Thursday, July 30, 2009

TẠI SAO CỘNG SẢN GIẾT PHẠM QUỲNH ? - Gs Trần Gia Phụng

Gs Trần Gia Phụng

Trong khi cộng sản không giết Trần Trọng Kim và toàn bộ nhân viên nội các Trần Trọng Kim, là những người đang còn hoạt động? Câu hỏi nầy cần tách ra làm hai phần để dễ tìm hiểu:

Thứ nhất: Từ khi đến Trung Hoa hoạt động năm 1924, Hồ Chí Minh, điệp viên của Đê Tam Quốc tế Cộng sản, lúc đó có tên Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, đã chủ trương “giết tiềm lực”. Giết tiềm lực là tiêu diệt tất cả những cá nhân có khả năng tiềm tàng mà không chịu theo chủ nghĩa cộng sản hay đảng Cộng Sản, có thể sẽ có hại cho đảng Cộng sản trong tương lai. Những người nầy về sau có thể sẽ hoạt động chính trị và có thể sẽ gây trở ngại, gây nguy hiểm cho sự phát triển của cộng sản. Nạn nhân danh tiếng đầu tiên của chủ trương giết tiềm lực của Hồ Chí Minh là Phan Bội Châu (1867-1940). Phan Bội Châu bị Lý Thụy bán tin cho Pháp, để Pháp bắt Phan Bội Châu năm 1925 tại nhà ga Thượng Hải, nhằm đoạt lấy tổ chức của Phan Bội Châu. (Tưởng Vĩnh Kính, Nhất cá Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đích ngụy trang giả, bản dịch của Nguyễn Thượng Huyền, Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, California: Nxb. Văn Nghệ, 1999, tt. 84-85.)

Từ đó, Hồ Chí Minh và phe đảng thi hành chủ trương giết tiềm lực, ngầm thủ tiêu rất nhiều thanh niên sinh viên hoạt động chính trị, và nhất là năm 1945, khi nắm được quyền lực, Việt Minh (VM), mặt trận ngoại vi của đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD), đã giết hầu hết những nhân tài không theo VM.

Tại Huế, VM tìm tất cả các cách nhắm cô lập vua Bảo Đại. Cách tốt nhất là cách ly nhà vua với những người có khả năng và uy tín thân cận bên cạnh nhà vua, trong đó quan trọng hơn cả là Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi. Do đó, VM ra lệnh bắt Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi cùng con của ông Khôi là Ngô Đình Huân ngày 23-8-1945. Đồng thời VM sắp đặt những người của VM như Tạ Quang Bửu, Phạm Khắc Hòe vây quanh rỉ tai nhà vua, phóng đại về kháng chiến, về Việt Minh.(Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, tr. 184.)

Theo David G. Marr trong Vietnam 1945, The Quest for Power, sau khi Phạm Quỳnh và hai cha con Ngô Đình Khôi bị bắt, người Nhật can thiệp một cách yếu ớt không hiệu quả. Ngày 28-8, sáu người Pháp nhảy dù xuống một địa điểm cách kinh thành Huế khoảng 20 cây số nhắm mục đích bắt liên lạc với vua Bảo Đại và các cựu quan Nam triều. Lúc đầu, VM địa phương tưởng những người Pháp nầy là người của phe Đồng Minh, cho họ trú tạm tại một ngôi nhà thờ, nhưng khi biết rằng đây là những người Pháp có ý định tìm cách liên lạc với các quan chức Nam triều cũ, VM liền giết bốn người, và cầm tù hai người đến tháng 6-1946. (David G. Marr, Vietnam 1945, The Quest for Power [Việt Nam 1945, đi tìm quyền lực] University of California Press, tt. 452-453.)

Trong khi cô đơn, lại bị Phạm Khắc Hòe xúi giục và hù dọa, vua Bảo Đại tuyên chiếu thoái vị ngày 25-8-1945, và làm lễ thoái vị tại cửa Ngọ Môn ngày 30-8-1945, với sự hiện diện của đại diện Việt Minh là Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, và Cù Huy Cận.

Theo hồi ký của Trần Huy Liệu, sau khi Nhật đầu hàng, người Pháp nhảy dù xuống Huế, liền hỏi ngay đến Bảo Đại, Phạm Quỳnh và những người cộng tác với Pháp trước đó. Việt Minh bắt được toán người Pháp nầy và “xử lý thích đáng” Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh. (Nguyên văn lời của Trần Huy Liệu.) Theo lối chơi chữ của Trần Huy Liệu, “xử lý thích đáng” có nghĩa là thủ tiêu hai ông Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh.

Nhiều người cho rằng việc người Pháp muốn kiếm cách liên lạc với cựu hoàng Bảo Đại và Phạm Quỳnh (vì lý do gì không được rõ) vô tình đã làm cho VM lo ngại, sợ rằng một khi người Pháp trở lui, Pháp sẽ nhờ Phạm Quỳnh và những người đã từng làm việc với Pháp như Ngô Đình Khôi giúp Pháp lật ngược thế cờ, đưa cựu hoàng trở lại cầm quyền.

Do đó VM vội vàng “mời” cựu hoàng Bảo Đại rời Huế ngày 4-9-1945, ra Hà Nội làm cố vấn chính phủ, để cách ly cựu hoàng với cố đô, chiếc nôi của nhà Nguyễn, đồng thời cách ly cựu hoàng với những cận thần cũ. Vì vậy VM giết ngay các ông Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi ngày 6-9 để trừ hậu hoạn. Trong khi đó, nếu người Pháp trở lui Huế, người Pháp cũng không hợp tác với Trần Trọng Kim, vì ông Kim và nội các của ông bị gán cho là thân Nhật.

Thứ hai: Khi cướp chính quyền, VM đã chủ ý giết một số người trong đó có Phạm Quỳnh. Việt Minh chủ ý giết Phạm Quỳnh vì:

1. Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quân chủ lập hiến tại nước ta, và cho rằng cộng sản là “nạn dịch” gây bất ổn xã hội. (Phạm Quỳnh, “Ce que sera l’Annam dans cinquante ans?”[Nước Nam sẽ ra sao năm mươi năm sau?], Essais franco-annamites (1929-1932), Huế: Nxb. Bùi Huy Tín, 1937, tr. 500.) Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quốc học trong khi Việt Minh muốn phổ biến chủ nghĩa cộng sản.

2. Ở trong nước, Phạm Quỳnh tiêu biểu cho giới trí thức làm văn hóa, theo chủ nghĩa dân tộc, lập trường quốc gia, bất bạo động, dấn thân hoạt động chính trị. Việt Minh giết Phạm Quỳnh để đe dọa, uy hiếp và khủng bố tinh thần giới trí thức hoạt động văn hóa trên toàn quốc. Đây là lối mà người xưa gọi là “sát nhất nhân, vạn nhân cụ “(giết một người, mười ngàn người sợ).

3. Đối với nước ngoài, Phạm Quỳnh là người được Pháp ủng hộ và rất có uy tín trên chính trường Pháp. Với đường lối ôn hòa, ông còn có thể được cả Nhật, Trung Hoa (lúc bấy giờ do Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng cầm quyền), Anh, Hoa Kỳ chấp nhận hơn là đường lối cực đoan theo Liên Xô của Hồ Chí Minh.

4. Hồ Chí Minh muốn chụp lấy ngay thời cơ tạo ra do khoảng trống chính trị sau tối hậu thư Potsdam vào cuối tháng 7-1945, nên chủ trương tiêu diệt tất cả những người nào có khả năng tranh quyền với Hồ Chí Minh, để cho ở trong cũng như ngoài nước thấy rằng chỉ có một mình Hồ Chí Minh mới xứng đáng lãnh đạo đất nước. Phạm Quỳnh đã từng là thượng thư bộ Lại, đứng đầu triều đình Huế. Đặc biệt những điều ông viết về tương lai thế giới mà ông đưa ra từ 1930 trong bài “Ce que sera l ‘ Annam dans cinquante ans?” [Nước Nam sẽ ra sao năm mươi năm sau?] đều đã diễn ra đúng theo ông tiên liệu, như mối đe dọa của Nhật Bản, nạn dịch cộng sản, xung đột Thái Bình Dương, đại hỏa hoạn ở châu Âu [thế chiến 2]. Nhờ thế mà uy tín Phạm Quỳnh lên rất cao.

Phạm Quỳnh có uy tín và tư thế lớn đối với dư luận trong và ngoài nước, là một trong những người có thể trở thành đối thủ đáng ngại của Hồ Chí Minh, nên Hồ Chí Minh quyết tiêu diệt Phạm Quỳnh để tránh trở ngại về sau.

5. Khi mới nổi dậy năm 1945, để lôi cuốn quần chúng, Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt Minh tuyên truyền rằng Hồ Chí Minh là nhà yêu nước, chứ không phải là đảng viên cộng sản, và Hồ Chí Minh ra đi để tìm đường cứu nước, đồng thời Hồ Chí Minh tự giấu thật kín chuyện xin vào học trường Thuộc Địa Paris mà bị loại. Một chuyện nữa cũng thuộc loại “thâm cung bí sử” của Hồ Chí Minh là việc Nguyễn Ái Quốc gia nhập Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) ở Paris vào đầu năm 1922. (Jacques Dalloz, “Les Vietnamiens dans la franc-maçonnerie coloniale” [Người Việt trong hội Tam Điểm thuộc địa], tạp chí Revue Française d’Histoire d’Outre-mer, Tam cá nguyệt 3, 1998, Paris: Société Française d’Histoire d’Outre-mer, tr. 105.) Hội Tam Điểm là một hội có chủ trương chính trị đối lập với đảng Cộng Sản và là kẻ thù của đảng Cộng Sản.

Cũng trong năm 1922, theo lời mời của chính quyền Pháp, Phạm Quỳnh đến Paris diễn thuyết tại Trường Thuộc Địa (École Coloniale) ngày 31-5-1922 về đề tài “Sự tiến hóa về đường tinh thần của dân Việt Nam từ ngày đặt bảo hộ đến giờ”. Sau đó, Phạm Quỳnh ở lại Paris để đi diễn thuyết vài nơi, kể cả Viện Hàn lâm Pháp. Trong thời gian ở Paris, Phạm Quỳnh ghi nhật ký là đã gặp gỡ những “chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi”, và không nêu tên những người ông đã gặp trong nhật ký. Tuy nhiên, trên sổ lịch để bàn, Phạm Quỳnh ghi rõ: [Thứ Năm, 13-17]: “Ăn cơm Annam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Villa des Gobelins)”. [Tờ lịch Chủ nhật 16-7]: “Ở nhà, Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” [Chủ nhật 16-7] [Chuyền có thể là Nguyễn Thế Truyền.]

Như thế, Phạm Quỳnh là một trong những người biết rõ tung tích Hồ Chí Minh ở Paris, biết rõ Hồ Chí Minh đã gia nhập hội Tam Điểm Pháp, và đặc biệt Phạm Quỳnh còn sống cho đến 1945. (Những người khác như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh đều đã từ trần.) Phạm Quỳnh là một nho sĩ chính trực nên ông không tiết lộ cho vua Bảo Đại biết điều nầy, do đó nhà vua mới bị Phạm Khắc Hòe dẫn dụ về nhân vật Hồ Chí Minh. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, tt. 184-185.) Phải chăng vì là người đã lỡ “biết quá nhiều” về Hồ Chí Minh mà Phạm Quỳnh bị Hồ Chí Minh ám hại?

Do những lẽ trên, nếu không có những người Pháp nhảy dù xuống Huế như tác giả David G. Marr viết hay Trần Huy Liệu kể, cộng sản cũng vẫn giết Phạm Quỳnh. Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim đều là hai nhà văn hóa, và chính trị nổi tiếng trên toàn quốc. Trần Trọng Kim viết khảo cứu có tính cách hoàn toàn chuyên môn, chứ không có chủ trương chính trị lâu dài; nội các Trần Trọng Kim gồm những chuyên viên cần thiết cho việc xây dựng cơ sở căn bản trong giai đoạn chuyển tiếp từ chính quyền Pháp qua chính quyền Việt. Trần Trọng Kim ít biết về những hoạt động của Hồ Chí Minh lúc còn ở Paris.

Ngược lại, Phạm Quỳnh trước tác với một ý hướng chính trị rõ ràng: xây dựng một nền văn hóa dân tộc, bảo tồn quốc tuý, nâng cao trình độ văn hóa của dân chúng bằng cách phổ biến văn hóa Âu tây, dịch thuật những tư tưởng dân quyền của Montesquieu, Voltaire, Rousseau. Phạm Quỳnh tham gia triều đình Huế cũng nhắm đến một chủ đích rõ ràng: tranh đấu ôn hòa, nhưng cương quyết yêu cầu Pháp trả lại chủ quyền cho triều đình, và xây dựng một hiến pháp làm luật lệ căn bản của quốc gia.

