Wednesday, July 22, 2009

Núi Cô Tô vẫn thuộc Việt Nam Công Hòa - Nguyễn Khắp Nơi


Hình chụp Núi Cô Tô tháng 11 Năm 1968
Nguyễn Khắp Nơi

Lễ kỷ niệm 49 năm thành lập Binh Chủng Biệt Động Quân đã được anh em Biệt Động Quân New South Wales Úc Đại Lợi tổ chức rất trọng thể tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng Sydney, vào ngày thứ Bẩy 4 tháng Bẩy 2009 vừa qua. Trong dịp này, tôi đã được hân hạnh nói về một trong những chiến thắng oai hùng của binh chủng Biệt Động Quân:

Chiến thắng tại Núi Cô Tô, Châu Đốc, năm 1970

Núi Cô Tô, còn được gọi là Núi Bái Voi, là một trong bẩy ngọn núi nổi tiếng của dẫy Thất Sơn, tỉnh Châu Đốc, sát bên các tỉnh Kiến Phong, Phong Dinh, Ba Xuyên, Bạc Liêu, Chương Thiện và Kiên Giang. Đây là những vùng đất trù phú nhất của miền Nam, đã một thời được coi là “Vựa Lúa” của Việt Nam cũng như của vùng Đông Nam Á. Vì là một vùng đất trù phú, có núi non hiểm trở, lại dễ xâm nhập bằng đuờng bộ từ phía Cao Miên và đường biển từ Vịnh Thái Lan, nên Việt Cộng đã biến vùng núi Thất Sơn trở thành một căn cứ dưỡng quân và kinh tài lớn nhất ở vùng IV.Vùng núi này được gọi là “Thất Sơn” bởi vì nó bao gồm bẩy ngọn núi chính:

Bẩy ngọn núi của Dẫy Thất Sơn

1. Núi Trà Sơn (tên của một vị sư tên là Trà,

2. Núi Két (Giống hình mỏ con két),

3. Núi Bà Đội Om (giống một người đàn bà đội nón om của người Miên),

4. Núi Cấm (cấm không được lai vãng),

5. Núi Tượng (giống vòi con voi),

6. Núi Dài (dài 8000m, dài nhất trong các ngọn núi),

7. Núi Cô Tô – còn có tên khác là Núi Tô hoặc Núi Bái Voi – có hình như một cái tô lật úp.

Núi Cô Tô dài 5800m, ngang 3700m, cao 614m, thuộc địa phận quận Tri Tôn. Dân trong vùng đa số là người Việt gốc Miên, gọi là Khmer Krom. Từ khi khởi động chiến tranh năm 1954, Việt Minh đã biến vùng Thất sơn trở thành một căn cứ địa mà chúng cho là bất khả xâm phạm. Kể từ năm 1956, căn cứ này trở thành nơi dưỡng quân chính của Sư Đoàn 1 CSBV (gồm 3 trung đoàn 95A, 18 B và 101D ), bộ tư lệnh của chúng đóng ở bên kia biên giới Cao Miên. Bọn chúng đã dùng địa thế hiểm trở của ngọn núi Cô Tô để biến những hang động thiên nhiên ở đây thành nơi dưỡng quân, bệnh viện và kho chứa lương thực thật là an toàn. Để ngăn ngừa sự xâm nhập và tiêu diệt bọn cộng phỉ, chính phủ VNCH đã cho thành lập Biệt Khu 44, bao gồm địa phận các tỉnh Kiến Phong, Châu Đốc và một phần của tỉnh Kiên Giang.

Hình Núi Cô Tô chụp từ Satellite (Google Earth)

Sau cuộc tổng công kích tết Mậu Thân, tàn quân của Việt Cộng kéo về vùng núi Thất Sơn để chữa trị và bổ xung quân số, tạo nên một căn cứ địa thật lớn mà Quân lực Việt Nam Cộng Hòa nhất định phải dẹp tan. Từ tháng 2 năm 1969, Quân Đoàn IV đã quyết đinh mở một cuộc tảo thanh trong vùng Thất sơn, triệt hạ bằng được mật khu trong vùng núi Cô Tô. Lực lượng hành quân bao gồm Lữ Đoàn Mike Force (Lực Lượng Tác Chiến Lưu Động) từ Nha Trang đưa về, quân số cơ hữu của Biệt Khu 44 và Sư Đoàn 9 Bộ Binh. Tin tình báo cho biết, tiểu đoàn 510 của CSBV đang bảo vệ căn cứ này cùng với 1 bộ chỉ huy cấp trung đoàn đóng tại hang núi Tuk Chup.

Cô Tô là núi đá hoa cương, rất cứng, lại có hang động thiên nhiên thật nhiều, thế nên, mặc dù trước khi đổ quân, pháo binh đã bắn rất nhiều vào khu núi và không quân cũng đã mở thật nhiều đợt oanh tạc, nhưng bọn Việt Cộng ẩn nấp trong hầm sâu vẫn được an toàn.

Đường bộ di chuyển đến chân núi lại cực kỳ khó khăn, phải lội qua những con suối nước chẩy rất xiết. Khi tới chân núi thì lại không có đưởng mòn để đi lên, những chiến binh của ta đã phải dùng dây có móc sắt ném lên để rồi từng người lính leo dần lên. Bọn Việt Cộng nấp trong hang đá cứ thế mà bắn ra, làm cho cuộc tiến quân bị kéo dài và và thiệt hại nhiều cho những đơn vị đầu tiên. Đến tháng 9 năm 1970, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 quyết định sử dụng một chiến đoàn, trong đó, 2 tiểu đoàn 42 và 44 Biệt động quân là nỗ lực chính để tấn công Núi Cô Tô. Cuộc hành quân đặt dưới sự điều động của bộ Tư lệnh Sư đoàn 9 Bộ binh, do chuẩn tướng Trần Bá Di làm Tư Lệnh.Hướng đạo dẫn đường đoàn quân là các hồi chánh viên ở Tri Tôn. Các đơn vị Biệt động quân di chuyển từ bãi đổ quân nơi chân núi vào khu vực hành quân. Các chiến sĩ Biệt Động Quân đã phải lội qua những con suối, con lạch mà mực nước có nơi lên đến ngang ngực. Khi đến vị trí tập trung, tiểu đoàn còn phải phá đường qua rừng tràm để khởi động cuộc tấn công. Điểm kháng cự chính của Cộng quân là một hang động nằm ở khoảng cao độ 1/3 tính từ chân núi lên đến đỉnh về hướng Đông Bắc. Một trung đội quyết tử của Cộng quân được bố trí đóng chốt tử thủ tại đây. Toán Cộng quân này được trang bị các vũ khí tối tân, hỏa lực rất mạnh, trong đó có cả đại bác không giật 57 ly.Trong trận đánh quyết định vào ngày 21 tháng 10 năm 1970, tiểu đoàn 44 đổ quân đánh từ chân núi đánh lên, tiểu đoàn 42 sẽ từ trên đánh xuống.Tiểu đoàn 42 đã đổ quân vào ban đêm, dùng chiến thuật gọng kìm: 2 đại đội án ngữ khu lưng chừng núi, đánh lên, hai đại đội còn lại sẽ được đổ ngay trên đỉnh núi, đánh xuống.

Hai đại đội “Đánh xuống” được trang bị hoàn toàn bằng lựu đạn cá nhân: Từ vị Tiểu đoàn trưởng cho tới người lính xung kích, đều cột súng dài vào người, lựu đạn nhét đầy túi quần túi áo, nón sắt cũng lột ra để đựng lựu đạn, đã được trực thăng vận ngay lên đỉnh núi Cô Tô để từ trên đánh xuống.

Tới giờ G, các chiến sĩ Mũ Nâu từ trực thăng nhẩy xuống đỉnh núi, rồi cứ từng tổ 3 người vừa nhào xuống núi vừa thẩy lựu đạn vào trong các hang núi có bọn Việt Cộng đặt chốt sẵn. Đánh xung kích kiểu này có lợi thế là thật bất ngờ và mãnh liệt: Lựu đạn được thẩy vào từng hang đá, từng góc núi. Toán này thẩy lựu đạn chưa diệt được hết bọn VC thì toán kế tiếp đã trờ tới thẩy tiếp lựu đạn vào hang diệt trọn ổ. Nhưng bất lợi là không dùng súng, nếu rủi ro bị tên địch nào sống sót bắn trả lại, sẽ không kịp lấy súng ra để chống cự. Tuy nhiên, vì bị đánh quá bất ngờ, vả lại, bọn Việt Cộng cũng không thể ngờ những chiến binh Biệt Động đã dùng chiến thuật quá thần tốc như vậy, nên đa số bọn chúng chưa kịp bắn phát đạn nào thì đã bị “Sinh Bắc Tử Nam” hết rồi.

Tới lưng chừng núi, 2 đại đội này dừng lại đóng chốt để 2 đại đội kia lặng lẽ dùng dây leo núi leo lên chờ sẵn ở ngoài những hang động. Bọn Việt Cộng còn sống sót, tưởng là những “Thần Chết” đã đi khỏi rồi, vội vàng bò ra ngoài để xem tình thế, đã bị tỉa hết từng đứa. Những ổ kháng cự còn lại, cũng bị các chiến sĩ Mũ Nâu bò vào từng khe núi mà tiêu diệt.

