Thursday, January 13, 2011

Con Đường Độc Nhất - Lê Văn Ấn

Lê Văn Ấn

Từ những người không có một chút hiểu biết nào về Việt Cộng, cho đến những người “có sạn Cộng Sản” trong đầu, mỗi khi có Ðại Hội Ðảng vẫn hy vọng Việt Cộng sẽ “thay đổi chính sách” để người dân được “tự do dân chủ”. Và mỗi lần “Ðại Hội Ðảng” Việt Cộng cũng thường “kêu gọi nhân dân góp ý với Ðảng”. Thế là nhiều giới từ trí thức cho đến bình dân, giới nào cũng có người góp ý với Ðảng. Nhưng lần nào cũng vậy, trước ngày Ðại Hội Ðảng, Việt Cộng luôn luôn bác bỏ những ý kiến của dân, có khi còn “hăm dọa”, như đã hăm dọa 22 “nhà trí thức” hoặc “cựu viên chức cao cấp, cựu bậc Trung Ương đảng Cộng Sản” đã góp ý với Ðảng. Nói cách khác chính sách hiện nay của Cộng Sản Việt Nam không bao giờ thay đổi cho đến khi nào chúng bị lật đổ hoặc bằng bất bạo động, hoặc bằng bạo động. Việt Cộng nhất định không bao giờ từ bỏ độc tài, vì có độc tài thì chúng mới có tự do để bóc lột, tham nhũng và làm chủ nhân ông tài nguyên của đất nước, thậm chí có thể bán đất nước cho ngoại bang để chúng giàu có, như thế thì không có cách gì buộc chúng phải thay đổi, ngoại trừ chúng bị lật đổ.

Do đó, Ðại hội Ðảng chỉ là dịp để Việt Cộng thay đổi nhân sự chứ không thay đổi chính sách. Nói cách khác Việt Cộng luân phiên nhau cầm quyền để phân chia quyền lợi cho nhau, tránh thanh trừng, tránh lật đổ. Sự luân phiên này Việt Cộng gọi là: “Tập Thể Chỉ huy cá nhân phụ trách”. Ðiển hình là vụ Vinashin, một công ty quốc doanh vốn lớn đến hàng tỷ mỹ kim, gần như do nội các điều hành, thế mà thâm thủng mấy tỷ mỹ kim, kéo dài nhiều năm tháng, tại sao Thủ Tướng lại không hay biết? Tại sao không có thanh tra, tại sao không được phát giác, không có phúc trình … tại sao khi lỗ lã mấy triệu, một hai triệu không “la làng” để đến khi lỗ hàng tỷ mới đưa ra công khai? Có phải chăng đục khoét chưa đủ tiêu chuẩn?

Trước cái gọi là “Quốc Hội”, Nguyễn Tấn Dũng “nhận trách nhiệm”, nhưng ở các nước tự do mỗi khi nhận trách nhiệm một thiệt hại, một lỗi lầm đối với trách nhiệm mình, viên chức trách nhiệm mặc nhiên từ chức. Từ một vụ trật đường rầy xe lửa, Bộ trưởng đường sắt lập tức từ chức, đến vụ Cộng Sản Bắc Hành bắn phá một đảo xa xôi, mặc dù quân đội Nam Hàn đã bắn trả, thế mà Bộ Trưởng Quốc Phòng Nam Hàn từ chức. Tại sao Nguyễn Tấn Dũng không từ chức? Phải chăng Nguyễn Tấn Dũng có loại da mặt dày hơn da trâu? Thưa không, vì Nguyễn Tấn Dũng đã chia đều cho các đồng chí theo nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” Nguyễn Tấn Dũng chỉ có một phần. Tại sao không giao nội vụ cho tư pháp thụ lý? Các cán bộ địa phương khi “quy hoạch” nhà đất của dân để bán cho đầu tư ngoại quốc, chúng không thể nào ăn một mình được, chúng phải “dâng” lên thượng cấp. Có như thế chúng mới được che chở, chúng mới tự do hoành hành cho đến nỗi đánh chết dân cũng không sao, quá lắm thì phạt kỷ luật, tức là xuống cấp, khiển trách, có ở tù thì cũng vào cửa trước, ra cửa sau, hoặc ở tù ngày đêm về ở tù nhà, trong khi ở các nước khác, một mạng người, dù là kẻ phạm pháp bị giết cũng phải điều tra, thủ phạm phải ra tòa và hầu hết bị trừng trị bằng hàng chục năm tù. Tại sao có sự khác biệt này? Ðó là sự khác biệt giữa độc tài và dân chủ.

Người dân ở trong nước mỗi khi có sự ức hiếp, đàn áp, bất công thường “khiếu nại” thậm chí kiện ra tòa các viên chức chính phủ đã gây thiệt hại cho mình, nhưng “con kiến kiện củ khoai”, cấp trên bao che cho cấp dưới, vì cấp dưới là tay chân của cấp trên, tay chân kiếm tiền, kiếm của cho cấp trên, nếu có “tai nạn” dứt khoát cấp trên phải bảo bọc cấp dưới. Ðó là nguyên tắc “còn da lông mọc”. Có vụ dân đã kiện ra tòa, được tòa xử thắng kiện, cán bộ địa phương cũng không trả lại tài sản bị Ðảng cướp. Thưa lên Thủ Tướng, Thủ tướng cũng chỉ thị phải trả tài sản cho khổ chủ, nhưng vẫn vô hiệu!!! Tham nhũng đã làm vua, đã lãnh đạo Ðảng thì người dân chỉ còn biết nhẫn nhục, chịu đựng mà thôi! Vì thế, chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Việt Cộng hô hào, thậm chí Nguyễn Tấn Dũng còn đặt vấn đề “tham nhũng là quốc nạn, chống tham nhũng là quốc sách”, nhưng tham nhũng vẫn hoành hành, vì chính Nguyễn Tấn Dũng là tay tổ tham nhũng! Do đó, nếu Nguyễn Tấn Dũng còn được “bầu” thêm một nhiệm kỳ cũng chỉ vì hắn ta “biết cách kiếm tiền và biết cách chia chát theo cấp bậc, theo địa vị của từng cá nhân”, hoặc Nguyễn Tấn Dũng đang phải “xử lý” số tài sản đã cướp được trong thời gian qua, nếu Dũng còn tại chức thì các “đồng chí” mới hy vọng được chia đều.

Có nước nào mà những phụ nữ chưa chồng, tuổi từ 17 đến gần 30 lại trần truồng trước mặt những tên ngoại quốc để chúng xem xét, “kiểm tra hàng họ” để sau cùng lựa được hay không một người vợ? Ðau đớn hơn nữa, một cô gái “đưọc lấy chồng Ðài Loan hay Ðại Hàn” gia đình chỉ nhận được mấy trăm đô la. Trong khi đó, những tên môi giới có khi kiếm được mấy ngàn hoặc cả chục ngàn Mỹ kim? Nếu không có sự “bảo kê” của cán bộ VC làm sao những tên ma cô có thể làm ăn trót lọt? Có nước nào mà tòa Ðại Sứ được đặt ở Ðại Hàn, Ðài Loan khi dân mình bị bắt ép làm điếm thay vì làm vợ, bị bóc lột, đánh đập mà Ðại Sứ hùa với bọn tội phạm hăm dọa, trừng phạt nạn nhân? Có nước nào mà phụ nữ bị “xuất khẩu” như hàng hóa, phải đứng trong tủ kính như các con búp bê để ai muốn mua thì mua, mua về “xài” một tuần không ưa thì trả lại. Ðó là những phụ nữ Việt Nam được các cửa hàng ở Singapor bày bán!!! Từ ngày lập quốc đến nay, Việt Nam có khi nào ở trong tình trạng suy đồi như vậy chưa? Các nước mà chúng ta cho rằng kém văn minh hơn chúng ta như Miên, Lào có thảm cảnh này chưa? Chỉ có Việt Cộng, chỉ có bọn tham nhũng. Tham nhũng là cả một hệ thống từ những tên Tổng Bí Thư Ðảng đến đảng viên cấp xã. Một thống kê mới đây cho hay đa số dân chúng đều cho rằng tham nhũng lan tràn khắp nơi và công an là cơ quan tham nhũng bậc nhất.

Trước ngày Ðại Hội Ðảng, Việt Cộng Ðinh Thế Huynh, Ủy viên Trung Ương Ðảng, kiêm Tổng Biên Tập báo Nhân Dân Việt Cộng đã phát biểu trong một cuộc họp báo: "Việt Nam đã có lúc ÐA ÐẢNG , vào năm 1946, khi Việt Nam tiến hành cuộc tổng tuyển cử đầu tiên. Nhưng khi thực dân Pháp quay lại xâm lược đất nước thỉ chỉ có đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân Việt Nam kháng chiến để bảo vệ tổ quốc. Và bây giờ thì đảng CSVN đang tiếp tục lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Qua đoạn văn này, Cộng Sản Việt Nam khẳng định chế độ của chúng là độc tài toàn trị. Ðinh Thế Huynh là Tổng Biên Tập tờ báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức của Việt Cộng, thế là lập luận chẳng khác gì con nít, hay là hắn ta cố ý nêu bật cái xấu xa của đảng Cộng Sản để cho nhân dân Việt Nam và thế giới thấy việc lật đổ chế độ độc tài VC là việc cần thiết và cấp thiết.

Năm 1946, Hồ Chí Minh đã bày trò bầu cử, bày trò chính phủ Liên Hiệp, các đảng phái Quốc Gia đã hợp tác, nhưng sau đó, đảng Cộng Sản đã lợi dụng “liên hiệp” để lần lượt thủ tiêu các đảng phái khác để độc quyền lãnh đạo “kháng chiến chống Pháp”. Bảo vệ tổ quốc tại sao lại nhượng biển cho Trung Cộng với văn thư ngày 14.9.1958 do Phạm Văn Ðồng ký. Bảo vệ Tổ quốc tại sao Hồ Chí Minh khi thắng trận Ðiện Biên Phủ lại cho rằng hắn ta đã làm tròn nhiệm vụ do Quốc Tế Cộng Sản giao phó? Bảo vệ tổ quốc tại sao lại vâng lời Mao Trạch Ðông mở “Chiến dịch Cải Cách Ruộng Ðất” giết hơn 200 ngàn người Việt vô tội? Ngày nay, bảo vệ tổ quốc tại sao để Trung Cộng chiếm Ải Nam Quan, Suối Phi Khanh, thác Bản dốc và hàng ngàn cây số lãnh thổ, để mặc Trung Cộng thao túng Biển Ðông, giết hại ngư dân một cách vô tội vạ, trong khi ai phát biểu ý kiến chống Trung Cộng thì bắt giam? Và còn nhiều sự kiện chứng tỏ Việt Cộng đã hoàn toàn lệ thuộc Trung Cộng. Việt Nam ngày nay, dưới quyền cai trị của đảng Cộng Sản, với 6 chữ: “Ðộc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc” làm kim chỉ Nam cho cả nước, tại sao dân không có tự do, đất nước bị Trung Cộng thao túng cho đến nỗi những kẻ khai quốc công thần như Võ Nguyên Giáp cũng phải lên tiếng phản đối? Với chế độc độc đảng, Cộng Sản Việt Nam đã đi ngược lại trào lưu tiến hóa của thế giới. Qua lời nói của Ðinh Thế Huynh thì trong 5 năm tới đây, VC vẫn khăng khăng giữ nguyên độc đảng. Ai nói chuyện Ða Ðảng sẽ bị ở tù! Và năm năm tiếp theo chắc chăn Ðảng Cộng Sản cũng sẽ tiếp tục độc đảng. Việt Cộng đã không đổi mới, đã không, cải sửa thì chính nhân dân Việt Nam sẽ thay thế chế độ này, vì nó vừa cản bước tiến của dân tộc và nhân loại, vừa đem lại những ách bóc lột, kềm kẹp, phá hoại đất nước và đi đến chỗ dâng đất nước cho Trung Cộng! CON ÐƯỜNG ÐỘC NHẤT MÀ TOÀN DÂN PHẢI ÐI TRONG NHỮNG NGÀY TỚI LÀ LẬT ÐỔ CHẾ ÐỘ CỘNG SẢN.

Có nhiều người bi quan khi nghĩ đến lật đổ chế độ Cộng Sản, nhưng Ðông Âu, Liên Sô đã bị lật đổ, dù dân chúng không có một tấc sắt trong tay. Ðáng khích lệ nhất là theo tin phóng viên FNA loan đi từ Huế ngày 11.1.2011 thì sáng Chủ Nhật, 9.01.2011 đã có 3 cuộc biểu tình, một tại Trại Gáo, quy tụ 9 ngàn người, hai, tại Ngọc Long gồm 8 ngàn người, và tại Thuận Nghĩa 6 ngàn người, tổng cộng 23 ngàn người thuộc tỉnh Nghệ An đã biểu tình chống giặc Tàu và kêu gọi Ða nguyên, đa đảng. Tại tỉnh Hà Tĩnh có biểu tình tại Xuân Hòa 4 ngàn rưỡi người, tại Lộc Thủy 4 ngàn rưỡi, tại Hương Khê 4 ngàn, Hương Sơn 4 ngàn. Tất cả có khoảng 45 ngàn người tham gia khai mạc Mùa Hội Lớn của Dân Tộc 2011. Chưa kể ở Huế sinh viên học sinh các trường vẫn luôn sẵn sàng biểu tình, Riêng ở Saigon chưa phối kiểm được. Tin này, theo FNA thì đã được phối kiểm. Chỉ riêng tại Saigon là chưa được tin chắc chắn. Nếu những cuộc biểu tình này thực sự xảy ra, thì đây là những cuộc biểu tình “thử phổi” Việt Cộng. Với con số hơn 40 ngàn người, Việt Cộng sẽ dùng lực lượng nào để đàn áp?

