Thursday, September 24, 2009

Chiến Dịch Hoa Hồng Đỏ Của Việt Gian Cộng Sản Việt Nam

Lời nói đầu: Nhiều người Việt miền Bắc di cư năm 1954 đã thuật lại cho dân miền Nam biết về những thủ đoạn thâm độc của CS, nhưng có một số không tin; đặc biệt là vài người trong giới trí thức khoa bản, họ tin vào lòng chân thành của CS để "hòa hợp hòa giải". Khi miền Nam bị rơi vào tay CS thì một số bị vào tù hoặc phải cao bay xa chạy; số còn lại vẫn còn tin nơi "thực tâm hoà giải giữa những người Việt với nhau", chỉ trích chính quyền CS như họ đã từng làm dưới thời "khôngđân-chủ" của Thiệu-Kỳ. Đối với Đảng, việc nầy không thể tha thứ được; người của Đảng thì được lệnh chỉ trích đảng, nhưng người không thuộc guồng máy tuyên truyền của đảng thì sẽ như cá cắn câu: CS đã từ từ khép miệng họ lại, đóng cửa các tờ báo như Tin Sáng của tên gian Ngô Công Đức, Tiếng Chuông, Đối Diện của "linh mục thiên tả" Thanh Lãng và nhốt họ vào địa lao. Một thời gian sau khi được thả, họ lại ráng nói vài câu trần tình đầy sự bất mãn (như linh mục tiến sĩ Chân Tín, được thả vào 12/5/93 và "cha" Nguyễn Ngọc Lan vào 1992). Sau đó, người ta không còn nghe họ nói gì nữa.Họ là những kẻ đặt lòng yêu nước thương nòi không đúng chỗ (chỉ trích chính phủ Quốc Gia, nhưng lại tin CS) và cuối cùng họ phải gánh hậu quả của việc không có lập trường vững chắc. Họ đinh ninh rằng có thể "cải hóa" CS dựa vào tình dân tộc, nghĩa đồng bào. Tuy nhiên họ đã bị phản bội vì không hiểu rõ người CS. Họ lầm lẫn vì cứ xem CSVN cũng là người VN thuần túy như họ. Sự thật không phải như vậy vì người CS ở đâu cũng thế; họ là những người của một hệ thống "đại đồng" và "quốc tế"; họ là đệ tử của Lê-nin. Lê-nin đã từng nói trong tập 2 và 3, cuốn VI của Lê-nin toàn tập như sau: "Đối với kẻ thù (của gia cấp vô sản), khi cần phải hợp tác thì cứ hợp tác" nhưng "Người cộng sản không được tỏ ra ngại ngùng trước chuyện phản bội; kẻ nào chống lại sự phản bội tức là anh ta đã theo quan điểm tư sản chứ không phải quan điểm vô sản".

Đi sâu vào trong bài, ta sẽ thấy tại sao khó có thể cải hóa người CS được. Thật sự ngày nay, có lẽ ít có ai dám đi thử xem tư tưởng trên của Lê-nin kia ra sao.

Dân 2 miền Nam Bắc đã từng bị Đảng CS "chơi xỏ", không phải một mà nhiều lần. Một số khoe với các bạn miền Bắc vào sau 1975 rằng họ đâu còn sợ bị lừa nữa khi kinh qua các vụ đổi tiền và đánh tư sản. Nhưng các người nầy nói rằng, các anh đã lầm to, các anh chưa nếm đủ hết các màn xảo trá của CS Hà Nội đâu! Điều nầy có đúng không? Thời gian qua cho ta thấy là câu nói kia của các người miền Bắc rất đúng.

Vì sao người ta bị lừa mà vẫn lao đầu vào "lửa"? Bởi vì các màn lừa lọc đều khác nhau. Không lẽ một số rất ít trong chúng ta ngu muội tới mức độ chưa thấy rõ CS? Khi đã chạy trốn CS., bỏ quê hương, mồ mã tổ tiên, thân nhân và nhà cửa tức là ta đã thấy rõ chế độ đó như thế nào rồi. Đó là một sự lựa chọn có ý thức trong tự dọ Đã quyết định chối bỏ một chế độ để ra đi, tức là đã có thái độ chính trị rõ ràng được bày tỏ. Nay lại quay đầu về cùng với các tay "ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản" để hỗ trợ chế độ độc tài bằng cách nầy hay cách khác; không có ý chí sắt đá tin vào lý tưởng mình đang theo đuổi. Về vấn đề nầy ta vẫn còn thua xa người CS. Đó phải chăng đây là một thái độ, một lập trường tư tưởng bất chính, phản phúc, phản bội với chính bản thân mình trước, và sau với đồng bào cùng ra đi với mình trên những chiếc thuyền mỏng manh?

Sự phản phúc thấy rõ nhất trong quá khứ là ở một thiểu số trong thành phần được may mắn đi du học nước ngoài trước 1975. Trong khi những người cùng lứa tuổi phải giải gió dầm sương, liều mình bảo vệ hậu phương, bảo vệ gia đình họ để họ an tâm đi học. Những người chiến sĩ kia chỉ mong người có may mắn hơn được học thành tài hầu báo đáp phần nào sự hy sinh kia, thì lại phản trắc và lưu manh, không biết đâu là chánh nghĩa, chạy đuôi theo bọn "bồ câu đỏ" tố khổ lại "đám cực đoan vàng" -- các người đang bảo vệ gia đình của mình ở quê nhà. Rồi, theo sự ru ngủ của VC, đám "một dạ hai lòng" nầy đã nghe lịnh từ quan thầy CS, len lỏi vào trong các cơ quan quốc tế và nằm chờ cơ hội. Nay, chính những kẻ "ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản" đó lại chài người nhẹ dạ, chưa bao giờ biết CS là gì, để giúp CS.

Các kinh nghiệm từ xưa tới nay đốc thúc ta nhớ kỷ là nên có một lập trường dứt khoát; lập trường này không bao giờ sai lầm và không có gì lay chuyển nổi: không giúp CS bành trướng. Dù là CS Tàu hay CSVN, họ đều tàn bạo, xảo quyệt và khát máu; đặc biệt là CSVN, họ có thể được xem là tên đứng đầu trong thành tích xảo trá và hay bắt chước đàn anh nhất trong các nước CS trên thế giới xưa và naỵ Họ biết lúc nào đứng lên cũng như biết lúc nào nằm mẹp xuống. Họ vẫn không ngừng dòm ngó và suy xét làm sao chủ nghĩa kia được sinh tồn để lấn át đi những gì mà dân tộc ta xây đắp qua mấy ngàn năm đầy máu và nước mắt.

Chuyện gì đã xảy ra mấy năm trước đây chắc bây giờ không còn ai nhớ nữa. "Ôn cố nhi tri tân" vẫn là phương thế soi rọi cho người sau biết rõ mình đang làm gì, lợi và hại ra sao. Bài "CHIẾN DỊCH HOA HỒNG ĐỎ HẢI NGOẠI CỦA CSVN" được đăng lên với mục đích đó. Số người bị vướng vào chủ nghĩa CS qua muôn tình huống thì rất nhiều. Bọn họ có thể là triết gia, tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư, văn sĩ, họa sĩ, sinh viên, nông nhân, thợ thuyền,... Đa số nghe theo lời dụ dỗ của CS qua công tác gọi là TRÍ VẬN (công tác lừa dối quần chúng). Bọn họ cũng có thể là "vài" kinh tài cho VC; nhiều người trung gian chuyển tiền nầy được kết nạp kín đáo vào Hội Việt Kiều Yêu Nước với giấy chứng nhận, giấy giới thiệu của giới chức VC ở hải ngoại cấp cho để khi về VN được giúp đỡ dễ dàng. Từ chỗ ham lợi vào Hội Việt Kiều Yêu Nước để buôn bán với VC, vừa có lợi tiền bạc, lại được sự nâng đỡ của các đồng chí khi về thăm quê hương, đi tham quan,... Rồi từ đó tính đến chuyện móc nối tuyên truyền, dụ giỗ gia nhập Đảng, làm cán bộ nằm vùng ở hải ngoại, chỉ khoảng cách ... một gang tay! Những người này được CS nhận định và lợi dụng như thế nào, ta sẽ tìm hiểu qua bài "Chiến dịch ...".

Điều đáng để ý nhất là một số người bị chài mà xưa kia chính gia đình họ hay chính bản thân họ đã bị CS tù đàỵ Những người nầy đã được CS giảng giải về "lòng yêu nước kiểu CS" hay nhận vài sự thi ân liền quay về làm việc cho CS (quay về với "dân tộc" là quay về với đảng). Một trong những thí dụ nầy là trường hợp của Hà Văn Lâu.

Cán bộ CS được đào luyện về chính trị (nhồi sọ) và lòng hận thù giai cấp liên tục từ khi còn ở nhà trường, và cứ như thế, ngày nầy qua tháng nọ, họ trở thành những kẻ xảo quyệt, chuyên dùng mưu mô để làm sao có lợi cho Đảng. Với sự chuẩn bị như thế và với lối suy nghĩ một chiều, họ sẵn sàng hy sinh mù quán cho "lý tưởng CS" dù có đi ngược với quyền lợi của quần chúng. Họ phải làm đủ cách để con mồi vào rọ, nhất là những con mồi chưa bao giờ sống trong thế giới của họ.

Ta tự đặt thêm câu hỏi tại sao CS lại có thể lừa được quá nhiều người, không phải một lần mà rất nhiều lần? Câu trả lời có thể là CS là những tay tuyên truyền và nói dối chuyên nghiệp; họ đặc biệt giỏi ở chỗ khơi dậy lòng yêu nước của người khác để lợi dụng. Từ VN, họ đã gởi nhân viên đi khắp nơi và, chỉ trong một khoảng thời gian, họ đã gom tụ được một số "cảm tình viên gốc ... ngụy, nhứt là giới trẻ non nớt và tự phụ", không vững ý chí và sáng suốt. Những người nầy, đã được giới thiệu đọc những sách phản chiến, được "sinh hoạt" , "giúp đỡ", "bồi dưỡng" và kết cuộc họ đã làm việc không công cho CS.

Một phương pháp đáng để ý khác nữa là "dùng gậy ông đập lưng ông". Phương pháp nầy được chính thức áp dụng bởi CS. Gần đây và rõ ràng nhất là vụ CS dùng nó để các người theo đạo Phật tố lẫn nhau. Sư và ni cô "quốc doanh", phối hợp với sư và ni cô "công an" bắt đầu đè bẹp những người cùng theo một lý tưởng tôn giáo với mình. Bên công giáo cũng thế, xuyên qua cánh tay của Đảng, Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam (the Vietnam Fatherland Front) đã dùng linh mục quốc doanh Huỳnh Công Minh để chờ tiếm quyền của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình (vì vậy CS không muốn Vatican tấn phong một vị khác) hoặc tên linh mục "có vợ" Phan Khắc Từ nổi tiếng "linh mục hốt rác" trước 1975 ngày xưa để dò xét sinh hoạt công giáo cho Đảng ở Saigon.

Ta hãy đọc kỹ một trong những cách chài người của CS để đừng bao giờ khinh thường họ cả. Ngoài ra, hãy để ý tới vài nhóm phản chiến được gài trong "religious groups"; chính những nhóm nầy đã hổ trợ cho VC xâm chiếm miền Nam và gây bao đổ vỡ tan thương cho bao gia đình. Chúng ta sẽ thấy trong tương lai những hiện tượng xảy ra y như những gì mà người ta đã biết về người CS khi họ dùng các phương pháp nầy để hại bao thế hê đi trước. Thực vậy, ở mỗi thế hệ, một số người đã bị sa vào lưới trong đó chỉ có rất ít, cả già lẫn trẻ, được may mắn thoát khỏi chủ thuyết mà thôị Cứ như thế bánh xe trớ trêu của con tạo cứ xoay dần và nghiền nát những kẻ ít may mắn đó.

Ngạn ngữ Mông Cổ có câu: "Không phải tất cả những người cười với anh đều là bạn, cũng như không phải tất cả những người làm anh bực mình đều là kẻ thù".

Cho tới 1988, Hà Nội thường không ngớt gọi tập thể người Việt tỵ nạn chính trị tại hải ngoại là những phần tử "gian manh, lười biếng", không chịu ở lại "xây dựng đất nước" mà chạy theo "bơ thừa, sữa cặn của đế quốc". Một mặt, CS gây biết bao hãi hùng cho dân và làm họ phải bỏ chạy, còn mặt khác thì đánh tiếng cho người Tây phương biết là đám người Việt kia chỉ là những kẻ "hèn nhát và ăn bám" để người ngoại quốc không cho họ có chỗ dung thân: CS đã đưa họ vào thế lưỡng đầu thọ đi.ch. Sau đó, CS lại nói khác: người Việt tị nạn cũng là "những Việt kiều yêu nước" nếu họ đem tiền về giúp kẻ đuổi họ đi hoặc hãy hợp tác với họ Một vài Việt gian đã làm được việc này: gần đây ở Little Saigon, Phạm Đăng Long Cơ (bác sĩ) và Dean Lâm -- anh của Tony Lâm (Lâm Quang, người bán bún ốc mười mấy năm được bầu làm nghị viên thành phố Westminster, Orange County, California; thời hạn 2 năm) -- đã đưa Lê Văn Bằng (đại sứ VC tại Liên Hiệp Quốc) và 2 tướng VC dạo chơi và ăn uống thoải mái, rồi cùng thăm viếng những cơ sở làm ăn của người Việt ở Wesminster.

Khi nhìn lại quá khứ, chúng ta mới hiểu rõ người CS thật giỏi tài nói lươn lẹo; họ ỷ "có đất và dân" nắm trong tay nên dằn dặt cho đám "phản tặc" biết tay.

Thật vậy, khi vầy khi khác có chi lạ và đó cũng là một trong các thói quen của CS: họ chỉ hợp tác, hữu nghị, khi lâm vào thế cần sự giúp đỡ và xuôi chiều để tồn tạị Xưa kia trong thời chiến tranh với Pháp, Hồ Chí Minh có nói câu: "Khi cần thì cờ tam tài (cờ của Pháp) cũng treo".

Câu này suy rộng ra là khi Đảng đang ở thế nguy hiểm thì nếu cần bán nước cho Pháp, qui lụy cho Nga - Tàu, bắt tay lại với "đế quốc" Mỹ thì không sao, miễn là Đảng được vững và tồn tạị Đó là tư tưởng Hồ Chí Minh mà CSVN hiện đang giữ gìn, nghiên cứu và áp dụng. Nhưng có một điều là "tư tưởng" nầy có khác gì các câu nói của Lê-nin ở trên?

Vào khoảng đầu năm 1988, một tờ nhật báo ở Pháp mang tên Paris Soir có đề cập đến một tổ chức hoạt động KINH TÀI và PHÁ RỐI của CSVN tại các quốc gia hải ngoại -- nơi có nhiều người VN tỵ nạn -- và được mệnh danh là "Hoa Hồng Đỏ". Ngoài ra chiến dịch này còn mang một cái tên khác là chiến dịch "Mạng Nhện". Có 2 cán bộ CS đặc trách chỉ huy và vận động cho chiến dịch trên là Huỳnh Trung Đồng và Lê Quang Sơn. Trước đây tổ chức này đã có cơ quan truyền thông chính thức là các tờ báo Cái Đình Làng, Thái Bình, Việt Kiều Yêu Nước, Hồn Nước và những tờ báo thân hữu của họ là Mằm Non, Thanh Niên Hành Động,... Mục đích là tuyên truyền cho CS nhắm vào 2 chủ điểm sau:

1. Kinh tài: CS cho xây dựng các cơ sở kinh tài hải ngoại (một số đã thực sự hoạt động liên tục kể từ 1976), trong dịch vụ buôn bán, gửi quà, tiền và vật dụng về VN, kể cả các dịch vụ đưa người vượt biên, xin thủ tục ODP (Operation Departure Program). Họ cũng liên hệ đến các tổ chức lo các chuyến về thăm VN.

2. Chánh trị: Nhằm phá rối cộng đồng tỵ nạn, gây xáo trộn mọi sinh hoạt cộng đồng, nhất là sinh hoạt chính trị.

Sau đây là một bài báo của Hoàng Văn Trác trên "Ngày nay", số 160, 1/6/1988 nói kỹ hơn về vấn đề nàỵ Sống trong những thể chế dân chủ, chúng ta có quyền tin hay không tin vào bài nầỵ Tuy nhiên, đây cũng là một tài liệu để ta suy ngẫm.

Sau khi thi hành bản án tử hình ĐINH BÁ THI tại Phan Thiết, Bộ Chính trị đảng CSVN tại Hà Nội đưa tên đại tá có nhiều kinh nghiệm về tình báo và khuynh đảo là HÀ VĂN LÂU, sang nắm trọn guồng máy tình báo nước ngoài tại Liên-Hiệp-Quốc. Đi theo phụ tá cho Hà Văn Lâu là Nguyễn Ngọc Dung, nữ Trung tá, nguyên chỉ huy trưởng tình báo và phản gián quân khu 7 của Trung tướng CS Trần Văn Trà.

Mới đây, Hà Văn Lâu còn được tăng cường thêm một tình báo cỡ gộc nữa, đó là Phạm Ngọc Ân.

Bộ máy tình báo và khuynh đảo của Hà Văn Lâu được đặt trực tiếp dưới quyền điều khiển của Bộ Chính trị tại Hà Nội, thay vì thuộc bộ ngoại giao của họ.

Không cần phải dầy công tìm hiểu, mà chỉ cần căn cứ vào yếu tố trực thuộc Đảng, người ta cũng có thể lượng định được vai trò quan trọng mà Trung Ương Chính Trị Bộ tại Hà Nội sắp đặt cho bộ máy nầy, nhằm cũng cố địa vị của họ đối với thế giới bên ngoài và triệt hạ đối thủ là khối hơn một triệu người Việt tị nạn khắp thế giới, đặc biệt tại Mỹ. Vẫn biết rằng, đối với CS, thì Nhà nước với Đảng là một. Nhưng khi một cơ quan được đặt trực tiếp với Đảng (tức Trung ương Chính trị bộ), có nghĩa là chủ trương, đường lối, nội dung kế hoạch của cơ quan đó sẽ cứng rắn hơn, sắt máu hơn, và vì thế phải được giao cho những cán bộ từng chứng tỏ "Trung với Đảng, hiếu với dân". Đảng lại có kỹ luật của Đảng, để một khi đi ra ngoài vòng kỹ luật đó, thì chỉ có lãnh mã tấu như Đinh Bá Thi, Trung tướng Nguyễn Bình đã lãnh.