Với kinh nghiệm “Tỉa từng người, diệt từng chốt” tối hôm qua, sáng sớm ngày hôm sau, Biệt Động Quân không tấn công lớn nữa, mà cho các đại đội phân chia ra từng tổ 3 nguời bò đi khắp núi để lục soát và tiêu diệt những chốt còn lại của Việt Cộng. Lý do là vì: Hang động quá nhiều, tập trung binh lính ở một chỗ sẽ rất dễ bị bắn sẻ hoặc bị tập kích. Đến trưa, số Cộng quân đóng chốt bên ngoài các hang đá đã bị tiêu diệt hết, nhưng vẫn còn súng từ trong bắn ra. Anh em Biệt Động dùng loa phóng thanh kêu gọi bọn này ra đầu thú, chỉ có một số ít dám ra mà thôi, số còn lại cố thủ trong hang sâu, lính ta bò vào bị bọn chúng thẩy lựu đạn hoặc bắn ra rất dữ dội. Cuối cùng, các chiến sĩ mũ nâu phải dùng lựu đạn hơi ngạt CS2 hun chúng suốt đêm tới sáng. Trời sáng, lộ rõ quang cảnh: Thổi khói vào từ một chỗ, nhưng khói phun ra lại ở rất nhiều nơi: Có tới từ 10 tới 12 lối ra. Anh em chiến sĩ cứ tiếp tục phun hơi ngạt vào và theo những chỗ có khói thoát ra mà thả lựu đạn xuống.

Kết quả thật khả quan: Từng toán từng toán cộng quân ho sặc sụa đầy nước mắt buớc ra đầu hàng, kê khai tất cả những gì chứa trong hang núi. Theo đó, anh em chiến sĩ Biệt Động Quân đã khám phá ra một hang núi thật lớn. Hang này bao gồm một hệ thống nhiều hang nhỏ chằng chịt với nhau, dùng làm bệnh viện cho cả một trung đoàn Việt cộng. Ba ngày sau, anh em binh sĩ theo lời khai của tù binh, đã khám phá ra một hang lớn nữa, đó là nơi đặt bản doanh của tiểu đoàn 510 do tên Châu Kem làm Tỉểu đoàn trưởng. Tại hai hang động này, chiến sĩ ta đã tịch thu được rất nhiều vũ khí cùng quân trang quân dụng, thuốc men, dụng cụ y khoa, tiền bạc và rất nhiều quân lương.

Cuộc hành quân tảo thanh Cộng quân ở núi Bá Voi chấm dứt vào ngày 20 tháng 11 1970 với kết quả là hàng trăm Cộng quân bị bỏ xác tại trận, toàn bộ hệ thống kinh tài, kho võ khí, tiếp vận của Cộng quân dành cho lực lượng Cộng quân địa phương tại vùng Châu Đốc, Rạch Giá bị phá hủy. Căn cứ Cô Tô, một căn cứ mà bọn Việt Cộng rất tự hào là “Bất khả xâm phạm” đã bị phá hủy tan tành. Tiểu đoàn 510 của Cộng sản Bắc Việt đã bị xóa sổ, biệt tăm biệt tích cho tới khi chiến tranh chấm dứt.

Về phía tiểu đoàn 42 và 44 BĐQ, có 81 chiến binh vừa tử trận vừa bị thương.

Qua bữa thứ Hai 06 07 2009, tôi đã được một độc giả gọi điện thoại báo cho một tin thật là khó tin:

“Ông vừa nói về chiến thắng núi Cô Tô, phải không? Tôi báo cho ông một tin mừng: Núi Cô Tô ở Châu Đốc vẫn còn thuộc về Việt Nam Cộng Hòa đó! Bằng chứng là Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vẫn còn hiện diện ở trên cám mỏm đá của Núi Cô Tô. Cờ được sơn thật là rõ nét, không thể nào lầm được!”

Hình chụp năm 2008:
Cờ Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn trên đỉnh núi Cô Tô, Châu Đốc

Tôi không tin, hỏi ông có bằng chứng gì không mà dám nói? Ông bạn mới quen hẹn gặp tôi khoảng một giờ sau, sẽ đem tới cho tôi coi những tấm hình mới chụp đường hoàng.

Đúng giờ, ông bạn mới tên Minh tới gặp tôi thật, ông kể rằng:

“Vào năm 2008, hai vợ chồng tôi có về Châu Đốc thăm bạn bè. Hai người lính ngồi nhậu lai rai, kể lại những trận chiến ngày xưa, nhất là trận đánh ở Núi Cô Tô. Người bạn vui vẻ cho biết, anh hồi đó đang ở Tiểu Đoàn 42, có tham dự trận đánh này. Sau trận đánh, anh và đồng đội đã vẽ rất nhiều cờ Việt Nam Cộng Hòa trên những mỏm đá trên núi Cô Tô. Nay, một số cờ Vàng đã bị xóa đi rồi, nhưng một số vẫn còn trơ gan cùng tuế nguyệt.

Sáng sớm ngày hôm sau, hai anh em đã dẫn nhau leo lên núi Cô Tô, và đúng như lời anh bạn đã nói, những lá cờ Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đó, tôi đã vội vàng chụp mấy tấm hình lá cờ,đem về làm kỷ niệm.

Buổi chiều Chủ Nhật vừa qua, tôi được một người bạn ở Sydney có tham dự lễ 49 năm Biệt Động Quân, cho biết là “Có nghe Nguyễn Khắp Nơi nhắc tới trận chiến này”, nên tôi liền gọi điện thoại cho anh để báo tin và tặng những tấm hình này cho anh và cho độc giả của Việt Luận làm tài liệu.”

Xin cám ơn anh Minh và mời quý độc giả cùng thưởng lãm tấm hình độc đáo này.

Khoảng một tiếng đồng hồ sau, lại có một anh bạn khác, tên Phùng, tới gặp tôi, xin cái phù hiệu Biệt Động Quân để đem về Việt Nam tặng cho người bạn cũ, là lính Cọp Đen ngày xưa. Anh Cọp này bị bệnh nặng, muốn có cái huy hiệu Biệt Động, để, nếu có chết, sẽ yêu cầu vợ con chôn cái huy hiệu này theo quan tài.

Khi được tôi cho xem tấm hình cờ Việt Nam Công Hòa trên núi Cô Tô, anh Phùng cũng đã xác nhận với tôi là:

“Đúng! Chính mắt tôi cũng đã nhìn thấy những lá cờ Việt Nam Cộng Hòa còn rõ nét trên đỉnh núi Cô Tô.”

Tôi thắc mắc, hỏi anh:

“Bọn Việt Cộng rất sợ, rất kỵ những gì còn lại của Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, nhất là Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Lý do nào mà bọn chúng lại không xóa hết đi những lá cờ trên núi Cô Tô đi?”

Người bạn mới của tôi suy nghĩ một lúc, rồi mới trả lời:

“Bọn Việt Cộng vẫn còn cay cú về trận Cô Tô lắm! Từ lúc bắt đầu cuộc chiến, chúng đã khoe khoang “Mật khu Núi Cô Tô là bất khả xâm phạm” Sau đó, bị quân đội ta đánh cho tan hoang, chúng hận thù ghê lắm. Nay chiến tranh chấm dứt rồi, chúng mới lại được dịp khoe lại cái mật khu cũ, để lá cờ VNCH còn lại để ra oai đó mà. Mặc kệ cho chúng khoe khoang, đối với chúng ta, nơi nào có cờ VNCH, nơi đó là đất của chúng ta, phải không, anh bạn?Hơn nữa, cái gì đúng thì sẽ lưu danh muôn thủa, bây giờ khác lắm rồi, anh Khắp Nơi ạ! Bọn Việt Cộng có đàn áp, có bắt buộc người dân tới đâu đi nữa, cũng không thể đi vào tâm tư của từng người một. Dân chúng họ nhớ tới thời Cộng Hòa Tự Do của chúng ta lắm, họ hết sợ cái đám Cộng Sản rồi, họ có cờ của mình, họ cứ việc trưng (ở trong nhà). Nhất là những thanh niên trẻ, họ nghe nhạc Lính của mình, họ nhìn lại những hình ảnh oai hùng của người Lính Việt Nam Cộng Hòa ngày xưa, họ đọc những bài viết về thủa xưa thịnh trị của Miền Nam, họ thích lắm. Các thanh niên này đã tìm mua những bộ quân phục của Lính mình ngày xưa, gắn phù hiệu binh chủng vào, mặc đi đầy đường đầy phố hết trơn á! Tại anh không về Việt Nam, nên không biết đó thôi. Hồi trước, ở khu Dân Sinh và các chợ trời, có bán đầy những bộ quân phục và huy hiệu lính, nhưng bây giờ, tìm đỏ con mắt cũng không có. ”

Lạ quá nhỉ! Cờ Việt Nam Cộng Hòa còn? Thanh niên trẻ thì thích nghe nhạc Lính? Thích mặc quân phục của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa?

Không lẽ mai đây, chính quyền Việt Cộng cũng trở thành . . . chính quyền của Việt Nam Cộng Hòa Do Dân và Vì Dân, có Nhân Quyền, có Tự Do báo Chí, Tự Do Tín Ngưỡng?

Biết đâu đấy! Lòng dân muốn là cái gì cũng phải được!

Bánh xe lịch sữ đã quay, đang quay và còn quay mãi. Chủ Nghĩa Cộng Sản trước sau gì cũng bị quay vào quá khứ mà thôi.

Người Việt của tôi, là thế đấy!

