Friday, August 7, 2009

Biểu ngữ phản đối khai thác Aluminium (Nhôm) giăng trên Nhà thờ lớn tại Iceland

“Dear Iceland: Fuck You! Yours Truly, Aluminium”
Banner Drop on the Biggest Church in Iceland

Hallgrímskirkja
Hallgrímskirkja (the biggest church in Iceland)

Source: http://savingiceland.puscii.nl/?p=4001&language=en

Aug 03 2009 10:57 pm

Dear Iceland(ers).

Hallgrímskirkja
Hallgrímskirkja (the biggest church in Iceland)

This morning we, the Aluminium Industry, hung a banner on Hallgrímskirkja (the biggest church in Iceland) to finally express cleary what we have been trying to tell you all of the time. We decided that the methods of greenwashing and manipulation are no longer needed, since we obviously managed to convince you already about the glory of heavy industry.

We wanted the Icelandic Nation to fully understand, that we don’t care about anything else than our own advantages and of course our profit. We don’t care about the impacts of our actions, on people here in Iceland or elsewhere in the world. Many lives, human and non-human, have been effected by our work all over the globe:

  • Whole tribes of indigenous people have lost their lives and/or livelihoods through a cultural genocides caused by our projects; bauxite mining, alumina refining, aluminium production, and transportation between continents. (1) (2)
  • Earth-damage and pollution are constantly increasing as we keep trying to fulfill our never satisfying greed.
  • Due to our major role in warfare and the military industry many people could feel the impact of aluminium on their own bodies… (3)
  • We do not take responsibility for any of these things. (4)

Hallgrímskirkja (Church)
Hallgrímskirkja (Church)

Furthermore, the delight of working with the Icelandic authorities is definitely worth being mentioned – getting one of the cheapest energy in the world and being able to exploit the countries natural and human resources in return for nothing makes us feel very welcome. (5) (6)

Using the country and the naiveté of some people who live here for our own good, is almost too easy. Anyway, we are thankful how well the cooperation worked and without a doubt we plan to go on in the future.

If there are still people in this country who don’t agree with our methods then we have only this to say: FUCK YOU! We are here to stay, so you better get used to it!

Profit, destruction and death!
Your sincerely, Aluminium.

Links and resources:
(1). Samarendra Das and Felix Padel, Agya, What Do You Mean by Development?, http://savingiceland.puscii.nl/?p=1029&language=en - see also by the same authors, Double Death - Aluminium’s Links with Genocide, http://savingiceland.puscii.nl/?p=602&am…
(2). Survival International’s webpage about the Dongria Kondh tribe in Orissa, India, http://www.survival-international.org/tr…
(3). Alcoa Defense, http://www.alcoa.com/defense/en/home.asp
(4). In an article by Erna Indriðadóttir, Alcoa’s P.R. Manager, she states that Alcoa only produces aluminium but has nothing to say about the future of it. The article was a response to articles that were written were Alcoa was said to be an arms producer. By only taking a look at the website of Alcoa Defense, one can see that Alcoa is a proud cooperator with the American army and several heavy-duty weapon producers. This is not the first and not the last time when Alcoa’s directors or workers here in Iceland try to hide the real facts about the company. Erna’s article can be found here: http://www.alcoa.com/iceland/ic/news/wha…
(5). An Agency of Industry and Energy and the National Power Company (1995), bæklingurinn Lowest Energy Prices!! In Europe For New Contracts
(6). News article on Mbl.is,

****

Biểu ngữ phản đối khai thác Nhôm (Aluminium)
giăng trên Nhà thờ lớn nhất tại Ai-xơ-len (Iceland)


Hallgrímskirkja
Hallgrímskirkja (the biggest church in Iceland)

Source:
http://savingiceland.puscii.nl/?p=4001&language=en


03-08-2009 10:57 pm

Nhân dân Ai-xơ-len thân quý,

Hallgrímskirkja (Church)
Hallgrímskirkja (Church)
Sáng hôm nay, ngành Công nghiệp Nhôm chúng tôi đã treo một biểu ngữ trên nhà thờ Hallgrímskirkja (nhà thờ lớn nhất tại Ai-xơ-len) để dứt khoát nhắc cho các bạn nhớ một lần cuối, lời mà chúng tôi đã hằng tâm sự với các bạn. Chúng tôi đã quyết định rằng mọi phương pháp xử lý quặng và rửa quặng thân thiện môi trường chẳng còn cần thiết nữa, bởi vì chúng tôi đã hoàn toàn thuyết phục được các bạn qua cái tiếng tăm lẫy lừng của ngành công nghiệp nặng này.

Chúng tôi muốn nhân dân Ai-xơ-len nhận thức được đầy đủ rằng chúng tôi chẳng màng đến bất cứ điều gì ngoài thế mạnh và dĩ nhiên là lợi nhuận của chúng tôi. Chúng tôi bất chấp những hậu quả mà chúng tôi đem đến cho người dân Ai-xơ-len nói riêng cũng như cho thế giới nói chung.

Sau đây là danh sách những hậu quả đó:
  • Hết thảy các bộ tộc bản địa đã đánh mất cuộc đời và sinh kế của họ qua tội ác diệt chủng văn hóa gây ra bởi các dự án của chúng tôi, đó là các dự án khai thác bauxite, luyện alumina, sản xuất nhôm,và vận chuyển chúng đi khắp mọi nơi.
  • Mức ô nhiễm và hủy hoại trái đất ngày càng tăng theo lòng tham không đáy của chúng tôi.
  • Nhờ vai trò thiết yếu của chúng tôi trong chiến tranh cũng như trong công nghiệp quân sự mà mọi người đều cảm nhận được tác động của nhôm lên cơ thể.
Chúng tôi hoàn toàn không chịu trách nhiệm với bất kỳ hậu quả nào trong các hậu quả kể trên. Tuy nhiên, chúng cũng cám ơn sự hợp tác mà chúng tôi có được khi làm việc với các nhà chức trách của Ai-xơ-len: Chúng tôi vô cùng hài lòng vì đã có được một trong những nguồn năng lượng rẻ nhất thế giới, đã bóc lột được tài nguyên thiên nhiên cũng như nguồn nhân lực rẻ mạt mà chẳng phải đánh đổi bất cứ thứ gì.

Chúng tôi có thể lợi dụng đất nước các bạn và sự ngây thơ của một số người trong các bạn để trục lợi cho chúng tôi một cách quá dễ dàng. Dù sao đi nữa, chúng tôi cũng phải chịu ơn các bạn về hợp tác tốt đẹp này, và chắc chắn rằng chúng tôi sẽ tiếp tục hợp tác với các bạn trong tương lai.

Nếu vẫn còn ai đó trên đất nước này không đồng thuận với phương pháp của chúng tôi, thì chúng tôi chỉ có thể nói thế này: Đ.M. CÁC BẠN! Chúng tôi đã quyết định dừng chân nơi đây, vì vậy chúng tôi có lời khuyên rằng các bạn phải biết chấp nhận thực tế!

Lợi nhuận, hủy diệt và chết chóc muôn năm!

Trân trọng mến chào,

Nhôm

Cảm Khái - Thơ Cao Tần


Cảm khái
Cao Tần

Trong ví ta này chứng chỉ tại ngũ
Mất nước rồi còn hiệu lực hơi lâu
Chiều lưu lạc chợt thương tờ giấy cũ
Tái tê cười: giờ gia hạn nơi đâu?

Trong ví ta này một thẻ căn cước
Hình chụp ngây ngô rất mực cù lần
Da xám ngoét như bị đời nhúng nước
Má hóp vào như cả tháng không ăn

Mười tám tuổi thành công dân nước Việt
Tên chụp hình làm ta xấu như ma
Thằng khốn nạn làm sao mà nó biết
Ta sẽ thành dân mất nước tan nhà!

Hai mươi tuổi ta đi làm chiến sĩ
Bước giày đinh lạng quạng một đời trai
Vừa đánh giặc vừa lừng khừng triết lý
Nhưng thằng này yêu nước chẳng thua ai ...

Hình căn cước anh nào mà chẳng xấu
Tên chụp hình như một lão tiên tri
Triệu mặt ngây ngô bàng hoàng xớn xác
Cùng đến một ngày gẫy đổ phân ly

Nhìn hình chim in trên tờ chứng chỉ
Chợt nhớ câu thơ: “Gẫy cánh Đại Bàng ...”
Ngàn lẫm liệt tan trong chiều rã ngũ
Muôn anh hùng phút chốc hóa lang thang

Quanh mình xôn xao chuyện thay Quốc tịch
Ngậm ngùi bày dăm giấy cũ coi chơi
Thời cũ ố vàng, rách rời mấy mảnh
Xót xa đau như mình bỗng qua đời.

Hỡi kẻ trong hình mặt xanh, mày xám
Ngươi sắp thành tên mọi Mỹ rồi ư
Hỡi thằng chiến binh một đời dũng cảm
Mày lang thang đất lạ đến bao giờ

Ôi trong ví mỗi người dân mất nước
Còn một oan hồn mặt mũi ngu ngơ
Ôi trong trí những anh hùng thuở trước
Còn dậy trời lên những buổi tung cờ




Phiếm: Câu chuyện “bộ đội” - Ba Quốc (tế)

Ba Quốc (tế)


Một “bộ đội” (tiếng lóng chỉ người Việt nhập cư lậu vào Châu Âu) ra tòa án Hamburg, nước Ðức hồi tháng Hai, năm 2007 vì tội cướp và giết người. (Hình: DAVID HECKER/AFP/Getty Images)
Câu nói “em cũng là bộ đội” của cậu bé người miền Bắc, mà bây giờ tui biết rõ hơn là vùng Thanh Hóa - Nghệ An, khiến tui tò mò cứ muốn bám theo để coi “bộ đội” nghĩa là như thế nào. Ðã thức nguyên đêm cùng hội “đóng người”, đột nhập xe tải vượt biên từ Pháp vào Anh như đã kể trong số báo trước, nhưng vì tò mò nên tới giờ tui vẫn tỉnh như sáo. Ði theo anh ta - tạm gọi là X - về nhà. Pha hai ly cà phê Trung Nguyên từ cái bao cà phê đúng nhãn hiệu, và hai cái phin sắt cũng chánh hiệu con nai vàng Sài Gòn luôn, X từ từ kể.

- Em cũng từng ở trong đấy suốt. X khoe.

- Sài Gòn, Bảo Lộc, Buôn Mê Thuột, rồi Ðắc Nông, Kon Tum, đủ cả anh ạ. Có lúc làm chân lon-ton trông cửa hàng cho bà cô, có lúc lại lên núi trông rẫy cà phê cho ông chú thằng bạn. Gom góp mãi mới đủ tiền sang đây đấy.

X cười vô tư, lật cái nắp phin bỏ xuống dưới, cầm chiếc muỗng nhỏ quậy đường lên, đúng kiểu cà phê lề đường ở nhà.

- Nhưng tại sao người không có giấy tờ bên này lại gọi là bộ đội? Tui chịu hết nổi.

- Ha ha, ông anh chắc Việt Kiều Mỹ nên dị ứng với chữ “bộ đội”.

Anh ta phá lên cười rồi chầm chậm giải thích.

- Bộ đội là gì? Là vượt núi băng rừng, lưng ba lô, chân đạp đá tai mèo. Chúng em không phải bộ đội chứ là gì. Trên răng dưới các-tút, ra đi chưa kiếm đủ tiền quyết không về, cắn răng chịu khổ giải phóng cái nghèo cái đói cho cả dòng họ. Sứ mệnh cao cả lắm anh ạ, còn hơn bộ đội ngày xưa ấy.

Tui giật mình. Hóa ra cái chữ “bộ đội” bây giờ được người ngoài Bắc hiểu như vậy.

- Mà bộ đội như tụi em là loại hiền đó, chỉ chăm chỉ làm ăn, không có súng ống.

Anh ta nói tỉnh queo.

- Nhiều bộ đội chỉ chuyên đi cướp thôi. Bên Ðông Âu mà động vô bộ đội là phiền lắm đó anh hai.

X nhái giọng Sài Gòn, phá lên cười ha hả.