Sau khi những tin tức về giặc Tàu xâm lắn Việt Nam với sự giúp đỡ đắc lực của Việt Cộng, sau khi đã chịu đựng những độc ác, độc tài cướp đất cướp của, bóc lột tham nhũng do Việt Cộng gây nên,và với những phương tiện truyền thông mau lẹ, toàn dân đã biết vàđã ý thức đầy đủ bổn phận phải làm gì trong lúc “quốc phá gia vong” này. Chiến dịch “Mùa Hội Lớn của Dân Tộc 2011” đã bắt đầu. Xin tất cả đồng bào trong nước hãy cùng đứng lên, lật đổ chế độ độc đảng toàn trị của Việt Cộng trước khi đất nước bị Việt Cộng dâng cho Tàu Cộng là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam. Tất cả hãy thi đua tham dự chiến dịch “Mùa Hội Lớn của Dân Tộc 2011” lật đổ chế độ Cộng Sản, vì đó là con đường độc nhất vô nhị để tránh khỏi bị Tàu tiêu diệt, giải thoát được dân tộc sắp đi vào diệt vong vì sự bóc lột, tàn ác của Việt Cộng.

Lê Văn Ấn


Thursday, January 6, 2011

Vampire Flying Frog Discovery

    Vampire flying frog found in Vietnam

For those who have been sucked in by Twilight and True Blood, there’s a new breed of vampire to add to the list!

From the far jungles of Vietnam Rhacophorus vampyrus - the Vampire Flying Frog - has emerged as a strange new species of frog, recently discovered by Australian Museum scientist Dr Jodi Rowley.

This unusual frog has adapted for life in trees, using webbed fingers and toes for moving from great heights and gliding, hence the ‘flying frog’ name. But it’s the strange black ‘fangs’ the species’ tadpoles display which have earned it a place in the vampire world...

The new species is known only to inhabit a high-elevation area of forest in southern Vietnam, breeding in holes in trees.

“It’s pretty cool that these frogs have adapted to live in the trees so completely, even using water holes in trees to breed in and protect their offspring from all the predators that lurk in rivers and ponds,” comments Jodi.

“But the fanged tadpole - I’ve never seen anything like it before!”

In place of a normal set of mouthparts (usually similar to a beak), tadpoles of the Vampire Flying Frog have a pair of hard, black ‘fangs’ protruding from the underside of their mouth.

This new discovery is giving Jodi and her colleagues plenty to think about.

“This is the first time that ‘fangs’ have been recorded in a frog tadpole. We can only speculate at this stage what the fangs are for and we are now doing further research to look in to why the tadpoles have them,” says Jodi.

JJL ROWLEY, TTD Le, TAD Tran, BL Stuart, DH Hoang. (2010). A new tree frog of the genus Rhacophorus (Anura: Rhacophoridae) from southern Vietnam. Zootaxa 2727: 45–55.

Source: http://australianmuseum.net.au/media/Vampire-Flying-Frog-Discovery/


Wednesday, January 5, 2011

Nầy Thanh Niên Ơi! - Lê Văn Ấn

Lê Văn Ấn
    “Nầy Thanh Niên Ơi! Ðứng lên đáp lời Sông Núi.
    Ðồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống …”.
Hơn 60 năm trước, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã sáng tác bản nhạc này với những lời tha thiết, giọng nhạc hùng hồn để kêu gọi sinh viên Việt Nam đứng lên đấu tranh cho một Việt Nam Ðộc Lập, thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản đã lợi dụng tinh thần của bài hát này mà xách động sinh viên, thanh niên, học sinh cũng như các tầng lớp người trẻ đứng lên, cả Lưu Hữu Phước cũng đứng lên theo để “kháng chiến chống Pháp giành độc lập”. Nhưng khi Pháp phải đầu hàng trong trận Ðiện Biên Phủ, Hồ Chí Minh đã xác định “Nhận chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ”. Ðây là lời tuyên bố của Hồ Chí Minh, được in trong cuốn “Lịch sử Ðảng Cộng Sản Ðông Dương”, trang 29 do nhà xuất bản sách giáo khoa Mác Lênin, Hà Nội, năm 1979, tức là lời tuyên bố này là sự thật. Nói cách khác, Cộng Sản chính thức xác nhận Hồ Chí Minh đã lợi dụng máu xương của thanh niên Việt Nam để “làm việc” cho Cộng Sản Quốc Tế. Cũng vì phục vụ cho quyền lợi của Quốc Tế Cộng Sản mà trong suốt thời gian gọi là “kháng chiến chống Pháp”, Việt Minh, tiền thân của Việt Cộng đã bày trò “Chính Phủ Liên Hiệp” để rồi thủ tiêu các đảng phái Quốc gia chống Pháp không Cộng Sản. Cũng vì phục vụ Cộng Sản, Hồ Chí Minh đã hỗn láo khi viếng đền Ðức Trần Hưng Ðạo:

“Bác đưa dân tộc qua nô lệ,
Tôi dẫn Năm Châu đến Ðại Ðồng”.

Hồ Chí Minh không phải là người Việt Nam, hay là một người Việt Nam đã bị nhồi sọ, biến thành kẻ phản bội tổ quốc Việt Nam.

Hồ Chí Minh là người Cộng Sản. Nguyên việc lợi dụng xương máu của dân tộc để phục vụ Nga Tàu đã là kẻ phản bội quốc gia dân tộc. Các bạn sinh viên học sinh trong nước các thế hệ qua đã phải học “lịch sử đảng Cộng Sản”, và chắc chắn các bạn cũng biết chủ nghĩa Cộng Sản là ảo tưởng, là tai họa cho nhân loại, nhưng vì phải học để lên lớp, để có bằng cấp, để có địa vị v.v… nên dù biết bản chất Cộng Sản là như vậy, vẫn hùa theo bọn chúng vì quyền lợi cá nhân mình. Khi cá nhân tôi trong một cuộc phỏng vấn đã hỏi ông Hoàng Minh Chính nghĩ gì về vụ Hồ Chí Minh chỉ thị Phạm Văn Ðồng gởi thư cho Chu Ân Lai ngày 14.9.1958 đồng ý xác nhận một số lớn diện tích lãnh hải chúng ta trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Cộng. Ông ta xác nhận: “Hồ Chí Minh có tội phản quốc vì lúc đó, Hồ Chí Minh là Chủ Tịch Nước kiêm Tổng Bí Thư Ðảng”. Ông Hoàng Minh Chính cũng cho biết là phần lớn đảng viên Cộng Sản đều biết hành động đó là “phản quốc” nhưng “vì tôi là đảng viên Cộng Sản nên không thể phản đối”. Ông Hoàng Minh Chính và các đảng viên cao cấp Cộng Sản đã đặt Ðảng của họ trên Tổ Quốc. Hơn nữa, vì là “đảng viên Cộng Sản” cũng có nghĩa là vì quyền lợi vật chất mà nhắm mắt, bịt tai trước những hành động bán nước buôn dân của Cộng Sản.

Cái đau đớn nhất cho dân tộc Việt Nam là Hồ Chí Minh vâng lời Mao Trạch Ðông, thực hiện Chiến Dịch Cải Cách Ruộng Ðất, đã giết hơn 200 ngàn người dân Việt vô tội, chỉ vì họ “làm chủ” một vài mẫu ruộng, thậm chí có người chỉ có 5 sào ta, nhưng cũng phải bị giết cho đủ chỉ tiêu! Sự kiện đau đớn này càng chứng minh Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản phản bội tổ quốc và dân tộc Việt Nam. Những sự kiện này, các tầng lớp dân chúng miền Bắc, qua các thế hệ biết rõ ràng, những gì xảy ra sau năm 1975 cho Ðất Nước, người trong nước được mục kích hằng ngày.

Nhưng, có lẽ có bạn trẻ sẽ cho rằng đó là quá khứ. Ðiều đó cũng đúng, vậy thì chúng ta thử xét hiện tại Ðảng Cộng Sản có là người Việt Nam hay vẫn là người Cộng Sản? Vẫn chủ trương buôn dân bán nước? Hay còn tệ hơn buôn dân bán nước là “những thái thú” tiếp tay sáp nhập Việt nam vào lãnh thổ Trung Cộng?

Như trên đã nói, các bạn trẻ, sinh viên học sinh biết rất rõ những gì xảy ra cho dân tộc, tuy nhiên, để “nói có sách, mách có chứng”, tôi xin đang cử một số lời phát biểu của 22 nhà “trí thức” trong nước để mọi người thêm mạnh tin Cộng Sản hành động y như họ không phải là người Việt Nam trong hiện tại. Tất cả những gì mà 22 nhà trí thức này phát biểu chắc chắn là đúng sự thật, đúng lý luận, tiếc rằng Trung Ương Ðảng cũng như Bộ Chính Trị không cho phổ biến và chắc chắn họ cũng sẽ không nghe những ý kiến này.

Hiện tình đất nước và những gì đảng Cộng Sản đã và đang làm có thể chia làm 2 phần, một là đối với dân tộc, hai là đối với Trung Cộng.

Ðối với dân tộc: VC xem dân tộc như là một thực thể sở hữu của họ, vì thế họ khai thác thân xác phụ nữ tối đa, lớp thì “lấy chồng Ðài Loan, Ðại Hàn”, lớp thì bán ra hải ngoại làm nô lệ tình dục, lớp thì khai thác phụ nữ để tổ chức mãi dâm trên khắp các miền đất nước. Của cải của dâncũng là của đảng viên VC qua làn sóng “dân oan khiếu kiện”, chiếm đoạt tài sản, đất đai các nhà thờ và chùa chiền v.v… Thậm chí, các em nữ sinh cũng là “vật sở hữu của đảng viên Việt Cộng”. như chuyện đã xảy ra ở Hà Giang mà ai cũng biết. Còn rất nhiều bằng chứng, rất nhiều sự kiện rất đau lòng. Trong lúc các bạn trẻ dù biết những bài học phải nhồi nhét, phải học ngày, học đêm,…. là những điều sai trái nhưng vẫn phải học để trúng tuyển; Còn đảng viên Cộng Sản thì không học cũng có bằng: bằng tại chức, bằng giả! Tóm lại là Việt Cộng coi đất nước và dân tộc là vật sở hữu của họ, cho thuê đất, bán đất, lấy đất của dân bán cho tư bản ngoại quốc v.v… Các nhà trí thức, là những kẻ đã từng có quyền lực, điều hành việc nước, và cũng là cựu đảng viên hay còn là đảng viên cũng nhận định chính xác: “Những khái niệm lớn của loài người là dân chủ, là nhà nước pháp quyền, là xã hội dân sự” (TS Trần Ðình Thiên). Tiến sĩ Lê Ðăng Doanh: “Tất cả các nội dung mà liên quan đến cái việc phát huy quyền dân chủ của người dân thì đều đã không thực hiện. Và cái điều này chắc chắn không phải là sự tình cờ”. Và ông Ðào Công Tiến kết luận: “… cái hiện hữu siêu quyền lực đó đang làm phá vỡ dân quyền, phá vỡ dân chủ xã hội”. “Siêu quyền lực” đây là đảng Cộng Sản.

Có thể nói bất cứ từ điển nào, thể chế chính trị nào trên thế giới cũng xác định quyền sở hữu có 2 yếu tố, một là quyền xử dụng, hai là quyền quyết định. Ðảng Cộng Sản định nghĩa về đất nước: “Dân làm chủ, nhà nước quản lý và Ðảng lãnh đạo” có nghĩa là “Dân làm chủ” nhưng “Đảng quyết định”. Như vậy Cộng Sản xác nhận dân chỉ “làm chủ không không, làm chủ bù nhìn”.

Ðối với Trung Cộng: ngoài việc Hồ Chí Minh và Phạm Văn Ðồng dâng biển cho Trung Cộng ngày trước. Hôm nay, Việt Cộng để cho Trung Cộng hoành hành trên biển Ðông, mặc sức đàn áp, cướp bóc và tiêu diệt ngư dân, trên lãnh thổ thì coi như Trung Cộng đang thực sự là chủ. Chúng ta hãy xem “những nhà trí thức” trong nước phát biểu:

- Ông Nguyễn Trung, cựu thành viên Ban Nghiên Cứu của Thủ tướng Phạm Văn Ðồng phát biểu trong cuộc hội thảo: “90% những công trình kinh tế mới bây giờ là Trung Quốc trúng và đấu thầu, chứ không qua đầu tư”… không thể bỏ qua được vì đây là vấn đề an ninh, vân đề sống còn của quốc gia”.

- Bà Dương Thu Hương, nguyên Phó Thống Ðốc Ngân Hàng Nhà Nước: “Láng giềng chúng ta sang đây xây dựng làng xã thành phố rồi, mà nó không mang tên China Town đâu, chưa mang tên mà nó sẽ mang tên”…”công nhân Trung Quốc sang lại lấy vợ Việt Nam cắm đất đây luôn, sát ngay Hà Nội luôn”.

