của Chính phủ ở nước ngoài) cần mạnh dạn mở rộng diện tiếp xúc cộng đồng, kết hợp công tác vận động cộng đồng với vận động chính quyền, bạn bè sở tại nhằm phân hóa cô lập các phần tử cực đoan. Đồng thời, tăng cường phối hợp với các cơ quan liên quan, chủ động trong công tác đấu tranh với các phần tử lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để chống phá đất nước.”

Thái độ hằn học và xuyên tạc người Việt có lập trường chống chính quyền CSVN của ông Sơn không mới.

Nhưng khi các cấp lãnh đạo khác coi người Việt tị nan chống chế độ là “chống phá đất nước” “nhân dân ta” thì ông Sơn đã nói chệch đi “chống lại đất nước”.

Thực tế không người Việt Nam nào nuôi manh tâm “chống lại tổ quốc và nhân dân”, ngọai trừ những kẻ làm tay sai cho ngoại bang hay để bảo vệ quyền lợi ích kỷ của phe nhóm. Nhưng có người Việt chống lại chủ nghĩa Cộng sản (hay đang được gọi ở trong nước là Chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh) và chính quyền độc tài và phản dân chủ CSVN vì chính quyền này đã và đang tước đoạt mọi quyền căn bản của con người Việt Nam.

Ngoài ra ông Nguyễn Thanh Sơn cũng đã từng xuyên tạc lý do bỏ nước ra đi của hàng triệu người dân miền Nam sau ngày 30/4/1975 như ông chứng minh trong cuộc đối thoại với phóng viên Minh Hòa của Đài Tiếng Nói Việt Nam ngày 02/11/2010:

PV: Thưa Thứ trưởng, được biết là ông sẽ đích thân có các cuộc gặp gỡ các phần tử đi ngược lại các lợi ích của dân tộc. Xin ông cho biết cụ thể các cuộc gặp đã được tiến hành như thế nào?

Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn: “Trong quá trình quá trình hòa giải, hòa hợp dân tộc, chúng ta không muốn đặt các tổ chức, cá nhân này ra khỏi vị trí với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vì chúng ta muốn cảm hóa họ, cùng họ nhìn nhận một cách khách quan thực chất phát triển của đất nước, nhìn nhận khách quan vị thế phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Những người này có thể ra đi bằng nhiều con đường khác nhau, họ được tuyên truyền về những nỗi kinh hoàng không có hoặc không tưởng, họ bị nhồi nhét vào đầu quá nhiều những tư tưởng hận thù...”

“... Hiện nay, còn lại bộ phận không nhiều những người đi ngược lại lợi ích dân tộc và họ càng bị phân hóa, bị yếu đi bởi khi chúng ta tổ chức càng nhiều hoạt động ở trong và ngoài nước, bà con càng có nhiều thông tin, càng hướng về quê hương đất nước, hiểu về quê hương đất nước thì càng không tin họ. Chính vì vậy, số lượng dù còn ít nhưng họ lại rất quyết liệt, kiên quyết chống phá chúng ta vì họ đang hoảng loạn trước nguồn cung cấp tài chính của quốc gia sở tại và chính vị thế và uy tín của họ đang bị giảm sút...”

Nhưng ông Sơn không nói ra “quốc gia sở tại” nào đã “cung cấp tài chính” cho những người Việt ở nước ngoài làm cái việc “chống phá chúng ta” không, hay ông chỉ “ăn ốc nói mò” để xuyên tạc lấy điểm với đảng?

Hành động thiếu trong sáng có chú ý xấu này của Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn đã được lập lại không một chút hổ thẹn nào khi ông ta vu khống số người Việt biểu tình trước Tòa Bạch Ốc chống chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ngày 25/07/2013.