Tui cũng cười phá. Hỏng biết mấy ông cách mạng lão thành hay tuyên giáo cộng sản nghe con cháu mình dùng chữ “bộ đội” để gọi các băng cướp hay đường dây chuyển người lậu thì họ sẽ nghĩ gì. Còn nếu dùng chữ “bộ đội” để chỉ người sống không có giấy tờ như anh X này đang xài thì hiện đang có chừng vài chục ngàn “bộ đội” Việt Nam đang sống ở 25 nước Liên Hiệp Châu Âu.

“Bộ đội” X mở máy tính lên, chỉ cho tui mấy trang tin, cắt nghĩa theo kiểu “bộ đội”. Cảnh sát Ðức thuê riêng một chiếc máy bay để trục xuất 100 “bộ đội” Việt Nam về nước. Ba Lan bắt “bộ đội” giam 90 ngày để chờ A-18 qua thanh lọc lãnh về. Tiệp Khắc trước kia giờ nhan nhản “bộ đội” thất nghiệp, bò ra các khu chợ xin ăn. Chính phủ họ phải khuyến khích, tặng mấy trăm Euro cho ai chịu lên máy bay về nước, bỏ giấc mộng làm giàu “giải phóng” gia đình. Mỗi ngày cả trăm “bộ đội” phục kích chờ xe tải vượt biên vào Anh. Nói chung là “bộ đội” là nỗi lo cho chính quyền tất cả các nước EU.

- Bọn em còn phân loại bộ đội Nghệ Tĩnh với bộ đội Thanh Hóa nữa anh ạ.

X tiếp tục thu hút sự chú ý của tôi bằng những câu chuyện về “bộ đội”.

- Rồi quân khu thủ đô và quân khu “bọ”. Bộ đội nào có ngạch nấy, đi nhầm đường là bị oánh téc mồm ngay.

X đưa tay minh họa, vẻ mặt hào hứng.

- Mười năm trước ở Berlin bộ đội Hà Nội còn bắn nhau với bộ đội Nghệ Tĩnh, phóng xe vãi đạn trên đường không khác gì phim găngstơ Mỹ đâu đấy nhé.

Tự nhiên tui rùng mình. Cũng hên là chưa có đường xe tải nào để vượt biên vô đất Mỹ. Chứ nếu không một ngày “bộ đội” đột nhập, ngồi uống cà phê trên phố Bolsa giống như đang ngồi kể chuyện cho tui nghe đây thì chắc bà con ta sẽ được một phen hoảng loạn hết biết.

Ba Quốc (tế)

Nước Ý và người Việt Tỵ Nạn - Nguyễn Quý Đại


Nguyễn Quý Đại

(Nhân ngày Cộng đồng người Việt Tỵ Nạn ở Ý tổ chức 30 năm người Việt tỵ nạn định cư ở Ý vào ngày 23/08/2009)

Việt Nam chịu ảnh hưởng văn hóa Ý không sâu rộng, trước 1975 sinh viên du học Ý chỉ khoảng 300 người. Tuy nhiên nhiều người VN biết đến quốc gia nầy nhờ có Toà Thánh Vatican, là vùng đất thánh kỳ diệu mà mỗi tín đồ Thiên Chúa Giáo đều mong ước một lần trong đời được hành hương Roma. Vatican diện tích 0.44 km² (44 hectares). Theo các tài liệu thì năm 326, ngôi thánh đường đầu tiên, quảng trường Constantinian, được xây dựng trên mộ của thánh St. Peter. Từ khi xuất hiện thánh đường, bắt đầu có dân cư thưa thớt chung quanh. Nơi ở của Giáo hoàng nằm gần quảng trường được xây dựng từ thế kỷ V. Vatican trải qua nhiều thời kỳ thay đổi của lịch sử.

Mãi cho đến Hiệp ước Lateran (Lateranverträge/Lateran Treaty) Benito Mussolini và Pietro Cardinal Gasparri thay mặt cho vua Victor Emanuel III và Giáo Hoàng Pius XV ký ngày 07.06.1929 Vatican được tự trị, lãnh thổ Vatican bao gồm một vùng đất được xây tường chung quanh dài 3,2 km, nằm giữa thủ đô Roma gọi là “stato della Città del Vaticano”. Đức Giáo Hoàng là người điều hành quốc gia nhỏ bé nầy dưới sự giúp đỡ của Hồng Y Đoàn, Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm Hồng Y giữ chức vụ các bộ trong Tòa Thánh nhiệm kỳ 5 năm. Dân số hơn 1000 người, có quân đội riêng được thành lập ngày 22.01.1506 bởi Giáo hoàng Julius II để bảo vệ và canh gác, hiện nay khoảng 101 người theo truyền thống phải là người Thụy Sỹ. Quảng trường thánh St. Peter, là nơi tập trung tinh hoa của các thời đại, được xây dựng năm 1667 do những nhà kiến trúc, điêu khắc nổi tiếng. Quảng trường được bao bọc bởi vòng cung gồm 284 cột trụ, có thể chứa 25 ngàn người. Trên các cột này khắc 140 tượng thánh, cột trụ đá chính giữa được vận chuyển về từ Ai Cập năm 40 sau công nguyên. Ngoài những cung điện lộng lẫy còn có hơn 20 bảo tàng và thư viện.

Nước Ý nằm về phía Nam Âu Châu dân số 60.054511 người, chưa tính những nguời Ý từ thế kỷ thứ 19 di cư ra nước ngoài lập nghiệp: USA (9 triệu); Nam Mỹ Südarmerika (4,2 triệu); Thụy Sỹ (370.000); Đức (300.000?)… Tổng sản lượng GDP (Gross Domestic Product) tính theo đầu người 38.996$ (2008).

Diện tích 301.336 km², mật độ trung bình 199/ km², biên giới phía bắc là dãy Alpen giáp với Pháp, Thụy Sĩ, Áo và Slovenia. Trong lãnh thổ của Ý có hai quốc gia độc lập là: San Marino và Vatican, còn Campione d‘ italia là vùng đất của Ý nằm trong lãnh thổ Thụy Sĩ.

Ý là một bán đảo dài giống hình „bàn chân“ được bao quanh ở phía tây biển Tyrrhenian và phía đông biển Adriatic. Dãy Alpennin chạy dài giống như xương sống của bán đảo này; và là biên giới phía bắc có nhiều hồ, hồ lớn nhất là Garda (370 km²); Po là sông chính chảy từ dãy Alpen ở biên giới phía tây Ý, xuyên qua đồng bằng Lombardy vào Biển Adriatic. Nước Ý có nhiều đảo, hai đảo lớn nhất là Sicilia (25.708 km²) và Sardinia (24.090 km²). Những thành phố lớn quan trọng: Rom, Mailand, Turin, Genua, Paermo, Bologna, Florenz, Catania, Venedid, Bari, Triest, Messina, Verona, Padua, Cagliari. Các phi trường quốc tế: Rom, Mailand và Venedig và những hải cảng quan trọng: Genua, Neapel, Venedig, Livorno, Palermo và Triest.

Hệ thống giao thông về đường sắt: 19.394 km; đường bộ 654.676 km, hơn 6957 km là xa lộ (nếu xe chạy trên xa lộ phải trả tiền thuế đường) đường sông dài 2400km. Núi Mont Blance (Monte Biano) cao nhất, về phiá Nam còn những núi lửa hoạt động. Ý trải qua thời gian lập quốc cũng lắm phong trần từ thời cổ đại qua nhiều triều đại, sự hiện diện của con người tại đây có từ thời đồ đá khoảng 200.000 năm trước. La Mã cổ đại có nền văn minh phát triển trên báb đảo Ý. Từ thế kỷ thứ 8 trước CN, trở thành một đế chế trải dài theo Điạ Trung Hải. Đế chế nầy đã thống trị toàn bộ các vùng lân cận. Quốc gia Ý độc lập, cũng ôm mộng đế quốc như các quốc gia Âu Châu: Anh, Pháp, Đức, Hoà Lan, Tây Ban Nha từng dùng sức mạnh đánh chiếm các quốc gia chậm tiến. Thế chiến I (1914-1918) Ý đứng về phía liên quân Anh-Pháp. Tháng 11.1918 Ý đánh bại Đế chế Áo-Hung. Trong cuộc chiến này 600.000 người Ý thiệt mạng, nền kinh tế sụp đổ với tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp cao.

Năm 1921 Mussolini được bầu vào nghị viện của nhà nước Phát xít. Năm 1922 B.Mussolili tổ chức Đảng phaxit Ý đi về Roma để biểu dương lực lượng "La marcia di Roma " và sau đó vua Ý Victor Emmanuel III trao quyền hành cho ông ta. Mussolini được gọi là Duce “chỉ huy” giữ vai trò là thủ tướng, Mussolini dần dần chuyển chế độ chính trị sang chủ nghĩa phát xít.. Mussolini là thân hữu của Adolf Hitler (1889-†1945) cùng tạo kế hoạch để Đức tấn công Áo. Năm 1936 Ý xua quân đánh chiếm Ethopien. Năm 1938 Mussolini đồng ý Hitler sát nhập Áo và lập ra hiệp ước Munich. Đệ nhị thế chiến (1939-1945) Mussolini lúc đầu không dám can thiệp cùng phía Đức, vì quân đội Ý còn yếu kém, nhưng tháng 4.1939 Ý chiếm Albania, Bắc Phi (Nordafrika), năm 1940 Pháp bị Đức đánh bại, ngày 23.6.1940 Pháp đầu hàng Đức. Mussolini nghĩ thế cờ đã đến tay nên quyết định tham gia cuộc chiến, hy vọng trục Phát xit Đức-Ý-Nhật sẽ chiến thắng trong một thời gian ngắn. Tháng 10.1940 Ý chiếm Hy Lạp dùng Albania làm bàn đạp nhưng phải rút lui. Sau khi Ý chinh phục Somalia thuộc điạ của Anh năm 1940, bị quân Đồng Minh phản công thiệt hại nặng. Quân Ý bị Đồng Minh đánh bại tại Bắc Phi, và chỉ trụ vững nhờ sự hỗ trợ các quân đội Đức Quốc Xã dưới sự chỉ huy của tướng Erwin Rommel. Năm 1943 Vua Vittorio Emanuele và nhóm đối lập với Mussolini tháng 6.1943 lật đổ chính quyền do Mussolini lãnh đạo, Mussolini bị bắt giữ tháng 7.1943. (sau đó nhờ toán cảm tử quân Đức của Otto Skorzeny giải thoát). Các đảng chính trị chống Phát xít ở Ý trước kia bị cấm được hoạt động trở lại, có các cuộc đàm phán hòa ước bí mật với phe Đồng Minh tháng 9.1943. Ngay lập tức Đức tấn công Ý để ủng hộ Mussolini và trở thành một mặt trận lớn. Phần đất dưới sự chiếm đóng Phát xít, dưới lãnh đạo của Mussolini, nên xảy ra cuộc nội chiến đẫm máu giữa quân du kích Ý và quân đội Phát xít. Ý được giải phóng 25.04.1945. Phe trục Phát xít thua trận, Mussolini (1883-†1945) bị bắt và lập tức được đưa vào toà án binh ngày 28.04.1945 sau đó ông bị treo cổ với vợ Clara Petacci (1912-†1945) tại Giulino di Mezzegra Comer. Cuộc sống của những bạo chúa, độc tài ngang dọc, đến lúc mạc vận, xuôi tay ra đi với hai bàn tay trắng, cát bụi trở về với các bụi. (Bài học trong lịch sử cho thấy chế độ Phatxit, Cộng sản độc tài không thuận lòng dân đều bị đào thải. Thiên đường cộng sản tại Nga sụp đổ năm 1989 kéo theo các nước Đông Âu, nhà độc tài Ceausescu của đảng CS Romania bị lật đổ vợ chồng đều bị giết chết ngày 24.12.1989)

Năm 1949 Ý trở thành một đồng minh của Mỹ qua kế hoạch Marshall, “chương trình phục hưng Châu Âu" (European Recovery Program viết tắt ERP) Mỹ giúp Ý khôi phục nền kinh tế. Mười năm sau Ý phát triển kinh tế mạnh. Ý là quốc gia phát xuất một phần văn hóa Âu Châu, cũng là nơi khởi đầu ra phong trào Phục hưng. Thủ đô Roma từng là trung tâm của nền Văn Minh cổ và là trung tâm của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo. Từ năm 1948 theo hiến pháp nghị viện lưỡng viện (Parlamento), có Viện dân biểu (Camera dei Deputati) và Thượng viện (Senato della Repubblica), một cơ quan tư pháp độc lập, và cơ quan hành pháp có Hội đồng Bộ trưởng (Consiglio dei ministri), do thủ tướng (Presidente del consiglio dei ministri) lãnh đạo. Tổng Thống (Presidente della Repubblica) được nghị viện với một số dân biểu cấp vùng bầu với nhiệm kỳ bảy năm. Tổng thống chỉ định thủ tướng, người đề cử các chức vụ bộ trưởng (được tổng thống chỉ định chính thức). Hội đồng Bộ trưởng phải được sự ủng hộ (fiducia) của cả hai viện. Ý đã gia nhập Liên hiệp quốc năm 1955 và là một thành viên của khối Nato (Tổ chức Hiệp ước Bắc đại tây dương). Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD), Thoả thuận Chung về Thuế quan, Thương mại / Tổ chức Thương mại Thế giới (GATT/WTO), Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu (OSCE) và Hội đồng Âu Châu, từng giữ chức chủ tịch CSCE năm 1994, EU năm 1996 và G8 năm 2001 và nắm chức chủ tịch EU từ tháng 7 tới tháng 12 năm 2003. Ý là quốc gia phát triển hàng thứ 7 trên thế giới trở thành một thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.

