Monday, July 13, 2009

Vai Trò Của Cộng Sản Trung Quốc Trong Chiến Tranh 1946-1954 Ở Việt Nam - Trần Gia Phụng

Trần Gia Phụng, Jun 15, 2009

1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ

Sau thế chiến thứ hai, Việt Minh (VM), mặt trận của đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) cướp chính quyền và thành lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ngày 2-9-1945. Ngày 11-9-1945, trung ương đảng CSĐD họp tại Hà Nội đưa ra quyết định chủ trương độc quyền cai trị đất nước. (Philippe Devillers, Histoire du Viet-Nam de 1940 à 1952, Paris: Éditions du Seuil, 1952, tr. 143. Về sau, Cộng sản Việt Nam thực hiện điều nầy qua điều 4 hiến pháp năm 1992.)

Thực hiện chủ trương nầy, về đối nội, VM tiêu diệt tất cả những thành phần theo chủ nghĩa dân tộc. Về đối ngoại VM nhượng bộ các lực lượng nước ngoài để rảnh tay đối phó với các tổ chức đối kháng trong nước, nhằm duy trì việc độc quyền chính trị.

Khi Pháp gởi lực lượng theo quân Anh tái chiếm miền Nam , rồi tiến ra Bắc nhằm thay thế quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng, VM liên tục nhượng bộ. Hồ Chí Minh ký kết với đại diện Pháp liên tiếp hai hiệp ước (hiệp định Sơ bộ ngày 06-03-1946 và Tạm ước ngày 14-09-1946), sẵn sàng đón tiếp quân Pháp đến Bắc Kỳ, để cho Pháp tái tục những hoạt động kinh tế, văn hóa, giao thông trên toàn quốc…, trái với lời thề chống Pháp khi Hồ Chí Minh trình diện chính phủ ngày 02-09-1945.

Thấy VM yếu kém, ngày 18-12-1946, Pháp tiếp tục uy hiếp, buộc VM phải giao quyền kiểm soát an ninh Hà Nội cho Pháp. Nếu Pháp kiểm soát an ninh Hà Nội, thì sinh mệnh ban lãnh đạo VM và đảng CSĐD hoàn toàn nằm trong tay Pháp. Thay vì hỏi ý kiến quốc hội (cơ quan có quyền tuyên chiến), Hồ Chí Minh họp trung ương đảng CSĐD tại Vạn Phúc (Hà Nội) trong hai ngày 18 và 19-12-1946. Hội nghị nầy quyết định bất ngờ tấn công Pháp tối 19-12-1946.( Trung tâm từ điển bách khoa quân sự, Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam , Hà Nội: Nxb. Quân Đội Nhân Dân, 2004, tt. 503-504.) Đảng CSĐD quyết định tấn công Pháp nhắm tạo điều kiện để ban lãnh đạo VM và đảng CSĐD có lý do chính đáng nhằm thoát thân khỏi Hà Nội. Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Thế là chiến tranh không tuyên chiến xảy ra từ 1946 đến 1954.

Chiến tranh 1946-1954 có thể chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất 1946-1949 và giai đoạn thứ hai 1950-1954. Trong giai đoạn thứ nhất (1946-1949), Việt Minh cộng sản (VMCS) rất yếu kém, phải rút lên rừng núi hay vào bưng biền để trốn tránh và chỉ sử dụng du kích chiến nhằm làm tiêu hao lực lượng Pháp. Trong chiến tranh, VM tiếp tục truy diệt những thành phần chính trị theo chủ nghĩa dân tộc. Vì bản năng sinh tồn, giới nầy tập hợp chung quanh cựu hoàng Bảo Đại, tạm thời liên kết với Pháp để chống VM.

Năm 1949 xảy ra hai biến cố quan trọng. Thứ nhất tổng thống Pháp ký với cựu hoàng Bảo Đại hiệp định Élysée (8-3-1949), đưa đến sự thành lập chính thể Quốc Gia Việt Nam (QGVN) do Bảo Đại làm quốc trưởng. Thứ hai, tại Trung Quốc, đảng Cộng sản Trung Quốc (CSTQ) thành công. Chủ tịch đảng CSTQ là Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng Hoa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) ngày 01-10-1949.

Cả hai biến cố nầy đều ảnh hưởng đến chiến tranh Việt Nam và làm thay đổi tính chất cuộc chiến. Sự thành lập QGVN khiến trên đất nước Việt Nam có hai chính thể đối nghịch nhau: Chính thể QGVN tự do dân chủ, vừa tranh đấu với Pháp để xây dựng độc lập hoàn toàn, vừa nhờ sự giúp đỡ của Pháp để chống lại VM cộng sản, và chính thể VNDCCH theo chủ nghĩa cộng sản. Pháp ở vị trí một đế quốc xâm lăng, nay trở thành đồng minh của QGVN.

Do sự sắp đặt giữa VMCS và CSTQ, VNDCCH thừa nhận CHNDTH ngày 15-01-1950. Đáp lại, CHNDTH thừa nhận VNDCCH ngày 18-01-1950 và sau đó, Liên Xô thừa nhận ngày 30-01-1950. Trước tình hình nầy, Hoa Kỳ lo ngại sự bành trướng của cộng sản, liền thừa nhận chính phủ QGVN do cựu hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng ngày 04-02-1950, lôi kéo theo chính phủ Anh thừa nhận ngày 07-02-1950, và sau đó là các nước đồng minh của Hoa Kỳ.

Như thế, năm 1950 đánh dấu khúc quanh của chiến tranh, mở đầu giai đoạn thứ hai của cuộc chiến. Việt Minh dựa vào viện trợ của Cộng sản quốc tế, chủ yếu là viện trợ của CSTQ, phản công chống Pháp, quyết tâm tiêu diệt QGVN. Quốc Gia Việt Nam , ngoài đồng minh là Pháp, còn nhờ sự viện trợ của Hoa Kỳ chống lại VMCS. Từ năm 1950, cuộc chiến không còn ý nghĩa kháng chiến chống Pháp, và biến thành chiến tranh ý thức hệ quốc cộng trên đất nước Việt Nam .

2. HỒ CHÍ MINH CẦU VIỆN

Từ năm 1950, CSTQ đóng vai trò càng ngày càng quan trọng trong chiến tranh Việt Nam, bắt đầu từ việc Hồ Chí Minh cầu viện Trung Quốc và Liên Xô.

Ngày 01-10-1949, Mao Trạch Đông (Mao Zedong) tuyên bố thành lập CHNDTH. Cuối năm đó, Hồ Chí Minh cử hai đại diện là Lý Bích Sơn và Nguyễn Đức Thủy đến Bắc Kinh xin viện trợ. (Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina, 2000, tt. 13, 15.) Lúc đó, Mao Trạch Đông cùng Châu Ân Lai (Zhou Enlai) đã qua Moscow từ 16-12-1949 để thương thuyết với Stalin.

Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi), xử lý công việc bộ Chính trị đảng CSTQ, cử La Quý Ba (Luo Guibo), uỷ viên trung ương đảng CSTQ làm đại diện đảng CSTQ bên cạnh đảng CS Đông Dương (CSĐD).(Qiang Zhai, sđd. tr.15.) Ngay trong tháng 1-1950, La Quý Ba rời Bắc Kinh qua Việt Nam. (La Quý Ba, “Mẫu mực sáng ngời của chủ nghĩa quốc tế vô sản”, đăng trong Hồi ký của những người trong cuộc, ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, một nhóm tác giả, Bắc Kinh: Nxb. Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002, do Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch, Dương Danh Dy hiệu đính (tài liệu lưu hành nội bộ), tr. 2.)

Theo các tài liệu của CSTQ, chế độ CHNDTH mới thành lập ngày 1-10-1949, đang khó khăn, chưa được các nước Tây phương thừa nhận, nhưng vì tinh thần và nghĩa vụ quốc tế vô sản, CHNDTH đã hào phóng viện trợ vô tư không điều kiện cho VNDCCH.(La Quý Ba, sđd. tr. 4.)

Sự thật đúng là lúc đó các nước Tây phương chưa thừa nhận CHNDTH, nhưng CHNDTH lại sẵn sàng thừa nhận và giúp đỡ VNDCCH vì hai chủ đích riêng của CHNDTH: 1) Lúc đó, đảng CSTQ chưa ổn định tình hình lục địa Trung Hoa. Đảng CSTQ lo ngại Tưởng Giới Thạch nhờ các nước tư bản, nhất là Hoa Kỳ và Pháp, giúp đỡ để lực lượng Quốc Dân Đảng quay trở lại tấn công CSTQ. Vì vậy, CSTQ nhận VMCS làm đồng minh, giúp đỡ VMCS để VMCS giữ gìn an ninh vùng biên giới Hoa Việt, làm vùng trái độn an toàn cho Trung Quốc. Mao Trạch Đông công khai xác nhận việc nầy trong một cuộc họp của trung ương đảng CSTQ tháng 11-1950. (La Quý Ba, sđd. tr. 7) 2) Về tương lai, CSTQ dự tính có thể sử dụng VNDCCH để tìm đường xuống Đông Nam Á.

Sau phái đoàn Lý Bích Sơn và Lưu Đức Thủy, đích thân Hồ Chí Minh bí mật qua Bắc Kinh cầu viện ngày 30-01-1950. Lúc đó Mao Trạch Đông và Châu Ân Lai vẫn còn ở Liên Xô. Lưu Thiếu Kỳ hứa sẽ đáp ứng những lời cầu viện của Hồ Chí Minh và sắp đặt cho Hồ Chí Minh qua Liên Xô cầu viện tiếp.

Trong các cuộc tiếp xúc với Mao Trạch Đông và Châu Ân Lai, lãnh tụ Liên Xô là Joseph Stalin nhiều lần lập lại ý kiến rằng công việc viện trợ cho VNDCCH là công việc chủ yếu do CSTQ gánh vác. Chắc chắn Lưu Thiếu Kỳ ở Bắc Kinh đã được biết quyết định nầy của Stalin do phái đoàn Mao Trạch Đông thông báo, nhưng Lưu Thiếu Kỳ vẫn sắp đặt cho Hồ Chí Minh qua Moscow, có thể nhằm cho Hồ Chí Minh tận mặt gặp Stalin để tận tai nghe ý kiến của Stalin.

Hồ Chí Minh đến Moscow tối 06-02-1950. Bộ chính trị đảng CSLX mở tiệc chào mừng Hồ Chí Minh nhưng Stalin không đến dự. Sau đó, Stalin chỉ tiếp Hồ Chí Minh tại văn phòng làm việc, với sự có mặt của Malenkow, Molotow, Bulganin và Vương Gia Tường, đại sứ Trung Quốc tại Liên Xô. Như đã từng nói chuyện với Mao Trạch Đông, Stalin nói thẳng với Hồ Chí Minh: “Chúng tôi đã trao đổi với các đồng chí Trung Quốc, công việc viện trợ chiến tranh chống Pháp của Việt Nam chủ yếu do Trung Quốc phụ trách thích hợp hơn ... Trung Quốc ở sát Việt Nam , hiểu rõ tình hình Việt Nam hơn chúng tôi, kinh nghiệm đấu tranh của Trung Quốc càng có tác dụng làm gương đối với Việt Nam , giúp các đồng chí sẽ thuận tiện hơn.” (Trương Quảng Hoa, “Quyết sách trọng đại Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp”, trong sách Hồi ký những người trong cuộc…, sđd. tr. 20.)

Ngày 14-2-1950, Joseph Stalin và Mao Trạch Đông ký Hiệp ước hữu nghị, liên minh và hỗ tương Trung-Xô (Sino-Soviet Treaty of Friendship, Alliance and mutual Assistance) gồm 6 điều khoản và hiệu lực trong 30 năm. Ngày 16-02-1950, trong buổi tiệc chiêu đãi phái đoàn Trung Quốc trước khi Mao Trạch Đông về nước, nhân lúc Stalin vui chuyện, “Hồ Chí Minh lại nói: “Các đồng chí đã ký hiệp ước với Trung Quốc, nhân tôi ở đây, chúng tôi cũng muốn ký một hiệp ước”. Stalin nói: “Thế người ta hỏi đồng chí từ đâu ra? Chúng tôi giải thích như thế nào?. Hồ Chí Minh nói: “Điều đó rất dễ, đồng chí cho chiếc máy bay chở tôi lượn một vòng trên trời, sau đó cho người ra sân bay đón tôi, đưa một tin trên báo, không được sao?”. Stalin cười lớn: “Đó là sức tưởng tượng đặc biệt của người phương Đông các anh”. Rất nhiều người dự tiệc cũng đều cười vang.”. (Trương Quảng Hoa, sđd. tr. 21.)

Ngày 17-02-1950, Hồ Chí Minh cùng Mao Trạch Đông, Châu Ân Lai rời Moscow trở về Bắc Kinh bằng xe hỏa. Trong cuộc hành trình nầy, một hôm Hồ Chí Minh “đi đến toa xe của Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh nói ngay bằng tiếng Trung Quốc: “Mao Chủ tịch, Stalin không chuẩn bị viện trợ trực tiếp cho chúng tôi, cũng không ký hiệp ước với chúng tôi, cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam từ nay về sau chỉ có thể dựa vào viện trợ của Trung Quốc.” ( Trương Quảng Hoa, sđd. tr. 22.)

Về tới Bắc Kinh, hai bên ký kết một hiệp ước phòng thủ hỗ tương giữa CHNDTH và VNDCCH, theo đó hai bên hợp tác để tiễu trừ thổ phỉ (ám chỉ Quốc Dân Đảng Trung Hoa và biệt kích Pháp).(Bernard Fall, Le Viet-Minh, Paris: Max Leclerc et Compagnie, 1960, tr. 119.) Hiệp ước nầy cho thấy việc CSTQ quyết định viện trợ cho VNDCCH rõ ràng không phải vì tinh thần và nghĩa vụ quốc tế cộng sản mà vì quyền lợi thiết thực của CSTQ là bảo vệ an ninh vùng biên giới phía nam.

Không kể lần đi cầu viện thứ nhất, cho đến khi chiến tranh kết thúc năm 1954, Hồ Chí Minh còn qua Bắc Kinh ba lần và qua Moscow hai lần để cầu viện trong các năm 1951, 1952, 1954. Trong bản tin ngày 14-5-2009, đài BBC đã tường thuật một bài báo mới đăng trên báo Pravda (Nga), nhắc lại rằng các xe vận tải Molotov và súng phòng không của Liên Xô đã góp công rất lớn đến chiến thắng Điện Biên Phủ. (http://www. bbc.co.uk/vietnamese/vietnam.) Trong lịch sử Việt Nam, không có nguyên thủ quốc gia (trước đây là vua) Việt Nam nào, kể cả Lê Chiêu Thống (Chỉ có mẹ vua ra đi mà thôi), qua Trung Hoa trực tiếp cầu viện như Hồ Chí Minh,

3. CÁC PHÁI ĐOÀN CỐ VẤN

Ngoài cố vấn chính trị là La Quý Ba đã có mặt tại Việt Nam từ tháng 1-1950, về quân sự CSTQ gởi sang VN một cố vấn đặc biệt và một phái đoàn cố vấn đông đảo để giúp bộ đội VM.

Viên cố vấn đặc biệt là đại tướng Trần Canh (Chen Geng), uỷ viên dự khuyết ban chấp hành trung ương đảng CSTQ, tư lệnh quân khu Vân Nam, chính uỷ binh đoàn số 4, chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Vân Nam. Hồ Chí Minh đã xin đích danh với Mao Trạch Đông gởi Trần Canh sang làm cố vấn cho trung ương đảng CSĐD. Trần Canh rời Côn Minh đi Việt Nam ngày 7-7-1950.

Trần Canh vào địa phận Việt Nam từ 20-7-1950, nghiên cứu tình hình tại chỗ và gởi về Bắc Kinh một báo cáo, đại ý như sau:

1. VM cần vận dụng thêm phụ nữ vào công việc chiến đấu. [Từ sau ý kiến của Trần Canh, xuất hiện nữ dân công VM trên chiến trường.]
2. Những sĩ quan cấp tiểu đoàn của VM thiếu kinh nghiệm chiến trường, nên cần phải tổ chức tiến đánh những đồn bót nhỏ, để tăng kinh nghiệm và tạo chiến công nhằm gây niềm tin nơi quân sĩ.
3. Thực hiện chiến thuật công đồng đả viện (tấn công cứ điểm, chận đánh viện binh) bằng cách tấn công các đồn nhỏ để quân Pháp đưa quân đi cứu viện, rồi phục binh tấn công viện quân củ Pháp. Nếu làm như thế, VM có thể chiếm được Cao Bằng và sẽ làm thay đổi tình hình biên giới.

Trần Canh gặp Hồ Chí Minh lần đầu ngày 28-07-1950 tại chiến khu Dương Sơn, tỉnh Thái Nguyên. Hồ Chí Minh hoàn toàn đồng ý với kế hoạch Trần Canh.

Trong khi đó vào cuối tháng 7-1950, bộ tư lệnh cố vấn quân sự Trung Quốc (BTLCVQSTQ) chính thức được thành lập, lúc đầu gồm 281 người, trong đó có 79 cố vấn, 202 tùy viên, do tướng Vi Quốc Thanh (Wei Guoqing) làm tư lệnh với hai phụ tá là Mai Gia Sinh (Mei Jiasheng) và Đặng Dật Phàm (Deng Yifan). Vi Quốc Thanh và BTLCVQSTQ có mặt ở bộ chỉ huy bộ đội VM tại Quảng Nguyên (Cao Bằng) ngày 12-8-1950, rồi được phân phối đi các đại đơn vị VM.

Từ đây, kế hoạch, chiến thuật, chiến lược tấn công của VM đều do quân uỷ đảng CSTQ ở Bắc Kinh nghiên cứu, duyệt xét, đưa qua cho BTLCVQSTQ, rồi bộ tư lệnh nầy chuyển lại cho giới lãnh đạo VM thi hành.

4. TRUNG QUỐC VIỆN TRỢ QUÂN SỰ VÀ KINH TẾ

Sau khi đi cầu viện, Hồ Chí Minh trở về Việt Nam cuối tháng 2-1950. Tháng 4-1950 Hồ Chí Minh gởi qua Bắc Kinh một danh mục xin viện trợ và đề nghị CSTQ lập một một trường võ bị ở Trung Quốc để huấn luyện cho bộ đội VM, xin Trung Quốc gởi cố vấn sang Việt Nam và giúp thêm quân nhu, quân cụ, súng ống. (Qiang Zhai, sđd. tr. 18.)

Từ tháng 4 đến tháng 9-1950, CSTQ đã gởi qua cho VM 14,000 súng lục và súng trường, 1,700 súng liên thanh và súng không giựt, 150 súng cối, 60 đại pháo, 300 ba-dô-ka (bazooka), cùng trang thiết bị quân sự, thuốc men, dụng cụ truyền tin, áo quần và 2,800 tấn thực phẩm. (Qiang Zhai, sđd. sđd. tr. 20.)