Nguyễn Khắp Nơi

Tài liệu tham khảo:

Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, Nguyễn Đức Phương
Lược Sử Tiểu Đoàn 42, Vương Hồng Anh 99

Bản đồ Thất Sơn
( Đây là bản đồ hành quân tỉ lệ 1/25.000 - Bấm vào chữ Thất Sơn để phóng lớn bản đồ)

Source: vietluanonline.com

Friday, July 17, 2009

Những Vấn Đề Về Biển và Những Tranh Chấp Chủ Quyền Tại Đông Á - Đào Văn Bình

Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ
(website của U.S. Department of State)
Bản Điều Trần của Ô. Scot Marciel – Phụ Tá Thứ Trưởng Ngọai Giao
trước Ủy Ban Đối Ngọai của Thượng Viện Hoa Kỳ
ngày 15/07/09 về:

Maritime Issues and Sovereignty Disputes in East Asia
(Những Vấn Đề Về Biển và Những Tranh Chấp Chủ Quyền Tại Đông Á)


Bản dịch của
Đào Văn Bình

Thưa TNS Chủ Tịch Jim Web và quý vị trong Tiểu Ban. Tôi rất hân hạnh được điều trần trước quý vị ngày hôm nay về vấn đề biển và những tranh chấp chủ quyền tại Đông Á. Hải đồ chạy xuyên qua Đông Á là một trong vài thủy lộ tấp nập và quan trọng nhất về mặt chiến lược của thế giới. Nó là huyết mạch chính yếu đã và đang tiếp sức vào sự phát triển kinh tế to lớn của các quốc gia trong vùng và đồng thời cũng đem lại sự phồn thịnh kinh tế cho Hoa Kỳ. Hằng tỷ đô la về thương mại - hầu hết ngọai thương của Á Châu với thế giới, trong đó có Hoa Kỳ - hằng năm đều thông qua thủy lộ này. Hơn phân nửa số hạm đội thương thuyền của thế giới mỗi năm đều dong buồm qua Biển Nam Hải.

Hoa Kỳ từ lâu đã có quyền lợi sinh tử trong việc duy trì sự ổn định, tự do đi lại và quyền có những họat động thương mại hợp pháp tại những thủy lộ của Đông Á. Trong nhiều thập niên, việc Hoa Kỳ tích cực can dự vào Đông Á – kể cả việc triển khai sự hiện diện của Hải Quân Hoa Kỳ trong vùng- là yều tố trung tâm gìn giữ hòa bình và duy trì những quyền quyền lợi nói ở trên. Điều đó tiếp tục đúng cho tới ngày hôm nay. Thông qua ngọai giao, thương mại và sự hiện diện quân sự chúng ta đã bảo vể những quyền lợi sinh tử của Hoa Kỳ. Những mối liên hệ với đồng minh của chúng ta vẫn mạnh, khu vực này vẫn yên ổn, và như quý vị đã biết, Hải Quân Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ cần thiết với tất cả khả năng của mình (full range) đề bảo vệ đất nước và duy trì quyền lợi.

Sự hiện diện (về quân sự) và chính sách của chúng ta nhằm hỗ trợ cho việc tôn trọng luật hàng hải quốc tế, kể cả Công Ước của LHQ về Luật Biển. Mặc dù Hoa Kỳ không phê chuẩn công ước đó, như TNS chủ tịch đã biết, nội các hiện hành và các tổng thống tiền nhiệm cũng đều hỗ trợ việc tôn trọng những quy ước này và tàu bè của chúng ta cũng tuân thủ những quy định theo truyền thống về việc xử dụng các đại dương.

Vấn đề về biển và những tranh chấp chủ quyền tại Đông Á rất đa diện và phức tạp. Nếu được phép của TNS chủ tịch, tôi xin tập trung vào ba chủ đề:

- Trước hết, việc tranh chấp chủ quyền đa phương tại Biển Nam Hải.

- Thứ hai, những biến cố liên quan đến Trung Quốc và những họat động của tàu chiến Hoa Kỳ trong vùng biển quốc tế và trong Khu Vực Độc Quyền Khai Thác Kinh Tế của quốc gia đó.

- Và sau hết, khuôn khổ chiến lược của những vấn đề rất hiển nhiên và Hoa Kỳ phải phản ứng như thế nào.

Trung Quốc, Việt Nam, Đài Loan, Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương và Brunei đều tuyên bố chủ quyền của mình trên Biển Nam Hải, kể cả những phần đất phụ thuộc của nó (land features). Bề rộng mỗi bên đòi về phần mình khác biệt rất xa, cũng như cường độ đòi hỏi. Việc tuyên bố chủ quyền tập trung vào khu vực gồm trên 200 đảo nhỏ, đá và đá ngầm của hai Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Cho dù có tranh chấp chủ quyền, Biển Nam Hải vẫn yên tĩnh (at peace). Sự căng thẳng giữa các bên lên xuống bất thường. Cho đến ngày hôm nay, sự tranh chấp chưa đưa tới xung đột về quân sự. Năm 2002, các quốc gia ASEAN và Trung Quốc đã ký vào “Bản Hướng Dẫn Cho Các Bên Trong Vùng Biển Nam Hải”. Dù không có hiệu lực cưỡng hành nhưng nó cũng đề ra những nguyên tắc hữu ích, chẳng hạn như các quốc gia cần “giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa bình”“cố gắng tự chế”“tái khẳng định tôn trọng và cam kết quyền tự do lưu thông trên mặt biển cũng như trên không của vùng Biển Nam Hải theo đúng những nguyên tắc của luật quốc tế đã được thế giới công nhận, kể cả Công Ước 1982 về Luật Biển của LHQ.”

Quan trọng hơn nữa, Bản Hướng Dẫn năm 2002 đã bày tỏ thiện chí của các quốc gia tìm cách hợp tác đa phương để giải quyết các tranh chấp. Chúng ta hoan nghênh thỏa thuận này vì nó hạ bớt căng thẳng giữa các quốc gia và cũng cố thêm vị trí của tổ chức Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN). Thỏa hiệp đó không lọai bỏ được những căng thẳng cùng những hành động đơn phương của các quốc gia trong vùng - nhưng nó là bước khởi đầu, một căn bản tốt qua đó để nói lên những tranh chấp ở trong vùng bằng hình thức ngọai giao.

Chính sách của chúng ta tiếp tục là không đứng về phía nào trong cuộc tranh chấp chủ quyền tại Biển Nam Hải. Nói khác đi, chúng ta không ngả theo bên nào trong việc tuyên bố chủ quyền trên các đảo và những phần phụ thuộc. Tuy nhiên chúng ta quan ngại về những lời tuyên bố về “hải phận” hoặc bất kỳ vùng biển nào không bắt nguồn từ lãnh thổ. Những tuyên bố như thế không phù hợp với luật quốc tế cũng như Công Ước Về Luật Biển.

Chúng ta còn quan ngại tới sự căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc vì cả hai đang tìm cách khai thác trữ lượng dầu và hơi đốt nằm dưới Biển Nam Hải. Bắt đầu từ mùa hè 2007 Trung Quốc yêu cầu Hoa Kỳ và những công ty dầu khí ngọai quốc ngưng công việc thăm dò với Việt Nam nếu không - sẽ phải gánh chịu những hậu quả không báo trước trong việc buôn bán với Trung Quốc.

Chúng ta phản đối bất cứ hành động nào nhằm đe dọa các công ty Hoa Kỳ. Trong chuyến thăm viếng Việt Nam năm 2008, Thứ Trưởng Ngoại Giao lúc bấy giờ là John Negroponte đã xác nhận quyền của các công ty Hoa Kỳ đang hoạt động tại Biển Nam Hải và ông tin rằng những tranh chấp phải được giải quyết bằng giải pháp hòa bình chứ không phải bằng biện pháp cưỡng ép. Chúng ta cũng đã trực tiếp nêu quan tâm đó với Trung Quốc. Tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia không thể giải quyết bằng cách gây áp lực với các công ty không có liên quan gì tới các bên tranh chấp.

Chúng ta cũng thúc dục các bên tự chế, tránh những hành động gây hấn để giải quyết các tương tranh. Chúng ta cũng chỉ rõ rằng chúng ta phản đối sự đe dọa hoặc dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp cũng như bất cứ hành vi nào ngăn cản quyền tự do đi lại trên biển. Chúng ta mong muốn một giải pháp phù hợp với luật quốc tế kể cả Công Ước Của LHQ Về Luật Biển.

Ngòai ra cũng còn một số những tranh chấp liên quan đến biển ở Đông Á. Nhật Bản và Trung Quốc có những khác biệt về giới hạn của Vùng Đặc Quyền Khai Thác Kinh Tế cũng như chủ quyền trên Đảo Senkaku. Những tranh chấp này ít gây chú ý hơn là những tranh chấp ở Biến Nam Hải. Chúng ta tiếp tục theo dõi diễn biến của tất cả những tranh chấp này khi mà những tranh cãi có thể leo thang rất nhanh ở một khu vực mà tinh thần quốc gia biểu lộ mạnh mẽ.

Giờ đây tôi xin trình bày về diễn biến mới xảy ra liên quan đến Trung Quốc và tàu chiến của Hoa Kỳ họat động tại vùng hải phận quốc tế bên trong Khu Vực Độc Quyền Khai Thác Kinh Tế của quốc gia đó. Vào Tháng Ba 2009, tàu khảo sát Impeccable tiến hành nhiệm vụ thường lệ phù hợp với luật quốc tế và ở trong hải phận quốc tế ở Biển Nam Hải. Những hành vi khiêu khích của tàu đánh cá Trung Quốc khiến cho cả hai phía ở vào tình trạng nguy hiểm, ngăn cản việc tự do đi lại trên biển và không phù hợp với nghĩa vụ của các tàu di chuyển trên biển là phải tôn trọng sự an tòan của các tàu khác. Chúng ta lập tức phản đối những hành động đó với nhà cầm quyền Trung Quốc và đòi hỏi rằng những dị biệt phải được giải quyết bằng phương thức đối thoại chứ không phải bằng cách tàu-đối diện-tàu khiến thủy thủ và tàu ở vào tình trạng hiểm nguy.