Hàng năm có hàng triệu (1) du khách hành hương Roma hay mùa hè tắm biển. Phần lớn người ở miền Nam Đức thường đến Ý nghỉ hè (khoảng cách từ Đức 600 km đến vùng biển Địa trung hải của Ý). Kỹ nghệ nặng sản xuất „made in Italy“ xe hơi Auto gồm có (Fiat Group, Aprila, Piaggio, Ducati, Ferrari, Maserati, Lamborghini, Pagani). Máy bay các loại (Agusta, Alenia, Finmeccanica) tàu thuỷ (Fincantieri). Các loại du thuyền (Ferretti, Azimut). Xuất cảng xe, máy móc, vải sợi, cá, đá cẩn thạch (Marmo), lúa mạch, gạo, bắp, Oliven, rau, trái cây, rượu nho, bò, và các loại giày da, thời trang Armani Valentino,Versace, Benetton, Luxottica ..) dụng cụ điện từ và hoá học … Nhưng phải nhập cảng các nguyên liệu cần thiết cho ngành công nghiệp và nhu cầu năng lượng.

Những nhà bác học như: Galileo Galilei (1564-†1642) sinh tại thành phố cổ Pisa tây bắc Ý, ông bác bỏ lý thuyết của Aristotle cho rằng “vật nhẹ thì rơi chậm, vật mặng thì rơi nhanh”. Galilei thí nghiệm chứng minh rằng nếu không có sức cản của không khí thì các vật rơi xuống cùng một lúc, như vậy vật nặng hay nhẹ đều rơi với vận tốc như nhau. Năm 1609 ông chế viễn vọng kính đầu tiên, ngày 09.01.1610 là lần đầu ông quan sát được thiên văn khám phá thế giới mới cho nhân loại, và chứng minh thuyết của nhà bác học người Balan Nicolaus Copernicus (1473-†1543) rằng: trái đất và các hành tinh khác đều di chuyển theo qũy đạo của mặt Trời là đúng. Năm 1610, khi Galileo xuất bản cuốn Sidereus Nuncius, trong đó nêu quan điểm mặt trời là trung tâm của vũ trụ, ông đã nhận được lời tán thưởng của cả Johannes Kepler, nhà thiên văn học tài ba và Jesuit Clavius, tác giả của lịch Gregorian.

Quan điểm nhà thờ Thiên Chúa thời bấy giờ tin rằng “Trái đất đứng yên” Toà án dị giáo kết án ông đi ngược lại giáo điều? buộc ông phải sám hối để khỏi bị tội tử hình. nhưng ông không bao giờ từ bỏ lý thuyết “trái đất vẫn quay“. Về già ông bị mù mắt. ông được tôn vinh là nhà khoa học thực nghiệm, dù mù nhưng ông vẫn thấy vũ trụ bao la, về Khoa học lý thuyết của Galilei đóng góp cho nhân loại khám phá ra không gian và vũ trụ. Những cố gắng của Giáo hoàng John Paul II (1920-2005) nhằm nối lại hoà bình với khoa học bắt đầu ngay từ lễ nhậm chức của ngài vào tháng 10.1978. Đến ngày 10.11.1979 trong lần tưởng niệm húy nhật thứ 100 của Albert Einstein (1879-†1955) Đức Giáo hoàng yêu cầu các Học giả, Sử gia và các nhà Thần học điều tra vụ án Galileo một cách kỹ lưỡng. Một uỷ ban được thành lập và đưa ra kết luận năm 1992. Đức Giáo hoàng thừa nhận những sai lầm do toà án dị giáo gây ra vì đã buộc tội nhà Thiên văn học. "Hãy thứ lỗi cho chúng tôi về thái độ thù địch ... do sự thiếu nhận thức về sự tự do chính thống trong khoa học". Đánh giá công lao nghiên cứu của Galilei, người ta ghi trên bia mộ: „Ông đã mất thị giác, vì trong thiên nhiên không còn cái gì ông chưa thấy“

- Enrico Fermi (1901-†1954) nhà Vật lý do công việc về phân rã Beta, phát triển của lò phản ứng hạt nhân đầu tiên, và phát triểnlý thuyết lượng tử. Fermi nhận giài Nobel vật lý 1938, công việc gây ra tính phóng xạ.

- Alessandro Giuseppe Antonio Anastasio Volta (1745-†1827) là nhà vật lý. Ông là người đã có công phát minh ra Pin điện và tên của ông được đặt theo đơn vị điện thế volt (ký hiệu V).

- Joseph-Louis Lagrange (1736-1813) là nhà tóan học, thiên văn. Ông đã có những đóng góp quan trọng trong nhiều lĩnh vực giải tích toán học lý thuyết số, cơ học cổ điển và cơ học thiên thể, ông là nhà toán học vĩ đại nhất của thế kỷ thứ 18.

- Leonardo của Pisa (1170-†1250), là nhà tóan học tài ba nhất thời Trung cổ

- Fibonacci (1170-†1250) nổi tiếng có công lan truyền hệ ký số Hindu- Á Rập ở Châu Âu, vào đầu thế kỷ 13 trong cuốn (Liber Abaci) của ông. Dãy số hiện đại mang tên ông, số Fibonacci tuy ông không phải là người khám phá nhưng đã dùng nó làm thí dụ trong cuốn Liber Abaci

- Marchese Guglielmo Marconi (1874-†1937) là người phát minh ra máy điện báo Radio Ông cùng Karl F. Braun là hai người người đồng nhận giải Nobel vật lý 1909 "công nhận những đóng góp của họ cho sự phát triển của ngành vô tuyến"

- Antonio Meucci (1808-†1889) là nhà phát minh một dạng máy liên lạc giọng nói năm 1857. Meucci là người phát minh ra máy điện thoại đầu tiên.

Ngoài những sinh hoạt về khoa học thành công trên, về bản sắc văn hóa nghệ thuật của dân tộc Ý cũng không kém phần quan trọng trong kho tàng văn chương thế giới. Chuyện tình lãng mạn của Romeo và Juliet, hai người yêu nhau nhưng số mệnh không cho họ sống bên nhau, vì hai người là con của hai dòng họ vốn ghét nhau nhiều thế hệ tại thành phố Verona, nhưng hai người vượt qua những định kiến để yêu nhau, và kết thúc cuộc tình là một bi kịch đau thương. Chuyện tình nầy năm 1597 nhà soạn kịch người Anh lừng danh thế giới William Shakespeare (1564-†1916) soạn vở kịch xuất sắc và nổi tiếng trên sân khấu kịch nghệ quốc tế. Năm 1856 nhà văn Gottfried Keller người Thụy sĩ viết tiểu thuyết Romeo und Julia auf dem Dorfe, từ năm 1908-1996 đã có 6 hãng Phim sản xuất phim chuyện tình Romeo và Julia.

Âm nhạc luôn đóng vai trò quan trọng trong văn hóa Ý. Là nơi khai sinh ra Opera truyền thống âm nhạc cổ điển. Nhạc cổ điển hiện tại đều có thể tìm thấy nguồn gốc từ những phát minh dụng cụ ở thế kỷ 16 và 17 (symphony, concerto & sonat). Những nhà soạn nhạc nổi tiếng thời Phục hưng: Giovani Pierluigi, Monteverdi Baroque, Arcangelo Corelli và Antonio Vivaldi các nhà soạn nhạc cổ điển như Niccolò Paganini & Gioacchino Rossi. Các nhà soạn nhạc lãng mạn như: Giuseppe và Giacomo Puccini. Các nhà soạn nhạc Ý hiện đại là: Luciano Berio, Luigi Nono góp phát triển nền âm nhạc của thế kỷ 21.

Họa sĩ tài danh Leonardo da Vinci (1452-†1519) là một thiên tài toàn năng (sinh tại Anchiano Ý nhưng qua đời tại Amboise Pháp).Thời gian từ (1495-1497) Leonardo vẽ một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của ông là “Bữa ăn tối cuối cùng của Chúa Jésu và 12 Tông đồ” trong nhà thờ Santa Maria delle Grazie. Năm 1506 Leonardo hoàn thành bức danh họa Mona Lisa còn gọi (La Gioconda) ngày nay nhiều hoạ sĩ họa lại bức tranh nầy, nhưng không thể vẽ nụ cười của người xưa trong tranh. Hoạ sĩ Sandro Botticelli (1445-†1510) nổi tiếng với bức hoạ mẹ Maria bế Chúa hài đồng cùng các thiên thần. Ngòai ra còn những danh họa: Donatello, Fra Angelico, Tintoretto, Caravaggio, Bernini, Titian, Micchelangelo và Raffaello sanzio….

Những triết gia: Marsilo Ficino (1433-†1499) là nhà nhân chủng học người đầu tiên dịch nguyên bản các tác phẩm của Platon sang latin, Niccolo Machiavelli (1469-†1528) nhà triết học chính trị, nhà ngoại giao nhạc sĩ sau nầy, triết gia Jean-Jacques Rousseau (1712-†1778) ảnh hưởng đến sự phát triển của lý thuyết xã hội, của Niccolo và Giordano Bruno (1648-†1600) triết gia, khoa học gia là Linh mục một trong những nhân vật đầu tiên đưa ra ý tưởng về một Trái Đất vô tận và đồng nhất. Bruno cho rằng vũ trụ bao la, vô tận trong đó có các sinh vật, các hành tinh chưa được khám phá. Bruno bị tòa án La Mã kết tội và bị hỏa thiêu tại Roma 1600. Ông là tấm gương đầu tiên hy sinh cho khoa học.

Các tác giả văn học hiện đại là những người đoạt giải Nobel văn học: nhà thơ quốc gia Giosuè Carducci (1835-†1907) “phong cách mới mẻ và sức mạnh trữ tình trong thơ", nhà văn nữ Grazia Deledda (1871-†1936), nhà văn, nhà soạn kịch Luigi Pirandello (1867-†1936), nhà thơ Sal vatore Quasimondo (1901-†1968) và nhà thơ nhà phê bình văn học Eugenio Montale (1896-†1981)

Người Ý rất hâm mộ thể thao vì từ thưở xa xưa có các trận đấu sĩ thời Roma cổ đại, đấu trường Colosseum là di tích lâu dài, hiện nay có nhiều câu lạc bộ thể thao, đội banh quốc gia được chung kết 16 lần giải túc cầu thế giới (Fußball Weltmeister) giữ chức vô địch 4 lần (1934-1938-1982 và 2006) và năm 1968 vô địch giải Âu Châu (Fußball Europameister). Các môn thể thao mùa đông cũng khá phổ biến, nhiều người Ý tranh tài tại các Olympic. Thế vận Hội mùa đông được tổ chức tại Ý năm 1956 (Cortina d’Ampezzo) và năm 2006 (Torino) Hoạt động thể thao vào các lễ hội ở Ý như Palio cuộc đua Gondola tại Venezia vào ngày Chủ nhật đầu tiên của tháng 9, các bộ môn thể thao không thể thiếu trong đời sống của dân tộc Ý.