Chiến dịch biên giới của VM: Chiến thắng quan trọng đầu tiên của VM trong thời kỳ nầy là trận Đồng Khê (từ 16 đến 18-09-1950) và cuộc phục kích vào đầu tháng 10-1950 bắt 4,000 binh sĩ, 354 hạ sĩ quan và 98 sĩ quan, trong đó có hai trung tá Pháp, hoàn toàn do Trần Canh chỉ huy.

Sau chiến thắng nầy, VM kiểm soát một vùng rộng lớn giữa biên giới Việt Hoa, làm trái độn an toàn cho CHNDTH. Đảng CSTQ yên tâm về biên giới phía nam, liền rút Trần Canh về nước.

Sau khi Trần Canh ra đi, Võ Nguyên Giáp và ban lãnh đạo VM đưa quân tấn công các tỉnh thuộc vùng châu thổ Hồng Hà. Những trận đánh ở vùng đồng bằng của Võ Nguyên Giáp thất bại thê thảm ở Vĩnh Yên (01-1951), Phả Lại, Uông Bí (03-1951), Hà Nam và Ninh Bình (tháng 05 và 06-1951).

Các chiến dịch Tây bắc của VM: Không biết các trận đánh ở vùng đồng bằng là kế hoạch của Võ Nguyên Giáp hay của các cố vấn quân sự Trung Quốc, nhưng khi về Bắc Kinh báo cáo và dưỡng bệnh vào tháng 7-1951, Vi Quốc Thanh đổ lỗi rằng VM quá nôn nóng tiến đánh những căn cứ của Pháp ở đồng bằng, gần hậu phương của địch, nên VM khó thành công. Vi Quốc Thanh đề nghị VM tái cấu trúc bộ chỉ huy, tái huấn luyện quân đội, mở phong trào chỉnh huấn để huấn luyện chính trị, đồng thời thanh lọc hàng ngũ quân đội.

Trong lúc Vi Quốc Thanh vắng mặt, La Quý Ba tạm thay đứng đầu BTLCVQSTQ. Ngày 16-02-1952, BTLCVQSTQ gởi báo cáo về Bắc Kinh, đề nghị mở chiến dịch Tây bắc, vì lực lượng phòng thủ của Pháp ở đây yếu kém, và chiếm vùng Tây bắc sẽ củng cố chiến khu Việt Bắc, đồng thời có thể mở đường sang Lào.

Chẳng những chấp thuận kế hoạch của BTLCVQSTQ, Mao Trạch Đông bắt đầu nghĩ đến chiến lược bành trướng xuống phía nam qua đường Lào: chiếm Tây bắc Việt Nam, chiếm Thượng Lào, xuống Hạ Lào, xâm nhập Cambodia. (Vu Hóa Thẩm, “Đồng chí Vi Quốc Thanh trong viện trợ Việt Nam đấu tranh chống Pháp”, sách Hồi ký những người trong cuộc…, sđd. tr. 51.)

Sau đó, trong một lần chỉ thị trực tiếp cho Vi Quốc Thanh tại Bắc Kinh vào tháng 10-1953, Mao Trạch Đông còn khai triển cả một chiến lược dài hạn: Một là dùng hai đại đoàn bộ binh và nửa đại đoàn pháo binh chiếm Lai Châu, chiếm toàn bộ vùng Tây bắc, chuyển qua Thượng Lào, rồi xuống Trung và Hạ Lào. Hai là cương quyết khai thông con đường Nam tiến [đường núi Trường Sơn]; đó là con đường huyết mạch; đo đạc thật nhanh, xây dựng kế hoạch, chia giai đoạn để hoàn thành. Ba là điều động cán bộ, quân đội các liên khu 3, 4 làm công tác mở vùng; đánh được nơi nào thì củng cố nơí ấy. Mao Trạch Đông tóm gọn kế hoạch nầy trong 12 chữ: “Hai đại đoàn rưỡi, một đường quốc lộ, ba lớp cán bộ”. (Vu Hóa Thẩm, “Đồng chí Vi Quốc Thanh trong viện trợ Việt Nam đấu tranh chống Pháp”, sách Hồi ký những người trong cuộc…, sđd. tr. 68.)

Phía VM, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng Lao Động đã theo cố vấn Trung Quốc, chuyển hướng tấn công, mở các chiến dịch đánh vùng tây bắc Bắc Việt, rồi đánh qua Lào năm 1953. Cuối cùng hai bên đụng độ ở Điện Biên Phủ vào đầu 1954. Trận Điện Biên Phủ (ĐBP) kết thúc ngày 7-5-1954, nghiêng thắng lợi về phía VM.

Trận Điện Biên Phủ: Theo các tài liệu do các cố vấn Trung Quốc tiết lộ trong sách Hồi ký của những người trong cuộc, ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam chống Pháp, do Nxb. Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc xuất bản ở Bắc Kinh năm 2002, thì trận ĐBP hoàn toàn do các cố vấn quân sự Trung Quốc chỉ huy từ đầu đến cuối. Chẳng những Trung Quốc viện trợ vũ khí, quân nhu, chiến lược, kế hoạch, mà viện trợ luôn cả những người đào giao thông hào là những người đã tham dự các trận đánh ở Triều Tiên trước đó.

Qua sách hồi ký nầy, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp chỉ là những đốc công trên chiến trường, “Những con người tiêu máu của dân / Như tiêu giấy bạc giả!” (thơ Phùng Quán). Chiến thuật biển người sở trường của các tướng lãnh Trung Quốc được áp dụng triệt để, nên dầu thắng trận, VM mất trong trận nầy khoảng gần 25,000 người, bị thương khoảng 15,000 người trong khi liên quân Liên Hiệp Pháp thua trận, nhưng chết dưới 2,500 người, bị thương khoảng 5,200 người.

Cần chú ý là trước khi VM tiến hành những chiến dịch lớn, Hồ Chí Minh luôn luôn tham khảo ý kiến rất chi tiết với các nhà lãnh đạo đảng CSTQ. Thậm chí, trước khi mở chiến dịch Tây bắc, Hồ Chí Minh đã đến tận Bắc Kinh tháng 9-1952, rồi tiếp tục qua Liên Xô để thảo luận và cầu viện với Stalin. (Qiang Zhai, sđd. tt. 37-38.) Trong chiến dịch Điện Biên Phủ cũng thế. Hồ Chí Minh qua Trung Quốc cuối tháng 3-1954. Từ Bắc Kinh, Hồ Chí Minh theo Châu Ân Lai qua Moscow ngày 1-4-1954, nói là để bàn về công việc ngoại giao và hội nghị Genève. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngọa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève], Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, nhan đề tiếng Việt là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 5: “Dốc sức lên kế hoạch”. (Nguồn: diendan@diendan. org.) Ngày 12-4-1954, Hồ Chí Minh mới trở lui Bắc Kinh, rồi về Việt Nam . Chắc chắn chuyến đi nầy nhằm thảo luận trận chiến ĐBP và vận động tăng cường viện trợ võ khí cho VM để tấn công.

Trong công cuộc viện trợ quân sự của CSTQ cho VM trước năm 1954, cần chú ý đến kế hoạch 12 chữ của Mao Trạch Đông. Chẳng những VM triệt để thực hiện kế hoạch nầy trong chiến tranh trước năm 1954, mà Cộng sản Việt Nam còn dùng con đường Trường Sơn trong việc xâm lăng miền Nam sau năm 1954. Ngày nay, Trung Quốc tiếp tục kế hoạch nầy, lấy cớ khai thác bauxite để lấn chiếm Cao nguyên Nam Trung Phần, nhằm khống chế Việt Nam và Đông Nam Á.

Viện trợ kinh tế: Về kinh tế, các nhà nghiên cứu Tây phương thường cho rằng trong suốt cuộc chiến 1946-1954, VMCS đã thực hiện kinh tế chỉ huy, tập thể và tự túc. (Pierre Brocheux, “L’économie de la résistance vietnamienne, 1945-1954”, đăng trong Les Cahiers de L’institut d’histoire du temps présent, No. 34, Paris: Juin 1996, tr. 77.) Ý kiến nầy có thể bắt nguồn từ sự quan sát bên ngoài những sinh hoạt kinh tế trong các vùng do VM chiếm đóng, vì đời sống dân chúng khó khăn, ít tiêu xài, chỉ dùng hàng hóa nội địa. Trên lý thuyết, bất cứ nền kinh tế cộng sản nào cũng đều do nhà nước chỉ huy và có tính cách tập thể. Tuy nhiên, dân chúng phải tự túc, nhưng nhà cầm quyền VM không tự túc trong thời gian chiến tranh.

Ngay từ đầu, Lưu Thiếu Kỳ đã nói với cố vấn chính trị La Quý Ba vào năm 1950: “Nhu cầu cấp thiết của Việt Nam hiện nay là giải quyết vấn đề tài chính kinh tế, công tác ngân hàng, công tác lương thực…”(La Quý Ba, bài đd., sđd. tr. 5.)

Chẳng những gởi người sang làm công tác cố vấn mà CSTQ còn gởi lương thực, hàng hóa để tiếp tế cho VM. Số lượng gạo, thực phẩm từ Trung Quốc chuyển sang cho VM có thể tính như sau: 120 tấn (năm 1950), 776 tấn (năm 1951), 610 tấn (năm 1952), 1,516 tấn (1953), 1, 772 tấn (năm 1954).(Một nhóm tác giả, Bách khoa tri thức quốc phòng toàn dân, Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia, 2003, tr. 638.)

5. TRUNG QUỐC VIỆN TRỢ CHÍNH TRỊ

Cố vấn chính trị La Quý Ba có mặt ở Việt Nam từ năm 1950 cho đến khi chiến tranh kết thúc. La Quý Ba đã giúp VM tổ chức những phong trào chính trị quan trọng trong suốt cuộc chiến. Đầu tiên phải kể đến cách tổ chức quân đội.

Ngay từ khi mới thành lập năm 1946, bộ tổng chỉ huy quân đội VM tổ chức hệ thống chính uỷ trong các đơn vị. Viên chính uỷ nắm toàn quyền quyết định trong tất cả các đơn vị quân sự, khẳng định vai trò lãnh đạo của đảng CS trong quân đội. Nguồn gốc của chức chính uỷ từ tổ chức hồng quân Liên Xô. Mao Trạch Đông phỏng theo. Nguyên vào tháng 10-1927, Mao Trạch Đông nổi dậy ở Hồ Nam, nhưng thất bại phải bỏ chạy qua Giang Tây. Tại đây, ông cải tổ quân đội và lập ra chức chính uỷ để huấn luyện và nắm vững tinh thần binh sĩ. Việt Minh theo đúng cách tổ chức của Mao Trạch Đông nên trong hệ thống quân giai VM, bên cạnh đơn vị trưởng luôn luôn có chính uỷ đi kèm, nắm toàn quyền trong đơn vị.

Từ năm 1949, khi đảng CSTQ bắt đầu thắng thế ở Trung Quốc, VM đẩy mạnh những phong trào chính trị theo kiểu CSTQ, mở đầu bằng phong trào “rèn cán chỉnh quân”, từ giữa năm 1949. (Trung tâm từ điển bách khoa quân sự, Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Quân Đội Nhân Dân, 2004, tr. 855.) “Rèn cán chỉnh quân” là rèn luyện cán bộ, chấn chỉnh quân đội, nhưng phong trào nầy không mấy thành công và được thay thế bằng phong trào chỉnh huấn năm 1950.(Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam máu lửa, California: Xuân thu tái bản, 1989, tt. 205, 421.

Theo mô thức CSTQ, VM mở phong trào chỉnh huấn vừa để thanh lọc hàng ngũ đảng viên, cán bộ, sĩ quan, loại bỏ những thành phần trí thức tiểu tư sản dầu những người nầy đã lên đường tham gia kháng chiến ngay từ buổi đầu. Đồng thời, chỉnh huấn còn để củng cố tư tưởng chuyên chính vô sản, hướng dẫn cán bộ tự giác, tự nguyện, tin tưởng tuyệt đối ở chủ trương chính sách của đảng CSĐD.

Song song với phong trào chỉnh huấn là cuộc Cải cách ruộng đất (CCRĐ), bắt đầu với sắc lệnh số 78/SL ngày 14-07-1949 thành lập Hội đồng giảm tô, rồi thông tư liên bộ số 33/ NVI ngày 21-08-1949 đưa ra nguyên tắc phân chia ruộng đất tịch thu được của Pháp và “Việt gian” là những người bị VM kết tội thân Pháp hay tay sai cho Pháp.

Để giúp VM thực hiện CCRĐ, Trung Quốc tổ chức khóa huấn luyện chủ nghĩa Mác-Lênin tại Bắc Kinh năm 1951, chính là để học tập phương thức CCRĐ theo đường lối “thổ cải” (cải cách ruộng đất) của Trung Quốc. Sau khóa học tập nầy, phái đoàn Việt Nam trở về liền tổ chức những thí điểm CCRĐ ở Việt Bắc và ở Thanh Hóa, nhưng không thành công. (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc hội, California: Nxb. Văn Nghệ [tái bản], 1995, tr. 164.) Vì vậy, VM chấn chỉnh tổ chức, chuẩn bị bài bản kỹ lưỡng hơn để tiếp tục CCRĐ từ năm 1953.

Tháng 1-1953, đại hội trung ương đảng CS, lúc nầy lấy tên là đảng Lao Động, quyết định phát động lại cuộc CCRĐ, với sự giúp đỡ mạnh mẽ của CSTQ. Lúc đó, bộ Tư lệnh cố vấn quân sự TQ lập thêm một ban mới là “Ban CCRĐ và củng cố đảng” do Zhang Dequn cầm đầu. Đảng CSTQ liền gởi thêm 42 chuyên viên CCRĐ để tăng cường công việc CCRĐ ở Việt Nam.

Từ đây, cuộc CCRĐ hoàn toàn theo đường lối CSTQ. Các chuyên viên CSTQ đã hướng dẫn kinh nghiệm thổ cải Trung Quốc, phân loại nông dân, thành lập nông hội, đưa nông dân nghèo vào trong Uỷ ban hành chánh và thi hành kế hoạch tam cùng (three together system) là cùng ăn, cùng ở, cùng làm để lấy lòng dân và thăm dò tin tức. Sau tam cùng, đến bắt rễ, xâu chuỗi, phân chia thành phần địa chủ theo nguyên tắc của Trung Quốc là trong một xã có bao nhiêu bần nông thì có bấy nhiêu địa chủ.

Để tuyên truyền, các cố vấn CSTQ cho chiếu bộ phim “Bạch mao nữ” (The White-Hair Girl) kể về cuộc sống đau khổ của một cô gái nghèo trong tay viên địa chủ ác độc nhằm kích động cán bộ. Quan trọng nhất là sắc lệnh CCRĐ ngày 4-12-1953 cấm đoán mọi sự phản kháng cuộc CCRĐ (điều 35) và quy định việc thiết lập tòa án nhân dân đặc biệt để xét xử những thành phần chống lại cuộc CCRĐ (điều 36). Các phương pháp đấu tố (đấu tranh tố cáo) như đấu lý, đấu lực, đấu pháp và đấu ảnh cùng các tòa án nhân dân cũng được thực hiện theo bài bản CSTQ. Cuộc CCRĐ đang tiến hành thì xảy ra trận Điện Biên Phủ và hội nghị Genève.

Đấu lý là đưa ra những bằng chứng (có thực hay bịa đặt) để tố cáo nạn nhân. Đấu lực là dùng sức mạnh tra khảo, trấn áp buộc nạn nhân phải nhận tội. Đấu pháp là đưa nạn nhân ra trước tòa án nhân dân, không có pháp luật mà chỉ do ban CCRĐ quyết định. Đấu ảnh trong trường hợp nạn nhân đã chết, đem hình ảnh hay một vật tượng trưng của nạn nhân ra đấu tố. (Vụ đấu ảnh nổi tiếng là vụ đấu tố Phan Bội Châu ở Nghệ An.)

Hội nghị Genève về Đông Dương khai diễn ngày 8-5-1954, một ngày sau khi liên quân Liên Hiệp Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ. Do thắng lợi trên chiến trường, phái đoàn VM tham dự hội nghị Genève do Phạm Văn Đồng tỏ rất rất cứng rắn, đưa ra nhiều đòi hỏi lớn lao, ngoài chủ trương của cả Trung Quốc lẫn Liên Xô. Trong lúc hội nghị tạm nghỉ họp vào cuối tháng 6-1954, Châu Ân Lai, thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc, trưởng phái đoàn Trung Quốc tại Genève, trở về nước, và mời hay đúng hơn là gọi Hồ Chí Minh sang họp tại Liễu Châu (Liuzhou) ở Quảng Tây (Kwangsi hay Guangxi).

Trong cuộc họp ba ngày tại Liễu Châu từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, Châu Ân Lai thuyết phục hay đúng hơn ra lệnh Hồ Chí Minh và chính phủ VM phải theo chủ trương của CSTQ, chấp nhận chia hai nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17, giải quyết riêng biệt chuyện Việt Nam, Cao Miên và Ai Lao. Thế là Hồ Chí Minh phải nghe theo, và chỉ thị ngay cho Phạm Văn Đồng sau khi nghỉ họp vào tối 05-07-1954. Chỉ thị nầy thường được gọi là chỉ thị 5/7 trong hồ sơ ngoại giao của CSVN. (Tiền Giang, sđd. chương 27 “Hội nghị Liễu Châu then chốt”.)

Ngang đây, có thể nói, Hồ Chí Minh và đảng CSĐD, rồi đảng Lao Động, hầu như lệ thuộc hẳn vào chủ trương chính trị của Liên Xô và nhất là của Trung Quốc. Trong Đại hội 2 của đảng CS vào tháng 2 năm 1951 tại Tuyên Quang, Hồ Chí Minh đã đặt tên mới cho đảng CSĐD là đảng Lao Động (LĐ), là tên do Stalin đặt. (Nguyễn Văn Trấn, sđd. tt. 149-150.)