Điều lo ngại của chúng ta tập trung vào điểm mà Trung Quốc cho rằng họ có thẩm quyền hợp pháp đối với những tàu khác đang đi lại trong Khu Vực Độc Quyền Khai Thác Kinh Tế của họ và phương thức nguy hiểm mà Trung Quốc xử dụng để xác định thẩm quyền của họ.

Quan điểm về quyền hạn này của Trung Quốc không phù hợp với luật pháp quốc tế. Chúng ta đã trình bày rõ điều đó trong những cuộc thảo luận với Trung Quốc và nhấn mạnh rằng các tàu của Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tuần hành một cách hợp pháp trong các hải phận quốc tế như đã từng làm trong quá khứ.

Tôi có thể nói rằng từ giữa Tháng Năm đã không có thêm cuộc khiêu khích nào của tàu đánh cá Trung Quốc.

Để kết thúc, tôi muốn nhìn vào cả hai mối lo ngại của chúng ta- những lo ngại về Khu Vực Độc Quyền Khai Thác Kinh Tế của Trung Quốc và những tuyên bố về lãnh hải lấn qua/choàng qua (overlapping) vùng của các quốc gia khác trong một khuôn khổ chiến lược rộng lớn hơn. Nói một cách cụ thể, những điều này có ý nghĩa gì đối với công pháp quốc tế và cho sự triển khai quyền lực mạnh mẽ (tại vùng này) và Hoa Kỳ phải phản ứng như thế nào?

Biến cố Impeccable và những tranh chấp chủ quyền trong vùng Biển Nam Hải là những vấn đề hiển nhiên và đòi hỏi phản ứng rõ ràng từ Hoa Kỳ. Ở tầm mức chiến lược, trên một mức nào đó cả hai vấn đề đã làm nổi bật quyết tâm của Trung Quốc trong vấn đề khẳng định chủ quyền trên biển của họ. Trong một vài trường hợp, chúng ta không đồng quan điểm hoặc thậm chí không hiểu nổi sự giải thích về luật biển của Trung Quốc.

Tuy vậy, chúng ta tin rằng còn có những giải pháp xây dựng để giải quyết những vấn đề khó khăn này. Chúng ta tôn trọng quyền tự do đi lại của các chiến hạm Hải Quân Hoa Kỳ trong Vùng Đặc Quyền Khai Thác Kinh Tế, chúng ta đã thúc giục Trung Quốc trình bày những dị biệt qua đối thoại. Tuần rồi trong các buổi Đàm Luận Tư Vấn Về Quốc Phòng (Defense Conslultative Talks) tại Bắc Kinh, Thứ Trưởng Quốc Phòng Michele Flournoy đã đưa ra vấn đề này và Trung Quốc đồng ý tổ chức một buổi hội luận đặc biệt trong khuôn khổ Thỏa Hiệp Tư Vấn Về Hàng Hải Quân Sự (ký năm 1988) để bàn thảo và tìm cách giải quyết những dị biệt.

Còn đối với việc tranh chấp chủ quyền trên Biển Nam Hải, chúng ta đã khuyến khích các bên tìm kiếm giải pháp trong khuôn khổ Công Uớc LHQ Về Luật Biển cùng những thỏa hiệp đã có giữa ASEAN và Trung Quốc.

Sự khẳng định chủ quyền của một số các quốc gia trong vùng Biển Đông đã đưa tới những câu hỏi quan trọng đôi khi rắc rối cho cộng đồng thế giới liên quan đến việc thông quá các thủy lộ và nguồn tài nguyên. Có rất nhiều mù mờ (ambiguity) trong sự tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Nam Hải, vừa về mặt biên giới thực sự và liệu đó có phải là sự khẳng định lãnh hải của mình trên tòan bộ vùng biển hay chỉ trên các phần đất phụ thuộc (land features). Trong quá khứ, mù mờ này tác động không bao nhiêu đối với quyền lợi của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nó đã trở thành mối lo ngại khi các công ty năng lượng của chúng ta phải chịu áp lực từ Trung Quốc cũng như một vài khối/mô nằm xa ở ngòai khơi

(offshore blocks) cũng nằm trong đòi hỏi của Trung Quốc khi những khối/mô này không nằm trong công bố chủ quyền của họ. Sẽ là điều lợi ích cho tất cả các bên khi Trung Quốc làm sáng tỏ hơn về bản chất (nội dung) trong những công bố của họ.

Chúng ta cần phải cảnh giác để quyền lợi của chúng ta được bảo vệ và tăng tiến. Khi chúng ta có những lo ngại, chúng ta sẽ nêu ra một cách thẳng thắn như chúng ta đã làm khi Trung Quốc áp lực các công ty Hoa Kỳ.

Chúng ta ghi nhận Trung Quốc đã có những biện pháp hòa giải để giải quyết những tranh chấp về biên giới. Chẳng hạn, năm ngoái, Việt Nam và Trung Quốc đã ký thỏa hiệp phân định lại biên giới. Chính sách tổng quát của Trung Quốc đối với Đông Nam Á đề cao tình hữu nghị và láng giềng tốt (* cái này phải xét lại). Cũng lại như thế, việc triển khai chống hải tặc của Trung Quốc tại Vịnh Aden đã đóng góp tích cực vào mối lo chung của thế giới. Chúng ta phấn khởi trước những bước như vậy và hy vọng Trung Quốc sẽ ứng dụng tiến trình xây dựng như thế trong việc công bố chủ quyền trên biển và biên giới của họ.

Thưa TNS chủ tịch, chúng ta có quan hệ rộng rãi với Trung Quốc nó bao gồm rất nhiều nhiều vấn đề chiến lược sinh tử trọng yếu cho cả hai quốc gia. Chúng ta đồng ý chặt chẽ (agree closely) với họ trên một số vấn đề; còn những vấn đề khác chúng ta có những khác biệt hòan tòan. Mối liên hệ song phương đó khiến chúng ta có thể dàn xếp và tôn trọng những khác biệt và trình bày trong tinh thần trách nhiệm qua đối thọai.

Bản dịch của Đào Văn Bình

(Dấu * là phụ chú của người dịch)


Tưởng Nhớ Ðức Tổng Giám Mục Saigon - Lm Vũ Xuân Hạnh

Phaolô Nguyễn Văn Bình
Khẩu hiệu Giám Mục
"Hãy đi rao giảng/Euntes Docete Mt 28:19-20"
(1.9.1910- 01.7.1995)


Lm Vũ Xuân Hạnh

(Saigon, Việt Nam - 30/06/2005) - Cách đây mười năm, ngày Ðức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình về Nhà Cha (1.7.1995), chúng tôi còn đang là đại chủng sinh của Chủng viện thánh Giuse thành phố Saigon. Ðại Chủng viện rất vinh dự được Ðức Tổng chọn làm nơi an dưỡng trong những năm cuối đời. Ðặc biệt hơn, sau khi tạ thế, Ðức Tổng còn gởi lại thân xác của mình trong nhà nguyện Ðại Chủng viện. Những kỷ niệm mà Ðức Tổng để lại trong thời gian an dưỡng tại Ðại Chủng viện, dù đã mười năm qua, chúng tôi vẫn còn nhớ như in. Chúng tôi muốn ghi lại những kỷ niệm ấy như một lá thơ gởi đến Người Cha Chung của giáo phận sau mười năm xa cách. Ðó cũng là tâm tình biết ơn dâng kính Ðức Tổng mà mỗi chủng sinh ngày ấy, và linh mục hôm nay, muốn thể hiện.

Cuộc chia tay nào cũng để lại sự bùi ngùi tiếc nhớ. Cha ra đi để lại nơi mỗi chúng con niềm thương nhớ lớn lao.

Mỗi lần có dịp về thăm mái nhà Chủng viện, chúng con như còn thấy đâu đây những dấu vết của người cha khả kính. Bởi vậy mà niềm thương nhớ của chúng con sâu lắng và da diết hơn.

Chúng con nhớ, hồi sức khỏe cha còn khá, dù bận rộn với nhiều công việc của giáo phận, cha đã không ít lần đến thăm chúng con. Giữa cuộc sống đầy bon chen vụ lợi, cha dạy chúng con: "Các anh phải biết yêu thương chân thành". Trong lòng cuộc sống đó, mỗi người đều có những ngày vui, những ngày hạnh phúc, hay những ngày đau khổ, những ngày bất an, cha dạy chúng con "Các anh phải cầu nguyện, các anh phải thấy cuộc đời mình thuộc về Chúa".

Sau này, khi sức khỏe trở nên yếu nhiều, nhất là sau những cơn đau ngặt nghèo, cha thường ra Vũng Tàu nghỉ ngơi. Sau những lần trở về thánh phố, vào những buổi chiều, khi sức khỏe khá hơn, cha đều vào thăm chúng con. Có khi là những giờ giải trí, cha ngồi nhìn chúng con chơi thể thao. Vốn là người yêu thích thể thao, Cha như vui lây với chúng con trong từng đường banh, từng cú đập bóng chuyền vừa mạnh vừa dứt khoát của chúng con. Có khi cha vào thăm chúng con qua những lần huấn đức, hay những buổi chuyện trò...