Ý phát triển về Khoa học, văn học, âm nhạc, thể thao … ngoài ra có thực phẩm phổ thông là: Pizza, Spaghetti. Theo tài liệu khác nhau cho rằng Pizza nguồn gốc từ Hy Lạp? Spaghetti là loại mì sản xuất tại Trung Hoa? Không cần tranh luận người ta đều biết Pizza ra đời tại Ý vào năm 1889 khi nữ hoàng Margherita Teresa Giovanni, hoàng hậu của vua Umberto đệ nhất đến thăm Napoli. Raffaele Esposito, chủ quán rượu Pietro li Pizzaiolo đã đãi món Pizza là một đặc sản nổi tiếng. Từ đó nhiều loại Pizza ra đời là món ăn nhanh thơm ngon đơn giản. Năm 1905 người Ý tên là Gennaro Lombardi đến New York lập nghiệp mở tiệm Pizza đầu tiên trên xứ Mỹ. Nước Đức tuy gần Ý nhưng cho đến năm 1952 lần đầu tiên tiệm Pirzza „Sabbie di Capri“ mở ở Würzburg thuộc tiểu bang Bavaria. Cho đến ngày nay, Pizza và Spaghetti có mặt ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ở mỗi nơi, người ta làm Pizza hay Spaghetti pha chế thêm bớt gia vị để có đặc trưng ẩm thực riêng. Người Ý có thể làm chả giò Việt Nam, nhưng họ không thể chế nước mắn thơm ngon như các bà nội trợ người Việt.

Nước Ý đào tạo nhiều nhân tài cho nhân loại, nhờ những đại học lâu đời nhất thế giới. Trường Đại học Bologna có từ năm 1088 (mỗi năm theo học 100.000 SV) hiện nay hàng trăm Đại học đủ các ngành ở khắp nơi. Đại học lớn nhất là Sapienza ở Rom có hơn 130.000 sinh viên (so với Việt Nam có lịch sử 4 ngàn năm Văn hiến, nhưng đại học đầu tiên ở Hà Nội thành lập từ năm 1918)

Từ 1989 các quốc gia Đông Âu bỏ chế độ CS, làn sóng di cư từ Đông Âu đến Ý khoảng 1.025.874 người. Ngoài ra còn có các sắc dân khác như: Albania (348.813) người Tàu (127.822) Romania (297.570) Ukraina (107188). Thiểu số người Việt tỵ nạn CS khoảng 3000 người, được Hải quân Ý vớt trên biển đông năm 1979 và tiếp tục thâu nhận theo diện nhân đạo của chính phủ và nhân dân Ý.

Nhìn lại lịch sử Việt Nam trải qua một ngàn năm Bắc thuộc, gần một trăm năm nô lệ giặc Tây, nhưng dân tộc Việt Nam đoàn kết chống ngoại xâm giành độc lập và giữ gìn bờ cõi, không ai muốn rời bỏ quê hương. Biến cố lịch sử ngày 30.4.1975 chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước nhưng hàng triệu người miền Nam tiếp tục bỏ nước, bất chấp phong ba bão tố hay hải tặc cướp của, hảm hiếp, giết người; bất chấp gian khổ khi vượt thoát bằng đường bộ; hay những nguy hiểm đến sinh mạng khi làm kiếp thuyền nhân để đi tìm hai chữ TỰ DO.

Làn sóng vượt biên sôi động nhất từ năm 1978, 1979 thuyền nhân Việt Nam đến các nước láng giềng tại Á Châu bị xua đuổi, chìm tàu, bị hải tặc Thái hãm hiếp đàn bà, trẻ em. Làm chấn động lương tâm Thế giới. Cao Ủy Tỵ Nạn (United Nations High Commissioner for Refugees) kêu gọi các quốc gia tự do mở vòng tay nhân đạo đón nhận người Việt tị nạn. Hội nghị Genève, ngày 20-7-1979, Thụy Sĩ, 65 quốc gia đã nhóm họp để bàn cách cứu Thuyền nhân Việt Nam.

Đoàn Tàu Hải quân Ý vớt thuyền nhân Việt Nam

Ngày 27.06.1979 tàu Vittorio Veneto bỏ neo ở Tolone được lệnh về lại cảng Taranto, chuẩn bị cuộc hành trình dài đến biển Đông tìm vớt thuyền nhân Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên Hải quân Ý sau đệ Nhị Thế chiến (1939-1945) rời biển Điạ Trung Hải hoạt động xa, hải hành dài 12.000 km. Ngày 5.7.1979 lúc 10 giờ từ cảng Taranto, tàu Hải quân dưới sự chỉ huy của Đô đốc Sergio Agostinelli của hạm đội thứ 8 của Ý, phối hợp với các tàu V.Veneto (450 giường), Andrea Doria (270 giường), Stromboli (112 giường), đều được trang bị bệnh viện cấp cứu đầy đủ phương tiện. Lương thực, nước uống đầy đủ để thi hành sứ mệnh nhân đạo. Những thuyền trưởng, thủy thủ đoàn, những người thiện nguyện y tá, bác sĩ với lòng nhiệt huyết tình nguyện làm việc nhân đạo trong đó sinh viên Nguyễn Hữu Phước (tàu Stromboli) và hai linh mục: Domenico Vũ Văn Thiện (tàu Doria) và L.m Philip. Trần Văn Hoài (tàu Veneto) cũng đã có mặt trên đoàn tàu làm thông dịch.

Đoàn tàu đến Singapore với hải trình dài 2640 hải lý (tìm kiếm) thuyền nhân VN trên vùng biển rộng khoảng 250.000 km². Thời gian hoạt động các hải quân Ý trên biển đông vớt được những ghe, tàu vượt biên trong cơn “thập tử nhất sinh” tổng số 907 thuyền nhân. Chiều ngày 02.08.1979 đoàn tàu trở về cố quốc mang theo toàn thể thuyền nhân Việt Nam. Buổi sáng thứ Hai ngày 21.08.1979 đến Venezia, được đón mừng nồng nhiệt, các phái đoàn đại diện chính phủ lên tàu thăm chúc mừng thuyền nhân là Bộ trưởng Quốc phòng, phó bí thư bộ ngoại giao Zamberletti, tướng tư lệnh bộ quốc phòng, tư lệnh Hải quân, Giám đốc văn phòng bộ trưởng, Đức giám mục, các cơ quan truyền thông báo chí.

Chúng ta đến xứ sở nầy với đôi bàn tay trắng, vượt qua những khó khăn thử thách để hội nhập và làm nên sự nghiệp. Kinh nghiệm sống là một bài học, một di sản vô giá cho thế hệ mai sau. Có „ôn cố“ mới có „tri tân“. Người không có quá khứ là người bị bứng gốc trong hiện tại và trở thành vô định trong tương lai. Người Việt dù sống ở bất cứ nơi nào trên thế giới, đều ý thức được việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc Việt, duy trì ngôn ngữ Việt, cùng một tâm trạng, một nỗi niềm về quá khứ với nhiều biến động đau thương của một thời để cùng chia xẻ, gần gũi với nhau hơn. Đã 30 năm trôi qua nhưng chúng ta nhớ lại kỷ niệm và không quên tri ân cứu tử của chính quyền và nhân dân Ý. Chúng ta rời Việt Nam lúc tóc hãy còn xanh, nhưng sau 30 năm thì tóc đã bạc màu thời gian. Nhìn lại sinh hoạt của Cộng Đồng Người Việt tại hải ngoại nói chung, đặc biệt tại Ý hội nhập và trưởng thành trên mọi phương diện. Nhưng sinh hoạt của người Việt tại Ý hơi trở ngại, vì người Việt ở rải rác khắp nơi. Muốn tổ chức ngày hội ngộ có 500 người tham dự rất khó. Tuy nhiên ngày 22.08.2009 Hội Người Việt tại Ý để thể hiện tinh thần „đoàn kết“ và „ăn trái nhớ kẻ trồng cây“, không phân biệt người đến trước người đến sau, cố gắng cùng tổ chức „Hội Ngộ 30 Ngưòi Việt Tỵ Nạn Cộng Sản Tại Ý“ và phát hành Bản Tin „Cuộc Hành Trình Vượt Biển, được biết ban BTC đã liên lạc với Bộ Quốc Phòng, Bộ tư lệnh Hải Quân mời các thuyền trưởng và thủy thủ đoàn của những chiếc tàu đã cứu sống người Việt chúng ta trên biển cả, cảm ơn chính quyền, những nhà bảo trợ ân nhân người Ý.

Trên tàu 30 năm trước vẫn còn vang vọng dư âm Lm. Philip Trần Văn Hoài (sau nầy lên Đức Ông) đại diện người Việt-Nam phát biểu: “Kính thưa Đô-đốc, Hạm trưởng, các Sỹ-quan, các Hạ-sĩ-quan, các Thủy-thủ: Cám ơn vì đã cứu vớt chúng tôi Cảm ơn tất cả những ai với tấm lòng của tín đồ Thiên-chúa-giáo đã hy sinh cho chúng tôi suốt đêm-ngày … Người Ý các vị có trái tim thật tốt, không ai có thể đối xử với chúng tôi tốt đến vậy …Chúng tôi đã “chết-đi-sống-lại” bởi lòng tốt của các vị … Sáng nay trên phi đạo chúng tôi đã ngắm nhìn bờ biển Ý một làn gió nhẹ ngọt ngào mơn-man trên mặt như dấu hiệu chào đón và làm đầy sự vui sướng trong tim chúng tôi … Các vị khác hẳn mọi dân khác: với các bạn có một đồng loại bất hạnh và vì lẽ đó các bạn phải xả thân..“ (2)

Nhớ lại những ngày đầu đến Ý còn xa lạ, ngỡ ngàng nhưng bây giờ là quê hương thứ 2. Con cháu trưởng thành như một người bản xứ, nhiều người đi làm có đời sống ổn định mua nhà riêng, nhiều người đã về hưu non, vui hưởng tuổi già suy ngẫm về nhân tình thế thái, cõi nhân sinh và hãnh diện con cháu thành đạt. Viên mãn cuộc sống, là điểm dừng của tham vọng, để tâm hồn thanh thản, không bao giờ quên những ân tình của đời đã trao.

(Thân chúc Nguyễn Văn Hoàng bạn một thời Phan Châu Trinh Đà Nẵng, năm 1971 du học Ý. Bà xã Hoàng là Tô Cẩm Hoa được tàu Hải quân Ý vớt năm 1979. Tổ chức ngày Hội ngộ 30 năm tại Ý thành công).

Nguyễn Quý Đại

Tài liệu tham khảo:

- Universal Lexikon Faktum Lexikon Institut
- Lexilon der Gesichte Faktum Lexikon Institut
- 5 hình trên nguồn từ Internet

(1) khoảng 43 triệu du khách đến Ý. Vatican được gọi là đất Thánh, nhưng rất tiếc không „hiền“ thành phần xấu lợi dụng vùng đất nầy để móc túi, giật xách, trộm xe…Du khách phải cẩn thận tránh những buồn phiền có thể xảy ra …

(2) Sứ mạng cho Việt Nam của Đức ông Luigi Callegaro & Cappellano

Thursday, August 6, 2009

Những thước phim của sự thật - Lê minh


Lê Minh

Ngày Thứ Bảy ngày 11 tháng 7, 2009 cuốn DVD “Sự thật về Hồ Chí Minh” lần đầu tiên đã được Phong Trào Quốc dân Đòi Trả tên Sài Gòn ra mắt tại Little Saigon, California. Kể từ “phát súng” này, tính cho đến nay đã có đến 9 buổi ra mắt tại nhiều tiểu bang của Hoa Kỳ. Tại mỗi chặng đường vừa qua, đông đảo đồng hương tỵ nạn Việt Nam đã nhiệt liệt ủng hộ, đón nhận sự ra mắt của cuốn DVD này. Và chặng đường kế tiếp sẽ là 2 thành phố lớn tại Úc Châu: Sydney và Brisbane, rồi đến các thành phố lớn ở Âu Châu.