Cho nên, việc Bộ Chính trị Hà Nội đặt guồng máy tình báo và khuynh đảo của Hà Văn Lâu trực thuộc Đảng, cho ta một nhận xét rất rõ ràng, về tầm mức quan trọng của họ nhằm vào hàng ngũ tị nạn chúng ta. Kế hoạch của họ được thực hiện từng bước, mỗi bước gọi là một cánh hồng. Trong bài nầy, ta hãy lượt qua những bước chính họ đã đi; đó là bốn bước căn bản, được gọi là Cánh Hồng 1,2,3 và 4.

A. CÁNH HỒNG

1: Kết hợp

Đinh Bá Thi, người CS có công nhất trong việc dành chiếc ghế đại diện cho CSVN tại Liên-Hiê.p-Quốc, và cũng là đại diện dầu tiên của CSVN tại diễn đàn quốc tế nầy, bị cơ quan phản gián FBI Mỹ bắt vào trưa ngày 31/1/1978 cùng với tên tay sai người Mỹ là Donald L. Humphrey (có vợ Việt) và TRƯƠNG ĐÌNH HÙNG (con trai luật sư Trương Đình Dzu), khi cả ba bị bắt quả tang đang ăn cắp tài liệu mật của Mỹ và bị Hà Nội giết tại Phan Thiết.

Khi Đinh Bá Thi chết, thì hệ thống tình báo và khuynh đảo của Hà Nội trong kế hoạch "Hoa Hồng Đỏ" đã thực hiện được bước đầu trong bốn bước của toàn bộ kế hoa.ch. Bước đầu nầy là bước "Kêt Hợp" (Cánh hồng 1).

Cánh hồng 1 đã được Đinh Bá Thi và nhóm sinh viên Việt Nam du học do sinh viên Nguyễn Thái Bình là đầu (Nguyễn Thái Bình bị CIA bắn chết trên không phận biển Nam Hải khi tên nầy trở về VN năm 1969, một tên sinh viên khác lên thay Bình dường như là Ngô Bá Long), có nhiệm vụ kết hợp các cán bộ CS rải rác khắp nước Mỹ, mà vì lý do chính trị, họ đã phải phân tán và thu vào trong bóng tốị Ta còn nhớ những năm 1976-1978, hầu hết mọi gia đình VN tại Mỹ đều nhận được tờ báo THÁI BÌNH (là tên của sinh viên Nguyễn Thái Bình). Tờ Thái Bình được phát hành, vừa có mục đích tuyên truyền, vừa để kết hợp cán bộ qua đường giây PO Box.

Cũng như năm 1956, khi Hà Nội bắt đầu kế hoạch tập trung cán bộ nằm vùng khắp Nam VN, họ đã dùng nhiều hình thức, nhưng dấu hiệu rõ ràng nhất, mà chính quyền VNCH lúc đó không để ý, là cuốn phim "Mưa Rừng", do cán bộ CS nằm vùng Kim Chung thực hiện. Nội dung cuốn phim là một chuyện tình, như nội dung của bất cứ cuốn phim thường nào khác. Nhưng hình ảnh cuối cùng được chiếu trên màn bạc, là hình một đóa hoa hồng đỏ tươi, với một con bướm vàng bay lượn nhiều vòng, và cuối cùng đậu lại ngay giữa bông hồng. Màu đỏ của hoa hồng tượng trưng cho nền cờ đỏ. Còn bướm vàng tượng trưng cho ngôi sao vàng. Hình ảnh cuối cùng của cuốn phim nầy, là một lệnh tập trung cho cán bộ nằm vùng toàn quốc. Tờ Thái Bình sau đó thấy mất tăm, nhưng để thay thế, CS cho ra đời tờ CÁI ĐÌNH LÀNG, nhưng tờ nầy cũng thấy ngưng, sau khi người đứng đầu là Dương Trọng Lâm bị bắn chết.

Ngoài việc kết hợp cán bộ CSVN mà CS đã có sẵn, Đinh Bá Thi tìm đến những tay Mỹ phản chiến thứ nặng nhất, để phối hợp và yểm trợ, trong số nầy, hai người CS đáng tin tưởng hơn cả là Don Luce (tên ký giả đã tạo ra huyền thoại chuồng cọp Côn Sơn) và Jane Fonda đã dõng dạc đứng chửi Mỹ ngay tại Hà Nội:

"Nhân dân Mỹ và nhân dân yêu chuộng hoà bình khắp thế giới, hãy vùng lên, cùng với nhân dân yêu chuộng hoà bình tại VN, xây dựng một nền Hoà Bình trên phần đất nầỵ" (báo Nhân Dân, số 1485, ngày 28/4/1964).

Ngoài 2 người Mỹ nầy, CS làm danh sách những tay phản chiến mà họ tin tưởng vẫn còn ủng hộ họ, sau khi đã trực tiếp giúp họ qua chiến thắng 75. Trong số những người và tổ chức được Đinh Bá Thi kết hợp lại, đầu tiên phải nói đến hai hội đạo METHODIST và QUAKER, là hai hội đạo cực kỳ phản chiến đã từng đứng đầu tổ chức cuộc biểu tình lớn lao tại Central Park, Nữu Ước ngày 27/4/64, cuộc biểu tình nầy được mệnh danh là "Diễn hành chống chết" (March against Death). Những Coretta King (vợ muc sư King), Kennedy, McGovern cũng được bọn CSVN tiếp xúc và kết hợp.

Một thành phần khác cũng được lệnh kết hợp, là số cán bộ CS được Hà Nội gởi sang Mỹ qua ngã các đoàn vượt biên. Ta còn nhớ, mấy năm trước đây, những bộ mặt từng tung hô CS và hợp tác với họ trong cuộc chiến, như TRẦN NGỌC CHÂU, HOÀNG NGỌC GIÀU là những người ta không nghi ngờ gì cả, đã được Hà nội gởi sang đây để tiếp tục hoạt động cho ho.. Hàng trăm cán bộ khác không được nêu tên tuổi, nhưng cơ quan phản gián FBI đều biết rõ tung tích của ho.

Móc nối lại những thành phần từng hoạt động cho họ Liên lạc với những thành phần mới xâm nhập qua đường giây tị nạn. Củng cố thêm thành phần phản chiến cũ, CSVN coi như đã hoàn tất giai đoạn "Kết Hợp" tức "Cánh Hồng 1". Bước thực hiện kết hợp nầy, CSVN đặt ra như một bước căn bản, như tài liệu học tập của họ đã ghi: "Thông suốt đường lối Đảng, nắm vững chỉ tiêu Cách Mạng, kết hợp nhịp nhàng giữa bạn và ta, bước 1 tiến vững vàng, để ta bước qua bước tiến 2 (Học tập số 2, 6/76).

B. CÁNH HỒNG

2: Vòng tay


CS gọi giai đoạn nầy là "Vòng tay", nghĩa là tìm bạn khắp nơi, đứng về phía họ để yễm trợ họ, như họ đã làm trong cuộc chiến và họ đã thành công. Người tổ chức và cho phát động bước tiến 2 là HÀ VĂN LÂU, đại tá thâm niên và có nhiều kinh nghiệm nhất về khuynh đảo trong hàng ngũ cao cấp của CSVN.

Sở dĩ Hà Nội phải xét lại và củng cố thêm hàng ngũ bạn của họ, vì sau 1975, rất nhiều thành phần phản chiến Mỹ đã phản tỉnh, trong số đó, cay cú nhất cho Hà Nội là Joan Baez, người nữ ca sĩ nổi danh, cặp bài trùng của Jane Fonda, từng hết lời ca ngợi cộng sản Việt Nam, và coi Hồ Chí Minh như một "Washington Việt Nam".

Hà Nội cũng nhận định và đánh giá chính xác tiềm năng đấu tranh của khối người Việt Quốc gia hải ngoại, để thấy được rằng, khối Quốc gia nầy là một trợ lực chính trong nỗ lực của CS nhằm củng cố địa vị của họ trên bình diện quốc tế, nhất là đối với Mỹ, hy vọng cuối cùng để cứu vãn tình trạng kiệt quệ về kinh tế, và đôn đốc về chính trị của họ.

Đưa vòng tay lớn ra để tìm thêm bạn, CSVN đã thấy rõ thế yếu của mình. Nhưng CS không tìm bạn theo đúng nghĩa của bạn, mà CS tìm bạn theo tiêu chuẩn mà họ gọi là TIÊU CHUẨN CÁCH MẠNG, và nhất là để đáp ứng nhu cầu giai đoạn. Ta thấy CS phân loại bạn mà họ muốn thu thập và tìm kiếm, ra hai loạị

1.Bạn lâu dài:

Gồm những thành phần mà quá trình hoạt động có thể chứng minh được lòng trung kiên đối với chế độ CS. Những đảng viên CS Mỹ, những thành phần phản chiến cũ còn giữ vững lập trường. Những Don Luce, Stanley Karnow, Michael McLean, Trần Tam Tĩnh,... là những thành phần được CS coi là đồng chí và là bạn lâu dài.

Chủ đích của CSVN khi thu nhập những bạn lâu dài nầy, không phải chỉ để có thêm bạn, mà chính là để, từ những thành phần cốt cán nầy, sẽ ảnh hưởng đến nhiều địa hạt khác, thành phần khác, hầu thu lợi và lôi kéo đứng về chiến tuyến của họ Hay nói cách khác, những thành phần mà CS coi là bạn lâu dài, được CS sử dụng như một vết dầu loan. Một Donald L. Humphrey không phải tự nhiên mà điên khùng đi lấy cắp tài liệu ngoại giao mật của chính quốc gia mình cho Đinh Bá Thi để lảnh án tù 6 năm. Một Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, bên cạnh lòng nhân từ, đạo đức của các ngài, chắc chắn các ngài còn bị ảnh hưởng từ ngoại vị Ngoại vi đó có thể là Kennedy, là đám sinh viên thiên tả tại đại học Harvard, Massachussetts, hay Pennsylvania, là những đại học nổi tiếng phản chiến. Để các ngài không nhìn thấu được cái quỉ quyệt của CSVN, nên mới có bản nhận định 19/11/70, một nhát búa nặng ngàn cân, đập xuống chính quyền Mỹ.

Một bản chính trong bản nhận định đó: "Bất cứ lợi ích nào, dù lớn lao đến đâu, mà chúng ta hy vọng đạt được qua việc tiếp tục tham chiến tại VN, cũng không thể bù đắp được những tàn phá về sinh mạng do cuộc chiến đó gây nên." (At this point of history, it seems clear to us that whatever good we hope to achieve through continued involvement in this war is now outweighed by the destruction of human life and moral values which it inflicts).

Những Coretta King, Kennedy, Ramsey Clark, tự họ không làm gì đáng phải làm cho chính phủ Mỹ bó tay về vấn đề VN, nhưng tự họ đã lôi cuốn hàng trăm ngàn người Mỹ khác, là vì khờ khạo không một chút hiểu biết gì về bản chất của CS, đã cùng nhau xuống đường, hò la, lên án việc tham chiến của Mỹ tại VN là phản đạo đức (morally wrong) phản hòa bình (against peace).

Tất cả những người Mỹ ngớ ngẩn một cách tội nghiệp đó. được CSVN coi là bạn trung thành, bạn lâu dài của họ, vì nhờ họ, mà CS được thêm những thành phần khác đứng sau lưng, nghĩa là CS đã thành công trong chiến lược vết dầu loang. Chính những thành phần nầy đã tạo chiến thắng cho họ năm 1975.

Dĩ nhiên, trong thành phần mà CS coi là bạn lâu dài, CS còn sử dụn g họ trong nhiều phạm vi hoạt động khác, tùy theo khả năng, để gài vào các nhiệm vụ như gián điệp, trí vận, học đường vụ,...

2. Bạn giai đoạn:

Gồm những thành phần mà CS biết rằng, chỉ theo họ vì hoàn cảnh, vì nhu cầu, hoặc ở một thế kẹt nào đó.. Cũng được coi là bạn giai đoạn những người không theo họ, nhưng cũng không chống họ, nhưng lại chống kẻ thù của họ.

Những thành phần được CS coi như bạn giai đoạn không nhất thiết phải theo họ, không cần thiết phải biết về chủ thuyết cộng sản của họ, chỉ cần đừng chống họ, nhưng chống các đoàn thể quốc giạ Trường hợp điển hình, như Phong Trào Liên Ban Đông Nam Á, một thời hoạt động mạnh tại Pháp, tuy nói rằng họ không theo CS, nhưng họ lại có một chủ trương rất mập mờ, là liên kết những người da vàng để chống lại người da trắng. Họ không chịu dùng quốc kỳ vàng 3 sọc đỏ. Chủ tịch của phong trào này là ông Hoàng Văn Mười, một cái tên rất lạ đối với người VN chống cộng. Tổng thư ký của phong trào này là cô Trần Thị Thanh Nga, con gái cố Thượng Nghị sĩ Trần Chánh Thành, tuy không theo CS, nhưng chị ruột của cô Nga là Trần Thị Ý Hoa, lại là một cán bộ CS thứ dữ. CS đã kích các đoàn thể khác, nhưng chưa một lần nào nhắc đến Phong Trào Liên Ban Đông Nam Á. Cho nên người ta đặc một dấu hỏi lớn về phong trào này, nếu không phải do CS tổ chức thì cũng được CS giật dây theo lối bạn giai đoạn.

Chúng ta còn nhớ một phong trào quái dị khác được thành lập tại Saigon năm 1955 do một số trí thức miền Nam chủ trương gồm có các ông TRỊNH ĐÌNH THẢO, TRƯƠNG ĐÌNH DZU, LÂM VĂN TIẾT đứng ra thành lập, đó là Phong Trào Bảo Vệ Hoà Bình. Phong trào này không phải là tổ chức của CS, nhưng được CS ủng hộ và thúc đẩỵ Người ta thấy chủ trương của phong trào này thiên về CS một cách rõ ràng, chủ trương đó là đòi hỏi những bên ký hiệp định Geneva 1954 phải thi hành những điều khoảng ghi trong hiệp định, và họ nhấn mạnh đến điều khoản tổng tuyển cử 1956. CS Bắc Việt lúc đó cũng cương quyết đòi hỏi Mỹ và Nam VN phải tổ chức tổng tuyển cử, vì với bộ máy kìm kẹp miền Bắc, thêm vào là hàng chục ngàn cán bộ được gài vào miền Nam, chắc chắn tổng tuyển cử sẽ mang lại phần thắng cho CS.

Những cá nhân và đoàn thể được CS coi là bạn giai đoạn, bạn nhu cầu, là những cá nhân và đoàn thể thuộc loại vừa kể trên. Nghĩa là những cá nhân, những đoàn thể không phải nhất thiết phải theo họ, dĩ nhiên, theo họ và phục tùng họ là nhất, nhưng họ cần các thành phần đó đừng chống đối họ là được. Chủ đích của CS khi lôi kéo những thành phần nầy, trước hết là chỉ để chặt bớt chân tay của địch.

Đối với khối người Việt tị nạn, CS cũng áp dụng lối chọn bạn như họ đã áp dụng trong thời chiến trước đâỵ CS biết rằng, đối diện với thực tế, họ đang trong thế quá yếu kém so với lực lượng chống cộng hùng hậu của ngưòi tị nạn, và nhất là đại đa số người tị nạn đều có những mối hận cay đắng với họ. Do đó, dùng những thủ đoạn bịp bợm, dụ dỗ những thành phần này trở thành người CS, hoặc thành loại bạn trung kiên của họ là điều họ không hề nghĩ đến. Điều mà họ nghĩ đến và cố gắng thực hiện, là biến càng nhiều càng tốt những người chống họ, thành những người không chống ai cả. Bước đi này của CS tương tự chủ trương của họ từ ngàn xưa mà ai cũng đã biết:

"Cái gì của tôi, tôi giữ đến cùng. Cái gì của anh, chúng ta thương thuyết."

Chính vì thủ đoạn này của CS, mà ta thấy có một số người Việt tỵ nạn đặt chân lên dất Mỹ năm 1975 với đầy ắp một lòng căm thù CS, bỗng dưng một thời, quên cả thù cũ, ngớ ngẫn tuyên bố:

"Phải no bụng đã mới chống cộng được."

Một số khác, từ căn bản, họ là những người chống cộng, nhưng chỉ vì một bất mãn cá nhân, quay mặt đi không còn nhìn nhận đoàn thể, bạn hữu của mình nữa, và cũng được CS coi như những người bạn giai đoạn.

C. CÁNH HỒNG

3: Xâm nhập lũng đoạn.


Giai đoạn nầy là giai đoạn quan trọng nhất của chiến dịch, vì nó là thành quả của 2 giai đoạn trên, và nhất là một bảo đảm cho giai đoạn saa. Giai đoạn này thất bại, coi như cả chiến dịch thất bạị Vì thế, CS đã điều nghiên rất kỹ, họ lấy kinh nghiệm cũ, trau dồi thêm phần kỹ thuật mới để áp dụng kế hoạch trong giai đoạn 3 nầy.

Ta thử nhìn xem, CS đã đi như thế nào trong giai đoạn xâm nhập và gây lũng đoạn.

1. Xâm nhập:

Bài học ôn : Vào những năm đầu của cuộc tỵ nạn, tức khoảng 1975-1977, CS Hà Nội đánh giá rất thấp tập thể người Việt tỵ nạn trên thế giớị Họ quan niệm rằng, các đoàn thể của người tỵ nạn hầu hết được lãnh đạo bởi những người thuộc các thành phần rất bê bối, tham nhũng, nhiều tội ác, dốt nát. Những người nầy có nói, cũng chẳng ai nghẹ Nhận định của Hà Nội không phải hoàn toàn vô căn cứ, vì thực ra cũng có một số ít người lãnh đạo của một vài hội đoàn, tỏ ra quá kém cỏi và thiếu hẳn tư cách lãnh đạọ Vài ba hội đoàn nầy, dần dần thấy biến mất dạng.

Nhưng, vào những năm sau này, khi khí thế đấu tranh của người Việt lên cao, có tổ chức và được hậu thuẫn của cả tập thể người Việt lẫn một số quốc gia tự do, lần lượt ra đời, thì Hà Nội bắt đầu chuyển hướng, và mục tiêu chính của họ tại hải ngoại, không phải chỉ còn nhắm vào lãnh vực chính trị, kinh tế, ngoại giao nữa, mà đồng thời phải ra sức tiêu diệt tiềm năng đấu tranh của "bọn tàn dư Ngụy", tức là khối người Việt tỵ nạn. Những hội đoàn các Cộng Đồng tôn giáo, nhất là Công Giáo, Lực Lượng Thanh Niên Tự Do Âu Châu, Tổ Chức Người Việt Tự Do, là những hội đoàn được cộng sản chú tâm nhiều nhất. Việc Hà Nội đưa Hà Văn Lâu sang Mỹ, cũng không ngoài chủ đích tìm cách khuynh đảo khối người Việt tỵ nạn, như hắn đã làm được tại Thái Lan.

