Friday, August 7, 2009

Những hình ảnh Một Thời Chinh Chiến của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa




Ước mong những bức ảnh này giúp cho những vị từng khoác áo Chiến Binh Việt Nam Cộng Hòa, cho những người đã từng trải qua thời chiến chinh như một phần đời sẽ hồi tưởng lại những ngày xưa thân ái đó.


Những bức ảnh được đưa vào không theo thứ tự thời gian như một ký ức đã trổ nên hỗn loạn sau ngày "đổ vỡ toàn diện" (chữ dùng của Phan Nhật Nam)




Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH





Những ngày xưa thân ái . . .




















































Quân đổ vào biển lửa, dân rời xa quỷ đỏ, gặp nhau ở đây biết mai có còn gặp lại ?







Những ngày xưa thân ái ...


























Chinh chiến đã đi qua ... Những hình ảnh người Lính Việt Nam Cộng Hòa còn mãi với thời gian






























Bìa báo TIME số tháng 3-1975
Một vài hình ảnh của
Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt
Nơi đào tạo những Sĩ Quan ưu tú của QLVNCH
Trường của những người trai chọn binh nghiệp là lẽ sống, là lý tưởng


































Khóa Huấn Nhục trước khi trở thành tân binh VBQG
(Trắc định ý chí, nhẫn nại và thể lực. Nếu không vượt qua được sẽ bị loại)
























Nhảy Dù vào La Vang- Quảng Trị 1972






Thăm chồng ngay tại chiến hào




Biệt Động Quân bảo vệ Thủ Đô Sài Gòn Mậu Thân 1968

Những hình ảnh về binh chủng Pháo Binh QLVNCH



















Tướng Ngô Quang Trưởng










Người lính Biệt Động Quân dù bị thương nặng vẫn nắm chắc súng trong tay sẵn sàng đáp trả VC trong trận Đồng Xoài 11/06/1965


















Một đời khoác áo lính Cộng Hòa, một đời cho Nước Non




Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam


Người hùng tử thủ An Lộc, Chuẩn tướng Lê Văn Hưng (TLSĐ5/BB) bắt tay Đại tá Tư Lệnh Phó SĐND
tại chiến trường An Lộc Hè 1972


Người ở lại Charlie, Trung tá Nguyễn Đình Bảo (đeo kính) tại mặt trận Damber tháng 8/1971








Tr.T. Bảo tại Ban Tham Mưu Hành Quân LĐ 3 Nhảy Dù Damber,Kampuchea tháng 8/1971


Đại tướng Đỗ Cao Trí


Ngũ Hổ Tướng Quân


Tướng Nhảy Dù Hồ Trung Hậu. Hè Đỏ Lửa 1972




Thiếu tá Nhảy Dù Võ Trọng Em




Nhảy Dù bảo vệ Sài Gòn, Xuân Máu Lửa Mậu Thân 1968


Đổ quân vào chốn tử sinh


Nhảy Dù nghỉ chân tại Chiến Khu D


Bạn bè ai còn ai mất sau mỗi chuyến lên đường ?




Y sĩ Dù tải thương tại chiến trường


Nhảy Dù trước Thánh Đường La Vang, Quảng Trị, Hè 1972









Jean Larteguy, nhà báo Pháp có mặt tại miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối của Saigon ghi lại như sau khi tới thăm một đơn vị Dù cố thủ tại Saigon ngày 28/04/1975:

“ . . . Họ không buồn rầu, và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một cuộc thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau, và liệng cho nhau những chai Coca-Cola Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu nầy . Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon.

Và những binh sĩ tuyệt vời nầy vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ trong giờ phút sinh tử này Một trong các cấp ấy là một Đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao , ông trả lời: >

- Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người chiến đấu tới giây phút cuối cùng. Ông hãy nói cho thế giới biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh. . .”

Lartéguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên Trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa "Và trong những bộ đồng phục mới, giày chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Chỉ còn thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng".

Một đồng nghiệp của Lartéguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan:
- Các anh có biết là sắp bị giết chết không ?
Một thiếu úy trả lời:
- Chúng tôi biết chứ.
- Vì sao ?
- Tại vì chúng tôi không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản.

Sau đó Jean Larteguy trở về Pháp, và đã làm cho cả thế giới ngạc nhiên với những gì ông viết ra về những người lính VNCH

Người lính VNCH trấn giữ Thủ Đô Sài Gòn Xuân Máu Lửa Mậu Thân 1968






















































Cố Đô Huế Mậu Thân 1968












Trường đào tạo Quân Cảnh /QLVNCH tại Vũng Tàu



Là Lực Lượng giám sát Quân Phong Quân Kỷ của QLVNCH








Quân Cảnh KQ/QLVNCH

Là Lực Lượng bảo vệ các yếu nhân trong những cuộc họp






Là gương mẫu chuẩn mực của Quân Đội VNCH


Quân cảnh Việt Nam và Quân Cảnh Mỹ


Là lực lượng trị an tại hậu phương (cùng CSQG)


Quân Cảnh và Cảnh Sát Quốc Gia cùng sát cánh bảo vệ trật tự an ninh ở hậu phương


Mậu thân 1968, ngoại ô Sài Gòn

Những hình ảnh về cuộc trao đổi tù binh bên sông Thạch Hãn, Quảng Trị năm 1973










Tóm một anh Việt Cộng nằm vùng


Quân Cảnh xử bắn việt cộng nằm vùng Nguyễn Văn Trỗi

Lễ tiếp nhận 20 chiến đấu cơ F-5 đầu tiên Bộ QP Mỹ chuyển giao cho Không Quân VNCH vào năm 1967 tại Căn Cứ KQ Biên Hòa

















Chiến Đấu Cơ F-5A của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa


Phi Đội F-5A của Không Lực VNCH tại Phi Trường Biên Hòa




















3 loại chiến đấu cơ (strike-aircraft ) chủ lực của KQVNCH cùng hiện diện trong một bức ảnh, từ trái sang phải hai chiếc A-37B, hai chiếc F-5A và hai chiếc A-1H Skyraiders đang chuẩn bị cất cánh cho những phi vụ bay vào chiến trường An Lộc từ phi trường Biên Hòa tháng 6 Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972

A-37B Dragonfly KQ/VNCH


A-37B được cải tiến từ A-37A dành cho Không Lực VNCH từ năm 1968 (cùng với phiên bản OA-37A được KQVNCH sử dụng như một máy bay Trinh Sát) .Không kể chỉ 22 chiếc A-37 gãy cánh trên chiến trận, khoảng 187 chiếc phục vụ cho KQ /VNCH cho tới khi Sài Gòn thất thủ , Mỹ đã thu hồi được 92 chiếc sau cuộc chiến. 95 chiếc còn ở lại VN rơi vào tay Việt Cộng ,A-37B đã được VC sử dụng trong hai cuộc chiến biên giới phía Nam với Campuchia và biên giới phía Bắc với Trung Quốc khoảng cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980 .



