Việc ra mắt của cuốn DVD này đương nhiên đã “chạm nọc” Đảng CSVN không ít. Cay cú với cuốn DVD này, mới đây tờ báo điện tử ĐCSVN nhận chỉ thị tung lên một bài viết mang tựa đề “Những thước phim trái sự thật, trái đạo lý“ của nhà báo láo mang bút hiệu Chính Nghĩa (Đảng?).
    Source:http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30296&cn_id=353757

    Những thước phim trái sự thật, trái đạo lý
    17:17 | 05/08/2009

    Chính Nghĩa

    (ĐCSVN) - Gần đây, nếu để ý, người ta thấy trên một số trang web có địa chỉ nước ngoài xuất hiện những đoạn video với cái tiêu đề khá câu khách “Sự thật về Hồ Chí Minh” nhằm bịa đặt, bôi nhọ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh, người con ưu tú của dân tộc Việt Nam được cả thế giới ca ngợi, ngay cả kẻ thù cũng phải kính nể chắc chắn không thể hao tổn một chút uy tín nào trước sự vu cáo của những kẻ làm phim “Sự thật về Hồ Chí Minh”.

    Bộ phim được tung ra vào đúng dịp Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đang được sự hưởng ứng nhiệt liệt của đồng bào trong nước và nước ngoài đồng thời cũng là dịp toàn Đảng, toàn dân ta đang kỷ niệm 40 năm thực hiện bản di chúc lịch sử của Người. Mục đích của những người làm phim đã rõ ràng, đó là thông qua việc xuyên tạc, bôi nhọ Hồ Chí Minh, họ hi vọng có thể làm suy yếu, đi đến làm sụp đổ Đảng Cộng sản Việt Nam, thay đổi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Theo họ, trên thế giới hiện nay có 2 người cộng sản đã trở thành huyền thoại, có sức lôi cuốn mạnh mẽ mọi người, đó là Chê Ghêvara và Hồ Chí Minh. Họ rùm beng rằng sở dĩ Đảng Cộng sản Việt Nam chưa sụp đổ vì còn dựa vào huyền thoại Hồ Chí Minh (?), nếu đánh đổ được huyền thoại này thì Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ sụp đổ theo (?). Tuy đó chỉ là ý đồ hoang tưởng của những kẻ cố tình quay lưng lại trước sự thật và chắc chắn sẽ thất bại, nhưng phim đã được tán phát lại đang được một số người ra sức tô son trát phấn. Bởi thế, cũng cần phải làm rõ những người làm phim là ai và họ đã nói gì?

    Vậy những người đứng ra chủ trương làm phim video này là những ai? Họ là những người chống Cộng ai cũng rõ mặt. Nhiều năm nay, với tư tưởng thù hận, cay cú, họ đã không từ một việc làm nào hòng nói xấu Đảng Cộng sản Việt Nam, xuyên tạc hình ảnh và tình hình thực tế tại Việt Nam, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc Việt Nam. Dưới chiêu bài “Phong trào quốc dân đòi trả tên Sài Gòn” một tổ chức do họ nặn ra, Nguyễn Hữu Lễ, Trần Quốc Bảo và một số người khác đã dành hàng năm trời để kiếm tiền, chiêu binh mãi mã cho “bộ phim tài liệu” mà họ đặt vào đó rất nhiều kỳ vọng này.

    Kịch bản bộ phim được họ dàn dựng dựa trên những tư liệu và vấn đề không có gì mới, chỉ có thể lừa mị những người chưa biết. Hầu hết các vấn đề được “các tác giả” “mông má” lên như là rất mới, thực ra đã được giải quyết từ lâu, có những vấn đề quan trọng về thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam kết luận và công khai cho nhân dân biết đã hàng chục năm nay, đơn cử như ngày sinh và ngày mất của Người, trước các tác của Người, những vấn đề căn bản trong hệ thống tư tưởng của Người v.v... Cố tình xuyên tạc sự thật, nhóm những người làm phim lập lờ, tìm cách bưng bít những kết luận và thông tin đã được giới sử học trong và ngoài nước xác nhận rồi lu loa lên bằng những “bằng chứng” bịa đặt, không có căn cứ.

    Với dụng ý xấu như vậy, cho dù số tiền dành cho phim không ít, việc triển khai khá công phu, cuốn phim vẫn không được sự hưởng ứng của những nhà sử học, nhà nghiên cứu văn học nghiêm túc, có trách nhiệm. Để che lấp khoảng trống chết người này, nhóm làm phim đã tìm đến không ít người để “tổ chức phỏng vấn ghi hình” mong người xem nghĩ rằng họ khách quan, khoa học. Họ đã tìm đến ai ? Trước hết là những kẻ đào tẩu khỏi Tổ quốc, phản bội lý tưởng đã theo đuổi, nhiều chục năm nay không ngừng viết sách, viết báo, lên các đài phát thanh vu cáo, bôi nhọ; đã được các thế lực xấu khai thác đến mòn nhẵn như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Minh Cần … Những điều xuyên tạc về Hồ Chí Minh chẳng qua là sự lặp lại đến nhàm chán điều họ đã vu cáo Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những cuốn sách của mình nhưng hàng chục năm nay chẳng lừa được ai. Loại người thứ 2 là những “thây ma chính trị” như ông Bùi Diễn, từng là đại sứ tại Mỹ; ông Tôn Thất Thiện, từng là tổng trưởng thông tin trong chế độ cũ. Loại người thứ 3 là những người hoạt động chống cộng khét tiếng hoặc những người có quan điểm chống cộng, lâu nay không ai biết là ai, đột nhiên được dựng lên, được khoác áo nhà nghiên cứu, nhà biên khảo này nọ như các ông Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Văn Trần, Trần Gia Phụng, Minh Võ, Trần Nhân Tuân, Vũ Ngự Chiêu cùng một số người khác, trong đó có một vài nhà báo nước ngoài. Được ghi hình, được nói một vài phút hẳn những người này mãn nguyện nhưng rồi họ chắc sẽ phải xấu hổ vì những điều họ nói để tiếng xấu về sau.

    Hồ Chí Minh, người con ưu tú của dân tộc Việt Nam được cả thế giới ca ngợi, ngay cả kẻ thù cũng phải kính nể chắc không thể hao tổn một chút uy tín nào trước sự vu cáo của những người làm phim “Sự thật về Hồ Chí Minh”. Tư tưởng Hồ Chí Minh, di sản Hồ Chí Minh mãi mãi vẫn là ngọn đuốc sáng soi dọi con đường đi tới của toàn dân tộc, đó là chân lý. Rất tiếc cho nhóm làm phim đã cố tình chối bỏ chân lý đó để tung lên mạng những thước phim vừa trái sự thật vừa trái đạo lý thông thường với một vĩ nhân.
Bài báo này cho biết cuốn DVD “Sự thật về Hồ Chí Minh” đã được “tung ra” vào đúng dịp nhà nước CSVN bắt đầu “cuộc vận động và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Như vậy nhà báo Chính Nghĩa đã gián tiếp thừa nhận rằng sự ra mắt của cuốn phim này đã đánh trúng tử huyệt của “Bác”, đúng lúc đúng thời. Có điều ông Chính Nghĩa này cũng bậy thật. Ai đời, báo chí “lề phải” luôn xưng tụng “Bác” là “vị cha già của dân tộc”, thế nhưng ông Chính Nghĩa đã thay cách gọi “Bác” là “người con ưu tú của dân tộc”. Sao lại bắt “Bác” vừa làm “Cha”, vừa làm “Con”, thật là lộn xộn. Nhưng chắc chắn là làm “Cha” thiên hạ thì sướng hơn rồi.

Phải nói rằng, không kể đến cuốn phim này thì vẫn còn có biết bao câu chuyện đời, chuyện lịch sử rành rành có liên quan đến Hồ Chí Minh, một nhân vật muôn mặt, nhiều tên lắm họ và cũng lắm mưu gian. Chỉ nội tên họ thì Hồ đã có ít nhất là 16 cái tên, từ lúc sanh ra cho tới khi chết.

Việc sử dụng nhiều tên gọi khác nhau để “đi làm cách mạng” thì cũng chẳng phải là cái gì ghê gớm lắm, nếu đó chỉ là chuyện tạm thời. Nhưng nếu dùng luôn cái tên “đi làm cách mạng” để rồi hãnh diện và cho rằng mình tự khai sanh ra mình bằng một cái tên họ hoàn toàn mới lạ là một chuyện trái với đạo lý văn hóa Việt Nam, đáng bị lên án. “Hồ Chí Minh” không phải là cái tên cúng cơm do ông bà cha mẹ đặt ra cho Nguyễn Sinh Cung khi còn nhỏ, hay Nguyễn Tất Thành khi đã trưởng thành. Ấy thế mà cậu bé Sinh Cung ngày ấy sau khi đã bố láo, cả gan đổi tên cúng cơm do cha mẹ đặt thành Nguyễn Tất Thành, rồi tiếp tục nữa là Nguyễn Ái Quốc.

Chưa dừng lại ở đó, Sinh Cung đã liên tục thay tên đổi họ hơn chục lần nữa trong suốt thời gian ở hải ngoại. Vào thời điểm 1945, Sinh Cung lần đầu tiên xuất hiện với một cái tên rất lạ, nghe rất là Tàu và rất.... oai: “Hồ Chí Minh”. Đây là cái tên cuối cùng mà Sinh Cung lượm được trên đường từ Tàu về nước và vì có lẽ yêu thích cái tên mang màu sắc Tàu có vẻ “chí cao, thông thái” mà Sinh Cung lưu giữ lại cho đến chết.

Lạ thật, sinh ra mang họ Nguyễn, mà khi chết thì mang họ Hồ. Bỏ qua tất cả các tội ác do Hồ gây ra, thì chỉ nội điều này thôi cũng đã đủ để Hồ phải quỳ trước bàn thờ tổ tiên họ Nguyễn để chịu tội rồi. Có phải xưa nay vì “học tập tấm gương đạo đức” của Hồ nên rất nhiều con cháu trong hàng ngũ lãnh đạo đã thay tên đổi họ như Võ Văn Kiệt, Trường Chinh, anh em nhà Lê Đức Thọ - Mai Chí Thọ, Nguyễn Văn Linh,... Trong lịch sử Việt Nam từ cổ chí kim, có lẽ việc thay tên đổi họ chỉ xảy ra vào những thời kỳ thay ngôi đổi chủ, truy bắt gắt gao, hoặc giả là được nhà Vua ân sủng ban ơn mang họ mới mà thôi. Nhưng khi có điều kiện thì ai ai cũng muốn quay trở về với họ gốc của mình. Nhưng Sinh Cung thì khác, cho đến khi chết đã rất an lòng với cái tên “Hồ Chí Minh”.

Đó là một trong nhiều “tấm gương đạo đức” (giả) của Hồ mà hiện nay ĐCSVN đang phát động, bắt các đảng viên học tập và làm theo. Như thế thì có cần phải xuyên tạc “tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” không, hay là khi sự thật được phơi bày thì cái mặt nạ của Hồ Chí Minh và ĐCSVN cũng sẽ rớt theo.

Mà lạ thật, Hồ Chí Minh làm gì có tư tưởng. Di sản Hồ Chí Minh thì càng tàn tệ nữa. Không nói đâu xa, hãy nhìn sang các nước chung quanh thôi, họ chẳng có “di sản” của ông bà lãnh đạo nào cả, mà sao đất nước dân tộc họ vẫn thừa hưởng một di sản hơn hẳn “Di sản Hồ Chí Minh” xa lắc. Người Việt Nam thường hay nói đùa “con đường Bác đi là con đường bi đác”. Mà bi đác thật bác ạ. Kể từ ngày bác du nhập cái thuyết ngoại lai Mác-Lê Nin rồi Mao-Xếnh Xáng vào Việt Nam, thì đất nước Việt Nam điêu tàn bất hạnh.

Sự thật rành rành ra đó, cho nên càng chối, càng la làng thì càng làm cho dư luận chú ý thêm hơn vào vấn đề và muốn tìm hiểu ngọn ngành. Do đó, vô hình dung bài viết trên trang báo điện tử ĐCSVN đã “mat-ket-tinh” dùm cho cuốn phim “Sự thật về Hồ Chí Minh”. Cũng giống như việc Trung Cộng ăn thua đủ tới cùng với bà Rebiya Kadeer, đánh phá ban tổ chức của Melbourne International Film Festival đã làm cho nhiều người dân Úc càng chú ý đến hơn nữa bộ phim “Mười điều kiện tình yêu” (“Ten Conditions of Love”) và ban tổ chức đã phải trình chiếu hai xuất thay vì một xuất như dự tính ban đầu.