Chúng con còn nhớ rất rõ một trong những lần huấn đức ấy. Ðó là chiều ngày 04.12.1993. Những lời căn dặn chân thành của một người cha, lời dạy nghiêm túc của một người thầy ngày ấy, rất cần cho đời sống linh mục của chúng con hôm nay, khiến chúng con nhớ mãi. Ngày hôm ấy, cha nêu lên cho chúng con hình ảnh thánh Gioan Tiền hô, người dọn đường của Chúa Cứu Thế. Ðể tiến đến chức linh mục, người chủng sinh phải "dọn đường" bằng tu rèn đạo đức, tri thức ... Những chủng sinh của cha ngày ấy, bây giờ đã là linh mục, nhưng tất cả đều hiểu rằng, không chỉ chủng sinh mới "dọn đường". Người linh mục càng cần phải "dọn đường" nhiều hơn để luôn đánh thức mình, để đừng bao giờ ngủ vùi trong sự tự mãn, trong an phận mà không cần cố gắng, không cần làm giàu kinh nghiệm đạo đức, kinh nghiệm mục tử của mình.

Cũng buổi chiều hôm ấy, cha còn dùng chính tấm gương mục tử của Chúa Giêsu để dạy chúng con: Người mục tử phải biết yêu thương, chăm sóc, dạy dỗ đàn chiên. Con chiên nào lạc bầy, người mục tử nhân lành không những đi tìm chúng, nhưng khi tìm được rồi, còn vác chiên lên vai trở về trong niềm vui lớn lao (Lc 15, 5). Cha còn căn dặn chúng con dứt khoát không vướng víu với tiền bạc: "Một linh mục ham tiền không phải là mục tử tốt lành". Lời của cha còn đó, âm vang mãi trong lòng chúng con.

Khoảng thời gian gần hai năm cuối đời, vì biết sức khỏe mình đã yếu, cha vào ở hẳn trong Ðại Chủng viện để được gần gũi với chúng con. Chúng con không thể quên đêm 24.12.1994, trước khi cử hành thánh lễ mừng Chúa Giáng sinh, cha ngồi trên xe lăn và chúng con đưa cha đi xem hang đá, xem cách trang hoàng chủng viện của chúng con. Và trong giờ canh thức Giáng sinh, chính cha đã ban huấn từ khai mạc.

Chúng con nhớ mãi ngày hội thao chào mừng lễ thánh Cả Giuse, bổn mạng Chủng viện, 20.03.1995, do chính tay cha cắt băng khai mạc.

Sáu ngày sau đó, 26.03.1995, chúng con lại kéo nhau đến chúc mừng tuổi linh mục của cha tròn 58 năm. Lần này cha chia sẻ với chúng con về tình yêu Thiên Chúa mà cha cảm nhận. Chính Chúa đã gìn giữ cha, đã dìu dắt cha suốt 58 năm trong sứ vụ tông đồ. Và cha kêu gọi chúng con cùng cảm tạ Chúa với cha.

Còn biết bao nhiêu kỷ niệm mà cha đã để lại nơi tâm hồn của mỗi chúng con. Chúng con nhớ từng nụ cười, nhớ từng lời nói, nhớ từng bước đi của cha. Chúng con, những chủng sinh ngày ấy, không quên những tiếng ho nặng nhọc của cha mỗi buổi sáng trên dãy hành lang vào nhà nguyện ... Dù sức khỏe đã quá mỏi mòn, vậy mà ngày nào cha cũng dâng thánh lễ với chúng con. Sự hiện diện của cha trong nhà nguyện nhắc nhở chúng con về bổn phận đạo đức, về đời sống cầu nguyện mà mỗi chủng sinh và cả linh mục nữa, phải thủ đắc làm hành trang cho đời tu của mình.

Chúng con vẫn biết cuộc ly biệt nào cũng để lại nơi lòng người ở lại những trống vắng và niềm tiếc thương. Sự ra đi của cha ngày ấy, đã làm rất nhiều trái tim rung cảm. Chúng con còn nhớ, trong lễ tang của cha, rất nhiều người đã xúc động và rơi lệ. Nhưng dẫu tiếc thương, người đời chỉ còn biết buông lời cảm thán: thế là hết! Nhưng chúng con cảm nhận rõ ràng chưa hết. Dù đã mười năm, sự hiện diện sinh động của cha như còn phảng phất đâu đây, trong tâm hồn của mỗi chúng con, những chủng sinh ngày ấy... Chúng con xin mượn cách nói của cha mà nói rằng, cha yêu nhất Chủng viện ... Hình bóng của cha không phai mờ trong chúng con, bởi cha đã yêu chúng con trước, cha yêu nhất kia mà...

Thực tế có đau lòng, nhưng trong niềm tin vững chắc vào sự sống đời sau, chúng con cảm nhận một niềm an ủi lớn lao: giờ đây cha đang yểm trợ Giáo Hội, đang bảo vệ đoàn chiên và đang cầu bàu cho chúng con. Chúa đã sai cha ra đi, và Chúa đã gọi cha trở về. Cha đã trung thành với ơn gọi, "đã chạy hết chặng đường và đã giữ vững niềm tin" (2 Tm 4, 7).

Vâng, thưa cha, hạt lúa mì gieo vào lòng đất phải mục thối đi mới sinh nhiều hoa trái. Cha đã khuất. nhưng hoa trái của lòng tin do cha gieo vãi vẫn còn đó và lớn lên. Một lần nữa, nhân kỷ niệm mười năm cha xa cách chúng con, chúng con cúi mình kính chào cha. Mãi mãi chúng con thương nhớ cha, thương nhớ một người cha khả ái, vô cùng khả kính của chúng con. Xin tạm biệt cha. Hẹn gặp cha trên quê trời. Cha nhớ cầu nguyện cho chúng con với.

Tiểu Sử Ðức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình:

Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình - lễ cuối đời
- Sinh ngày 01.09.1910 tại Sài Gòn.

- Thụ phong linh mục ngày 27.03.1937 tại Rôma.

- Tấn phong Giám mục ngày 30.11.1955 tại Sài Gòn.

- Bổ nhiệm Giám mục giáo phận Cần Thơ ngày 20.09.1955.

- Bổ nhiệm Giám mục giáo phận Sài Gòn ngày 24.11.1960.

- Từ trần ngày 01.07.1995 tại thành phố Saigon.

(Ðại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn rất vinh dự được Ðức Tổng chọn làm nơi an dưỡng trong những năm cuối đời. Ðặc biệt hơn, sau khi tạ thế, Ðức Tổng còn gởi lại thân xác của mình trong nhà nguyện Ðại Chủng viện ...)

Lm. Vũ Xuân Hạnh

Thi sĩ Hữu Loan - Vân Khanh

Tiểu sử

Hữu Loan
Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 02/04/1916 tại quê ở làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông học thành chung ở Thanh Hóa sau đó đi dạy học và tham gia Mặt trận bình dân năm 1936, tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Năm 1943, ông về gây dựng phong trào Việt Minh ở quê và khi cuộc Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông làm Phó chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa Nga Sơn. Trước năm 1945, ông đã từng là cộng tác viên trên các tập san Văn Học, xuất bản tại Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Uỷ viên Văn hóa trong Uỷ ban lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tham gia quân đội Nhân dân Việt nam, phục vụ trong Đại đoàn 304. Sau năm 1954, ông làm việc tại Báo Văn nghệ trong một thời gian.

Trong thời gian 1956-1957, ông tham gia Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm do nhà văn Phan Khôi chủ trương. Sau khi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan phải vào trại cải tạo vài năm, tiếp đó bị giam lỏng tại địa phương.

Hiện ông đang sống tại quê nhà.

Hữu Loan chưa xuất bản tập thơ nào, dưới đây là một số bài thơ đã được phổ biến của ông:

Màu Tím Hoa Xim
Hữu Loan

Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê…

Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…

Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…

Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu…

(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)
    Lời tự thuật của HỮU LOAN
Hữu Loan
Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung, tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938, lúc đó cũng đã 22 tuổi, tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi ó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện và ... Tôi - Nguyễn Hữu Loan.

Với mảnh tú tà i Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ , tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.

Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: 'Em chào thầy ạ, chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một 'bà cụ non'. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt ...

Có lần tôi kể chuyện ' bà cụ non' ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận!. Suốt một tuần liền em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành ... Một hôm, bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ ... Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: 'mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu' Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi .....

Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi:

-Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt qúa nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ ... Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
-Thầy ăn đi.

Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ: “Ngọt qúa.”

Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế!

Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì ... tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi ... Tôi quay đầu nhìn lại ... em vẫn đứng yên đó ... Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa ...

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ ....

Chín năm sau, tôi trở lại nhà, về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp ...

Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm 'soạn kịch bản'.

Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: 'yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả'. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay ... lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!

Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ giờ em không còn cô bé Ninh nữa, mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại ... Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mát thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.

Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi.

Tôi phải giấu kính nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn ... Dường như càng kèm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
    Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
    Những em nàng có em chưa biết nói
    Khi tóc nàng đang xanh ...
    ... Tôi về không gặp nàng ....
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa. Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.

Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 02-04-1916 hiện tại đang 'ở nhà trông vườn' ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi gọi là chỗ 'quê đẻ của tôi đấy' thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay, nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu:
    Chiều hành quân, qua những đồi sim
    Những đồi sim, những đồi hoa sim
    Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
    Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
    Và chiều hoang tím có chiều hoang biếc
    Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi 'hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi'. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ!. Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!