Ông Sơn nói: “Tôi cho rằng là những cái biểu tình chống đối của bà con cô bác ở bên ngoài đối với chủ tịch nước vừa qua nó chỉ là những cái hiện tượng. Tôi nghĩ rằng là tất cả mọi người không phải ai cũng muốn như vậy. Có những người chì vì đồng tiền, có những người chì vì nhu cầu cuộc sống, có những người chỉ vì một chút thu nhập thêm mà tham gia những hoạt động đó, chứ trong lòng tôi nghĩ quý vị cũng không có những suy nghĩ muốn phá hoại quan hệ Mỹ-Việt.” (Trích phỏng vấn của Phố Bolsa TV).

Đáng lẽ ra ông Sơn phải là người hiểu rõ tại sao nhà nước Việt Nam đã thất bại trong kế hoạch “hòa giải, hòa hợp” dân tộc. Bởi vì đảng CSVN chỉ muốn người Việt ở nước ngoài bảo nhau bồng bế về “hòa hợp” vào với chế độ, chịu nhận quyền cai trị của đảng CSVN để lao động để duy trì chế độ.

Hơn nữa, hai chữ “hòa giải” mới được ông Sơn và một số báo ở Việt Nam sử dụng vài năm nay thôi chứ trước đây họ chỉ dùng hai chữ “hòa hợp”, ngay cả khi các viên chức đảng nói chuyện “bắt tay” quên đi quá khứ với ông Nguyễn Cao Kỳ.

Ngoài ra Nhà nước cũng chỉ muốn “hội nhập” mà không muốn bị “hòa tan”, chủ trương “đổi mới” mà kiên quyết “không đổi màu” theo định hướng của Hội đồng Lý luận Trung ương mà đã có thời nằm trong tay Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng khi ông giữ chức Trưởng ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương (bây giờ gọi là Ban Tuyên Giáo).

Thực tế tình hình “hòa giải-hòa hợp” hiện nay giữa người Việt Nam ở nước ngoài và chính quyền trong nước đã rã ra từng mảnh vụn vì làm theo quan niệm “ta thắng trận, ta phải chế ngự” của những người như ông Nguyễn Thanh Sơn và đảng CSVN.

Như vậy hy vọng của ông Sơn, sau chuyến đi 3 nước Canada, Hoa Kỳ và Nam Hàn trong tháng 3/2014, sẽ tạo được những “viên gạch, những nền móng” để người Việt ở nước ngoài “trở về được vững chắc, để thực sự là hòa giải, hòa hợp” với đảng và nhà nước CSVN coi như đã tan vỡ trong trứng nước.

Mạ lỵ và Xuyên tạc

Tại sao? Bởi vì trong đảng CSVN vẫn còn những người như ông Đào Dục Tú viết “mạ lỵ đồng bào phải bỏ nước ra đi”“xuyên tạc về cuộc chiến” kết thúc ngày 30/04/1975.

Với tiêu đề: “Hòa giải hòa hợp”- tiếng gọi không vô vọng nữa!” đăng trên 2 báo điện tử “Nguyễn Tấn Dũng” (nguyentandung.org) và “Trương Tấn Sang” (truongtansang.net) ra ngày Thứ bảy, 19/04/2014, tác giả Đào Dục Tú viết về Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, phần đông ở Bắc Mỹ và Châu Âu như thế này: “Nhìn lại cái gốc sinh ra cộng đồng ấy là cuộc chiến tranh Việt Nam do người Mỹ tiến hành và đủ thứ hệ lụy của nó, người ta không thể không thấy một thực tế hiển nhiên. Đó là chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của người Mỹ thập kỷ sáu mươi và nửa đầu thập kỷ 70 thế kỷ trước, theo đà tăng tốc độ và cường độ chiến tranh Việt Nam mỗi ngày một cao hơn, đã dần dần khoác lên vai, chất lên lưng người Việt bên kia vĩ tuyến 17, từ con sông tuyến Bến Hải đổ vào tới mũi Cà Mau...”