A-37B Dragonfly KQ/VNCH


A-37B được cải tiến từ A-37A dành cho Không Lực VNCH từ năm 1968 ( cùng với phiên bản OA-37A được KQVNCH sử dụng như một máy bay Trinh Sát) .Không kể chỉ 22 chiếc A-37 gãy cánh trên chiến trận, khoảng 187 chiếc phục vụ cho KQ /VNCH cho tới khi Sài Gòn thất thủ , Mỹ đã thu hồi được 92 chiếc sau cuộc chiến. 95 chiếc còn ở lại VN rơi vào tay Việt Cộng ,A-37B đã được VC sử dụng trong hai cuộc chiến biên giới phía Nam với Campuchia và biên giới phía Bắc với Trung Quốc khoảng cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980 .



























A-1H Skyraider (AD-6) KQ/VNCH




Những con chim sắt Skyraiders sau những ngày tháng chiến đấu để bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam đã phải cùng chia xẻ những đau thương của những ngày tháng cuối cùng của VNCH.

Cuộc di tản chiến thuật rút bỏ Quân Đoàn 2 đã để lại 64 phi cơ tại Pleiku (ngày 16 tháng 3 năm 75). Trong đó có 4 Cessna và 11 chiếc O-2 cùng 21 chiếc Skyraiders A- 1.

Cuộc di tản Đà-Nẵng (30/3/75) để lại 180 phi cơ, trong đó không có chiếc Skyraider nào cả!

Sau ngày 30 tháng Tư 1975, trong tổng số khoảng 1100 chiếc phi cơ bị bỏ lại, có 26 chiếc Skyraiders...Không quân CSBV tiếp tục xử dụng lại một số phi cơ khả dụng và đã dùng đến Skyraiders trong những cuộc chiến tranh với Cam-bốt (dùng chung với các loại F-5 và A-37, tuy nhiên không có hình ảnh nào chứng minh cho việc dùng Skyraiders trong các phi vụ yểm trợ bộ binh) và sau đó trong cuộc chiến tranh với Trung Cộng (Tháng Hai, 1979), không thấy nhắc đến Skyraiders.. , nhưng có sử dụng F-5 và A-37

Tháng 4 năm 1988, các báo cáo Tây phương ghi nhận CSVN đã rao bán trên thị trường võ khí khoảng 200 phi cơ đủ loại trong đó có cả các Skyraiders A-1 (Theo Tạp chí Air Combat September 1991).


























Những phi công A-1H Skyraider của Không Lực VNCH


Các phi công A-1H Skyraider thuộc Phi Đoàn 518 (KQ/VNCH) sau một Phi Vụ Bắc Phạt

Biểu ngữ phản đối khai thác Aluminium (Nhôm) giăng trên Nhà thờ lớn tại Iceland

“Dear Iceland: Fuck You! Yours Truly, Aluminium”
Banner Drop on the Biggest Church in Iceland

Hallgrímskirkja
Hallgrímskirkja (the biggest church in Iceland)

Source: http://savingiceland.puscii.nl/?p=4001&language=en

Aug 03 2009 10:57 pm

Dear Iceland(ers).

Hallgrímskirkja
Hallgrímskirkja (the biggest church in Iceland)

This morning we, the Aluminium Industry, hung a banner on Hallgrímskirkja (the biggest church in Iceland) to finally express cleary what we have been trying to tell you all of the time. We decided that the methods of greenwashing and manipulation are no longer needed, since we obviously managed to convince you already about the glory of heavy industry.

We wanted the Icelandic Nation to fully understand, that we don’t care about anything else than our own advantages and of course our profit. We don’t care about the impacts of our actions, on people here in Iceland or elsewhere in the world. Many lives, human and non-human, have been effected by our work all over the globe:

  • Whole tribes of indigenous people have lost their lives and/or livelihoods through a cultural genocides caused by our projects; bauxite mining, alumina refining, aluminium production, and transportation between continents. (1) (2)
  • Earth-damage and pollution are constantly increasing as we keep trying to fulfill our never satisfying greed.
  • Due to our major role in warfare and the military industry many people could feel the impact of aluminium on their own bodies… (3)
  • We do not take responsibility for any of these things. (4)

Hallgrímskirkja (Church)
Hallgrímskirkja (Church)

Furthermore, the delight of working with the Icelandic authorities is definitely worth being mentioned – getting one of the cheapest energy in the world and being able to exploit the countries natural and human resources in return for nothing makes us feel very welcome. (5) (6)

Using the country and the naiveté of some people who live here for our own good, is almost too easy. Anyway, we are thankful how well the cooperation worked and without a doubt we plan to go on in the future.

If there are still people in this country who don’t agree with our methods then we have only this to say: FUCK YOU! We are here to stay, so you better get used to it!

Profit, destruction and death!
Your sincerely, Aluminium.

Links and resources:
(1). Samarendra Das and Felix Padel, Agya, What Do You Mean by Development?, http://savingiceland.puscii.nl/?p=1029&language=en - see also by the same authors, Double Death - Aluminium’s Links with Genocide, http://savingiceland.puscii.nl/?p=602&am…
(2). Survival International’s webpage about the Dongria Kondh tribe in Orissa, India, http://www.survival-international.org/tr…
(3). Alcoa Defense, http://www.alcoa.com/defense/en/home.asp
(4). In an article by Erna Indriðadóttir, Alcoa’s P.R. Manager, she states that Alcoa only produces aluminium but has nothing to say about the future of it. The article was a response to articles that were written were Alcoa was said to be an arms producer. By only taking a look at the website of Alcoa Defense, one can see that Alcoa is a proud cooperator with the American army and several heavy-duty weapon producers. This is not the first and not the last time when Alcoa’s directors or workers here in Iceland try to hide the real facts about the company. Erna’s article can be found here: http://www.alcoa.com/iceland/ic/news/wha…
(5). An Agency of Industry and Energy and the National Power Company (1995), bæklingurinn Lowest Energy Prices!! In Europe For New Contracts
(6). News article on Mbl.is,

****

Biểu ngữ phản đối khai thác Nhôm (Aluminium)
giăng trên Nhà thờ lớn nhất tại Ai-xơ-len (Iceland)


Hallgrímskirkja
Hallgrímskirkja (the biggest church in Iceland)

Source:
http://savingiceland.puscii.nl/?p=4001&language=en


03-08-2009 10:57 pm

Nhân dân Ai-xơ-len thân quý,

Hallgrímskirkja (Church)
Hallgrímskirkja (Church)
Sáng hôm nay, ngành Công nghiệp Nhôm chúng tôi đã treo một biểu ngữ trên nhà thờ Hallgrímskirkja (nhà thờ lớn nhất tại Ai-xơ-len) để dứt khoát nhắc cho các bạn nhớ một lần cuối, lời mà chúng tôi đã hằng tâm sự với các bạn. Chúng tôi đã quyết định rằng mọi phương pháp xử lý quặng và rửa quặng thân thiện môi trường chẳng còn cần thiết nữa, bởi vì chúng tôi đã hoàn toàn thuyết phục được các bạn qua cái tiếng tăm lẫy lừng của ngành công nghiệp nặng này.

Chúng tôi muốn nhân dân Ai-xơ-len nhận thức được đầy đủ rằng chúng tôi chẳng màng đến bất cứ điều gì ngoài thế mạnh và dĩ nhiên là lợi nhuận của chúng tôi. Chúng tôi bất chấp những hậu quả mà chúng tôi đem đến cho người dân Ai-xơ-len nói riêng cũng như cho thế giới nói chung.