Tiếc thay, những nhà trí thức nêu trên đều là những người đã nắm quyền lực và họ chỉ “phát biểu ý kiến” sau khi đã hết quyền lực. Và họ tự tố cáo họ như Giáo Sư Trần Phương phát biểu: “… Và chúng ta tự lừa dối chúng ta và tự lừa dối người khác. Tôi nghĩ là cái tệ hại đó phải chấm dứt, phải sửa. Nhưng mà ai sửa? Những người cầm quyền bây giờ họ chẳng có thì giờ nghĩ đến chuyện đó đâu, họ cứ miễn là một nhiệm kỳ này họ cứ ngồi đấy, còn nhiệm kỳ sau thì họ về hưu rồi…”. “Họ” - đảng viên Cộng Sản - không “ngồi đấy” đâu, họ lo vơ vét, họ không có thì giờ nghĩ đến việc dân việc nước, hay họ chỉ nghĩ phương thế để bán đất nước làm giàu cho họ.

Ðiều đáng trách các nhà trí thức, cựu “siêu quyền lực” này khi họ kết luận là họ chỉ muốn “lịch sử” biết rằng: “giới trí thức nước này cũng không ngu đến mức nó tự lừa dối nó đâu”. Họ không hy vọng gì Ðại Hội Ðảng VC sẽ nghe họ. Ðó là ảo tưởng. Ðể rồi họ tự mãn rằng họ đã nói ra ý kiến khi được hỏi là họ “đã tự an ủi mình là mình không phí thì giờ”.

Một khi đã biết 90% dự án đều bị Tàu lấy, một khi biết Trung Cộng đang thiết lập làng xã của chúng trên quê hương mình, một khi đã biết vấn đề Trung Cộng không thể bỏ qua được vì liên quan đến an ninh, vấn đề sống còn của quốc gia, mà họ chỉ nói suông, hay nói cho sướng miệng, nói để người khác, nhất là lịch sử biết họ không phải ngu, thất bại chỉ vì những người đương quyền không nghe họ. Là trí thức, là những người đã từng lãnh đạo, một khi thấy thế nguy cho dân tộc, họ phải tìm cách cứu dân cứu nước, chứ sao lại chỉ “góp ý” mà không cần biết có được VC nghe hay không?

Một vấn đề sinh tử của đất nước mà họ đã nêu ra những chứng cớ, những sự kiện và họ cũng đã biết những sự kiện đó đưa Ðất Nước đến chỗ diệt vong mà họ - những nhà trí thức - chỉ nói để mà nói thì chẳng đem lại lợi ích nào cho Ðất Nước. “Quốc gia hưng, vong, thất phu hữu trách”, họ là trí thức, là sĩ phu họ phải làm gì chứ?

Giới trí thức, đúng ra là giới “cựu siêu quyền lực” đã nêu ra những nguy hiểm, tai hại do những việc làm của đương kim “siêu quyền lực” tức là Việt Cộng có thể Việt Nam sẽ bị sát nhập vào nước Tàu mà họ không có hành động cụ thể giúp dân, giúp nước, thì bổn phận đó ai gánh vác đây?

Thanh niên, sinh viên, học sinh Việt nam! Các thành phần này phải gánh vác, phải đáp lời sông núi, đứng lên lãnh trách nhiệm. Trách nhiệm gì? Họ phải lật đổ chế độ Cộng Sản hiện hữu trên đất nước Việt Nam. Giới “trí thức nêu trên” cũng xác định rằng nếu hy vọng “góp ý” mà Việt Cộng nghe là ảo tưởng. Nói cách khác họ cũng biết “chỉ có thay thế chứ không thể sửa đổi” như lời Boris Yeltsin đã nói. Các bạn trẻ phải đảm trách phần vụ “thay thế” này. “Ðường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Thanh niên Ba Lan, Tiệp Khắc, Liên Sô đã làm và đã thành công! Thanh Niên Việt Nam không thua sút thanh niên các nước này, tại sao không thể làm? Tại sao còn do dự?

Trước khi đất nước bị đảng viên Cộng Sản giúp Trung Cộng sát nhập vào nước Tàu, các bạn thanh niên hãy gấp rút đứng lên làm cuộc cách mạng bất bạo động, cuộc cách mạng xanh. Thanh niên thành phố Huế đã “Khai trương Mùa Hội Lớn của Dân tộc Việt Nam”, đã bắt đầu một cuộc biểu tình, thanh niên tất cả các thành phố, các tỉnh cần đồng loạt đứng lên. Ðiều kiện tiên quyết là phải quyết tâm đứng lên HÀNH ÐỘNG. Quân Ðội không thể đông hơn dân. Cảnh Sát không thể nhiều hơn dân. Kinh nghiệm cho thấy khi lòng dân đã quyết thì bạo lực phải lùi bước. Quân đội, cảnh sát Cộng Sản tại Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi v.v… đã bất can thiệp, có nơi còn về hùa với dân chúng. Bộ Ðội, công an cũng là người Việt Nam, một trăm tên không đến nỗi cả trăm đều lòng dạ quỷ ma, súc vật? Trung Cộng phải nhờ đến một sư đoàn “con hoang” mới đàn áp được Thiên An Môn. Bộ Ðội hiện nay tại Việt nam chưa có loại “con hoang khát máu” này.

Giới trí thức đã đưa ra nhiều nhận định chính xác. Giới thanh niên hãy gấp rút hành động. Việt Cộng đã hoảng sợ trước mấy ngàn giáo dân Hà Nội “cầu nguyện”. Nay hơn 80 triệu dân phải là lực lượng làm cho Việt Cộng đầu hàng.
    Nầy thanh niên ơi! Ðứng lên đáp lời sông núi.
    Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống.
Lê Văn Ấn


"Lửa Trần Văn Bá" vẫn tiếp tục cháy! - Nguyễn Thiếu Nhẫn



Nguyễn Thiếu Nhẫn

Trong cuộc chiến Việt Nam vừa qua, một trong những tờ báo mà người Việt Quốc Gia miền Nam hết sức căm ghét là tờ l’Express của Pháp. Trong cuộc chiến tranh tự vệ của quân dân miền Nam chống lại cuộc xâm lăng của Cộng sản miền Bắc, tờ báo này đã gây ra không biết bao nhiêu thiệt hại cho phía những người Quốc Gia. Tờ báo này qua tay bỉnh bút thiên tả nặng ký Oliver Todd đã ra rả tung hô Hồ Chí Minh, đã bỏ công lặn lội vào các vùng do Cộng sản kiểm soát ở miền Nam và ca tụng, thần thánh hóa những cán binh Cộng Sản như những anh hùng của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau tháng Tư năm 1975, sự thật đã làm Oliver Todd mở mắt. Tháng 6-1978, tuần báo l’Epress đã đăng một bài mang tựa đề “Le Goulag Indochinois” (tạm dịch Đông Dương: Quần đảo Ngục Tù). Đây là một bài viết chứng minh sự phản tỉnh hoàn toàn của Oliver Todd.

Trong bài viết, ký giả phản tỉnh Oliver Todd đã nhắc tới một lời phát biểu của văn hào Nga lưu vong Solzhenitsyn. Trong cơn hấp hối của miền Nam, đoán trước sự chiến thắng của Cộng sản và những gì họ sẽ làm trong tương lai ở Việt Nam, ngày 11 tháng Tư năm 1975, văn hào người Nga này đã gửi đến thế giới một thông điệp vắn tắt: “Toàn thể nước Việt Nam sẽ trở thành một trại tập trung”. Lời tiên đoán này đã trở thành sự thật.

Tiếp theo đó, Oliver Todd còn viết nhiều bài vạch trần những mặt trái của xã hội Cộng sản mà bấy lâu nay được che lấp bởi hào quang và huyền thoại. Một trong những tác phẩm của Todd là quyển “Cruel Avril 1975: La Chute de Saigon” (tạm dịch Tháng Tư Đen 1975: Sự sụp đổ của Sàigòn) để tưởng niệm và tôn vinh một người Việt Nam mà ông đã có dịp gặp gỡ: Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Paris Trần Văn Bá.

Có lẽ mọi người còn nhớ, Trần Văn Bá là con của cố Dân biểu Trần Văn Văn, du học tại Pháp từ trước 1975 và giữ chức Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại Paris. Trong những ngày cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Pháp lúc ấy là Nguyễn Duy Quang đang chuẩn bị bàn giao Đại sứ quán VNCH tại Paris cho đại diện Ngoại giao của Cộng sản và không thiêu hủy các hồ sơ mật. Chính Trần Văn Bá đã cùng các sinh viên trong Tổng hội Sinh viên Việt Nam trèo lên tầng lầu chứa các hồ sơ và tiêu hủy các hồ sơ đó.

Ai đã từng theo dõi cuộc đấu tranh chống Cộng của người Việt tại Pháp trong giai đoạn 1975-1980 chắc hẳn không ai mà không biết Trần Văn Bá, một trong những người lãnh đạo chủ chốt.

Cùng với các ông Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh (đồng Chủ tịch Mặt trận Thống nhất các Lực lượng Yêu nước Giải phóng Việt Nam), Trần Văn Bá trở thành một trong những bộ óc lãnh đạo của tổ chức kháng chiến này.

Ngày 6 tháng 6 năm 1980, sau 5 năm chuẩn bị và trăn trở suy nghĩ, chán ngán các trò tranh đấu chống Cộng bằng những cuộc thảo luận tại những phòng khách sang trọng ở các thành phố, thủ đô Pháp, Mỹ, Trần Văn Bá bay sang Thái Lan. Dưới bí danh C.4 trong tổ chức, anh đã góp phần tuyển mộ, tổ chức, huấn luyện cho các chiến sĩ kháng chiến, chuẩn bị xâm nhập quốc nội.

Kỷ niệm hai năm ngày rời Paris, từ vùng hoạt động, anh gửi ra ngoài một lá thư, có đoạn viết:

“Tôi vẫn mạnh khoẻ. Thật là gay go và cực khổ. Nhưng tôi cảm thấy được sự liên đới mật thiết giữa tôi với quê hương nghèo khổ, bất hạnh và đói khát. Công cuộc giải phóng đất nước, chủ yếu sẽ là công trình của những người kháng chiến quốc nội, chứ không phải của các chính trị gia lưu vong.” (do tác giả bài này in đậm).

Trong những ngày anh còn ở Thái Lan, ông Trần Văn Tòng, anh ruột của anh (sau này là Chủ tịch Ủy ban Quốc tế Trần Văn Bá, trụ sở ở Paris) đã đến thăm và đã được anh tâm sự: “Quả thật là em đang làm cái chuyện đội đá vá trời.”

Và rồi, từ giã C.1 (bí danh của ông Lê Quốc Túy) anh cùng C.2 (bí danh của ông Mai Văn Hạnh) và một số chiến hữu khác mang vũ khí, đạn dược, phương tiện liên lạc xâm nhập quốc nội.

Sa cơ, anh và ông Mai Văn Hạnh cùng một số chiến hữu cùng xâm nhập và một số chiến hữu cơ sở quốc nội bị Cộng sản bắt.

Bạo quyền Hà Nội đã mở một phiên tòa hát bội, được quảng cao rùm beng ngày 19-12-1984 tại Nhà hát Thành phố Sàigòn để xử anh cùng 21 chiến hữu khác trong tổ chức.

Phiên tòa này, thực chất chỉ là một cuộc trình diễn hình thức và đọc lên các phán quyết đã được định trước: 5 án tử hình dành cho các ông Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá, giáo sư Hồ Thái Bạch, Huỳnh Vĩnh Sanh và Lê Quốc Quân (em của ông Lê Quốc Túy).

Trước phiên tòa, Trần Văn Bá đã giữ trọn vẹn khí phách của một chiến sĩ Quốc Gia can trường. Mặc dù theo luật, các tử tội có thể xin ân xá, nhưng anh đã thẳng thừng từ chối.

Trong số những người từ bên ngoài xâm nhập Việt Nam để hoạt động, có hai người lãnh án tử hình là Trần Văn Bá và Mai Văn Hạnh. Ba người còn lại thuộc cơ sở quốc nội. Trong những người này, chỉ có ông Mai Văn Hạnh là thoát khỏi mũi súng của đội hành quyết. Là công dân Pháp, ông được chính phủ Pháp tích cực can thiệp và đã được thả về Pháp sau nhiều năm tù. Trần Văn Bá và các chiến hữu khác đã lần lượt đền nợ nước trong năm 1985.

Trong phiên tòa, một cán bộ cao cấp của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, đóng vai trò công tố viên, đã lồng lộn quy kết cho Trần Văn Bá và các chiến hữu của anh những tội danh nặng nề nhất. Đồng thời cũng lên án các “thế lực phản động quốc tế, bọn bành trướng Bắc Kinh, quân phiệt Thái Lan” đã tiếp tay hỗ trợ cho Mặt Trận Thống nhất các Lực lượng Yêu nước Giải phóng Việt Nam. Đặc biệt Hà Nội đã tố cáo đích danh Tình báo Lục quân Thái Lan do Tướng Yongchaiut, Tham mưu trưởng Lục quân Thái Lan vào lúc đó chỉ huy đã tận tình giúp đỡ tổ chức này. Youngchaiut sau này trở thành Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Thái Lan và đã qua thăm Việt Nam.