Trong dịp nầy, Hồ Chí Minh phát biểu: "Về lý luận, đảng Lao Động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin.Về tổ chức, đảng Lao Động Việt Nam theo chế độ dân chủ tập trung, Về kỷ luật, đảng Lao Động Việt Nam phải có kỷ luật sắt, đồng thời là kỷ luật tự giác.” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 174.) Khi đó, đại biểu miền Nam là Nguyễn Văn Trấn đã trình bày với Hồ Chí Minh rằng: "Có đồng chí còn nói: hay là ta viết "tư tưởng Mao Trạch Đông và tư tưởng Hồ Chí Minh". Hồ Chí Minh trả lời: "Không, tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác- Lê nin." (Nguyễn Văn Trấn, sđd. tr. 151.) Cũng trong Đại hội nầy, Hồ Chí Minh nhiều lần tuyên bố: “Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể sai được.” (Nguyễn Minh Cần, Đảng Cộng Sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế, California: Nxb. Tuổi Xanh, 2001, tr. 63.) Một lần khác, có người đã hỏi Hồ Chí Minh vì sao ông không viết sách về lý thuyết cộng sản, thì ông trả lời ông không cần viết, vì đã có Mao Trạch Đông viết rồi. (Oliver Todd, "Huyền thoại Hồ Chí Minh", Nguyễn Văn dịch, đăng trong sách Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp, Nxb. Nam Á, Paris, 1990, tr. 277.)

KẾT LUẬN

Vào năm 1946, VM rất yếu kém, nhưng ở thế chẳng đặng đừng phải phát động cuộc chiến tối 19-12. Việt Minh rút lui vào các chiến khu trên rừng núi hay trong bưng biền. Lực lượng Pháp dần dần mở rộng vùng kiểm soát, VM càng ngày càng nao núng. Việt Minh đang trên đà suy sụp và có thể bị tiêu diệt.

Khi CSTQ thành công ở lục địa năm 1949, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc cầu viện và nhờ Trung Quốc mở đường, Hồ Chí Minh tiếp tục qua Liên Xô cầu viện. Liên Xô thỏa thuận để cho đảng CSTQ viện trợ cho VM. Viện trợ của Trung Quốc đã cứu sống VM và đảng CSĐD.

Trung Quốc viện trợ cho VM về mọi mặt, võ khí, quân nhu, quân dụng, chiến lược, chiến thuật, chính trị, kinh tế, thực phẩm… Trung Quốc trở thành hậu phương lớn cho VM trốn tránh, dưỡng quân, huấn luyện sĩ quan và bộ đội. Trung Quốc tạo thành một hành lang để VM có thể liên lạc ngoại giao và nhận viện trợ thêm từ các nước ở xa bên ngoài, như Liên Xô, các nước Đông Âu và các nước không liên kết… Cuối cùng, có thể nói chính Trung Quốc đã thắng cuộc chiến năm 1954 chứ không phải VMCS. Đồng thời, nhờ chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc dầu là một nước chậm tiến, lạc hậu, chưa được vào Liên Hiệp Quốc, nghiễm nhiên được ngồi ngang hàng với các cường quốc Anh, Pháp, Hoa Kỳ Liên Xô tại hội nghị Gèneve (1954).

Trong khi đó, cái giá phải trả cho việc Trung Quốc viện trợ cho VM là vô giá. Giới lãnh đạo bá quyền CSTQ nói rằng viện trợ không hoàn lại, nhưng trên thế giới nầy làm gì có chuyện cho không, biếu không? Phản bội tổ quốc, rước voi về giày mồ, Hồ Chí Minh, mặt trận VM, đảng CSĐD ăn cám trả vàng. Chỉ khổ một nỗi là người trực tiếp trả vàng lại là dân tộc Việt Nam.

Hồ Chí Minh phải chịu trách nhiệm toàn bộ những tội lỗi do chính Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản gây ra, từ việc Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, ký văn thư ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về lãnh hải của Trung Quốc và triệt để tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, cho đến chiến tranh biên giới năm 1979, hai hiệp ước nhượng đất và nhượng biển vào các năm 1999 và 2000, và ngày nay vụ Trung Quốc khai thác bauxite ở Cao nguyên Nam Trung Phần.

Trần Gia Phụng


Tóm tắt một số tội ác cộng sản Việt Nam - Phạm Bá Hoa

Phạm Bá Hoa

1. Cộng sản quốc tế.

Ông Mikhail Gorbachev, cựu Tổng Bí Thư đảng cộng sản Liên Xô phát biểu như lời tâm sự: “Tôi đã bỏ hơn nửa cuộc đời đấu tranh cho lý tưởng cộng sản, nhưng ngày nay tôi phải đau buồn mà nói rằng “cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo. Đó là lời tố cáo có thể xem là thành thật của một đảng viên cao cấp trong đảng cộng sản Liên Xô mà các nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam tôn vinh là thành trì vững chắc của chủ nghĩa xã hội toàn thế giới (cộng sản). Còn dưới đây là những con số nói lên một cách tổng quát về mức độ tàn bạo của các đảng cộng sản cai trị đồng bào của họ đã được phơi bày sau khi cộng sản Nga và khối cộng sản Đông Âu sụp đổ: (trích bài viết “Con số 100 triệu nạn nhân” của Lữ Giang ngày 25/6/2007)

Trong quyển “Death by Government” (Chết do chánh phủ), tác giả Rudolph J. Rummel, giáo sư khoa chính trị học đại học Yale, thì cộng sản tại các quốc gia đã giết chết đồng bào của họ, như sau: (1) Liên Sô 61.911.000 người. (2) Trung Hoa cộng sản 35.236.000 người. (3) Quân phiệt Nhật 5.964.000 người. (4) Khmer đỏ 2.035.000 người. (5) Thổ Nhĩ Kỳ 1.883.000 người. (6) Cộng sản Việt Nam 1.670.000 người. (7) Cộng sản Ba Lan 1.585.000 người. (8) Cộng sản Nam Tư 1.072.000 người.

Trong quyển “Livre Noir du Communisme” (Sách đen về chủ nghĩa cộng sản) tác giả Stéphane Courtoise, Giám Đốc Nghiên Cứu thuộc Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu Khoa Học của Pháp, nhận xét rằng: “Vượt trên mức độ tội ác cá nhân, các chế độ cộng sản củng cố quyền hành bằng cách nâng việc tàn sát quần chúng lên hàng chính sách cai trị. Sau một vài năm tại các quốc gia cộng sản vùng Đông Âu hay vài chục năm ở Liên Sô và Trung Hoa cộng sản, cường độ của sự khủng bố có bớt đi , chế độ tự ổn định bằng cách quản lý sự đàn áp thường ngày, sự kiểm duyệt mọi trao đổi tin tức, kiểm soát xuất nhập biên giới, trục xuất người ly khai. Nhưng ký ức về khủng bố tiếp tục đặt người dân trong tình trạng sợ hãi, và điều này rất hiệu nghiệm. Không một quốc gia cộng sản nào thoát khỏi qui luật đó, như Trung Hoa, Bắc Hàn, Cuba, Việt Nam chẳng hạn”.

Ngày 12/6/2007, tại Washington DC, Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush, chủ tọa lễ khánh thành Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (Victims of Communism Memorial). Đây là biểu tượng thảm họa kinh hoàng trong thế kỷ 20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói riêng. Từ nay, oan hồn của khoảng 100 triệu nạn nhân cộng sản -có cả nạn nhân Việt Nam thân yêu của chúng ta- được những thế hệ hôm qua, hôm nay, và những thế hệ mai sau tưởng nhớ. Tưởng nhớ để tận diệt chế độ này đến tận cùng gốc rễ, vì chế độ cộng sản đã lấy đi mạng sống của khoảng 100 triệu đàn ông đàn bà và trẻ con vô tội. Nhóm chữ nghiêng màu đỏ là lời lên án mạnh mẽ trong bài phát biểu của Tổng Thống Bush. Công trình Đài Tưởng Niệm bắt đầu với Điều 905 của đạo luật The Public Law 103-199 được Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua ngày 17/12/1993. Vì Quốc Hội không cấp tiền nên tiến sĩ Lee Edwards vận động từ các quốc gia từng bị cộng sản cai trị chung góp tài chánh, trong đó phần đóng góp của Cộng Đồng Việt Tị Nạn cộng sản tại Hoa Kỳ là 66.000 mỹ kim. Công trình xây dựng khởi công ngày 28/9/2006.

2. Cộng Sản Việt Nam

Lãnh đạo tự tôn.

Ông Hồ Chí Minh, Chủ Tịch đảng CSVN là con người vừa dối trá vừa tự cao hơn bất cứ ai khác. Bằng chứng là trong quyển “Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” xuất bản năm 1947 mà tác giả Trần Dân Tiên lại chính là Hồ Chí Minh. Trong đó Trần Dân Tiên tức Hồ Chí Minh, tự ca tụng ông là cha già dân tộc và tự tôn vinh ông vĩ đại hơn Bình Định Vương Lê Lợi (thế kỷ 15) vì ông đưa dân tộc vào kỷ nguyên xã hội chủ nghĩa. Chủ Tịch đảng mà tự tôn đến mức đó thì còn gì liêm sĩ. Khi con người nhất là con người lãnh đạo không có liêm sĩ thì tệ hơn người tệ nhất trong 86 triệu dân.

Bức tranh xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ sau 30/4/1975 đến năm 2000, được cựu Trung Tướng cộng sản Trần Độ “vẽ lại” trong tập nhật ký “Rồng Rắn” ngày 7/12/2000. Trong đó, ông tự hỏi: “Tại sao chiếm được miền Nam năm 1975, một nửa đất nước trù phú như vậy mà chỉ vài năm sau đã đưa cả nước vào tình trạng nghèo đói ngắc ngoải như vậy?”. Rồi ông mời gọi lãnh đạo của ông: “Hãy nhìn các nước Đài Loan, Đại Hàn, Singapore, Thái Lan, Mã Lai Á, chỉ cần 20-30 năm mà họ phát triển và nhân dân của họ có đời sống khá phong phú. Mấy nước này không có đảng cộng sản tài tình sáng suốt (như của Việt Nam), mà họ có những chính khách với những chính sách kinh tế xã hội thông minh và hiệu quả. Như vậy, chủ nghĩa xã hội chưa có chứng thực, và nó không thể là con đường duy nhất để phát triển đất nước”.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế hàng đầu của cs Việt Nam, đã nói trong phiên họp mật của Bộ Chính Trị cộng sản Việt Nam ngày 2/11/2004 rằng: “Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, nhưng mức độ tăng trưởng ấy chỉ là so với chính bản thân Việt Nam, vì nhìn ra chung quanh, rất nhiều quốc gia tăng trưởng nhanh hơn Việt Nam nhiều. Việt Nam ta không nên lớn giọng dạy bảo thiên hạ, không nên tự cho mình là đòn bẩy của thế kỷ, cũng không nên tự xưng mình làm xung kích cho lịch sử, vì những điều đó không giúp gì cho sự phát triển của đất nước. Với lại thế giới không có ai công nhận Việt Nam như vậy cả”.

Lãnh đạo độc tài.

Ông Nguyễn Tấn Dũng thay ông Phan Văn Khải trong chức vụ Thủ Tướng, có dư luận trong Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại nhất là trong vài tổ chức chính trị, có vẻ như chờ đợi Nguyễn Tấn Dũng trở thành một Gorbachev của Việt Nam, trong khi các tổ chức chính trị trong nước nhất là Khối 8406 không một đợi chờ nào như vậy. Hành động ngay khi nắm quyền, tân Thủ Tướng ra Nghị Định kiểm soát chặt chẻ hơn nữa các sinh hoạt truyền thông, internet, kể cả quyết định tuyệt đối cấm báo chí tư nhân. Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố dẹp tham nhũng, nhưng chưa có sự kiện nào chứng minh bước đầu thực hiện lời tuyên bố đó. Nếu ông ta thực sự quyết tâm đánh tham nhũng, ông ta có cơ hội bị tham nhũng hạ bệ, thậm chí có thể bị ám sát là đằng khác, vì tham nhũng là mục tiêu của các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam, trong đó có Nguyễn Tấn Dũng và gia đình ông.

Ngày 5/9/2006, CSVN tuyên bố hủy bỏ Nghị Định 31 về quản chế hành chánh (bắt giam tùy tiện) làm cho nhiều người trong Cộng Đồng tị nạn tại hải ngoại lẫn đồng bào trong nước tưởng như họ có bước tiến về dân chủ pháp trị, nhưng theo luật sư Lê Thị Công Nhân, hành động đó chẳng qua CSVN đem chôn một cái xác (NĐ 31) đã chết từ lâu. Vì ngày 1/10/2002 CSVN đã ban hành Pháp Lệnh “xử lý vi phạm hành chánh” chặt chẽ hơn Nghị Định 31 mà họ hủy bỏ. Trên nguyên tắc, Pháp Lệnh chỉ dưới Hiến Pháp và Luật, tức cao hơn Nghị Định, mà trong Pháp Lệnh này có đầy đủ những qui định trong NĐ 31. Chưa hết, tiếp theo Pháp Lệnh năm 2002 xử lý vi phạm hành chánh là Nghị Định 38/CP ngày 18/3/2005 về cấm tập họp đông người, và Nghị Định 56/CP ngày 6/6/2006 về kiểm soát văn hóa & thông tin, vừa chặt chẻ vừa tinh vi trong chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng toàn dân toàn đảng của họ (trích bài viết của luật sư Lê Thị Công Nhân ngày 11/11/2006 tại Hà Nội). Nguyễn Tấn Dũng vẫn là một đảng viên cộng sản cực đoan ở vị trí lãnh đạo độc tài toàn trị.

Ngày 27/8/2007 tại Tổng Cục Chính Trị CSVN Hà Nội, Nguyễn Minh Triết, Chủ Tịch nước CHXHCN Việt Nam tuyên bố rằng: “... Tôi khẳng định trước sau như một là chúng ta vẫn tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải xây dựng đảng của chúng ta. Dù ai nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ Điều 4 Hiến Pháp thì không có chuyện đó. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố tự sát, cho nên phải củng cố công tác tư tưởng, củng cố vai trò của đảng”. (trích bản tổng hợp 220 sự kiện về nhân quyền và chính trị tại Việt Nam năm 2007). Độc tài chuyên chính như vậy mà gọi là cấp tiến sao? Và chỉ riêng lời phát biểu ngắn ngủi trên đây của ông Triết, tôi nhận ra 4 điều: (1) NMT thừa nhận chế độ độc tài CSVN không được người dân ủng hộ, nên phải ra lệnh củng cố quyền lực của đảng để tiếp tục đàn áp dân trong khi vẫn khẳng định điều gọi là tiến lên chủ nghĩa xã hội. (2) Bỏ điều 4 trong Hiến Pháp là chế độ độc tài tan rã đến mức đảng viên trong Bộ Chính Trị phải tự sát, vì nếu không thì NMT và các đảng viên lãnh đạo khác không thể yên thân bởi khối dân oan hằng triệu hằng triệu người mà chế độ độc tài đã đẩy họ vào thảm cảnh đó. Bộ Chính Trị CSVN sợ mất quyền lực quyền lợi chớ không hề nói đến trách nhiệm của cấp lãnh đạo. (3)(4) NMT hoàn toàn là một đảng viên cộng sản cực đoan ở vị trí lãnh đạo độc tài toàn trị.

Lãnh đạo gian manh dối trá.

Tổng Bí Thư đảng CSVN Nông Đức Mạnh dối trá. Năm 2007, theo Công Đoàn Lao Động quốc doanh có đến 541 cuộc đình công với sự tham dự của khoảng 350.000 công nhân mà hầu hết không có giấy phép của nhà nước nên bị xếp vào loại “đình công bất hợp pháp”. Nhưng ngày 21/1/2008, Tổng Bí Thư đảng cộng sản Nông Đức Mạnh tuyên bố tại Quốc Hội của họ rằng: “Từ khi đảng ra đời đến nay, đảng luôn luôn là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, và của dân tộc, là đội tiên phong của giai cấp công nhân …” Đến ngày 30/1/2008, Thủ Tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng ký Nghị Định số 11 và 12, cấm đình công bất hợp pháp, đồng thời giao tòa án xét xử buộc công nhân phải bồi thường thiệt hại cho chủ trong các cuộc đình công đó. Nói đảng cộng sản là đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhưng làm thì đàn áp công nhân để bảo vệ chủ nhân. Đến ngày 16 & 17/6/2008, hội nghị “Đoàn Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam” họp tại Hà Nội, ông Mai Đức Chính, Phó Chủ Tịch tổ chức này cho biết từ đầu năm 2008 đến nay (gần 6 tháng) đã có 330 cuộc đình công và tất cả các cuộc đình công này đều phạm pháp.

Chủ Tịch nước Nguyễn Minh Triết dối trá. Sau chuyến sang Hoa Kỳ từ 18 đến 23 tháng 6/2007, báo Nhân Dân Điện Tử CSVN ngày 4/7/2007 giới thiệu một đoạn về lời ông Triết trả lời phỏng vấn khi phóng viên đài CNN Hoa Kỳ hỏi về vụ bắt Linh Mục Nguyễn Văn Lý đưa ra tòa án phạt tù: “Ông ta (tức LM Lý) vi phạm pháp luật Việt Nam. Đây hoàn toàn là vấn đề pháp luật, không phải là vấn đề tôn giáo. Việc xét xử ông ta được Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và tòa thánh Vatican cũng đồng tình với chúng tôi”. Thế nhưng ngày 7/7/2007, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam công khai lên tiếng phản bác lời của Nguyễn Minh Triết hoàn toàn không hề có sự thật đó, và Nguyễn Minh Triết không hề lên tiếng khi phát biểu của ông ta bị phản bác. Khi “không có sự thật” có nghĩa là dối trá. Chủ Tịch nước mà dối trá trắng trợn như vậy thì còn gì để phê phán mà chỉ triệt tiêu thôi.

Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng mưu mẹo dối trá. Sau khi thế giới đánh giá cộng sản Việt Nam (CSVN) tổ chức đại hội APEC thành công, được gia nhập WTO, nhất là được Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ thương mãi cùng lúc rút tên cộng sản Việt Nam ra khỏi danh sách CPC, Nguyễn Tấn Dũng thẳng tay đàn áp các nhân vật đấu tranh ôn hòa cho nền dân chủ thật sự trên toàn cõi Việt Nam. Điển hình là linh mục Nguyễn Văn Lý, luật sư Nguyễn Văn Đài, luật sư Lê Thị Công Nhận, Lê Trí Tuệ, Nguyễn Phong, ..v..v… Với trò đê tiện của lãnh đạo CSVN, ngày 16/3/2007, gọi kỹ sư Đỗ Nam Hải đến trụ sở Công An Quận Phú Nhuận làm việc gần như trọn ngày. Tại đây, có mặt các sĩ quan từ Bộ Công An Hà Nội vào từ Sở Công An đến, gia tăng áp lực. Vẫn không thành công, họ đã áp tải cha, chị, và con gái của anh Hải đến trụ sở, dùng tình cảm gia đình tạo áp lực buộc kỹ sư Hải phải ký giấy ngưng hoạt động chống đối đảng với nhà nước cộng sản. Kỹ sư Phương Nam Đỗ Nam Hải đã nói với họ: “Các anh hèn lắm”.