Sau đây là danh sách những hậu quả đó:
  • Hết thảy các bộ tộc bản địa đã đánh mất cuộc đời và sinh kế của họ qua tội ác diệt chủng văn hóa gây ra bởi các dự án của chúng tôi, đó là các dự án khai thác bauxite, luyện alumina, sản xuất nhôm,và vận chuyển chúng đi khắp mọi nơi.
  • Mức ô nhiễm và hủy hoại trái đất ngày càng tăng theo lòng tham không đáy của chúng tôi.
  • Nhờ vai trò thiết yếu của chúng tôi trong chiến tranh cũng như trong công nghiệp quân sự mà mọi người đều cảm nhận được tác động của nhôm lên cơ thể.
Chúng tôi hoàn toàn không chịu trách nhiệm với bất kỳ hậu quả nào trong các hậu quả kể trên. Tuy nhiên, chúng cũng cám ơn sự hợp tác mà chúng tôi có được khi làm việc với các nhà chức trách của Ai-xơ-len: Chúng tôi vô cùng hài lòng vì đã có được một trong những nguồn năng lượng rẻ nhất thế giới, đã bóc lột được tài nguyên thiên nhiên cũng như nguồn nhân lực rẻ mạt mà chẳng phải đánh đổi bất cứ thứ gì.

Chúng tôi có thể lợi dụng đất nước các bạn và sự ngây thơ của một số người trong các bạn để trục lợi cho chúng tôi một cách quá dễ dàng. Dù sao đi nữa, chúng tôi cũng phải chịu ơn các bạn về hợp tác tốt đẹp này, và chắc chắn rằng chúng tôi sẽ tiếp tục hợp tác với các bạn trong tương lai.

Nếu vẫn còn ai đó trên đất nước này không đồng thuận với phương pháp của chúng tôi, thì chúng tôi chỉ có thể nói thế này: Đ.M. CÁC BẠN! Chúng tôi đã quyết định dừng chân nơi đây, vì vậy chúng tôi có lời khuyên rằng các bạn phải biết chấp nhận thực tế!

Lợi nhuận, hủy diệt và chết chóc muôn năm!

Trân trọng mến chào,

Nhôm

Cảm Khái - Thơ Cao Tần


Cảm khái
Cao Tần

Trong ví ta này chứng chỉ tại ngũ
Mất nước rồi còn hiệu lực hơi lâu
Chiều lưu lạc chợt thương tờ giấy cũ
Tái tê cười: giờ gia hạn nơi đâu?

Trong ví ta này một thẻ căn cước
Hình chụp ngây ngô rất mực cù lần
Da xám ngoét như bị đời nhúng nước
Má hóp vào như cả tháng không ăn

Mười tám tuổi thành công dân nước Việt
Tên chụp hình làm ta xấu như ma
Thằng khốn nạn làm sao mà nó biết
Ta sẽ thành dân mất nước tan nhà!

Hai mươi tuổi ta đi làm chiến sĩ
Bước giày đinh lạng quạng một đời trai
Vừa đánh giặc vừa lừng khừng triết lý
Nhưng thằng này yêu nước chẳng thua ai ...

Hình căn cước anh nào mà chẳng xấu
Tên chụp hình như một lão tiên tri
Triệu mặt ngây ngô bàng hoàng xớn xác
Cùng đến một ngày gẫy đổ phân ly

Nhìn hình chim in trên tờ chứng chỉ
Chợt nhớ câu thơ: “Gẫy cánh Đại Bàng ...”
Ngàn lẫm liệt tan trong chiều rã ngũ
Muôn anh hùng phút chốc hóa lang thang

Quanh mình xôn xao chuyện thay Quốc tịch
Ngậm ngùi bày dăm giấy cũ coi chơi
Thời cũ ố vàng, rách rời mấy mảnh
Xót xa đau như mình bỗng qua đời.

Hỡi kẻ trong hình mặt xanh, mày xám
Ngươi sắp thành tên mọi Mỹ rồi ư
Hỡi thằng chiến binh một đời dũng cảm
Mày lang thang đất lạ đến bao giờ

Ôi trong ví mỗi người dân mất nước
Còn một oan hồn mặt mũi ngu ngơ
Ôi trong trí những anh hùng thuở trước
Còn dậy trời lên những buổi tung cờ




Phiếm: Câu chuyện “bộ đội” - Ba Quốc (tế)

Ba Quốc (tế)


Một “bộ đội” (tiếng lóng chỉ người Việt nhập cư lậu vào Châu Âu) ra tòa án Hamburg, nước Ðức hồi tháng Hai, năm 2007 vì tội cướp và giết người. (Hình: DAVID HECKER/AFP/Getty Images)
Câu nói “em cũng là bộ đội” của cậu bé người miền Bắc, mà bây giờ tui biết rõ hơn là vùng Thanh Hóa - Nghệ An, khiến tui tò mò cứ muốn bám theo để coi “bộ đội” nghĩa là như thế nào. Ðã thức nguyên đêm cùng hội “đóng người”, đột nhập xe tải vượt biên từ Pháp vào Anh như đã kể trong số báo trước, nhưng vì tò mò nên tới giờ tui vẫn tỉnh như sáo. Ði theo anh ta - tạm gọi là X - về nhà. Pha hai ly cà phê Trung Nguyên từ cái bao cà phê đúng nhãn hiệu, và hai cái phin sắt cũng chánh hiệu con nai vàng Sài Gòn luôn, X từ từ kể.

- Em cũng từng ở trong đấy suốt. X khoe.

- Sài Gòn, Bảo Lộc, Buôn Mê Thuột, rồi Ðắc Nông, Kon Tum, đủ cả anh ạ. Có lúc làm chân lon-ton trông cửa hàng cho bà cô, có lúc lại lên núi trông rẫy cà phê cho ông chú thằng bạn. Gom góp mãi mới đủ tiền sang đây đấy.

X cười vô tư, lật cái nắp phin bỏ xuống dưới, cầm chiếc muỗng nhỏ quậy đường lên, đúng kiểu cà phê lề đường ở nhà.

- Nhưng tại sao người không có giấy tờ bên này lại gọi là bộ đội? Tui chịu hết nổi.

- Ha ha, ông anh chắc Việt Kiều Mỹ nên dị ứng với chữ “bộ đội”.

Anh ta phá lên cười rồi chầm chậm giải thích.

- Bộ đội là gì? Là vượt núi băng rừng, lưng ba lô, chân đạp đá tai mèo. Chúng em không phải bộ đội chứ là gì. Trên răng dưới các-tút, ra đi chưa kiếm đủ tiền quyết không về, cắn răng chịu khổ giải phóng cái nghèo cái đói cho cả dòng họ. Sứ mệnh cao cả lắm anh ạ, còn hơn bộ đội ngày xưa ấy.

Tui giật mình. Hóa ra cái chữ “bộ đội” bây giờ được người ngoài Bắc hiểu như vậy.

- Mà bộ đội như tụi em là loại hiền đó, chỉ chăm chỉ làm ăn, không có súng ống.

Anh ta nói tỉnh queo.

- Nhiều bộ đội chỉ chuyên đi cướp thôi. Bên Ðông Âu mà động vô bộ đội là phiền lắm đó anh hai.

X nhái giọng Sài Gòn, phá lên cười ha hả.