Anh Trần Văn Bá đã chết. Hai mươi ba năm đã trôi qua. Oliver Todd đã đặt câu hỏi:

“Cũng như những người kháng chiến vô danh khác, Trần Văn Bá là người của lý tưởng hay thực tế, can đảm hay mạo hiểm? Anh là một anh hùng gương mẫu hay là một kẻ tuẫn đạo vô ích? Cuộc đấu tranh mà anh Bá theo đuổi là một cái gì đó mơ hồ, tuyệt vọng hay một thách đố xứng đáng để chúng ta kính phục, thông cảm và ủng hộ?”

Đối với người Việt Nam chúng ta, có lẽ không cần thiết phải đặt ra một câu hỏi như vậy. Rõ ràng anh Trần Văn Bá là một người tranh đấu vừa lý tưởng vừa thực tế, can trường và dám mạo hiểm. Anh là một anh hùng gương mẫu và là một kẻ tuẫn đạo, và con đường anh đã theo đuổi, cuộc đấu tranh của anh là một thách đố hết sức xứng đáng để chúng ta kính phục và hết lòng biết ơn.

Mười lăm năm sau, vào ngày Quốc hận 30 tháng Tư năm 2000, tại Paris, một phụ nữ Việt Nam đã quyết định dùng thân xác của mình để đốt lên ngọn lửa Trần Văn Bá. Trong những lời trăn trối để lại của người phụ nữ này, có đoạn như sau:

“… Thế hệ cha anh của chúng ta đã dần dà yếu đuối, kiệt sức sau bao cảnh khốn cùng, đầy thương tích quá khứ. Vậy thì thế hệ chúng ta còn lại đây, không còn chờ đợi gì nữa, không thể trông cậy vào ai, nhất là không thể trông đợi vào quốc tế. Quốc tế vì quyền lợi của họ, họ đã mặc nhiên trên sự thống khổ của dân tộc ta, họ đã bị cái hỏa mù “Đổi mới”, cái lớp sơn che đậy sự mục rữa của một chế độ ung thối. Chúng ta phải có nhiệm vụ tẩy rửa cái lớp sơn đó ra, vạch trần nó trước công luận quốc tế … 25 năm qua, cũng ngày tháng tang thương này, biết bao xương máu của đồng bào và chiến sĩ đã đổ xuống, trước cảnh oan khuất, trước cảnh Việt Nam thân yêu bị bức tử bao nhiêu người đã liệt oanh tử tiết; dân tộc ta không thiếu anh hùng, không thiếu người dám nằm xuống cho quê hương, mà chúng ta chỉ thiếu lòng tin tưởng ở nhau 25 năm nay, cũng có biết bao nhiêu kẻ âm thầm hy sinh; nơi thủ đô Paris mà chúng ta đang đứng hôm nay, cũng có dấu chân của anh hùng Trần Văn Bá, có những anh em vừa thoát khỏi nhà tù Cộng sản. Hỡi anh chị em, chúng ta hãy đốt lên ngọn lửa Trần Văn Bá trong mỗi con người chúng ta …”

Người phụ nữ quyết định dùng thân xác của mình để đốt lên ngọn lửa, tự nguyện làm ngọn đuốc với lòng căm phẫn để lên án chế độ Cộng sản phi nhân, nhằm mục đích nối tiếp ngọn lửa Trần Văn Bá có tên Nguyễn Thị Ngọc Hạnh.

Ước vọng dùng thân xác của chính mình để đốt lên ngọn lửa Trần Văn Bá của chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đã không thành. Nhưng không ai đem thành bại mà luận anh hùng! Không ai có thể chối cãi là ngọn lửa Trần Văn Bá sau 15 năm âm ỉ giờ lại bùng cháy mãnh liệt sau hành động phi thường của chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh.

Sau 15 năm âm ỉ, ngọn lửa Trần Văn Bá đã và đang bùng cháy mãnh liệt từ hải ngoại đến quốc nội.

- Ngày thứ Năm 31-8-2000, lúc 19 giờ 45, cũng chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đã dùng xăng đốt lá cờ đỏ, sao vàng và tấn công sứ quán CSVN tại Luân Đôn, Anh Quốc.

- Ngày thứ Sáu 1-9-2000, lúc 11 giờ 15 phút, “lão tướng” Trần Hồng đã tới trước sứ quán Cộng sản tại Pháp để tuyên án khai tử chế độ Cộng sản Việt Nam bằng một hành động có tính cách tượng trưng, nhưng quyết liệt khi dùng súng bắn vào quốc huy của CSVN gắn trước mặt tiền sứ quán Hà Nội.

Không đầy 24 tiếng đồng hồ sau, pháp đình Paris đã đem vụ “lão tướng” ra xét xử. Ký giả Dominique Simonot của tờ Libération ngày 4-9-2000 trong mục “Sổ tay Tòa án” đã viết như sau:

“… Một người đàn ông nhỏ bé đứng dậy, đó là ông Trần, sanh năm 1930 tại Việt Nam. Một người (quốc tịch) Pháp làm trong ngành hàng hải thương thuyền đã về hưu. Ông Trần đã bị bắt trước sứ quán Việt Nam. Sau khi đốt một lá cờ CSVN, và với khẩu súng bắn hỏa pháo, ông ta đã bắn vào cái quốc huy gắn trên mặt tiền sứ quán. “Ông là một thuyền nhân và ông luôn luôn bày tỏ thái độ oán ghét của ông đối với chính phủ (CS) Việt Nam.” Bà chánh án đọc lớn: “Cách đây 4 năm ông Trần đã lái một chiếc xe ủi đất xông vào sứ quán.” Tại ghế bị can, ông Trần đã trả lời trước tòa: “Tôi là một người Quốc Gia, tỵ nạn tại đây và tôi có một mối thù sâu đậm với cộng sản. Hàng triệu đồng bào tôi đã phải chạy trốn, và hàng ngàn người đã chết trên biển để vinh danh cho Tự do” ông nói lớn không ngừng. “Tòa đã hiểu, bà Chánh án ngắt lời, ông không tin là có những phương tiện khác ngoài việc phải phạm tội?” Ông Trần trả lời: “Mọi phương tiện đều tốt, việc này nhắc lại cuộc kháng chiến chống Đức Quốc Xã tại Pháp, những kháng chiến quân này đã không tuân theo luật của ông Pétain. Với tôi cũng vậy.” (Bản dịch của Từ Ngọc Lê).

- Ngày 15-9-2000, vào lúc 10 giờ 30 sáng, phái đoàn Ủy ban Phát huy Chính nghĩa Dân tộc với sự tham gia của lão tướng Trần Hồng đã có mặt tại Luân Đôn tham dự buổi xét xử chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh tại tòa án hình sự West London Magistrates Court. Vì luật sư được cảnh sát Anh đề cử đã không can thiệp tốt cho chị Ngọc Hạnh, cốt đưa chị Ngọc Hạnh vào tội danh hình sự nên phiên tòa ngày 15-9 tòa chỉ giải quyết việc thay luật sư bào chữa cho chị Ngọc Hạnh. Tưởng cũng biết, trong buổi khảo cung trước khi đưa ra phiên xử ngày 15-9, chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đã tuyên bố:

“Tôi không tranh đấu cho cá nhân tôi, mà tôi tranh đấu cho cả dân tộc tôi.”

Theo bản tin được báo chí phổ biến thì “Cuối cùng tòa quyết định không cho bà Nguyễn Thị Ngọc Hạnh được tại ngoại hầu tra. Trong vòng từ 4 đến 6 tuần, hồ sơ điều tra của cảnh sát mới chuyển đến tòa và do đó mới biết ngày xử.” Cũng theo bản tin thì, “Khi bà Ngọc Hạnh đưa về nơi giam giữ, đã quay lại nói thật lớn: “Tòa xử ép tôi, tôi sẽ chết để anh em đứng lên!” Một cảnh não nùng, người đàn bà nhỏ bé bị những người cảnh sát to lớn lôi kéo.”

Từ nhà tù Anh Quốc, chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh cũng đã gửi huyết thư đến đồng bào hải ngoại tố cáo nhà cầm quyền Anh Quốc đang âm mưu bóp nghẹt tiếng nói đấu tranh cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền của những người Việt Quốc Gia tỵ nạn Cộng sản mà chị là nạn nhân.

- Năm 2001, chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đến Hoa Kỳ, tìm cách vào khách sạn Mariott là nơi Nguyễn Tấn Dũng, Phó Thủ Tướng VC (lúc đó) và phái đoàn họp báo, lên tiếng tố cáo chế độ Cộng sản không có Tự do, Dân chủ và Nhân quyền. Chị bị chính quyền Hoa Kỳ bắt giữ và đưa ra tòa xử 5 năm tù giam về tội âm mưu khủng bố. Chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đã từ chối lời đề nghị nhận tội để được giảm án với mục đích tố cáo tội ác của chế độ CSVN tại tòa án Hoa Kỳ.

Ngày 07 tháng 09 năm 2006, chị Ngọc Hạnh “đặt chân xuống phi trường Charles de Gaule, trở về với khung trời tự do sau khi mãn án 5 năm lao tù cộng thêm gần 6 tháng tù ở nhà tù Sở Di Trú Hoa Kỳ (United Sates Immigration Department)” (trích “Thế Lực Đen” tự truyện Nguyễn Thị Ngọc Hạnh” đã xuất bản khắp hải ngoại).

Dù yêu thương hay thù ghét, không ai có thể phủ nhận “anh thư” Nguyễn Thị Ngọc Hạnh là những người đã đem cả mạng sống của mình để đấu tranh cho tự do, dân chủ cho một nước Việt Nam tự do, không cộng sản.

Cũng như anh hùng Trần Văn Bá, chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh xứng đáng là biểu tượng tiếp nối cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền!

Lửa Trần Văn Bá đã tiếp tục rực sáng ở trong nước với các cuộc tranh đấu bền bỉ của Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Linh mục Nguyễn Văn Lý, các Hội Thánh Tin Lành, Phật Giáo Hòa Hảo và những nhà tranh đấu cho tự do, dân chủ khác ở trong nước.

Bài viết này xin được coi như một nén hương tưởng niệm kính gửi đến hương hồn liệt sĩ Trần Văn Bá - người mà cách đây 26 năm đã từ bỏ ánh đèn sân khấu Paris, cùng các đồng chí về nước tranh đấu để mưu tìm một cuộc sống tự do, dân chủ nhân quyền cho toàn dân Việt Nam.

Cái chết của anh sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi đường để chúng ta tiếp tục cuộc tranh đấu giành lại tự do, dân chủ và nhân quyền cho 87 triệu người dân trong nước.

Nguyễn Thiếu Nhẫn


Tuesday, January 4, 2011

Bác Cháu ta lên mạng - Cu Tèo

Cu Tèo

Chào Bác,

Lời đầu meo, Cu Tèo kính chúc bác năm mới đỡ bị các cháu “lão thành cách mạng” nay sáng mắt biết khôn hồn “tự diễn biến” quay ra oán trách Bác, (theo vè Nghệ Tịnh quê choa) rằng:
    Giận thì giận mà tức thì tức
    Bác đi sai đường
    Cháu không chịu nổi
    Giận càng giận mà tức càng tức
Thưa bác, Tèo muốn chúc xuân Bác thật nhiều, nhưng Bác cũng chẳng lạ chi, học hành Tèo nỏ (không) được mấy trự (chữ), vì khi học lớp một trường làng đang ngon trớn “tiên học lễ hậu học văn; có học phải có đức; ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý”, thi bỗng đâu cái loa làng oang oang “trí thức không bằng cục phân”; Thày mẹ Cu Tèo sợ con mình mai mốt không bằng cục phân nên bắt Tèo bỏ học ngay cái rụp.

Trong khi đó, Bác là người sính thơ văn. Cái sính thơ văn của bác, phải nói là trên thế gian này chẳng có ai theo kịp: chỉ có bác là người độc nhất phịa tên kẻ khác để viết cả một cuốn sách để ca ngợi mình bác. Đó là bác là “con người khiêm tốn dường ấy” đó nha; nhược bằng, không “khiêm nhường dường ấy”, bác còn viết hàng tỷ cuốn sách tự sướng khác, làm kho văn học nước nhà và hàn lâm viện thế giới không có chỗ chứa, mà Tèo thì học mệt nghỉ.