Tác giả Lê Thiên trong bài “Nhận Diện Bản Chất Dối Trá Của CSVN”. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, một trí thức từ Pháp về Hà Nội “phục vụ quê hương” có tên Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa dưới chế độ cộng sản mà Hồ Chí Minh là người lãnh đạo. Năm 1956, tức sau mấy năm làm việc cho cộng sản, ông bị nhà nước cộng sản đày đọa chỉ vì ông dám lên tiếng góp ý những sai sót trong cấu trúc xã hội xã hội chủ nghĩa. Vào cuối đời, trong quyển “Kẻ Bị Khai Trừ”, luật sư Tường nói lên ẩn ức của ông rằng: “Cộng sản sống bằng sự dối trá, giả hình, nhưng cái sai lầm là nó đặt sự tàn bạo của nó trên những vẻ bề ngoài hư ảo mà nó giải thích theo ý của nó để tiêu diệt những kẻ mà nó gọi là kẻ thù”…. “Thế giới Việt Nam cũng như cả thế giới cộng sản là cái thế giới đóng cửa, và bên trong cái thế giới đó, người ta tự cho phép bách hại con người không thể tưởng tượng được vì nó vô cùng dã man điên rồ và bỉ ổi. Trong cái hỏa ngục đó, thường xuyên diễn ra những tội ác chỉ có trong thời kỳ thế mạt, không còn nhân phẩm nhân tính”.

Trong quyển “Đồng bằng Gai Góc”, tác giả Xuân Vũ, một cựu cán bộ thời kháng chiến, xác định: “Đảng cộng sản sinh ra để làm hai việc: Nói láo và làm bậy. Hễ chúng nói là nói láo, hễ chúng làm là làm bậy”…. “Bàn tay ác hại của đảng cộng sản mó tới đâu thì máu đổ tới đó. Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, có thể sai nhiều điều nhưng chắc chắn ông luôn luôn đúng khi ông nói với người dân rằng: Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”.

Trong bài “Sức Nén Của Ngôn Từ”, tiến sĩ cộng sản Hà Sĩ Phu viết: “Những danh từ như cách mạng, như dân chủ, ..v..v.. thật tối thiêng liêng. Nếu lãnh đạo không vì Nhân Dân, không vì Tổ Quốc, mà để cho chủ nghĩa cá nhân ỷ thế ỷ quyền hại dân hại nước, thì miệng người đời ngọng gì mà không kèm chữ “đểu” theo sau chức vụ hay tên của những người lãnh đạo đó. Hằng mấy chục năm trời dưới chế độ độc tài, người dân mới nén được chữ đểu vào những chức vụ lãnh đạo, như: lãnh đạo đảng đểu, lãnh đạo nhà nước đểu, lãnh đạo quốc hội đểu, lãnh đạo công an đểu, ..v..v.. , để chỉ những người tự xưng làm cách mạng mà hành động toàn là phản cách mạng”. Đến đây ông Hà Sĩ Phu nhớ đến câu đối mà ông cho là cô đọng nhất và khó đối nhất, nhưng diễn đạt chính xác nhất. Ông Phan Hiền, đăng trên báo quân đội nhân dân cộng sản, như thế này: ”Sai đâu sửa đấy, sai đấy sửa đâu, sửa đâu sai đấy”.

Trong nhật ký “Rồng rắn” của cố Trung Tướng cộng sản Trần Độ, có đoạn: Lãnh đạo CSVN Việt Nam kiên trì chế độ “đảng duy nhất lãnh đạo”, lại nhấn mạnh đến nguyên tắc “tập trung dân chủ”, rồi buộc mọi người phải tuyệt đối phục tùng. Từ đó sản sinh ra bộ máy văn hóa thông tin với 6-700 tờ báo và hằng trăm đài phát thanh phát hình, một hệ thống trường học để nhồi nhét chính trị vào đầu học sinh sinh viên, hằng ngàn báo cáo viên với những con người “lưỡi gỗ” chuyên dùng dối trá lừa bịp để mê hoặc nhân dân. Bộ máy này được trang bị mọi thứ cần thiết và có đủ quyền lực để tạo nên một xã hội mà mọi người sống với nhau toàn gian dối. Đảng đã và đang thực hiện đường lối độc đảng và độc tài của một chế độ phản dân chủ, nhưng lãnh đạo cùng bộ máy thông tin hùng hậu lại luôn luôn nói đến dân chủ, nói đến quyền làm chủ của nhân dân. Đó là lừa bịp, là dối trá. Điều 4 của Hiến Pháp bắt nhân dân phải chấp nhận sự lãnh đạo duy nhất của đảng, trong khi Hiến Pháp có những điều khoản nói về quyền dân chủ của dân, nhưng 3 điều dân chủ căn bản là tự do ngôn luận, tự do bầu cử, và tự do lập hội, thì bị chôn vùi bởi những đạo luật rất ư là phản động với những thủ đoạn bỉ ổi!

Trong một đoạn khác: “Cho đến nay đã gần 30 năm (năm 2000) rồi mà ngày đêm vẫn phất cờ đánh trống, ngày đêm hò hét biểu dương, và cũng ngày đêm võ vẽ các thành tựu nhân dân ta làm ra, rồi dồn vào cái túi sáng suốt, cái túi tài tình của đảng cộng sản. Lúc nào cũng bắt nhân dân tung hô, chào mừng, ca ngợi. Chào đón mùa Xuân cũng phải chào mừng đảng. Kỷ niệm nông dân phụ nữ thanh niên, cũng biểu dương đảng, và tung hô đảng là nguyên nhân của thắng lợi. Lễ hội tưởng nhớ tổ tiên cũng phải biểu dương đảng, chào mừng đảng. Đám cưới đám ma cũng phải tưởng nhớ và chào mừng đảng. Có câu ca dao tuyệt vời đủ nói lên chân lý của thời đại: “Mất mùa thì tại thiên tai, được mùa là bởi thiên tài đảng ta! Mỗi người cộng sản có lương tâm phải biết xấu hổ về cái chân lý đó”.

Cựu Đại Tá cộng sản Phạm Quế Dương, cựu Tổng Biên tập tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử Quân Độ Nhân Dân, đã nói: “Cộng sản vừa bất tài vừa bất lực, vừa bất lương”.

Ngày 20/5/2006, ông Trần Quốc Thuận, Phó chủ nhiệm văn phòng Quốc Hội CSVN, trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên rằng: “Cơ chế hiện nay tạo kẽ hở cho tham nhũng vơ vét tiền của của nhà nước. Không tham nhũng mới là điều lạ. Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là tiền dù số tiền bị mất lên đến hằng chục hằng trăm tỷ, mà cái lớn nhất bị mất là đạo đức. Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày trở thành thói quen, rồi thói quen đó lặp lại nhiều lần thành đạo đức, mà cái đạo đức đó rất mất đạo đức. Đó là một nguy cơ nhưng tôi thấy chẳng mấy người quan tâm mà chỉ chăm chú vào tham nhũng.

Thời gian cuối đời (năm 2006) của Đại Tá nhà văn cộng sản Nguyễn Khải, một thời là Đại Biểu Quốc Hội, Phó Tổng Thư Ký Hội Nhà Văn CSVN, qua bài viết “Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất”, ông dám bộc lộ cái nhìn chân thật của mình về bản thân của ông và về chế độ cộng sản mà trước đó ông đã tham gia đấu tranh giai cấp một cách cuồng nhiệt. Theo ông Khải, ngôn từ là mặt yếu nhất trong các lãnh vực thượng tầng cấu trúc tại các nước xã hội chủ nghĩa, vì lãnh đạo các nước đó dùng ngôn từ để che đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc giao tiếp để che đậy, tức là nói vậy nhưng không phải vậy. Nó là cái võ cứng để bảo vệ hiệu quả những bất trắc mà lãnh đạo các cấp trong bộ máy quyền lực thường sử dụng. Người cộng sản nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói dối không hề biết xấu hổ, cũng không hề run sợ, vì họ biết rằng người dân không bao giờ dám hỏi lại bởi đó là tối kỵ. Về phía người dân, cũng thừa biết lời lẽ lãnh đạo của họ là dối trá nên chẳng cần phải hỏi mà hãy làm theo ý mình là mình cũng sẽ dối trá để che đậy nếu như nhà cầm quyền hỏi. Nhưng tại sao người dân phải dối trá? Tại vì các cấp lãnh đạo dạy dỗ người dân dối trá và ép người dân phải dối trá như họ. Vậy là lãnh đạo lẫn người dân đều dối trá để che đậy, và che đậy cái gì đó tất nhiên là xấu xa hèn hạ.

Theo bảng xếp hạng về “tự do báo chí” của Worldwide Press Freedom Index 2008 thì các quốc gia cộng sản cùng trong nhóm cuối bảng tổng xếp hạng: Trung Hoa 167/173, Việt Nam 168/173, Cuba 168/173, và Bắc Hàn 172/173.

Lãnh đạo vi phạm nhân quyền.

Ngày 1/12/2005, tại trụ sở Quốc Hội Âu Châu ở Brussels, 730 Dân Biểu của 25 quốc gia khu vực Đông Âu, Tây Âu, và Bắc Âu, bao gồm nhiều đảng phái chính trị với những khuynh hướng khác nhau, đã đồng thuận khi biểu quyết một Quyết Nghị, đòi lãnh đạo CSVN phải thực hiện không chậm trễ, việc trả tự do cho các nhân vật bất đồng chính kiến, đặc biệt là đòi Việt Nam phải tổ chức bầu cử tự do trên căn bản đa đảng. Đồng thời, thực hiện quyền tự do báo chí. Ông Ian Pearson, Bộ Trưởng Thương Mại & Đặc Trách Nhân Quyền Bộ Ngoại Giao Anh quốc, đang là Chủ Tịch luân phiên của Liên Hiệp Âu Châu, phát biểu sau khi Nghị Quyết được thông qua: “Tôi chào mừng sự quan tâm của Quốc Hội Âu Châu trên vấn đề hôm nay. Đặc biệt là cuộc điều trần quan trọng ngày 12 tháng 9 năm 2005 dẫn đến Nghị Quyết này. Tôi biết rất rõ về tình trạng vi phạm nhân quyền trầm trọng tại ba nước Việt Nam, Cam Bốt, và Lào. Ví dụ như tại Bộ Ngoại Giao, trong năm nay đã nhận được 100 thư khiếu nại của các Dân Biểu Anh quốc về những vụ vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Tôi mừng rằng, sau cuộc điều trần nói trên, nhà cầm quyền Việt Nam đã để cho Liên Âu gặp thăm Hòa Thượng Thích Quảng Độ. Tôi sẽ nêu vấn đề này và đưa ra một danh sách tù nhân phải được trả tự do, trong cuộc gặp gỡ và đối thoại về nhân quyền với phái đoàn nhà cầm quyền Việt Nam vào ngày 12 tháng 12 sắp tới (2005)”

Ngày 25/1/2006, Nghị Viện Châu Âu tại Strasbourg đã đưa ra Nghị Quyết 1481, lên án “chủ nghĩa cộng sản là tội ác chống nhân loại và các chế độ toàn trị cộng sản đã vi phạm nhân quyền tập thể”. Trong điều 2 ghi rằng: “Những vi phạm khác nhau tùy theo nền văn hoá và những giai đoạn lịch sử: (1) Những hành vi từ ám sát, hành quyết, bỏ đói, đày ải, đến khủng bố, tra tấn cá nhân lẫn tập thể trong các trại tập trung. (2) Những hành vi ngược đãi vì chủng tộc hay tôn giáo, từ tự do tư tưởng, tự do phát biểu, tự do báo chí, đến tự do lương tâm, và độc đảng chính trị”. Trong điều 5 ghi rằng: “Cần thiết phải điều tra và truy tố những tội phạm ra tòa án xét xử”.

Ngày 15/3/2007, phái đoàn Nhân Quyền Na Uy có tên là “Rafto Foundation for Human Rights” do Cô Therese Jebsen hướng dẫn sang Việt Nam, với mục đích thăm Hòa Thượng Thích Quảng Độ và trao giải thưởng Nhân Quyền mà Ngài được tổ chức này quyết định trao tặng hồi tháng 11/2006. Cùng đi, còn có ông Tom Rune Orset, thông tín viên đài truyền hình TV2 của Na Uy, và cô Kiều Trần với trách nhiệm thông dịch. Công An đã ngăn chận, chẳng những không cho phái đoàn vào Thanh Minh Thiền Viện, mà còn đưa phái đoàn về trụ sở Công An “làm việc” mấy tiếng đồng hồ. Sau đó, Công An gọi cô Kiều Trần đến trụ sở làm việc, nhưng Cô Trưởng phái đoàn không đồng ý vì Cô nghi ngờ họ hành động gian trá đối với cô Kiều Trần.

Ngày 12/7/2007, Quốc Hội Châu Âu trụ sở tại Strasbourg đã thông qua “Quyết Nghị về vấn đề Việt Nam” sau khi nghe một số Dân Biểu Tây Âu & Đông Âu trình bày về đàn áp nhân quyền và tôn giáo tại Việt Nam, đặc biệt là đàn áp 20 Ban Đại Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, điều luật an ninh quốc gia trong Bộ Luật Hình Sự trái với Công Ước quốc tế, Pháp Lệnh 44 xử lý hành chánh ban hành năm 2002 cho phép đưa các nhân vật bất đồng chính kiến vào bệnh viện tâm thần như kiểu Xô Viết ngày trước.

Trong quyển “Death by Government” giáo sư R.J. Rummel viết như sau: “Dưới lớp võ Việt Minh chống Pháp, cùng lúc họ thực hiện cuộc chiến tranh tàn sát những người quốc gia không cùng đường lối với họ. Chưa hết, họ cũng tiêu diệt những người cùng trong hàng ngũ khi họ xem những người cộng sản đó chệch hướng”.

Riêng nạn nhân trong chính sách cải cách ruộng đất, theo nhật báo “Nhân Dân” của CSVN ngày 20/7/1955, sau 6 đợt cải cách ruộng đất có 10.303.004 nạn nhân. Theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan. (trích bài “Con Số 100 Triệu Nạn Nhân” của ông Tú Gàn ngày 25/6/2007)

Ngày 23/1/2008, tại Strasbourg, Quốc Hội Châu Âu đã thông qua Quyết Nghị về Việt Nam. Quyết Nghị tố cáo CSVN vi phạm nghiêm trọng tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do hội họp, đàn áp bắt giam những người lên tiếng về tự do tôn giáo, về chống hành vi lấn chiếm lãnh thổ, và bắt giam các nhà báo. Quyết Nghị kêu gọi Liên Hiệp Châu Âu “đề xuất với CSVN chấm dứt tình trạng vi phạm qui mô về nhân quyền trước khi ký kết các Hiệp ước mới”.

Ngày 2/3/2009, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ công bố tình hình nhân quyền thế giới, trong đó có phần nói về nhân quyền tại Việt Nam trong năm 2008: “Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với dân số khoảng 86 triệu người, là một quốc gia độc đoán do đảng cộng sản Việt Nam cai trị. Cuộc bầu cử tháng 5/2007 đã diễn ra trong không khí thiếu tự do, không công bằng, vì tất cả ứng viên bị xem xét nghiêm ngặt bởi Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, tổ chức ngoại vi của đảng CSVN có nhiệm vụ theo dõi các tổ chức quần chúng. Trong năm qua (2008), nhà cầm quyền tiếp tục ngăn chận các quyền tự do căn bản như tự do báo chí, tự do bày tỏ cảm nghĩ, tự do hội họp, cùng với hành động đàn áp những người bất đồng chính kiến, bắt giữ các nhà dân chủ khiến nhiều người phải ra đi lánh nạn. Người dân không thể thay đổi chánh phủ bằng lá phiếu vì các hoạt động chính trị bị ngăn cấm hoàn toàn”.

Ngày 09/03/2009, tổ chức Freedom House công bố tại Genève (Thụy Sĩ) bản phúc trình hằng năm về tình trạng nhân quyền thế thế giới. Bản phúc trình chia các quốc gia được đánh giá tình trạng nhân quyền trong năm 2008 làm 3 nhóm khác nhau: Nhóm thứ nhất là các quốc gia hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn về có tự do nhân quyền trong suốt một phần tư thế kỷ qua, trong đó có Hoa Kỳ, Canada, Anh, Đức, Pháp, Nhật, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Australia, Italy, …… Nhóm thứ hai là các quốc gia có tự do chừng mực về nhân quyền , là Thái Lan, Singapore, Phi Luật Tân, Trung Hoa cộng sản, Iraq, …. Và nhóm thứ ba là các quốc gia hoàn toàn không có tự do về nhân quyền, gồm Việt Nam, Cam Bốt, Á Rập Xê Út.

Một chế độ mà từ Chủ Tịch đảng, xuống Tổng Bí Thư, đến Chủ Tịch nước, Thủ Tướng chánh phủ, tự tôn vinh là người vĩ đại, là đỉnh cao trí tuệ, là tài tình sáng suốt, là tuyệt đối đúng, lại dối trá kèm theo những mưu mẹo vặt trong toàn bộ chính sách độc tài cai trị dân từ thể xác đến tinh thần, quả là dân tộc Việt Nam vô cùng bất hạnh! Từ bản chất độc tài gian dối đó, các nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã gây ra vô vàn tội ác với dân với nước mà 4 tội ác dưới đây là tiêu biểu mạnh mẽ:

a. Tội ác về giáo dục.

Trên Vietnam Net ngày 7/6/2008 có bài “Nhìn thẳng vào khủng hoảng giáo dục Việt Nam” của giáo sư Hoàng Tụy. Ông nhận định sắt bén: “Dù bảo thủ đến đâu, Bộ Giáo Dục & Đào Tạo cũng như bất cứ ai đều không thể làm ngơ trước nhiều vấn nạn giáo dục đã và đang làm đau đầu cả xã hội. Chính Thủ Tướng Phan Văn Khải khi từ nhiệm đã thừa nhận chánh thức sự không thành công của giáo dục, đến nay thực trạng nghiêm trọng của giáo dục Việt Nam vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Nhiều người có trách nhiệm vẫn tự ru ngủ mình với những thành tựu thực và ảo của giáo dục. Nếu Việt Nam cô lập với thế giới thì không đến nỗi quá lo lắng, nhưng nếu khách quan và có trách nhiệm khi đặt giáo dục trong bối cảnh toàn cầu, thì không thể nhắm mắt trước sự tụt hậu ngày càng xa của giáo dục Việt Nam so với các quốc gia chung quanh. Thực tế, đất nước ngàn năm văn hiến này đang trả giá nặng nề cho sự suy thoái nghiêm trọng của giáo dục kéo dài suốt 30 năm qua ”.