Tui cũng cười phá. Hỏng biết mấy ông cách mạng lão thành hay tuyên giáo cộng sản nghe con cháu mình dùng chữ “bộ đội” để gọi các băng cướp hay đường dây chuyển người lậu thì họ sẽ nghĩ gì. Còn nếu dùng chữ “bộ đội” để chỉ người sống không có giấy tờ như anh X này đang xài thì hiện đang có chừng vài chục ngàn “bộ đội” Việt Nam đang sống ở 25 nước Liên Hiệp Châu Âu.

“Bộ đội” X mở máy tính lên, chỉ cho tui mấy trang tin, cắt nghĩa theo kiểu “bộ đội”. Cảnh sát Ðức thuê riêng một chiếc máy bay để trục xuất 100 “bộ đội” Việt Nam về nước. Ba Lan bắt “bộ đội” giam 90 ngày để chờ A-18 qua thanh lọc lãnh về. Tiệp Khắc trước kia giờ nhan nhản “bộ đội” thất nghiệp, bò ra các khu chợ xin ăn. Chính phủ họ phải khuyến khích, tặng mấy trăm Euro cho ai chịu lên máy bay về nước, bỏ giấc mộng làm giàu “giải phóng” gia đình. Mỗi ngày cả trăm “bộ đội” phục kích chờ xe tải vượt biên vào Anh. Nói chung là “bộ đội” là nỗi lo cho chính quyền tất cả các nước EU.

- Bọn em còn phân loại bộ đội Nghệ Tĩnh với bộ đội Thanh Hóa nữa anh ạ.

X tiếp tục thu hút sự chú ý của tôi bằng những câu chuyện về “bộ đội”.

- Rồi quân khu thủ đô và quân khu “bọ”. Bộ đội nào có ngạch nấy, đi nhầm đường là bị oánh téc mồm ngay.

X đưa tay minh họa, vẻ mặt hào hứng.

- Mười năm trước ở Berlin bộ đội Hà Nội còn bắn nhau với bộ đội Nghệ Tĩnh, phóng xe vãi đạn trên đường không khác gì phim găngstơ Mỹ đâu đấy nhé.

Tự nhiên tui rùng mình. Cũng hên là chưa có đường xe tải nào để vượt biên vô đất Mỹ. Chứ nếu không một ngày “bộ đội” đột nhập, ngồi uống cà phê trên phố Bolsa giống như đang ngồi kể chuyện cho tui nghe đây thì chắc bà con ta sẽ được một phen hoảng loạn hết biết.

Ba Quốc (tế)

Nước Ý và người Việt Tỵ Nạn - Nguyễn Quý Đại


Nguyễn Quý Đại

(Nhân ngày Cộng đồng người Việt Tỵ Nạn ở Ý tổ chức 30 năm người Việt tỵ nạn định cư ở Ý vào ngày 23/08/2009)

Việt Nam chịu ảnh hưởng văn hóa Ý không sâu rộng, trước 1975 sinh viên du học Ý chỉ khoảng 300 người. Tuy nhiên nhiều người VN biết đến quốc gia nầy nhờ có Toà Thánh Vatican, là vùng đất thánh kỳ diệu mà mỗi tín đồ Thiên Chúa Giáo đều mong ước một lần trong đời được hành hương Roma. Vatican diện tích 0.44 km² (44 hectares). Theo các tài liệu thì năm 326, ngôi thánh đường đầu tiên, quảng trường Constantinian, được xây dựng trên mộ của thánh St. Peter. Từ khi xuất hiện thánh đường, bắt đầu có dân cư thưa thớt chung quanh. Nơi ở của Giáo hoàng nằm gần quảng trường được xây dựng từ thế kỷ V. Vatican trải qua nhiều thời kỳ thay đổi của lịch sử.

Mãi cho đến Hiệp ước Lateran (Lateranverträge/Lateran Treaty) Benito Mussolini và Pietro Cardinal Gasparri thay mặt cho vua Victor Emanuel III và Giáo Hoàng Pius XV ký ngày 07.06.1929 Vatican được tự trị, lãnh thổ Vatican bao gồm một vùng đất được xây tường chung quanh dài 3,2 km, nằm giữa thủ đô Roma gọi là “stato della Città del Vaticano”. Đức Giáo Hoàng là người điều hành quốc gia nhỏ bé nầy dưới sự giúp đỡ của Hồng Y Đoàn, Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm Hồng Y giữ chức vụ các bộ trong Tòa Thánh nhiệm kỳ 5 năm. Dân số hơn 1000 người, có quân đội riêng được thành lập ngày 22.01.1506 bởi Giáo hoàng Julius II để bảo vệ và canh gác, hiện nay khoảng 101 người theo truyền thống phải là người Thụy Sỹ. Quảng trường thánh St. Peter, là nơi tập trung tinh hoa của các thời đại, được xây dựng năm 1667 do những nhà kiến trúc, điêu khắc nổi tiếng. Quảng trường được bao bọc bởi vòng cung gồm 284 cột trụ, có thể chứa 25 ngàn người. Trên các cột này khắc 140 tượng thánh, cột trụ đá chính giữa được vận chuyển về từ Ai Cập năm 40 sau công nguyên. Ngoài những cung điện lộng lẫy còn có hơn 20 bảo tàng và thư viện.

Nước Ý nằm về phía Nam Âu Châu dân số 60.054511 người, chưa tính những nguời Ý từ thế kỷ thứ 19 di cư ra nước ngoài lập nghiệp: USA (9 triệu); Nam Mỹ Südarmerika (4,2 triệu); Thụy Sỹ (370.000); Đức (300.000?)… Tổng sản lượng GDP (Gross Domestic Product) tính theo đầu người 38.996$ (2008).

Diện tích 301.336 km², mật độ trung bình 199/ km², biên giới phía bắc là dãy Alpen giáp với Pháp, Thụy Sĩ, Áo và Slovenia. Trong lãnh thổ của Ý có hai quốc gia độc lập là: San Marino và Vatican, còn Campione d‘ italia là vùng đất của Ý nằm trong lãnh thổ Thụy Sĩ.

Ý là một bán đảo dài giống hình „bàn chân“ được bao quanh ở phía tây biển Tyrrhenian và phía đông biển Adriatic. Dãy Alpennin chạy dài giống như xương sống của bán đảo này; và là biên giới phía bắc có nhiều hồ, hồ lớn nhất là Garda (370 km²); Po là sông chính chảy từ dãy Alpen ở biên giới phía tây Ý, xuyên qua đồng bằng Lombardy vào Biển Adriatic. Nước Ý có nhiều đảo, hai đảo lớn nhất là Sicilia (25.708 km²) và Sardinia (24.090 km²). Những thành phố lớn quan trọng: Rom, Mailand, Turin, Genua, Paermo, Bologna, Florenz, Catania, Venedid, Bari, Triest, Messina, Verona, Padua, Cagliari. Các phi trường quốc tế: Rom, Mailand và Venedig và những hải cảng quan trọng: Genua, Neapel, Venedig, Livorno, Palermo và Triest.