Như vậy bài viết của ông Chính Nghĩa đã có tác dụng ngược là quảng cáo dùm cho bộ phim “Sự thật về Hồ Chí Minh”. Đối với người dân trong nước, ngoài việc bị bắt buộc phải “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” thì từ nay sẽ có được dịp tìm hiểu “Sự thật về Hồ Chí Minh”.

Để tìm hiểu sự thật về Hồ Chí Minh, xin mời quý đọc giả trong và ngoài nước hãy ghé vào trang web của Phong Trào Quốc dân Đòi Trả tên Sài Gòn (http://www.saigonforsaigon.org)để biết chương trình ra mắt bộ phim tại các thành phố, hoặc những ai ở xa không có điều kiện, đặc biệt là đồng bào ở trong nước thì có thể vào xem bộ phim này trên YouTube.

Lê Minh
Sydney, ngày 06/08/2009

* Ghi chú:
12 đoạn phim của “Sự thật về Hồ Chí Minh” trên YouTube:
    1. http://www.youtube.com/watch?v=eM3sM4n5UKM
    2. http://www.youtube.com/watch?v=yY9-NT4GX7s
    3. http://www.youtube.com/watch?v=MS99czWO7Nk
    4. http://www.youtube.com/watch?v=60C1FvUsDlw
    5. http://www.youtube.com/watch?v=EHg8tCWNPCE
    6. http://www.youtube.com/watch?v=RGFtY6vO6DY
    7. http://www.youtube.com/watch?v=h5d72hiEcIc
    8. http://www.youtube.com/watch?v=ViAIdYQ8hp4
    9. http://www.youtube.com/watch?v=Q0McpD_7ndM
    10. http://www.youtube.com/watch?v=rZ2fv6w84GI
    11. http://www.youtube.com/watch?v=uvT9y2BrH9Y
    12. http://www.youtube.com/watch?v=nwmVyIuhx4U



Wednesday, August 5, 2009

Đụng Độ Trên Biển Đông - Trần Nam


Trần Nam

Phi Trường trên đảo Woody
Cuộc trạm chán giữa Hải quân Mỹ và Trung Quốc hồi tháng 3 năm 2009 tại biển Đông là giọt nước làm tràn ly. Tàu Hải quân Trung Quốc đã tìm cách khiêu khích, chận đường tàu thám hiểm Hải quân Mỹ USNS Impeccable, buộc tàu Mỹ phải khẩn cấp tránh để khỏi bị đụng độ. Sau vụ thử thách đó, Mỹ đã trở nên cứng rắn. Hoa Thịnh Đốn đưa ngay tàu khu trục USS Chung-hoon đi dò đường và hộ tống tàu thám hiểm hải quân Mỹ, không để cho tình trạng khiêu khích xảy ra nữa. Tàu khu trục hạm này gồm 275 thủy thủ đoàn, có trang bị ngư lôi và hoả tiễn định hướng. Sự hiện diện của khu trục hạm tại Biển Đông đã làm Bắc Kinh tức giận nhưng bỏ hẳn thái độ khiêu khích vì sợ đụng độ. Đối với Mỹ thì Hải quân Trung Quốc vẫn chưa phải là đối thủ.

Sự kiện này đã làm thức tỉnh giới chức ngoại giao và quân sự Mỹ trước dã tâm và tham vọng bành trướng chủ quyền của Trung Quốc. Trung Quốc đang thử “nắn gân” Hải quân Mỹ và gửi tín hiệu cho các quốc gia vùng về vai trò của mình. Trung Quốc muốn nhắn nhủ “biển đông thuộc chủ quyền của Trung quốc, Mỹ không nên tạo ảnh hưởng làm gì”. Đừng có lộn xộn trong vùng đó, nó thuộc chủ quyền của chúng tôi. Đó là nội dung Trung quốc muốn chuyển cho Mỹ và các quốc gia Á Châu.

Dĩ nhiên tín hiệu đó Hoa Thịnh Đốn đã nắm từ trước. Nhưng bận bịu với những biến động ở Trung Đông, Mỹ không dành ưu tiên cao cho mặt trận Á Châu. Dù vậy, Mỹ cũng không thể làm ngơ khi thấy Trung quốc làm mưa làm gió và tìm mọi cách chận đứng vai trò của Mỹ ở Châu Á. Nếu ảnh hưởng Mỹ bị co cụm, và Trung quốc trổi dậy như một thế lực nguy hiểm, đầy tham vọng thì khả năng một cuộc chiến tranh ở Châu Á khó tránh khỏi. Lúc đó, Mỹ có muốn can thiệp, trở tay cũng không kịp vì tình thế đã vượt ra khỏi tầm ảnh hưởng của Mỹ.

Thái Độ Của Trung Quốc

Rõ ràng Trung Quốc đang tìm mọi cách bành trướng vị trí chiến lược của họ về mặt quân sự. Những đòi hỏi thô bạo, tham lam, không căn cứ về chủ quyền ở biển Đông. Những trạm chán, áp bức và thái độ hiếu chiến với Việt Nam cho thấy dã tâm của Trung quốc. Hiện nay, không những đường biển của Việt Nam bị co cụm mà một số quốc gia khối ASIAN cũng bị áp lực, trước sự hiện diện căn cứ quân sự Trung quốc tại các khu vực đang tranh chấp.

Tại đảo Woody (Phú Lâm) nằm trong quần đảo Trường Sa, Hải quân Trung quốc đã thiết lập một hải cảng chừng 350 mét với đường băng dài 2500 mét dành cho máy bay, chiến đấu cơ, tàu quân sự của Quân đội Nhân dân Trung Quốc. Tin giới nghiên cứu tiết lộ, Trung Quốc muốn biển đảo Woody thành một căn cứ quân sự, từ đó hướng tầm kiểm soát và làm nhiệm vụ yểm trợ các hoạt động tại biển Đông, nhất là khu vực đảo Trường Sa nếu chiến tranh xảy ra. Tại đây, các trạm lưu trử dầu, vũ khí, đạn dược đã được xây cất và đang đi vào quy trình hoạt động. Nhiều hỏa tiễn Silkworm có mục tiêu chống tàu chiến cũng đã đặt tại căn cứ này. Với tầm bắn gần 60 dặm tại Woody, hoả tiển Silkworm có thể răn đe các tàu chiến dám lảng vảng trong các khu vực thuộc phạm vi kiểm soát của Trung Quốc. Hơn nữa, một trạm thu nhận tín hiệu tình báo đã được thiết lập tại đảo Rocky, nằm về phiá bắc của Woody. Đảo Rocky là đảo có độ cao nhất, dễ dàng làm nhiệm vụ quan sát các tàu chiến và những di chuyển trong vùng biển Đông.

Chiến đấu cơ Su-30MK2
Trong quan hệ ngoại giao, Mỹ đã tái khẳng định chính sách cũa Mỹ đối với tranh chấp tại biển Đông là “các bên không nên dùng vũ lực để chiếm chủ quyền về lãnh hải, ngăn chận giao thông thuộc khu vực biển Đông và nằm trong lãnh vực hàng hải quốc tế.” Thực ra, bên cạnh đường biển, Mỹ cũng rất quan tâm đến đuờng trời nằm trong khu vực biển Đông. Vì ngoài cuộc trạm chán tại hồi đầu năm 2009, trước đó, không quân Mỹ -Trung quốc cũng đã từng đụng độ. Tháng 4 năm 2001, máy bay chiến đấu cơ F-8/J8II của hải quân Trung Quốc và EP-3E của Mỹ đã đụng nhau tại biển Đông. Chiến đấu cơ Trung quốc đã bám đuôi máy bay thám sát Mỹ để khiêu khích, vì bay qua gần, F-8/J8II đã mất khả năng kiểm soát, đụng vào phần cánh máy bay Mỹ, F-8/J8II rớt xuống biển, phi công Trung Quốc bị thiệt mạng. Máy bay EP-3E của Mỹ đã phải hạ cánh khẩn cấp tại đảo Hải Nam, toàn bộ phi hành đoàn 24 người đã bị Trung Quốc bắt giữ, 11 ngày sau Trung Quốc mới chịu giao trả lại cho Mỹ.

Phản Ứng Của Mỹ

Cuộc trám chán lần thứ nhất ở trên không, Trung Quốc muốn khẳng định với Mỹ và các quốc gia Á Châu là chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông gồm cả vùng biển lẫn vùng trời. Tuy nhiên, phải đợi đến lần đụng độ thứ hai, khi tàu dân sự thám hiểm Mỹ USNS Impeccable bị tàu chiến Trung Quốc khiêu khích, thì Hoa Thịnh Đốn thấy rỏ phải có thái độ, để Trung Quốc bớt hung hăng và hiếu chiến.

Tại Hội nghị các quốc gia thuộc khối ASIAN (Association of Southeast Asian Nations) tại Thái hôm tháng 7, 2009, bộ trưởng Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton đã tham dự và trao đổi với lãnh đạo các quốc gia ASEAN. Tại đây, bà ngoại trưởng Mỹ cũng đã ký kết thoả ước hữu nghị và hợp tác TAC (Treaty of Amity and Cooperation in Southeast Asia) với khối ASEAN, một thoả ước tương đối lỏng lẻo trong thiết lập quan hệ đối thoại về an ninh và hợp tác vùng, chủ trương tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ và không can thiệp vào nội bộ. Đây là thoả ước mà thời tổng thống Goerge W. Bush, phía Mỹ đã từ chối ký kết.

Hồi năm 2007, bà Ngoại trưởng Condoleezza Rice thay vì tham dự hội nghị thường niên của ASEAN thì lại bay qua Trung Đông. Lúc đó Mỹ đặt mối quan tâm Trung Đông quan trọng hơn Á Châu. Lần này, phát biểu tại Bang kok, bà Tân Ngoại trưởng Hillary Clinton cho biết “chúng tôi đã trở lại”. Bà muốn ám chỉ đến chính sách bỏ rơi Á Châu từ thời cựu Tổng thống George W. Bush. Tình thế hiện nay đã khác sau khi Hoa Kỳ thay đổi lãnh đạo cùng với chính sách mới về Á Châu. Điều này cho thấy, Hoa Thịnh Đốn đã gửi thông điệp rất mạnh mẽ cho Trung Quốc và ASEAN. Hoa Kỳ không thể để Trung Quốc “múa gậy vườn hoang” tại biển Đông.

Những biến động tại Biển Đông với viễn ảnh Trung Quốc kiểm soát đường biển là điều không thể chấp nhận về mặt chủ quyền, không những đối với các quốc gia đang trong vòng tranh chấp gồm Việt Nam, Mã Lai Á, Philipine, Đài Loan ..v..v… mà ngay cả đối với quyền lợi Hoa Kỳ cũng bị ảnh hưởng. Nói cách khác, nếu điều đó xảy ra, hải chiến giữa Trung Quốc và các quốc gia dành chủ quyền trên biển Đông khó tránh khỏi. Lúc đó, Hoa kỳ không thể đứng bên lề hoặc làm đồng minh của Trung Quốc, vì như vậy Hoa Kỳ tự triệt hạ vai trò và quyền lợi chiến lược của mình tại Á châu. Chiến tranh trên biển Đông xảy ra, điều khủng hoảng nhất đối với Mỹ và thế giới là gần 30% đường dẫn dầu quốc tế bị đình động, hơn 50% hàng hoá vận chuyển bằng đường thủy trên toàn thế giới bị gián đoạn. Lo ngại hơn nữa, nếu Trung Quốc kiểm soát các vùng tranh chấp, khả năng các đường lưu thông trên biển sẽ bị Hải quân Trung Quốc ngăn chận. Vì vậy, sự hiện diện của Mỹ tại biển Đông vô cùng quan trọng, vừa có thể cầm chân thái độ khiêu khích, hiếu chiến của Trung Quốc, vừa làm trọng tài để giải quyết những tranh chấp trong vùng, vừa làm chổ đối trọng cho các quốc gia khối ASEAN, nhằm tránh một cuộc chiến tranh thế giới có thể xảy ra.

Về mặt thực tế, nếu có trạm chán quân sự, chiến tranh giữa Trung Quốc với Đài Loan hoặc Việt Nam là những đối tác có nguy cơ dẫn đến tác động lớn nhất.