Đó là thời năm 1955 - 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng ... Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông ... Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?

Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi .... Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.

Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mết chuộng sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ qúa, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!

Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954- 1955.

Lúc đó còn là chính trị viên của tiểu đoàn, tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản qúa, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền.

Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn, nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Thế rồi, một hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó , cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.

Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ ,nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.

Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.

Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.

Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no .... Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con - 6 trai, 4 gái - và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!

Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ. Thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm ra nhập làm gì.

Năm 1988, tôi 'tái xuất giang hồ' sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực sự.

Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viet VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia 'lộc' cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.

Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.

* Hữu Loan.
    Thánh mẫu hài đồng
    (Tục bút thơ Màu Tím Hoa Sim)


    Nàng ngả cánh tay
    còn rất nhiều ngấn sữa
    cho ta gối đầu
    ngay đêm đầu tân hôn
    chuyện ngược đời:

    - Sao không phải tay ta
    đỡ trước vai nàng
    ngả cánh tay to rắn
    của mình cho đầu
    nàng gối
    ta to gấp bốn gấp năm, và gấp đôi nàng tuổi
    Ta lo lắng sợ tay nàng không chịu nổi
    tay nàng như một nhánh huệ trong bình
    Anh nương nhẹ đầu anh
    cho khỏi đau nhánh huệ
    Nhưng kỳ lạ thay
    nàng chẳng hề gì chi,

    có ta thấy mình
    bỗng nhiên trở nên
    vô cùng nhỏbé
    Nằm gọn trong vòm ngực
    măng tơ
    và rúc tìm
    tham lam
    cuống quít
    ngẩn ngơ
    ta chỉ là một hài nhi
    khát mẹ !

    Nàng càng riết chặt thêm
    ta càng thêm bé
    trong vòng tay thành đai
    tôi nghe nàng
    thổn thức bên tai:

    - Anh của riêng em
    Anh rất lớn của em
    (Anh lớn thật, nhưng hiện đang rất bé)
    Và hai tay ghì cổ nàng
    Tôi kêu:
    Mẹ ơi!
    Mẹ, mẹ!
    bằng một giọng hài nhi
    mới học kêu bập bẹ
    trong hơi thở bừng bừng
    như bốc men

    - Lời vô thức?
    hay là tôi đối thoại?
    Sau đêm ấy là nàng đi
    đi mãi!

    Em đi tím đất chiều hoang
    ta như mất mẹ khóc tang hai lần

    Xin được kính cẩn hôn chân
    những cô gái
    ngay từ tấm bé
    đã mang chất Mẹ
    Loài Người

    Em trong Mẹ
    Mẹ trong Em
    - Em
    ngôi thánhmẫu
    Hài đồng

    Hữu Loan

VÀI NÉT VỀ THI SĨ HOÀNG CẦM - Vân Khanh

Vân Khanh

Hoàng Cầm
Thi sĩ Hoàng Cầm có tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ngày 22 tháng 2 năm 1922, tại xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; quê gốc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Ông xuất thân trong gia đình nhà nho lâu đời. Thân sinh ông thi không đỗ, về dạy chữ Hán và làm thuốc bắc ở Bắc Giang. Tên ông được đặt ghép từ địa danh quê hương: Phúc Tằng và Việt Yên. Thuở nhỏ, ông học tiểu học, trung học đều ở Bắc Giang và Bắc Ninh; đến năm 1938, ra Hà Nội học trường Thăng Long. Năm 1940, ông đỗ tú tài toàn phần và bước vào nghề văn, dịch sách cho Tân dân xã của Vũ Đình Long. Từ đó, ông lấy bút danh là tên một vị thuốc đắng trong thuốc bắc: Hoàng Cầm.

Năm 1944, do Thế chiến thứ hai xảy ra quyết liệt, ông đưa gia đình về lại quê gốc ở Thuận Thành. Cũng tại nơi này, ông bắt đầu tham gia hoạt động Thanh niên Cứu quốc của Việt Minh. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông về Hà Nội, thành lập đoàn kịch Đông Phương. Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông theo đoàn kịch rút ra khỏi Hà Nội, biểu diễn lưu động ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình một thời gian rồi giải thể.

Do vụ án "Nhân Văn Giai Phẩm", ông phải rút khỏi Hội nhà văn vào năm 1958 và về hưu non năm 1970 lúc 48 tuổi.

Ông nổi tiếng với vở kịch thơ Hận Nam Quan, Kiều Loan và các bài thơ Lá diêu bông, Bên kia sông Đuống. Bài thơ Bên kia sông Đuống được chọn vào giảng dạy trong giáo trình trung học phổ thông.

Ngoài bút danh Hoàng Cầm ông còn có các bút danh: Bằng Việt, Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi.

Ông hiện sống ở Hà Nội.
    Lá Diêu Bông
    Hoàng Cầm

    Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
    Chị thẩn thơ đi tìm
    Đồng chiều
    Cuống rạ

    Chị bảo
    Đứa nào tìm được Lá Diêu bông
    Từ nay ta gọi là chồng

    Hai ngày Em tìm thấy Lá
    Chị chau mày
    Đâu phải Lá Diêu bông

    Mùa đông sau Em tìm thấy Lá
    Chị lắc đầu
    trông nắng vãn bên sông

    Ngày cưới Chị
    Em tìm thấy Lá
    Chị cười xe chỉ ấm trôn kim

    Chị ba con
    Em tìm thấy Lá
    Xòe tay phủ mặt Chị không nhìn

    Từ thuở ấy
    Em cầm chiếc Lá
    đi đầu non cuối bể
    Gió quê vi vút gọi
    Diêu bông hời...
    ... ới Diêu bông ...!

    -- Rét 1959
Bên Kia Sông Đuống
Hoàng Cầm

Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm đồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu ?

Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng
mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em xột xoạt quần nâu
Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?

Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu ?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn

Đêm buông xuống dòng sông Đuống
-- Con là ai ? -- Con ở đâu về ?

Hé một cánh liếp
-- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
"À ơi... cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù"
Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay
"Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."



Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời


Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.

Hoàng Cầm

-- Việt Bắc, tháng 4, 1948
    Vân Khanh

    Một Trung Cộng ngạo mạn trịch thượng - Lê Minh

    Lê Minh

    Mới đây một viên chức của Tòa Lãnh sự Trung Cộng tại Melbourne đã điện thoại cho ông Richard Moore là Giám đốc của Liên hoan Phim ảnh Quốc tế ở Melbourne (Melbourne Film Festival 2009) để yêu cầu ông không cho chiếu cuốn phim “The 10 Conditions of Love“ (xin tạm dịch là “10 điều kiện của tình yêu thương”) hoặc là phải đưa ra được lý do chính đáng cho việc chiếu cuốn phim này.
    : “10 điều kiện của tình yêu thương”

    Ông Richard Moore cho biết vào Thứ Sáu 10/07 vừa rồi, bà Chunmei Chen, một Tham tán Văn hoá mới nhận nhiệm sở tại Tòa Lãnh sự Trung Quốc ở Melbourne đã liện lạc với ông qua điện thoại. Để yêu cầu ông Moore hủy bỏ việc chiếu cuốn phim “The 10 Conditions of Love” tại Liên hoan Phim ảnh Quốc tế ở Melbourne, bà Chen đã dài dòng liệt kê ra một danh sách “tội ác” mà bà Rebiya Kardeer đã gây ra. Không thuyết phục được ông Moore bỏ ý định, bà Chen còn cao ngạo thách đố ông Moore đưa ra được những lý do thuyết phục cho việc trình chiếu cuốn phim này.

    Nguyên văn lời thuật lại của Richard Moore, vị Giám đốc Liên Hoan Phim Melbourne, trên đài ABC Radio:

    “Tôi nhận được một cú điện thoại với cái giọng the thé của bà Chen từ Lãnh sự Trung Quốc ở Melbourne. Bà ta bảo tôi phải, thứ nhất là hủy bỏ việc trình chiếu cuốn phim; Thứ hai là tôi phải chứng minh được việc làm của chúng tôi qua việc đưa cuốn phim vào trình chiếu”.
    (“I got a call from a fairly strident Miss Chen at the Chinese consulate here in Melbourne who proceeded to tell me that I should a) withdraw the film from the festival and b) that I had to justify our action including the film in the festival program”)
      China demands film festival dump Uighur documentary
      Australian Broadcasting Corporation
      Broadcast: 15/07/2009
      Reporter: Mary Gearin

      The director of the Melbourne International Film Festival says he received a call last week from a Chinese consular official, demanding that he withdraw a documentary about prominent Uighur figurehead, Rebiya Kadeer. The violent riots in the far western province of Xinjiang have brought international attention to how china is dealing with long-simmering ethnic conflicts.
      Transcript:

      TICKY FULLERTON, PRESENTER: China is facing criticism on yet another front. The violent riots in the far western province of Xinjiang have brought international attention to how China is dealing with long-simmering ethnic conflicts.
      Now it seems China is trying to exert control over how these issues are being portrayed beyond its borders. The director of the Melbourne International Film Festival says he received a call last week from a Chinese consular official demanding that he withdraw a documentary about a prominent Uyghur figurehead, Rebiya Kadeer. It's a move that some believe will backfire.
      Mary Gearin reports.

      FILM VOICEOVER: This is Rebiya Kadeer. Once the richest woman in China, twice nominated for a Nobel Prize. She thinks somebody is trying to kill her.