Hệ thống giao thông về đường sắt: 19.394 km; đường bộ 654.676 km, hơn 6957 km là xa lộ (nếu xe chạy trên xa lộ phải trả tiền thuế đường) đường sông dài 2400km. Núi Mont Blance (Monte Biano) cao nhất, về phiá Nam còn những núi lửa hoạt động. Ý trải qua thời gian lập quốc cũng lắm phong trần từ thời cổ đại qua nhiều triều đại, sự hiện diện của con người tại đây có từ thời đồ đá khoảng 200.000 năm trước. La Mã cổ đại có nền văn minh phát triển trên báb đảo Ý. Từ thế kỷ thứ 8 trước CN, trở thành một đế chế trải dài theo Điạ Trung Hải. Đế chế nầy đã thống trị toàn bộ các vùng lân cận. Quốc gia Ý độc lập, cũng ôm mộng đế quốc như các quốc gia Âu Châu: Anh, Pháp, Đức, Hoà Lan, Tây Ban Nha từng dùng sức mạnh đánh chiếm các quốc gia chậm tiến. Thế chiến I (1914-1918) Ý đứng về phía liên quân Anh-Pháp. Tháng 11.1918 Ý đánh bại Đế chế Áo-Hung. Trong cuộc chiến này 600.000 người Ý thiệt mạng, nền kinh tế sụp đổ với tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp cao.

Năm 1921 Mussolini được bầu vào nghị viện của nhà nước Phát xít. Năm 1922 B.Mussolili tổ chức Đảng phaxit Ý đi về Roma để biểu dương lực lượng "La marcia di Roma " và sau đó vua Ý Victor Emmanuel III trao quyền hành cho ông ta. Mussolini được gọi là Duce “chỉ huy” giữ vai trò là thủ tướng, Mussolini dần dần chuyển chế độ chính trị sang chủ nghĩa phát xít.. Mussolini là thân hữu của Adolf Hitler (1889-†1945) cùng tạo kế hoạch để Đức tấn công Áo. Năm 1936 Ý xua quân đánh chiếm Ethopien. Năm 1938 Mussolini đồng ý Hitler sát nhập Áo và lập ra hiệp ước Munich. Đệ nhị thế chiến (1939-1945) Mussolini lúc đầu không dám can thiệp cùng phía Đức, vì quân đội Ý còn yếu kém, nhưng tháng 4.1939 Ý chiếm Albania, Bắc Phi (Nordafrika), năm 1940 Pháp bị Đức đánh bại, ngày 23.6.1940 Pháp đầu hàng Đức. Mussolini nghĩ thế cờ đã đến tay nên quyết định tham gia cuộc chiến, hy vọng trục Phát xit Đức-Ý-Nhật sẽ chiến thắng trong một thời gian ngắn. Tháng 10.1940 Ý chiếm Hy Lạp dùng Albania làm bàn đạp nhưng phải rút lui. Sau khi Ý chinh phục Somalia thuộc điạ của Anh năm 1940, bị quân Đồng Minh phản công thiệt hại nặng. Quân Ý bị Đồng Minh đánh bại tại Bắc Phi, và chỉ trụ vững nhờ sự hỗ trợ các quân đội Đức Quốc Xã dưới sự chỉ huy của tướng Erwin Rommel. Năm 1943 Vua Vittorio Emanuele và nhóm đối lập với Mussolini tháng 6.1943 lật đổ chính quyền do Mussolini lãnh đạo, Mussolini bị bắt giữ tháng 7.1943. (sau đó nhờ toán cảm tử quân Đức của Otto Skorzeny giải thoát). Các đảng chính trị chống Phát xít ở Ý trước kia bị cấm được hoạt động trở lại, có các cuộc đàm phán hòa ước bí mật với phe Đồng Minh tháng 9.1943. Ngay lập tức Đức tấn công Ý để ủng hộ Mussolini và trở thành một mặt trận lớn. Phần đất dưới sự chiếm đóng Phát xít, dưới lãnh đạo của Mussolini, nên xảy ra cuộc nội chiến đẫm máu giữa quân du kích Ý và quân đội Phát xít. Ý được giải phóng 25.04.1945. Phe trục Phát xít thua trận, Mussolini (1883-†1945) bị bắt và lập tức được đưa vào toà án binh ngày 28.04.1945 sau đó ông bị treo cổ với vợ Clara Petacci (1912-†1945) tại Giulino di Mezzegra Comer. Cuộc sống của những bạo chúa, độc tài ngang dọc, đến lúc mạc vận, xuôi tay ra đi với hai bàn tay trắng, cát bụi trở về với các bụi. (Bài học trong lịch sử cho thấy chế độ Phatxit, Cộng sản độc tài không thuận lòng dân đều bị đào thải. Thiên đường cộng sản tại Nga sụp đổ năm 1989 kéo theo các nước Đông Âu, nhà độc tài Ceausescu của đảng CS Romania bị lật đổ vợ chồng đều bị giết chết ngày 24.12.1989)

Năm 1949 Ý trở thành một đồng minh của Mỹ qua kế hoạch Marshall, “chương trình phục hưng Châu Âu" (European Recovery Program viết tắt ERP) Mỹ giúp Ý khôi phục nền kinh tế. Mười năm sau Ý phát triển kinh tế mạnh. Ý là quốc gia phát xuất một phần văn hóa Âu Châu, cũng là nơi khởi đầu ra phong trào Phục hưng. Thủ đô Roma từng là trung tâm của nền Văn Minh cổ và là trung tâm của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo. Từ năm 1948 theo hiến pháp nghị viện lưỡng viện (Parlamento), có Viện dân biểu (Camera dei Deputati) và Thượng viện (Senato della Repubblica), một cơ quan tư pháp độc lập, và cơ quan hành pháp có Hội đồng Bộ trưởng (Consiglio dei ministri), do thủ tướng (Presidente del consiglio dei ministri) lãnh đạo. Tổng Thống (Presidente della Repubblica) được nghị viện với một số dân biểu cấp vùng bầu với nhiệm kỳ bảy năm. Tổng thống chỉ định thủ tướng, người đề cử các chức vụ bộ trưởng (được tổng thống chỉ định chính thức). Hội đồng Bộ trưởng phải được sự ủng hộ (fiducia) của cả hai viện. Ý đã gia nhập Liên hiệp quốc năm 1955 và là một thành viên của khối Nato (Tổ chức Hiệp ước Bắc đại tây dương). Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD), Thoả thuận Chung về Thuế quan, Thương mại / Tổ chức Thương mại Thế giới (GATT/WTO), Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu (OSCE) và Hội đồng Âu Châu, từng giữ chức chủ tịch CSCE năm 1994, EU năm 1996 và G8 năm 2001 và nắm chức chủ tịch EU từ tháng 7 tới tháng 12 năm 2003. Ý là quốc gia phát triển hàng thứ 7 trên thế giới trở thành một thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.

Hàng năm có hàng triệu (1) du khách hành hương Roma hay mùa hè tắm biển. Phần lớn người ở miền Nam Đức thường đến Ý nghỉ hè (khoảng cách từ Đức 600 km đến vùng biển Địa trung hải của Ý). Kỹ nghệ nặng sản xuất „made in Italy“ xe hơi Auto gồm có (Fiat Group, Aprila, Piaggio, Ducati, Ferrari, Maserati, Lamborghini, Pagani). Máy bay các loại (Agusta, Alenia, Finmeccanica) tàu thuỷ (Fincantieri). Các loại du thuyền (Ferretti, Azimut). Xuất cảng xe, máy móc, vải sợi, cá, đá cẩn thạch (Marmo), lúa mạch, gạo, bắp, Oliven, rau, trái cây, rượu nho, bò, và các loại giày da, thời trang Armani Valentino,Versace, Benetton, Luxottica ..) dụng cụ điện từ và hoá học … Nhưng phải nhập cảng các nguyên liệu cần thiết cho ngành công nghiệp và nhu cầu năng lượng.