Nên không có khả năng tự làm thơ lấy, Tèo mượn đại thơ của ai đó, (Cứ thấy có chữ “Bác Hồ” là Tèo chụp đại, chứ Tèo cũng không hiểu nội dung, nhưng chắc chắn đại ý phải là khen bác lắm lắm) làm món quà đầu năm dâng bác, như sau:
    BÁC HỒ Và GIU ĐA

    Tháp Mười đẹp nhất bông Sen
    Cái hôn "chụt" nhất phải khen bác Hồ
    Hôn Khai hôn Tuyết hôn Bô (Bauvière)
    Hôn Xuân hôn một hôn ông (Chu) hôn mười

    Đứng bên ai đó mắc cười
    Ai cười cứ mặc bác thời cứ hôn
    Giu-Đa bán Chúa cũng hôn
    Bác đây bán nước phải hôn bằng mười

    Bác Hồ sinh ở Nghệ An
    Sao ông làm nhục Nước Nam quá chừng
    Tớ tôi thì cũng vừa chừng
    Đón quan thầy Chệt hôn mừng rứa na (tiếng Nghệ, thế à)

    Bác Hồ sinh ở Làng Sen
    Cớ sao thân "bác" lấm lem thế rày
    Sắc hương bác chẳng giống ai
    Cũng vì tại bác bon chen thành Tàu

    Bác khai quê quán Nam Đàn
    Đất đâu nẻ thứ ác gian như vầy
    Lại con phó bảng ơ hay
    Rõ là qủy sứ Trời đày hành dân

    Giu Đa bán Chúa: treo mình
    Bác Hồ bán nước: lăng đình nguy nga
    Gẫm suy hai chữ Chính, Tà
    Giu Đa với "bác" ai là chính nhân

    Giu Đa hối hận, treo mình
    Bác Hồ không hối, chình ình trong lăng
    Một bầy phản quốc lăng quăng
    Bu quanh xác thối rằng đây cha già

    Quê hương bị ám tà ma
    Hôm nay nông nỗi mới ra thế này
    Biển rừng giặc nắm trong tay
    Lương dân đảng nhốt cả thân lẫn hồn

    Giu Đa bị ép bán thầy
    Khi Thầy bị giết quăng ngay túi tiền
    Bác Hồ bán nước tự nhiên
    Như người Hà Nội sướng rên cả người

    Sướng Cải Cách, sướng Nhân Văn
    Tổ Quốc chia cắt, Mậu Thân máu tràn
    Gia tài để lại “cháu ngoan”
    Tiền rừng bạc biển từ nguồn bán thuê
    *

    Chú (Giu) Đa sánh với bác Hồ
    Cái mặt phản trắc “bác” to hơn nhiều
    Lê Nin con qủy nước Nga
    Bác xin về đứng vườn hoa Ba Đình

    Nó hăm nó chỉ nó rình
    Nó gieo nó rắc ma kinh mọi nhà
    Qua tay đảng bác đẻ ra
    Nó làm non nước tan hoang như rày

    Bác bôi, bác bác Phật Trời
    Đến khi bác chết bác đòi Mác Lê
    Mác Lê bác gặp chưa tề
    Sao nay "cháu bác" môi trề hai ông

    * Bán Bauxite, đất liền, hải đảo; cho thuê rừng, duyên hải
Ngần ấy câu thôi, Tèo nghĩ là bác không cần rượu cũng đủ cay và say xỉn trong mấy ngày xuân.

Chào Bác,
Cu Tèo


Sunday, January 2, 2011

QUỐC DOANH: đời đời chẳng cùng. Amen! - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria là điểm nổi bật nhất của người công giáo Việt Nam. Không có người tín hữu VN nào không tự hào về điểm này. Biểu tượng của lòng sùng kính Đức Mẹ rực sáng lên ở một địa danh gọi là La Vang. La Vang được truyền tụng là nơi Đức Mẹ hiện ra để vỗ về an ủi các giáo hữu xưa kia bị bách hại. La Vang vì thế ngày nay đã được thiết lập thành một trung tâm hành hương cho các tín hữu khắp nơi qui tụ về để kính viếng và cầu nguyện. Tháng 5-1980, Hội Đồng Giám Mục VN (HĐGMVN) họp tại Hànội, đặt tên cho địa danh này là Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc La Vang, và đã được Tòa Thánh chuẩn nhận bằng một Sắc Lệnh.

Năm 2010 là Năm Thánh của GHVN. Năm Thánh khai mạc ngày 24-11-2009 tại Sở Kiện, Hà Nam, và sẽ bế mạc vào ngày 4-1-2011 tại La Vang. Dịp lễ sẽ có mặt Hồng Y Ivan Diaz đại diện của Tòa Thánh, và đặc biệt là Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nhà nước VGCS, cũng sẽ tới dự và đọc diễn văn bế mạc. Sự thể này cùng với việc Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc La Vang không biết vì lý do gì âm thầm biến thành Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ La Vang đã làm bùng lên sự bất bình của giáo dân trong cũng như ngoài nước, và dư luận chú ý đến rất nhiều.

Nguyễn Minh Triết, Giáo Chủ?

Tin tức chính thức của toà TGM Huế phổ biến cho biết, Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nhà nước VGCS sẽ đọc diễn văn bế mạc Năm Thánh của GHVN tổ chức tại thánh địa La Vang.

Theo nghi lễ thông thường thì, người đọc diễn văn khai mạc và bế mạc trong các biến cố quan trong của GH đều dành cho vị Giáo Chủ, trong trường hợp này là TGM Nguyễn Văn Nhơn, chủ tịch HĐGM, hay ít nhất là một vị chức sắc cao cấp trong GH. Thật lạ lùng, không hiểu tại sao tên chủ tịch nước lại tới dự lễ bế mạc Năm Thánh của GHCG, mà còn có quyền đọc diễn văn bế mạc nữa. Người tín hữu tự hỏi đây là lễ tôn giáo hay lễ hội quốc gia? Chuyện xưa nay chưa từng xẩy ra bao giờ. Các nguyên thủ quốc gia trước đây như các TT Ngô Đình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu đều có đến tham dự các đại lễ của người công giáo. Mặc dù các vị đó là tín hữu CG, nhưng họ cũng chỉ đến tham dự như một người tín hữu bình thường, không bao giờ phát biểu hay đọc diễn văn. Một tên chóp bu của một nhà nước vô thần mà đặc tính cơ bản của nó là tiêu diệt tôn giáo, lại được mời tới đọc diễn văn thay cho vị chủ tịch HĐGM. Chỉ có một cách lý giải duy nhất là hắn đã được HĐGM thừa nhận như là Giáo Chủ của Giáo Hội. Nếu sự kiện là một ám chỉ tất yếu thì GHCGVN đã trở thành GH của VGCS, chứ không còn phải là GH của Chúa nữa. Về hình thức, GHCGVN ngày nay đã biến thành một giáo hội giống như Giáo Hội Anh Quốc. Vua nước Anh vừa là Quốc Trưởng, cũng vừa là Giáo Chủ của giáo hội này.

Cách đây gần chục năm, chúng tôi đã đưa ra nhận định về tình hình GH qua bài “Công Giáo VN, Một Giáo Hội Quốc Doanh Phi Quốc Doanh”. Bài viết mô tả những sắc thái quốc doanh trong các sinh hoạt của GH. Những sắc thái này càng ngày càng biểu hiện rõ nét hơn. Và cho đến bây giờ thì GHCGVN đã trở thành quốc doanh hóa không còn nghi ngờ gì nữa. Sự thật này được chứng minh bằng rất nhiều bằng chứng xẩy ra trong đời sống của GH ngày nay, như việc nhà nước VGCS đỡ đầu, cung cấp phương tiện, và quảng bá cho nhiều sinh hoạt của GH, hoặc như nhà nước bằng những phương cách thiếu lương thiện để đưa người của chúng vào những chức vụ quan trọng điều hành GH v.v. Thái độ tiêu cực của nhiều vị lãnh đạo trong GH cũng được coi là bằng chứng cụ thể nói lên tính cách quốc doanh của họ. Khi nhà nước tịch thu nhà đất của GH, đàn áp các linh mục và giáo dân tại nhiều nơi thì hàng chức sắc lãnh đạo được VGCS dựng nên hoặc im lặng, hoặc đứng về phe cường quyền mà chạy tội cho chúng.

Nay đến việc Nguyễn Minh Triết đứng ra thay mặt cho GH để đọc diễn văn trong một dịp đại lễ trên qui mô toàn quốc của GH, thì bộ mặt quốc doanh của GH đã hoàn toàn bị lòi chành. Cứ suy nghĩ đơn giản thế này thôi, một tên CS vô thần lại tốt bụng với người công giáo như thế được sao. Chỉ khi nào chó (VN) chê cứt, mèo chê mỡ thì họa may. Và ngược lại, ông lãnh đạo công giáo chạy theo bọn CS vô thần chẳng đạt được lợi ích cho sứ vụ tôn giáo của mình ngoài những cái mà CS có thể cho được là chức tước, quyền lợi, tiền bạc, và đàn bà. Một điều khẳng định là những ông quốc doanh không những đã không làm cho tín hữu thêm lòng đạo đức mà còn làm cho họ nghi ngờ và xa lìa GH hơn. Cứ đọc trên các trong website thì sẽ thấy. Nếu có ai tìm đến được với Thiên Chúa thì chắc chắn không phải do công lao của các ông quốc doanh, mà do sự nhiệt tình của các vị tông đồ đích thực nhưng vô danh khác. Bằng chứng là những giáo dân tân tòng đó phần lớn là những kẻ đang là nạn nhân trực tiếp của VGCS. Đường lối gọi là đối thoại thực chất chỉ là một tấm mộc che chắn cho cái lương tri và lương âm đã chết của những kẻ chủ trương nó, là cơ hội tạo sự phô trương bên ngoài cho những kẻ giả hình ham được chúc tung.

Sự việc tên Nguyễn Minh Triết đọc diễn văn vừa có tính cách khẳng định tư thế kẻ cả của nhà nước đối với GH, vừa để phủ dụ lẫn dằn mặt toàn thể các tín hữu VN, đồng thời nói lên sự bảo đảm chắc chắn cho những vị chức sắc đã quyết tâm đi theo chúng. Thực tế, GH đã trở thành quốc doanh về mặt thực hành, chỉ còn chưa bị mang tiếng là quốc doanh trên bình diện lý thuyết. Đó là HĐGMVN còn hiệp thông trên hình thức với Tòa Thánh La Mã. Xin nhấn mạnh: chỉ trên hình thức mà thôi, vì Tòa Thánh còn có được quyền đề nghị danh sách các ứng viên giám mục của mình với nhà nước VGCS. Quyền chọn lựa và chấp thuận mới là quan trọng thì lại nằm gọn trong tay VGCS đúng như phương châm bọn cán bộ thường nói “nắm được giám mục là nắm được tất cả”. Tình trạng càng ngày càng có nhiều giám mục, tổng giám mục, hồng y đi theo VGCS cho thấy sách lược và đường lối thuần hóa tôn giáo nói chung, và Công Giáo nói riêng của VGCS là có hiệu quả.

Khi sự tham dự của tên Nguyễn Minh Triết trong ngày đại lễ được loan báo, thì ngay lập tức dư luận khắp nơi trong nước và hải ngoại nổi lên chống đối. Một bản tin trên internet cho biết hãng thông tấn Spero News, thuộc Tòa Thánh Vatican, ghi nhận về tình hình nhiều người Công Giáo lên tiếng chỉ trích về việc mời Chủ Tịch Nước VGCS Nguyễn Minh Triết hiện diện trong lễ Bế Mạc Năm Thánh. Bản tin nêu lý do chống đối là vì tên Triết là chủ tịch của một nhà nước CS khét tiếng đàn áp các tôn giáo. Hơn nữa, Triết đứng dầu một nhà nước công khai ủng hộ và khuyến khích việc phá thai trái với giáo lý CG. Khi bản tin được loan tải thì người ta thấy nhà báo Lữ Giang, tức ký giả Tú Gàn, lập tức lên tiếng công kích lại, cho rằng đây là một trò lừa bịp trắng trợn. Ông Lữ Giang tố cáo tác giả bản tin lừa bịp, nhưng không cho biết tác giả lừa bịp ai và lừa bịp cái gì. Bản tin loan báo Nguyễn Minh Triết hiện diện trong ngày lễ và đọc diễn văn là đúng. Tòa TGM Huế xác nhận như thế. Triết đứng đầu một nhà nước đàn áp tôn giáo là đúng. Thực tế xác nhận như thế. Việt Nam dưới quyền chủ tịch Nguyễn Minh Triết là một quốc gia đứng đầu thế giới về nạn phá thai cũng là đúng. Liên Hiệp Quốc xác nhận như thế. Chỉ có một điểm nhầm lẫn là tác giả bản tin nói rằng Spero News là cơ quan thông tấn của Tòa Thánh Vatican. Thực ra Spero News chỉ là một Website của một nhóm công giáo bảo thủ (conservative) Mỹ, trụ sở đặt tại Houston, Texas. Điểm đáng ghi nhận là người ta chỉ thấy có duy nhất một mình ông Lữ Giang lên tiếng gián tiếp bênh vực việc Nguyễn Minh Triết tham dự đại lễ và đọc diễn văn mà thôi. Như thế đủ cho thấy đa số dư luận đứng về phía nào.

Thay tên đổi lý lịch

Như trên chúng tôi đã trình bầy, Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc La Vang không biết vì lý do gì đã âm thầm biến thành Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ La Vang. Việc thay tên đổi họ này cũng là một vấn đề đang bị dư luận phản đối. Thứ nhất, đây là một việc làm lén lút, không chính danh, không biết do ai hay từ cấp thẩm quyền nào. “Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc La Vang” là một danh xưng được HĐGM đặt và được Tòa Thánh chuẩn nhận. Mặc dầu lúc đó bị nhà nước chống đối kịch liệt, nhưng nó vẫn được công khai sử dụng mà VGCS không làm gì được. Như vậy thì việc thay đổi này có phải do HĐGM đã xu theo đòi hỏi của VGCS mà quyết định không? Có thể tin là thế, bởi vì nếu là việc chính danh thì tại sao người ta phải hành động lén lút và không ai đứng ra chịu trách nhiệm.