Ảnh hưởng văn hóa và chính trị của Phạm Quỳnh khá rộng rãi trên các tầng lớp quần chúng, nhất là giới trí thức trung lưu, từ lớp trí thức Nho học đến cả lớp trí thức và thanh niên tân học. Tạp chí Nam Phong được các lớp người ưu tú ở các địa phương lúc bấy giờ trên toàn quốc xem như loại sách báo giáo khoa chỉ đường. Đó là điều mà cộng sản chẳng những không thể chấp nhận và cũng không thể dung thứ, vì cộng sản muốn nắm độc quyền lãnh đạo chính trị, độc quyền yêu nước, độc quyền chân lý.

Xin hãy chú ý thêm ngày Phạm Quỳnh bị sát hại. Phạm Quỳnh bị bắt ngày 23-8-1945, và bị giết ngày 6-9, nghĩa là ông không bị nhóm VM địa phương Huế giết liền khi họ nổi dậy. Vua Bảo Đại thoái vị ngày 30-8-1945 với sự chứng kiến của đại diện chính phủ Việt Minh từ Hà Nội đến là Trần Huy Liệu (bộ trưởng bộ Tuyên truyền), Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận (bộ trưởng không bộ nào tức quốc vụ khanh).

Phạm Quỳnh bị giam giữ một thời gian, rồi mới bị giết ngày 06-09-1945, nghĩa là lúc đó đã có mặt của đại diện trung ương của VM và của đảng CSĐD.

Khi đã có sự hiện diện của đại diện trung ương, các cán bộ VM địa phương chắc chắn không dám tự tiện ra tay, mà chắc chắn phải có ý kiến của trung ương. Nhóm Trần Huy Liệu cũng không thể tự quyết định được việc nầy. Như vậy phải chăng chính nhóm Trần Huy Liệu đã đem lệnh từ Hà Nội vào Huế để giết Phạm Quỳnh? Và lệnh đó từ đâu, nếu không phải là từ Hồ Chí Minh?

Sau khi Phạm Quỳnh bị giết, hai người con gái đầu của ông là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh. Dưới đây là lời kể của bà Thức: ”… Tháng 8 năm 1945, Thầy tôi ra đi!… Sau đó, chị tôi [tên Giá] và tôi nhờ một anh bạn là Vũ Đình Huỳnh ngày ấy là garde-corps [cận vệ] cho cụ Hồ, giới thiệu đến thăm cụ và hỏi truyện [tức chuyện Phạm Quỳnh]. Cụ bảo: “Hồi ấy tôi chưa về … Và trong thời kỳ khởi nghĩa quá vội và có thể có nhiều sai sót đáng tiếc…” (Hồi ký viết tại Paris ngày 28-10-1992 của bà Phạm Thị Thức, nhân kỷ niệm 100 năm sinh niên Phạm Quỳnh, tài liệu gia đình.)

Phạm Quỳnh bị giết ngày 06-09-1945. Hồ Chí Minh cướp chính quyền ngày 02-09-1945, ra lệnh “mời” Bảo Đại ra Hà Nội, và Bảo Đại rời Huế ngày 04-09-1945. Như thế có nghĩa là Hồ Chí Minh đã về Việt Nam, đã cướp được chính quyền, đã nghĩ đến cựu triều đình Huế, đến việc đưa Bảo Đại ra Hà Nội, vậy chắc chắn Hồ Chí Minh không thể quên hay không biết chuyện Phạm Quỳnh. Lối lý luận của Hồ Chí Minh là cách chối tội thông thường cổ điển của VM: “Mất mùa là tại thiên tai,/ Được mùa là tại thiên tài đảng ta".

Giết xong Phạm Quỳnh, cộng sản tính việc hủy diệt luôn hình ảnh sáng chói nhà văn hóa Phạm Quỳnh, tức giết Phạm Quỳnh lần thứ hai. Việc nầy thì không thể nói là Hồ Chí Minh không biết gì cả. Đảng Cộng Sản quy chụp cho Phạm Quỳnh tội “phản quốc, làm tay sai cho Pháp”. Gần 40 năm sau, trong Từ điển văn học, gồm 2 tập, mỗi tập trên 600 trang, gồm nhiều người viết, do Uỷ ban Khoa học Xã hội xuất bản tại Hà Nội năm 1984, vẫn không có mục “Phạm Quỳnh”. Khi viết về các nhóm văn hóa, sách nầy không thể loại nhóm Nam Phong vì nhóm Nam Phong có khá nhiều tác giả nổi tiếng.

Nói đến nhóm Nam Phong, trang 121-123, tập 2, tác giả Nguyễn Phương Chi, trong ban biên tập từ điển, vẫn còn gọi Phạm Quỳnh là “bồi bút, phản động”. Hơn thế nữa, năm 1997, trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, do nhà xuất bản Văn Hóa, Hà Nội ấn hành, Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế biên tập, mục “Phạm Quỳnh”, trang 758-759, hai tác giả nầy viết: “Hoạn lộ của ông [chỉ Phạm Quỳnh] lên nhanh như diều gặp gió vì gắn bó mật thiết với các quan thầy thực dân … Ngày 23-08-1945, Phạm bị các lực lượng yêu nước bắt ở Huế, rồi sau đó bị xử bắn ở l.[làng] Hiền Sĩ, t.[tỉnh] Thừa Thiên, hưởng dương 53 tuổi.”

Các tác giả cộng sản thường đưa ra chiêu bài yêu nước và dân tộc để quy chụp những người không theo khuynh hướng của cộng sản là phản động, phản quốc, trong khi chính vì Hồ Chí Minh khăng khăng đi theo cộng sản Liên Xô mà Việt Nam không được các nước Đồng Minh thừa nhận sau năm 1945. Cũng chính vì đảng Cộng Sản chủ trương ý thức hệ cộng sản mà gây ra mâu thuẫn quốc cộng, phá hoại tình đoàn kết dân tộc, là một trong những nguyên nhân chính đưa đến chiến tranh Việt Nam từ 1946 đến 1975, và hậu quả còn kéo dài mãi cho đến ngày nay.

Sau năm 1954, rồi 1975, chính đảng Cộng sản Việt Nam đã nhập cảng và áp dụng một cách máy móc chính sách văn hóa Mác, Mao và kinh tế chỉ huy rập theo khuôn Liên Xô và Trung Cộng, đã làm cho Bắc Việt rồi cả Việt Nam suy kiệt về mọi mặt cho đến ngày nay mà chưa tìm ra lối thoát.

Nếu nói rằng: Phạm Quỳnh hợp tác với Pháp để mưu cầu chủ quyền cho Việt Nam, bảo vệ quyền lợi của quốc gia là làm tay sai cho ngoại bang, còn Hồ Chí Minh và đảng cộng sản theo Nga Hoa, bán đứng quyền lợi đất nước, thì không phải là tay sai ngoại bang? Nếu nói rằng Phạm Quỳnh hợp tác công khai với Pháp, viết bài trình thuật rõ ràng các hoạt động của ông là phản quốc, trong khi Hồ Chí Minh làm gián điệp cho Đệ tam Quốc tế Cộng sản, cầu viện Trung Quốc và Liên Xô là không phản quốc?

Nếu nói rằng Phạm Quỳnh viết bài quảng bá học thuật Âu tây, đề cao tư tưởng dân quyền của Voltaire, Montesquieu, Rousseau là không có tinh thần dân tộc, còn cộng sản phổ biến tư tưởng Marx, Lenin, và nhất là chủ nghĩa Stalin thì gọi là gì? Phạm Quỳnh dịch thơ Corneille, Racine là bồi bút, còn Tố Hữu làm thơ gọi Stalin là ông nội, “thương cha thương mẹ thương chồng/thương mình thương một thương ông thương mười”, thì không bồi bút?

Nói cho cùng, nếu Phạm Quỳnh chỉ là người học trò bình thường của Voltaire, Montesquieu hoặc Rousseau thì cũng đáng mừng cho dân tộc Việt Nam, vì tư tưởng của các nhà học giả Pháp nầy là ánh sáng soi đường cho nhân dân toàn thế giới xây dựng nền tự do dân chủ phân quyền pháp trị.

Trong khi đó Hồ Chí Minh là “một người học trò trung thành của Các Mác và V. I. Lê-nin” (Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1975, tr. 160.), và nhất là người học trò xuất sắc của Stalin, thì thực tế lịch sử đã chứng minh rằng đó là hiểm họa độc tài đen tối khốc liệt nhất từ trước đến nay trong lịch sử Việt Nam.

Dầu sao, việc tuyên truyền của cộng sản một thời gây nhiễu xạ hình ảnh của Phạm Quỳnh và ảnh hưởng không ít đến dư luận dân chúng, làm nhiều người, kể cả vài kẻ tự mệnh danh là trí thức tiến bộ, hiểu sai về Phạm Quỳnh, và hiểu sai luôn về một số nhân vật chính trị theo khuynh hướng quốc gia dân tộc. Phạm Quỳnh đã từng nói: “Về phần tôi, tôi đã chọn con đường của tôi. Tôi là một người ở buổi giao thời và tôi sẽ chẳng bao giờ được cảm thông …”. (Thư ngày 30-12-1933 của Phạm Quỳnh gời Louis Marty, Hành trình nhật ký, Paris: Nxb. Ý Việt, 1997, phần “Dẫn nhập”, không đề trang.)

Ngày nay, sau những biến động đảo điên của thời cuộc, mọi người nên công tâm tìm hiểu Phạm Quỳnh và nhìn lại sự nghiệp của ông. Trước ngã ba đường vào đầu thế kỷ 20, giữa cựu học, Tây học, và tân học, Phạm Quỳnh chọn con đường tân học, cải tiến và hoàn chỉnh văn học Quốc ngữ để làm phương tiện xây dựng quốc học, vừa bảo vệ quốc hồn quốc túy, vừa bồi đắp thêm bằng cách du nhập những tinh hoa văn hóa nước ngoài.

Chủ trương hòa nhập văn hóa (acculturation) của Phạm Quỳnh xét cho cùng rất quý báu và cần thiết cho đất nước, vì nếu chỉ mãi mê tranh đấu chính trị và quân sự, mà không xây dựng nền văn hóa dân tộc dựa trên quốc hồn, quốc học và quốc văn, thì người Việt vẫn bị trì trệ trong sự nô lệ tinh thần. Những đóng góp của ông trong việc phát triển nền văn chương Quốc ngữ thật lớn lao. Những vấn đề văn chương, triết lý tổng hợp đông tây ông đã viết, những ý kiến do ông đưa ra trong các bài báo, kể cả những ý kiến ông tranh luận về truyện Kiều, về Nho giáo, vẫn còn có giá trị. Giấc mơ của Phạm Quỳnh về quốc học, quốc hồn lại càng cần được cổ xúy làm nền tảng giáo dục tinh thần cho mọi người Việt Nam ngày nay ở trong cũng như ở ngoài nước. Phạm Quỳnh là nhà văn hóa lớn của Việt Nam thời hiện đại.

Về chính trị, Phạm Quỳnh viết nhiều tiểu luận bằng tiếng Việt cũng như bằng tiếng Pháp để tranh đấu thực hiện lý tưởng chính trị của ông. Nhiều người thường đồng nghĩa nền quân chủ với phong kiến hoặc thực dân, nên cho rằng quan niệm quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh là thủ cựu. Cần phải chú ý là Phạm Quỳnh chủ trương bất bạo động. Ông chọn thể chế quân chủ lập hiến với hy vọng thúc đẩy Việt Nam chuyển biến một cách ôn hòa trong trật tự.

Nhìn ra nước ngoài, hiện nhiều nước trên thế giới vẫn duy trì nền quân chủ lập hiến, nhưng vẫn là những nước hết sức dân chủ như Anh Quốc, Nhật Bản, Thuỵ Điển, Bỉ … Ở trong nước, xét trên chiều dài của lịch sử, từ ngày Pháp đặt nền đô hộ năm 1884 đến năm 1945, tuy các vua nhà Nguyễn bị người Pháp khống chế, nhưng vua vẫn là biểu tượng cao cả của đất nước, nên các cuộc nổi dậy kháng Pháp từ Bắc vào Nam đều quy hướng về một mối, đó là triều đình ở kinh đô Huế. Trái lại từ năm 1945 trở đi, khi VM cộng sản cướp chính quyền, người Việt Nam bị chia rẽ trầm trọng thành nhiều phe nhóm khác nhau, theo những quan điểm khác nhau. Do đó, Phạm Quỳnh có phần hữu lý khi ông chủ trương cải cách ôn hòa, và chọn quân chủ lập hiến theo đại nghị chế thay thế cho nền quân chủ chuyên chế.

Ngày nay, cục diện chính trị Việt Nam đã thay đổi hẳn, quan niệm quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh không còn phù hợp, nhưng không thể vì thế mà phủ nhận tinh thần ái quốc, lòng can đảm và sự tận tình của ông trên con đường phụng sự quê hương. Phạm Quỳnh đã âm thầm tranh đấu bất bạo động để đòi hỏi chủ quyền cho đất nước. Ông đã hết lòng hoạt động vì nước và đã hy sinh vì lý tưởng của mình. Đó là điều thật đáng trân quý nơi Phạm Quỳnh, nhà trí thức dấn thân hoạt động chính trị.