Những nhà bác học như: Galileo Galilei (1564-†1642) sinh tại thành phố cổ Pisa tây bắc Ý, ông bác bỏ lý thuyết của Aristotle cho rằng “vật nhẹ thì rơi chậm, vật mặng thì rơi nhanh”. Galilei thí nghiệm chứng minh rằng nếu không có sức cản của không khí thì các vật rơi xuống cùng một lúc, như vậy vật nặng hay nhẹ đều rơi với vận tốc như nhau. Năm 1609 ông chế viễn vọng kính đầu tiên, ngày 09.01.1610 là lần đầu ông quan sát được thiên văn khám phá thế giới mới cho nhân loại, và chứng minh thuyết của nhà bác học người Balan Nicolaus Copernicus (1473-†1543) rằng: trái đất và các hành tinh khác đều di chuyển theo qũy đạo của mặt Trời là đúng. Năm 1610, khi Galileo xuất bản cuốn Sidereus Nuncius, trong đó nêu quan điểm mặt trời là trung tâm của vũ trụ, ông đã nhận được lời tán thưởng của cả Johannes Kepler, nhà thiên văn học tài ba và Jesuit Clavius, tác giả của lịch Gregorian.

Quan điểm nhà thờ Thiên Chúa thời bấy giờ tin rằng “Trái đất đứng yên” Toà án dị giáo kết án ông đi ngược lại giáo điều? buộc ông phải sám hối để khỏi bị tội tử hình. nhưng ông không bao giờ từ bỏ lý thuyết “trái đất vẫn quay“. Về già ông bị mù mắt. ông được tôn vinh là nhà khoa học thực nghiệm, dù mù nhưng ông vẫn thấy vũ trụ bao la, về Khoa học lý thuyết của Galilei đóng góp cho nhân loại khám phá ra không gian và vũ trụ. Những cố gắng của Giáo hoàng John Paul II (1920-2005) nhằm nối lại hoà bình với khoa học bắt đầu ngay từ lễ nhậm chức của ngài vào tháng 10.1978. Đến ngày 10.11.1979 trong lần tưởng niệm húy nhật thứ 100 của Albert Einstein (1879-†1955) Đức Giáo hoàng yêu cầu các Học giả, Sử gia và các nhà Thần học điều tra vụ án Galileo một cách kỹ lưỡng. Một uỷ ban được thành lập và đưa ra kết luận năm 1992. Đức Giáo hoàng thừa nhận những sai lầm do toà án dị giáo gây ra vì đã buộc tội nhà Thiên văn học. "Hãy thứ lỗi cho chúng tôi về thái độ thù địch ... do sự thiếu nhận thức về sự tự do chính thống trong khoa học". Đánh giá công lao nghiên cứu của Galilei, người ta ghi trên bia mộ: „Ông đã mất thị giác, vì trong thiên nhiên không còn cái gì ông chưa thấy“

- Enrico Fermi (1901-†1954) nhà Vật lý do công việc về phân rã Beta, phát triển của lò phản ứng hạt nhân đầu tiên, và phát triểnlý thuyết lượng tử. Fermi nhận giài Nobel vật lý 1938, công việc gây ra tính phóng xạ.

- Alessandro Giuseppe Antonio Anastasio Volta (1745-†1827) là nhà vật lý. Ông là người đã có công phát minh ra Pin điện và tên của ông được đặt theo đơn vị điện thế volt (ký hiệu V).

- Joseph-Louis Lagrange (1736-1813) là nhà tóan học, thiên văn. Ông đã có những đóng góp quan trọng trong nhiều lĩnh vực giải tích toán học lý thuyết số, cơ học cổ điển và cơ học thiên thể, ông là nhà toán học vĩ đại nhất của thế kỷ thứ 18.

- Leonardo của Pisa (1170-†1250), là nhà tóan học tài ba nhất thời Trung cổ

- Fibonacci (1170-†1250) nổi tiếng có công lan truyền hệ ký số Hindu- Á Rập ở Châu Âu, vào đầu thế kỷ 13 trong cuốn (Liber Abaci) của ông. Dãy số hiện đại mang tên ông, số Fibonacci tuy ông không phải là người khám phá nhưng đã dùng nó làm thí dụ trong cuốn Liber Abaci

- Marchese Guglielmo Marconi (1874-†1937) là người phát minh ra máy điện báo Radio Ông cùng Karl F. Braun là hai người người đồng nhận giải Nobel vật lý 1909 "công nhận những đóng góp của họ cho sự phát triển của ngành vô tuyến"

- Antonio Meucci (1808-†1889) là nhà phát minh một dạng máy liên lạc giọng nói năm 1857. Meucci là người phát minh ra máy điện thoại đầu tiên.

Ngoài những sinh hoạt về khoa học thành công trên, về bản sắc văn hóa nghệ thuật của dân tộc Ý cũng không kém phần quan trọng trong kho tàng văn chương thế giới. Chuyện tình lãng mạn của Romeo và Juliet, hai người yêu nhau nhưng số mệnh không cho họ sống bên nhau, vì hai người là con của hai dòng họ vốn ghét nhau nhiều thế hệ tại thành phố Verona, nhưng hai người vượt qua những định kiến để yêu nhau, và kết thúc cuộc tình là một bi kịch đau thương. Chuyện tình nầy năm 1597 nhà soạn kịch người Anh lừng danh thế giới William Shakespeare (1564-†1916) soạn vở kịch xuất sắc và nổi tiếng trên sân khấu kịch nghệ quốc tế. Năm 1856 nhà văn Gottfried Keller người Thụy sĩ viết tiểu thuyết Romeo und Julia auf dem Dorfe, từ năm 1908-1996 đã có 6 hãng Phim sản xuất phim chuyện tình Romeo và Julia.

Âm nhạc luôn đóng vai trò quan trọng trong văn hóa Ý. Là nơi khai sinh ra Opera truyền thống âm nhạc cổ điển. Nhạc cổ điển hiện tại đều có thể tìm thấy nguồn gốc từ những phát minh dụng cụ ở thế kỷ 16 và 17 (symphony, concerto & sonat). Những nhà soạn nhạc nổi tiếng thời Phục hưng: Giovani Pierluigi, Monteverdi Baroque, Arcangelo Corelli và Antonio Vivaldi các nhà soạn nhạc cổ điển như Niccolò Paganini & Gioacchino Rossi. Các nhà soạn nhạc lãng mạn như: Giuseppe và Giacomo Puccini. Các nhà soạn nhạc Ý hiện đại là: Luciano Berio, Luigi Nono góp phát triển nền âm nhạc của thế kỷ 21.