Một chuyện tréo cẳng ngỗng là khi sự việc xẩy ra thì Lm Phan Văn Lợi là người đầu tiên lên tiếng báo động và phê phán. Nhưng ngay sau đó, Lm Nguyễn Văn Lý lại cũng lên tiếng, nhưng cho rằng việc đổi danh xưng chỉ là chuyện bình thường. Lm Lý còn trấn an dư luận rằng đây chỉ là một âm mưu khuấy đảo của vài người thôi, không đáng quan tâm. Cha Lý không nói rõ vài người này là ai. Lm Phan Văn Lợi có trong số đó không. Thế rồi vài ngày sau, Lm Nguyễn Hữu Giải gởi văn thư chất vấn và đòi Lm Nguyễn Vinh Gioang, Ủy Ban Thông Tin đại lễ Bế Mạc Năm Thánh tại La Vang, phải cho biết lý do về việcthay đổi danh xưng này. Cho đến nay cha Gioang vẫn im lặng. Điều đáng nói là các Lm Phan Văn Lợi, Nguyễn Văn Lý, và Nguyễn Hữu Giải đều ở trong nhóm linh mục đấu tranh mang tên Nguyễn Kim Điềm. Sự thể cho thấy quan điểm và đường lối đấu tranh của nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điềm đã không còn thống nhất. Tính chất “cuội” trong đường lối của Lm Nguyễn Văn Lý lại một lần nữa bị bộc lộ.

Việc thay tên đổi họ của Trung Tâm La Vang còn hàm chứa ý nghĩa thay đổi lý lịch của nó trong đó. Danh từ Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc La Vang mang nội dung hoàn toàn tôn giáo. Đây là nơi mà mọi người tín hữu có thể đến để kính viếng và cầu nguyện với Đức Me cũng giống như Đức Mẹ Fatima, Bồ Đào Nha, Đức Mẹ Lộ Đức, Pháp, Đức Mẹ Naju, Nam Hàn, Đức Mẹ Medugorje, Nam Tư v.v. Nhưng cũng còn là nơi mà theo một vài linh mục cao tuổi cho biết, sẽ biến thành Trung Tâm Thánh Mẫu Học trong tương lai để quảng bá và phát huy lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria cho toàn thể giáo dân VN. Nhưng chữ hành hương trong cụm từ Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ La Vang đã mang một ý nghĩa khác. Trung tâm La Vang ngày nay chỉ còn là nơi để các tín hữu đến chiêm bái, và đồng thời còn là địa điểm du lịch cho bất cứ ai đến thưởng ngoạn. Đây là mục tiêu mấu chốt của bọn VGCS, vừa để trấn áp đi phần nào tinh thần đạo đức của người công giáo, vừa tạo lập cách làm tiền một cách có hiệu quả.

Chúng ta rất cần đến một cái nhìn thực tế một chút về vấn đề này. Tại VN ngày nay, để phát triển và cũng là để vơ vét, khắp nơi trên toàn quốc, lũ cầm quyền đẻ ra đủ mọi hình thức làm tiền. Mở mang công kỹ nghệ thì ít, nhưng thiết lập các khu ăn chơi, giải trí theo cách ăn xổi là chủ yếu. Thay đổi danh xưng và phát triển Trung Tâm La Vang nằm trong đường lối chính sách này. Nên nhớ, Quảng Trị vốn là một vùng “đất cầy lên sỏi đá”. Trong khi không có bất cứ một yếu tố nào giúp phát triển khu vực cằn cỗi này, thì bọn người có biệt tài ngửi hơi đồng như bọn VGCS tại sao lại bỏ mất cái cơ hội biến La Vang thành nơi du lịch? Hãy cứ tính nhẩm thế này xem sao. Quây tròn nơi chung quanh Thánh đường La Vang khoảng 5 cây số vuông giao đứt cho các ông cha, ông cố quốc doanh. Trong đó mấy ông muốn làm gì thì làm. Đọc kinh, lễ lậy, rước sách v.v., bọn VGCS không cần biết, bởi vì việc này đã có mấy ông quốc doanh chịu trách nhiệm rồi, không còn sợ đi sai đường lối. Bên ngoài khu vực mới là chỗ chúng hốt bạc. Nơi đây sẽ mọc lên các khách sạn, nhà hàng, tiệm ăn, các cửa hàng bán nhang đèn, hoa trái, đồ kỷ niệm, các dịch vụ vui chơi giải trí v.v., và dĩ nhiên, khách hành hương ra vô Trung Tâm La Vang phải mua vé. Các xe lớn nhỏ không được đi vào khu vực Thánh Đường, mà phải mua vé gởi bên ngoài. Sẽ có hệ thống xe buýt shuttle để đưa khách hành hương và khách du lịch từ ngoài vô trong, từ trong ra ngoài. Nếu hàng năm có 500.000 khách hành hương tới Trung Tâm La Vang, mỗi người trung bình chi tiêu 100 dollars. Một con toán hết sức khiêm nhượng thôi cho thấy, bọn cán địa phương đã thu được 50 triệu dollars, một số tiền không nhỏ đối với một tỉnh đèo heo hút gió, chó ăn đá, gà ăn sỏi. Còn những chuyện làm ăn khác nữa được công an dung dưỡng và bảo kê con mắt không nhìn thấy cũng không kém phần quan trọng. Xem như vậy thì tên Nguyễn Minh Triết dù không được mời, hắn cũng có thể tự ý xin đến để qùi gối dưới chân Đức Mẹ trong dịp may hiếm có này. Bọn VGCS dám bán cả nước thì việc buôn thần bán thánh để có tiền, chúng coi ra cái gì, vì thần thánh vô hình có gì đáng sợ với kẻ không tin.

Thay cho lời kết

Có lẽ nhiều bạn đọc, nhất là quí vị ngoài công giáo, không hiểu ý nghĩa mấy chữ “đời đời chẳng cùng Amen” trên tiêu đề của bài viết. Xin thưa, đây là câu kết trong rất nhiều kinh sách của nhà đạo chúng tôi. Ý nghĩa gọn nhất là nói sự bất tận, không có chấm dứt. Trong tiêu đề, chúng tôi muốn nói thế này: đời đời chẳng cùng nghĩa là hết thuốc chữa rồi, và amen nghĩa là sự thực là như vậy. Cả cái tiêu đề có nghĩa là tình trạng quốc doanh của GHCGVN đã thực sự hết thuốc chữa rồi.

Quý bạn đọc chắc đã hiểu, xin chân thành cám tạ.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


Saturday, January 1, 2011

Dilma Rousseff



Brazil's first female President Dilma Rouseff




Friday, December 31, 2010

Những con "Bò Sữa Thuyền Nhân"

    Reviendrez-vous un jour, O frères exilés?
    Những con "Bò Sữa Thuyền Nhân"



Cách đây 32 năm, trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge, thuộc Hạm Đội thứ 7, các ký giả ngoại quốc đã thấy hàng ngàn những chiếc thuyền nhấp nhô như lá tre trôi trên biển. Nguời ta thấy những chiếc thuyền đủ loại, đủ cỡ của những nguời Việt Nam dầu tiên bỏ chạy Cộng Sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này? Chẳng ai trong số những ký giả trên và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền dó có thể tiên đoán được điều gì?

Người ta nhận thấy có nhiều ký giả Mỹ và một số những nhân vật trong chính quyền Mỹ trên chiến hạm Blue Ridge. Chẳng hạn như Frank Snepp, tác giả các cuốn sách: Decent Interval và An Insider Account of Saigon, David Halberstam với The best and the Brightest và một số người khác như H.R. Haldeman, Stanley Karnow.

Karnow nhìn David Halberstam như chế nhạo nói: - Này anh, công cuộc di tản này hẳn có sự đóng góp công sức của những người như anh?

Halberstam dáp: - Anh nói không sai, nhưng điều đó chứng tỏ sức mạnh của người Mỹ chúng ta nằm ở chỗ nào? Ðâu có phải chỉ có sức mạnh của B52? Anh đồng ý chứ? Và hôm nay, chúng ta là những nhân chứng duy nhất và cuối cùng chứng kiến cảnh tháo chạy này. Và tôi nghĩ rằng đó là trách nhiệm của tôi và anh ở đây.

Karnow: - Phần tôi, sẽ không bao giờ quên được câu chuyện ngày hôm nay. Tôi cảm thấy xấu hổ cho nước Mỹ.

Trên ca bin chỉ huy trưởng của chiến hạm, người ta nghe tiếng đối đáp của ông chỉ huy trưởng với Henry Kissinger. H. Kissinger hỏi viên chỉ huy trưởng:

- Ông có biết bây giờ là mấy giờ ở Hoa Thịnh Đốn không? Trong một giờ nữa mà ông Đại Sứ Martin không có mặt trên chiến hạm của ông thì kể như cuộc triệt thoái của người Mỹ là một thất bại?

- Thưa ông Kissinger, tôi được biết, ông Đại Sứ còn nán lại dể cứu vớt những người Việt Nam cuối cùng cần phải được cứu vớt.

Kissinger cáu kỉnh quát trong ống nghe:

- Anh nói với ông ta là lệnh của tôi, ông ta phải lập tức rời VN. Tôi không cần biết phải cứu ai. Sao cái bọn 'chó chết' dó không chết phứt đi cho rồi.

Stanley Karnow nghe được cuộc điện đàm đã đưa ra nhận xét: Ông Kissinger và Lê Đức Thọ nói cùng một thứ ngôn ngữ. Ông Thọ cũng gọi bọn người đang lố nhố trốn chạy dưới kia là những đống rác rưởi mà chúng tôi cần tống ra biển. Cả người Mỹ và kẻ thù của họ đều coi VN như một thứ rác rưởi cần phải tống khứ đi cho rồi.

Chẳng bao lâu sau, dại sứ Martin đã có mặt trên chiến hạm và ông đã nhận được một công diện của H. Kissinger đánh đi như sau: "Người Mỹ đến Việt Nam như thế nào thì khi rút đi cũng như vậy. Ðó là thành công của ông, của chúng ta. Congratulations! "

Ngay sau đó, Đại Sứ Martin nhận được từ dưới bong tầu chỉ huy, một cựu tướng VN muốn xin gặp. Ông Martin đã từ chối và nói với viên sĩ quan tùy tùng nhắn lại:

"Nói với ông ta, ở đây không phải Sài Gòn mà là nước Mỹ trên biển. Hiện nay, chúng tôi coi ông ấy như một người ‘vô tổ quốc’. Phải cởi bỏ lon chậu và không được tuyên bố điều gì."

Người tùy tùng tuân lệnh và nói thêm rằng, ông cựu tướng đó dơ hai tay lên trời với cử chỉ tuyệt vọng, ngửa mặt lên trời và kêu lên rằng:
    "Ta thề có trời đất, một ngày nào đó, ta sẽ trở về."
Lúc này, có lẽ chữ bỏ chạy là đúng nghĩa nhất. Chỉ biết bỏ chạy đã. Số phận họ ra sao không ai dám nghĩ tới, ngay cả đối với kẻ lạc quan nhất. Và đã có hon 100.000 người trong số 250.000 người như thế đã được vớt đi định cư từ các chiến hạm của hạm đội 7.

Cuộc ra đi thật bi tráng và tuyệt vọng dến tức tưởi!

Số phận họ có khác gì những con thuyền lênh đênh trên biển cả như những lá tre? Vâng những lá tre trên một đại dương mà lẽ sống chết đang chờ đợi họ. Bằng mọi giá, họ đã ra đi mà nếu nay ngồi nghĩ lại, nhiều người không mường tượng nổi, họ dã có thể làm một điều như vậy. Những cái "sô" vớt người trên biển trong tuần lễ cuối cùng của tháng Tư và đầu tháng Năm của người Mỹ cũng nói lên được điều này: Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, hoành tráng, ngay cả việc trốn chạy.

Ðó là những thuyền nhân Việt Nam đầu tiên chạy trốn làn gió chướng từ trong đất liền đã thổi giạt họ ra biển ...

Hãy cứ tưởng tượng, trong số 250 ngàn người đó, ít ra cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên, Cái hình ảnh người lếch thếch, lang thang với từng đoàn người người nối đuôi nhau chạy trốn. Và nếu cần nói một điều gì về lúc đó, về tâm trạng những người bỏ chạy thì có thể tóm tắt trong một câu: Tất cả đều hoang mang và không có một chút hy vọng gì về tương lai cả.

Và cứ như thế, các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam càng gia tăng theo nhịp độ của những chính sách của Hà nội như "đi vùng kinh tế mới", "học tập cải tạo", "đánh tư sản, mại bản", và cuối cùng "đi bán chính thức" nhằm vào giới Hoa Kiều. Cứ mỗi một đợt chính sách lại thêm số người trốn ra đi khỏi nước. Tổng cộng dã có gần hai triệu người trốn đi như thế. Đấy là còn chưa kể những người để lại xác trên biển cả. Con số này chẳng ai biết là bao nhiêu? Và cũng chẳng ai có thì giờ tìm hiểu làm gì. Người chết thì đã chết. Phải vậy không? Tiếc nuối rồi cũng nguôi ngoai để lo sinh kế, miếng ăn trước đã.

Tất cả những chính sách vừa kể trên của nhà cầm quyền CS là nhằm đánh vào những thành phần phản động, ngụy quân, ngụy quyền, tay sai Mỹ Ngụy. Và đối với nhà cầm quyền lúc ấy, chỉ có hai cách để làm ‘vệ sinh miền Nam’ là: Tống xuất bọn rác rưởi ra biển hoặc cho đi tù cải tạo.