Một điều đáng ghi nhận cuối cùng trong cách thức hành xử của Phạm Quỳnh. Ông theo đuổi một lý tưởng chính trị trường kỳ và bất bạo động, nên ông luôn luôn cố gắng làm những gì có lợi cho đất nước và đồng bào, đồng thời tránh không làm bất cứ việc gì có hại cho quốc gia dân tộc. Phạm Quỳnh sống lương thiện, không tham ô nhũng lạm, và cũng không hề gây tội ác giết hại đồng bào. Thái độ nầy là điều mà rất ít nhà hoạt động chính trị của mọi khuynh hướng thực hiện được, và là một điểm son sáng chói phân biệt Phạm Quỳnh với những người ra hợp tác với Pháp để trục lợi cầu vinh.

Đây là điều cần phải được tách bạch. Trong việc hợp tác với Pháp, có hai hạng người: hạng thứ nhất là những kẻ hợp tác để mưu cầu danh lợi riêng tư, lợi dụng quyền thế, hống hách bóc lột đồng bào; hạng thứ hai ra tham chính, làm việc với Pháp, không dựa vào quyền thế để hiếp đáp dân chúng, mà dùng quyền thế để cứu giúp đồng bào, và vẫn giữ được khí tiết riêng của mình như Nguyễn Trường Tộ, Pétrus Trương Vĩnh Ký, và biết bao nhiêu người vô danh khác…

Phải tránh vơ đũa cả nắm, và phải rõ ràng như thế mới hiểu được tâm trạng cùng sự can đảm của những nhà trí thức, trong hoàn cảnh éo le của đất nước, dấn thân hoạt động chính trị, phụng sự dân tộc, nhất thời đã bị hiểu lầm sau những cơn lốc tranh chấp chính trị kéo dài trên quê hương yêu dấu, trong đó Phạm Quỳnh là trường hợp điển hình nhất.

Trần Gia Phụng
(Toronto, Canada)

Wednesday, July 29, 2009

Giòng sông Bến Hải vẫn còn - Xuân Khê


Xuân Khê

Lời phi lộ: Hôm nay là ngày 20 tháng 7, đúng 55 năm trước đất nước VN đã bị chia đối theo vĩ tuyến 17 ký giữa Pháp và VM. Sau biến cố đau thương tháng Tư 1975 dĩ nhiên theo con mắt bình thường xem như giòng sông Bến hải chia đôi bờ Nam-Bắc VN không còn nữa. Đảng CSVN từng vỗ ngực tự hào có công "thống nhất tổ quốc VN " thế nhưng những sự thực trân tráo và phũ phàng của hiện trạng đau thương đủ mọi mặt của quê mẹ VN đang quằn quại rên xiết dưới bàn tay cai trị độc tài của cái đảng tham tàn CSVN đã và đang dẫn đưa dãi đất hình chữ S thân yêu của con dân nước Việt tới bờ mất nước. Trong những biến thái đau khổ chung của dân tộc có nhũng hố sâu ngăn cách "Gìòng Bến Hải " vẫn còn đó dù vô hình cho đất nước chúng ta khi còn bóng cái đảng bán nước hại dân CSVN mà quốc Tặc Hồ Chí Minh đã đưa đường dẫn lối về tàn hại dân mình:

Xuân Khê xin mạn phép post lại một hồi ức cách đây đúng 1 năm cũng vào ngày 20 tháng 7:
Hôm nay ngày 20 tháng 7 năm 2008, đúng 54 năm trước đất nước VN chia đôi và từ đó giòng sông Bến Hải quê tôi trở thành một địa danh lịch sử.

Quá khứ chập chùng đưa tôi về lại hinh ảnh ngày xưa, những ngày còn bé một thuở tạm gọi thanh bình dưới thời Đệ nhất cộng hòa của Cố TT Ngô đình Diệm cứ mỗi năm dịp kỷ niệm 20 tháng 7 đất nước chia đôi tôi khi đó chỉ là một thằng bé được cả nhà đưa ra quận Trung Lương cùng đồng bào Quảng Trị làm lễ Mit ting kỷ niệm ngày chia đôi đất nước lần 5, lần 6 gì đó.

Hồi đó muốn ra tới Cầu Bến Hải xe phải qua đèo Ba Dốc. Đèo này không cao nhưng muốn xuống đèo xe phải lái rất cẩn thận xuống được 3 cái dốc rất ngặt nên và nguy hiểm. Hết đèo là xe có thể ‘bon bon’ chạy trên một đoạn đường thẳng trên một đồng bằng hiếm hoi của quận Trung Lương để đến chân cầu Bến Hải nơi này có trụ sở kiểm soát đình chiến kết hợp cảnh sát Trung Lương làm việc ở đây.

Tôi nhớ rõ nhất là hai lá cờ to lớn có thể là ‘vĩ đại’ nhất trong trí nhớ của tôi, dĩ nhiên cờ vàng ba sọc đỏ bên ‘miềng’ (tiếng gọi MÌNH của dân Quảng Trị chúng tôi) và cờ đỏ sao vàng bên “tê” (kia). Hai là cờ to lớn theo trí nhớ của tôi thì nó có thể phủ kín một cái nhà một cách dễ dàng. Cái cầu cũng bị chia đôi mỗi bên mỗi màu và sơn đúng một nửa bên mình thì màu xanh. Nhân viên 2 phía đi lui đi tới trên cầu thỉnh thoảng đi qua mặt nhau cũng đôi lúc cả 2 cùng nói gì đó và cùng ngó xuống mặt nước sông Hiền lương. Bề mặt của chiếc cầu rất hẹp và nó chẳng cần chi cho chuyện xe cộ mà để trao đổi nhân viên 2 miền qua lại làm việc hàng ngày. Gia đình tôi còn kể rằng mỗi ngày cảnh sát quận Trung lương cũng qua làm việc bên kia và đổi lại bên kia cũng có một người qua ‘làm việc’ bên mình. Văn phòng làm việc của mỗi bên đều gần sát cầu, kế cột cờ mà là cờ Vàng đang phần phật bay theo gió.

Đến giờ hành lễ, đồng bào tới sát cầu mặt hương về bờ sông bên kia tai thì nghe ban tổ chức đọc diễn văn và cáo trạng CS miền Bắc đang đày đọa đồng bào ruột thịt miền Bắc khi họ cố tâm xây dựng cho được Chủ nghĩa Xã hội áp đặt lý thuyết Cộng sản lên đầu dân chúng miền Bắc. Xen kẽ còn có những bài hát đề cao tự do no ấm của miền Nam như ‘ khúc hát thanh bình ‘ “ chuyến đò vĩ tuyến ‘ ‘ nắng đẹp miền Nam” …

Lúc này phía bên kia đâu có chịu yên, họ đem một đội quân nhạc bận complet trắng, cùng hướng về bờ Nam hợp tấu những bài “hùng ca” gì đó nhưng phía bên mình ồn quá làm sao nghe được, hơn nữa họ chỉ muốn phá đám buổi lễ của đồng bào mình mà thôi.

Bỗng có những tiếng la hét và một đám đồng bào hốt hoảng chạy ngược lùi lại phía sau và những hoảng loạn đó lan truyền rất nhanh làm tôi cũng chạy mất luôn đôi dép ‘nhựa’ (hồi đó ít ai mà có giày). Sau đó mới vỡ lẽ là một ông ‘cán bộ VC” đang trực trên cầu vô ý vứt tàn thuốc xuống một đám cỏ khô bên cầu, có gió nó băt lửa lên khói làm đồng bào hoảng sợ tưởng chuyện gì. Những đám đông khác thấy chạy thì cứ chạy nên hoảng loạn mới lan nhanh như thế.

Tội nghiệp mấy chú cảnh sát Trung Lương vất vả giải thích một hồi lâu thì đồng bào mình mới yên tâm. Hết lễ, bà con chia thành từng tốp nhỏ đi theo men sông để ngắm phía ‘ bên tê”.

Trí nhớ của tôi còn ghi lại một giòng sông nhỏ bé, nước lặng lờ trôi. Bên tê sông hình dáng những người dân miền Bắc kham khổ chịu đựng, những cánh áo nâu khom khom ngươi ‘lùng sục’ dưới đáy sông kiếm từng con cá. Hay những chiếc thuyền nan bé tí teo, những chiếc nón lá chỉ biết im lăng, câm nín cúi đầu với công việc kiếm ăn. Họ im lìm tuyệt đối không có một cử chỉ tò mò gì khi bên này sông đồng bào mình đang đi như trẩy hội. Bên kia sông chỉ một khoản cách ngắn ngũi mà thôi thế mà đồng bào bờ Bắc như không thấy không nghe, không dám ngẫng đầu nhìn. Một sức mạnh vô hình đang bắt họ phải điếc phải mù, ôi gớm ghiếc thay bạo quyền cộng sản, một sức mạnh khủng bố mà tôi đã cảm nhận ra ngay dù lúc còn bé xíu.

Men theo bờ Hiền Lương cứ cách chừng một cây số mỗi bên bờ đều có một trụ phát thanh, mỗi trụ gắn khoảng gần 20 cái loa đều mở hết ‘volume’ hướng về bờ kia đê phát thanh cùng ca nhạc tuyên truyền cho chế độ mình. Bên nào cũng mở hết cỡ âm thanh làm huyên náo cả một vùng khiến tôi quên cả sợ hãi phập phồng. Hình như tôi cũng biết sợ bị VC bắt qua phía bên kia thì phải, kiểm soát lại ký ức của tôi ngay từ thuở bé xíu cũng tâm trạng chung đồng bào phía Nam nghe hai chữ Việt Cộng thì sợ lắm.

Qua năm sau, cũng dịp này lần này tôi có dịp đi ra phía CỬA TÙNG cửa sông Hiền Lương. Cửa Tùng dáng vẻ đỉu hiu buồn bả vô cùng. Bên “tê” chỉ lác đác vài ba cái thúng của dân đánh cá miền Bắc, không có dân. Còn phía bờ Nam cửa Tùng thì tuyệt đối đồng bào mình không có làm ăn ở đây. Sau này tôi có thể hiểu rằng, bên kia tuy đóng vai dân chài làm ăn vậy nhưng toàn là cán bộ VC ngụy trang cả mà thôi.

Rôi chiến sự leo thang, cường độ cuộc chiến càng ngày càng ác liệt. Những năm sau này 1960 Trung Lương càng ngày càng hoang vắng, Công sản miền Bắc xé hiệp định Geneve tăng quân ngang nhiên xâm lăng miền Nam. Trung Lương và Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến bất lực, quân Trung Lương xoá sổ, 1967 toàn bộ dân Gio Linh di tản hết lên Cam Lộ, vào Nam tái định cư. Tuyến MacNamara ra đời. Chiến tranh không tập miền Bắc gia tăng mức độ cường tập đến nỗi một cái cống trên giao thông miền Bắc cũng không còn. Và chuyện đi chơi dự Míting ở cầu Bến Hải đã thực sự nằm trong dĩ vãng.

54 năm qua, cầu Bến Hải phân chia hai miền Nam Bắc đánh dấu một khúc quanh lịch sử dân Việt tưởng chừng như nó đã là một danh từ trong sử Việt. Thế mà khi nhìn lại những gì Đảng CSVN đã di họa cho toàn dân Việt sau 34 năm cưỡng chiếm miền Nam “thống nhất” đất nước chỉ là hố phân cách sâu thăm thẳm giữa khối dân bị trị và một đảng cầm quyền. Đảng CSVN qua máu xương dân tộc đã nghiễm nhiên cướp lấy bộ máy cầm quyền đáng lý là do dân, vì dân và của dân, trái lại cái đảng cướp này dùng bộ máy này để làm một công cụ đàn áp, khống chế và bốc lột dân lành. Rõ rang giòng sông Bến Hải vẫn còn đó ngăn chia giữa dân và chính quyền nó chỉ lấp được khi chính quyền đó trở về lại quyền sở hữu của dân tộc VN, phục vụ cho ý muốn và quyền lợi toàn dân tộc.

Giòng sông Bến Hải vẫn còn khi trong xã hội VN hố phân chia sâu vời vợi giữa quần chúng lao động nghèo nàn, rách nát, đầu tắt mặt tối làm không đủ ăn. Cái đói cái nghèo đến mức phải bán máu và bán máu trớ trêu trở thành một cái nghề nuôi sống cho chính họ và gia đình. Trái lại giai cấp cầm quyền, quý tộc Đỏ thì tiền bạc thừa mứa, giàu nứt đố đổ vách, ăn chơi sa đọa, trụy lạc đến mức tận cùng của trụy lạc không còn bút mực nào tả xiết. Những thành phố xa hoa một cái “búng tay“ cho ticket thưởng “boa’ cho các em “cave” vũ trường hộp đêm thì số tiền đó các em nhỏ đánh giày, lượm nylon trong những đóng rác thành phố hay những ông già kéo xe, đạp xích lô không bao giờ dám mơ tưởng đến. Đó là chưa kể đến các ông thái thương hoàng CSVN, các ông cán bộ cấp trung ương thì của chìm của nổi không biết bỏ đâu (chuyện này hỏi ở Hoa KỲ và Thụy sĩ).