Trước hết, nhìn lại quá khứ đấu tranh suốt 30 năm, ta thấy CS đã chứng tỏ một kỹ thuật xâm nhập và gài người rất tinh vi vào các doàn thể, các tôn giáo và ngay cả quân độị Những trường hợp điển hình mà ta chưa quên, phải nói vụ Huỳnh Văn Trọng, phụ tá đặc biệt của TT Nguyễn Văn Thiệụ Đây là một cán bộ CS lọt được vào một chức vụ cao nhất thuộc phía hành pháp. Cho đến nay, sau nhiều năm mất nước, về phía Việt Nam Cộng Hòa, ông Thiệu và ông Đặng Văn Quang, có lẽ ít ai biết Trọng đã lọt được vào Dinh Độc Lập qua ngả nào (2 quyển sách mới có nói về vụ Huỳnh Văn Trọng, hiện mang quân hàm tướng công an VC). Có người cho rằng, CS Hà Nội dùng tiền, vì vụ đổ bể, mô..t vị đại tá làm việc trong dinh đã được nghe ông Thiệu quở trách ông Quang và ông Quang trả lời:

"Moa làm tiền cho cả nhóm chứ riêng gì cho cá nhân moa".

Có người lại cho rằng, chính CIA đã đưa Trọng vào qua trung gian ông Quang, vì ai cũng biết ông Đặng Văn Quang là tay CIA nặng ký vào bậc nhất trong số những người VN cộng tác với cơ quan tình báo chiến lược nầy.

Qua ngã nào thì tên cán bộ CS nầy cũng đã lọt vào ngồi bên cạnh ông Thiệu suốt mấy năm trời, và sau nầy người ta chẳng còn ngạc nhiên gì, khi những kế hoạch tối mật được soạn thảo tại Dinh Độc Lập, chính phủ ông Thiệu chưa kịp thực hiện thì Hà Nội đã được thông báo đầy đủ. Chẳng hạn như những dự tính chính trị đưa ra áp dụng tại Hội Nghị Paris năm 1971, Dinh Độc Lập đánh mật điện cho phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa đêm hôm trước để sáng hôm sau trưởng phái đoàn đưa ra hội nghị Khi VNCH vừa đưa ra, Nguyễn Hữu Thọ đã cười nhạt và hắn phản pháo không một sơ hở. Kế hoạch đánh chiếm Hạ Lào năm 1972 cũng thế, theo lời một sĩ quan Tham mưu Lữ đoàn Nhảy dù, thì CS đã biết trước tất cả nên chỉ việc nằm chờ, bao nhiêu sinh mạng chiến sĩ VNCH để lại trên chiến trường một cách oan uổng. Ông Thiệu phải chịu trách nhiệm trước lịch sử.

Trường hợp chuẩn tướng NGUYỄN HỮU HẠNH, người đã cùng Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đầu hàng CS sáng 30/4/75, đã bí mật liên lạc với tướng CS TRẦN VĂN TRÀ, trong suốt thời gian Trà làm Trưởng Phái Đoàn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tại hội nghị quân sự bốn bên tại Tân Sơn Nhất, mà không một ai hay.

Cựu dân biểu TRẦN NGỌC CHÂU, lợi dụng bất khả xâm phạm của một dân biểu, cùng sát cánh với KIỀU MỘNG THU và các "Thày", công khai đánh phá ta ngay tại Sàigòn, nhưng lại âm thầm thảo kế hoạch và trao tin mật cho em ruột là Trần Ngọc Hiền, đại úy tình báo CS Bắc Việt.

Đại tá PHẠM NGỌC THẢO, một cựu Trung Doàn Trưởng CSBV, giả vờ hồi chánh, bịp cả chế độ đệ I và đệ II Cộng Hoà. Với chức vụ Tỉnh trưởng Kiến Hoà, Thảo (Tướng TRẦN BẠCH ĐẰNG của VC đã vinh danh và tổ chức truy điệu cho Thảo năm 1980-81 ở Saigon) đã gây nên không biết bao tội ác tầy trời với dân chúng, mục đích của Thảo là để gây căm thù giữa dân chúng đối với chính quyền Việt Nam Cộng Hoà (có lẽ vì vậy mà một số dân Bến Tre theo CS; báo chí ngoại quốc khi tường thuật về những "tội ác" chỉ biết Thảo là quân nhân của quân lực VNCH; tên Thảo nầy thật thâm độc . Thảo bị giết tại Hố Nai năm 1969. Sau 30/4/75, cộng sản cải mộ Thảo và đưa về chôn cất tại nghĩa trang dành riêng cho tử sĩ cộng sản.\

Trên mặt trận văn hóa, cộng sản đội lốt nhà văn VŨ HẠNH (mặc dầu cố gắng nhưng vẫn chưa vào đảng được sau 1975; thất chí, Vũ Hạnh không còn sáng tác như hồi trước 75 nữa), đào Kim Cương, đào tiếng chuông vàng đất Bắc Kim Chung, là những CS nằm vùng và đắc lực cho Hà Nội.

Ngoài những tên CS nằm im lìm trong các cơ quan chính quyền,lập pháp cũng như hành pháp, quân đội, văn hóa, báo chí, ta còn thấy những tên CS đội lốt nhà tu, trí thức, chính khách, công khai tiếp trợ cho đồng bọn dưới nhiều danh nghĩa. Những linh mục PHAN KHẮC TỪ, với khổ nhục kế "Kẻ Hốt Rác" để nắm thành phần lao đô.ng. "Linh mục" NGUYỄN NGỌC LAN, lợi dụng tự do báo chí để viết sách, viết báo cổ võ chủ thuyết cộng sản, mà ghê gớm hơn hết là cuốn "Đường Hay Lô Cốt?". Linh mục TRƯƠNG BÁ CẦN (nay lòi ra là linh mục quốc doanh ở Saigon), luôn luôn dùng tòa giảng để kêu gọi chấm dứt chiến tranh (theo đường lối CS, nghĩa là Mỹ phải rút, miền Nam phải buôn súng). Những tên cộng sản đội lốt nhà sư: THÍCH ĐÔN HẬU, THÍCH MINH CHÂU, THÍCH NHẤT HẠNH, sư cô HUỲNH LIÊN, là những tên CS ồn ào nhất, chính những tên CS ngụy trang nhà tu nầy đã chủ trương đưa bàn thờ Phật xuống đường, rồi ngồi chắn trên cầu Gia Hội, An Cựu tại Huế, không cho quân đội tiếp viện, chính vì thế mà các đơn vị thuộc sư đoàn I Bộ binh tại An Lộ bị thiệt hại nặng nề vào đầu tháng 4/1966 vì không được tiếp viện.

Ngoài các tên CS đội lốt nhà tu vừa kể, người Việt Nam không thể nào quên được những tên trí thức ăn cơm quốc gia từ đời cố nội ngoại của họ, nhưng vẫn ngu xuẩn vùi đầu đứng trong hàng ngũ kẻ thù trong cuộc chiến tàn bạo giết hại bao người trong 30 năm. Điển hình hơn hết là bọn Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tại Huế với các tên LÊ KHẮC QUYỂN, VĨNH KHA, HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG, LÊ TUYÊN, HOÀNG VĂN GIÀỤ Giữa lúc bọn "Cứu Quốc" hoành hành tại Huế, thì tại Saigon, đồng minh của họ cũng múa lên một nhịp bài hát "Cứu Quốc" do các tên nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm, Cao Thị Liên, Lý Quí Chung, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Kiều Mộng Thu, Trần Ngọc Châu, "linh mục" Nguyễn Ngọc Lan...

Nhìn lại thế cờ bố trí trên mặt trận xâm nhập của CS Hà Nội tại miền Nam trong quá khứ, người quốc gia hải ngoại ngày nay không thể không cảnh giác. Cảnh giác để không bước vào trong dĩ vãng, để đến nỗi một tên CS nằm ngay trong cơ quan đầu não tối cao của quốc gia mà vẫn không hay biết. Một tên nằm vùng trong làng báo chí suốt 15 năm mà không hề bị lộ tông tích. Những cố vấn, những phụ tá, những thầy tu nằm vùng đó hiện nay không thiếu gì trong hàng ngũ người Việt tỵ nạn hải ngoại.

Bài học mới : Những bước căn bản được soạn thảo cho kế hoạch xâm nhập thời chiến, cộng sản vẫn giữ nguyên để áp dụng cho kế hoạch xâm nhập hàng ngũ quốc gia tại hải ngoại. Nghĩa là có những tên lính tiên phong đóng vai tu hành, học giả, sinh viên, nhà buôn và một số những người Việt không có kinh nghiệm, được gài vào hàng ngũ tỵ nạn. CS chỉ thay đổi mục tiêu, để thay vì đích thân đứng ra tổ chức những cuộc khuynh đảo, họ đã dùng những phần tử trên để gây lũng đoạn chia rẽ, phá nát hàng ngũ ta, hầu tru diệt một chướng ngại vật và tránh hậu hoạ trong tương lai.

Trước hết về mặt chìm, ta thấy CS len lõi, bố trí người của họ ngay quanh tạ Những tên sinh viên du học trước đây, nay là những nhà khoa bảng đóng vai cố vấn, phối trí cho một vài đoàn thể quốc gia, lâu lâu tổ chức Tuần Lễ Văn Hóa, nói là thuần túy văn hóa nên không trương cờ quốc gia nàọ Những hội đoàn này, có một vài nơi mới được thành lập, nhưng cũng có một vài nơi, họ tách từ các hội đoàn quốc gia chính ra để thành lập hội đoàn khác. Ta cũng thấy ít lâu nay, những bàn tay vô hình đã đi thu lại các chương trình truyền hình tuyên truyền cho CS, như Vietnam: a History", The First Complete Account, The Ten Thousand Day War,..., những cuốn phim video nầy được chuyền tay cho đồng bào xem miễn phí. Ai đã bỏ công ra thu, ai đã chi tiền để thu? Người thơ ngây đến đâu cũng trả lời được xuất xứ của việc làm nầỵ Một số người quốc gia cũng biết thế, nhưng vì tò mò, nên vô tình cứ tiếp tay cho kẻ thù.

Những chiến dịch thư nặc danh bôi bẫn những người quốc gia, hạ danh thế những nhà lãnh đạo tôn giáo, gây chia rẽ giữa các hội đoàn chống cô.ng. Những chiến dịch tuyên truyền rỉ tai, phao tin đồn nhảm nhắm đích danh một số người lãnh đạo đoàn thể quốc gia tôn giáo.

Những tổ chức du đãng, buôn lậu, giết người, hành động phi pháp, để gây tiếng xấu cho tập thể người quốc gia tỵ nạn.

Tất cả những hành động được thúc đẩy bởi những bàn tay vô hình, ném đá giấu tay đó, không ai khác hơn là những tên CS chìm. Đến đây ta lại nhớ vụ xích mích Phật giáo và Công giáo đã xảy ra tại Saigon năm 1964. Mấy tháng sau vụ đảo chánh 1963, Phật giáo và Công giáo trải qua thời kỳ rất căng thẳng tạo nên do những ngộ nhận. Một toán đặc công cộng sản đã dùng một chiếc xe Lam ba bánh có gắn loa, chạy đến khu Vạn Hạnh kêu gọi Phật tử phải đến ngay chùa Ấn Quang để giải cứu các Thầy, vì có bọn Công giáo quá khích dang vây và đập phá chùạ Chiếc xe Lam đó, lại chạy đến khu ngã ba Ông Tạ là nơi có đông đảo người Công giáo di cư, kêu gọi đồng bào Công giáo phải lên ngay toà báo Xây Dựng (báo Công giáo) để cứu cha Nguyễn Quang Lâm và các cha, vì có bọn Phật tử Ấn Quang đang phá nhà thờ Huyện Sĩ và đốt tòa báo Xây Dựng. Một cuộc ẩu đả bằng dao và gậy gộc, súng nhỏ đã xảy ra tại cả 2 nơi Ấn Quang và nhà thờ Huyện Sĩ giữa thanh niên Công giáo và và thanh niên Phật tử. Cuộc ẩu đả diễn ra trong một ngày, làm hàng trăm thanh niên đôi bên bị thương. Cảnh sát đặc biệt đã bắt được chiếc xe Lam cùng ngày và gồm luôn cả 4 tên đặc công CS chủ trương, tránh cho Saigon một cuộc Thánh chiến, mà hậu quả không thể lường được.

Về mặt nổi, CS xâm nhập và đang tổ chức những hội đoàn, hoặc lấy chính danh là đoàn thể CS, hoặc ẩn núp dưới một danh nghĩa khác. Những hội như Hội Việt Kiều Hải Ngoại, Hội Các Nhà Văn, Hội Truyền Thanh Truyền Hình, Hội Phật Tử Hải Ngoại, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Tự Trị, là những hội do CS tạo nên làm điểm tựa cho thế đứng của họ tại nước ngoài.

Gây lũng đoạn: Xâm nhập được hàng ngũ địch bằng nhiều cách, dưới nhiều hình thứ'c, hoạt động bên địch với nhiều danh hiệu khác nhau, CS mới có thể tìm được đất đứng, tạo được vị trí hành động. CS bước thêm bước nữa trong giai đoạn của Cánh Hồng 3 nầy, đó là lũng đoạn, là gây chia rẽ giữa người quốc gia với nhau.

Những hình thức bôi bẩn do CS chủ trương, hoặc xúi dục người quốc gia chủ trương bôi bẩn lẫn nhau, xảy ra nhan nhản khắp nơi tại Oregon, tại Louisiana, tại Washington và nhiều nơi khác toàn nước Mỹ, đã đôi khi làm người quốc gia nản chí, nhất là khi biết chắc những đòn hạ nhục đó, do chính anh em, bạn hữu cùng một chiến tuyến với nhau, mà chỉ vì óc tị hiềm, tự ái cá nhân, bất bình, đã vô tình lọt đúng vào bước tiến gây lũng đoạn của CS nhằm vào hàng ngũ quốc gia.

D. CÁNH HỒNG

4: Xây Dựng:


Trong cuộc chiến gần 40 năm, chưa có một tên CS nào thành công trên lãnh vực khuynh đảo bằng viên Đại tá Hà Văn Lâu.

Hà Văn Lâu sinh năm 1918 tại Huế, con trai Tuần phủ Hà Văn Ngoạn là Hội viên của Hội Liên Hiệp Pháp. Hà Văn Lâu nguyên là viên sĩ quan mật thám quân đội Pháp, đào ngũ theo Việt minh năm 1945 và được Võ Nguyên Giáp giao ngay trọng trách gián điệp, tình báo trong quân độị Hà Văn Lâu trở thành đảng viên thực thụ CS năm 1950, và trở thành một sĩ quan tình báo chiến lược của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng. Hà Văn Lâu lập được rất nhiều công đối với CSVN, mà một trong những công lao đó là khuynh đảo để nắm được vào khoảng 60,000 Việt kiều tại Thái Lan, tạo một hậu thuẫn rất mạnh về chính trị và quân sự cho CS suốt cuộc chiến Việt Nam. Người ta sang Thái Lan về đều ngao ngán, vì thấy Toà Đại sứ Việt Nam Cộng Hoà không làm gì để phổ biến chính nghĩa, trong khi CS phản quốc, lừa bịp được Việt kiều, bằng cớ, là hầu hết các gia đình bên đó đều treo hình Hồ Chí Minh. Trong các lễ của CS. CS tổ chức Việt kiều tham gia đông đảọ Một số nhỏ những gia đình người quốc gia sống rất cô đơn, một số khác nêu cao chính nghĩa quốc gia liền bị giết.

Bài học thành công về Việt kiều tại Thái Lan là bài học rất quí đối với CS, cho nên Hà Nội đã vội đưa Hà Văn Lâu sang Mỹ thay Đinh Bá Thi với một giấc mơ, là cũng biến đổi một triệu người Việt tị nạn thành khối người như Việt kiều ở Thái Lan. Nhưng CS cũng biết rằng, khối người VN một triệu nầy, không phải 60,000 Việt kiều Thái Lan, vì thế, CS đã phải mang cả một bộ tham mưu chuyên về tình báo và khuynh đảo như đã trình bày ở đoạn I và CS đã phải tung nguyên một chiến dịch gọi là Hoa Hồng Đỏ để thực hiện cho được mặt trận đánh thẳng vào khối người Việt tỵ nạn. CS chưa thành công, bằng cớ là sau chín năm với từng bước tiến (từng cánh hồng), CS tỏ Ra còn quá yếu ớt so với thực lực của khối quốc giạ Nhưng đừng vội nghĩ rằng CS đã thua cuộc. Qua bao kinh nhiệm, ta thấy kẻ bỏ cuộc trước chính là phe Tự Do, phe Quốc Gia, chứ không phải CS. Nhất là hiện nay, tình trạng phân hóa giữa người Quốc Gia hải ngoại vẫn còn trầm trọng; nghĩa là chúng ta vẫn còn tạo môi trường để vi trùng CS có thể sống và phát triển.

Cánh hồng 4 hay giai đoạn Xây Dựng của CS đã bắt đầu, nhưng CS không hề đặt thời điểm phải hoàn tất. Điều nầy có nghĩa là họ sẽ "đánh trường kỳ". Tài liệu học tập đã ghi rõ, đối tượng xây dựng chính của họ là thế hệ thứ 2, tức là lứa tuổi đang lớn lên, chưa có một ý niệm gì về CS, chưa bị nếm mùi cay đắng nào từ cs (CS giả vờ che đậy cho những việc làm tàn bạo trong quá khứ bằng cách nói là họ làm sai và "những con nai vàng ngơ ngác" tin là CS cũng là những kẻ biết "hướng thiện"). CS đã tập trung được cán bộ, từ cấp tiểu bang, thành phố, mà họ gọi là "đường giây 3 cụm chiến lược" (tức Trung tâm Waterside Plaza, nơi phái đoàn Hà Văn Lâu đặt bản doanh, các tiểu bang và thành phố). CS móc nối hệ thống những tổ chức và cá nhân yểm trợ ho. CS xâm nhập các tổ chức và đoàn thể ta để gây lũng đoạn.

Giai đoạn 4 được phát động, nếu họ thành công, có nghĩa là người quốc gia phải đối đầu, không phải từ hệ thống cán bộ, từ những thành phần yểm trợ, mà ngay từ tập thể, có khi ngay từ gia đình (người trẻ non dạ không tin lời cha mẹ kể về những kinh nghiệm với CS). Người quốc gia chúng ta sẵn sàng chấp nhận cuộc đấu trước khi tình trạng quá muộn chưa?