Trung Quốc Và Đài Loan

Chiến đấu cơ Su-30MK2
Trung Quốc đã hăm he dùng vũ lực để giải quyết Đài Loan. Nếu không có Hiệp ước bảo vệ giữa Mỹ và Đài Loan, Trung Quốc đã chiếm Đài Loan từ lâu. Mỹ không khuyến khích Đài Loan đi vào quy chế độc lập vì như vậy sẽ khiêu khích Trung Quốc, nhưng Mỹ cũng khẳng định, nếu Trung Quốc đánh Đài Loan, quân Mỹ sẽ không khoan tay đứng nhìn. Tham vọng của Trung Quốc vẫn là phải chiếm Đài Loan và làm chủ toàn bộ khu vực biển Đông. Muốn vậy, Trung Quốc phải triệt hạ Việt Nam.

Hồi tháng 10 năm ngoái, Mỹ đã bán cho Đài Loan 6.4 tỷ mỹ kim vũ khí quân sự gồm 300 Patriot III chống hoả tiển, 30 máy bay trực thăng tấn công Apache, 32 hoả tiển Harpoon và 182 hoả tiển Javelin chống tăng. Hiệp ước Đài Loan 1979 (Taiwan Relations Act 1979) cho phép Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan để “tăng cường khả năng phòng thủ và tự vệ của quốc gia này”. Hiệp ước cũng khẳng định “nếu dùng bất cứ các phương tiện quân sự, hoặc bao vây, tảy chay Đài Loan nhằm áp chế Đài Loan tức là cố ý khiêu khích gấy chiến và làm mất quân bình trong vùng, đều dẫn đến mối quan tâm sâu xa của Mỹ”.

Đài Loan rất muốn trang bị tàu ngầm tối tân của Mỹ nhưng vì sợ Đài Loan khiêu khích Trung quốc, Mỹ đã từ chối bán. Đối với Trung Quốc, một Đài Loan trang bị tàu ngầm tối tân được coi như thái độ thách thức, làm cho tình thế thêm rối rắm và căng thẳng. Trước đây, Đài Loan từng mua 2 chiếc tàu ngầm của Phần Lan, sự kiện này đã dẫn đến việc Trung Quốc triệu hồi đại sứ Trung Quốc tại Phần lan. Áp lực, quan hệ ngoại giao hai nước đã xấu đi trong suốt nhiều năm trời. Với số quân chừng 350 ngàn so với hơn 2.5 triệu quân của Trung Quốc, trang bị vũ khí yếu so với tầm vóc hiện đại của quân Trung Quốc, Đài Loan hoàn toàn không khả năng tự vệ khi Trung Quốc mở cuộc tấn công bất ngờ. Vì vậy, nếu bất cứ lý do gì Hiệp ước Đài Loan năm 1979 không còn giá trị, đảo Đài Loan thuộc vào tay Trung Quốc chỉ còn là thời gian.

Việt Nam Trước Viễn Ảnh Chiến Tranh

Trước thái độ Trung Quốc leo thang, ngang ngược xâm chiếm lãnh thổ. Việt Nam giữ thái độ ngậm bồ hòn. Dù vậy, thời gian gần đây, có dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang từng bước tân trang quân đội để chuẩn bị đối đầu. Kinh nghiệm cuộc chiến tranh biên giới 1979, khi Trung Quốc đánh bất ngờ vẫn còn chưa phai nhạt đối với các lãnh tụ cộng sản Hà Nội. Và viễn ảnh của chiến tranh Việt – Trung sẽ xảy ra để giải quyết các mối bất đồng là điều “không thể tránh khỏi”.

Tàu ngầm Kilo
Từ tháng 4 năm 1999 Hà Nội đã trang bị nhiều hoả tiển Scud của Bắc Hàn với tổng số lên đến cả trăm triệu mỹ kim. Việt Nam cũng đã chi ra 300 triệu mỹ kim để mua hệ thống hoả tiển phòng thủ trên không S300 PMU1 của Nga. Đây là loại hỏa tiển bắn các mục tiêu bay thấp. Hà Nội cũng bày tỏ ý định muốn mua S300 PMU2, một loại hoả tiển phòng không trang bị đầu đạn có định hướng dùng để ngăn chận hoả tiển bắn từ xa, tốc độ S300 PUM2 là 10,000 km một giờ và có thể bắn xa đến 200 km, thay vì chỉ có 150 km như S300 PMU1.

Tháng 3 năm 2001, Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố khi có mặt tại Hà Nội “Việt Nam không những phải tái chỉnh trang thiết bị quân sự cũ mà cần mua thêm nhiều trang thiết bị quân sự tối tân của Nga nữa”. Năm 1995 Hà Nội mua sáu chiếc phản lực Sukhoi Su-27 trị giá 150 triệu mỹ kim, đồng thời đặt mua thêm 6 chiếc Su-27 nữa cho năm 1997. Những năm sau đó, Hà Nội liên tiếp mua máy bay Su-30, nhiều hoả tiển, hoả tiển chống tàu chiến Mosquito có khả năng điều khiển bay ở độ thấp, bắn mục tiêu xa 120 kilometer và trang bị thêm 4 trạm kiểm soát sóng radar để phát hiện máy bay “Trung Quốc” xâm nhập. Cuối tháng 11 năm 2007, Nga chuyển giao 2 tàu tuần tra Molniya có gắn đầu hoả tiển, sau đó trong năm 2007 Nga giúp Việt Nam tự sản xuất thêm 20 chiếc tuần tra loại này. Tất cả những kỷ thuật quốc phòng cho công nghệ chế tạo tàu Molniya đã được Nga chuyển giao cho Việt Nam với phí tổn gần 1 tỷ dollars. Chưa an tâm, Việt Nam bỏ ra thêm 300 triệu mỹ kim để mua lại công nghệ chế tạo hoả tiển Yakhont chống tàu chiến. Năm 2009, Việt Nam đã mua thêm 12 chiếc phản lực loại cực tối tân Su-30MK2 và 6 chiếc tàu ngầm Kilo của Nga, tổng giá tiền gần 2.5 tỷ dollars.

Chưa bằng lòng với các trang thiết bị quân sự của Nga, Việt Nam cũng tìm cách mua thêm các vũ khí hiện đại khác của Ấn Độ. Việt Nam ngõ ý mua hoả tiển Brahmos, có tầm bắn xa 300 km. Nhưng vì đây là loại hoả tiển tối tân nhất của Ấn, bị ràng buộc về thoả thuận không tiết lộ bí mật kỷ thuật, nên Ấn không thể bán cho Hà Nội. Giới chức ngoại giao Ấn tiết lộ, họ nghĩ Ấn có thể bán cho Hà Nội loại hoả tiển có tầm kỷ thuật thấp hơn, đó là loại hoả tiển đối không Prithvi với chức năng không thua gì hoả tiển Brahmos.

Việt nam cũng đang có ý tìm kiếm những vũ khí tối tân khác, trong đó khai dụng “nguyên tử” như một lá chắn trước áp lực và dã tâm của Trung quốc. Năm ngoái, ông Christopher Hill, trưởng phái đoàn Mỹ đặc trách về “nguyên tử” tường trình trước Thượng viện Mỹ về chuyến đi Á châu, nhằm chuẩn bị cho cuộc thương thuyết về nguyên tử với Bắc Hàn. Khi Thượng Viện Mỹ đặt vấn đề liệu Việt Nam có đi theo con đường của Bắc Hàn không? Ông Christopher Hill trả lời một cách tự tin là “Việt Nam chưa có khả năng nghiên cứu về nguyên tử và không có tham vọng sở đắc vũ khí nguyên tử như Bắc Hàn, chúng ta có thể tin điều này”.

Nói vậy chứ không phải vậy, vì liệu Mỹ có thể tin cậy được những lời hứa hẹn của Hà Nội. Quan hệ mật thiết với Bình Nhưỡng, Hà Nội có thể tìm kiếm trợ giúp về mặt kỹ thuật để xây dựng lò "hạt nhân nguyên tử" và điều này đã nằm trong vòng quan tâm của lãnh đạo Hà nội, trước tình trạng láng giềng khổng lồ chực “ăn tươi nuốt sống”. Điều cản trở Việt Nam không phải là Bình Nhưỡng mà chính là Bắc Kinh, vì không đời nào Bắc Kinh cho phép Bình Nhưỡng giúp Việt Nam thủ đắc khả năng phòng ngừa “lá chắn nguyên tử” để chống lại họ. Vì vậy, Việt Nam đã tìm đến Ấn Độ như một nguồn cung cấp kỹ thuật “nguyên tử” sau Bình Nhưỡng.

Tháng 10 năm 2005, Trung tướng Nguyễn Thịnh, chủ nhiệm Trung tâm Nghiên cứu Quốc phòng dẫn đầu phái đoàn quân sự đến thăm Viện Nghiên cứu Quốc phòng Ấn. Tại đây, ông Thịnh đã bày tỏ mong muốn được Ấn Độ giúp Việt Nam kỷ thuật để xây dựng cơ sở chế tạo hoả tiển. Việt Nam cũng muốn mua hoả tiển điểu khiển tối tân Brahmos, có tầm bắn xa 300km của Ấn. Ông Thịnh cho biết, Việt Nam cần hoả tiễn có tầm bắn xa để bảo vệ biển Đông và cầm chân hải quân Trung quốc. Hoả tiển Brahmos của Ấn Độ là sản phẩm quân sự chung Nga và Ấn. Brahmos là viết tắt của chữ Brahmaputra, tên một dòng sông Ấn và Moscow. Đây là hoả tiển bay nhanh nhất thế giới ở tốc độ vượt âm thanh. Với kích thước nặng từ 2500kg đến 3000kg tuỳ theo dàn phóng, dài 8.4 m, đường kính 0.6m, Brahmos có thể bắn mục tiêu xa 290km. Điều tiện lợi của hoả tiển này là có thể bắn trên tàu chiến, tàu ngầm, mặt đất và cả máy bay. Đặc biệt, Brahmos có thể tái chỉnh trang để gắn cho các chiến đấu cơ Su-30 và Su-30MK2 của Nga mà Hà Nội đang có.

Hỏa tiễn Brahmos
Mặc dù việc mua bán này sẽ không thuận thảo vì Ấn Độ không thể chuyển giao công nghệ quốc phòng tối tân cho Việt Nam, nhưng Ấn cũng đã tìm cách giúp Việt Nam huấn luyện chuyên viên về tàu ngầm. Hiện tại, Ấn cấp hơn 500 học bổng cho du học sinh Việt Nam và Ấn cũng đang huấn luyện Việt Nam về kỹ thuật nguyên tử chỉ “dùng cho dân sự”. Điều cần lưu tâm là nếu Việt Nam đồng ý cho Ấn sử dụng cảng Cam Ranh, việc chuyển giao kỹ thuật cao của hoả tiễn Brahmos và cả công nghệ “hạt nhân nguyên tử” cho Việt Nam, có thể là những vấn đề mà cả Trung quốc, Hoa Kỳ, Nhật và các nước Đông Nam Á sẽ bị bất ngờ.

Chiến tranh Việt – Trung sẽ phải xảy ra để giải quyết những tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Nhân dân Việt Nam không thể chấp nhận lãnh thổ càng lúc càng bị co cụm và nhục nhã trước tình trạng bị mất đất, mất biển. Đồng thời, dù lãnh đạo đảng CSVN có nhịn nhục, khiếp sợ đến cỡ nào thì Trung Quốc cũng phải chiếm các vùng biển Đông, vì nhu cầu chiến lược quân sự và tham vọng bá quyền. Hiện nay, Việt Nam đang nhịn nhục để mua thời gian, hiện đại hoá quân đội, chuẩn bị cho giai đoạn thử lửa, đối đầu và đánh trả nếu không còn sự chọn lưạ. Trung Quốc với tổng số chi tiêu cho ngân quỹ quốc phòng hàng năm trên 150 tỷ dollars và 2.5 triệu quân chính quy, nửa triệu quân Việt Nam không đủ vai vế để đương cự nếu chiến tranh bùng nổ. (*)

Sau cuộc chiến Việt - Trung 1979, Việt Nam đã bỏ mất cơ hội hiện đại hoá quân đội. Giờ mới bắt đầu thì đã muộn. Phải mất một thời gian dài, tốn nhiều tiền của, công sức, trí tuệ, quan hệ và sự khôn ngoan để Việt Nam đưa quân đội xứng với tầm cở thể kỷ 21. Tuy nhiên, đảng CSVN cần hiểu rằng quân đội chỉ có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, khi quân đội “hy sinh để bảo vệ Tổ quốc chứ không bảo vệ đảng”, nhất là đảng đang “phản bội và đi ngược lại quyền lợi” của dân tộc.