Hay: “Có lẽ nào giữa người Việt với nhau, gần 40 năm sau chiến tranh, chia cắt, hận thù vẫn cố chấp khư khư ôm “mối thù truyền kiếp” thực ra phần nhiều do tình thế lịch sử chiến tranh Việt Nam của Mỹ gây nên.”

Ô hay, đâu phải tự nhiên mà nửa triệu Quân Mỹ đã lần lượt tham chiến ở miền Nam Việt Nam từ năm 1960 đến khi có Hiệp định Ba Lê tháng 1/1973? Và Hoa Kỳ đã “tiến hành” hay “gây nên” cuộc chiến 20 năm ở Việt Nam Cộng hòa để làm gì?

Bằng chứng lịch sử sáng như ban ngày đã chỉ rõ chính đảng Lao động Việt Nam, sau này đổi tên thành đảng Cộng sản, đã chủ mưu “tiến hành” và “gây nên” cuộc chiến từ Vỹ tuyến 17 xuống mũi Cà Mâu của miền Nam Việt Nam từ năm 1959. Sự có mặt của quân đội Mỹ và các nước đồng minh khác, trong số đó có Nam Hàn (Nam Triều Tiên) là để giúp Quân và Dân miền Nam bảo vệ đất nước trước làn sóng xâm lăng của đội quân miền Bắc.

Như vậy, những “hệ lụy của nó” là do chính miền Bắc đã gây ra cho nhân dân miền Nam, trong đó bao gồm cả tội ác chính trị và kinh tế từ sau 30/04/1975. Các chủ trương: bắt bỏ tù lao động với điều kiện ăn ở, y tế khe khắt đã làm chết nhiều người mang danh “học tập cải tạo” được áp đặt lên hàng trăm ngàn quân-cán-chính VNCH; chính sách “đánh tư sản mại bản” được gọi là “cải tạo kinh tế” nhằm tiêu diệt tận gốc tầng lớp tư sản ở miền Nam.

Thêm vào đó là kế họach “đuổi dân thành phố và vợ con binh lính VNCH” đi vùng “kinh tế mới” không có điều kiện sống để cướp lấy tài sản của họ còn là nguyên nhân khiến hàng trăm ngàn người dân miền Nam đã liều chết vượt biển hay vượt đường bộ qua ngả Cao Miên đến Thái Lan và các nước Đông Nam Á tìm tự do trong thập niêm 80.

Lịch sử “Thuyền nhân” (Boat People) và hàng chục ngàn xác người dân vô tội bị chết chìm, bị hải tặc tấn công trên Biển Đông chẳng lẽ cũng do người Mỹ “tiến hành” và “gây nên” hay sao?

Với cái nhìn chủ ý xuyên tạc và ngụy biện như thế về nguyên nhân cuộc chiến trong Nam và lý do dân phải bỏ nước ra đi nên không riêng Tác giả Đào Dục Tú mà cả Thứ trường Nguyễn Thanh Sơn đã chạy trốn trách nhiệm cho đảng khi ông nói rằng: “Chúng ta cần hiểu đúng về sự ra đi của họ. Họ ra đi không phải vì hận thù với đất nước, mà vì chưa hiểu đúng về chế độ, vì mưu cầu một cuộc sống khác tốt hơn trong khi chúng ta còn khó khăn.”

Một lần nữa, ông Sơn đã lẫn lộn giữa “hận thù với đất nước”“hận thù với chế độ”. Và khi nói rằng người bỏ đi “vì chưa hiểu đúng về chế độ, vì mưu cầu một cuộc sống khác tốt hơn” là viên chức ngoại giao cấp Thứ trưởng này đã xuyên tạc nguyên nhân “đành phải nhắm mắt đưa chân” của Thuyền nhân sau khi 25 triệu người dân miền Nam đã nhìn rõ “mặt thật” của người Cộng sản Việt Nam sau ngày 30/04/1975.