Trong đoạn khác, ông nhấn mạnh: “Những sai lầm trong giáo dục do tư duy xơ cứng mà 20 năm qua không hề thay đổi. Nền giáo dục chân chính của quốc gia nào cũng có sứ mạng cao cả về giáo dục con người trong một xã hội lành mạnh với cuộc sống trung thực và óc sáng tạo để góp phần phát triển đất nước. Nhưng tiếc thay, những điều đó đã không đuợc chú ý trong xây dựng nền giáo dục Việt Nam. Ngày nay, môi trường quốc tế đã biến đổi cực kỳ sâu sắc trong khi Việt Nam vẫn dựa vào kinh nghiệm giáo dục tư tưởng chính trị thời đấu tranh giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự giả dối lan tràn trong giáo dục tại Việt Nam”.

Tóm tắt bài viết “Giáo dục Việt Nam dưới nét nhìn của một người Mỹ” do ông Nguyễn Gia Thưởng chuyển ngữ, trích trong trang Web của nhóm Thông Luận ngày 23/8/2008. Nội dung bài này là đề tài thảo luận khi Thủ tướng đảng cộng sản Nguyến Tấn Dũng gặp Tổng Thống Bush tháng 6 năm 2008 tại Washington DC.

“Việt Nam đang đối mặt với cuộc khủng hoảng toàn diện về giáo dục: Viên chức không được đào tạo quản trị. Nhà giáo được đào tạo rất kém với đồng lương quá thấp. Cơ hội học đại học rất hạn hẹp vì cơ sở không phát triển, số giảng viên giảng sư không gia tăng, bằng chứng là năm 2007 các trường đại học chỉ tuyển 300.000 sinh viên trong tổng số 1.800.000 thí sinh. Mặt khác, số lượng sinh viên ghi tên vào ngành giáo dục chỉ 10%, trong khi Trung Hoa cộng sản 15%, Thái Lan 41%, Đại Hàn 89% (thống kê của Ngân Hàng Thế Giới). Bằng tiến sĩ thì mua, còn giáo sư thì được đề cử qua thủ tục hành chánh chớ không do công trình và sự nghiệp sư phạm. Nạn tham nhũng tràn lan chẵng khác bệnh ung thư trong ngành giáo dục. Việt Nam thua kém các quốc gia chung quanh về việc cung ứng hiểu biết và canh tân giáo dục, khi nhìn vào số lượng tập san khoa học do các trường đại học ấn hành. Năm 2006, hai đại học lớn nhất Việt Nam là đại học quốc gia và đại học kỹ thuật Hà Nội ấn hành 34 tập san, trong khi đại học quốc gia Seoul (Đại Hàn) là 4.556 và đại học Bắc Kinh gần 3.000 tập san khoa học. Cũng trong năm 2006, về đơn xin bằng sáng chế của Việt Nam chỉ nộp có 2 đơn, trong khi Trung Hoa cộng sản đến 40.000 đơn. Số sinh viên từ các trường đại học Việt Nam có trình độ rất kém, bằng chứng là một công ty kỹ nghệ Hoa Kỳ phỏng vấn 2.000 sinh viên Việt Nam vừa tốt nghiệp đại học được xem là giỏi nhất trong tổng số, kết quả là công ty này chỉ chọn được 40 thí sinh có trình độ tối thiểu. Tình trạng giáo dục Việt Nam có thể phá hỏng những phát triển kinh tế trong nước và tiến trình hội nhập thế giới”.

Sau buổi họp ngày 11/9/2008 tại Hà Nội, CSVN yêu cầu Hoa Kỳ trợ giúp đào tạo 10.000 tiến sĩ tính đến năm 2020, theo bài viết của Mặc Lâm phóng viên đài RFA, thì giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, Giám Đốc Điều Hành Quỹ Học Bổng đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ của Vương Quốc Bỉ tại Việt Nam, cho biết: “Với tư cách là một nhà giáo, với tư cách là một người có nhiều năm đào tạo các tiến sĩ, con số đưa ra (10.000 tiến sĩ) lớn lao như vậy, sẽ có những khó khăn trước mắt. Theo kinh nghiệm của tôi, ở Việt Nam rất khó tìm được những đối tượng đủ khả năng để theo học bằng tiến sĩ. Bằng chứng là chúng tôi có một dự án đào tạo 50 tiến sĩ giữa đại học Liège của Bỉ với đại học Xây Dựng Hà Nội, nhưng đã 5 năm qua rồi mà chúng tôi chỉ tìm được chưa tới 10 người thì làm sao tìm đâu ra con số 10.000 người trong 12 năm tới. Bậc tiến sĩ không phải chỉ có tài chánh là đủ, mà vấn đề là phải có những học sinh có đủ tư duy, có đủ trình độ để theo học, có một đam mê nào đó mới có thể đạt đến bằng tiến sĩ nghiêm túc như ở Hoa Kỳ, hay ở các đại học Châu Âu. Nói chung là tìm đối tượng tại Việt Nam theo học tiến sĩ là rất rất khó”.

Trong suốt chiều dài hơn 30 năm kể từ khi chiếm xong Việt Nam Cộng Hòa năm 1975 đến nay, nền giáo dục Việt Nam và các vấn đề liên quan rất tồi tệ, dù rằng từ năm 2001 đến nay mức phát triển kinh tế phát triển trên dưới 7% mỗi năm. Lãnh đạo CSVN chỉ chú trọng làm ra khẩu hiệu chớ không làm ra chính sách, vì chính sách giáo dục từ nửa cuối thế kỷ 20 đến nay là đầu thế kỷ 21 chỉ có mục đích đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ. Xuyên qua nhận định của những viên chức hàng lãnh đạo giáo dục Việt Nam, cũng như nét nhìn từ viên chức giáo dục Hoa Kỳ, sự thật tồi tệ hiện nay đến mức lãnh đạo CSVN không thể che giấu nỗi nên phải nhìn nhận sự thật mà bản chất của đảng cộng sản vốn dĩ là dối trá che giấu. Đây là tội ác nặng nhất trong số những tội ác mà dân gian gọi là “trời không dung đất không tha”, bởi vì xã hội Việt Nam hiện nay là một xã hội băng hoại đạo đức, đảo lộn luân thường đạo lý, dẫn đến tình trạng sau khi chế độ cộng sản độc tài sụp đổ, ít nhất phải hai thế hệ sau đó mới hy vọng khôi phục lại được nét tinh hoa văn hoá dân tộc.

b. Tội ác về lãnh thổ.

Ngày 14/9/1958, Thủ Tướng CSVN Phạm Văn Đồng ký văn kiện ngày 14/9/1958, công nhận vùng Biển Đông bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trở thành lãnh thổ của nước Trung Hoa. Đây là hành động chư hầu của nhóm lãnh đạo VNCS đối với THCS chẳng khác thời phong kiến xa xưa trong lịch sử! Với văn kiện này không thể do ông Thủ Tướng họ Phạm quyết định mà phải là lệnh của Bộ Chính Trị do ông Hồ lãnh đạo. Từ đó khẳng định ông Phạm ký văn kiện đó là theo lệnh ông Hồ.

Ngày 30/12/1999, Lê Khả Phiêu, Tổng Bí Thư đảng CSVN ký Hiệp Ước dâng 789 cây số vuông dọc biên giới để trừ nợ mua vũ khí đạn dược sử dụng trong chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa 1955-1975, là hành động cắt đất bán cho THCS!

Ngày 25/12/200, ông Trần Đức Lương đến Bắc Kinh cùng Giang Trạch Dân ký Hiệp Ước cắt 11.362 cây số vuông trên vịnh Bắc Việt cho Trung Hoa cộng sản, là hành động cắt biển bán cho THCS để lấy 2.000.000.000 mỹ kim, mà theo lời ông Lương để “vuốt ve” sức phản kháng của ông Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, và những người khác trong Quốc Hội. Phải viện dẫn lý do thăm viếng, vì sau khi những tin tức loan truyền khá rộng rãi tại Hà Nội, loan dần vào miền Nam về Hiệp Ước ngày 31/12/1999 bán đất cho THCS và đã âm thầm đưa Hiệp Ước ra Quốc Hội phê chuẩn ngày 9/6/2000. Với hành động không công khai minh bạch, chứng tỏ lãnh đạo VNCS biết những hành động đó là hành động tội ác nên phải che giấu người dân dưới quyền. Biết vậy mà vẫn hành động, chính xác là lãnh đạo VNCS đặt quyền lợi đảng cộng sản Việt Nam lên trên quyền lợi tổ quốc quyền lợi dân tộc, vì quyền lợi của đảng đồng nghĩa với quyền lợi riêng tư của nhóm lãnh đạo hơn 100 đảng viên trong ban chấp hành trung ương của họ.

Vậy là, ngoài nhóm 4 tên lãnh đạo với tội ác nói trên đã bán đất bán biển cho THCS, thêm nhóm lãnh đạo với tội ác thỏa hiệp cho THCS sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào quận Tam Sa tỉnh Hải Nam hồi đầu tháng 12/2007. Rồi tội thêm tội khi họ sử dụng “hung thần” Công An ngăn chận thanh niên sinh viên học sinh biểu tình ngày 9 & 16/12/2007 phản đối THCS chiếm hai quần đảo nói trên của Việt Nam. Chưa hết, lại tội thêm tội khi các thành phần phẫn uất hành động của THCS lẫn phản ứng của VNCS chuẩn bị mít tinh biểu tình trước tòa đại sứ THCS vào ngày 14/9/2008, phản đối chúng trưng dẫn văn kiện của Phạm Văn Đồng gởi THCS vào ngày này 50 năm trước, lại bị đám “hung thần” Công An tại Hà Nội cũng như tại các địa phương, ra sức ngăn chận bắt giữ thẩm vấn những ai mà họ nghi sẽ tham gia mít tinh biểu tình. Nhóm lãnh đạo tội ác này là Nguyễn Minh Triết trong chức Chủ Tịch nước và Nguyễn Tấn Dũng trong chức Thủ Tướng.

Với những hành động gian trá giấu diếm khi ký ba văn kiện ngày 14/9/1958, ngày 30/12/1999, ngày 25/12/2000, cộng với những hành động gian trá của Quốc Hội khi phê chuẩn hai Hiệp Ước nói trên, cộng thêm sự thỏa hiệp để Trung Hoa cộng sản thành lập huyện Tam Sa bao gồm Hoàng Sa Trường Sa của Việt Nam, lại còn sử dụng Công An đàn áp những ai thể hiện ý thức chính trị ôn hòa qua hành động mít tinh biểu tình phản đối hành động của THCS lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam, đích danh Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, là những tên bán đất bán biển cho THCS, một quốc gia với chiến lược trường kỳ xâm chiếm Việt Nam chúng ta! Chỉ riêng cái tội kinh hoàng này mà dân gian gọi là “trời không dung đất không tha”, đã quá đủ để đưa những tên này ra tòa án quốc gia phán xét, và lưu mãi trong sử sách truyền mãi trong dân gian cho đến ngàn năm sau như những tên bán nước từ ngàn năm trước. Kẻ bán nước không được gọi bằng ông hay bất cứ cách gọi nào khác dành cho người tử tế cho dù họ bao nhiêu tuổi.

Chưa hết, tháng 12 năm 2008, Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố rằng: “Khai thác quặng Bauxite là chủ trương lớn của đảng” (mà đảng là nhóm lãnh đạo)”. Thỏa hiệp này cho Trung Hoa cộng sản đưa hằng ngàn thậm chí là hằng chục ngàn công nhân và lực lượng quân đội dưới danh nghĩa bảo vệ an ninh vùng khai thác quặng Bauxite trên Cao Nguyên miền Trung tạo môi trường sống vùng này trở nên tồi tệ. Và tồi tệ hơn hết nếu giả thuyết sau đây rất có thể trở thành sự thật là một lực lượng quân đội THCS sẽ đồn trú dài hạn nơi đây dưới danh nghĩa nào đó mà lãnh đạo VNCS không thể khước từ do lệ thuộc THCS”.

Nước Việt Nam ta qua nhiều ngàn năm lịch sử với biết bao thăng trầm vinh nhục, nhưng chưa có triều đại nào cũng chưa có nhóm lãnh đạo nào tồi tệ đê hèn như nhóm lãnh đạo Việt Nam cộng sản, đã vì quyền lợi riêng tư mà dâng nộp cho Trung Hoa cộng sản 789 cây số vuông (năm 1999) trên dãi đất biên giới, 11.362 cây số vuông (năm 2000) trong vùng vịnh Bắc Việt, và mặc nhiên thỏa hiệp cho Trung Hoa cộng sản sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vào huyện Tam Sa của Trung Hoa cộng sản (2007), cộng với nhiều ngàn công nhân lẫn đơn vị quân đội THCS trong khu vực khai thác quặng mõ Bauxite vùng Dak Nong Cao Nguyên Miền Trung (năm 2008). Đây là tội ác ngang hàng với tội ác giáo dục

c. Tội ác tàn sát đồng bào.

- Theo giáo sư Rummel trong quyển “Death by Government” thì cộng sản Việt Nam với tội ác tàn sát đồng bào. Trong giai đoạn 1945-1957, đã giết những thành phần mà họ gọi là các tầng lớp trí thức, tư sản giàu có, khác khuynh hướng chính trị, và những người trong hàng ngũ của họ mà họ cho là chệch tư tưởng cộng sản cũng bị họ giết. Căn cứ vào tài liệu, số người bị giết trong giai đoạn này vào khoảng 50.000 người.

- Trong giai đoạn cải cách ruộng đất trên đất bắc 1953-1955. Bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000 do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, cho biết có 172.008 người bị đấu tố (được hiểu là bị giết). Sau khi sửa sai thì đảng với nhà nước đưa ra con số 123.266 người bị coi là oan. Riêng nạn nhân trong chính sách cải cách ruộng đất, theo nhật báo “Nhân Dân” của CSVN ngày 20/7/1955, sau 6 đợt cải cách ruộng đất có 10.303.004 nạn nhân. Theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan. (trích bài “Con Số 100 Triệu Nạn Nhân” của ông Tú Gàn ngày 25/6/2007).

- Trong Tết Mậu Thân năm 1968, theo tác giả David T. Zabecki trong quyển “The Vietcong Massacre at Hue” ấn hành năm 1976, thì số hài cốt tìm được do cộng sản Việt Nam đã bắt giết trong 21 ngày chiếm giữ một phần thành phố Huế và chôn tập thể trong các hầm là 2.810 người trong tổng số dân ghi mất tích hơn 5.000 người! Nhưng theo sử gia Trần Gia Phụng thì số người tìm được trong 22 mồ chôn tập thể là 2.326 xác trong tổng số dân bị giết là 5.800 người!

- CSVN bắt đầu cuộc gây chiến xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1954, và đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 Việt Nam Cộng Hòa chúng ta sụp đổ. Theo tài liệu đúc kết từ Đại Hội 4 của CSVN năm 1976, ít nhất là 4.000.000 thanh niên miền Bắc đã chết trên chiến trường Việt Nam Cộng Hòa, gồm cả số người chết trên đường xâm nhập từ Bắc vào Nam. Nhưng theo nhà văn nữ (cựu cộng sản) Dương Thu Hương thì số người chết lên đến 10.000.000 người.

- Cộng sản cai trị toàn cõi Việt Nam dưới tên nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với hằng loạt những chính sách đánh quỵ xã hội mà họ vừa chiếm được. Theo tài liệu của Việt Quốc bên Germany, thì Sở Công An Sài Gòn (mà họ cái tên Hồ Chí Minh vào đó), đến cuối tháng 7 năm 1975, Công An đã đẩy 154.772 quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ vào các trại tập trung. Đến cuối tháng 10 cùng năm (1975), Công An bắt thêm 68.037 người nữa. Cộng chung tính đến 30 tháng 10 năm 1975, tổng số cựu quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ, bị họ giam giữ trong khoảng 200 trại tập trung trên toàn cõi Việt Nam là 222.809 người. Đến tháng 4/1992, người cuối cùng mới ra khỏi trại tập trung. Trong 17 năm đó, ước lượng từ 8.000 đến 10.000 tù chính trị bị chết do chính sách thù hận thâm độc của nhóm lãnh đạo CSVN..

- CSVN áp dụng những chính sách khắc nghiệt cai trị toàn cõi Việt Nam, là nguyên nhân chính đẩy hơn 3.000.000 người bằng mọi phương cách rời khỏi quê hương tìm tự do trên khắp thế giới! Trong số này có khoảng 150.000 người di tản trước trong và ngay sau ngày 30/4/1975. Tiếp sau đó, dòng người Việt Nam ào ạt trốn chạy khỏi quê hương tị nạn tại các quốc gia tự do trên thế giới gồm 839.200 người trong 20 năm kể từ tháng 6/1975: Giai đoạn 1, tháng 6/1975 - 1979 có 326.000 người tị nạn gồm 14.600 người vượt biên giới trên đất liền, và 311.400 người vượt biển mà thế giới gọi là Thuyền Nhân”. Giai đoạn 2, 1980 - 1984, có 253.100 người tị nạn gồm 11.000 người vượt biên giới và 242.000 người vượt biển. Giai đoạn 3, 1985 - 1989, có 197.000 người tị nạn gồm 10.500 người vượt biên giới và 186.500 người vượt biển. Và giai đoạn 4, 1990-1995, có 63.100 người tị nạn gồm 6.700 người vượt biên giới và 56.400 người vượt biển. Các cơ quan quốc tế về truyền thông lẫn tị nạn dựa vào tin tức do người tị nạn cung cấp, phỏng đoán cứ 3 người Việt Nam vượt biên vượt biển thì 2 người đến bến bờ tự do và 1 người chết mất xác. Theo cách ước tính này, có từ 400.000 đến 500.000 người chết mất xác trên đường chạy trốn chế độ cộng sản độc tài! Đây là tội ác thứ hai sau hai tội ác ngang nhau là giáo dục và lãnh thổ.

d. Tội ác áp bức cướp đoạt tài sản.

Sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa 30/4/1975, đẩy hơn 200.000 viên chức cán bộ và quân nhân vào các trại tập trung, CSVN bắt đầu cướp đoạt tài sản mọi thành phần xã hội Việt Nam Cộng Hòa cũ:

Ngày 20 tháng 8 năm 1975, Bộ Văn Hoá Thông Tin cộng sản Việt Nam, ra lệnh mọi người phải tiêu hủy toàn bộ văn hoá phẩm thời Việt Nam Cộng Hòa mà họ gọi là văn hóa phẩm đồi trụy và phản động. Họ mở chiến dịch truy lùng bắt giữ những ai tàng trữ, buôn bán, bắt giữ, và truy tố ra “tòa án nhân dân”. Chính sách này giống chính sách của vua Tần Thỉ Hoàng thời Trung Hoa phong kiến, và thời Mao Trạch Đông cộng sản. Nhà văn nữ cộng sản Dương Thu Hương viết rằng: “Sau 30/4/1965, tôi vào miền Nam choáng váng khi nhận thấy hệ thống thông tin ở đây quá phong phú. Trên các quày sách với vô số các tác phẩm văn chương, khoa học, triết học của thế giới kim cổ Đông Tây. Rất nhiều sách triết học Mác - Lê, sách văn học Nga và Sô Viết. Trong khi ở miền bắc mấy chục năm trời chỉ có một luồng thông tin, làm sao nhìn hết sự vật để đánh giá!”