      MARY GEARIN, REPORTER: There's plenty of implicit drama in "The 10 Conditions of Love", a documentary on Rebiya Kadeer, the woman who's rapidly becoming the most prominent figurehead of the Uyghur people's struggle against China. But right now the spotlight is focused behind the scenes.

      When Melbourne's International Film Festival organisers published their program last week they say they heard from a very early critic.
      RICHARD MOORE, DIRECTOR, MELBOURNE FILM FESTIVAL: I got a call from a fairly strident Miss Chen at the Chinese consulate here in Melbourne who proceeded to tell me that I should a) withdraw the film from the festival and b) that I had to justify our action including the film in the festival program.

      JEFF DANIELS, DOCUMENTARY MAKER: I wasn't surprised that the Chinese Government would have an issue with my film. I was surprised that they would demand that my film not be seen at the Melbourne International Film Festival.

      RICHARD MOORE: There is no way as an independent arts organisation that I was going to sanction that and we are going to continue to screen the film. And when I expressed this opinion, Miss Chen went on to continue, to list a sort of a litany of crimes committed by Rebiya Kadeer, which ranged from so-called tax evasion, to being a terrorist.

      MARY GEARIN: It was publicity the film festival could never have bought and the Chinese would never have wanted. Late today a brief statement was released, unsigned but from the Melbourne Chinese cultural office fax number. It didn't mention a phone call but it did name Rebiya Kadeer as having committed national security and major economic crimes and that, "facts have proven that the violent crime on July 5 in Urumqi was instigated, masterminded and directed by the world Uyghur congress, headed by Rebiya Kadeer."
      MAMTIMIN ALA, AUSTRALIAN UYGHUR ASSOCIATION: This Chinese Government is just trying to prevent Miss Rebiya Kadeer to come here to raise her voice, to tell us about the real nature of this protest and the suffering of Uyghurs in general.

      DR MICHAEL CLARKE, GRIFFITH ASIA INSTITUTE: In their attempts to vilify Rebiya Kadeer they're really putting her up on a pedestal - as this focus for Uyghur autonomy or independence movements.

      MARY GEARIN: Outside the consulate today there was tension as ABC cameras rolled from the street. The issue after all is a little sensitive.More than 140 people have been killed in the bloody riots in the last few weeks in China's far western province of Xinjiang, a serious escalation of the long-running tension between the local ethnic Uyghurs and Han Chinese.

      DR MICHAEL CLARKE: What is unusual about the latest series of riots and unrest is its ongoing nature. It seems to have a life of its own, where you have not only the initial riot by the Uyghurs but you have this sort of a spontaneous response by some of the Han Chinese residents of Urumqi seeking revenge against the Uyghurs for perpetrating the initial riots. And what's surprising is that the Chinese state hasn't been able to really put a firm lid on this.

      MARY GEARIN: Then comes a documentary from a young Australian filmmaker Jeff Daniels about the former millionaire business woman now in exile in the US.Rebiya Kadeer was once lauded by the Chinese Government as a symbol of the country's success but jailed in the late '90s, officially for terrorism. She and her supporters say for speaking out for her repressed people.She is a criminal in terms of the Chinese. She's officially broken parole conditions. Why shouldn't the Chinese Government have a say as to how she is portrayed?

      JEFF DANIELS: I believe they should. I welcome it. I've been trying to get their point of view for two-and-a-half years. I don't understand why they don't speak out publicly in a venue on news, on-camera to explain who Rebiya Kadeer is, why she is such a threat. I welcome that. Anything that would allow people to make up their own minds is exactly what a documentary film maker would like to see.

      MARY GEARIN: The Uyghurs push for independence has a long history but the region's value to the Chinese means there are high stakes at play.

      DR MICHAEL CLARKE: You have to remember Xinjiang is in a very strategic position. It borders with three of the central Asian Republic, shares a border with Afghanistan and also Pakistan, as well as Russia and Mongolia. And it also has a large mineral and oil resources - so China really sees Xinjiang, ultimately it can be an asset to the People's Republic.

      MARY GEARIN: The irony is, the more China criticises Rebiya Kadeer, the more it internationalises the issue and risks her gaining the popular appeal of other exiles like Tibet's Dalai Lama.

      DR MICHAEL CLARKE: They are almost creating Rebiya Kadeer as this figurehead for the Uyghurs which, previously they actually had not had one.

      JEFF DANIELS: The fact there was such tight control made - it swayed me towards the Uyghurs' point of view and made me want to hear their point of view more. Why was China so adamant in wanting in keeping the Uyghur s' voices down?

      MARY GEARIN: Among other things the documentary highlights the toll Rebiya Kadeer's political activity has had on her family. Four of her children are still imprisoned in China. But she won't be stopped. The 62-year-old plans to travel to Melbourne for the documentary screening in a few weeks.
    “10 điều kiện của tình yêu thương” là cuốn phim như thế nào mà nhà nước Trung Cộng đặc biệt “quan tâm” đến như vậy?

    Đó là một cuốn phim do nhà làm phim người Úc, Jeff Deniels thực hiện. Cuốn phim nói về bà Rebiya Kadeer, là lãnh tụ của tổ chức Tân Cương Hồi giáo World Uyghur Congress (WUC), năm nay 62 tuổi. Gần 20 năm trước bà đã là một doanh gia thành công và nổi tiếng, và trở thành người nữ triệu phú đầu tiên ở Trung Quốc. Bên cạnh đó, bà còn giữ nhiều chức vụ nhà nước tại vùng lãnh thổ Tân Cương, thành viên của Hội nghị Tham vấn Chính trị Nhân dân Trung Hoa, và năm 1995 được chính phủ Trung Quốc cử đi tham dự Hội nghị Phụ Nữ Quốc Tế do Liên Hiệp Quốc tổ chức

    Sau khi chồng bà, một giáo sư, trở thành tù nhân chính trị thì bà cũng bắt đầu mạnh mẽ lên tiếng chỉ trích nhà nước Trung Quốc về các chính sách đối với người Tân Cương. Năm 1999, bà bị bắt vì tội “tiết lộ bí mật nhà nước” và bị xử 8 năm tù.

    Liên tiếp những năm sau đó, Hoa Kỳ cùng các nước Tây phương đã liên tục làm áp lực buộc Trung Quốc trả tự do cho bà. Tháng 3 năm 2005, bà được trả tự do và đi định cư tại Hoa Kỳ, đoàn tụ với chồng và 5 con. Bà Kadeer có tất cả 11 người con, nhưng hiện nay có đến 4 người con vẫn còn trong tù tại Trung Quốc.

    Chính những điều mắt thấy tai nghe, và kinh nghiệm ở bản thân, đã thôi thúc bà phải đấu tranh cho quyền làm người của dân tộc ngay trên quê hương mình. Tuy bị dằn vặt với số phận của 4 người con còn lại trong nhà tù tại Trung Quốc, nhưng bà đã can đảm vượt qua tình yêu thương đối với các con mình để đặt tình yêu quê hương dân tộc lên trên hết, tiếp tục dấn thân vào con đường đấu tranh. Đó cũng là một trong “10 điều kiện của tình yêu thương” mà bà phải cân nhắc và cũng là nội dung của cuốn phim này.

    Bà trở thành một biểu tượng đấu tranh của người Hồi giáo Tân Cương, từng lãnh giải Nhân quyền Rafto, hai lần được đề cử lãnh giải Nobel Hòa Bình, và đương nhiên bà là cái gai trong mắt của nhà nước Trung Cộng. Mới đây, chính phủ Trung Cộng đã vu cáo là bà đứng đằng sau vụ bạo loạn ở Tân Cương.

    Có lẽ vì quen với cách hành xử độc tài và trịch thượng mà nhà nước Trung Cộng đã quên rằng các tổ chức như Liên hoan Phim ảnh Quốc tế ở Melbourne cũng chỉ là những tổ chức nghệ thuật tư nhân, hoạt động độc lập, không chịu bất cứ những áp lực chính trị nào từ chính phủ nước sở tại, cũng như quốc tế. Việc một Tham tán Văn hóa mới nhận nhiêm sở, lên tiếng thay cho nhà nước Trung Cộng, rõ ràng là một thông điệp mới mà Trung Cộng muốn gởi đến công chúng Úc cũng như quốc tế. Đây là một sự can thiệp thô bạo vào đời sống văn hóa của một quốc gia khác.

    Tiến sĩ LLoyd, chủ tịch văn phòng Sydney của tổ chức PEN Quốc tế cho rằng việc nhà nước Trung Quốc toan tính kiểm duyệt việc trình chiếu phim ở Melbourne là điều đáng lo ngại và bà cũng “chúc mừng Ông Moore đã không ngã nghiêng trước áp lực này”.

    Australian Writers Condemn China’s Censorship Attempt
    Posted by C.A. Yeung on 16 July, 2009

    The Sydney affiliate of International PEN issued a statement to condemn China’s latest attempt to force the organiser of the Melbourne Film Festival to remove The Ten Conditions of Love from its 2009 program. Sydney PEN also appealed for the imminent release of Chinese PEN member Liu Xiaobo and Uighur PEN centre member Iham Tohti. Liu Xiaobo has been formally arrested in June after in detention for more than six months and is now awaiting trial. Iham Tohti has disappeared and is believed to have been detained for blogging about the Urumqi riot.