Nhưng chính thức thì có thể quả quyết rằng, nhà nước không cưỡng bức một ai phải bỏ xứ ra đi, và cũng không giữ một ai muốn ra nước ngoài sinh sống. Và cuối cùng để giữ thể diện hoặc để trao đổi trong thương thuyết, nhà nước Cộng Sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình "ra đi trong vòng trật tự" (Orderly Departure Program). Thảm cảnh thuyền nhân trên biển vì thế đã giảm mức độ.

Tất cả câu chuyện, những thảm cảnh trên biển cả nay đảo ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của Cộng sản (Le dossier noir du Communisme) tóm tắt đầy đủ ý nghia tóm gọn trong một câu "Những con bò sữa thuyền nhân".

Gió đã đổi chiều, gió chướng đã thổi họ ra biển, nay ngọn gió nào đã đưa họ về? Hình ảnh thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại tiền bạc, nhà cửa ruộng vườn. Họ đã vắt được bao nhiêu sữa ở những con bò đó? Vắt lúc ra đi và nhất là vắt lúc trở về. Việc ra đi theo diện người Hoa, đi bán chính thức hay việc quản lý nhà cửa đất đai, tài sản nằm trong tay Bộ nội vụ. Công việc bộ này là đảm trách và tổ chức nhằm "nhổ sạch lông" những bọn người lưu vong này. Kẻ rỗi hơi ngồi tính nhẩm chuyện nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước ít nhất là 25 tấn vàng. Nhưng 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ. Vẫn là chuyện vắt đi. Vắt lại mới là quan trọng.

Và để gọi những thuyền nhân thì có nhiều tên gọi tùy theo thời kỳ: lúc đầu là bọn bán nước, bọn tay sai. Cho mãi đến năm 1990, cũng còn có người gọi Việt kiều là những tên Việt gian. Nói chung họ coi đó là thành phần rác rưởi của chế độ cũ, muốn thải loại, muốn tống đi cho rảnh mặt. Và gọi một cách vô tội vạ nhất là người nước ngoài. Nghia là có sự phân biệt đối xử giữa người trong nước và ngoài nước. Sau này chữ được dùng hơn cả là Việt Kiều.

Xin nhắc lại vụ án tàu Việt Nam Thương tín để chúng ta hiểu rõ Cộng Sản hơn. Trên báo Quân Ðội Nhân Dân, số ra ngày 3/7/77, trang ba viết như sau:

"Luật lệ trừng phạt những kẻ phản cách mạng đã được ban hành ngày 19/11/76." Khoản 9 của điều luật đã ấn định rõ như sau: "Tội chạy trốn theo hàng ngũ địch hay trốn ra ngoại quốc vì những mục tiêu phản cách mạng sẽ bị phạt từ 3 đến 12 năm tù. Trong những trường hợp đặc biệt và nghiêm trọng tổ chức tội phạm sẽ bị kết án chung thân hay Tử hình." Số phận những người đi tàu Thương tín và di tản, nhất là giới trẻ đã bị phát tán đi Lào Cay, Thái Nguyên, Yên Bái ...

Về phía những người Việt Hải ngoại, xin được nhắc mọi người đến những hoài niệm của những năm đầu ở Hải ngoại để cho thấy tâm trạng chúng ta lúc bấy giờ như thế nào? Những nhà văn đã thay chúng ta nói lên những tâm trạng đó. Có thể là bài viết của Nguyễn Ðình Toàn: Sài Gòn, niềm nhớ không không tên, kỷ niệm 30/04. Và nỗi ray rứt trong tập thơ mỏng của Cao Tần nói lên đủ.

Vài câu thơ góp nhặt đó đây để cùng nhớ lại:

Thù quê hương như tên hề ốm nặng
Hôn tang thương sau mặt nạ tươi cười
Ôi trong ví mỗi người dân mất nước
Còn một oan hồn mặt mui ngu ngo
Thù hận bọn làm nước ông nghèo xí
Hận gấp nghìn lần khi chúng đánh ông vang
Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
Ông anh hùng ông cứu được quê hương
Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương

Và trong số Văn Học Nghệ Thuật, số 1, có bài phỏng vấn người nhạc si tài danh với câu trả lời: “Buồn lắm. Nhớ Việt Nam quá. Thương quá Việt Nam .” nói theo kiểu Phạm Thế Mỹ. Và cứ thế. Ai là người tuôn ra những câu thơ ở thị trấn giữa đàng những ngày tháng tư đen:

Xin cúi đầu mình xuống
Khóc quê hương, trói trong tay bạo cường.
Xin cúi đầu một phút
Nhớ anh em, sống trong ngục, trong tù
Nuôi cho sâu hận thù
Mong và chờ, về Việt Nam ước mơ
Một ngày bảy lăm, đứng ở cuối đường
Loài quỷ dữ xua con ra đại dương
Đời hai lần ta bỏ quê, bỏ nước
Phải nuôi ngày sau về ôm tổ quốc …
Ta phải về, ta chiếm lại quê hương
Ta phải về xây lại đời ta
Ta chống Cộng, ta không trốn Cộng
Ta và cả trăm ngàn đồng hương
Mai nay rồi, ta về VN mến yêu.

Thời ấy nay còn đâu.

Rồi cứ như thế sau thời kỳ mở cửa mà số lượng người Việt về nước cũng như kiều hối đã bắt buộc mọi người phải thay đổi lại thế nhìn, thế bắn. Không ai có thể từ chối được những món quà, không phải 10 đô la trong ngày lễ Noel mà là 3 tỉ đô la. 3 tỷ đô la tình nghia hàn gắn những vết sứt sẹo, những lời nói mà bình thường chỉ được coi như kẻ thù.

Gió đã đổi chiều, nên ngôn ngữ cũng đã đổi theo. Những chiếc thảm đỏ đã trải dài từ phi trường Tân Son Nhứt đến Nội Bài, chạy thẳng vào Bắc bộ Phủ. Thật là trớ trêu đến nực cười. Lúc ra đi trốn chui, trổn nhủi, lúc trở về thảm đỏ dưới chân.

Những thành phần rác rưởi ta vừa nói ở trên, những con bò sữa đã vắt cạn chẳng bao lâu sau trở thành rác quý mà người ta có thể chế biến thành những sản phẩm, những vật liệu để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh. Ðã chẳng ai ngờ điều đó đã xảy ra. Rác rưởi cứ thể đổi hình, đổi dạng mà tính ra tiền bằng những sản phẩm mới.

Những anh thuyền chài có thể ra đi vỏn vẹn chiếc quần đùi nay chễm trệ ngồi Mercedes. Những mệnh phụ nói tiếng Mỹ oe oé. Kể gì đến những hiện tượng nhỏ nhoi đó. Ðã có rất nhiều thay đổi tràn đầy hy vọng như thế đối với giới người Việt di tản, nhất là nơi người trẻ. Họ không còn là cô nữ sinh cười e lệ, hỏi không dám mở lời. Ngày nay họ là những chuyên viên hàng đầu của xã hội Mỹ. Có những người trong bọn họ đã làm ra số vốn bạc tỷ. Có người trong bọn họ, cùng với bạn đầu tư nửa tỷ đô la tại nơi mà trước đây được coi là thánh địa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Củ Chi với những địa đạo, nơi tự hào về cuộc chiến thần thánh trong tương lai trở thành biểu tượng "thung lũng của ngành tin học".

Và cái kim chỉ đường cho người Việt tương lai là hãy nhìn vào giới trẻ đang lên. Họ chiếm đa phần. Tương lai thuộc về họ, đời sống thuộc về họ, cộng đồng VN là họ. Không phải do một thiểu số những người lớn tuổi. Những người bỏ nước ra đi đã chỉ nhớ cái phần đầu câu chuyện mà quên phần cuối. Những câu truyện do người lớn kể ngày càng nhạt phèo như nước ốc. Phải chăng thời của họ đã hết? Họ bám víu vào những bèo bọt mà chính họ cũng chẳng còn thiết tha gì. Nhưng nếu không bám víu vào đó thì họ còn gì là họ?

Phải chăng cuộc ra đi bất hạnh nay đã trở thành đại hạnh cho chính mình, cho con cháu mình, cho cái nơi mình đi tới và cả cái nơi mà từ đó mình đã ra đi?

Hãy nhìn vào những con số để nhận ra câu chuyện thần thoại về người Việt di tản. Năm 1987, mới chỉ có 8 ngàn người về thăm quê hương, đến năm 1993 thì con số tăng lên 160 ngàn người, đến năm 2002 là 380 ngàn người. Con số tự nó nói lên điều gì rồi và người ta bắt đầu vỡ lẽ ra. Bên cạnh đó, kiều hối đem lại một sốn tiền tươi là 2 tỷ 6 đôla trong năm 2003. Hãy làm một so sánh cho rõ. Năm 2003, Việt Năm xuất khẩu được 20 tỉ đôla, trừ vốn liếng cho sản xuất, lời ròng của 20 tỷ vị tất đã được 5 tỷ?

Có một điều, nhiều người vô tình quên là năm nay có 2 triệu lượt khách đến Việt Nam. Cứ giả dụ, mỗi người khách tiêu 2000 đô la đầu người. Số tiền thu được sẽ là bao nhiêu? Trong số 300.000 người Việt về thăm quê hương, cứ cho là vừa tiêu xài, vừa cho bà con họ hàng, ở từ hai tuần đến một tháng, mỗi người đổ đồng chi tiêu 4000 đô la cho một chuyến về thăm quê hương, cán cân ngân sách cũng như nền kinh tế Việt Nam đã được kích cầu lên không nhỏ.

Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đầy hứa hẹn. Ðó là nền kinh tế sống nhờ trên những kỹ nghệ không khói. 10 năm nữa, dự đoán số khách du lịch là 10 triệu người mỗi năm như Thái Lan hiện nay, với các đường bay thẳng Sàigòn-Mỹ, Sàigòn-Âu Châu. Chuyện đã xảy ra và chắc sẽ xảy ra. Lúc đó, tiền đổ vào qua du lịch không phải là nhỏ nên hiện nay trên hầu hết 60 tỉnh thành của VN đều có khu du lịch đủ kiểu.

Điều đáng nói hon nữa là nay có một số Việt Kiều về nước kinh doanh đầu tư với gần 100 dự án được chấp nhận với số vốn đầu tư con số xấp xỉ một tỉ đô la. Những Việt kiều như Nguyễn Chánh Khê với phát minh chế tạo thành công Carbon Nanotube (áp dụng vào việc sản xuất mực in và các sản phẩm công nghệ cao khác) không phải là hiếm. Dự án khu khách sạn Sofitel Vinpearl Resort–Spa, 5 sao, tại đảo Hòn Tre nay đã thành sự thực. Nha Trang đã khánh thành khu Vinpearl Resort vào cuối năm với số tiền đầu tư là 500 tỉ đồng. Phần lớn các số tiền đầu tư này tập trung vào linh vực công nghiệp, tin học, lắp ráp, du lịch.

Cũng vì thế, nhà nước đã chẳng tiếc lời gọi Việt Kiều là những người con của đất nước. Những lời lẽ trân trọng mật ngọt đã hẳn là không thiếu.

Gió chướng đã không còn nữa. Gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng lưỡi đổi giọng. Không còn có chữ nghĩa làm đau lòng nhau nữa. Trên tất cả các sách báo, trên các trang nhà, không còn có thể tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa nói gần đến chế độ miền Nam trước đây nữa. (1) Những chữ như bọn ngụy quân, ngụy quyền và bọn tay sai đã không tìm thấy trong tự điển của bộ chính trị nữa. Ngược lại không thiếu những chữ mật ngọt như "Tổ quốc Việt Nam , quê hương thân thiết luôn giang rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ." "Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước".

Luật quốc tịch điều hai thì viết rõ ràng thế này: "Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam . Người Việt nam ở nước ngoài là bộ phần không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam ."

Nhà nước lại còn trích dẫn câu nói của ông Hồ mà không ai tự hỏi xem ông nói lúc nào và bao giờ: "Tổ quốc và chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người con đi vắng." (Hồ Chí Minh nói với kiều bào ở Thái lan về nước năm 1960.)

Từ Sài Gòn ra biển đông (30/4/1975)

Hình như người ta đã quên cái cảnh bồng bế xô đẩy nhau lên máy bay và bằng bất cứ giá nào phải đi bằng được. 32 năm sau, câu chuyện kể về thuyền nhân chỉ còn là di vãng mà cả bên này bên kia, nhiều người đã quên hoặc cố tình quên.

Thật ra không hẳn là như vậy. Nhà nước chính quyền hoan hỉ nhận những đồng tiền đô la từ mọi nơi gửi về cũng như người Việt mang tiền về nước. Mang tiền về thì được chứ đừng mang chữ về. Chữ hiểu theo nghia rất rộng là sách báo, tư tưởng, âm nhạc, nghệ thuật. Từ khi có nhà nước Cộng Sản đến nay, chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm trong tay đảng. Nó nằm trong một hệ thống khép kín: Chủ nghia hay ý thức hệ bạo lực khủng bố và một chính quyền toàn trị. (Ideology, terror and totalitarian government).