Ngày 18 tháng 9 năm 1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam bất thình lình thực hiện chính sách đổi tiền. Họ không giới hạn số tiền mang đến đổi, nhưng chỉ được nhận lại tối đa là 200 đồng mới, mà họ qui định 1 đồng bạc mới bằng 500 đồng bạc cũ (1 mới = 500 cũ). Số tiền còn lại, mỗi khi gia đình có nhu cầu phải làm đơn xin và phải được Phường/Xã chứng nhận mới được cứu xét. Còn cứu xét như thế nào thì tùy họ khi vui lúc buồn. Tháng 5/1978 đổi tiền lần nữa với trị giá 1 đồng mới = 10 đồng đang lưu hành. Như vậy, 1 đồng bạc mới = 5.000 đồng Việt Nam Cộng Hòa cũ. Một chút so sánh: Đến ngày 6/3/2009, 1 mỹ kim = 17.380 đồng VNCS. Nếu đem 1 mỹ kim x 17.380 đồng VNCS x 5.000 VNCH năm 1975 sẽ là = 86.900.000 đồng. Con số này nói rât rõ về sự mất giá của đồng bạc VNCS đến mức nào sau 33 năm cầm quyền!

Ngày 10 tháng 11 năm 1975, chính sách đánh vào ngành kinh doanh thương mãi, ép mọi chủ nhân mà họ gọi là “vận động” hiến tặng cho nhà cầm quyền toàn bộ cơ sở kinh doanh thương mãi, kể cả nhà ở, rồi chuyển đến các khu hoang vắng mà họ gọi là “khu kinh tế mới” tự mưu sinh. Trường hợp không chấp hành sự vận động của họ thì bị bắt vào trại tập trung, còn tài sản bị họ tịch thu. Có nghĩa là, cho dù bằng cách nào đi nữa thì tài sản cũng vào tay nhà nước cộng sản, chỉ khác ở chổ là những chủ nhân có bị vào trại tập nhỏ -tức nhà tù- hay vẫn trong trại tập trung lớn -tức xã hội- thế thôi.

Đến chính sách cải tạo văn nghệ sĩ. Tờ L’ humanité của đảng cộng sản Pháp, số ra ngày 21 tháng 3 năm 1976 tại Paris, có đăng tải danh sách 321 văn nghệ sĩ thời Việt Nam Cộng Hòa, đã bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam bắt vào trại tập trung cải tạo từ ngày 13 tháng 6 năm 1976.

Tháng 6 năm 1977, lại một chính sách khác buộc tất cả nông dân có ruộng mà họ gọi là “vận động”, đem tập trung vào Hợp Tác Xã. Nông dân vẫn canh tác nhưng sản phẩm do Hợp Tác Xã quản trị, còn nông dân tùy theo lao động của mình bỏ ra mà nhận lại đồng lương bằng sản phẩm do Hợp Tác Xã quyết định. Và họ quản trị lao động công việc đồng áng chẳng khác những trại lính. Trần Bá Đệ, một sử gia miền bắc viết rằng: “Trong khi nông nghệp miền bắc đang trên con đường hợp tác hóa trên 15 năm đang ở lối nghẽn chưa tìm ra lối thoát, đảng lại chủ trương đưa nông nghiệp miền nam đi tiếp trên con đường đó”. (trích quyển “Lịch sử hiện đại Việt Nam 1945-2006” của tiến sĩ sử học Hoàng Ngọc Thành, xuất bản năm 2008, trang 643)

Cái chính sách toàn bộ đất đai trên toàn cõi Việt Nam thuộc về nhà nước mà nhà nước lả đảng cộng sản mả đảng là một nhóm hơn 10 đảng viên trong Bộ Chính Trị. Chính từ chính sách này mà phát sinh vô số người dân phải kêu oan khiếu nại. Từ năm 2006, sự kiện từng đoàn dân oan từ chấp nhận mọi khó khăn trong sinh hoạt hằng ngày và nguy hiểm đến tính mạng, đã các tỉnh kéo vào thành phố kinh tế Sài Gòn và thành phố chính trị Hà Nội ở đó tháng này sang tháng khác, kêu oan khiếu nại với các cơ quan thẩm quyền, là bằng chứng mạnh mẽ nhất về sự áp bức bóc lột người dân về đất đai, dưới danh nghĩa xây dựng công ích quốc gia nhưng hầu hết đem bán cho các cơ quan đầu tư ngoại quốc xây dựng cơ sở sản xuất cũng như cơ sở giải trí với giá cao trong khi đền bù cho dân quá thấp. Nhà nước cộng sản dành cho cái quyền quản trị đất đai, cho người dân sử dụng nhưng khi cần là họ lấy lại đúng nghĩa của “chế độ (dân) xin và (nhà nước) cho”, nhưng khi thấy có lợi cho họ là họ lấy lại. Tình trạng dân oan khiếu nại kiện thưa từ đó đến cuối năm 2008 càng thêm phức tạp, các cấp lãnh đạo đều gian trá dối gạt đồng bào đến mức người dân oan không còn tin lãnh đạo hứa hẹn, cũng không sợ Công An đàn áp. Các cơ quan truyền thông quốc tế ước lượng có khoảng từ 30.000 đến 50.000 dân oan tham dự khiếu nại thưa kiện tại các tỉnh và thành phố mà nhiều nhất là Sài Gòn và Hà Nội.

Trên tuần báo Saigon Weekly News ngày 31/10/2008 tại Houston, ông John Hendra, phối trí viên của Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam cảnh báo rằng: “Dù kinh tế Việt Nam phát triển trong những năm gần đây nhưng nhiều nhóm dân vẫn trong tình trạng có thể bị thiếu thực phẩm, nhất là những nhóm nông dân không có ruộng đất, những nhóm dân nghèo tại các đô thị, và những nhóm dân tộc thiểu số. Giữa lúc giá nhiên liệu và thực phẩm trên thế giới giảm dần thì lạm phát tại Việt Nam vẫn còn ở tỷ lệ 26.7% trong năm 2008, khiến ngân sách gia đình của giới nghèo túng càng thêm kiệt quệ. Trong hơn 10 năm qua, kinh tế Việt Nam phát triển trung bình 7.5% giúp một số dân thoát khỏi cảnh nghèo đói, nhưng tình trạng hiện nay làm cho giới dân nghèo trở thành cơ cực đã tạo nhiều bất ổn trong xã hội (Có lẽ nói đến tình trạng dân nghèo bị bóc lột phải đi khiếu nại kêu oan. PBH). Việt Nam cần phải củng cố các chương trình an sinh xã hội để giúp dân nghèo nhiều rủi ro nhất”.

Bản tin ngày 5/2/2009 do Thời Báo Kinh tế Việt Nam ghi nhận, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng cho biết tình hình kinh tế xã hội năm 2008 rất nhiều biến động gần như không thể lường trước được, do đó ông kêu gọi dân chúng phải đồng thuận để tạo sức mạnh đưa đất nước vượt qua những khó khăn hiện nay. Việt Nam chưa cần phá giá đồng bạc, vì phá giá từ 17.000 đồng VN = 1 MK lên 18.000 đồng thì tổng số nợ ngoại quốc từ 18 tỷ mỹ kim (hiện nay) sẽ tăng lên rất nhiều và ảnh hưởng mạnh vào ngân sách. Ngay trong tháng đầu năm 2009, chỉ số của các ngành từ sản xuất kinh doanh đến du lịch, xuất cảng, … đều giảm sút mạnh.

3. Kết luận.

Cộng sản độc tài vẫn là cộng sản độc tài. Họ chỉ phục vụ bản thân họ dưới tên gọi đảng cộng sản Việt Nam. Từ kinh nghiệm dẫn đến khẳng định, đã là cộng sản thì không có người cộng sản tử tế vì những chính sách giáo dục chỉ nhắm đào tạo những thế hệ thần dân tuân phục họ, và những chính sách xã hội chỉ nhắm đè bẹp các quyền tự do của con người trên căn bản “xin và cho” trong chính sách cai trị người dân, cho nên hơn nửa thế kỷ qua Việt Nam không có những công dân tử tế để xây dựng một xã hội tử tế trong mục đích phục vụ người dân.

Vậy, ngày nào chế độ CSVN độc tài tàn bạo còn tồn tại thì ngày đó người dân vẫn mất quyền làm người và vẫn bị áp bức bóc lột từ vật chất đến tinh thần. Cách duy nhất mà người dân giành lại quyền làm người của mình là vùng lên lật đổ và triệt tiêu chế độ này, vì lá phiếu không thể chuyển hóa được những kẻ lãnh đạo tàn bạo phi nhân của nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng./.

(Trích phụ bản A trong bài đang viết “Quan Niệm Sách Lược Đấu Tranh Lật Đổ CSVN”).

Houston, 12 tháng 3 năm 2009
Phạm Bá Hoa

Sunday, July 12, 2009

Buổi Tiếp Tân Ra Mắt Lần Đầu Tiên Phim "Sự Thật Hồ Chí Minh" - Ngọc Băng

Ngọc Băng

Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
Little Saigon, Nam California, Hoa Kỳ, 11 tháng Bẩy, 2009:

"Sau 18 tháng làm việc trong âm thầm và kiên trì vượt qua bao trở ngại, hôm nay tôi xin hân hoan thông báo, phim tài liệu “SỰ THẬT VỀ HỒ CHÍ MINH” đã được hoàn tất." Đó là lời tuyên bố của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ với tiếng vỗ tay tán thưởng nồng nhiệt của đông đảo đồng hương trong buổi tiếp tân ra mắt lần đầu tiên cuốn phim “SỰ THẬT VỀ HỒ CHÍ MINH”(ST/HCM).

Buổi sinh hoạt đặc biệt này khai diễn vào lúc 11 giờ sáng Thứ Bẩy, 11 tháng 7, 2009, tại nhà hàng Paracel, ở trung tâm Little Saigon, Nam Cali, Hoa Kỳ. Vì nhà hàng chỉ có sức chứa 450 người, đông đảo đồng hương đến trễ, con số tương đương với số lượng bên trong, phải đứng ngoài, tạo nên cảnh tượng tấp nập chưa từng thấy. Để bảo đảm trật tự và giữ đúng luật lệ, Ban Giám Đốc nhà hàng đã quyết định đóng cửa và huy động nhân viên an ninh mặc sắc phục túc trực tại chỗ. Mặc dầu dưới ánh nắng mùa Hè, nhưng đồng hương bên ngoài vẫn kiên nhẫn chờ đợi để nhận DVD phim ST/HCM. Trước tình trạng này, Ban Tổ Chức đã quyết định khai mạc sớm hơn chương trình dự định để rút ngắn thời gian bà con phải đứng chờ.

Sau phần nghi thức chào cờ và mặc niệm do ban Tù Ca Xuân Điềm phụ trách, ông Nguyễn Như Tấn, trưởng Ban Tổ Chức, ngỏ lời chào mừng quan khách và nói lên tính cách đặc biệt và quan trọng của buổi tiếp tân ra mắt, vì cuốn phim ST/HCM "là một tác phẩm vô cùng độc đáo của người Việt tự do, bởi vì, về mặt văn tự thì đã có rất nhiều quyển sách viết về con người thật của Hồ Chí Minh, nhưng về phim ảnh thì đây là lần đầu tiên mới có một cuốn phim trình bày, phân tích bộ mặt thật của tay trùm CS này."

Mở đầu bài nói chuyện về ý nghĩa và tầm quan trọng của cuốn phim "SỰ THẬT VỀ HỒ CHÍ MINH", Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ, đại diện PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀI GÒN đã nhấn mạnh:

“Trong chiếc hộp DVD khiêm tốn này chứa đựng một nỗ lực phi thường của PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀI GÒN và nhóm thực hiện để hoàn tất cuốn phim … Nhưng điều quan trọng hơn hết là trong chiếc hôp DVD khiêm tốn này chứa đựng một nguyện vọng thiết tha và cấp bách của đổng bào Việt nam Phải phá vỡ huyền thoại giả trá Hồ Chí Minh, là tảng đá cuối cùng để chế độ CSVN bám vào đó mà tồn tại.”

Linh mục cũng nhắn gửi "...chốc nữa đây khi tôi đại diện cho PTQD/ĐTTSG trao vào tay từng người DVD này, không những đó là một món quà trân quý của PT mà còn là trao đi một sứ mệnh: Sứ mệnh đó là: Hãy tiếp tay đẩy mạnh chiến dịch Tẩy Trừ Huyền Thoại Giả Trá Hồ Chí Minh."

Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ đã đề nghị phương thức đẩy mạnh bằng "Chiến dịch Vết Dầu Loang; đó là sau khi nhận và xem phim ST/HCM, xin mỗi người hãy copy ra 10 DVD nữa để tặng cho 10 người khác; khi tặng cho ai nhớ kèm theo lời dặn hãy copy ra 10 DVD nữa để tặng cho 10 người khác ... và cứ thế … cứ thế lan rộng dần như một “vết dầu loang”.

Tiếp đó, đồng hương đã chăm chú theo dõi đoạn phim dài 12 phút giới thiệu cuốn phim ST/HCM nói qua về các chủ điểm nội dung của cuốn phim, các đoạn trích dẫn một số nhân vật được phỏng vấn, các tài liệu và hình ảnh đặc biệt lấy từ cuốn phim chính dài 1 giờ 50 phút.

Trong phần nói chuyện sau đó, Ông Trần Quốc Bảo, trưởng Ban Điều Hành của PhongTrào, trong vai trò giám đốc sản xuất cuốn phim, đã tóm lược qua về tiến trình thực hiện, qua các giai đoạn hình thành Ban Cố Vấn, ấn định nội dung, thu thập tài liệu, phỏng vấn, ráp nối,... Ông cũng khẳng định, người xem có thể sẽ nhìn thấy một số khuyết điểm trong cuốn phim này "vì nhóm thực hiện không phải là những nhà chuyên môn; tuy nhiên sự thật chung cuộc, và cũng chính là thông điệp của cuốn phim, thì người xem không thể hiểu sai: Hồ Chí Minh là một tai hoạ cho đất nước; nhưng Đảng CSVN đã thần tượng hóa y để làm tấm mộc bảo vệ chế độ, cho nên phải phá vỡ thần tượng Hồ Chí Minh để khai thông sinh lộ cho dân tộc, đất nước Việt Nam."

Về việc quảng bá cuốn phim, Ông Bảo cho biết PT đã có kế hoạch đặc biệt để phổ biến phim đến đồng bào trong nước là đối tượng chính mà PT nhắm đến. Đối với người ngoại quốc và con em không thông thạo tiếng Việt, PT đang xúc tiến thực hiện bản tiếng Anh và tiếng Pháp. Đối với người Việt hải ngoại, Ông thông báo lịch trình các buổi ra mắt trong năm 2009 gồm 38 địa điểm và nói rõ cách thức tiếp nhận DVD qua đường bưu điện.

Trong phần chia sẻ tâm tình, Ông Chu Lynh, phụ trách biên tập và ráp nối cuốn phim, đã trình bày một số khó khăn mà nhóm kỹ thuật phải đương đầu. Theo Ông, "tôn trọng sự thật" là tôn chỉ hàng đầu mà những anh em phụ trách luôn đề cao. Ông cũng kể lại một số kinh nghiệm buồn vui của cá nhân và những người cộng tác trong dự án thực hiện bộ phim này và kết luận, mặc dù đương đầu với nhiều khó khăn, trở ngại, nhưng vì những trăn trở đối với quê hương, đặc biệt là trong giai đoạn "dầu sôi lửa bỏng" của đất nước, trước hiểm hoạ của giặc phương Bắc, ông đã nỗ lực đóng góp để hoàn thành cuốn phim.

Được mời phát biểu cảm tưởng, GS Nguyễn Thanh Liêm, một nhân sĩ quen thuộc trong sinh hoạt Cộng đồng tại Nam Cali, đã nhiệt liệt tán thưởng nỗ lực của PTSG trong việc hoàn thành cuốn phim ST/HCM. Theo GS Liêm, cuốn phim quan trọng cả về mặt văn hoá lẫn mặt chính trị. Về văn hoá, đây là cơ hội để làm sáng tỏ lịch sử Việt Nam trong giai đoạn cận đại. Về mặt chính trị, cuốn phim sẽ là một vũ khí quan trọng để đánh vào gốc rễ của chế độ CS, giúp mau chóng đem lại tự do và dân chủ cho Việt Nam.

Tiếp đó là phần trao tặng DVD phim ST/HCM. Đồng hương lũ lượt xếp hàng đi ngang qua chiếc bàn kê gần cửa vào nhà hàng để nhận DVD do chính Cha Nguyễn Hữu Lễ ký tặng và trao tay cho từng người. Chuỗi người xếp hàng dài ra mãi đến bãi đậu xe đối diện nhà hàng.

Trong khi đó, gần sân khấu nhà hàng, đáp ứng lời kêu gọi của MC Đinh Quang Anh Thái, đông đảo đồng hương cũng xếp hàng để lần lượt ký tên vào Sổ Vàng giúp Phong Trào trang trải chi phí thực hiện và quảng bá DVD phim tài liệu ST/HCM. Được biết chi phí này lên đến hơn 200,000 Mỹ kim. Đặc biệt, thi sĩ Nguyễn Chí Thiện là người mở đầu danh sách ký sổ vàng.

Không khí buổi tiếp tân càng thêm sôi động, hào hứng với phần đồng ca các nhạc phẩm đấu tranh do các nghệ sĩ Ban Tù Ca Xuân Điềm, và anh chị Tuấn Minh, Tuyết Mai thuộc Phong Trào Hưng Ca trình diễn. Đồng hương cũng thưởng thức các món ăn trưa thịnh soạn do Phong Trào khoản đãi.

Buổi tiếp tân ra mắt phim tài liệu ST/HCM kết thúc vào lúc 2 giờ 30 chiều trong niềm hân hoan và phấn khởi của các đồng hương tham dự. Được biết buổi sinh hoạt đặc biệt này được trực tiếp truyền thanh trên hệ thống PalTalk để các đồng hương ở xa, kể cả tại quốc nội, có thể theo dõi.