THAY LỜI KẾT:

Người CS luôn mang trong người hai thứ võ khí: bản kinh chiều êm ái, nhẹ nhàng. khi cất lên có tác dụng làm người nghe đi dần vào một giấc ngủ miên man. Và một con dao bén nhọn, giết người rất nhanh.

Hai thứ võ khí nầy, được người CS xử dụng trong một kết hợp vô cùng nhịp nhàng, uyển chuyển. Có những trường hợp cần phải cất lên bản kinh, chờ cho đối phương mê ngủ, rồi bất thần đưa lưỡi dao đi một đường ngọt xớt vào giữa tim đối phương. Có những trường hợp bản kinh và lưỡi dao cùng được hoà nhịp một lượt. Cũng có những trường hợp người CS chủ quan, xử dụng lưỡi dao mà không cất lên bản kinh, bị chặn lại, họ tức khắc rút dao về, bản kinh lại được cất lên, chờ cho đối phương mê ngủ, họ mới hạ thủ.

Việt Nam, với bản kinh chiều được NHẤT CHI MAI (một nữ Phật tử, ngây thơ hay cố ý thiên tả, tự thiêu để đòi hoà bình theo kiểu CS; theo đó phong trào của Nhất Chi Mai muốn miền Nam phải "trở về với "dân tộc" tức là với CS") cất lên qua lời cầu thống thiết, vào đúng lúc phần thắng trong cuộc chiến đang nghiêng về phía quốc gia:

"Hãy sống dùm tôi, hãy thở dùm tôi, quả tim nầy dành cho thù hận, cho hoà bình".

Bản kinh HOÀ BÌNH của Nhất Chi Mai được kết thúc bằng cái chết tự thiêu của cô cho Hoà Bình giữa lòng thủ đô Sàigòn đã được những McGovern, Kennedy, Coretta King, Jane Fonda, KIỀU MỘNG THU, TRẦN NGỌC CHÂU, THƯỢNG TỌA THÍCH TRÍ QUANG, LINH MỤC PHAN KHẮC TỪ, BÀ NGÔ BÁ THÀNH đồng loạt phụ xướng, và đã lừa được dư luận Mỹ. Không một chần chờ, Hà Nội rút lưỡi dao khỏi bao đi một đường lút cán ngay giữa trái tim Nam Việt Nam. Thế giới sử đã ghi lại, hôm đó là ngày 30/4/1975, lúc 10 giờ sáng. Bản khai tử của Việt Nam Tự Do hiện còn lưu trữ tại Toà Bạch Ốc, Washington. D.C., Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Bản sao được trao cho điện Kremlin tại Mạc Tư Khoạ, nước Nga Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Bang Sô Viết.

Sau một thập niên kể từ ngày Việt Nam Cộng Hoà bị bức tử, không phải không có những người đã thức tỉnh; Michael Novak, tác giả cuốn sách phản chiến nhất nước Mỹ: cuốn "Vietnam: a crisis of conscience". Joan Baez, người đã cùng Jane Fonda, ca ngợi Hồ Chí Minh như một Washington Việt Nam. Gần đây hơn, hai nữ bác sĩ VN trên 20 tuổi đảng. cháu ruột của tên trùm đỏ Đặng Xuân Khu, là bác sĩ Đặng Kim Thoa và bác sĩ Đặng Kim Thu, đã giã từ thiên đường CS, trốn sang Phi Châu tìm tự do.

Nhưng, một thập niên, thời gian vẫn chưa đủ. Và những chứng tích: South Yemen, Ethiopia, Mozambique, Việt Nam, Lào, Cam Bốt, Congọ cũng chưa đủ cho một số người thức tỉnh, trong đó có một số người Việt tị nạn. Cho nên mới có những hiện tượng những hiện tượng Thích Nhất Hạnh, linh mục Trần Tam Tỉnh.

Không muốn hiểu CS hay không hiểu CS là quyền của những người ngây thơ, dại dột. Quyền của những đồng minh chơi với bạn theo nhu cầu giai đoạn, giúp bạn theo phong cách của một Thái Thú. Quyền của những người mang tị hiềm vô lý, mặc cảm cá nhân, bất đồng nhỏ mọn.

Nhưng, người quốc gia chân chính, những nạn nhân trực tiếp của suốt 40 năm bịp bợm, lừa dối, gian manh từ người CS không có cái quyền đó. Cái quyền mà người quốc gia có là quyền tỉnh thức để không bị ru ngủ bởi bản kinh chiều.

Cảnh giác để khỏi bước vào cái bẫy "dùng bạn của địch đánh địch, dùng địch đánh địch, chia địch để địch bị cô lập và tự diệt". Chưa tìm được cho mình những cái quyền đó, thì đừng nói đến kết đoàn, và nhất là đừng ôm hoài bão dành lại phần đất và tất cả những gì CS đã trắng trợn cướp khỏi tay ta.

Lời nói cuối: Những lời cảnh cáo nói trên tưởng cũng quá đủ.

Ngoài ra, bài báo nầy còn cho ta thấy một quá khứ đầy sai lầm của những người, vì non kinh nghiệm về chính trị hơn CS hay vì bị lừa dối bởi những phần tử CS hay thân cộng, đã nhiều khi hy sinh thân mình đem đất miền Nam hiến vào tay CS. Người chiến sĩ của VNCH quá là tội nghiệp, họ chết vì nhiều viên đạn không phải từ kẻ thù ngoài mặt trận mà từ vài huynh đệ chi binh và từ vài người ở hậu phương thiếu sáng suốt bắn ra. Kết quả lại phải vào tù ra khám khi miền Nam sụp đổ. Sau đó, hậu phương nầy cũng bị "dần" cho te tua mà một số phải chạy bán sống bán chết và bị người anh em CS khinh bỉ, gia đình thì tan nát, không thể nào gầy dựng lại được nữa. Hàng trăm ngàn người bị chìm sâu dưới đáy biển, một số lớn may mắn hơn tìm được bến bờ và phải nhoi lên vô cùng vất vả tạo lại cuộc sống từ con số không..

Đây là những kinh nghiệm đau thương, được trả bằng máu và nước mắt. Chúng cho thấy, chúng ta đang đương đầu với "những người CS" đầy kinh nghiệm chứ không phải là những người VN thân thương chân chính. Mỗi người đại diện của CS mà ta gặp trong và ngoài nước phải được xem là những tay tình báo giỏi và vô cùng lão luyện về chính trị. Tôi có đọc ở đâu đó là nhà ngoại giao của CS hay nói trắng ra ông đại sứ phải là tay gián điệp thượng thặng của họ. Dĩ nhiên những nhân viên của ông ta cũng thế.

Ta đang nói về những người tôn thờ Đảng và chỉ có đảng mà thôi. Tất cả những liên hệ với họ đều không ít thì nhiều dĩ nhiên là có lợi cho họ, hay ít ra không thiệt hại gì cho họ cả. Ta cũng biết rõ ràng ta cũng là những con mồi ngon của họ và họ sẽ "thấu cáy" lúc nào cũng được. Vậy, một lời khuyên, hãy tỉnh thức mà dọn đường sẵn để "rút dù" trong an toàn nếu có "chung chạ" với họ. Nếu không thì uổng một đời vì chơi với CS không phải là trò đùa, mà là "một trò chơi vô cùng nguy hiểm và nguy hiểm".

Ý thức hệ của CS không cho phép những người "nửa nạc nửa mỡ" sống chung với họ lâu dài. Nghĩa là, sau một thời gian, phải nhập về bên họ hay sẽ bị quăng đi khi nhu cầu không còn cần thiết nữa. Chuyện quá khứ đã bày ra đó, đừng nên bỏ ngoài tai. Bằng cấp dù cao tột bực tới đâu cũng không cứu vãn nổi thân phận, nếu như ít để ý tới chính trị của CS. Vì nghĩa đồng bào xin được bàn vài câu chói tai, nhưng chúng không phải chỉ được dựa trên chuyện hão huyền.



Mặc Dân, Mặc Nước, Chỉ Có Đảng - Tuệ Vân

Tuệ Vân

Trong nước tuần này có vài bản tin đáng chú ý. Tin thứ nhất là tin về an toàn thực phẩm cho biết kết quả xét nghiệm ngẫu nhiên 104 mẫu rau thuộc 8 mẫu rau sống thường được dùng ăn sống như xà lách, xà lách xoong, rau muống, cải bẹ xanh, rau đắng, rau tần ô (cải cúc), rau má, rau thơm gia vị lấy từ một số chợ để làm xét nghiệm, cho thấy sau 3 lần rửa sạch, tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng vẫn còn ở mức 51,9% đến 82,6%. Bánh trung thu thì không đề ngày sản xuất, có cửa hàng còn “đội” thêm 15 ngày so với ngày sản xuất thật của bánh. Nghĩa là trong giấy kê khai chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp ghi hạn sử dụng các loại bánh là 1 tháng, thời hạn sử dụng tốt nhất là 15 ngày. Nhưng theo lời giải thích của chủ hàng, nếu hạn dùng, tính từ ngày bánh ra lò 7/9, đến ngày 22/10 mới hết hạn, thì bánh này đã được cơ sở tự “đội” thêm 15 ngày so với ngày sản xuất thật của bánh như kê khai.

Tin chính trị thì đáng chú ý là lời tuyên bố của ông phó thủ tướng Trương Vĩnh Trọng trong chuyến viếng thăm Ban Mê Thuột, Đăk Lăc vào ngày 5/9, nhân thảo luận việc đầu tư Tây Nguyên. Ông Trương Vĩnh Trọng nói rằng “Cho đến lúc này, dư luận trong nước cũng như trên thế giới, kể cả những người khó tính, không còn ai nói đến vấn đề khai thác bô-xít ở Tây Nguyên nữa và “Khai thác bô-xít ở Tây Nguyên là đúng đắn và đang gặp thuận lợi”. Báo Nhân Dân đưa lên mạng bài dịch lại bản tin trên các báo Hoàn Cầu, Phượng Hoàng của Trung Quốc rằng Trung Quốc thao tập binh sĩ trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở biển Đông với lời căn dặn“để bảo vệ tốt biên cương trên biển phía Nam Tổ quốc”.

Những vấn đề trên được nhận định như thế nào?

Vấn đề an toàn thực phẩm là một vấn đề được nêu ra từ nhiều năm qua với tỷ số bịnh đường ruột ngày càng gia tăng trong quần chúng và sự ngộ độc xẩy ra thường xuyên đưa tới những cái chết oan uổng, nhưng sự việc vẫn tiếp tục tiếp diễn vì không ai quan tâm giải quyết hoặc chỉ quan tâm ở mức nói miệng. Có khổ là chỉ khổ cho người dân, nhất là những người lao động nghèo không có phương tiện để bảo vệ sức khỏe cho mình và gia đình. Các quan chức cao cấp nhất như Lê Khả Phiêu thì có vườn rau riêng, làm trên sân thượng, không dơ không độc. Riêng về bánh Trung Thu quá hạn thì cuối cùng do hối lộ vẫn được bán cho dân, dân ăn ngộ độc là chuyện của dân. Nhìn quanh nhìn quẩn, nguyên nhân cỗi rễ cũng là nhà nước thiếu trách nhiệm và không quan tâm trong vấn đề bảo vệ sức khỏe người dân. Nói cho đơn giản thì dưới chế độ XHCN biến thái hiện nay mạng con người bị vô cùng coi rẻ.

Về những khẳng định của ông phó thủ tướng Trương Vĩnh Trọng thì đã có những nhận định khác nhau. Người bênh thì cho rằng ông Trọng chỉ quá lời trong khi hăng say động viên cán bộ đảng viên và quần chúng. Vì thế phải thông cảm cho ông. Người chống thì bảo rằng ông nói dối không biết ngượng. Nghe thế thì có người cãi rằng tại sao nói dối mà lại phải ngượng? Bác Hồ vĩ đại cũng đã từng nói dối có sao đâu. Nếu nói dối là xấu thì tại sao học sinh đang được thúc đẩy theo gương đạo đức bác Hồ? Vài nhà trí thức muốn đóng góp cho đảng và nhà nước thì cặm cụi gom góp dữ kiện để viết bài chứng minh rằng ông phó thủ tướng nói không theo sách vở và tài liệu. Nhưng về chính sách huấn luyện nhân sự mà ông chỉ đạo đưa ra thì chỉ còn có thể lắc đầu, đớ lưỡi, hết ý để góp. Ông bảo Tây nguyên thiếu nhân lực, cần phải huấn luyện đào tạo. Nếu có kém Anh ngữ thì cứ cho đi học đi, như bác sĩ cứ cho đi học ngoại quốc, đến khi có bằng thì cho đi học bổ túc Anh ngữ sau. Chắc hẳn rằng ông nghĩ huấn luyện chuyên viên và bác sĩ bằng cách ra dấu, theo như kiểu thời toàn trị cho các cán bộ đảng viên “thuộc diện chính sách” không có trình độ tiểu học, đi du học các nước Liên sô và Đông Âu để về lãnh đạo.

Cuối cùng là chuyện báo Điện Tử Đảng Cộng Sản Việt Nam đưa lên bản tin “Hải quân Trung Quốc diễn tập tại biển Đông” và để trên mạng 3 ngày rồi mới lấy xuống, với lời giải thích “vì lý do kỹ thuật” khi có người góp ý. Người ta tự hỏi phải chăng báo Đảng đã lộ nguyên hình là tay sai của Trung Quốc vì đưa lên nguyên văn bài báo Tầu kêu gọi binh lính thao dượt trên Hoàng Sa Trường Sa là để “bảo vệ tốt biên cương trên biển phía Nam Tổ quốc” ? Khốn thay, cái mà TC gọi là biên cương trên biển phiá Nam lại là Trường Sa Hoàng Sa của Việt Nam! Lý do kỹ thuật này cũng chẳng khác gì trường hợp trước đây trang điện tử Hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam - Trung Quốc” của bộ Thông Tin Truyền thông đã đưa nguyên con những quan điểm của chính quyền Trung quốc ngay cả quan điểm phủ nhận chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam.

Thật là “sống chết mặc bay, tiền thày bỏ túi”. Mặc dân, mặc nước, chỉ có đảng mà từ lớn đến nhỏ đua nhau cấu xé tổ quốc, với sự a tòng giành giật của đủ loại ngoại nhân.

Tuệ Vân

Dân Mỹ Xuống Đường tại D.C - Bùi Mạnh Hùng


Bùi Mạnh Hùng

Những hệ thống truyền thông, báo chí lớn nhất tả phái (mainstream media) của Hoa Kỳ như ABC, CBS, NBC và các tờ báo như LA Times, New York Times, Washington Post, với những khuôn mặt lớn nhưng hèn nhát, chống chiến tranh, thiên vị, như Walter Cronkite (tên này đã chết), Dan Rather, trong thời gian chiến tranh VN là những kẻ thù của quân, dân Miền Nam.

Nay với tình hình mới thì chúng là những tên khắc tinh của Đảng Cộng Hòa, luôn luôn ủng hộ, bao che phe Dân Chủ một cách công khai, lố bịch nhất là trong thời gian này với cả hai ngành Hành và Lập Pháp đều là Dân chủ.

Với hệ thống truyền thông mainstream tả phái này của Mỹ ngày nay, cũng không khác mấy với hệ thống báo chí của cộng sản, có nhiệm vụ bao che cho chính phủ và đảng cầm quyền (mà chúng ủng hộ).

Giờ đây muốn biết rỏ tình hình Hoa Kỳ một cách tương đối trung thực, chỉ còn một hệ thống truyền thông của Fox, nơi đây họ đã phanh phui và đã khiến cho một trong hơn 30 tên tên cố vấn đặc biệt sa hoàng (czar) của Obama là Van Jones (một tên cực kỳ hung hăng, kỳ thị) phải từ chức, và tổ chức ma quỷ, lường gạt ACORN đã bị Hạ Viện Hoa Kỳ đình chỉ ngân khoản hoạt động.

Cuộc tập hợp của dân chúng tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn về từ khắp các tiểu bang, tiêu biểu cho thành phần của đại đa số dân chúng Hoa Kỳ: thành phần thầm lặng nhưng đã đến lúc họ muốn nói cho chính quyền Obama được rõ: enough is enough.

Thế nên không có gì phải ngạc nhiên khi biết rằng mainstream media không tường thuật những sinh hoạt như thế. Và đó thật sự là một hành động thiên vị công khai và coi thường dư luận. Để thấy rằng làm gì còn chuyện độc lập và vô tư của giới truyền thông Hoa Kỳ, như vẫn lầm tưởng.

Xin mời theo dõi những bài viết và những hình ảnh sau đây…


Bùi Mạnh Hùng
Washington , D.C

Xin Click vào Link dưới đây:

http://thehill.com/blogs/ blog-briefing- room/news/ 58407-loud-912-protest-reaches-the-capitol


Ngày 12 tháng 9, 2009, một cuộc xuống đường quy mô tại thủ đô Washington Hoa Kỳ, trước Tòa Bạch Ốc, con số lên hơn một triệu người theo tin WND.com.

Công dân đóng thuế biểu tình kỳ này nói lên những điều họ không hài lòng đối với chính sách của chính phủ Obama: tiêu xài tiền quá lố, bành trướng hệ thống chính phủ, v.v...





Những người xuống đường thuộc các thành phần, trong đó có nhiều thành viên của TEA party, Tax Enough Already. Họ đến từ các nơi trong nước Mỹ. Rất nhiều biểu ngữ trên tay, một số như:

Our Constitution has termites! (Hiến Pháp của chúng ta có mối!)

We are under attack by our own government (Chúng ta bị tấn công bởi chính phủ của chúng ta)

Stop the march of socialism (Hãy ngưng ngay con đường dẫn tới chủ nghĩa xã hội)

You can put lipstick on communism, but it 's still communism (Bạn có thể thoa son trên chủ nghĩa cộng sản, nhưng nó vẫn là chủ nghĩa cộng sản)

Obamacare makes me sick (Chương trình y tế của Obama làm tôi phát bệnh)


Cả hơn năm nay từ giai đoạn vận động tranh cử cho tới ngày đắc cử, hai phe thuộc Đảng Dân Chủ và Đảng Cộng Hòa vẫn có những tranh luận không ngừng nghỉ về một số chương trình chính phủ đưa ra. Về phần dân chúng thì theo thăm dò dư luận, sự ủng hộ chính phủ Obama ngày càng sụt giảm. Thành phần trung lưu không tán thành kế hoạch y tế, họ cho rằng chương trình này tốn phí và không hiệu quả, nhất là có thể loại "xã hội chủ nghĩa".