Chẳng lạ gì, trước khi về VN, người ta thường khuyên có một diều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm: chẳng hạn cờ bạc, chơi bời đủ kiểu, tắm đủ kiểu, phòng trà đủ kiểu, âm nhạc đủ kiểu, cà phê đủ kiểu, gái đủ kiểu, sex đủ kiểu, ngủ trưa đủ kiểu, ngủ tối đủ kiểu, ăn đủ kiểu, vừa ăn vừa chơi đủ kiểu, đĩ điếm đủ kiểu, hối lộ đủ kiểu, lưu manh lường gạt đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, buôn bán mánh mung đủ kiểu, làm giầu đủ kiểu, đầu cơ đủ kiểu, công an đủ kiểu, phường khóm đủ kiểu, công ty đủ kiểu, cơ quan đủ kiểu, chính quyền địa phương đủ kiểu, chính quyền trung ương đủ kiểu, luật pháp đủ kiểu, thằng ăn cắp xử thằng ăn cướp đủ kiểu và cuối cùng xã hội loạn đủ kiểu.

Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng đụng đến chính trị. Vì trên hết, vẫn có một nhà nước toàn trị ở trên tất cả những đủ kiểu đó. Trước khi lên máy bay về nước, còn dặn với theo: nhớ nhé đừng đụng đến chính trị.

Mặc dầu vậy, ngày nay, có nhiều bà con Việt Kiều tính về ở hẳn VN. Có người trong đám này về Việt Nam dưỡng già với xe hơi SUV. Trong vòng 10 năm nữa, khi xa lộ đông tây hoàn thành, khi 6 tuyến xe điện ngầm xây dựng xong, đường hầm Hải Vân nối liền Nam Bắc hoàn tất thành phố Sàigòn sẽ thay mặt đổi tên chẳng còn ai nhận ra nó nữa.

Nay ở Sàigòn, đã có những khu nhà "Làng Việt Kiều". Người ta dự trù có 4 khu như thế, với những biệt thự sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ , Canada . Người ta thấy những Việt Kiều lái những chiếc xe SUV, hay ngồi nhâm nhi ly rượu cocktail bên bờ sông Sàigòn. Những căn nhà có những bãi cỏ xanh, mái nhà mầu cam kiểu California , có những hàng dừa cọ, những hồ bơi với những hàng chữ tiếng Anh: "Welcome!". Ðây là, chẳng phải ai khác, mà là những người di tản, những rác rưởi 32 năm về trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo.

Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?

Chẳng hạn, anh chàng Võ Quy, kèm theo cái tên Larry. Và vô số những tên như thế Catherine, Julie, Elizabeth, Brigitte, Linda …. Nay Võ Quy đã gần 70 tuổi, trước đây là một sỹ quan không quân, quân đội VNCH. Anh ta ta đã rời bỏ vùng Southern California cách đây 6 năm cùng với vợ, Linda, còn có tên cúng cơm là Ngọc để về ở đây. Anh ta khoe căn nhà với vẻ hãnh diện không cần dấu diếm với đồ dùng toàn bằng Inox (thép không rỉ), phòng tắm lớn có vòi tắm hơi, thiết trí theo kiểu Jacuzzi của Ý. Sàn nhà mầu hồng bóng lộn.

Anh còn chỉ cho thấy và nói thêm: "Không phải cẩm thạch đâu nhé, đá hoa cương thứ thiệt đấy. Thiệt là quá rẻ, còn rẻ hơn ở Hoa Kỳ rất nhiều." (2)

Thiệt là Việt Kiều.

Một anh khác tên Hoàng Tiến, chả bù cho lúc ra đi lếch thếch, lang thang, nay anh trở thành chủ nhà thầu đang có những kế hoạch xây cất nhà cho Việt Kiều với những dự án "thành phố xanh" (Green city).

Cái điều oái ăm đến quái gở là khi ở Mỹ, người ta bằng mọi cách nhắc nhớ đến Sài gòn, tìm cách đặt tên Little Saigon, Phở Bắc, bánh mì Tân Ðịnh, bánh cuốn Ðakao, Restaurant Hoài Hương, Phở Hà Nội, Brodard restaurant, phở Nguyễn Huệ để nhớ về miền Nam thân yêu. Nay ở Việt Nam thì người ta lại muốn đặt tên cho những khu thương xá là “tiểu Cali ” , “tiểu Fairfax” để nhớ đến ..... Và cứ như thế, sẽ có một số người Việt gốc Mỹ sống riêng biệt trong những tiểu quốc, Mỹ Hóa của họ bên cạnh những người Việt bản xứ.

Khi ở Mỹ thì họ nhớ Việt Nam , khi ở Việt Nam họ lại tiếc lối sống Mỹ. Họ trở thành người ngoại quốc trước mắt những người đồng bào của họ. Họ tưởng về quê thật, nhưng lại mang tâm trạng một thứ chủ nhân, cách biệt với dân bản xứ. Và điều rõ rệt là Hoàng Tiến đã bực tức về một căn nhà hàng xóm đã vứt những bao rác ra đường ngay cổng nhà anh ta, đã mở nhạc Karaoké tùy tiện ầm ĩ cả lên. Anh bực tức nói: Như thế không phải lối sống Mỹ, không biết tôn trọng luật pháp. Như thế là thiếu văn minh.

Khi ở Mỹ thì anh muốn bảo tồn văn hoá Việt, không muốn trở thành một mẫu trong Melting pot hay Salát Mỹ. Anh bắt con đi học tiếng Việt. Về Việt Nam, mở mồm là anh chỉ xổ tiếng Mỹ. Cái mâu thuẫn như thế rất là Việt Nam. Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn phải bực tức nhiều về những điều trái tai gai mắt: chẳng hạn một anh cán bộ phường cứ xồng xộc vào nhà chẳng điện thoại trước.

Riêng Nguyễn Anh, năm nay mới 35 tuổi về Việt Nam làm việc cho một công ty nước ngoài. Ra đi từ nhỏ, kể như không biết gì về Việt Nam, anh cũng không có ý ở hẳn VN. Nhưng anh cũng có một vài nỗi khổ vặt khác. Nguyễn Anh sửng sờ khi làm một việc gì giúp người khác không nhận được một tiếng thanh kiu, thanh kiếc gì hết. Anh cũng khó chịu khi mọi người chen lấn không xếp hàng khi trả tiền. Nhất là các cô thiếu nữ trông khả ái, dịu hiền, nhưng cũng huých tay chân như ai. Gần như mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy sống chen lấn chụp giựt.

Nguyễn Anh có hơi buồn về con người Việt Nam vốn có tâm hồn, vốn thương người mà một tai nạn xe cộ xảy ra đến chết người mà mọi người dửng dưng. Quả thực, tuy là người Việt Nam, nhưng anh lại không hiểu gì về người mình.

Lại nói đến giải trí, Nguyễn Anh không hiểu được là người Việt Nam "Xem thể thao" chứ không chơi thể thao. Mấy triệu người thức đêm, bỏ công ăn việc làm, bỏ học để dán mắt vào đài truyền hình theo dõi một trận đá banh. Thật là vô lý vì hại sức khỏe. Chỉ có 22 cầu thủ thực sự chơi thể thao, còn cả nước chỉ ngồi xem thể thao, chưa kể còn cá độ. Hình như cái gì ở Việt Nam cũng có thể trở thành cờ bạc.

Lại một điều nữa, Nguyễn Anh không hiểu được.

Nguyễn Anh thì chỉ thích đi đánh golf. Nhưng muốn chơi ngon, Nguyễn Anh phải lấy vé máy bay ra Phan Thiết chơi, vì ở đó có sân chơi nổi tiếng là đẹp. Ít ra thì điều đó cũng làm Nguyễn Anh vui lòng. Nhưng có người thấy như thế thì lấy làm kỳ cục. Họ chép miệng, tội tình gì mà phải cất công như thể để choi Golf. Chơi đâu chả được. Phí tiền nữa. Ngưyễn Anh không đáp lại, vì anh có cái lý của anh. Ðúng là anh thấy người Việt mê đá banh một cách kỳ cục. Nhưng ngược lại, họ cũng thấy anh không giống ai.

Còn về thanh niên, thiếu nữ thì chửi thề không biết ngượng mồm, nhất là thanh niên, thiếu nữ gốc Bắc. Mở mồm ra là địt. Sáng ra, chỉ hỏi giá cả món hàng đã bị một người con gái xinh đẹp phạng cho một câu.

Nói gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ. Thời gian sẽ xoá nhoà tất cả vết tích cũ: thời gian cứ trôi qua, nhiệt tình chống Cộng giảm xuống và tình hoài hương lại trỗi dậy. Những vị lãnh đạo trong nước thì nghĩ rằng:

Nhân dân muốn quên hết mọi thứ. Những người này hiện ở đây vì đất này là tổ quốc của họ. Chúng ta không có quyền trách mắng họ. Chúng ta tiếp đón họ. Chúng ta không muốn để Việt kiều gây chiến tranh lần nữa.

Gió chướng đổi chiều đến đâu có thể còn chưa biết rõ được. Tôi tự hỏi bao giờ làn gió chướng đó cùng với cơn lốc đầu tư tư bản đánh bật chủ nghĩa Cộng Sản ra biển?

Chỉ có một điều tôi biết chắc rằng, ngay cả những người theo làn gió chướng đổi chiều, đã về VN. Họ cũng cảm thấy họ chẳng sung sướng gì, đôi khi tỏ ra buồn phiền, nghi kỵ, thất vọng không muốn nói ra. Ðó là trường hợp ông Nguyễn Cao Kỳ. Ðó cũng là trường hợp một người trong số 17 người vừa được vinh danh "Vinh Danh Việt Nam – 2006"?

Tôi có cảm tưởng họ đang chơi một canh bạc giả, biết như thế mà vẫn chơi, chơi cho biết.

Gió chướng đã đổi chiều? Nhưng đổi thế nào thì còn chưa nói hay được. Bảng chỉ đường đất nước vẫn còn có thể chỉ trật đường. Xin dè dặt. Thận trọng và khôn ngoan để đừng thêm một lần nữa mắc mưu Cộng Sản lừa phỉnh.

Source: http://thoisu.intuitwebsites.com/THOI-SU-SO-9.html


BÀI THƠ GỞI KẺ THÙ GIẤU MẶT

BÀI THƠ GỞI KẺ THÙ GIẤU MẶT

Anh (chị) dẫu bắn tôi mũi tên tẩm độc
Mong diệt người vì chính nghĩa, đấu tranh
Tôi không trách và cũng không buồn bực
Phần việc thôi, ngụy chúa bảo thi hành !

Cũng như tôi, bổn phận người tỵ nạn
Là phải nói giùm ba cõi dân tôi
Rằng Việt cộng lưu manh và tàn ác
Nửa thế kỷ hơn thiêu sống bao người!

Nửa thế kỷ hơn, non sông máu chảy
Nửa thế kỷ hơn, dân tộc suy đồi
Nửa thế kỷ hơn, chính anh cũng thấy
Đảng thương giống nòi chót lưỡi đầu môi!

Dân nghèo đói, đảng giàu muôn vạn tỉ
Đảng tạo ra năm bảy loại bụi đời
Bán phấn buôn hương, xì ke ma túy
Dẫn mối, gạt lừa, trộm cướp, ăn chơi ...

Trên xuống dưới, đảng mọi tầng tham nhũng
Cướp đất dân lành, bán chức, buôn quan
Trường học, nhà thương, thiếu, hư, nát mục
Những trung tâm du hí lại huy hoàng

Tôi phải nói: đảng độc tài, tàn bạo
Quản chế người tu, phong tỏa chùa chiền
Đảng bách hại mọi thành phần tôn giáo
Linh mục nhốt tù, khủng bố con chiên

Người yêu nước nói những điều xây dựng
Là sẽ tù bằng tội đảng vu cho
Nào gián điệp, nào thành phần phản động
Nào lạm dụng quyền dân chủ, tự do

Đảng là thế, ăn xuôi và nó i ngược
Sẽ một ngày đảng phản cả anh thôi
Kìa, "tình nghĩa" thương binh hồi xâm lược
Đảng ném "anh hùng" xuống đáy biển khơi!

Đảng hiến Nam Quan, hiến luôn Bản Giốc
Lãnh hải ta, ngàn hải lý dâng Tàu
Anh thử nghĩ, nếu không người nói thật
Thì hậu sinh, ai rõ những vàng, thau!

Đảng thâm độc, đảng mị lừa, ngụy thuyết
Sử Việt oai hùng, bất khất, bôi đen !
Đảng in giáo khoa, dối gian, nham hiểm
Vì đảng muốn dân ngu, dốt, mê, hèn !!!

Tôi thương dân bị bưng tai, bịt miệng
Giận đảng độc tài, thống trị trên ngôi
Xót đất quê hương, đau lòng quốc biến
Nên đấu tranh, thơ giục gĩa muôn người

Đảng vì thế, hận thù người tranh đấu
Dẫu ngọt ngào khuyên: thôi, chớ đấu tranh!
Nhưng thơ vẫn kiên cường từng tiết tấu
Nên đảng trả thù, ngụy kế giao anh

Anh (chị) hằn học, anh (chị) hỏa mù, đánh phá
Lưỡi rắn miệng hùm bôi bẩn người ngay
Đảng vẫn thế, bất nhân và hèn hạ
Bản chất gian hùng, qủy quyệt xưa nay !

Mũi tên đó chẳng làm tôi chùn bước
Chỉ tiếc cho anh,(chị) sống phí một đời
Phục vụ đảng, tiếp tay loài bán nước
Là phản quê hương, dân tộc, lừa người!

Hãy bỏ đảng, hồi tâm mà giác ngộ
Để được đồng bào chấp nhận, thứ tha
Thế kỷ này, gian hùng không đất thở
Ngày đảng tàn, xin ghi nhé: KHÔNG XA !


Ngô Minh Hằng


Happy New Year