Họa sĩ tài danh Leonardo da Vinci (1452-†1519) là một thiên tài toàn năng (sinh tại Anchiano Ý nhưng qua đời tại Amboise Pháp).Thời gian từ (1495-1497) Leonardo vẽ một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của ông là “Bữa ăn tối cuối cùng của Chúa Jésu và 12 Tông đồ” trong nhà thờ Santa Maria delle Grazie. Năm 1506 Leonardo hoàn thành bức danh họa Mona Lisa còn gọi (La Gioconda) ngày nay nhiều hoạ sĩ họa lại bức tranh nầy, nhưng không thể vẽ nụ cười của người xưa trong tranh. Hoạ sĩ Sandro Botticelli (1445-†1510) nổi tiếng với bức hoạ mẹ Maria bế Chúa hài đồng cùng các thiên thần. Ngòai ra còn những danh họa: Donatello, Fra Angelico, Tintoretto, Caravaggio, Bernini, Titian, Micchelangelo và Raffaello sanzio….

Những triết gia: Marsilo Ficino (1433-†1499) là nhà nhân chủng học người đầu tiên dịch nguyên bản các tác phẩm của Platon sang latin, Niccolo Machiavelli (1469-†1528) nhà triết học chính trị, nhà ngoại giao nhạc sĩ sau nầy, triết gia Jean-Jacques Rousseau (1712-†1778) ảnh hưởng đến sự phát triển của lý thuyết xã hội, của Niccolo và Giordano Bruno (1648-†1600) triết gia, khoa học gia là Linh mục một trong những nhân vật đầu tiên đưa ra ý tưởng về một Trái Đất vô tận và đồng nhất. Bruno cho rằng vũ trụ bao la, vô tận trong đó có các sinh vật, các hành tinh chưa được khám phá. Bruno bị tòa án La Mã kết tội và bị hỏa thiêu tại Roma 1600. Ông là tấm gương đầu tiên hy sinh cho khoa học.

Các tác giả văn học hiện đại là những người đoạt giải Nobel văn học: nhà thơ quốc gia Giosuè Carducci (1835-†1907) “phong cách mới mẻ và sức mạnh trữ tình trong thơ", nhà văn nữ Grazia Deledda (1871-†1936), nhà văn, nhà soạn kịch Luigi Pirandello (1867-†1936), nhà thơ Sal vatore Quasimondo (1901-†1968) và nhà thơ nhà phê bình văn học Eugenio Montale (1896-†1981)

Người Ý rất hâm mộ thể thao vì từ thưở xa xưa có các trận đấu sĩ thời Roma cổ đại, đấu trường Colosseum là di tích lâu dài, hiện nay có nhiều câu lạc bộ thể thao, đội banh quốc gia được chung kết 16 lần giải túc cầu thế giới (Fußball Weltmeister) giữ chức vô địch 4 lần (1934-1938-1982 và 2006) và năm 1968 vô địch giải Âu Châu (Fußball Europameister). Các môn thể thao mùa đông cũng khá phổ biến, nhiều người Ý tranh tài tại các Olympic. Thế vận Hội mùa đông được tổ chức tại Ý năm 1956 (Cortina d’Ampezzo) và năm 2006 (Torino) Hoạt động thể thao vào các lễ hội ở Ý như Palio cuộc đua Gondola tại Venezia vào ngày Chủ nhật đầu tiên của tháng 9, các bộ môn thể thao không thể thiếu trong đời sống của dân tộc Ý.

Ý phát triển về Khoa học, văn học, âm nhạc, thể thao … ngoài ra có thực phẩm phổ thông là: Pizza, Spaghetti. Theo tài liệu khác nhau cho rằng Pizza nguồn gốc từ Hy Lạp? Spaghetti là loại mì sản xuất tại Trung Hoa? Không cần tranh luận người ta đều biết Pizza ra đời tại Ý vào năm 1889 khi nữ hoàng Margherita Teresa Giovanni, hoàng hậu của vua Umberto đệ nhất đến thăm Napoli. Raffaele Esposito, chủ quán rượu Pietro li Pizzaiolo đã đãi món Pizza là một đặc sản nổi tiếng. Từ đó nhiều loại Pizza ra đời là món ăn nhanh thơm ngon đơn giản. Năm 1905 người Ý tên là Gennaro Lombardi đến New York lập nghiệp mở tiệm Pizza đầu tiên trên xứ Mỹ. Nước Đức tuy gần Ý nhưng cho đến năm 1952 lần đầu tiên tiệm Pirzza „Sabbie di Capri“ mở ở Würzburg thuộc tiểu bang Bavaria. Cho đến ngày nay, Pizza và Spaghetti có mặt ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ở mỗi nơi, người ta làm Pizza hay Spaghetti pha chế thêm bớt gia vị để có đặc trưng ẩm thực riêng. Người Ý có thể làm chả giò Việt Nam, nhưng họ không thể chế nước mắn thơm ngon như các bà nội trợ người Việt.

Nước Ý đào tạo nhiều nhân tài cho nhân loại, nhờ những đại học lâu đời nhất thế giới. Trường Đại học Bologna có từ năm 1088 (mỗi năm theo học 100.000 SV) hiện nay hàng trăm Đại học đủ các ngành ở khắp nơi. Đại học lớn nhất là Sapienza ở Rom có hơn 130.000 sinh viên (so với Việt Nam có lịch sử 4 ngàn năm Văn hiến, nhưng đại học đầu tiên ở Hà Nội thành lập từ năm 1918)

Từ 1989 các quốc gia Đông Âu bỏ chế độ CS, làn sóng di cư từ Đông Âu đến Ý khoảng 1.025.874 người. Ngoài ra còn có các sắc dân khác như: Albania (348.813) người Tàu (127.822) Romania (297.570) Ukraina (107188). Thiểu số người Việt tỵ nạn CS khoảng 3000 người, được Hải quân Ý vớt trên biển đông năm 1979 và tiếp tục thâu nhận theo diện nhân đạo của chính phủ và nhân dân Ý.

Nhìn lại lịch sử Việt Nam trải qua một ngàn năm Bắc thuộc, gần một trăm năm nô lệ giặc Tây, nhưng dân tộc Việt Nam đoàn kết chống ngoại xâm giành độc lập và giữ gìn bờ cõi, không ai muốn rời bỏ quê hương. Biến cố lịch sử ngày 30.4.1975 chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước nhưng hàng triệu người miền Nam tiếp tục bỏ nước, bất chấp phong ba bão tố hay hải tặc cướp của, hảm hiếp, giết người; bất chấp gian khổ khi vượt thoát bằng đường bộ; hay những nguy hiểm đến sinh mạng khi làm kiếp thuyền nhân để đi tìm hai chữ TỰ DO.

Làn sóng vượt biên sôi động nhất từ năm 1978, 1979 thuyền nhân Việt Nam đến các nước láng giềng tại Á Châu bị xua đuổi, chìm tàu, bị hải tặc Thái hãm hiếp đàn bà, trẻ em. Làm chấn động lương tâm Thế giới. Cao Ủy Tỵ Nạn (United Nations High Commissioner for Refugees) kêu gọi các quốc gia tự do mở vòng tay nhân đạo đón nhận người Việt tị nạn. Hội nghị Genève, ngày 20-7-1979, Thụy Sĩ, 65 quốc gia đã nhóm họp để bàn cách cứu Thuyền nhân Việt Nam.