Bên cạnh những đề tài hay bàn cãi về y tế, bảo lãnh các công ty vỡ nợ (bailout), chi tiền để kích thích nền kinh tế (stimulus payment), chinh sách quốc phòng ... người ta còn đem ra phân tích vấn đề cá nhân của tổng thống Obama . Phải nhìn nhận chỉ có một số cơ quan truyền thông của Mỹ, trong đó có Fox News, WND.com, Rush Limbaugh thuộc Radio KFI, Mark Levin thuộc Radio ABC ... là chưa ngưng tìm hiểu về con người thật của Obama, nhất là ông có phải được sinh ra tại Kenya .

Một số tài liệu và dữ kiện cho thấy có dấu hiệu khả nghi ông Barack Hussein Obama ra đời tại một nhà thương ở Kenya, và nếu thật thì việc chọn Obama làm tổng thống đã trái với Hiến Pháp của Hoa Kỳ . Một số tổ hợp luật sư và cá nhân đã nộp đơn kiện về vụ này để làm sáng tỏ dư luận nhưng chưa thấy kết quả gì rõ rệt .


Gần đây, nhóm WND.com đã tung ra hai văn thư chứng minh bà Nancy Pelosi (House Speaker) đã ký 2 lần 2 văn bản chính thức tuyên bố hai ông Obama và Biden đại diện Đảng Dân Chủ ra tranh cử .

Văn bản thứ nhất có đề cập tới việc ứng cử viên phải theo đúng tiêu chuẩn Hiến Pháp đề ra, nhưng trong văn bản thứ hai, cùng nội dung, thì phần tuân theo Hiến Pháp đã bị loại bỏ . Việc này làm người ta nghi ngờ rằng bà Pelosi đã biết trước ông Obama không được sinh ra trong nước Mỹ.

Bùi Mạnh Hùng

Ðài Việt Nam Hải Ngoại giao du mật thiết với Tòa Ðại Sứ VC

HỒNG PHÚC
Lê Hồng Long
1150 N. Broadway, Suite 501
Wichita, KS 67214 - USA
Email: ngaynay@ cox.net
Tel: 316-393-7778

Wichita, ngày 17 tháng 9, 2009

Kính thưa quý vị,

Cách đây 3 tháng, ngày 15 tháng 6, 2009, tôi đã chính thức thông báo với Ban Giám Ðốc (BGÐ) của đài phát thanh Việt Nam Hải Ngoại (VNHN) xin từ chức Giám đốc Chương trình và rút tên ra khỏi đài VNHN. Sau ngày đó, Ðài VNHN lợi dụng phương tiện của mình đưa ra những thông tin sai sự thật xuyên tạc về cá nhân tôi, cũng như lý do tôi rời khỏi Ðài VNHN để gây phiền nhiễu cho tôi.

Dầu vậy, vì tương lai của Ðài VNHN, vì không muốn gây xáo trộn cho sinh hoạt cũng như làm suy giảm niềm tin của thính giả dành cho Ðài VNHN đối với công cuộc đấu tranh giải phóng quê hương, nên tôi vẫn giữ thái độ im lặng để chờ đợi một lời giải thích của Ban Giám Ðốc (BGÐ).
Ba tháng trôi qua, BGÐ của Ðài VNHN đã không đưa ra một lời giải thích nào cho thính giả và các cộng tác viên về những việc làm của mình. Ngược lại, còn có những dư luận bôi bẩn cá nhân tôi được tiếp tục loan truyền hầu đánh lạc hướng những việc làm của BGÐ Ðài VNHN.

Do đó, ngày 6 tháng 9, 2009, buộc lòng tôi phải công khai hóa lý do tôi rời khỏi Ðài VNHN qua một lá thư luân lưu trong nội bộ của Ðài VNHN.

Chắc chắn đa số qúy vị chưa được đọc lá thư này. Vì vậy, tôi xin tóm lược những điểm chính nội dung của lá thư để qúy vị tiện theo dõi diễn tiến của sự việc.

Lý do tôi rời khỏi Ðài VNHN là:
    1. VỀ LẬP TRƯỜNG của Ðài VNHN thì Ban Giám Ðốc đã có những hành động phản bội lại niềm tin của người Việt tỵ nạn cộng sản, của thính giả... qua những hành động, như:

    a. Quan hệ mật thiết với Tòa Ðại Sứ Việt Cộng tại Hoa Thịnh Ðốn đến độ mở tiệc tại nhà hàng, mời cán bộ VC cao cấp trong Tòa Ðại Sứ công khai đến dự. Tôi là người đã phát giác ra chúng và đã tranh luận gay gắt với chúng ngay trong bữa tiệc về các đề tài Cải Cách Ruộng Ðất, Nhân Văn Giai Phẩm, Hồ Chí Minh có vợ và viết sách tự ca tụng mình qua cái tên Trần Dân Tiên...

    b. Anh Dương Văn Hiệp, Giám đốc Giao tế của Ðài qua lại Việt Nam (đi riêng 1 mình);

    c. Chị Lưu Lệ Ngọc (vợ anh Dương Văn Hiệp), Giám đốc Tài chánh và Giám đốc Ðiều hành của Ðài qua lại Việt Nam (đi riêng một mình) từ Nam ra Bắc.

    d. Anh Ngô Ngọc Hùng, Tổng giám đốc của Ðài VNHN, qua Ba Lan tiếp xúc với cán bộ đảng viên Cộng Sản.

    2. Sau những chuyến đi trên, anh Ngô Ngọc Hùng tuyên bố Ðài VNHN sẽ có một Văn Phòng Ðại Diện tại Sàigòn.

    3. VỀ NỘI BỘ:

    a. Ban Giám Ðốc từ đó đã bắt đầu cô lập tôi vì lập trường chống Cộng dứt khoát của tôi mà chị Lưu Lệ Ngọc gọi là “cực đoan”.

    b. Về Tài Chánh, chị Lưu Lệ Ngọc là Giám đốc Tài Chánh của Ðài đã thiếu minh bạch trong việc điều hành tài chánh. Trong suốt 12 năm qua, Ðài VNHN chưa bao giờ công bố một báo cáo tài chánh nào của Ðài. Ðài VNHN đã nhân danh “chống Cộng”, kêu gọi đồng bào đóng góp tiền bạc, mời gọi các cộng tác viên làm việc không ăn lương vì lý tưởng chung, mà Ðài không minh bạch trong vấn đề tài chánh là biến Ðài VNHN thành một tổ chức lợi dụng niềm tin của thính giả, buôn bán chính nghĩa.
Tưởng cũng nên nhắc lại, trong quá khứ, đài VNHN đã từng liên can đến một vụ kiện về quyên góp tiền bạc phải ra hầu Tòa.

Kính thưa quý vị,

Sau khi lá thư trên được gửi đi, chúng tôi mong đợi sẽ nhận được những lời giải thích nghiêm túc của BGÐ về những hành động của họ, thì ngược lại, anh Ngô Ngọc Hùng TGÐ, bằng một hành động ấu trĩ, đã tung ra một loạt email vu khống tôi với những điều thô bỉ, mà dụng ý chỉ nhằm tung hỏa mù hầu lẩn tránh trả lời trực tiếp những vấn đề mà tôi đã nêu ra.
Thế nhưng, không có sự thật nào có thể che dấu được dưới ánh mặt trời. Cuối cùng thì những điều tôi nêu ra trong thư rời khỏi Ðài VNHN đã lần lượt được BGÐ, bằng cách này hay cách khác, gián tiếp xác nhận đó là những sự thật.

Cách đây 4 ngày, ngày 13 tháng 9 vừa qua, trong một email, rồi trong lời trần tình của anh Ngô Ngọc Hùng trên làn sóng điện Ðài VNHN “Tại sao chúng tôi tiếp xúc với đảng viên Cộng Sản”, anh Hùng cho biết anh đã cùng với bác sĩ Nguyễn Ý Ðức “sang Ba Lan để gặp một số anh chị em đảng viên Cộng Sản”. Anh Hùng còn kể rõ: “BS Nguyễn Ý Ðức, người đã quá thân mật với các đảng viên CS ...”

Mặt khác, anh chị Dương Văn Hiệp & Lưu Lệ Ngọc, cách nay 3 ngày, trong buổi họp tại Ðài VNHN ngày 14 tháng 9, 2009, đã nhìn nhận trong tiệc sinh nhật của chị Lưu Lệ Ngọc tổ chức tại nhà h ng Ðại Hàn Heebeen ở Virginia có mặt 2 tên cán bộ VC của Tòa Ðại Sứ đến dự. Và sau đó anh chị đã mang cả passport ra để công khai xác nhận là đã có qua lại Việt Nam.

Nói tóm lại, những điều tôi nêu ra, nay đã được các đương sự nhìn nhận là sự thật. Minh bạch, chứng cớ rõ ràng, không còn gì phải nghi ngờ nữa.

Ngoại trừ về vấn đề tài chánh, trong buổi họp trên, đã không có một ai nêu ra hay nhắc lại, và cho đến giờ này vẫn không có một câu trả lời nào cả. Tại sao ???

Tưởng cũng cần nên biết, hầu hết những cộng tác viên của đài VNHN ở khắp nơi, nghe theo lời kêu gọi của Ðài, vì lý tưởng chung, đấu tranh cho tự do dân chủ của đất nước, nên đều làm việc tình nguyện, không lãnh thù lao. Mỗi năm về dự sinh nhật của Ðài có người còn phải tự bỏ tiền túi ra mua vé máy bay.

Kính thưa quý vị,

Tôi trân quý tấm căn cước tỵ nạn Cộng sản của mình. Tôi không bao giờ quên cái lý do vì sao ngày nay tôi có mặt ở đất nước này, nên tôi không thể chấp nhận ăn chung một mâm, ngồi chung một bàn, hòa hợp với bọn cộng sản - kẻ thù của dân tộc tôi -.

Ban Giám Ðốc Ðài VNHN có 4 người, thì 3 người đã giao du với VC, còn lại một mình tôi sẽ làm được gì? Tôi không còn chọn lựa nào khác là phải rút lui để bầy tỏ lập trường của mình. Và tôi đã làm. Ðối với cá nhân tôi, như thế là xong. Tôi đã bày tỏ lập trường một cách minh bạch và dứt khoát.

Nhưng tôi vẫn trân qúy công lao của những anh chị em đi tiên phong khai phá lập nên Ðài VNHN, trong đó không thể phủ nhận công lao của anh Ngô Ngọc Hùng. Trong thâm tâm tôi lúc nào cũng tha thiết mong mỏi đài VNHN phải trường tồn và giữ vững lập trường chống Cộng. Tôi tin tưởng ở những người còn lại, những bạn bè của tôi, những Huỳnh Quốc Bình, Ðoàn Trọng Hiếu, Nguyễn Ðình Toàn, Nguyễn Văn Khanh, Ðinh Quang Trung, Thái Văn Hoàng, Vương Kỳ Sơn, Kiều Mỹ Duyên, Ngô Thị Hiền, Nguyễn Ðăng Tuấn, Lê Anh Tuấn ... sẽ không để cho bọn đón gió trở cờ bán đứng Tiếng Nói của Người Việt Quốc Gia. Vì thế tôi đã âm thầm, lặng lẽ ra đi, không làm ồn ào vì sợ rằng “ném chuột sẽ vỡ lọ quý”.

Bây giờ, vấn đề còn lại là của thính giả, của cộng đồng, và của các hội đoàn, đoàn thể, của các cơ quan truyền thông báo chí, của các cộng tác viên Ðài VNHN, của những ai vẫn một lòng son sắt với chính nghĩa quốc gia, vẫn dương cao ngọn cờ “chống Cộng”, xin hãy bày tỏ thái độ của mình đối với lập trường chính trị và đường hướng của Ðài VNHN.

Ðặc biệt, đối với các cộng tác viên của đài VNHN, những người đã vì lý tưởng tự do, tình nguyện làm việc không lãnh thù lao, hoặc chỉ nhận thù lao tượng trưng, trên dưới 12 năm qua, đã cùng tôi hằng ngày, hằng đêm lên làn sóng điện của Ðài VNHN hô hào chống Cộng, vận động đồng bào đóng góp tiền bạc để cho chúng ta chống Cộng. Các bạn nghĩ gì, và sẽ trả lời ra sao với thính giả về hành động của BGÐ Ðài VNHN hiện nay?

Tôi mong mỏi được nghe tiếng nói dõng dạc, được đọc những dòng cao kiến của các bạn trên giấy trắng mực đen về lập trường của các bạn.

Trân trọng,
HỒNG PHÚC Lê Hồng Long
1150 N. BROADWAY, SUITE 501, WICHITA, KS 67214 - USA
Email: ngaynay@..., TEL: 316-393-7778*

oo0oo

Trích trong Dien Dan ThaoLuan9

From: hung ngo
To: Bill
Sent: Sat, Sep 12, 2009 6:25 am
Subject: Tai sao chung toi tiep xuc voi dang Vien Cong San

Thưa quý ACE,

Hôm nay chúng tôi xin viết email nầy với mục đích phơi bầy một việc làm của cá nhân chúng tôi từ nhiều năm trước đây. Việc làm nầy có thể bị chụp mũ ngay lúc đó nhưng bây giờ chúng tôi đã có một số anh chị em tin tưởng nên nếu có bị "đánh" thì sẽ có người đỡ.

Cách đây 6 năm chúng tôi cùng với BS Nguyễn Ý Đức và một thân hữu tại Tây Đức đã thân chinh vào miệng cọp đó là Warsaw, Poland để gặp một số anh chị em đảng viên đảng CS. Cha tôi có nói câu nầy: biết địch biết ta trăm trận trăm thắng, với tôi thắng được vài trận thì cũng khá rồi.

Trong chuyến thăm viếng nầy ngoài những cuộc nói chuyện với nhiều đảng viên đã phản tỉnh cũng có những người vẫn còn active, có những tiến sĩ, kỹ sư cũng có những thương gia, văn nghệ sĩ ... chúng tôi còn ăn nhậu, du hí (hí quá trời mà nhiều anh em bên đó gọi là trả thù dân tộc) thăm thắng cảnh, văn nghệ bỏ túi ...

Trong những cuộc tiếp xúc chúng tôi có nhận định như sau:
    - Có những đảng viên CS là người yêu nước, họ lo lắng cho đất nước và dân tộc
    - Có người đã bỏ đảng và hoạt đông công khai như anh Lê Diễn Đức
    - Có những người đang hoạt động ngầm vì còn có gia đình tại VN
    - Có những người chưa hoạt động nhưng đang có những dự định k hi thời gian tốt hơn
Sau những cuộc gặp gỡ tại đây chúng tôi đã dự định một số công tác đấu tranh nhưng sau đó phải gát lại vì tài chánh. Như quý anh chị đều biết, sau khi chúng ta phát thanh qua Âu Châu vài tháng sau khi đi Balan thì tôi đã thực hiện satellite TV. Vì không định sức mình nên chương trình TV đã thất bại nặng nề về tài chánh. Hiện tại vụ kiện ra toà về thiếu tiền mướn làn sóng vẩn tiếp diễn và tôi đã chọn con đường bankcrupcy vì không muốm ảnh hưởng đến bất cứ ai.
Sau khi Lệ Ngọc lãnh trách nhiệm tài chánh và đến hôm nay chúng tôi đã trả lại một số nợ mà chúng tôi đã mượn khi làm TV cũng như radio trước đây như tiền của chị Ngô thị Hiền, chị Huệ (chị của Trần Thiện) Vĩnh bạn của Hùng .... Tuy hiện tại cá nhân chúng tôi còn nợ một số người như Yến (em gái của tôi) Hồng (em gái của Mai quả phụ của anh Nguyễn Trần Phúc) ... Vấn đề tài chánh tạm ổn vì TV chỉ còn những món nợ mà tôi chịu trách nhiêm mà thôi.

Trong những chương trình thư tín chúng tôi thường tuyên bố là nếu có tiền VNHN sẽ có những công tác đấu tranh mới, đặc biệt là trong giờ thư tín 2 chủ nhật tuần trước chúng tôi có công bố là nếu được 1200 ân nhân ủng hộ chúng ta sẽ có một công tác rất đặc biệt.

Hôm nay tôi xin thông báo với quý anh chị công tác mới của chúng ta sau khi có sự đồng ý cũa ban quản trị, công tác nầy cũng lấy ra những hiểu biết qua chuyến thăm viếng thân mật với nhiều đảng viên đảng Cộng Sản tại Ba Lan cũng như tại DC:

- Giải thưởng sáng tác nhạc phẩm đấu tranh cho Việt Nam
- Lệ Ngọc đang liên lạc với một số nhân sĩ để thực hiên phần điều lệ, nội dung và thông báo.

Mong quý anh chị thông hiểu về vấn đề nầy giúp cho Lệ Ngọc thực hiện công tác.

Chúng tôi sẽ công bố công tác nầy trong giờ sổ số chiều hôm nay thứ bẩy 12 tháng 9/2009

Về những chi tiết tại sao chúng tôi có ý định nầy khi thăm Ba Lan chúng tôi xin nhờ BS Nguyễn Ý Đức, người đã quá thân mật với các đảng viên CS khi thăm Ba Lan.

Thân mến

NNH

Đài Phát Thanh và Truyền Hình Việt Nam Hải Ngoại xin kính chào quý vị!

Chương trình phát thanh và truyền hình của chúng tôi, với nhiều trụ sở và cộng tác viên trải khắp Mỹ Châu và Âu Châu, mong được đáp ứng nhu cầu thông tin, văn hóa và giải trí của độc giả.
    Ban Quản Trị Đài Phát Thanh Hải Ngoại
Tổng Giám Đốc

Tổng giám đốc:
Ngô Ngọc Hùng
Chàng thanh niên từ cao nguyên Lâm Viên Đà Lạt đến định cự tại Hoa Kỳ năm 1979 nhưng không chịu làm công việc của một người kỷ sư trẻ đầy triển vọng sau khi tốt nghiệp Catholic University of America năm 1984 mà lại đi vào lãnh vực truyền thông. Ngô Ngọc Hùng là một trong những người đi tiên phuông trong việc thực hiện chương trình truyền hình đầu tiên của vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn.

Với bản tính nói ít làm nhiều, Ngô Ngọc Hùng đã đi một bước khá dài trong việc xây dựng và nuôi dưởng Đài Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại. Tinh thần và đường lối hoạt động của NNH đã được đa số anh chị em trẻ cùng quan niệm tán thưởng, hổ trợ.

Anh hiện là linh hồn của Hệ Thống Truyền Thông Việt Nam Hải Ngoại.

Ngô Ngọc Hùng chịu trách nhiệm phần kỹ thuật cho đài và phụ trách các tiết mục khác như:

- Trả lời thư tín hàng tuấn

- Chương trình nấu ăn các món đặc biệt

Giám Đốc Điều Hành

Giám đốc điều hành:
Lưu Lệ Ngọc
Lưu Lệ Ngọc tốt nghiệp ngành Quản Trị Thương Mại và Cao học về Điều hợp Thị trường.