Làm sao mà hết giòng sông Bến Hải chia đôi hai giai cấp nghèo giàu khi mà những thảm trạng ở miền Nam bộ những em gái tuổi còn dưới 10 mà phải bị bán qua Campuchia làm điếm. Hàng trăm ngàn thiếu nữ nông thôn phải ‘tự nguyện lấy chồng ngoại ‘ rồi trở thành những ‘đồ chơi’ rẽ tiền và lăm lúc phải bỏ xác quê người cũng vì hoàn cảnh nghèo nàn đều khắp ở chốn nông thôn nước Việt. Còn còn nữa, những hố sâu “BẾN HẢI’ vẫn hằn sâu trên đất mẹ VN khi bạo quyền CS vẫn còn. Hãy nhìn những cụ già đói khát bệnh tật khắp mọi miền đất nước, đảng giàu đảng sang thế mà họ đang ngày ngày chờ long hảo tâm của Việt kiều hải ngoại động long về giúp đỡ cho từng ký gạo từng tấm mền.

Nội tình trong long dân Việt vẫn còn một ‘giòng Bến Hải” khi những tên cán bộ từ Bắc vào Nam đem theo gia đình, họ hàng ngang nhiên cướp đất cứơp nhà dân miền Nam, người sắc tộc Tây nguyên làm giàu phục vụ cho đầy túi tham của chúng. Thế là long căm thù miền Bắc càng lúc càng dâng trào chất ngất trong long họ và đã tạo nên long ác cảm chung Nam Bắc cũng do chính sách ĂN CƯỚP của đám cầm quyền CSVN là nguyên do to lớn nhất.

Làm sao lấp được một giòng sông khi những tiếng nói đòi hỏi tự do, công lý, dân chủ, nhân quyền hàng ngày bị CSVN dùng bạo lực công an quân đội khống chế đàn áp bịt miệng bỏ tù giam giữ ngày đêm trong tù ngục.

Những tập thể trí thức tranh đấu cho người dân thấp cổ bé miệng thì bị lũ côn đồ CSVN sai khiến trù dập khủng bố ngày đêm, ngăn sông cấm chợ ép bức trăm bề.

Đối với mấy triệu dân Việt bỏ xứ ra đi thì Giòng sông Bến Hải vẫn mãi trong lòng họ khi chính sách của chính quyền CS hiện tại vẫn coi Việt kiều là con bò sữa vĩ đại ‘VẮT’ cho được khối đô la này nhưng trong long bọn cầm đầu Bắc bộ phủ Hà Nôi vẫn canh cánh thành kiến là ‘âm mưu diễn tiến hòa bình ‘ sẵn sang còng tay bỏ tù những ai về lại VN không hợp ý chúng.

“Hai bờ Bến Hải” vẫn còn khi rõ rang chính quyền CS càng ngày càng trân tráo, ngang ngược dựa vào thế và lực của chúng đang có trong tay chà đạp dân quyền và nhân quyền toàn thể dân tộc Việt. Ngày nào tập thể chính quyển của Đảng CSVN còn tồn tại thì đất nước VN còn điêu linh thống khổ. Hoa Dân Chủ tự do cho dân Việt chỉ nở khi cái Đảng bán nước CSVN bị triệt tiêu và lúc này giòng sông BẾN HẢI mới thực sự được khỏa lấp để hòa ca khúc nhạc tình thương của 3 miền đất Việt.

Xuân Khê
Kỷ niệm 20 tháng 7 năm 2008

Cộng sản: Bọn phản bội! - Đinh Lâm Thanh


Đinh Lâm Thanh
(Theo tài liệu của Phong Trào Đòi Trả Tên Sài Gòn).

Trong vụ Cải Cách Ruộng Đất: VC giết bà Nguyễn Thị Năm, người từng nuôi Bộ Chính Trị ở Việt Bắc không gớm tay..! Đúng là bọn VC “Vô Nhân Tính”, là một loai thú, man ri mọi rợ. Hay nói đúng hơn đảng cộng sản Việt Nam là bọn phản bội! Bà Năm, chính là người đã cưu mang chúng nó mà chúng giết không gớm tay huống gì người dân Miền Nam hay những tên cò mồi trở cờ đón gió, thành phần chủ trương Hòa Giải Hòa Hợp, bọn bưng bô đổ tiểu ở trong nước cũng như hải ngoại ngày đêm chạy theo xin cơm thừa canh cặn! Hãy mở mắt ra mà xem!

Trong năm 1952, ban chấp hành trung ương Đảng lao động Việt Nam (ĐLĐVN), tức là Đảng cộng sản khoác tên mới từ năm 1951, cho làm thí điểm Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) ở sáu xã thuộc huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Trong lần thí điểm này có một sự kiện “động trời”: Toà án CCRĐ xử tử hình bà Nguyễn Thị Năm, tức là Cát Thành Long, người mà thời trước cách mạng đã từng che giấu, nuôi ăn, giúp đỡ các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Lê Thanh Nghị, Lê Giản … Còn trong Tuần lễ Vàng, gia đình bà đã hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới. Bà đã hoạt động trong Hội Phụ nữ, lại có con trai đi bộ đội làm trung đoàn trưởng. Thế mà bà đã bị quy là địa chủ cường hào ác bá, bị đoàn CCRĐ xử án tử hình, Ủy ban Cải Cách Ruộng Đất Trung Ương duyệt y và Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam cũng chuẩn y! Những người lãnh đạo cộng sản trong Bộ Chính Trị và đứng đầu chính phủ đã từng được bà che giấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang làm Chủ tịch nước, Tổng bí thư, uỷ viên BCT, Thủ tướng, phó thủ tướng đã lạnh lùng chuẩn y một cái án tử hình như vậy! Phát súng đầu tiên của CCRĐ nổ vào đầu một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cho những người cộng sản!

Phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều điều về các lãnh tụ cộng sản! Nó báo hiệu trước những tai hoạ khôn lường cho toàn dân tộc!

Hệ quả đó sang Thế kỷ XXI, Dân tộc và Đất nước Việt Nam lãnh đủ từ việc đảng cộng sản dâng Đất nhượng Biển cho Tàu, xuất cảng lao nô, bán trẻ gái, đàn bà nô lệ tình dục, buôn lậu, tham nhũng, bán nước cho tàu khai thác bauxite tại Tây nguyên, không bảo vệ ngư dân trong vùng biển VN… mà bám vào Tàu cộng để duy trì quyền lực đồng thời đàn áp tất cả nh ững ai chống lại chủ trương nước của ngụy quyền Hà Nội.

Kính mong đồng bào trong nước hãy mở mắt ra và giới trẻ Việt Nam hãy dùng con tim và trí óc để suy xét sự việc. Đối với thành phần ăn cơm Quốc Gia thờ ma cộng sản ở hải ngoại thì một ngày nào đó, cộng sản Việt Nam cũng cắt cổ bọn nầy như những con chó ghẻ mà thôi! Hãy mở mắt chờ xem!

Đinh Lâm Thanh


Thông Báo và Kêu Gọi của CĐNVTD/Victoria (Úc Châu) - Nguyễn Thế Phong

Thông Báo và Kêu Gọi
của CĐNVTD/Victoria (Úc Châu)
chống chương trình văn nghệ của Việt Cộng

    V/v: Nhà cầm quyền CSVN bán nước gởi văn công sang Melbourne làm đại nhạc hội và trực tiếp thu hình phát về VN.
Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do Victoria xin trân trọng thông báo đến toàn thể:

- Quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo.
- Quý vị lãnh đạo các hội đoàn đoàn thể.
- Cùng toàn thể đồng bào được rõ là nhà cầm quyền CSVN sẽ tổ chức hai buổi đại nhạc hội tại Melbourne Crown Casino vào hai ngày 28 và 30 tháng 8 năm 2009. Toàn bộ nghệ sĩ, ban nhạc và MCs đều từ VN đem sang.

Mặc dù đã thất bại thê thảm trong những lần trình diễn trước đây, một lần nữa nhà cầm quyền CSVN lại gởi đoàn văn công này đến Melbourne và còn dự định trực tiếp thu hình để tuyên truyền cho chế độ. Được biết, chuyến trình diễn này được tổ chức hầu ăn mừng ngày 02-09, ngày Quốc Khánh của bạo quyền CSVN.

Đây là một thái độ thách thức và cực kỳ khiêu khích của bạo quyền CSVN qua nghị quyết 36 của chúng trên cộng đồng người Việt tỵ nạn tại Úc châu và Victoria.

Ban Giám Đốc của Crown Casino đã không tham khảo hoặc loan báo với cộng đồng người Việt chúng ta về chuyến trình diễn này trước khi ký kết hợp đồng như đã hứa trước đây. CĐNVTD-VIC đã lên tiếng bày tỏ sự thất vọng và phẫn nộ của cộng đồng người Việt tự do về thái độ này của Melbourne Crown Casino.

Ban Chấp Hành CĐNVTD-VIC vì thế khẩn thiết kêu gọi:

Toàn thể các hội đoàn, đoàn thể, tổ chức, giới truyền thông báo chí Việt ngữ cùng toàn thể đồng bào hãy đồng loạt tham gia vào các cuộc biểu tình lên án nhà cầm quyền CSVN phản quốc, bán Nước cầu vinh và đàn áp nhân quyền mà Cộng Đồng sẽ tổ chức tại Crown Casino vào 2 ngày nói trên.

Tuy những buổi trình diễn này rơi vào tuần lễ bầu cử của BCH-CĐNVTD và HĐTVGS Victoria, nhưng với quyết tâm bẻ gãy âm mưu mừng Quốc Khánh tại Melbourne của CSVN và bọn tay sai theo chỉ thị của nghị quyết 36, Cộng Đồng và đồng bào chúng ta sẽ khiến cho buổi văn nghệ gây quỹ trá hình và ăn mừng quốc khánh này của chúng phải thất bại.

Chi tiết về cuộc biểu tình sẽ được loan báo đến toàn thể đồng bào và quý vị trong thời gian sắp tới. Mọi thắc mắc xin quý vị vui lòng liên lạc với cô Nguyễn Lê Thanh Trúc qua Đt số 0432 456 077 hay với chúng tôi Nguyễn Thế Phong 0411 756 552

Trân trọng kính báo và kính chào,
TM. BCH-CĐNVTD-VIC
Nguyễn Thế Phong Chủ tịch
20-7-2009

Tuesday, July 28, 2009

Nhân vụ Tam Tòa, nhớ lại vụ Quỳnh Lưu và Đông Yên - Cẩm Ninh

    Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu, Nghệ An, 1956
Cẩm Ninh

Năm 1956, cuộc nổi dậy của đồng bào huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, là 1 cuộc đấu tranh đẫm máu chống lại chính sách cai trị dã man của lãnh đạo CSVN, mà qua đó, chính sách Cải Cách Ruộng Ðất đã là nguyên nhân chính làm bùng nổ cơn phẫn nộ của người dân. Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu bị đảng CSVN bưng bít tin tức rất kỹ vì tầm mức ảnh hưởng nguy hiểm của nó; trong khi cuộc đấu tranh của các văn nghệ sĩ trong biến cố Nhân Văn Giai Phẩm may mắn hơn, được loan tin vào miền Nam VN thời bấy giờ, với những tư liệu lịch sử rất giá trị.

Nhưng không vì thế mà cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu bị chôn vùi với nỗi oan khiên của những nạn nhân đã chết. Một số nhân chứng hiếm hoi đã kể lại, viết lại để các thế hệ tiếp nối hiểu được những gì xảy ra dưới chế độ XHCN. Tội ác của lãnh đạo CSVN không thể đếm băng số người dân đã chết. Tầm mức [mục đích] của tội ác đã đi ra khỏi giới hạn suy nghĩ của loài ngườị.

1. Chính sách Cải cách Ruộng đất:

Lãnh đạo CSVN đã bắt đầu cuộc cải tạo nông nghiệp tại miền Bắc khi thực dân Pháp vẫn còn xâm chiếm nước ta. Hồ Chí Minh đã ký 2 Sắc luật Giảm Tô (tức giảm số thóc gạo mà nông dân phải trả cho người chủ đất) số 78/SL ngày 14-07-1949, và Sắc luật 42/SL ngày 01-07-1951 về chính sách nông nghiệp của chính quyền kháng chiến, nằm trong toàn bộ chính sách thuế khóa, gồm cả thuế công thương nghiệp, sát sinh, lâm thổ sản, xuất nhập cảng ... Chính sách thuế nông nghiệp đã khởi đầu cho các chiến dịch phân mảnh định hàng các loại ruộng, bình sản lượng, bình diện tích mỗi mảng đất để làm căn bản tính thuế, sau đó tiến hành chiến dịch chống phản động, đấu tranh giảm tô kéo dài đến năm 1954, và chỉ tạm ngưng khi chiến trường Ðiện Biên Phủ bắt đầu nghiêm trọng và sau đó đưa đến Hiệp định Geneva ký vào tháng 07-1954. Kế đến, lãnh đạo CSVN lại tạm ngưng chiến dịch Cải cách ruộng đất tới cuối năm 1955, đầu 1956, vì (1) CSVN bận lo đón tiếp hơn 50.000 bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc, (2) phải đối phó với phong trào di cư và cuộc biểu tình đòi di cư của người dân vùng Ba Làng (Thanh Hóa) (3). Phải che giấu phần nào thủ đoạn tàn bạo để trấn an lòng dân, che mắt các quan sát viên quốc tế của Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến và ổn định tình hình nội bộ.