Theo Ban Điều Hành PT, đồng hương ở xa liên lạc địa chỉ:
    PHONG TRAO SAI GON
    P.O. Box 1194 Stafford, TX 77497
    USA
Để tiếp nhận DVD, với cước phí chuyển gửi (shipping & handling) là 7.95 MK trong Bắc Mỹ, 12.95 MK ngoài Bắc Mỹ. Lịch trình các buổi ra mắt khắp nơi và tin tức về phim ST/HCM được liệt kê đày đủ trong website của PT: http://www.saigonforsaigon.org/

Ngọc Băng

Hình ảnh buổi tiếp tân ra mắt:

Quang cảnh Hội trường

Quang cảnh bên ngoài

MC Đinh Quang Anh Thái

Ông NGUYỄN NHƯ TẤN

Linh Mục NGUYỄN HỮU LỄ

Ông TRẦN QUỐC BẢO

Ông CHU LYNH

GS NGUYỄN THANH LIÊM

Linh Mục NGUYỄN HỮU LỄ ký tăng DVD phim ST/HCM

HỒ CHÍ MINH: CON NGƯỜI TRĂM MẶT - Mường Giang

Mường Giang

Trong bốn người liên quan tới việc xuất dương, chỉ có Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh ra đi năm 1911, là tự nhận mình tìm đường cứu nước. Trước đó, qua bộ máy tuyên truyền của đảng và chính Hồ viết sách để ca tụng và huyền thoại cuộc đời mình, làm cho nhiều người nhẹ dạ không muốn tin cũng phải gật đầu chấp nhận, vì biết đâu mà mò. Nhưng vào tháng 2-1983, hai sử gia VN, tiến sĩ Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu, đã công bố khắp thế giới, một tài liệu vô cùng quan trọng, tìm thấy tại văn khố Pháp duy nhất nói tới giai đoạn 1911 của Nguyễn Tất Thành.

Ðó là hai lá thư xin nhập học Trường Thuộc Ðịa (Ecole Coloniale) viết ngày 15-9-1911 và một lá viết tại New York ngày 15-12-1912 gởi Khâm sứ Trung Kỳ. Ðiều này chứng tỏ rằng Nguyễn Tất Thành, bỏ nước ra đi chỉ với mục đích tìm đường làm quan để giải quyết chuyện cơm ăn áo mặc của riêng mình, chứ không hề có ý định cứu nước giúp dân như Trần Dân Tiên từng viết sách ca tụng.


Ngoài ra những bí mật đã được bật mí, theo đó mới biết được gần suốt cuộc đời của Hồ, hầu như sống bằng nghề tình báo KGB, phục vụ cho quyền lợi của đệ tam quốc tế mà thôi. Nên người ngoài cũng không lấy làm lạ trước những sự kiện của đảng Cọng Sản Ðông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, địa vị của Hồ Chí Minh từ năm 1930 cho tới cuối năm 1944 trong đảng rất mù mịt, không chiếm được một ưu thế nào, vì Hồ thật sự đâu có làm gì. Cũng theo sử liệu, lãnh đạo đảng lúc đó là những tên tuổi Ðặng Xuân Khu, Nguyễn văn Cừ, Lê Ðức Thọ, Văn Tiến Dũng cho nên mãi tới hội nghị đảng lần thứ VIII, họ Hồ vẫn chưa có một danh vị đảng. Theo Lê Quảng Ba viết trong Hồi ký Ðầu Nguồn, tiếng nói của nhóm cán bộ lưu vong tại hang Pắc Pó trong thời gian 1941-1944, Hồ Chí Minh từ Nậm Quang chính thức dời về đóng trụ ở biên giới Hoa-Việt, để dạy lớp cán bộ. Lớp học kết thúc ngày 26-1-1941 nhưng đã bế tắc vì Hồ không đủ uy tín để tổ chức được một chiến khu nào tại miền xuôi. Bởi vậy mới thấy tới ngày 22-12-1944, Võ Nguyên Giáp mới lập được Ðội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân, tại rừng Trần Hưng Ðạo, Huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, chỉ được 34 người, hầu hết la dânợ Nùng, Thổ bản địa.

Nhưng Hồ là người may mắn, từ thuở nhỏ đã được các quí nhân tại Phan Thiết như Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang làm vang danh tại trường Dục Thanh. Sau đó qua Pháp, được Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền góp chữ và uy tín, đưa Bồi Ba, tức Nguyễn Tất Thành bước vào con đường chính trị, báo chí thế giới qua danh xưng của nhóm là Nguyễn Ái Quốc mà Hồ nhận riêng là của mình.

Rồi từ hang Pắc Pó trở lại Tàu, may mắn bị quân Trung Hoa Quốc Gia bắt. Từ đó qua bảo đãm của Nguyễn Hải Thần cùng Vũ Hồng Khanh trong Việt Nam Quốc Dân Ðảng, với chủ tướng Trương Phát Khuê, họ Hồ chính thức sắm thêm vai gián điệp tình báo cho quân đội Ðồng Minh tại Ðệ Tứ Chiến Khu Hoa Nam, sau khi được trả tự do ngày 16-3-1945, theo như tài liệu của Michael Maclear viết trong ‘The Ten Thousand Day War Việt Nam (1945-1975), xuất bản tại New York năm 1981.

Cũng từ đó, qua vai trò điệp viên tình báo quốc tế thuộc các cơ quan KGB, Trung Cộng, Trung Hoa Dân Quốc, rồi do Charles Fenn giới thiệu, lại trở thành điệp viên chính thức của OSS tức là Office of Strategic Services, tiền thân của cơ quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ ( CIA), làm việc dưới quyền Thiếu Tá Mỹ Archimedes Patti, đặc trách chiến trường Ðông Dương. Nhờ đó, Hồ bước qua hết các xác chết cản đường trong đảng, để mùa thu tháng chín 1945, nghênh ngang võng lọng về Hà Nội nhận chức và đọc diễn văn. Ðó là tất cả quá trình xuất dương cứu nước của anh thanh niên Nguyễn Tất Thành, một huyền thoại (?)mà bao chục năm qua, thiên hạ vẫn không ngớt viết, nói về cuộc đời của một tên quốc tặc ‘ trước sau, nhỏ lớn ‘ đã và đang cùng với đồng bọn ‘ rước voi Nga-Tàu ‘ về dầy xéo cướp chiếm công khai non nước Việt, mà hiện nay cả thế giới, ai cũng đều thấy rõ.

Từ câu chuyện nhục nhã trên, nhiều người đã thở dài khi nghĩ rằng, phải chi Nguyễn Tất Thành lúc đó, được thực dân Pháp nhận vào trường Thuộc Ðịa, thì với bản chất bất lương như vậy, cùng lắm Hồ chỉ là một tham quan Việt gian làm tay sai cho Pháp mà thôi. Nhờ đó đất nước và dân tộc Việt Nam ngày nay có thể đã thoát được nổi trường hận cùng khốn tận tuyệt dưới bàn tay tàn độc cũa một Hồ Chí Minh làm tay sai cho các thế lực quốc tế, từ Liên Xô, Trung Cộng, Pháp, Tàu Trắng và Hoa Kỳ. Năm 1932 danh xưng Nguyễn Ái Quốc được khai tử trong nhà tù Hồng Kông, để thay thế vào cái tên Hồ Chí Minh (với công luận : đó là một người Tàu được nhập vai HCN thật đã chết) . Chuyện thật giả, đúng sai cho tới giờ này chỉ có trời mới biết, chứ mặt thật thì ai cũng chỉ dựa vào sách báo để ghi lại mà thôi.

1. NGUYỄN TẤT THÀNH, CON NGƯỜI TRĂM MẶT

Nhiều năm sau ngày ‘bác’ lên ngai Chủ Tịch nhà nước, người ta mới biết được cái tên Hồ Chí Minh, chỉ là một trong hằng trăm tên của Nguyễn Sinh Cung hay anh thanh niên thầy giáo Nguyễn Tất Thành, đã có một thời gian dạy học tại trường Dục Thanh, Phan Thiết, trước khi rời Bến Nhà Rồng ở Sài Gòn, qua Pháp tìm đường cứu nước. Theo các sử gia cũng như các nhà biên khảo nghiên cứu trong và ngoài nước, thì cho tới nay vẫn chưa ai biết hết tất cả các bí danh của Nguyễn Tất Thành. Trước đó, căn cứ vào tài liệu của Liên Xô, thì ‘bác’ có chừng 19 tên. Năm 1982, nhà biên khảo Huỳnh kim Khánh nói ‘người’ có 32 bí danh. Một tác giả Việt Nam khác kiểm kê được 76 tên của Hồ. Nói chung, không riêng gì tên họ, mà cả ngày sinh và tên cúng cơm cũng vô cùng bí mật, không biết đâu mà mò. Quả thật đây là một con người có nhiều tên nhất trên trái đất, từ cổ tới kim, đông sang tây. Do không biết chính xác tên khai sinh khi lọt lòng mẹ là Côn, Cuông hay Cung, vì vậy ta thấy sách vở đã chọn cái tên Nguyễn Tất Thành như là một điểm tựa, nhất là sau năm 1983, ba cái đơn của ‘bác’ bị phát giác.

Trong số 100 tên, có lẽ cái tên ‘Nguyễn Ái Quốc’ xuất hiện lần đầu tiên tại Paris là sôi động và đã gây ra không biết bao nhiêu tranh cãi, từ ấy cho đến bây giờ, vẫn chưa chấm dứt. Ai cũng biết, nói láo và bịa chuyện là bệnh nan y của người cọng sản, nhất là trong rừng sử sách của đảng, nhằm thần thánh hóa lãnh tụ ‘Hồ Chí Minh’. Gạt bỏ những huyền thoại của đảng viết về Bồi Ba, theo các nhà viết sử cho biết tới nay, họ vẫn còn rất mù mờ về giai đoạn của Nguyễn Tất Thành từ năm 1911-1919, ngoài ba chi tiết công khai: đó là Thành làm công trên tàu Latouche-Tréville của hãng Ðầu Ngựa, sống tại nước Anh thời đệ nhất thế chiến (1914-1918) và có mặt tại Pháp qua cái tên Nguyễn Ái Quốc trên . Người đã vậy, tên cũng vậy, do đó các nhà viết sử cận đại, cũng đành vậy, nghĩa là cứ cho rằng ngày 19-5 là ngày sinh của Nguyễn Tất Thành. Có như vậy, hằng năm thiên hạ mới có dịp ‘ đào mồ cuốc mã tên đại phản quốc ‘ để rửa hận cho quốc dân VN, nhất là trong giai đoạn ‘ quốc phá gia vong ‘ hiện tại, ngụy quyền cộng sản Hà Nội qua Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng .. đã công khai bán dân tộc và đất nước Việt cho Tàu đỏ.

+ Nguyễn Ái Quốc và nhóm Trinh-Trường-Truyền:

Trước khi Nguyễn Tất Thành xuất dương, thì Phan Chu Trinh và con là Phan Chu Dật mới 8 tuổi, đã tới Pháp ngày 1-4-1911 với trợ cấp của Chính Phủ Ðông Dương. Từ năm 1912, Phan Chu Trinh kết thân với Phan văn Trường đang theo học Tiến Sĩ Luật tại Paris, nên dọn về ngôi biệt thự của Trường tại số 6 đường Villa des Gobellins. Từ năm 1912, Hồ đã bắt được liên lạc với Phan Chu Trinh tại Pháp qua thư từ, vì hai người đã quen biết nhau từ ngày còn ở Việt Nam, nên Thành vẫn gọi Trinh là ‘Hy Mã Nghị Bá Ðại Nhân’.

Trong lúc đó tại Việt Nam từ năm 1911-1919, có nhiều biến cố thật quan trọng đã xảy ra. Trước hết là Ðề Thám, lãnh tụ cuối cùng trong phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi xướng xuất năm 1885, đã bị Lương Tam Kỳ giết chết ngày 10-2-1913. Cũng năm này, vào ngày 17-1 tại Huế, tên Khâm Sứ Trung Kỳ là Georger Mahé đã khai quật lăng vua Tự Ðức để cướp vàng bạc châu báu. Sự việc được báo chí như tờ Le Courrier d’ Haiphong và dư luận cả nước chống đối và nguyền rủa dữ dội bọn thực dân và đám quan lại Việt Nam bất lương vô liêm sĩ. Ngày 12-4, tại Thái Bình, các đảng viên Việt Nam Quang Phục Hội của Phan Bội Châu và Cường Ðể, đã ám sát tên Tuần Phủ chó săn Nguyễn Duy Hàn.

Những biến cố bi thảm trên, đã khiến cho Phan Chu Trinh bên Pháp cũng lên tiếng chỉ trích thực dân, kể luôn Toàn Quyền Ðông Dương là Sarraut , người đang cưu mang giúp đở cha con ông. Tại Trung Hoa, vì nhận tiền của Pháp nên Tổng Ðốc Lưỡng Quảng là Long Tế Quang đã bắt giam Phan Bội Châu và Mai Lão Bạng từ năm 1914 tới năm 1917 mới thả. Vì những biến cố đã xảy ra, ngay khi Ðức tuyên chiến với Pháp ngày 3-8-1914, nhà cầm quyền Ba Lê vin vào đó để bắt giữ và phân tán những yếu nhân trong Hội Ái Quốc Ðông Dương, do Trinh và Trường thành lập. Ngày 15-9-1914, Pháp bắt giam Phan Chu Trinh và Phan văn Trường tại ngục Santé mãi tới tháng 2-1916 mới phóng thích. Từ đó người Pháp cũng cắt đứt trợ cấp cho cha con ông, khiến lâm vào cảnh nghèo đói, nên cả hai mắc phải bệnh lao phổi nặng. Tháng 3-1921, Dật chết tại Bắc Kỳ.

Từ đầu năm 1919, đại chiến lần thứ 1 đã kết thúc trong sự bại trận của phe trục Ðức, Áo, Hung, Thổ và Bảo Gia Lợi. Kinh đô Paris của Pháp trở thành nơi tụ hội của các thế lực quốc tế. Tổng Thống Hoa Kỳ là Woodrow Wilson đưa ra chủ thuyết ‘Tự Tri’ và đề xuất việc thành lập Hội Quốc Liên, rất được các nước nhược tiểu ủng hộ.

Tại Nga, do Nga Hoàng Nicholas II (1894-1917), đứng về phe Ðồng Minh chống Ðức, nên nước này đã tích cực yểm trợ Nikolai V.I. Lenin (1870-1924) lật đổ vương triều. Ngày 7-11-1917, Lenin và Leon Trotsky đứng chung thành lập chế độ Bolshevik, hay còn gọi là cuộc Cách Mạng tháng mười, mở màn cho cảnh núi sông xương máu trong dòng lịch sử nhân loại, có cả Việt Nam, từ đó cho tới nay vẫn chưa chấm dứt. Tháng 3-1919 Lenin lập Ðệ Tam Quốc Tế Cọng Sản để xuất cảng chủ nghĩa vô thần, vô sản khắp năm châu.

Ðây là miếng mồi béo bở mà Lenin, trùm đỏ vừa mới nổi lên, dẫn dụ các dân tộc bị trị khắp Á Châu từ Trung Ðông, Ấn Ðộ, Trung Á, tới Trung Hoa và Ðông Dương, lũ lượt kéo về thánh địa Viện Thợ Thuyền Ðông Dương tại Mạc Tư Khoa, để học tập con đường cách mạng vô sản chuyên chính, đánh gục tư bản, tiến nhanh, tiến mạnh lên thiên đàng xã hội chủ nghĩa. Trong nước, nhiều cuộc bạo động chống Pháp kháp nước, quan trọng nhất là vụ khởi nghĩa của vua Duy Tân cùng các chí sĩ Thái Phiên, Trần Cao Vân tại Huế ngày 3/5/1916. Sau đó là cuộc biểu tình của Phan Xích Long tại Sài Gòn tháng 11-1916 và đặc biệt nhất là sự chiếm đóng tỉnh Thái Nguyên của Ðội Cấn, Lương Ngọc Quyến, Trần Trung Lập vào năm 1917 dù thất bại, nhưng vẫn mang nhiều khích lệ tới tuyệt đại dân chúng Việt Nam đang sống lầm than khổ ải dưới ách nô lệ của giặc Pháp.

Trong giai đoạn trăm hoa đua nở, Nguyễn Tất Thành bỗng nổi lên như cồn trong giới cách mạng vô sản Pháp, qua bản ‘thỉnh nguyện thư đòi nhân quyền’ năm 1919, ký tên Nguyễn Ái Quốc, mà công án tới nay đã quy cho Hồ là cướp công của ba nhân vật đã sáng tạo: Phan Chu Trinh, Phan văn Trường và Nguyễn Thế Truyền. Nội dung bản thỉnh nguyện gồm 8 điểm, do một nhóm người An Nam yêu nước chung viết, được tờ báo L’Humanité của đảng Xã Hội Pháp, đăng ngày 18-6-1919 với dụng ý chính trị, dù thực chất chẳng có gì đặc biệt, nếu đem so sánh với sự đòi hỏi người Pháp phải trao trả độc lập hay ít nhất để Việt Nam tự trị của Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể sống lưu vong và Vua Duy Tân đang bị cầm giam ngoài hải đảo.

Dù gì chăng nữa thì đây cũng là một cơ hội vàng ròng với Hồ, vì ít nhiều tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc, đại diện cho nhóm người An Nam yêu nước trên đất Pháp, cũng được nhóm người Việt qua Tây đánh Ðức, hồi hương mang về phổ biến trong dư luận lúc đó. Mặt khác, qua chiến thắng của đảng Bolchevik Nga, khiến đảng xã hội Pháp hầu như nghiêng về Ðệ Tam Quốc Tế, vô tình giúp anh thanh niên Nguyễn Tất Thành lúc đó, đang thất nghiệp phải sống nhờ vào sự giúp đỡ của Phan Chu Trinh, bỗng được các chính khách tả phái Pháp chú ý vì tính chất vô sản chuyên chính, nên đã giúp Hồ thoát cảnh chết đói, bằng cách cử ‘bác’ tới học ở Viện Thợ Thuyền Ðông Phương năm 1923. Từ đó Hồ qua bí danh Nguyễn Ái Quốc chính thức là một đảng viên của đệ tam quốc tế cộng sản.

+ Vụ Án Nguyễn Ái Quốc:

Về vụ án lịch sử Nguyễn Tất Thành biếm xưng tên gọi của nhóm Nguyễn Ái Quốc, khi Hồ sống tại Pháp từ 1911-1923, cũng đã được tranh cãi sôi nổi giữa cơ quan tuyên truyền của đảng và nguồn dư luận trong cũng như ngoài nưóc. Ðọc ‘Chủ tịch Hồ Chí Minh-tiểu sử và sự nghiệp’ do đảng ấn hành, tuyên bố là tất cả những bài viết và tranh vẽ trên báo Le Paria số 1, đều của Nguyễn Ái Quốc sáng tạo.