    Trailer of The Ten Conditions of Love

    Sydney PEN’s statement reads:

    Sydney PEN condemns censorship attempt; congratulates Melbourne Film Festival

    Sydney PEN, the influential body of writers and readers devoted to freedom of expression, has congratulated the Melbourne International Film Festival for its firm stance against Chinese attempts to censor its 2009 festival program.

    Melbourne International Film Festival director, Richard Moore, revealed this week how an official from the Chinese Consulate in Melbourne telephoned him, demanding he withdraw the documentary, The 10 Conditions of Love, from his festival this month. The film profiles the Uighur businesswoman and leader in exile, Rebiya Kadeer. The Chinese government describes Kadeer as a terrorist and blames her for instigating the deadly ethnic riots in Xinjiang this month.

    Sydney PEN president, Virginia Lloyd, condemned the Chinese Consulate’s attempt to censor the festival. “We congratulate Mr Moore for holding firm against this objectionable pressure,” she said.

    Dr Lloyd said China’s harsh stance on free speech in its own country was well documented, with 47 writers currently imprisoned there because of their writing and political views – more than any other country in the world. However, for Chinese diplomatic staff to demand censorship of free speech within Australia was a disturbing development, she said. Such attempts must be vigorously rejected.

    Dr Lloyd said the attempt to censor the Melbourne screening of the documentary was of deep concern.

    “In Australia we are extremely fortunate to enjoy a high degree of free expression. However, attempts are often made to curtail this, in overt and subtle ways. We must be vigilant against censorship in all its forms, and vocal in demanding that our freedom of expression be protected,” said Dr Lloyd.

    “Working with our colleagues at International PEN, our members seek the release of many imprisoned Chinese writers. Currently these include the leading writer, dissident and literary critic, Liu Xiaobo, who after six months in detention without charge or trial was formally arrested in Beijing on June 23 and charged with ‘inciting subversion of state power’. Along with human rights organisations around the world, we are calling for Liu Xiaobo’s immediate release.”

    PEN is also deeply concerned by the detention of Uighur writer, academic and member of the Uighur PEN Centre, Iham Tohti, who was reportedly arrested in Beijing on 6 July 2009. He had spoken out on the ethnic unrest which broke out in Urumqi on 5 July.

    Mấy tuần qua người dân Úc cũng đã được thấy thái độ trịch thượng của Trung Cộng qua vụ việc bắt giam Stern Hu, một công dân Úc gốc Hoa, là Giám đốc văn phòng đại diện ở Thượng Hải của tập đoàn khoáng sản Rio Tinto cùng với 5 nhân viên khác. Những người này bị bắt vì tội hối lộ và “tiết lộ bí mật nhà nước” gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của nhà nước Trung Quốc. Điều đáng nói là cách hành xử của nhà nước Trung Cộng qua con đường ngoại giao rất tồi tệ, vì trong suốt thời gian giam giữ, các viên chức ngoại giao Úc chỉ được thăm viếng 1 lần, mà chính phủ Úc cũng không nhận được thêm tin tức gì về cáo trạng ngoài việc vào các trang mạng ở Trung Quốc để ... dò tin!

    Mặc cho phía đối lập yêu cầu, mặc cho công chúng Úc lên tiếng, và gần đây là các viên chức chính phủ Úc, kể cả thủ tướng Kevin Rudd lên tiếng, nhưng Bắc Kinh vẫn im lặng một cách trịch thượng. Vì quá bực tức với thái độ này, hôm Thứ Tư vừa qua, thủ tướng Úc đã phát biểu rằng:

    “Đương nhiên nước Úc có những quyền lợi sâu sắc trong mối quan hệ với Trung Quốc, nhưng tôi cũng xin nhắc các bạn rằng, Trung Quốc cũng có những quyền lợi sâu sắc trong mối quan hệ với Úc và các đối tác thương mại khác trên khắp thế giới”.

    (“Australia of course has significant economic interests with its relationship with China, but I also remind our Chinese friends that China too has significant economic interests at stake in its relationship with Australia and with its other commercial partners around the world”)

    http://au.news.yahoo.com/a/-/latest/5727233/rudd-ups-the-ante-in-china-row/

    Rudd ups the ante in China row
    ABC July 15, 2009, 1:17 pm

    Prime Minister Kevin Rudd has warned China the world will be watching how it handles the case of detained Rio Tinto executive Stern Hu.

    Speaking in Sydney today, Mr Rudd said he wanted to remind China that its economic relationship with Australia is a two-way street.

    Mr Hu, an Australian citizen, has been held in Shanghai for 10 days on suspicion of industrial espionage and bribing iron-ore company officials in China.

    His detention comes amid tense negotiatons with Australia and China over iron-ore price negotiations.

    It has has also sparked speculation that China is unhappy with Australia over the collapse of a deal between Rio Tinto and Chinese state-owned mining company Chinalco.

    Chinese officials have refused to bow to repeated requests by the Government for more information regarding the allegations Mr Hu faces.

    Mr Rudd said governments and corporations across the world would be taking a keen interest in the fate of Mr Hu.

    "Australia of course has significant economic interests with its relationship with China, but I also remind our Chinese friends that China too has significant economic interests at stake in its relationship with Australia and with its other commercial partners around the world," he said.

    "A range of foreign governments and corporations will be watching this case with interest and will be watching it very closely, and they will be drawing their own conclusions as to how it is conducted."

    Mr Rudd also said that Australian officials in Beijing and Shanghai had made about 20 representations to Chinese officials to try and seek more information about the case.

    But he reiterated that it was a complex case that would take "some time" to resolve saying that Australia's consular agreement with China over these matters is limiting the demands the Government can make.

    He also hit back at Opposition claims that the Government has not been quick enough to act.

    "We will not be distracted by glib suggestions that there is some sort of quick fix to a complex case such as this," he said.

    Opposition Leader Malcolm Turnbull is unrelenting in his call for Mr Rudd to personally speak with the Chinese President about Mr Hu.

    "I'm very concerned about the signal that Kevin Rudd is sending by not calling his counterpart," he said.

    Mr Rudd has spent the past two days in Sydney in "extensive briefings" with Government officials over Mr Hu's case.

    Last night he revealed that while in Italy last week he raised the matter with a Chinese Government minister.

    Đáp lại những đòi hỏi chính đáng này, hôm nay Tân Cương, phát ngôn nhân Bộ ngoại giao Trung Quốc đã thẳng thừng bác bỏ những than phiền của chính phủ Úc, và lớn lối cho rằng chính phủ Úc đã “làm ồn ào” (“making noise”) vụ việc.

    http://au.news.yahoo.com/a/-/latest/5732120/stop-making-noise-china-gets-tough-on-hu/

    'Stop making noise': China gets tough on Hu

    ABC
    July 17, 2009, 7:24 am

    China's Government has dismissed Australia's complaints about the case of detained Rio Tinto executive Stern Hu as simply "making noise".

    Speaking in Beijing, spokesman Qin Gang said criticism from Australia would not influence China's handling of the case, and also made comments which would again suggest that his Government has already determined that Mr Hu is guilty.

    Mr Qin began last night's press conference on a philosophical note as he was asked for the latest on the detention of Mr Hu and three other Rio Tinto employees who are accused of industrial espionage.

    He responded by wishing foreign companies great prosperity and said China wanted them to make a lot of money.

    But he added: "I'd also like to quote a traditional Chinese saying which says; 'A man with noble characteristics who loves money should make it by honourable means'."

    By "honourable means" Qin Gang said China requires companies to act in good faith and to have strong business ethics - that they should not behave "sneakily".

    If that sounded like has already made up its mind that Mr Hu and the other Rio Tinto staff are guilty, he went on to make that point even more clearly.

    "The actions of the Rio Tinto staff have caused losses to China's interests. I believe Stern Hu and Rio Tinto are fully aware of this," he said.

    The Rio Tinto staff are reportedly accused of bribing local iron and steel industry personnel to get sensitive information relating to China's bottom line in iron ore price negotiations.

    Some in Australia have criticised China for not charging the men, not informing Rio Tinto or the Australian Government what the allegations are, not allowing their families to see them, and for not allowing them access to a lawyer.

    It seems China does not appreciate this criticism.

    "I've noticed that, in Australia recently, some people have been making noise about this case. This is an interference in China's judicial sovereignty," said Mr Qin.

    "It cannot change any of the objective facts, nor can it have any influence on our relevant Chinese authorities which are dealing with the case according to our law."

    Mr Qin said that China attaches great importance to economic co-operation with Australia but he said that Beijing firmly opposes anyone deliberately stirring up this matter.

    He said it would not be in Australia's interests to do so.

    Đã không đáp ứng những đòi hỏi chính đáng trong cách hành xử ngoại giao, Tần Cương còn lớn lối “dạy” công chúng Úc rằng “Tôi thấy là gần đây ở Úc, có một số người đã làm ồn ào vụ việc này. Đây là một sự can thiệp vào hệ thống tư pháp của Trung Quốc. Làm như vậy cũng chẳng thay đổi được sự việc, mà cũng chẳng ảnh hưởng đến quyết đinh của các cơ quan công quyền xử lý vụ việc theo luật lệ của chúng tôi”.

    Chưa hết, để trả đũa lời phát biểu của thủ tướng Úc cách đây vài hôm, Tần Cương còn thách thức rằng “Úc cũng chẳng có lợi lộc gì nếu làm ồn ào vụ việc”.

    Đúng là những thái độ ngạo mạn trong cung cách hành xử ngoại giao và giao thiệp quốc tế.

    Lê Minh
    Úc Châu, ngày 17/07/2009