Giai đoạn thứ hai của Cải cách ruộng đất bắt đầu từ cuối năm 1955, lãnh đạo CSVN tiếp tục phát động phong trào quần chúng qua nhiều đợt đấu tranh cải cách ruộng đất. Trong giai đoạn này, hình thức đấu tranh cải cách ruộng đất cũng giống như đấu tranh giảm tô, nhưng khác ở mức độ tàn bạo cao hơn gấp bội và số nạn nhân cũng gia tăng do sự càn đi, quét lại và kích tỷ lệ. Ở một số nơi như các vùng vừa tiếp thu và đồng bằng bên bờ sông Nhị Hà chẳng hạn, CSVN tiến hành song song 2 chiến dịch Đấu tranh giảm tô và Cải cách ruộng đất một lượt. Ðiều cần nhấn mạnh là CSVN đã bắt chước y hệt chính sách Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, nên đã cho các cán bộ học tập kinh nghiệm nguyên văn cuộc Cải cách ruộng đất đẫm máu ở Hồ Nam, quê hương của Mao Trạch Ðông. Ở Trung Quốc, ngoài ruộng đồng bao la bát ngát, một địa chủ điển hình còn có lâu đài, dinh cơ và quân lính riêng để bảo vệ sản nghiệp, cũng như để đàn áp và bóc lột nông dân. Trong khi ở miền Bắc VN, cái mà CSVN gọi là địa chủ đại gian đại ác thường chỉ có mấy mẫu ruộng, nhưng thuộc thành phần có uy tín ở nông thôn (thường giúp đỡ người nghèo) và có thể trở thành đối tượng chống đối đảng và nhà nước.

Trung ương đảng CSVN đã trao cuộc đấu tranh Cải cách ruộng đất cho Trường Chinh lãnh đạo và Hồ Viết Thắng, Ủy viên Trung ương đảng, phụ trách điều hành. Dưới trung ương có các đoàn cải cách ruộng đất cho mỗi tỉnh và dưới cấp đoàn có các đội cải cách ruộng đất cho từng xã. Các đoàn và đội đều nhận lệnh trực tiếp từ trung ương mà không cần qua ủy ban hành chánh địa phương. Thành phần trong các đoàn, đội được tuyển lựa đều là thành phần cốt cán, bần cố nông, là đảng viên trung kiên đã chiến đấu trong bộ đội. Càng về sau, chính sách cải cách ruộng đất càng khốc liệt bởi phần đông đội viên toàn là những người trẻ tuổi, cuồng tín, được bồi dưỡng tư tưởng đấu tranh giai cấp, căm thù thật sự. Vì thế, trong năm 1956, riêng đợt cải cách ruộng đất Ðiện Biên Phủ đã đưa số nạn nhân bị tàn sát lên đến 10.000 người. Ðội cải cách ruộng đất đã trở thành công cụ giết người ghê rợn của chế độ. Sự tàn sát lên cao vì chính sách kích tỷ lệ (nâng tỷ lệ) của CSVN. Thí dụ : cứ mỗi xã có 100 gia đình thì dù đủ hay không, có hay không có, đội cải cách ruộng đất của xã đó phải tìm cho ra ít nhất là 5 gia đình địa chủ (tỷ lệ 5%), nếu hơn thì càng tốt. Trong 5 gia đình này phải quy cho được 2 gia đình là cường hào ác bá để xử tử. Nếu đội không làm đủ tiêu chuẩn sẽ bị phê bình là thiếu ý thức đấu tranh giai cấp, công tác kém cỏi. Nghe 1 đoạn thơ tuyên truyền của thi sĩ Tố Hữu, ta sẽ thấy sự dã man ra sao:
    Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
    Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
    Cho Ðảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
    Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt.
Mục tiêu cuộc Cải cách ruộng đất còn là cơ hội để đảng CSVN mở cuộc thanh trừng quy mô những đảng viên trong nội bộ hoặc trong hàng ngũ kháng chiến cần bị đào thải vì không thuộc thành phần vô sản, những người có thể trở thành nguy hiểm cho đảng vì đã trau giồi những kinh nghiệm đấu tranh, đã có khả năng lãnh đạo, có uy tín, nắm vững tình hình đảng, quy tụ được thế lực mạnh, và có thể phản đảng. Chính CSVN đã thú nhận khi có chính sách sửa sai, trong cuộc thanh trừng này có đến 23.000 đảng viên trung kiên bị chết oan; còn hàng ngàn đảng viên không trung kiên bị chết một cách đích đáng thì chưa thấy tài liệu nào của đảng công bố cả. Rất nhiều cán bộ cao cấp có công với kháng chiến cũng bị kết tội cường hào ác bá, hoặc tham gia trong các tổ chức phản động như VN Quốc Dân Ðảng chẳng hạn. Theo hồi chánh viên Nguyễn Văn Thân, kỹ sư thuộc Bộ Thủy Lợi miền Bắc, trước kia đã từng tham gia nhiều vụ Cải cách ruộng đất, cho biết 1 cuộc đấu tố chụp mũ như sau:

"... Cuộc đấu tố điển hình nhất mà tôi được dự là lần đấu tố ông Nguyễn Văn Ðô, Bí thư huyện ủy tại Ô Cầu Giấy, ngoại thành Hà Nội. Nạn nhân Nguyễn Văn Ðô là Bí thư huyện ủy, rất có công với kháng chiến nhưng lại bị kết tội là cường hào ác bá và có chân trong tổ chức Quốc Dân Ðảng. Chủ tịch đoàn nói rằng ông lợi dụng chức vụ của Ðảng để hoạt động cho Quốc Dân Ðảng. Người đứng kể tội là 1 nông dân trước kia đi chăn ngựa cho ông Ðộ. Một cụ già khác lên tố về việc cướp đất ruộng nương và cô con cái của ông lên đấu tố là đã bị ông cưỡng hiếp tất cả 177 lần. Ðến khi ông Ðô được phép lên phát biểu ý kiến nhận tội, ông đã cứng cỏi trả lời: Ông không phải là Quốc Dân Ðảng, ông chỉ làm việc cho Bác, cho kháng chiến mà thôi. Ông trả lời cô con gái là: "Thưa bà, bà còn quên đấy, tôi đã hiếp cả mẹ bà để đẻ ra bà nữa". Câu trả lời này làm mọi người phải bật cười và làm đấu trường mất vẻ tôn nghiêm. Chủ tịch đoàn vội vàng hô khẩu hiệu "Ðả đảo tên Ðô ngoan cố" để đàn áp và che lấp tiếng nói của ông. Sau đó họ không cho ông nói tiếp. Họ nghị án và quyết định xử tử ông ngay tại chỗ. Cuộc đấu tố này kéo dài từ 5g sáng tới 13g trưa mới xong".

Rất nhiều người thuộc thành phần trung nông (trung nông cấp thấp: vài sào (acre) đất; trung nông cấp cao: 1-3 sào và 1 con trâu), tiểu thương cũng bị kích lên thành địa chủ (địa chủ thường: 3-5 sào hay có khi hơn một chút, không giàu, cho mướn ruộng lấy địa tô, không có tội với nhân dân; địa chủ cường hào ác bá: 3-5 sào, có tội với nhân dân; địa chủ phản động: đảng viên VN Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt v.v...). Với dân số miền Bắc vào năm 1956 là khoảng 20 triệu người, có khoảng 4 triệu gia đình nông dân. Nếu chỉ có 2% gia đình nông dân bị liệt vào giai cấp cường hào địa chủ, thì số người bị giết ít nhất là 80.000 người. Chưa kể số người chết tăng lên qua chính sách kích tỷ lệ theo đúng chỉ tiêu do đảng CSVN đề ra. Sự oán hận của người dân ngày càng dâng cao ở khắp nơi. Nhiều vụ phục kích giết cán bộ đấu tố và những vụ chém giết giữa bần cố nông và thân nhân của người bị đấu tố đã xảy ra thường xuyên. Ngay lúc đó, nhiều biến cố chính trị đã xảy ra tại các nước CS như Liên Xô, Trung Quốc, Ba Lan, Hung Gia Lợi. Liên Xô yêu cầu Hồ Chí Minh thực hiện việc xét lại. Hồ Chí Minh chuẩn bị kế hoạch ngừng chiến dịch đấu tố vào tháng 3-1956, nhưng chính thức ra lịnh đình chỉ mọi vụ hành quyết địa chủ vào tháng 10-1956. Trong Hội nghị thứ 10 Trung ương đảng, Võ Nguyên Giáp đã thay mặt đảng đọc một bản thú nhận sai lầm trong cuộc Cải cách ruộng đất. Hồ Chí Minh khóc lóc và đổ cho cấp dưới thi hành chính sách quá đà, cách chức Thứ trưởng phụ trách Cải cách ruộng đất là Hồ Viết Thắng để xoa dịu lòng dân. Ðảng CSVN cũng thả 12.000 đảng viên còn sống sót trong tù vì bị kết tội địa chủ, trong số này nhiều người bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành.

Tuy nhiên oán thù của người dân không vì thế mà nguôi ngoai. Nhiều vụ nổi dậy, bạo động lớn nhỏ đã xảy ra sau đó, như Quỳnh Lưu (Nghệ An), Hải Phòng, Lạng Sơn... Trong thời gian này cũng có những vụ bạo động khác như những vụ thanh niên và công nhân Nam Bộ tập kết đập phá bót cảnh sát ở bờ hồ Hà Nội (cạnh ga tàu điện, đầu phố Cầu Gỗ).

2. Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu:

Sau cái gọi là Nghị quyết sửa sai của đảng CSVN về những đợt Cải cách ruộng đất đẫm máu, các nạn nhân đã tìm những cán bộ thanh toán món nợ truyền kiếp. Các đảng viên CS trung kiên được thả về từ nhà tù, được khôi phục quyền hành, khôi phục đảng tịch, liền tìm ngay các đồng chí đã tố sai để trả thù. Do đó, tình trạng xung đột, giết chóc giữa đảng viên cũ và đảng viên mới lan rộng khắp mọi nơi. Uy tín của đảng bị sụp đổ, cán bộ hoang man, lo sợ tột độ.

Ở nông thôn, các đảng viên đi họp phải mang búa theo để thảo luận với nhau. Những địa chủ được tha về, thấy tình trạng làng xóm bất ổn như vậy, vội vàng chạy ra thành phố ở nhờ các gia đình tiểu tư sản hồi kháng chiến đã trú ngụ ở nhà mình. Các bần cố nông trót nghe lời đảng tố điêu nay sợ bị rạch mồm, cắt lưỡi, cũng vội vàng chạy ra thành phố để đạp xích lô và đi ở thuê. Vì vậy, số dân ở Hà Nội, Nam Ðịnh đột nhiên tăng lên gấp bội và không khí căm thù ở nông thôn lan ra thành phố, ảnh hưởng đến giới công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí thức, dùng báo chí lên tiếng chống đảng, thì cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu đã làm đảng CSVN rất lo sợ.

Toàn thể nhân dân tỉnh Nghệ An, gồm đủ mọi thành phần giai cấp ở các xã Quang Trung, Tân Nho, Diễn Tân, Vạn Kim, Diễn Ðức, Diễn Ðông, Diễn Nguyên, Minh Châu, Ðức Vinh, Hồng Thăng, Ðại Gia, Yên Trung đã mở 1 đại hội để tố cáo những chính sách cai trị tàn ác của chế độ. Ban tổ chức đại hội còn mời luôn cả cán bộ VC thuộc cấp tỉnh và huyện đến tham dự để chứng minh tinh thần đấu tranh cho tự do của nhân dân. Sau nhiều giờ thảo luận, đại hội đã đồng thanh lập bản kiến nghị nguyên văn như sau:

- Yêu cầu trả lại cho chúng tôi những vị linh mục chánh sở và tất cả những vị giáo sĩ bị bắt bớ giam cầm,

- Yêu cầu trả lại cho chúng tôi xác các vị linh mục đã bị hành quyết và của những vị đã bị thủ tiêu,

- Yêu cầu trả lại những tài sản của địa phận, của thánh đường, của Ðức Mẹ đã bị chính quyền tịch thu hoăc xung công,

- Yêu cầu đền bồi thanh danh của các giáo sĩ đã bị nhục mạ và danh dự của các giáo hữu đã bị vu khống.