Nếu chỉ dựa vào vũ khí quân sự tối tân thì vài chục năm sau Việt Nam cũng không đủ sức đối đầu với Trung quốc. Hiểm hoạ bị hán hoá trên nhiều lãnh vực, kể cả lãnh thổ là điều khả thi nếu Hà Nội chỉ biết bám vào sức mạnh của quân đội. Từ ngàn xưa, Trung Quốc luôn mạnh hơn Việt Nam nhưng Đại Hán vẫn không thể nuốt nổi An Nam. Chính nhờ vào lòng yêu nước, ý chí quật cường và tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng của Vua tôi nước Nam mà Việt Nam còn hiện hữu đến hôm nay. Chiếm thành dễ, nhưng giữ thành khó. Đảng CSVN đã chiếm được đất nước Việt Nam nhưng không bao giờ giữ được lòng dân. Chế độ độc tài Hà nội cai trị dân dựa vào bạo lực, mất đi sức mạnh của trấn áp, chế độ công an trị sẽ bị đổ nhào. Kẻ chơi dao, chết vì dao. Chế độ bạo lực sẽ là nạn nhân của bạo lực. Lịch sữ đã minh chứng như vậy đối với các chế độ độc tài, bạo ngược, cuồng vọng như Tần Thủy Hoàng, Hitler, Mussolini, Ceausescu ..v.v…

Hiện nay, Hà nội không thể huy động lòng yêu nước, ý chí quật cường và sức mạnh dân tộc để chống ngoại xâm. Một chế độ độc tài, đảng trị, mất lòng dân, không đủ khả năng bảo vệ Tổ Quốc khi bị ngoại xâm. Cho dù mưu toan thay tên, đổi đảng hay bỏ hẳn luôn mục tiêu xây dựng Chủ nghĩa xã hội, để được làm đồng minh của Mỹ, Nhật, Ấn cho thế trận Trung - Việt..v.v… vẫn không thể giải quyết được yếm thế của Hà Nội. Tứ bề thọ địch, ngoại công nội kích, chế độ độc đảng Hà nội khó tồn tại lâu dài trước nhiều áp lực. Chỉ có một nước Việt Nam Tự do, Dân chủ mới có thể giữ được sự toàn vẹn lãnh thổ. Điều này chính là mục tiêu mà Nhân dân Việt Nam đang đấu tranh và những người yêu nước trong đảng CSVN cũng như các thế lực quốc tế không thể xem thường.

Trần Nam
California, tháng 8 năm 2009
Source: http://dangdcnd.blogspot.com/2009/08/tuong-lai-bien-ong.html
---------
(*) Military analysts can make an educated guess, however, and most say that China's real defense spending is two to four times what is officially stated. Beijing has announced an outlay of 351 billion yuan, or about US$45 billion for 2007, which means the real defense budget could be as high as US$180 billion. (The true about China’s Military)

Một lá thư lịch sử làm đau nhói tim can của một cường quốc


Từ trái qua phải: Sisowath Sirik Matak,
Lon Nol, and In Tam.

Vào tháng 4 năm 1975, khi quân đội Cộng sản đang trên đường tiến vào Nam vang thì người Mỹ đã mời Thủ tướng Sirik Matak và toàn bộ chính phủ Miên nên ra đi, vì ở lại thì sẽ bị Khờ Me Đỏ sát hại.

Ngày 16 tháng 4 năm 1975, Thủ tướng Sirik Matak đã viết một lá thơ vô cùng cảm động gởi cho Đại sứ Mỹ tại Nam Vang là ông John Gunther Dean. Lá thư đầy nghĩa khí và tiết tháo của một người anh hùng “sinh vi tướng, tử vi thần” như sau:


Phỏng dịch:
    Thưa Ngài và Bạn,

    Tôi thành thật cảm tạ ngài đã viết thư và còn đề nghị giúp tôi phương tiện đi tìm tự do. Than ôi ! Tôi không thể bỏ đi một cách hèn nhát như vậy !
    Với Ngài (đại sứ John Gunther Dean) và nhất là với xứ sở vĩ đại của Ngài, không bao giờ tôi lại tin rằng quý vị đã nhẫn tâm bỏ rơi một dân tộc đã lựa chọn tự do.


    Quý vị từ chối bảo vệ chúng tôi và chúng tôi chẳng thể làm được gì hết.
    Ngài ra đi, tôi cầu chúc Ngài và xứ sở của Ngài được hạnh phúc dưới bầu trời này.
    Nhưng xin Ngài nhớ cho rằng nếu tôi phải chết ở đây và ở lại đất nước tôi yêu dấu thì tuy đó là điều tệ hại, nhưng tất cả chúng ta đều sinh ra và cũng sẽ chết vào một ngày nào đó.


    Tôi chỉ ân hận một điều là đã quá tin và chót tin ở nơi quý vị, những người bạn Hoa Kỳ ! Xin Ngài nhận những cảm nghĩ chân thành và thân hữu của tôi.

    Sirik Matak

Chứng Tích Lịch Sử - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Tờ Jakarta Post ra ngày 30.07.2009 cho hay chính quyền địa phương - Tỉnh Rian, Indonésia - phản đối việc đóng cửa trại tỵ nạn Galang. Trại Galang ngày nay đã trở thành một trung tâm du lịch nổi tiếng dành cho nước ngoài nhưng vì lý do gì chính phủ Nam Dương ra lệnh cho chính quyền địa phương phải đóng cửa ?

Phát Ngôn Viên của BIDA (Cơ quan Phát triển Công nghệ Batam), ông Dwi Djoko Wiwoho, đã tuyên bố thẳng thừng “nhà cầm quyền Việt Nam đã công kích vấn đề này”. Lời tuyên bố của ông Dwi là một minh chứng hùng hồn từ giới hữu trách Batam rằng, Hà Nội đang can thiệp vào nội bộ doanh nghiệp của Indonesia, Hà Nội đang áp lực chính phủ Indonesia phải dẹp bỏ trại tỵ nạn cũ của người Việt Nam và người Kampuchia tại đảo Galang. Ông cũng giải thích thêm ‘’Vì theo dụng ý chính trị của Việt Nam không muốn cho mọi người thấy hình ảnh trại Galang là vạch rõ lịch sử đen tối của Việt Nam và như vậy là có phương hại đến bang giao của hai nước !

Tuy nhiên nhà cầm quyền địa phương đã chống lại lệnh trung ương với lý do du lịch, vì đây là địa điểm thu hút số lượng rất lớn du khách nước ngoài. Đối với Nam Dương, họ quyết giữ lại địa đểm du lịch nầy vì vấn đề thương mãi, nhưng đối với chúng ta, những người Việt Tỵ Nạn thì đây là một vấn đề cần phải lên tiếng với chính quyền Jakarta đồng thời vạch rõ âm mưu cộng sản trong kế hoạch xóa sạch tội lỗi của chúng.

Đây là lần thứ hai cộng sản Hà Nội vừa lợi dụng đường lối ngoại giao vừa hăm dọa chính quyền Jakarta phải dẹp bỏ di tích của người Việt Tỵ nạn trên lãnh thổ Indonésia. Hình ảnh tấm bia tưởng niệm cũng như các trại tỵ nạn trên đất Nam Dương là những bằng cớ có tính cách lịch sử tố cáo tội ác của cộng sản Việt Nam. Hà nội muốn hủy tất cả chứng tích tội ác ở nước ngoài đối với quốc tế trong âm mưu chạy tội hầu quảng cáo cho việc hòa giải hòa hợp để. Trái lại chính chúng duy trì những hình ảnh ‘tội ác Mỹ Ngụy’ tại quốc nội để gây căm thù với chế độ cũ. Hàng ngàn nơi trưng bày ‘tội ác Mỹ Ngụy’ được đưa vào chương trình du lịch, bán vé cho người vào xem không ngoài mục đích đánh lận con đen, bóp méo sự thật lịch sử đồng thơi khơi động lòng căm thù đối với Việt Nam Cộng Hòa cũ.

Đọc bản tin trên và so với những lời tuyên bố của ngụy quyền tỉnh Đồng Hới vừa qua về ngôi thánh đường Tam Tòa thì đúng là hành động cũng như lời nói xảo quyệt vô liêm sỉ và vô học của loài quỷ đỏ. Đối với Nam Dương chúng lợi dụng mọi hình thức để áp lực xứ nầy hủy bỏ từ tấm bia tưởng niệm trước đây vài năm và nay là trại tỵ nạn Galang. Ngược lại trong nước, chúng vẫn ngang nhiên trưng bày, thêu dệt một vài hậu quả chiến tranh (phải xảy ra trong thời chiến) để rêu rao cho rằng đó là ‘tội ác Mỹ Nguy’. Từ hầm địa đạo ‘biến chế’ tại Củ Chi, các hố bom tự tạo, các bảo tàng viện sắt máu đến nhà thờ Tam Tòa của người công giáo ở Đồng Hới được cộng sản đưa vào địa danh chứng tích lịch sử để bán vé vào cửa cho du khách. Đây không hẳn là hành động kinh tế mà chính là âm mưu gây căm thù, nhồi sọ người Việt Nam sinh sau năm 1975 và dùng làm phương tiện lừa bịp móc tiền du khách quốc tế.

Từ lâu cộng sản ra lệnh cho cò mồi đàn em ở hải ngoại hô hào quên đi quá khứ, hãy tha thứ cho nhau và bắt tay hòa giải hòa hợp để xây dựng đất nước …. không ngoài mục đích kêu gào người Việt hải ngoại gởi tiền về nuôi chế độ. Nhưng hãy nghĩ xem, cộng sản đã làm gì để tỏ thiện chí hay vẫn bỉ ổi duy trì những chứng tích chiến tranh bằng cách bôi xấu và gây căm thù với chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Những bằng chứng không thể chối cãi khi chúng hướng dẫn khách du lịch đi thăm những nơi gọi là ‘tội ác Mỹ-Ngụy’ mà chính du khách đã ghi lại bằng tiếng nói và hình ảnh, không mang chút gì có tính cách văn hóa lịch sử mà toàn là những lời tuyên truyền láo khoét phô trường chế độ và che giấu một sự căm thù sặc mùi máu của con người cộng sản.

Hôm nay vấn đề Tam Tòa đang dồn đảng cộng sản trước tình trạng không lối thoát thì chúng âm mưu tạo ra một biến cố mới để hướng nguồn dư luận của người Việt tỵ nạn cũng như của người nước ngoài quay qua một vấn đề khác : chúng bày ra trò áp lực với Nam Dương để xóa bỏ tàn tích tội các của chúng ở trại tỵ nạn Galang. Đây là trò cố hữu của cộng sản, một tập đoàn ù lì, xảo trá, bịp bợm với bộ óc chưa phát triển của người tiền sử, chúng chỉ bịp được với những tên cò mồi đón gió và thành phần dính máu ăn phần ‘hòa giải hòa hợp’ chứ không thể qua mặt được tập thể người Việt tự do hải ngoại.

Qua văn bản của tập đoàn cầm quyền cộng sản, nhà thờ Tam Tòa là nơi trưng bày ‘tội ác Mỹ-Ngụy’ (dù là chuyện thần thoại do cộng sản dựng lên) thì tôi cũng đặt ngược một câu hỏi với chúng như sau: Tập đoàn cộng sản Việt Nam có dám đập nát, đào xới các nghĩa trang kẻ thù Tàu cộng mà Hà Nội đã dựng bia tôn thờ ở phía Bắc, đồng thời thay vào đó bằng những tấm bảng như sau: ‘ĐÂY LÀ CHỨNG TÍCH TỘI ÁC XÂM LĂNG CỦA TÀU CỘNG’ không ?

Một khi Hà Nội dám làm việc nầy thì xem như đảng cộng sản Việt Nam đã vượt qua được bước đầu tiên trong tiến trình hóa từ ‘vượn lên người’ của chúng và từ đó mới có cơ may nói chuyện hòa giải với cộng đồng người Việt tự do trên tthế giới.

Đinh Lâm Thanh
Ngày 04.08.2009