Vì vậy không làm gì có chuyện “giá như” theo lối lý luận “con lươn” của người viết tên Đào Dục Tú. Ông Tú viết: “Giá như tinh thần “Không có bên thắng bên thua giữa người Việt với người Việt. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người chiến thắng cuối cùng cuộc chiến tranh này” được thấu suốt thời kỳ hậu chiến, đi vào lòng người. Giá như...Thật đáng tiếc những hành xử duy ý chí trong lĩnh vực kinh tế và quản lý xã hội thời hậu chiến như đổ dầu chữa cháy...”

Hẳn ông Tú còn nhớ chính Tổng bí thư Lê Duẩn đã nói câu “Không có bên thắng bên thua giữa người Việt với người Việt. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người chiến thắng cuối cùng cuộc chiến tranh này”, nhưng cũng chính ông Lê Duẩn đã quyết định “đầy đọa” quân-dân miền Nam xuống tận bùn đen và chết chóc sau ngày 3/04/1975. Rồi cũng chính cái Bộ Chính trị do Lê Duẩn đứng đầu đã có những quyết sách san bằng nền kinh tế trù phú trong Nam xuống ngang hàng với xã hội bần cùng ở miền Bắc. Và cũng chính ông ta và tập thể cầm quyền của CSVN phải chịu trách nhiệm với lịch sử về những tan nát, đẩy đất nước đến bờ vực thẳm sau 10 năm hậu chiến.

Và chẳng lẽ ông Lê Duẩn và những người như các ông Trường Chinh Đặng Xuân Khu, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Tố Hữu, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt v.v... không có trách nhiệm gì trước lịch sử đau thương của dân tộc về những xác người Việt Nam trôi dạt trên Biển Đông hay sao?

Và giờ đây, sau gần 30 năm được gọi là “đổi mới”, tại sao Việt Nam vẫn còn bần cùng, lạc hậu và chậm tiến? Tại sao luân thường, đạo lý dân tộc của trên 4.000 năm văn hiến đã bị đảo lộn? Tại sao kinh tế vẫn hoàn toàn lệ thuộc vào nước ngoài, đặc biệt Trung Cộng? Tại sao công nhân và nông dân là hai thành phần đóng góp tài sản và xương máu nhiều nhất cho đảng CSVN tồn tại đang phải chịu thiệt thòi nhất trong xã hội? Tại sao bất công xã hội vẫn chồng cao như núi? Và tại sao “quốc nạn” tham nhũng, lãng phí trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên nhất là những kẻ có chức có quyền vẫn còn “nghiêm trọng”.

Cũng tại sao thanh niên là thành phần rường cột của quốc gia đã phai nhạt lý tưởng, không muốn tôi luyện và trau dồi kiến thức để xây dựng đất nước tiến lên “ngang tầm thời đại” với các dân tộc láng giềng? Tại sao trí thức hết còn được kính trọng là các bậc tôn sư? Và tại sao tội ác trong xã hội do giới thanh thiếu niên gây ra đã đến mức báo động? Tại sao Việt Nam tiếp tục có trên 10.000 người chết vì tai nạn lưu thông hàng năm. Và nhiều người dân cũng muốn đảng trả lời tại sao một dân tộc anh hùng như người Việt Nam mà vẫn còn chia rẽ trước hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng?

Vì vậy mà thắc mắc của Tác giả Đào Dục Tú hỏi tại sao 39 năm sau ngày 30/04/1975 vẫn còn “biết bao nhiêu người khác bất chấp thực tế lịch sử, cứ để nấm mồ quá khứ mang tên “quốc hận” đè nặng tâm hồn, bịt chặt mọi cánh cửa hòa giải” có cần phải trả lời không?

Tất nhiên không cần thiết vì sự tồn tại bất chấp lòng dân và trào lưu tiến bộ của thời đại hậu Cộng sản Liên Xô của đảng độc tài Cộng sản Việt Nam đã “bịt chặt mọi cánh cửa hòa giải” với những nạn nhân của chế độ.

Phạm Trần