Cán bộ VC rất căm tức những lời kết án của dân chúng. Lúc đầu họ nhất định không ký tên, nhưng với áp lực của hàng ngàn người, họ bắt buộc phải ký vào quyết nghị. Ban tổ chức đã gởi bản quyết nghị này đến 4 nơi : Tòa thánh La Mã (qua trung gian của Ðức Khâm sứ Dooley), Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến, Hồ Chí Minh và gởi đến chính quyền quốc gia miền Nam. Phía CSVN đã tìm đủ mọi cách ngăn chặn bản quyết nghị đến tay Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến.

Dân chúng đã dùng ngay chính sách sửa sai của CSVN để đòi lại chồng con đã bị giết, tài sản đã bị cưỡng đoạt và đòi được di chuyển tự do vào Nam như đã cam kết trong Hiệp định Geneva. Giữa lúc đó, được tin chiều ngày 09-11-1956, Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến sẽ đi qua Cầu Giát để lên Hà Nội, hàng ngàn người đã kéo ra đường số 1 chờ đợi. Ðồng bào đã góp đơn lại giao cho 6 thanh niên đại diện đưa thư. Mấy ngàn đồng bào đã nằm ngay trên đường để chận xe lại. Sáu thanh niên đã đưa cho viên sĩ quan Ấn Ðộ trong Ủy Ban mấy vạn lá thư đựng trong bao bố. Viên sĩ quan này cho biết sẽ trình lại cấp trên và trả lời vào ngày thứ Bảy trong tuần.

Sau đó, ngày 10-11-1956, khoảng 10.000 nông dân đã mở đại hội lần thứ hai tại xã Cẩm Trường để bàn thảo về ngày thứ Bảy. Mọi người đều tỏ ra hân hoan khi biết sắp sửa từ bỏ địa ngục trần gian. Nhưng ngay lúc đó, CSVN đã điều động 2 đại đội chủ lực và 1 đại đội công an võ trang huyện Diễn Châu về xã Cẩm Trường để giải tán đại hội nông dân. Bạo động đã xảy ra. Tiếng súng và lựu đạn nổ vang trời. Mặc dù tay không nhưng khí thế quần chúng quá mạnh, những người phía sau đã tràn lên thay cho những người gục ngã phía trước.

Cuối cùng, dân chúng đã bao vây đồn bộ đội, công an vào giữa. Ðêm hôm đó, CS đưa thêm 2 trung đoàn về bao vây 10.000 nông dân tại xã Cẩm Trường. Dưới cơn mưa phùn lất phất cuối đông, cảnh tượng bi hùng đã diễn ra ở 1 trận địa giữa 10.000 nông dân và 2 vòng trong ngoài đầy những công an và bộ đội. Tờ mờ sáng này 11-11-56, các bà mẹ đã đánh trống, mõ kêu gọi dân chúng quanh vùng đến tiếp cứu. Xã Diễn Châu như bị động đất. Rồi 30.000 nông dân kéo đến vây phía ngoài 2 trung đoàn chính quy của CS, trở thành 1 vòng bao vây thứ tư. Cuộc nổi dậy bộc phát quá lớn, quá mau, đã đi ra ngoài sự tiên liệu của cả 2 bên. Hồ Chí Minh rất căm hận biến cố này vì Nghê An là quê quán của ông ta, nhưng Hồ Chí Minh chưa biết cách giải quyết thế nào để gỡ thể diện cho mình và đảng. CS cũng tìm cách liên lạc với Giám mục Trần Hữu Ðức nhờ ông giải quyết, nhưng ông đã trả lời: "Tôi không biết về vấn đề chính trị, vì tôi là nhà tu hành". Lúc bấy giờ, phía dân chúng đã có 1 số lượng vũ khí đáng kể, tịch thu được từ bộ đội. Chưa bao giờ 1 cuộc nổi dậy ở miền Bắc lại có đủ tất cả thành phần dân chúng, kể cả các đảng viên CS.

Ðêm 11 rạng ngày 12-11-1956, một số nghĩa quân lén trở về Quỳnh Lưu để tổ chức biểu tình yểm trợ cho dân quân xã Diễn Châu. Ðêm hôm đó, 3000 thanh niên các xã Do Xuyên, Ba Làng và Nông Cống (tỉnh Thanh Hóa) đã kéo vào yểm trợ nghĩa quân. 4g sáng cùng ngày, một Ủy Ban Biểu Dương Lực Lượng Nông Dân Quỳnh Lưu và Ủy Ban Tiếp Tế Nghĩa Quân được thành lập. Phụ nữ, trẻ em đã mang gạo, thực phẩm đến xã Cẩm Trường, nơi cuộc đấu tranh đã bước vào ngày thứ 3.

Rạng ngày 13-11-1956, một cuộc biểu tình vĩ đại với sự tham gia của gần 100.000 đồng bào tỉnh Nghệ An. Bài hát "Quỳnh Lưu Khởi Nghĩa" đã được truyền đi khắp nơi, hoà với những đợt trống, mõ vang lên liên tục:
    Anh đi giết giặc lập công
    Con thơ em gửi mẹ bồng
    Ðể theo anh ra tiền tuyến
    Tiêu diệt đảng cờ Hồng
    Ngày mai giải phóng
    Tha hồ ta bế ta bồng con ta
Cuộc biểu tình đã tuần hành tiến về Ty Công an Ngệ An, hô thật to những khẩu hiệu: "Lương giáo đoàn kết chặt chẽ sau lưng các nghĩa quân", "Lương giáo quyết tâm chống CS khát máu", "Tinh thần Quỳnh Lưu bất diệt"... Công an tỉnh lẩn trốn từ lâu trước khí thế này. Dân chúng thi nhau nhảy lên nóc Ty Công an, xé tan cờ đỏ sao vàng, đạp vỡ ảnh HCM và các lãnh tụ CS quốc tế.

Trước tình hình này, Hồ Chí Minh ra lịnh cho Văn Tiến Dũng điều động Sư đoàn 304 từ Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Ðồng Hới về bao vây nghĩa quân. Sư đoàn này quy tụ nhiều bộ đội miền Nam tập kết mà Hồ Chí Minh muốn xử dụng, thay vì dùng bộ đội sinh quán ở miền Trung hoặc miền Bắc, để có dịp trút tội cho binh đoàn miền Nam nóng tính này. Trận địa tại xã Cẩm Trường đã lên đến 5 vòng đai giữa dân quân và VC.

Buổi chiều cùng ngày, nghe tin dân quân xã Cẩm Trường bị Sư đoàn 304 vây, gần hàng chục ngàn người đã tiến về xã Cẩm Trường để tiếp cứu. Vòng đai chiến trận đã tăng lên lớp thứ 6. Buổi tối ngày 13-11-1956, hơn 20.000 nông dân từ Thanh Hóa lại kéo vào tiếp viện, mang theo đầy đủ lương thực, tính kế trường kỳ đấu tranh.

Ngày 14-11-1956, Văn Tiến Dũng huy động thêm Sư đoàn 312 vào trận địa quyết tiêu diệt nhân dân Quỳnh Lưu. Khi vòng đai thứ 7 thành hình, Hồ Chí Minh ra lịnh tiêu diệt cuộc nổi dậy có một không hai trong lịch sử đấu tranh chống VC. Trước bạo lực đó, nông dân vẫn cứ quyết tâm tử chiến để bảo vệ căn cứ. Lịnh của ban chỉ đạo nghĩa quân được truyền đi: Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để giải phóng dân tộc.

Nhưng vì vũ khí quá thô sơ, nghĩa quân phải rút vào rừng sâu. Sau khi trận chiến kết thúc, quân đội VC đã xông vào các làng Thanh Dạ, Song Ngọc, Cẩm Trường bắt tất cả già trẻ lớn bé giải đi. Họ tra khảo từng người để tìm ra ban chỉ đạo đấu tranh nhưng vô hiệu, vì bất cứ ai, kể cả các em thiếu nhi, đều tự xưng là người lãnh đạo cuộc cách mạng này. Không bắt được ai, VC đành thả bà con ra về, nhưng Hồ Chí Minh tính kế bắt đi Linh mục Hậu và Linh mục Ðôn của 2 xứ Cẩm Trường và Song Ngọc. Dù 2 vị này đã nói: "Chúng tôi là nhà tu hành, chúng tôi không biết gì đến việc nhân dân", nhưng cũng bị công an kéo lê lên xe giải về Hà Nội.

CS bắt 2 vị linh mục phải lên đài phát thanh đổ lỗi cho giáo dân và nông dân, nhưng 2 vị không băng lòng. CS đe dọa nếu không tuyên bố như vậy thì sẽ giáng tội cho 2 vị là những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa phản động này. Họ mang hình ảnh Linh mục Tấn bị thủ tiêu ở Phủ Quỳ ra dọa nạt. Cuối cùng, 2 vị phải tuyên bố ngược lại sự thật.

Dù nhà cầm quyền CS vẫn cố tình che giấu, xuyên tạc cuộc nổi dậy của nhân dân Quỳnh Lưu cho đến ngày hôm nay, dù họ đã dùng bạo lực đàn áp, giết chóc và đày ải hơn 6.000 nông dân trong biến cố Quỳnh Lưu, nhưng tinh thần yêu nước, can trường của người dân các tỉnh miền Trung nói chung, và ở tỉnh Nghệ An nói riêng, đã soi sáng cho các thế hệ sau con đường chính nghĩa để đòi lại tự do.

Người CS rồi sẽ không thể nào dùng những bàn tay giết người che lấp nổi mặt trời. Những việc làm của họ rồi sẽ được phơi bày ra ánh sáng.

Ðòi cho bằng được tự do, công bằng, quyền căn bản của con người không thể xem là một cái tội. Dùng bạo lực để áp đặt một tội danh là gieo nỗi oan khuất cho cả một dân tộc. Nỗi oan khuất đó đã chồng chất đến trời xanh. Nói về những nỗi oan sống dưới chế độ CS thì không biết bao nhiêu mà kể.

Với những nỗi oan của những người đã chết, oan khiên đeo nặng những người còn sống, đảng CSVN đã giải quyết ra sao? Chỉ là sự im lặng.

Thời gian cũng đủ chứng minh CSVN không thể trả lời. Nhưng người dân VN có thể sẽ tự trả lời khi cao trào thèm khát cuộc sống tự do dân chủ tới hồi chín muồi. Tiếng trống bi hùng của đồng bào Quỳnh Lưu 60 năm về trước vẫn còn vọng về thúc giục người có lòng ái quốc, thương nòi trong chúng ta. Bài hát vang trong bầu trời Quỳnh Lưu như nhắn nhủ gọi người can trường đi tìm chân lý của cuộc sống : con người sinh ra phải được tự do.

Cẩm Ninh

Tài liệu tham khảo:

- Trăm Hoa Ðua Nở Trên Ðất Bắc của Hoàng Văn Chí.

- Cuộc Cải Cách Nông Ngiệp tại Miền Bắc của Võ Trường Sơn.

- Việt Nam Giáo Sử của Phan Phát Huồn.

- Cuộc Phiêu Lưu của một Gia Ðình Nông Dân của Thập Lang.

*********
    Gương can đảm của giáo dân Công giáo Đông Yên

Phaolô Trần

Đông Yên là một xứ đạo Công giáo nằm ven bờ biển, về đạo thuộc Giáo phận Vinh, về đời thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh [1]. Giáo dân Đông Yên tuy quê mùa [2] nhưng rất sốt sắng trong đời sống kinh nguyện nói chung và trong lòng sùng kính Đức Mẹ nói riêng [3]. Đứng trước sự đàn áp tôn giáo kiểu sắt đá của chính quyền cộng sản từ thập niên 50 đến giữa thập niên 80, giáo dân Đông Yên đã tỏ ra can đảm phi thường trong việc bảo vệ Đạo của mình [4]. Câu chuyện dưới đây là một trong những bằng chứng cụ thể của lòng can đảm bất khuất đó. Những giáo dân ở Đông Yên trước đây cũng như những giáo dân ở Đốc Sơ, Nguyệt Biều, rồi An Truyền sau này, khi họ can đảm đứng lên ủng hộ và bảo vệ vị chủ chăn của họ là Cha Tađêô Nguyễn Văn Lý, tất cả chẳng qua viết tiếp những trang sử xanh, trên đó truyền thống đức tin anh hùng của người giáo dân Công giáo Việt Nam không ngừng in đậm dấu son kể từ ngày Đạo Chúa được rao giảng trên đất nước Lạc Hồng. Xin được phép nhắc lại rằng giáo dân chiếm đại đa số trong số 130.000 vị tử đạo Việt Nam chưa được phong hiển thánh cũng như trong số 117 vị tử đạo đã được phong.