Sau 22 năm làm việc cho công ty AT&T trong nhiều vai trò lãnh đạo như Sales Executive Manager, Telecommunication Program Manager v.v... Lưu Lệ Ngọc đã quyết định rời bỏ công việc toàn thời gian để đảm nhận chức vụ Giám Đốc Điều Hành Hệ Thống Truyền Thông VNHN không ngoài mục đích thực hiện hoài bảo phục vụ cộng đồng dưới vai trò của một người Việt quốc gia hải ngoại trong công cuộc chiến đấu đòi hỏi tự do, dân chủ và nhân quyền cho hơn 80 triệu người dân Việt đang sống dưới ách thống trị cay nghiệt của tập đoàn cộng sản Việt Nam.

Lưu Lệ Ngọc đang phụ trách các chương trình:

- Chào Một Ngày Mới và Bản Tin Buổi Chiều

- Hoa Kỳ Trong 7 Ngày Qua (Cùng Nhà báo Nguyễn Văn Khanh)

- Đường Vào Tòa Bạch Ốc (Cùng Nhà báo Nguyễn Văn Khanh)

Giám Đốc Giao Tế

Giám đốc giao tế:
Dương Văn Hiệp
Dương Văn Hiệp đồng chủ nhân và cũng là Phó Tổng Giám Đốc công ty sắt thép & kiến trúc kỷ nghệ nặng tại thành phố Sterling tiểu bang Virginia.

Dương Văn Hiệp không có nhiều kinh nghiệm trong lãnh vực truyền thông nhưng đến với Hệ Thống Truyền Thông VNHN bằng cả một tấm lòng nhằm hổ trợ công việc làm đầy ý nghĩa của những người bạn trẻ và nhất là để hổ trợ người bạn đời của mình.

Ngoài công việc Giao tế & Nhân sự, Dương Văn Hiệp phối hợp cùng nhà báo Nguyễn Văn Khanh thực hiện chương trình Hội Luận Hàng Tuần.


Wednesday, September 16, 2009

Tang Lễ cố Đại Tá Hoàng Đạo Thế Kiệt


Trần Sơn

Trong khung cảnh lặng yên của vùng đồi núi Corona Del Mar, sát bờ biển Thái Bình dương, thuộc miền Tây Nam tiểu bang California, đông đảo thân bằng, chiến hữu khắp nơi đã về tham dự tang lễ của cố Đại Tá Hoàng Đạo Thế Kiệt, nguyên Cục Trưởng Cục Chính Huấn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong hai ngày 13 và 14 tháng 9 năm 2009 tại nghĩa trang Pacific View Memorial Park.

Tang lễ được các tổ chức, hội đoàn thân hữu như Khối Lập Trường Chung ( lằn Ranh Quốc Cộng), Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam Cộng Hòa Nam California, Đại Gia Đình Cục Chính Huấn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 1 Nam Định, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng phối hợp tổ chức:

Phần Phát Tang và Cầu Nguyện do các Ni, Sư Cô Chùa Xá Lợi, Chùa Phật Quang phụ trách.

Cựu Đại Tá Nguyễn Văn Thuần, điều hợp toán phủ Quốc Kỳ tuyên đọc các Sắc Lệnh của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa do các vị Nguyên Thủ Quốc Gia ấn ký và ban hành, trong đó có điều khoảng quy định: “ những quân nhân được Tưởng Thưởng BẢO QUỐC HUÂN CHƯƠNG, sau khi từ trần sẽ được Tổ Quốc Tri Ân và được Vinh Dự Làm Lễ Phủ Quốc Kỳ trong ngày an táng.”

Cố Đại Tá Hoàng Đạo Thế Kiệt đã được ban thưởng ĐỆ NGŨ ĐẲNG BẢO QUỐC HUÂN CHƯƠNG, xứng đáng nhận được những vinh dự đó.

Ông cũng nói lên những quá trình hoạt động hăng say, không mệt mõi của Cố Đại Tá Hoàng Đạo Thế Kiệt tại hải ngoại qua các thời kỳ:

- Chủ Tịch Hội Cựu Quân Nhân Nam California đầu tiên vào thập niên 80, nay đổi danh xưng thành là Liên Hội Chiến Sĩ VNCH Nam California.

- Vận động thành lập Hội Đồng Tướng Lãnh ở hải ngoại.

- Một trong những Sáng Lập Viên của Khối Lập Trường Chung (giữ vững Lằn Ranh Quốc Cộng).

- Thành Viên Ban Thường Vụ của Ủy Ban Đấu Tranh Cho Tự Do, Dân Chủ Tại Việt Nam.

Sau đó là nghi l ễ Phủ Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa được tiến hành thật trang nghiêm và long trọng, Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ đã được các Cựu Chiến Binh phủ kín quan tài theo đúng lễ nghi quân cách, và ước nguyện của người quá cố.

Niệm hương và nhìn mặt Cố Đại Tá Hoàng Đạo Thế Kiệt lần cuối cùng là những giây phút cảm động, khó quên cho thân bằng quyến thuộc và các chiến hữu một thời đã từng sinh hoạt và chiến đấu bên nhau.

Trần Sơn
Ghi lại từ Pacific View Memorial Park
















Tuesday, September 15, 2009

Xin đừng ... điện cho tôi nhé! - Nguyễn Khắp Nơi

Nguyễn Khắp Nơi

Hôm đi dự buổi lễ 49 năm Biệt Động Quân ở Sydney vào tháng 7 vừa qua, tôi có gặp lại một người bạn cũ. Hàn huyên ba điều bẩy chuyện xong rồi, hai anh em chào nhau hẹn ngày tái ngộ. Anh bạn tươi cười nói lời từ giã:

- “Về tới nhà, tôi sẽ ... điện cho anh liền đó!”

Tôi giật mình, hỏi lại người bạn:

“Anh nói sao? Anh ... ĐIỆN ... cho tôi?

Đừng! Đừng làm vậy, điện giựt tôi chết thì sao?

Tôi còn nhiều chuyện phải làm ... Tôi chưa muốn chết đâu!”

Anh bạn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, nhìn tôi kỹ hơn một chút, rồi cười, có vẻ chê tôi nhà quê, không biết dùng danh từ mới. Cười xong, anh mới vui vẻ móc túi lấy ra cái điện thoại , lắc qua lắc lại vài cái rồi trả lời tôi:

- Không phải tôi cho điện giựt anh đâu! Tôi chỉ dùng cái điện thoại cầm tay này để .... ĐIỆN cho anh mà thôi. Ý tôi muốn nói, tôi . . . GỌI ĐIỆN THOẠI cho anh đó mà, anh hiểu không?

(Ghi chú: điên thoại này được chế ra để chỉ cầm bằng tay thôi, không được cầm bằng ... chân đâu đó)

Tôi nghe anh giải thích, thì mừng quá, nói liền lập tức:

“Trời đất ơi! Vậy mà tôi cứ tưởng tôi nói câu nào lỡ lời, làm anh giận tôi, nên mới .... cho Điện dựt tôi vài cái cho bõ ghét chớ! Anh gọi điện thoại cho tôi, thì cứ việc nói “Gọi điện thoại” cho rồi, nói chi “Điện” nghe ghê quá, làm cho tôi chẳng hiểu gì cả!”

Anh bạn ngại ngùng cho cái quê mùa của tôi, trả lời:

“Bây giờ ai cũng nói như vậy hết trơn hà! Bộ anh ... ít có gặp ai? Ít có nói chuyện với ai lắm hả?”

Bạn bè lâu ngày mới gặp lại, tranh luận nhiềulàm chi cho mất lòng! Tôi liền gài số de:

“Vậy ... anh về mạnh giỏi nha, nhớ gọi điện thoại cho tôi liền nha!”

Anh bạn đã leo lên xe lái đi rồi, mà tôi vẫn còn đứng yên một chỗ, bâng khuâng suy nghĩ:

Có thật là cái TIẾNG VIỆT của tôi đã quá cổ xưa rồi, không còn ai nói nữa, hay chăng?

Có thật là, cái TIẾNG VIỆT mà tôi đang nói, không phải là tiếng Việt mà mọi người chung quanh tôi đang nói?

Nói gì thì nói, điều mình nói ra phải ... có lý một chút, thì người nghe mới biết mình là ai? Mới hiểu mình muốn nói cái gì?

Điện, có nghĩa là dòng điện, do máy phát điện tạo ra. dùng để tạo ra năng lượng khác, dùng để chạy máy, để thắp sáng những ngọn đèn điện.

Muốn đặt tên những loại máy móc dùng điện để hoạt động, chúng ta được dùng chữ “Điện”ghép chung với tên của dụng cụ đó. Ví dụ: Đèn điện, Quạt điện, Máy điện toán ...

Cũng theo cách gọi tên nói trên, cái máy dùng để nói chuyện với người khác qua dòng điện, được gọi là “Điện Thoại”.

Khi sử dụng những loại máy chạy bằng điện này, chúng ta phải thêm một động từ ở đằng trước. Thí dụ: MỞ Máy lạnh, MỞ Đèn, MỞ Quạt điện, GỌI Điện thoại ...

Cũng tùy theo cách thức sử dụng, mà chúng ta có “Điện Nhà” là loại điện nhe, dùng để chạy máy móc nhỏ trong nhà. “Điện Kỹ Nghệ” là dòng điện mạnh, dùng để chạy các loại máy móc lớn trong các nhà máy sản xuất.

Do đó, “Điện” chỉ là một “Danh Từ Phụ” mà thôi. Nếu chúng ta nói độc nhất một chữ “Điện” không thôi, sẽ không đủ nghĩa. Người nghe sẽ không hiểu, phải đặt câu hỏi “Điện gì? (Điện nhà? Điện kỹ nghệ?) hoặc Điện dùng làm gỉ? (Máy phát điện? Đèn Điện? . . .)

Người bạn của tôi, khi dùng một chữ “Điện” không thôi, anh đã làm một công hai việc:

Biến chữ “Điện” trở thành “Điện Thoại” và cho nó thêm một công việc làm, là GỌI ĐIỆN THOẠI.

Thay vì nói “GỌI ĐIỆN THOẠI” anh chỉ nói “ĐIỆN” mà thôi, để người nghe tự hiểu là anh muốn nói cái gì.

Nếu dịch câu nói của anh bạn tôi ra tiếng anh, câu nói đó sẽ như sau:

“Whenever I got home, I will . . . ELECTRIC you straigh away”

Và nếu chúng ta đồng ý theo cách gọi của anh, vậy thì khi cái biên lai tiền điện thoại (Telephone bill) gởi tới cho anh, anh ta sẽ gọi cái biên lai này là gì?

BIÊN LAI . . . TIỀN ĐIỆN hay chăng?

Và khi cái biên lai tiền ĐIỆN TIÊU THỤ (Electricity bill) gởi tới cho anh, anh sẽ gọi nó là gỉ? cũng gọi là BIÊN LAI . . . TIỀN ĐIỆN hay sao?

Anh có thể nào cầm cái biên lai tiền điện thoại ra qưầy trả tiền mà nói với nhân viên phụ trách:

“Cho tôi trả cái biên lai tiền . . . Điện”?.

Rồi sau đó lại đưa cái biên lai tiền Điện ra mà nói:

“Cho tôi trả cái biên lại tiền . . . Điện”?

Nếu anh ta làm như vậy, chắc chắn nhân viên phụ trách việc trả tiền sẽ nói với anh ta:

Cái biên lai này là “BIÊN LAI TIỀN ĐIỆN THOẠI”, còn cái biên lai kia là “BIÊN LAI TRẢ TIỀN ĐIỆN”.

DO ĐÓ, DÙNG CHỮ “ĐIỆN” ĐỂ THAY THẾ CHO CHỮ “GỌI ĐIỆN THOẠI” LÀ KHÔNG ĐÚNG!

Thực sự thì đây không phải là lần đầu tiên tôi được nghe chữ “ĐIỆN” thay thế cho câu ‘GỌI ĐIỆN THOẠI”! Tôi đã được nghe cái câu này từ hồi 1975 lận!

Lúc đó, vào khoảng cuối tháng 5 năm 1975, bọn “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”, với danh xưng là “Ủy Ban Quân Quản” đã tổ chức một lớp học, đặt tên là “Học Tập Cải Tạo” tại “Hội Việt Mỹ” cũ. Tôi và một số bạn bè đã bị mời tham dự lớp học này. Thuyết trình viên là tên Trịnh Đình Ban, lúc đó đang được trao cho chức vụ Hội trưởng hội “Trí Thức Yêu Nước”. Sau khi học xong, tất cả chia ra từng “Tổ” nhỏ để . . . tìm hiểu thêm. Tên Ban được gài vào tổ của chúng tôi, vì thế tổ này được đưa vào văn phòng của hắn để họp tổ. Đang khi họp, thì có chuông điện thoại reo vang, Ban nhấc máy điện thoại lên nghe người nào đó gọi cho y. Nghe xong, y nói vào trong máy với một giọng kẻ cả:

“Thôi, cứ . . . nhất trí như vậy đi! Tôi đang bận . . . lên lớp. Để khi nào xong, tôi sẽ . . . ĐIỆN cho đồng chí.”

Một cô bạn tôi, ngồi gần y, thắc mắc liền:

“Anh Ban nói “Điện” có nghĩa là gỉ? tôi không hiểu!

Tên Ban hân hoan giải thích:

“Điện là danh từ riêng của người “Cộng Sản” chúng tôi, thay cho chữ “Gọi điện thọai” của bọn “Ngụy”.

Tôi đã ngứa miệng, nói thêm vào :

“Tại sao không nói “Gọi điện thoại” cho dễ hiểu?”

Tên Ban đã quay lại nhìn tôi, lên giọng:

“Chúng tôi là người Cộng Sản, chúng tôi dùng danh từ của chúng tôi. Chữ này không đúng với các anh, nhưng đúng với chúng tôi. Các anh không hiểu ngôn từ của chúng tôi bây giờ, nhưng sau này rổi cũng phải hiểu, cũng phải dùng thôi!”

Nói xong, hắn không họp với chúng tôi nữa, mà đứng dậy bỏ đi, nói rằng bận họp với các “Đồng chí lãnh đạo”. Khi lấy hồ sơ từ trong ngăn kéo bàn viết, không biết do vô tình hay cố ý, hắn đã làm rơi khẩu súng “Colt 45” xuống dưới sàn. Ban không nhặt khẩu súng lên ngay, mà cứ để đó một lúc rồi sau đó mới từ từ nhặt nên bỏ vào trong cặp, bước ra khỏi phòng họp.

Trong trường hợp tôi kể ra ở trên, tên Ban đã có lý của hắn: Hắn là Việt Cộng, hắn dùng tiếng của Việt Cộng.

Còn những người như chúng ta, không phải là Việt Cộng, vậy chúng ta có nên dùng những từ ngữ của Việt Cộng hay chăng?

Từ xưa, người Việt của chúng ta chia ra làm ba sắc dân chính: Dân Miền Bắc,dân Miền Trung và dân Miền Nam. Tuy dân cả ba miền cùng nói một thứ tiếng VIỆT, nhưng cách phát âm lại hoàn toàn khác nhau, và trong nhiều trường hợp, chúng ta dùng chữ cũng khác nhau nữa.

Nhưng, kể từ 1975, Tiếng Việt của chúng ta, ngoài sự khác biệt vì lý do địa lý, phong tục, tập quán, lại còn có sự khác nhau vì lý do chính trị nữa:

Tiếng Việt của Việt Nam Cộng Hòa, và Tiếng Việt của Cộng Sản.

Ngày xưa, ông bà chúng ta thường nói:

“Chửi cha không bằng pha tiếng!”

Vậy, chúng ta có nên . . . pha tiếng hay không?

Trong cuộc sống giao dịch hàng ngày, không phải chúng ta chỉ nghe có một chữ “Điện” không mà thôi, chúng ta chắc chắn còn được nghe rất nhiều danh từ lại tai, không đúng nghĩa khác nữa:

Hẳn bạn có nghe ai đó nói:

· “BỨC XÚC quá!”

BỨC XÚC là cái gì? Tôi dám chắc với các bạn, những người đang dùng chữ “Bức xúc” cũng không hiểu ý nghĩa của chữ này, và lại càng không biết viết “BỨC XÚC” hay là “BỨC SÚC” nữa đó! Trong tự điển tiếng Việt của Nguyễn Văn Khôn, chăc chắn không có chữ này. Tại sao không dùng chữ KHÓ CHỊU, hoặc BỰC MÌNH?

· VẤN NẠN là cái gì? Tại sao không dùng TỆ NẠN, mà lại phải đi nhập cảng cái chữ mà mình không hiểu, không biết?

· CÓ VẤN ĐỀ! VẤN ĐỀ GỈ MỚI ĐƯỢC CHỨ? Chỉ nói khơi khơi . . . Có vấn đề, ai mà hiểu bạn có vấn đề gỉ? Ăn không được? Ngủ không yên?

· ĐĂNG KÝ! Bạn còn nhớ, cái chữ đăng ký này dùng lúc nào không? Lúc bọn Việt Cộng lùa bạn đi “Đăng ký học tập cải tạo” đó! Bạn phải thù ghét cái chữ đó chứ! Sao lại dùng nó nhiều quá vậy? Tại sao bạn không dùng chữ “GHI DANH” hoặc “GHI TÊN” có phải là hay và đẹp biết bao nhiêu không?

· Tại sao bạn phải nói “CĂN HỘ”, thay vì một danh từ đẹp đẽ “CĂN NHÀ” hoặc “CÁI NHÀ”?

Hồi nhỏ, bạn chơi đùa với chúng bạn, có bao giờ bạn hát bài hát:

“Cái nhà là nhà của ta,
Ông Cố Ông Cha lập ra ,
Chúng ta hãy gìn giữ lấy,
MUÔN NĂM VỚI NƯỚC VỚI NHÀ”

Nếu một tên Cộng Sản, nói những chữ ngô nghê như vậy, bạn và tôi sẽ không thắc mắc gì hết, vì nó là thằng Cộng Sản, nó nói tiếng của chúng nó.

Nếu một du học sinh qua Úc du học, nói những tiếng như trên, bạn vả tôi cũng sẽ không thắc mắc, vì các cháu đã được học như vậy từ nhỏ rồi.

Nhưng còn bạn,

Rõ ràng bạn là Người Lính Việt Nam Cộng Hòa!

Rõ ràng bạn là Người Việt đã bỏ xứ ra đi vì không chịu được chế độ hà khắc, không tôn trọng nhân quyền của bọn Việt Cộng.