Đoàn Tàu Hải quân Ý vớt thuyền nhân Việt Nam

Ngày 27.06.1979 tàu Vittorio Veneto bỏ neo ở Tolone được lệnh về lại cảng Taranto, chuẩn bị cuộc hành trình dài đến biển Đông tìm vớt thuyền nhân Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên Hải quân Ý sau đệ Nhị Thế chiến (1939-1945) rời biển Điạ Trung Hải hoạt động xa, hải hành dài 12.000 km. Ngày 5.7.1979 lúc 10 giờ từ cảng Taranto, tàu Hải quân dưới sự chỉ huy của Đô đốc Sergio Agostinelli của hạm đội thứ 8 của Ý, phối hợp với các tàu V.Veneto (450 giường), Andrea Doria (270 giường), Stromboli (112 giường), đều được trang bị bệnh viện cấp cứu đầy đủ phương tiện. Lương thực, nước uống đầy đủ để thi hành sứ mệnh nhân đạo. Những thuyền trưởng, thủy thủ đoàn, những người thiện nguyện y tá, bác sĩ với lòng nhiệt huyết tình nguyện làm việc nhân đạo trong đó sinh viên Nguyễn Hữu Phước (tàu Stromboli) và hai linh mục: Domenico Vũ Văn Thiện (tàu Doria) và L.m Philip. Trần Văn Hoài (tàu Veneto) cũng đã có mặt trên đoàn tàu làm thông dịch.

Đoàn tàu đến Singapore với hải trình dài 2640 hải lý (tìm kiếm) thuyền nhân VN trên vùng biển rộng khoảng 250.000 km². Thời gian hoạt động các hải quân Ý trên biển đông vớt được những ghe, tàu vượt biên trong cơn “thập tử nhất sinh” tổng số 907 thuyền nhân. Chiều ngày 02.08.1979 đoàn tàu trở về cố quốc mang theo toàn thể thuyền nhân Việt Nam. Buổi sáng thứ Hai ngày 21.08.1979 đến Venezia, được đón mừng nồng nhiệt, các phái đoàn đại diện chính phủ lên tàu thăm chúc mừng thuyền nhân là Bộ trưởng Quốc phòng, phó bí thư bộ ngoại giao Zamberletti, tướng tư lệnh bộ quốc phòng, tư lệnh Hải quân, Giám đốc văn phòng bộ trưởng, Đức giám mục, các cơ quan truyền thông báo chí.

Chúng ta đến xứ sở nầy với đôi bàn tay trắng, vượt qua những khó khăn thử thách để hội nhập và làm nên sự nghiệp. Kinh nghiệm sống là một bài học, một di sản vô giá cho thế hệ mai sau. Có „ôn cố“ mới có „tri tân“. Người không có quá khứ là người bị bứng gốc trong hiện tại và trở thành vô định trong tương lai. Người Việt dù sống ở bất cứ nơi nào trên thế giới, đều ý thức được việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc Việt, duy trì ngôn ngữ Việt, cùng một tâm trạng, một nỗi niềm về quá khứ với nhiều biến động đau thương của một thời để cùng chia xẻ, gần gũi với nhau hơn. Đã 30 năm trôi qua nhưng chúng ta nhớ lại kỷ niệm và không quên tri ân cứu tử của chính quyền và nhân dân Ý. Chúng ta rời Việt Nam lúc tóc hãy còn xanh, nhưng sau 30 năm thì tóc đã bạc màu thời gian. Nhìn lại sinh hoạt của Cộng Đồng Người Việt tại hải ngoại nói chung, đặc biệt tại Ý hội nhập và trưởng thành trên mọi phương diện. Nhưng sinh hoạt của người Việt tại Ý hơi trở ngại, vì người Việt ở rải rác khắp nơi. Muốn tổ chức ngày hội ngộ có 500 người tham dự rất khó. Tuy nhiên ngày 22.08.2009 Hội Người Việt tại Ý để thể hiện tinh thần „đoàn kết“ và „ăn trái nhớ kẻ trồng cây“, không phân biệt người đến trước người đến sau, cố gắng cùng tổ chức „Hội Ngộ 30 Ngưòi Việt Tỵ Nạn Cộng Sản Tại Ý“ và phát hành Bản Tin „Cuộc Hành Trình Vượt Biển, được biết ban BTC đã liên lạc với Bộ Quốc Phòng, Bộ tư lệnh Hải Quân mời các thuyền trưởng và thủy thủ đoàn của những chiếc tàu đã cứu sống người Việt chúng ta trên biển cả, cảm ơn chính quyền, những nhà bảo trợ ân nhân người Ý.

Trên tàu 30 năm trước vẫn còn vang vọng dư âm Lm. Philip Trần Văn Hoài (sau nầy lên Đức Ông) đại diện người Việt-Nam phát biểu: “Kính thưa Đô-đốc, Hạm trưởng, các Sỹ-quan, các Hạ-sĩ-quan, các Thủy-thủ: Cám ơn vì đã cứu vớt chúng tôi Cảm ơn tất cả những ai với tấm lòng của tín đồ Thiên-chúa-giáo đã hy sinh cho chúng tôi suốt đêm-ngày … Người Ý các vị có trái tim thật tốt, không ai có thể đối xử với chúng tôi tốt đến vậy …Chúng tôi đã “chết-đi-sống-lại” bởi lòng tốt của các vị … Sáng nay trên phi đạo chúng tôi đã ngắm nhìn bờ biển Ý một làn gió nhẹ ngọt ngào mơn-man trên mặt như dấu hiệu chào đón và làm đầy sự vui sướng trong tim chúng tôi … Các vị khác hẳn mọi dân khác: với các bạn có một đồng loại bất hạnh và vì lẽ đó các bạn phải xả thân..“ (2)

Nhớ lại những ngày đầu đến Ý còn xa lạ, ngỡ ngàng nhưng bây giờ là quê hương thứ 2. Con cháu trưởng thành như một người bản xứ, nhiều người đi làm có đời sống ổn định mua nhà riêng, nhiều người đã về hưu non, vui hưởng tuổi già suy ngẫm về nhân tình thế thái, cõi nhân sinh và hãnh diện con cháu thành đạt. Viên mãn cuộc sống, là điểm dừng của tham vọng, để tâm hồn thanh thản, không bao giờ quên những ân tình của đời đã trao.

(Thân chúc Nguyễn Văn Hoàng bạn một thời Phan Châu Trinh Đà Nẵng, năm 1971 du học Ý. Bà xã Hoàng là Tô Cẩm Hoa được tàu Hải quân Ý vớt năm 1979. Tổ chức ngày Hội ngộ 30 năm tại Ý thành công).

Nguyễn Quý Đại

Tài liệu tham khảo:

- Universal Lexikon Faktum Lexikon Institut
- Lexilon der Gesichte Faktum Lexikon Institut
- 5 hình trên nguồn từ Internet

(1) khoảng 43 triệu du khách đến Ý. Vatican được gọi là đất Thánh, nhưng rất tiếc không „hiền“ thành phần xấu lợi dụng vùng đất nầy để móc túi, giật xách, trộm xe…Du khách phải cẩn thận tránh những buồn phiền có thể xảy ra …

(2) Sứ mạng cho Việt Nam của Đức ông Luigi Callegaro & Cappellano