Câu chuyện bắt đầu từ tháng Chạp năm 1969. Xứ đạo Đông Yên lúc đó có khoảng 1.500 giáo dân với một linh mục duy nhất là Cha Vũ Đình Giáo. Số là Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, cũng như nhiều nơi khác, thường mời Cha Giáo cũng như mọi linh mục khác trong giáo phận đi họp hội nghị Mặt trận để nghe thuyết trình về chính sách này đường lối nọ của Đảng, của chính quyền. Ủy ban mới tới hai lần đều bị ngài từ chối. Cho là ngài có thái độ chống đối, lần thứ ba chính quyền Cộng sản không mời nữa nhưng tống giấy triệu tập ngài lên ty công an tỉnh. Được tin này, giáo dân Đông Yên nhất quyết không để cho ngài đi vì họ có lý để nghĩ rằng một khi ngài ra ngoài ty công an, ngài sẽ bị nhốt hoặc bắt đi luôn. Giáo dân không muốn xứ đạo của mình không có linh mục. Thế là giáo dân tụ tập xung quanh nhà xứ, canh giữ không cho chính quyền vào đưa ngài đi.

Thấy giáo dân tỏ ra quá đồng lòng và kiên quyết, nên để áp đảo tinh thần của họ, ngay từ đầu chính quyền đã huy động cả một lực lượng trên 3.000 gồm công an cũng như cán bộ của nhiều cơ quan ban ngành khác từ xã, huyện, đến tỉnh: cứ 1 giáo dân phải đối phó với 2 hoặc 3 nhân viên của chính quyền. Ngoài ra còn có cả một sư đoàn của quân đội cộng sản chực sẵn ngoài bờ biển để tiếp ứng khi cần. Trong tháng đầu 3.000 nhân viên chính quyền chủ yếu dùng lời lẽ hoặc thuyết phục hoặc đe doạ giáo dân. Nhưng giáo dân vẫn một mực không chịu mở vòng vây cho chính quyền vào đưa Cha Giáo đi.

Điều này khiến chính quyền cộng sản nghi ngờ rằng Cha Giáo không chỉ thuần tuý kháng lệnh triệu tập mà có thể trong nhà xứ còn chứa chấp gì khác, biết đâu có thể là gián điệp hay biệt kích của chính quyền miền Nam Cộng hòa hay thậm chí cả lính Mỹ. Giáo dân cam đoan trong nhà xứ không có gì khác, họ thuần tuý chỉ bảo vệ cha xứ, không muốn chính quyền bắt ngài đi, chỉ có thế thôi, nhưng chính quyền cộng sản với bản tính đa nghi hơn cả Tào Tháo, với chủ trương "giết lầm hơn bỏ sót", đời nào đi tin người dân. Nên từ tháng thứ hai trở đi, lực lượng của chính quyền chủ yếu mỗi ngày hai lần dùng sức mạnh xô đẩy, lôi kéo hòng phá vòng đai bảo vệ của giáo dân để xông vào nhà xứ. Nhưng cứ mỗi lần lực lượng chính quyền xông đến phá vòng vây thì giáo dân không những cố cản lại, mà còn đồng thanh, từ trẻ tới già, kêu to Tên cực trọng (tức tên Chúa). Kêu to Tên cực trọng khiến giáo dân lại hăng thêm, còn công an cán bộ của nhà nước nghe vậy thì hoảng sợ lùi lại. Cũng nên biết thêm rằng chính quyền còn bí mật lồng cả một đội đặc công vào trong 3.000 nhân viên nói trên để dễ bề hành động. Có lần ở một khâu của vòng vây sao đó khiến một viên đặc công xoay xở lọt qua được. Xông thẳng ngay tới cửa trước nhà xứ, anh ta dùng sức mạnh đập bể kính cửa hòng mở khóa vào nhà. Nhưng không hiểu sao các mảnh kính bể tự nhiên bắn ngược trở lại, cắm phập vào người anh ta, khiến anh ta ngã xuống chết ngay tại chỗ! Một số đồng đội của anh ta vừa mới len vào sau, thấy vậy liền xông đến lôi xác anh ta chạy đi. Ở những chỗ khác của vòng vây giáo dân đang giằng co với nhân viên chính quyền chỉ thấy chớp choáng bỗng nhiên từ phía sau họ chạy ra một tốp người kéo theo một người khác liền tưởng rằng có một số nhân viên chính quyền đã vào được nhà xứ bắt được Cha Giáo đem ra. Hoảng quá, nhiều giáo dân bỏ vị trí rượt theo để giành lại cha xứ của mình. Vòng đai bảo vệ của giáo dân sắp lỏng lẻo tới nơi. May thay Cha Giáo đã trở tay kịp thời. Ngài luôn có khoảng 4, 5 em nhỏ (từ 13 đến 14 tuổi) túc trực ở trong nhà xứ nên đã sai một hai em chạy ra gọi giật họ trở lại là Cha vẫn còn ở trong, chưa hề bị bắt.

Cứ thế kéo dài suốt ba tháng từ ngày đưa hơn 3.000 nhân viên của nó về Đông Yên, chính quyền cộng sản vẫn không phá được vòng đai bảo vệ của giáo dân. Một đàng hoàn cảnh không còn như thời Cải cách Ruộng đất nên chính quyền không thể công khai dùng súng đạn bắn vào cả một tập thể xứ đạo để xông vào nhà xứ. Đàng khác chẳng lẽ cả một chính quyền lại đi thua giáo dân của một xứ đạo, không làm sao cướp được cha xứ ra khỏi tay họ; nếu chuyện này để lộ ra sẽ khích lệ nhân dân ở các nơi khác noi gương giáo dân Đông Yên không phục tùng chính quyền nữa thì rắc rối. Vì thế tháng 03-1970 trung ương Đảng cộng sản có lệnh xuống phải bí mật dùng hỏa lực tiêu diệt hết người Công giáo Đông Yên, xóa sổ họ đạo này hoàn toàn, rồi dàn cảnh đổ tội là do Mỹ pháo kích hay thả bom [5]. Trung ương giao cho quân đội và công an phối hợp với nhau mà thi hành mệnh lệnh. Về phía quân đội người đứng đầu chịu trách nhiệm thi hành là đại tá Vũ Duy Hán, người Đô Lương, về phía công an là viên trưởng phòng phản gián của ty công an Hà Tĩnh. Phe chính quyền tập trung đủ thứ hỏa lực từ các tiểu đội trung cao, đại cao, tên lửa, cho đến các khẩu pháo cao xạ được bí mật vận chuyển đến và bố trí trên các đồi trọc xung quanh Đông Yên. Một kế hoạch phối hợp hỏa lực được vạch ra cụ thể và tập dượt trước trước ngày ra tay [6]. Trong lúc đó giáo dân Đông Yên vẫn kiên cường canh giữ quanh nhà xứ mà không hề hay biết trong vài ba đêm nữa họ có thể bị súng đạn của chính quyền bao vây và giết sạch.

Vào đêm mà chính quyền đã quyết định ra tay, khi lệnh khai hỏa ban ra, thì tự nhiên súng lại không nổ được. Điều kỳ diệu này không thể giải thích được trừ phi đó là phép lạ từ Trời cao. Phe chính quyền cũng khá ngạc nhiên nhưng vẫn cố nghĩ là do sự trục trặc kỹ thuật nào đó. Sau khi rà xét lại súng ống và phối hợp tập dượt cẩn thận hơn, đúng một tuần sau, vào khoảng 2g sáng, lệnh khai hỏa lại được ban ra. Nhưng vẫn y như lần trước, không hiểu sao súng cũng không nổ. Trước sự kiện kỳ lạ xảy ra tới hai lần này, ngay cả đại tá Hán cũng phải run sợ nhận rằng rõ ràng có bàn tay vô hình nào đó nhưng hết sức linh thiêng, đầy quyền phép can thiệp. Còn có chút ý thức tôn giáo, ông ta liền lập tức đào ngũ, bỏ về nhà, thà chấp nhận bị chính quyền kỷ luật còn hơn ở lại đó mà cưỡng lại phép Trời đã lộ ra nhãn tiền. Chính quyền cộng sản khi được báo cáo sự kiện kỳ lạ này cũng không dám cưỡng ép nhân viên mình tiếp tục thi hành kế hoạch thủ tiêu Đông Yên nên ra lệnh rút lui. Vì sợ lộ cái kế hoạch tàn ác và thâm độc đó, chính quyền cũng không dám đưa những người như đại tá Hán ra xét xử công khai mà chỉ bãi chức cho về làm dân thường. Tuy nhiên vì không muốn hoàn toàn mất mặt, chính quyền cộng sản cố tìm một cách khác dù cách này thì phải hạ mình, hạ giọng xuống một chút. Đó là tuy không dám bắt Cha Giáo nữa nhưng chính quyền thuyết phục Đức cha Gioan Baotixita Trần Hữu Đức [7], Giám mục chính tòa của Giáo phận Vinh lúc đó, can thiệp đổi ngài đi một xứ đạo khác, đưa một cha khác về. Đức cha Đức cũng không phải tay vừa, lợi dụng chỗ núng thế của chính quyền liền ra điều kiện ngược lại là muốn đưa Cha Giáo đi khỏi Đông Yên thì cũng được, nhưng phải chấp nhận cho Cha Nguyễn Đăng Điền về đó, mà không phải là một linh mục nào khác, vì chỉ có một mình Cha Điền lúc đó là chưa có nhiệm sở. Cha Điền chịu chức cũng đã được bốn năm năm, nhưng chính quyền vẫn bắt ngài ở Tòa Giám mục Xã Đoài, ngăn cản không cho phép ngài đi xứ, vì biết rõ ngài cũng là loại linh mục có tinh thần chống đối, tuy cách khôn khéo. Thật là "tránh vỏ dưa đạp vỏ dừa", nhưng hết cách chính quyền đành phải nhượng bộ.

Về phía giáo dân Đông Yên, khi thấy chính quyền cộng sản ra lệnh cho nhân viên của nó rút lui, liền mừng rỡ cảm tạ Chúa và bảo nhau rằng: "Phen này quả là choa [8] thắng Đảng". Mãi về sau này giáo dân mới biết được âm mưu tàn độc của chính quyền muốn thủ tiêu toàn bộ xứ đạo Đông Yên lúc đó. Họ càng thêm cảm tạ Chúa và tin rằng Chúa đã làm phép lạ cứu họ nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ, Đấng họ rất mực sùng kính.

Phaolô Trần 07-11-2003

[1] Mãi cho đến sau khi chiếm miền Nam 1975 thì chính quyền cộng sản mới gộp Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh thành một tỉnh tức Thanh Nghệ Tĩnh.

[2] Ví dụ như vào lúc câu chuyện kể đây xảy ra thì đàn ông con trai Đông Yên cũng vẫn còn mặc váy (mà tiếng địa phương gọi là "mấn") như đàn bà con gái.

[3] Ngay cả trẻ em khi đi xưng tội cũng thường được cha giải tội ra việc đền tội là lần cả chục tràng hạt Mân Côi. Các em hoàn toàn vui vẻ làm theo. Giáo dân Đông Yên mỗi lần chầu Thánh Thể để đền tạ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ thường chầu liên tục cả ba bốn giờ liền.

[4] Trong hai cuộc chiến tranh với Pháp và với Mỹ, giáo dân Đông Yên kiên quyết từ chối đi dân công hay đi bộ đội cho chính quyền cộng sản, lý do đơn giản vì đó là làm việc cho một tổ chức vô thần phá đạo.

[5] Lối "ném đá giấu tay" này chính quyền cộng sản dùng rất nhiều, nhất là trong hoàn cảnh chiến tranh. Áp dụng cho cả nhân sự lẫn cơ sở tôn giáo, ví dụ như Nhà thờ chánh tòa Xã Đòai, nhà thờ Cầu Rầm ở Vinh, nhà thờ Tam Tòa ở Đồng Hới đều bị chính quyền bố trí súng phòng không bên trong hoặc bên cạnh để máy bay Mỹ cho là nơi ẩn núp của bộ đội cộng sản mà dội bom phá sập. Lối ném đá giấu tay này mang công dụng "một mũi tên giết hai con chim", giống y như Hoà thượng Thích Quảng Độ đã nhận xét sau đây khi kể lại những trường hợp tương tự xảy ra cho các ngôi chùa Phật giáo: "Lại nữa, xét thấy những ngôi chùa lịch sử danh tiếng, điển hình như chùa Thiên Trù (chùa Hương – chùa ngoài)…, chùa Quỳnh Lâm…, cộng sản thấy sau này, khi đã thành công, khó mà tự mình ra tay phá được vì sẽ có ảnh hưởng rất lớn, chi bằng mượn tay quân Pháp cho tiện. Cộng sản bèn đưa quân lính đến đóng tại các chùa đó, treo cờ đỏ sao vàng lên, máy bay thám thính của Pháp đến, thấy có cờ Việt Minh liền báo cho oanh tạc cơ đến bỏ bom (dĩ nhiên là Việt Minh đã rút trước rồi), thế là chùa tan nát! Trong trường hợp này cũng lại một mũi tên bắt hai con chim: một mặt kích động lòng căm thù của nhân dân, lên án giặc Pháp phá chùa và kêu gọi toàn dân hết lòng đánh Pháp; mặt khác, sau này, khi thành công rồi khỏi phải phá để tránh tiếng cộng sản phá chùa lịch sử danh tiếng!" (Bản Nhận Định về những sai lầm tai hại của Đảng CSVN đối với Dân tộc và Phật giáo Việt Nam: viết tháng 1-1992).