Bạn đã chiến đấu chống lại bọn Cộng sản, bạn đã chối bỏ chế độ Cộng sản, bạn đã hy sinh mạng sống để ra đi Tìm Tự Do,

Tại sao bạn lại quay trở lại, dùng những chữ, những câu của bọn Cộng Sản vậy?

Khi dùng những danh từ của Cộng sản, chúng ta đã:

TỰ NÔ LỆ VĂN HÓA VỚI VIỆT CỘNG.

TỰ GIẾT CHẾT NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM CỘNG HÒA.

MAI ĐÂY, THẾ HỆ SAU CÓ CÒN AI BIẾT TÓI VIỆT NAM CỘNG HÒA NỮA HAY KHÔNG?

A. TẠI SAO CÓ NHỮNG NGƯỜI DÙNG NHỮNG DANH TỪ CỘNG SẢN?

A1. BỊ NHIỄM, VÌ “HỌC TẬP CẢI TẠO” QUÁ LÂU,

Đã có rất nhiều anh em chúng ta, bị bọn Việt Cộng giam cầm quá lâu, hàng ngày phải dủng những ngôn ngữ của bọn Việt Cộng, đâm ra quen đi. Đến khi được trở lại với gia đình, với xã hội Tự Do, họ chưa đổi trở lại với ngôn ngữ của Việt Nam Cộng Hòa ngay được. Điều này cũng đúng! Nhưng, đã hơn chục năm rồi, không lẽ chưa đủ thời gian để anh em chúng ta bỏ những cái gì của Việt Cộng đi hay sao? Một khi đã thoát ra khỏi ngục tù cộng sản rồi, đâu còn có ai bắt buộc nữa đâu mà anh em còn phải dùng những chữ nghĩa không có văn hóa ấy! Đã có rất nhiều chiến hữu khác, dù ở trong hoàn cảnh tù đầy, cũng vẫn giữ vững văn hóa của mình, cho đến bây giờ cũng không hề tiêm nhiễm một chữ nào của bọn Việt Cộng cả. Đáng khâm phục thay!

A2. ĐI VỀ VIỆT NAM LÀM ĂN, PHẢI CHỊU NGẢ THEO VĂN HÓA CỘNG SẢN

Có một số người, vì nhu cầu sinh sống, đã trở lại Việt Nam để mua bán làm ăn. Vì phải tiếp xúc với bọn Việt cộng hàng ngày, những người này đã bị tiêm nhiễm văn hóa cộng sản, thở ra rặt những “Hồ Hởi Phấn khởi, Ổn Định, Khẩn trương . . . Chính người dân Việt ở trong nước đều gọi Sài Gòn là thành phố thân yêu của họ, thì bọn con buôn xấu xa này đã luôn luôn dùng “Thành Phố Hồ Chí Minh” mỗi khi phải nhắc tới thành phố Sài Gòn. Cũng có một số những con buôn, bị bọn Việt cộng dùng tiền mua chuộc, bắt phải tổ chức những buổi văn nghệ, đem đám ca sĩ Việt cộng qua Úc, qua Mỹ trình diễn cái gọi là văn hóa cộng sản. Khi làm việc với bọn Việt Cộng, đương nhiên họ cũng phải nói theo chúng vậy.

Cũng có những tờ báo, không dính dáng làm ăn gì với Việt Cộng hết, mỗi khi viết bài quan điểm thì viết chống cộng rất mạnh, nhưng khi mở tờ báo ra đọc, chúng ta mới hỡi ôi, vì bài vở đa số là lấy từ những bài báo do bọn bồi bút Việt cộng viết sẵn bỏ lên Internet, làm cho tờ báo giống y như những tờ báo do bọn Việt Cộng cho phép xuất bản.

Cũng có một số người, đi biểu tình chống “Văn Hóa Vận” rất là hăng say, nhưng ở nhà lại gắn đĩa ăng ten để bắt đài Việt Cộng từ Việt Nam, cho con cháu học và xem những chương trình truyền hỉnh của Việt cộng.

A3. CỐ TÌNH DÙNG VĂN HÓA VIỆT CỘNG, VÌ COI CHÚNG LÀ KẺ MẠNH.

Một số người khác, đã cố tình dùng những chữ, những câu nói của Việt cộng, vì cho rằng đó là ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của kẻ mạnh.

Họ đã cho rằng, Tiếng Việt của Việt Nam Cộng Hòa chỉ còn được dùng bởi những người Lính cũ, những người Việt thuộc Thế Hệ Thứ Nhất vượt biên tìm tự do. Những người này, từ từ sẽ đi vào dĩ vãng hết, tiếng Việt của họ, do đó mà cũng tàn lụi theo. Vậy thì dùng ngôn ngữ của họ làm gì nữa! Thói đời phù thịnh chứ chẳng ai phù xuy! Đó là lý do giải thích tại sao họ dùng văn hóa của Cộng sản.

Họ là những người không phân biệt được đâu là chữ nghĩa văn hóa, chỉ thấy người ta nói thì bắt chước nói theo, chứ họ không biết gì về Cộng Sản cả.

B. TẠI SAO CHÚNG TA KHÔNG NÊN DÙNG NHỮNG TỪ NGỮ CỦA VIỆT CỘNG?

B1. VÌ CHÚNG TA LÀ NGƯỜI QUỐC GIA, CHÚNG TA DÙNG TỪ NGỮ CỦA CHÚNG TA.

Đúng! Đúng lắm! Chúng ta là người Quốc Gia, chúng ta dùng ngôn ngữ riêng của chúng ta để chứng tỏ điều đó.

Ra ngoài đường, nếu bạn nghe ai đó hỏi:

“Đi đâu mà nhanh thế?”

Thì chắc chắn, bạn sẽ nghĩ rằng, người này là người Miền Bắc.

Nếu người đó nói:

“Đi mô mà mau rứa?”

Bạn sẽ cho rằng, người đó là người Miền Trung.

Nếu người đó hỏi:

“Đi đâu mà lẹ quá dzậy?”

Bạn sẽ cho rằng, người đó là người Miền Nam.

Tiếp theo, nếu người đó hỏi bạn:

“Đi đâu mà . . . khẩn trương thế?”

Bạn nghĩ sao? Người này thuộc thành phần nào?

Có phải rằng, bạn nghĩ, người này, nếu không là “Cán Ngố”, cũng là dân Bắc Kỳ 75?

Bạn không thể nào cho rằng, người đặt câu hỏi này là người của Việt Nam Cộng Hòa được! Vì lời nói của anh ta đã chứng tỏ anh ta là ai rổi mà! (Ngôn ngữ của chúng ta, có dùng chữ khẩn trương, nhưng dùng trong một trường hợp nào đó, chứ không dùng trong bất cứ trường hợp nào. Ví dụ: Vì tình trạng khẩn trương của đất nước, chính phủ phải ra lệnh giới nghiêm.)

Chúng ta đã chối bỏ chủ nghĩa Cộng Sản, đã hy sinh mạng sống của mình để vượt biên tìm tự do, chúng ta phải hãnh diện về hành động này, phải luôn luôn tự hào chúng ta là con dân của một chế độ CỘNG HÒA, TỰ DO, DÂN CHỦ, chúng ta có văn hóa riêng và phải có nhiệm vụ gìn giữ nền văn hóa này.

Từ khi bọn Việt Cộng cưỡng chiếm được Miền Nam, chúng đã ra sức tiêu hủy tất cả những gì gọi là Văn Hóa Của Miền Nam Việt Nam, mà chúng đặt cho cái tên là “Tàn Dư Của Mỹ Ngụy” Chúng đã cấm dùng sách giáo khoa, đốt hết tất cả các sách báo, phim ảnh, tài liệu trong văn khố, và đặt ra những từ ngữ riêng của chúng để bắt chúng ta phải nghe, phải dùng.

Chúng ta phải có nhiệm vụ giữ gìn lại tất cả những gì còn lại, để chứng tỏ rằng, bọn Việt Cộng không thể tiêu diệt được nền Văn Hóa của chúng ta.

B2. NGÔN NGỮ CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA CÓ ĐẦY ĐỦ Ý NGHĨA VÀ CÓ VĂN HỌC.

Ngôn ngữ của chúng ta, đa số là những danh từ kép, nghe nhẹ nhàng, êm ái và cũng rất đầy đủ ý nghĩa. Tiếng Việt mà chúng ta đang dùng, tuy chỉ mới được sáng tạo ra từ thời Pháp, nhưng càng ngày càng phong phú hơn lên. Với ngôn ngữ này, chúng ta đã tạo ra những áng thơ văn bất hủ, những bản nhạc thật hay mà bọn Việt Cộng, dù có dùng hàng trăm hàng ngàn văn công, cũng không thể nào bắt chước được.

Ngôn ngữ của Cộng Sản, không thể nào gọi là văn hóa được, vì nó được tạo ra bởi những đầu óc không có chữ nghĩa, văn hóa. Đối với Cộng Sản, văn hóa chỉ làm ru ngủ con người, bọn trí thức không có giá trị bằng một cục phân bón, vậy thì ngôn ngữ của chúng cũng chỉ là một cục phân mà thôi.

Với chữ nghĩa văn hóa của chúng ta, chúng ta mới có những bài thơ thật hay, như:

“Nhớ nhà châm điếu thuốc,
Khói huyền bay lên cao!

Nếu dịch ra tiếng Việt Cộng, bài thơ này sẽ là:

“Nhớ CĂN HỘ, THẮP ĐIẾU THUỐC,
KHÓI ĐEN KHẨN TRƯƠNG BAY LÊN CAO”

Ngôn ngữ của Việt Cộng, nghe cộc lốc, trơ trẽn. Vì muốn làm khác đi và ngắn hơn so với ngôn ngữ của chúng ta, nên sẽ không bao giờ đủ nghĩa và nghe rất đơn điệu.

Ví dụ: Khi nói về xe hơi, chúng ta gọi là XE VẬN TẢI, thì Việt Cộng cố tình sửa lại cho khác đi, cho ngắn đi, chúng gọi là XE TẢI. Chúng ta gọi là TIỂU BANG thì chúng cắt ngắn đi, gọi là BANG. Nhưng khi chúng ta nói LIÊN BANG, thì bọn chúng không còn cách nào khác, đảnh phải theo chúng ta mà gọi là Liên Bang.

Khi không thể nào làm ngắn đi được, chúng đảo ngược chữ của chúng ta để tạo nên chữ của chúng. Ví dụ: Chúng ta nói ĐƠN GIẢN, thì bọn chúng đổi lại thành GIẢN ĐƠN. Và SINH SẢN thì chúng đổi lại thành SẢN SINH

Vì không có tầm hiểu biết về chữ nghĩa, nên bọn Việt Cộng vớ được chữ nào là dùng chữ nấy, chứ không hiểu rõ chữ đó có nghỉa là gì. Bọn chúng luôn luôn dùng những chữ có ý nghĩa mạnh bạo trong những trường hợp thông thường, làm cho những từ ngữ đó trở thành ngây ngô, khó hiểu,

Ví dụ, Khi dùng chữ BIẾN CỐ, chúng ta chỉ dùng để chỉ một tình trạng nguy ngập của đất nước: ĐỨNG TRƯỚC BIẾN CỐ THIÊN TAI, CHÚNG TA PHẢI MAU CHÓNG LO VIỆC CỨU TRỢ. Nhưng bọn Việt Cộng lại đổi chữ này ra SỰ CỐ và dùng trong bất cứ trường hợp nào: SỰ CỐ TRỜI MƯA.

Khi chúng ta dùng chữ ỔN ĐỊNH, là chỉ một tình trạng của quốc gia hoặc tình hình của nền kinh tế: TÌNH THẾ ĐÃ ỔN ĐỊNH, TÌNH HÌNH KINH TẾ ĐÃ ỔN ĐỊNH. Nhưng bọn Việt Cộng thì dùng chữ này ở bất cứ trường hợp nào: XIN MỌI NGƯỜI ỔN ĐỊNH CHỖ NGỒI

C. LÀM SAO ĐỂ GIỮ VỮNG VĂN HÓA VIỆT NAM CỘNG HỎA?

Dễ lắm!

Đừng nói những từ ngữ của bọn Cộng Sản. Chúng tôi xin kèm theo đây một số từ ngữ để chúng ta dễ dàng đối chiếu và dùng cho đúng chữ.

Đừng đi xem văn nghệ của bọn Văn Công Cộng Sản. Đi xem bọn chúng trình diễn tức là đã tiếp tay với bọn chúng để xóa bỏ văn hóa của chúng ta đi, chúng ta đã vô tình ... thi hành Nghị Quyết 36 dùm cho bọn chúng đó. Khi bọn Việt Cộng đem văn công đi biểu diễn, Cộng Đồng chúng ta đi biểu tình chống đối là chuyện đương nhiên phải làm. Nhưng điều tiên quyết phải làm là: Bảo nhau đừng đi xem bọn chúng. Đừng để tình trạng cha đi biểu tình, con đi xem hát.

Quý vị chủ báo, chủ đài phát thanh, truyền hình, hãy ngưng trích những bài báo, ngưng đăng những tin tức của bọn Việt Cộng đã viết sẵn trên internet. Nếu quý vị hô hào mọi người gìn giữ văn hóa Việt Nam Cộng Hòa, thì quý vị phải làm gương trước nhất.

Đừng đọc, đừng nghe những tờ báo, những đài phát thanh nào chỉ chuyên dùng những từ ngữ Cộng Sản. Bọn Việt Cộng sở dĩ đưa ra Nghị Quyết 36 để đẩy mạnh việc tuyên truyền văn hóa của chúng ra hải ngoại, là vì chúng ta còn chống đối. Nếu chúng ta không phản ứng, một ngày nào đó, Văn Hóa Việt Nam Cộng Hòa Sẽ Mất Đi.
    HÃY GIỮ VỮNG NỀN VĂN HÓA, NGÔN NGỮ CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA.
Người Việt của tôi, là thế đấy!
Nguyễn Khắp Nơi

*****
    BẢNG ĐỐI CHIẾU TỪ NGỮ
TỪ NGỮ CỘNG SẢN - TỪ NGỮ VIỆT NAM CỘNG HÒA
    Chất lượng - Phẩm chất tốt (vừa quality và quantity)
    Chế độ - Quy chế
    Chỉ đạo - Lãnh đạo
    Chỉ tiêu - Định suất
    Chủ trì - Chủ tọa
    Chữa cháy - Cứu hỏa
    Chiêu đãi - Thết đãi
    Chui - Lén lút
    Chứng minh nhân dân - Thẻ Căn cuớc
    Công đoàn - Nghiệp đoàn
    Công nghiệp - Kỹ nghệ
    Công trình - Công tác
    Cơ bản - Căn bản
    Cửa khẩu - Phi cảng, Hải cảng
    Cụm từ - Nhóm chữ
    Cứu hộ - Cứu cấp

    Diện - Thành phần
    Dự kiến - Phỏng định

    Đảm bảo
    - Bảo đảm
    Đăng ký - Ghi danh
    Đột xuất - Bất ngờ
    Đường băng - Phi đạo
    Đường cao tốc - Xa lộ

    Gia công - Làm ăn công
    Giản đơn - Đơn giản

    Hạch toán - Kế toán
    Hải quan - Quan Thuế
    Hát đôi - Song ca
    Hát tốp - Hợp ca
    Hậu cần - Tiếp liệu
    Học vị - Bằng cấp
    Hệ quả - Hậu quả
    Hiện đại - Tối tân
    Hộ Nhà - Gia đình
    Hộ chiếu - Sổ Thông hành
    Hồ hởi - Phấn khởi
    Hộ khẩu - Tờ khai gia đình
    Hoành tráng - Nguy nga, tráng lệ, đồ sộ
    Hữu nghị - Thân hữu
    Huyện - Quận

    Kênh - Băng tần(Channel)
    Khẩn trương - Nhanh lên
    Khâu - Bộ phận
    Kiều hối - Ngoại tệ
    Kinh qua - Trải qua

    Làm việc - Thẩm vấn, điều tra
    Liên hệ - Liên lạc (Contact)
    Linh tinh - Vớ vẩn

    Múa đôi - Khiêu vũ

    Nắm bắt - Nắm vững
    Năng nổ - Siêng năng, tháo vát
    Nghệ nhân - Nghệ sĩ
    Nghĩa vụ quân sự - Quân dịch
    Nghiêm túc - Nghiêm chỉnh
    Nghiệp dư - Tài tử
    Người nước ngoài - Ngoại kiều

    Phần cứng - Cương liệu
    Phần mềm - Nhu liệu
    Phó Tiến Sĩ - Cao Học
    Phục hồi nhân phẩm - Hoàn lương
    Phương án - Kế hoạch

    Quản lý - Quản trị
    Quảng trường - Công trường
    Quân hàm - Cấp bực
    Quy hoạch - Kế hoạch
    Quy trình - Tiến trình

    Sơ tán - Tản cư
    - Sư đoàn
    Sự cố - Trở ngại

    Tên lửa
    - Hỏa tiễn
    Tham gia lưu thông (xe cộ) - Lưu hành
    Tham quan - Thăm viếng
    Thanh lý - Thanh toán, chứng minh
    Thân thương - Thân mến
    Thu nhập - Lợi tức
    Thư giãn - Tỉnh táo, giải trí
    Tiên tiến - Xuất sắc
    Tiến công - Tấn công
    Tiêu dùng - Tiêu thụ
    Tính thuyết phục - Khả tín
    Tờ rơi - Truyền đơn
    Tranh thủ - Cố gắng
    Trí tuệ - Kiến thức
    Triển khai - Khai triển
    Tư duy - Suy nghĩ
    Tư liệu - Tài liệu
    Từ - Tiếng

    Ùn tắc - Tắt nghẽn

    Vấn nạn - Vấn đề
    Vận động viên - Lực sĩ
    Vô tư - Tự nhiên

    Xe con - Xe du lịch
    Xe khách - Xe đò
    Xử lý - Xét xử

Văn Hóa Cạn Chén - TrầnVăn Giang

TrầnVăn Giang
    … Buồn như ly rượu đầy
    không có ai cùng cạn;
    Buồn như ly rượu cạn
    không còn rượu để say…
    (“Buồn” – Y vân)
Ngoài cái tên tựa mà tôi tạm thời chọn cho bài này, “Văn hóa cạn chén” (the ‘bottom-up’culture), còn có muôn vàn tên từ phàm tục, bình dân giáo dục cho đến thi vị, bi tráng để gọi một vấn đề (hay một tệ nạn xã hội) - uống rượu: ăn nhậu, nâng ly, cụng ly, cạn ly, nhâm nha, lai rai, tiến tửu, nghinh tửu …

Cạn chén là một “bộ luật bất thành văn” duy nhất của xã hội Việt Nam hôm nay được áp dụng rất “nhất trí.” Từ cấp lãnh đạo nhà nước, cơ quan chính quyền cho đến xí nghiệp tư nhân, tiệc tùng ăn nhậu gần như là một nghi lễ bắt buộc khi tiếp quan khách cấp bậc nhà nước hoặc tiếp các đối tác thương mại. Không có ăn nhậu được hiểu là “không phải phép,” “không biết điều,” “không rượu không phải lễ (vô tửu bất thành lễ’),” “khó chơi,” “chơi không vô …”

Lần đầu về thăm Việt Nam sau gần 30 năm, khi tiếp xúc với thân nhân, bạn bè, người nào cũng than vãn là: “cuộc sống quá khó khăn,” “làm không đủ sống,” “gạo châu củi quế …” nhưng tôi lấy làm ngạc nhiên khi nhìn thấy từ thành phố lớn cho đến thôn quê, từ đường phố lớn đông người chen chúc cho đến ngoại ô xa xôi vắng vẻ, từ nhà hàng sang trọng máy lạnh cho đến quán cóc xiêu vẹo lôi thôi nhếch nhác vỉa hè, khi chiều tối vừa lên đèn là đã đầy nghẹt khách nhậu!!! Tôi có đem chuyện vô số các quán nhậu đầy khách ra hỏi một đồng môn cũ hiện đang làm việc cho một ngân hàng ở Sài gòn, thì người bạn trả lời là:

“Ông nói đúng. Mỗi buổi chiều tan sở, có ít nhất 5 hay 6 nơi mời tôi đi nhậu. Tôi phải lựa chọn một chỗ ngon lành và tốt nhất để nhậu mỗi ngày. Mà nè! Ở thời buổi ‘đổi mới’ bây giờ, nói không quá, không nhậu không thể làm việc được; bởi vì các vụ làm ăn, trao đổi, ký kết, quyết định của cơ quan chính quyền cũng như cơ sở dân sự thương mại đều ‘xử lý’ không phải ở trong văn phòng; mà trên bàn nhậu!”

Trời đất! Ở Mỹ này, Các nhà lãnh đạo chính phủ cũng như xí nghiệp tư họp bàn và quyết định mọi chuyện khi đầu óc họ tỉnh táo, thông thoáng mà còn đôi khi còn bị sai lầm đổ vỡ; vậy mà ở nước ta “mọi quyết định quan trọng” đều xẩy ở trên bàn nhậu khi các người can dự đều say khướt nôn ọe thì đất nước này sẽ đi về đâu? Có lẽ chỉ có một con đường rõ ràng nhất có thể nhìn thấy là sẽ xuống hố cả nút … xã hội mỗi ngày mỗi băng hoại hôi hám như những bãi ói mửa quanh bàn nhậu …

Cạn chén, cạn ly, ăn nhậu, hũ chìm, hũ nổi … đó là chuyện bình thường ở Việt Nam (!) Cán bộ có nhiều tiền, nhàn rỗi không sợ mất việc thì nhậu đã đành; Anh thợ hồ cũng nhậu, anh xe ôm cũng nhậu; Có bằng đại học cũng nhậu, công nhân tép riêu cũng nhậu; Người dở người giỏi đều nhậu; Phụ huynh người lớn nhậu, các em tuổi học sinh bắt chước nhậu, không uống được mười phần (như bố) thì cũng được hai ba phần là tốt rồi; Chuyện nhậu không còn dành riêng cho nam giới “hữu phong” mà phụ nữ con gái cũng theo chồng, theo con, theo bạn nhậu quắc cần câu… Trên bàn nhậu thấy có mặt đủ mọi thành phần, mọi giới, mọi trình độ và nhậu với mọi “lý do.” Bạn bè gặp nhau (không nhất thiết phải là lâu ngày và tại sao) là phải nhậu … nhậu “giao lưu,” nhậu “kết nghĩa,” nhậu “trước lạ sau quen ...” Ma chay, cưới hỏi, giỗ chạp, lễ hội, đại hội, hội nghị, đình đám, khởi hành, khai trương là phải có nhậu. Cứ nhậu trước rồi tính sau. Ông Nguyễn Hiến Lê trong tập “Hồi ký Nguyễn Hiến Lê” đã kể chuyện một ngôi làng ở miền bắc chỉ họp nhau đào một cái giếng nước nho nhỏ thôi; vậy mà từ lúc bắt đầu khởi công đến khi hòan thành giếng nước, dân làng đã tổ chức nhậu liên tiếp từng chặng một, đánh chén hết tổng cộng 42 con heo (?)… Thiệt tình văn hóa ăn nhậu của nước ta đã đến mức siêu đẳng. Một hai ba cả nuớc chúng ta cùng nhậu, cùng nhau “liên hoan” mệt nghỉ cho tới ngày xuống hố một lượt cho tiện s sách… Chuyện đáng buồn là ở Việt Nam, nhậu còn được xem là một lợi thế thăng tiến trên đường công danh (?) Nhiều sếp lớn của cơ quan nhà nước cũng như xí nghiệp cần tuyển người “nhậu giỏi” để làm phụ tá giúp mình “uống” trong các buổi nhậu giao tiếp … hãi thật!

Theo thống kê của Bộ Y tế Việt Nam (?) (dân tị nạn “phản động” ở hải ngọai nên biết là cái “Bộ chuyên môn” này đã có một lúc - những năm 1980’s - nhà nước siêu việt của ta gọi là “Bộ Các Thứ Bệnh” cho nó “ăn theo” với “Xưởng Đẻ “ và “Nhà ỉa ...” Sau đó vì bị dân chúng cười chế nhạo quá xá, nhà nước phải đổi tên lại cho “hoàn chỉnh” là “Bộ Y Tế”) mỗi năm cái quốc gia “ra ngõ đã thấy anh hùng” tiêu thụ khoảng 350 triệu lít rượu, trong đó 90% sản lượng là rượu nấu thủ công. Nên biết danh từ “rượu nấu thủ công” để chỉ Rượu Trắng (còn được gọi nhiều tên khác nhau như: Rượu Đế - rượu trắng nấu lậu trốn thuế được đem đi dấu ở các bụi cỏ lau, cỏ năng, cỏ đế khi bị “Tây đoan” (một loại cảnh sát của thực dân Pháp chuyên đi bắt rượu lậu) lùng bắt; Rượu Ngang – rượu lậu phải đi tắt về ngang để đem bán; Rưọu Quốc Lủi – bán lậu như con cuốc trốn lủi trong bụi, trái nghĩa cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng với “Rượu Quốc Doanh” của nhà nước…) Cứ tạm cho là thống kê của “Bộ Các Thứ Bệnh” (chắc chắn phải kể cả bệnh nhậu! và bệnh teo não!) nhà nước ta đúng thì trung bình dân tộc Việt Nam anh hùng tính đổ đầu từ già cho đến sơ sanh nốc cạn chai trên 3 lít rượu trắng mỗi năm (?) Úi chà chà! Thế có chết người không?

Không phải chỉ nốc rượu vào dạ dày là xong đâu. Uống rượu thì phải có “mồi” chứ ai mà uống rượu xuông? Chả thế mà các tiệm nhậu, ở mọi nơi, mỗi ngày sáng chế ra thêm nhiều món thực đơn nhậu từ phong phú đến kinh hãi: “đặc sản” thịt rừng (nai, heo rừng, cá sấu …), thịt chuột, cóc, nhái, ếch, lươn, rắn, thỏ, đuông, cua đinh, bọ cạp. Rừng Việt Nam càng ngày càng ít đi vì bị tàn phá khai thác không luật lệ, không nương tay thì lấy đâu ra “đặc sản” “hương vị quê hương” cung cấp cho hàng hà quán nhậu mỗi ngày đều đặn như thế. Ai có đủ khả năng phân biệt thật hay giả? Mà đã không có ai kêu ca than phiền gì về chuyện “đặc sản” thật hay giả thì thắc mắc làm gì cho mất thời giờ nhậu quý báu. Cộng thêm các tên gọi mênh mông tình dân và đậm đà thói đảng như: “món ăn ba miền,” “nước mắt quê hương,” “thịt bò tùng xẻo,” “ngọc dương tiềm thuốc bắc,” “cá sấu hoa cà,” “cá kèo nướng mọi,” “sò huyết rang me,” “gà quay lu ketchup, “dựng bò nấu bia,” “ngầu pín xắt lát …”

Rượu bia làm gan, dạ dầy, tim mạch, lục phủ ngũ tạng “banh ta lông” hết trơn hết trọi. Rượu làm thần kinh rối lọan, tâm thần như đang treo ngược trên cành cây - Không biết đầu mình đang đội trời hay đầu đang đội đất??? Đâu có ai buồn để ý đến hậu quả tai hại của việc uống rượu uống bia. Mới 30 tuổi đầu, giữa ban ngày ban mặt đã lăn đùng ra chết vì bệnh gan; hoặc đột ngột “tạ từ trong đêm” vì tim ngừng đập (“cardiac arrest”, hay là bị “thương mã phong?” Chỉ có trời biết). Rồi gia đình bợm nhậu quá cố đưa tin là bợm chết vì xui xẻo, trúng gió? (Gió “lào?”) Chưa tới 50 tuổi đã đột qụy tai biến mạch máu não, tàn phế vĩnh viễn. Đất nước còn trông mong vào sức lực và trí óc ở đâu ra để sản xuất, để thăng tiến giầu mạnh. Men rượu còn làm thay đổi cả cá tính con người, làm mất đi sự đàng hòang sự kính trọng. Rượu vào lời ra làm bạn nhậu gây gỗ thanh toán chém giết lẫn nhau; Rượu gây xâm phạm tình dục, bạo hành gia đình (say rượu đánh vợ đánh con dã man, vợ chém chồng …) tan hoang cửa nhà sau khi say xỉn; Chạy xe gây tai nạn lưu thông chết người cũng vì say xỉn. Những tệ nạn này các thơ phú văn chương lãng mạn; những tập phim bộ, phim kiếm hiệp bi tráng đâu có nhắc đến. Thật vậy. Thơ nhạc lãng mạn đã tạo nên những hình ảnh nam nhi với thần thái hào sảng uống rượu như nước lã; khác hẳ n đời sống thực tế của con người phàm tục say rượu, ói mửa, phờ phạc, mệt mỏi, mất hồn.

Đầu tiên hãy thử nghe ông thi sĩ Vương Hàn (xì thẩu này chỉ là quan văn), trói gà không chặt, còn mơ ngủ ngay trong ban ngày trời sáng, của thời thịnh Đường (thế kỷ thứ 8 sau Công Nguyên) ca ngợi sự bi tráng của chiến sĩ uống rượu trước khi ra trận như sau:

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
(Lương Châu Từ - Vương Hàn)

Dịch nghĩa nôm là:

Rượu bồ đào cùng với chén lưu ly
Muốn uống nhưng tỳ bà đã giục lên ngựa
Say khướt nằm ở sa trường, bác chớ cười
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.

Dịch ra thành thơ

Bồ đào rượu ngát chén lưu ly
Toan nhắp tỳ bà đã giục đi
Say khướt sa trường anh chớ mỉa
Xưa nay chinh chiến mấy ai về.
(Trần Quang Trân)

Rượu bồ-đào, chén dạ quang
Muốn say, đàn đã rền vang giục rồi
Sa trường say ngủ ai cười
Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu
(Trần Trọng San)

“Xưa nay chinh chiến mấy ai về.” Nhận xét này của ông Hàn gàn bát sách luận gần đúng không cần phải bàn thêm. Bởi vì đi đánh trận khác xa với đi “shopping” hay đi dạo trong công viên. Trận mạc là chỗ tên bay đạn lạc chiến sĩ mất mạng dễ như không. Nhưng cái ông Hàn trói gà không chặt này không những đã xúi bậy mà còn có máu khôi hài: “Sa trường say ngủ ai cười.” Ậy! Uống rượu say khướt rồi vào chui phòng đắp chăn ngủ với vợ còn có thể chết (xin đọc lại tai nạn “âm thầm tạ từ trong đêm!” ở bên trên). Chứ ra trận mà say rượu thì chết là chắc chắn chăm phần chăm. Quờ quang nửa tỉnh nở mê đi ngơ ngơ giữa lằn tên mũi đạn thì không chết vì đạn của quân địch cũng chết vì đạn lạc của quân ta.

Bây giở nghe ông danh sĩ thứ hai – nhà thơ Nguyễn Bá Trác – cũng lại ca nỗi niềm bi tráng của chí sĩ tị nạn lưu vong thất thời qua bài “Hồ Trường:”

Hồ trường, hồ trường
Ta biết rót về đâu?
Nào ai tỉnh…
Nào ai say…
Chí ta biết, lòng ta hay…
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây…
(Hồ Trường – Nguyễn Bá Trác dịch thóat từ một ca khúc của Trung Hoa – tên là “Nam Phương Ca Khúc” - vào khỏang năm 1912)

Bài này đã làm những người yêu thơ rượu rất thích thú cái phong vị khảng khái mà bi tráng của kẻ sĩ vì vận nước phải dọc ngang trời đất (nói nôm na là đang sống đời tị nạn lưu vong) cho đền khi già lụ khụ, tóc bạc răng long (hay đầu hói răng gỉa) hết rồi mà vẫn thất chí; mượn chai rượu (cognac) để than thở với người đồng hưong… Riêng cá nhân tôi cũng là dân tị nạn vượt biển, vì không biết uống rượu và cũng không phải thi sĩ cho nên đọc và thấy bài thơ bất hủ này có vài vấn đề:

- Thứ nhất “Rót vào đâu?” Rượu thì phải rót vào chén hay vào ly hay cùng lắm là rót thẳng vào miệng chứ không thể rót lung tung được; hay đổ lầm vào mũi sặc sụa chết bỏ!

- Thứ hai, “Nào ai tỉnh, nào ai say?” Đã tính chuyện đi cứu nước thì luôn luôn phải “alert,” tỉnh táo như con sáo sậu. Chứ cứ say túy lúy thì ngay bản thân mình còn chưa cứu được nói gì đến chuyện trọng đại cứu nước cứu dân.

Bây giờ quay trở lại vấn đề say xỉn ở trong nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa ta…. Cán bộ cao cấp nhậu say xỉn xong ngày mai đi họp đại hội đảng hay hội nghị tổng kết thành quả thì chắc chắn phải được việc rồi; chứ anh thợ bần cố nông thành trì cách mạng say xỉn mà ngày mai phải đi làm công việc lao động sản xuất bằng tay chân ở nhà máy; phải sử dụng máy tiện, máy cắt, máy cưa thì cơ hội được nghỉ hưu non (tất nhiên là không lãnh lương) rất cao! Kể ra, cán bộ giầu có dư ăn dư mặc hay dân đen vô sản khố rách áo ôm đều say rượu khướt đằng nào cũng tiện cho nhà nước cả. Nếu tỉnh táo mạnh giỏi họ lại cắc cớ nghĩ ra việc phản tỉnh, nộp đơn xin bỏ đảng, đòi hỏi thêm quyền này quyền nọ, biểu tình kêu oan ăn vạ rất phiền toái làm mắt mặt mất mũi đảng và nhà nước trước các con mắt của quan sát viên ngoại quốc. Mà làm cái quái gì phải ngăn cấm việc liên hoan, uống rượu cho mệt xác; Chỉ tổ làm phương hại đến ý nghĩa của châm ngôn cao cả mà đảng và nhà nước ta đã hết lòng đề phát: “Độc lập, Tự do Hạnh phúc.”

Không hiểu lãnh đạo nhà nước sáng mắt hơn nghệ sĩ Văn Vỹ không chứ: Cái quang cảnh đời sống của dân càng khó khăn, dân càng nhậu mút mùa lệ thủy không phải là dấu hiệu tốt đánh dấu sự thăng tiến của “Kinh tế thị trường định hướng XHCN” đâu! Dân phải uống rượu nhiều để giải sầu, để cố quên đi cái thực tế quá cay đắng mà họ không thay đổi được! Nước xã hội chủ nghĩa anh em vĩ đại Liên sô trước đây cũng có tỉ lệ dân đen nghiện rượu (volka) cao nhất thế giới vì cùng một lý do; không phải vì họ sống đầy đủ, ấm no hay “tự do hạnh phúc” đâu!

Lãnh đạo cao cấp nhà nước đang bận tham nhũng vơ vét; đang bận củng cố địa vị ăn trên ngồi trốc, tất tật tận dụng đời bố củng cố đời con, cha truyền con nối; và quá bận tâm đến việc ngăn chặn các cao trào của nhân dân đòi quyền dân chủ (còn có nhiều nhóm phản động đòi xin tí huyết của lãnh đạo đảng…) Cán bộ cấp địa phương một mặt thì thì bận sách nhiễu dân chúng, một mặt chu đáo tiếp đón các phái đoàn từ trên xuống… Ngoài ra, không hề thấy có một biện pháp hay phương án nào để cảnh giác, để làm giảm thiểu hay giáo dục tệ nạn ăn nhậu tới bến mút chỉ này? Mặt khác, các báo in, điện báo (“internet”), phim ảnh còn thi đua nhau giới thiệu, quảng cáo các món ăn chơi và nhậu nhẹt, rủ rê bợm nhậu gia nhập các hội nhóm (clubs) nhậu… Trên toàn quốc, các nhà máy bia, nhà nấu cất rượu “chính qui” cũng như “chui” mọc lên như nấm. “Cầu” nhiều thì tất nhiên phải có “cung.” Sản xuất không đủ thì cứ việc nhập cảng thêm rượu bia từ nước ngoài vào cho đủ. Uống rượu không đủ nồng độ (vì thường có nhiều rượu giả!) thì cứ cho thêm thuốc rầy, cồn sống… vào để uống cho ói ra mật xanh, cho “tím cả chiều hoang biền biệt” mới đã.

Tóm lại, “Cách mạng vô sản vô địch” và tiếp theo là “Kinh tế thị trường định hướng XHCN” chỉ ban phát cho dân một thứ tự do duy nhất thật quí báu và ý nghĩa. Đó là “tự do ăn nhậu” (không cần biết là tiền lấy ra từ đâu để nhậu?). Tương lai và hy vọng thì mù mịt, nhưng rượu lúc nào cũng có sẵn và đầy đủ: Rượu đế ngâm sâm nhung, tắc kè, bìm bịp, rắn hổ, rắn ngũ xà, rắn cửu xà, bao tử nhím, hải mã … tha hồ uống cho bổ dương, bổ thận, bổ … nhào!

Tái bút:
“Đừng bao giờ mong uống rượu để nhận chìm nỗi buồn; bởi vì buồn biết bơi” (People who drink to drown their sorrow should be told that sorrow knows how to swim – Ann Landers)

TrầnVăn Giang