[6] Dĩ nhiên vào lúc đêm khuya mới là thời điểm ra tay tốt nhất.

[7] Đức Cha Trần Hữu Đức từ trần ngày 5-1-1971 sau khi làm Giám mục Giáo phận Vinh 20 năm.

[8] "Choa" hay "nhà choa" là tiếng địa phương mà người nói dùng như đại danh từ danh xưng ngôi thứ nhất số nhiều.

Sarah Palin rời chức vụ thống đốc Alaska


Bà Sarah Palin đọc bài diễn viên từ chức thống đốc Alaska tại Fairbanks, tiểu bang Alaska hôm Chủ Nhật, 26 Tháng Bảy, 2009. (Hình: Al Grillo/AP)
FAIRBANKS - Trong buổi từ giã, nhiều lúc người ta có cảm tưởng như đang sống lại cuộc vận động tranh cử tổng thống năm 2008.

Sarah Palin rời khỏi chức vụ thống đốc Alaska hôm Chủ Nhật vừa qua với bài diễn văn hùng hồn làm người ta nhớ lại những ngày bà ta còn là ứng cử viên phó tổng thống của ông John McCain, khi bà thường xuyên kích động đám đông với những lời tấn công phía Ðảng Dân Chủ cũng như thành phần truyền thông.

Trong bài diễn văn từ giã, bà Palin cũng tấn công các kẻ nghịch với bà trong giới truyền thông, Hollywood và ở các tiểu bang còn lại trên đất Mỹ. Trong lúc những người ủng hộ nồng nhiệt bày tỏ sự đồng ý, bà trách móc các ký giả là đã bịa chuyện, chế diễu các ngôi sao ở Hollywood vì chống lại chương trình giới hạn số chó sói, và than phiền là “những thành phần có quyền lợi riêng tư ở bên ngoài tiểu bang” chẳng hiểu gì về những gì xảy ra ở nơi này.

Bà Palin, năm nay 45 tuổi, cho hay bà từ chức khi còn hơn một năm trong nhiệm kỳ đầu là để đưa cuộc chiến đấu chính trị của mình đến một môi trường rộng lớn hơn, tuy chưa được xác định rõ ràng và tránh khỏi bị lâm vào tình trạng ngồi không chờ ngày mãn nhiệm.

“Với quyết định đó, tôi nay có thể đấu tranh mạnh mẽ hơn cho các bạn, cho những gì đúng, và cho sự thực. Và tôi không bao giờ nghĩ rằng mình phải có chức vụ mới làm được điều đó,” cựu nữ ứng cử viên phó tổng thống Ðảng Cộng Hòa nói trong sự vỗ tay nồng nhiệt của khoảng 5,000 người tụ tập tại Pioneer Park ở Fairbanks.

Bà Palin gọi thời gian làm thống đốc kéo dài 2 năm rưỡi của mình là một thành công, nêu lên các nỗ lực nhằm đối phó với kỹ nghệ dầu hỏa vốn từ lâu nay vẫn chi phối chính quyền Alaska và tiến triển trong việc phát triển đường ống dẫn khí đốt. Bà cũng nêu lên các nỗ lực cải tổ đạo đức của các chính trị gia, nhưng cũng nói là cần có thêm biện pháp cải cách để chấm dứt những tố giác có tính cách quấy phá và phe đảng như những gì đã gây khó khăn cho bà trong năm qua.

Palin rời khỏi chức vụ trong lúc tương lai chính trị của bà bị che phủ bởi các cuộc điều tra, chi phí luật sư ngày càng nhiều và sự mến chuộng ngày càng giảm của dân chúng tiểu bang Alaska. Bà đã bị tố cáo trong gần 20 vụ vi phạm luật lệ tiểu bang, nhưng phần lớn đã được điều tra và giải quyết theo chiều hướng thuận lợi cho bà.

Bà không đề cập đến những tố cáo này nhưng mấy lần lập lại trong bài diễn văn kéo dài 19 phút về những áp lực tài chánh và tinh thần mà các cuộc điều tra này gây ra ra như một trong những lý do chính khiến bà muốn từ chức.

Palin cho hay hôm Chủ Nhật rằng lý do khiến bà từ chức thật rõ ràng, nhưng cũng nêu lên cho đám đông ủng hộ nhiệt liệt và liên tiếp cắt ngang bài diễn văn bằng những tràng pháo tay. Bà nói sự ra đi của mình là để giúp Alaska tránh khỏi tình trạng một thống đốc không hiệu quả, ngồi chờ đến hết nhiệm kỳ của mình, nói thêm là bà sẽ luôn giúp tiểu bang Alaska.

Bà sẽ nói chuyện tại Thư Viện Tổng Thống Ronald Reagan ở California hôm 8 Tháng Tám. Bà cũng dự trù đi vận động cho các ứng cử viên ở khắp Hoa Kỳ cũng như tiếp tục nói lên những điều mình suy nghĩ qua mạng Twitter.

Bà cũng chỉ trích giới truyền thông, nói rằng người thay thế bà, Phó Thống Ðốc Sean Parnell, “cũng có một gia đình dễ thương, do vậy hãy để cho các con của ông ta được yên!”

Bạn bè và ngay cả các đối thủ của bà Palin nói rằng bà có thể có chương trình nói chuyện trên radio, truyền hình, đi diễn thuyết hay nhận những chức vụ cao ở Washington D.C.

(V.Giang)


Anh Hùng Vô Danh - Đằng Phương

Anh Hùng Vô Danh

Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước.

Họ là những kẻ tự nghìn muôn thuở trước,
Đã phá rừng xẻ núi lấp đồng sâu
Và làm cho những đất cát hoang vu
Biến thành một giải sơn hà gấm vóc.

Họ là kẻ không ngại đường hiểm hóc,
Không ngại xa hăng hái vượt trùng sơn
Để âm thầm chuẩn bị giữa cô đơn
Cuộc Nam tiến mở giang sơn lớn rộng.

Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng,
Đã xông vào khói lửa quyết liều thân
Để bảo vệ tự do cho Tổ Quốc.

Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc,
Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan,
Người thất cơ đành thịt nát xương tan
Những kẻ sống lòng son không biến chuyển.

Và đến lúc nước nhà vui thoát hiểm
Quyết khước từ lợi lộc với vinh hoa
Họ buông gươm quay lại với quê nhà
Để sống lại cuộc đời trong bóng tối.

Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi
Trong loạn ly như giữa lúc thanh bình
Bền một lòng dũng cảm, chí hy sinh
Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch.

Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách!
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên,
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật.

Nhưng máu họ đã len vào mạch đất,
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
Và anh hồn chung với tấm tinh trung
Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt.

Đằng Phương
(GS Nguyễn Ngọc Huy)



Monday, July 27, 2009

Tội ác của Lenin và Bolchevik trong giai đoạn đầu của Chủ Nghĩa Cộng Sản (1917 - 1924)

Source: http://vietnamaaa.numeriblog.fr/congsan/2008/06/l-nin-ngi-ng-v.html

Năm 1918, Zinoviev phát biểu: Không cần khoan dung, không cần sợ dư thừa, chúng ta sẽ giết hàng trăm hàng ngàn kẻ thù, hãy dìm bọn nó xuống dưới máu của họ. Vì Lê Nin, Uritzky, Zinoviev & Volodarsky, hãy làm cho máu bọn tư sản chảy nhiều nhất có thể!

Sau khi lên nắm chính quyền năm 1917, tất cả những người Cộng Sản ở Nga đang rất thoã mản thì ở Saint Peterburg, nạn đói đang hoành hành (1917 - 1919), ăn thịt người chết là 1 cách đấu tranh sinh tồn. Trong lúc đó, các chiến sĩ Bolchevik đang mải mê tấn công người Cossacks (xem bên dưới)

Tất nhiên thì cũng có rất nhiều người chống lại chính quyền Bolchevik , nhiều người theo đoàn quân Cossack để chiến đấu, tuy nhiên rất đau khổ cho những ai bị bắt, tra tấn, hành hạ công khai là 1 phương pháp rất dc yêu thích thời kỳ này.


Đây là hình ảnh CS đang tra tấn người chống đối ở Orcha năm 1918, như 1 lò mổ, khủng khiếp và man rợ đúng với bản chất của cộng sản, những việc như thế này diễn ra hàng ngày ở Nga kể từ năm 1917

Sau khi thành công ở cuộc Cách Mạng tháng 10, Lenin và đảng Bolchevik của ông ta lên nắm chính quyền. Tuy nhiên người Cossack không đồng tình với chủ nghĩa Cộng Sản nên được Lênin xếp vào hàng kẻ thù số 1.

Và chính Lenin và Bolchevik đã mở đầu cho cuộc chiến tranh Nông dân ở Nga (civil war) năm 1917 -1920. Những người Cossack do không đồng tình với chủ nghĩa CS nên dc xếp vào nhóm Whites Army (Quân bạch vệ) trái với Reds Army (Hồng quân). Trong cuộc chiến tranh đó, người Cossack với khẩu hiệu 1 người vì mọi người, mọi người vì một người đã đứng lên để bảo vệ cho vùng đất của họ, thể chế của họ và tự do của họ. (Nguyên văn "The Cossacks, with their ancient cry "All for one, and one for all" rose to the defense of their land, institutions and their freedom", tài liệu được trích từ phần the History of Cossacks)

Những người không đồng tình với chủ nghĩa Cộng Sản đã đứng về phía quân đội Cossack với lực lưọng chủ yếu là người Cossack. Và người Cossack với dân số khi đó chỉ hơn 3 triệu người gồm cả người già, phụ nữ và trẻ em đã đứng lên chiến đấu với quân Bolchevik trong suốt 3 năm. Nhưng cuối cùng bọn họ đã bị thua, Bolchevik tàn phá nhà cửa, cướp phá tài sản. Tất cả những chiến sĩ Cossack tham gia chống lại Bolchevik đều bị xử tội, nhẹ là bị lưu đày để rồi bị chết đói, nặng hơn là bị xử bắn. Ứơc tính có khoảng từ 700 000 đến 1 triệu người Cossack đã bị giết. Số còn lại bị lưu đày hoặc chạy nạn qua các nước như Ukraine, Thổ nhi kì, các nước vùng Balkan.

Năm 1919, ở Kiev (thủ đô Ukraine hiện nay), các chiến sĩ Bolchevik bắt đầu chiến dịch tìm và giết những người dc xem là địa chủ và tư sản. Chiến dịch này dc ghi nhận là đã tìm và diệt dc hơn 80 ngàn tên tư sản và địa chủ. (có ai nhớ đến Cải Cách Ruộng Đất ko, nếu không thì hỏi mình:)


Năm 1919, người Estonia đứng dậy làm cuộc khởi nghĩa giành độc lập (Estonian War of Independence) chống sự xâm lấn của người Nga Bolchevik, cuộc chiến này có thêm sự tham gia của quân tình nguyện người Phần Lan, người Scandinavi, và người Nga chống CS. Người Estonia đã thất bại, và những người Estonia đã bị tra tấn và giết hại. Theo thống kê của Estonia, số lượng lính Estonia tham gia cuộc chiến là khoảng 75 ngàn lính, số lượng người chết hơn 80 ngàn (kể cả lính chiến đấu - lính đầu hàng - và thường dân)


Cũng vào năm 1919, cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra ở Hungary, cũng với những kiểu giết người, thảm sát như vậy. Chưa có thống kê số lượng nạn nhân.

Bela Kuhn, 1 chiến sĩ CS người Hung khá có tiếng tăm đang cùng các đồng chí của mình lột da những người chống đối (12 người), bọn họ đều là những người bất đồng chính kiến về chính trị.


Những người cộng sản Hung vốn nổi danh hung ác từ thế chiến I (1914 - 1918) vẫn nối tiếp cha anh của mình về tài năng tra tấn.


Năm 1921 - 1922, dưới sự lãnh đạo của Lênin và các chiến sĩ Bolchevik của ngài, nước Nga Xô Viết phát triển khá ghê gớm. Nhưng ở đó, đang có 1 nạn đói khủng khiếp diễn ra. Đồ ăn, hạt giống dc thu lại để chuyển đến cho các thành phố lớn như Saint Peterburg, Moscow... còn ở vùng nông thôn, người dân đang chết đói chết khát.

Nạn đói trên sông Volga, con người phải ăn cả phân của ngựa, đào rễ cây để ăn, nhưng rồi cuối cùng cũng hết cái mà ăn. Kết quả của nạn đói đó là gần 1 triệu người đã chết. Lê nin vĩ đại!




Năm 1924, Lênin chết. Tổng kết lại sự nghiệp của ông Lênin thì chỉ có vài triệu người dân vô tội chết. Vài triệu, 1 con số ít ỏi so với công lao của Đại Đệ Tử của Lênin vĩ đại - Stalin và cũng chẳng thua kém 1 người đệ tử khác là Paul Nguyễn Tất Thành.