Ta biết tờ Le Paria hay ‘Người Cùng Khổ’ do Hội Liên Hiệp Thuộc Ðịa chủ trương, từ số 1 đến số 12 đều do J.B Meyrat làm quản lý. Các số khác từ số 13 về sau do G.Sarotte và Léopol Mesnard chịu trách nhiệm, đặc biệt số 1 ra ngày 1-4-1922 không có một bài nào của Nguyễn Ái Quốc. Vậy mà Ban Nghiên Cứu Lịch Sử của Trung Ương Ðảng VC, dám tuyên bố ‘bác’, tức là đồng chí Nguyễn Ái Quốc làm quản lý tờ báo này. Ngoài ra cũng trên tờ Le Paria, có nhiều bài viết hay tranh vẽ ký tên Nguyễn Le Patriote, là biệt danh của Nguyễn Thế Truyền và các sinh viên trong Hội Ái Quốc An Nam, thế nhưng Ðảng vẫn tỉnh bơ nhận bừa đó là sản phẩm của Nguyễn Ái Quốc.

Riềng bài viết ‘Lên Án Chủ Nghĩa Thực Dân’ được đánh giá là một tài liệu tranh đấu trác tuyệt về nội dung cũng như hình thức. Theo nhận xét, thì lúc đó các nhân vật đấu tranh sống ở Paris, chỉ có Luật Sư Tiến Sĩ Phan văn Trường và Kỹ Sư Nguyễn Thế Truyền mới có đủ khả năng Pháp ngữ cũng như tư tưởng nhận thức để viết được một bài văn tranh đấu nẩy lửa hùng biện như vậy. Còn Nguyễn Tất Thành mặc dù có sống giang hồ khắp nơi từ 1911-1922 nhưng dù sao trình độ học vấn cũng giới hạn, chỉ viết ba lá đơn xin nhập học mà còn phạm nhiều lỗi chánh tả và văn phạm, thì không thể nào là tác giả của kiệt tác trên. Phương chi, phóng đại vốn là nghề của đảng, tâng bốc để bác vang danh với đời lại càng thêm thần thông quảng đại hơn.

Bởi vậy ngày nay, trước những khám phá về việc hoàn toàn bịa đặt một Nguyễn Tất Thành, đại thiên tài, từ một anh thanh niên giáo viên quèn tại một trường làng mang tên Dục Thanh tói nổi nhiều người sinh đẽ tại chỗ cũng không biết đó là cái quỹ quái gì, một bồi Ba trên tàu viễn dương, đùng một cái nhảy phóc lên làm ông quản lý một tờ báo nổi tiếng, phát hành 5000 số một kỳ, lại còn kiêm thêm họa sĩ và nhà văn... cho tới khi ‘bác’ sang Nga và Tàu từ năm 1923, vậy mà vẫn cứ làm quản lý và viết bài cho báo này tại Pháp cho tới khi báo đình bản.

Tất cả đều do Trần Dân Tiên dựng đứng câu chuyện về Nguyễn Ái Quốc, để thần thánh hóa Hồ Chí Minh, mà cả ba tên đều là Nguyễn Tất Thành. Sự thật ngày nay cho biết, Nguyễn Ái Quốc là tên gọi chung của nhóm người viết trên tờ Người Cùng Khổ (Le Paria), gồm có Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và trong suốt 38 số báo ấn hành, không có một bài nào hay tranh vẽ của Nguyễn Tất Thành nhưng chàng đã láu cá nhận vơ cái tên chung của nhóm là Nguyễn Ái Quốc. Sau đó được cơ quan tuyên truyền của đảng CS hợp thức hoá ‘sáng lập và linh hồn hay quản lý báo’.

Chưa hết, căn cứ theo sử liệu ta biết từ năm 1923-1946, Hồ đã rời Paris đi Mạc Tư Khoa, Tàu. TRong thời gian đó, vào tháng 1/1926 tại Paris đã xuất hiện tờ Việt Nam Hồn bằng chữ quốc ngữ, thỉnh thoảng có các bài bằng Hán và Pháp Ngữ. Từ tháng 9-1929 lại đổi tên là Phục Quốc, do cơ quan ngôn luận của dảng Việt Nam Ðộc Lập tại Pháp ấn hành. Trong một vài số báo, có bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc. Sự kiện lịch sử minh bạch như vậy mà đảng vẫn thản nhiên viết là năm 1923, ‘bác’ tại Pháp trong khi thành lập tờ ‘Người Cùng khổ’ đã kiêm nhiệm thêm tờ ‘Việt Nam Hồn’. Những sự thật thì không ai có thể thêm bớt, bóp méo hay xuyên tạc được. Cho nên những lố lăng về huyền thoại Hồ Chí Minh, ngày nay rốt cục đã trở thành những trận cười trong dân gian, dù nó tồn tại hay bị sóng đời vùi dập.

+ Nguyễn Ái Quốc, điệp viên ngoại hạng của cộng sản quốc tế:

Ngày 15-10-1923, Nguyễn Ái Quốc đại diện cho đảng CS Pháp, tham dự Ðại Hội Nông Dân Quốc Tế, tổ chức tại Mạc Tư Khoa. Cũng kể từ đó, Hồ thoát xác thành một con người cọng sản quốc tế, chỉ biết phục vụ cho nền vô sản chuyên chính mà thôi. Ðể thưởng công, ngoài sự cho báo đảng đánh bóng tên tuổi, chính phủ Liên Xô còn cho Quốc ở lại phục vụ trong thánh địa Ðông Phương, một tổ chức mặt nổi là của Quốc tế Cọng Sản nhưng bên trong được Cơ Quan Tình Báo Nga (Intercenter Mainburo) bảo trợ. Theo tổ chức, Ban Phương Ðông lúc đó gồm ba khu vực: Miền Tây Trung Hoa, trụ sở tại Chita thuộc Mông Cổ. Miền Viễn Ðông có trụ sở tại Hải Sâm Uy, phụ trách các nước Mãn Châu, Cao Ly, Nhật Bản và Khu Ðông Nam trụ sở tại Thượng Hải, gồm miền Hoa Nam và các nước Ðông Nam Á đang là thuộc địa. Ngày 22-1-1924, Lénin chết, Nguyễn Ái Quốc đã làm thơ đăng trên tờ Pravda, khóc thương nức nở và thề trước linh cửu cha già quốc tế, là sẽ biến đau thương thành hành động. Hãy đọc bài thơ của Tố Hửu khóc cha non Staline, để biết được nổi bi thương cùng tận của ‘ bác ‘ lúc đó đối với cha già LêNin :

‘Stalin ! Stalin,
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng, con gọi Stalin
ông Stalin ôi. ông Stalin ôi,
Hỡi ôi ông mất, đất trời có không?
thương cha, thương mẹ, thương chồng
thương mình thương một, thương ông thương mười.’

(Ðời đời nhớ ông ,Tố Hữu).

Mặc dù tài liệu Ðảng dấu chuyện Hồ xuất thân từ trường Stalin nhưng mới đây thư khố Nga giải mật, bật mí cho ta biết là gần hết cán bộ cao cấp của đảng VC , trong đó có Nguyễn Ái Quốc, đều xuất phát từ lò ‘Viện Thợ Thuyền Ðông Phương’. Trường này được Lenin thành lập ngày 21-4-1921, để huấn luyện các cán bộ cọng sản vùng Châu Á, nên gọi là Viện Phương Ðông. Sau khi tốt nghiệp, những học viên sẽ trở thành cán bộ cách mạng vô sản chuyên chính về mặt lý thuyét cũng như hoạt động móc nối, tuyên truyền và thu thập tin tức từ quần chúng. Tháng 8-1924 Hồ được Ðệ Tam Cọng Sản Quốc Tế, phong chức ‘Uỷ Viên Ban Phương Ðông’, phụ trách Cục Phương Nam coi toàn vùng Ðông Nam Á. Ðể che mắt mật thám Tây Phương, Hồ trở thành ‘Lou’, đặc phái viên của hãng Thông Tấn Nga Rosta, kiêm thư ký, thông ngôn cho phái đoàn Borodin của Liên Xô, tại Quảng Châu, qua bí danh Lý Thụy.

Trước khi Hồ tới, Borodin đã móc nối được cả hai phe Trung Hoa Quốc Dân Ðảng của Tôn Văn, Tưởng Giới Thạch và Ðảng CS. Trung Hoa ngồi lại với nhau, dưới ảnh hưởng của Liên Xô. Do trên, có một số cán bộ cao cấp của Ðảng CS. Trung Hoa như Mao Trạch Ðông đã được bầu vào Ban Chấp Hành Trung Ương Quốc Dân Ðảng. Trường Võ Bị Hòang Phố, do Nga bảo trợ khai giảng ngày 15-6-1924 do Tưởng Giới Thạch làm Giám Ðốc, còn Chu Ân Lai phụ trách chính tri. Nhưng một biến cố cực kỳ quan trọng đã xảy ra tại Quảng Châu, trong buổi lể kỷ niệm lần thứ 13 cách mạng Tân Hợi (10-10-1911), làm nhiều người cả hai phe thương vong, đồng thời đã khiến Tôn Dật Tiên tỉnh mộng, nên ông bỏ lên Bắc Kinh để hợp bàn chuyện thống nhất đất nước và kêu gọi tình hữu nghị Hoa-Nhật, khiến Liên Xô thất vọng vì kế hoạch bị đổ vỡ nửa chừng.

Khi Lý Thụy, một tên mới của Nguyễn Tất Thành tới Quảng Châu, thì ở đây đã có nhiều người Việt sinh sống, phần lớn làm viêc trong Sa Ðiện tô giới Pháp, hai khu vực được ngăn cách bằng con sông Châu Giang. Nhờ các quan địa phương như Hồ Hán Dân rất có cảm tình với người Việt, nên đã giúp đỡ những chính khách lưu vong bị Pháp săn đuổi phải chạy sang Tàu trốn lánh như Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Thiện Thuật cho tới Phan Bội Châu. Theo Niên Biểu, thì Sào Nam và Cường Ðể đã lập Việt Nam Quang Phục Hội tại đây, trong đó có nhóm Tâm Tâm Xã của một số thanh niên Việt Nam yêu nước. Tâm Tâm Xã gồm 9 đảng viên, đa số là người Nghệ An, có học thức, chủ trương bạo động gồm Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Sơn. Mùa thu 1924, Phan Bội Châu và Nguyễn Hải Thần đã yêu cầu Tưởng Giới Thạch, lúc đó là Giám Ðốc trường Võ bị Hoàng Phố, thu nhận các sinh viên Việt Nam vào thụ huấn và được ông chấp thuận.

Do cảm tình và cũng nhận thấy giữa hai đảng cách mạng Việt Nam và Trung Hoa Dân Quốc lúc đó, đều có chung mục đích, đánh đuổi giặc xâm lăng ra khỏi đất nước mình, nên Phan Bội Châu đã đổi danh xưng Việt Nam Quang Phục Hội, thành Việt Nam Quốc Dân Ðảng và uỷ cho Hồ Tùng Mậu phổ biến trong nước. Ðây cũng là giai đoạn mà các sử gia dày công tìm kiếm về mối liên hệ giữa cụ Phan Bội Châu và Lý Thụy, dẫn tới nghi án Hồ Chí Minh cùng Lâm Ðức Thụ bán đứng Phan Bội Châu cho Pháp bắt tại tô giới Thương Hải năm 1925, mà sử liệu đã nhắc tới.

Theo niên biểu Phan Bội Châu, cho thấy Sào Nam có gặp Nguyễn Ái Quốc đôi ba lần và trùm cọng sản Lý Thụy đã nhắc cụ thay đổi đảng cương Việt Nam Quốc Dân Ðảng, thời gian khi Hồ ở Tàu cuối năm 1924. Cũng năm này, Phạm Hồng Thái, một đảng viên của Việt Nam Quang Phục Hội, nhân Toàn Quyền Ðông Dương là Martial Merlin (1923-1925), ghé Sa Diện, sau khi từ Nhật Bổn về Hà Nội. Phạm Hồng Thái đã giả làm một phóng viên nhà báo, mang bom vào tận phòng ăn cũa tên giặc Pháp, quyết giết kẻ xâm lăng nhưng bom nổ chỉ làm Merlin bị thương nhẹ, trong lúc có 4 tuỳ tùng chết và 4 người khác bị thương. Xong nhiệm vụ, người chiến sĩ thoát thân nhưng vì con sông Châu Giang trước mặt. Cuối cùng ông cũng đền xong nợ nước và sau đó được chính người Trung Hoa, trân trọng cho ông được nghìn thu bên cạnh 72 liệt sĩ trong cuộc cách mạng Tân Hợi 1911, trên Hoàng Thạch Cương, khói hương miên viễn. Tên thực dân thoát chết nhưng cũng vỡ mật lại càng căm hận người Việt Nam yêu nước, còn thế giới thì chấn động và kính phục cháu con Hồng Lạc, bất khuất anh hùng.

2. HUYỀN THOẠI NGUYỄN ÁI QUỐC CHẾT TRONG NHÀ TÙ HỒNG KÔNG (1932):

Cũng trong chuyện dài về Nguyễn Tất Thành-Hồ Chí Minh, huyền thoại đáng kể nhất là vụ Nguyễn Ái Quốc chết trong nhà tù Hồng Kông vào cuối năm 1932, vì nghiện thuốc phiện và bị bệnh lao. Vụ này trước sau, từ Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng, Võ Nguyên Giáp cho tới cơ quan tuyên truyền của VC, đều nói là do Pháp phao tin để làm hạ uy tín Hồ. Riêng vợ luật sư Frank Loseby, người được Cọng Sản Quốc Tế mướn để biện hộ cho Hồ, sau năm 1969 khi ‘bác’ chết, đã nói tin đó là có thật, và do chính chồng bà ta tung ra, để đánh lạc hướng mật thám Pháp.

Cuối cùng, theo các sử gia, việc Nguyễn Ái Quốc ‘giả chết’ đều theo ý Liên Xô, nhằm phục vụ nhu cầu chính trị. Với Nga, Nguyễn Ái Quốc chết mới có cơ hội đưa các cán bộ khác lên thay thế và gầy dựng lại đảng VC đã bị tan tác. Với Tây Phương, khai tử con người cọng sản quốc tế chuyên nghiệp, để một bí danh mới của Nguyễn Tất Thành là HỒ CHÍ MINH , đóng vai điệp viên tam trùng, đang cần thiết tại mặt trận Viễn Ðông sắp tới. Tất cả đều nằm trong vòng bí mật và có lẽ chẳng bao giờ tình báo Nga, chịu mở hồ sơ vụ trên, dù Hồ đã chết thật từ lâu rồi.

Nhưng mới đây báo chí Trung Cộng lại tung tin ‘ Việc Hồ Chí Minh ‘ chết trong nhà tù Hồng Kông là thật. Vì kể từ đó TC mới đem một người Tàu chánh hiệu vào ‘ thế vai ‘ của HCM, đồng thời còn cài thêm vài trăm người cùng bọn vào đảng , qua tên VN.. mà hậu quả ngày nay từ Trung Ương Ðảng xuống tới các Tỉnh Ủy, hầu hết đều là Tàu .. nên đâu có gì lạ trước việc CSVN đã chính thức bán nước cho giặc, hiện đã trở thành ‘ một tỉnh hay khu tự trị ‘ thuộc lảnh thổ Trung Hoa như Mãn Châu, Nội Mông, Tây Tạng và Tân Cương.

Nay qua dòng thế sự, góp nhặt những chuyện đời, để rồi tọc mạch kể lại cho thế gian vui. Nguyễn Du đã ôm bộ ngực gầy xương giữa trời lộng gió, trên đỉnh Hồng Lĩnh nhưng muôn đời sau, người ta vẫn tìm đến với thi nhân, để cùng cảm thông chung manh áo lạnh. Ðường vào lịch sử Hồng Lạc cũng vậy vì sự hưng thịnh, tồn vong, thảo khấu hay là chính thống, đều không qua khỏi những dòng chữ đá trên bia sử.

Cho nên ngày nay, ta đọc câu chuyện sử về người trăm mặt Nguyễn Tất Thành, cũng chẳng qua chỉ đọc lại những câu chuyện kể về vận nước, mệnh ngươi, khen chê, xưng tụng. Xuôi nam hay ngược bắc, trong gió ngàn bay, nhìn ra biển lộng, đâu đâu cũng thấy chiến thuyền của chúa Nguyễn căng buồm lướt sóng hay vó ngựa chân voi dồn dập của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ danh trấn non sông. Nhưng rồi ngao ngán biết bao, khi lạc đường vào lịch sử, để phải đọc những huyền thoại gian dối của ‘bác’, làm cho hồn vừa giận vừa cười.

Quả thật, trong dòng lịch sử VN, lôi hết những tên đại gian hùng giết vua phế chúa như Trần Thủ Ðộ, Hồ Quý Ly, Mạc Ðăng Dung, Trịnh Kiểm, Trương Phúc Loan, Phan Khắc Hoè.. đem so sánh, thì chỉ bằng một cọng râu lơ thơ của Hồ mà thôi. Cũng nhờ những câu chuyện về Nguyễn Ái Quốc giả chết hay sự bặt tin của Lý Thụy, mãi cho tới khi sắp mở màn thế chiến thứ hai, Nguyễn Tất Thành mới được tái sinh qua cái tên Hồ Chí Minh từ năm 1939 cho tới bây giờ, chung cuộc chỉ là một màn kịch, diễn về một con người tầm thường nhưng được nổi nhờ cơ duyên và sự phô trương vô tiền khoáng hậu.

Hiện nay các sử gia đều đặt nghi vấn, về câu hỏi là tại sao đồng loạt các cán bộ cao cấp của Ðông Dương Cong sản đảng từ Mạc Tu Khoa về, trong đó có Lê Hồng Phong tự dưng bị lộ, và kẻ chỉ điểm theo mật thám Pháp là một liên lạc người Hoa? Một điều khác cũng rất quan trọng, đó là tài chính dùng nuôi quân, nhưng Hồ đã ôm trọn khiến cho Hoàng văn Hoan, Vũ Anh và nhiều kẻ khác, đói đến độ phải nhờ vào người Quốc Gia mà sống.

Ðây cũng chỉ là một phần nhỏ, tóm lược về cuộc đời của Nguyễn Tất Thành, qua huyền thoại ‘xuất dương’ tìm đường cứu nước, một con người trăm tên, trăm mặt, thay đổi hình dạng và thủ đoạn chính trị, đâu có khác gì loài tắc kè xanh xanh đỏ đỏ. Ðó mới chính là ‘sự thật về cuộc đời Hồ Chí Minh‘, một chuyện dài không bao giờ kết thúc dù chế độ CSVN có bị giật xập..

Viết từ Xóm Cồn Hạ uy Di
Tháng 7-2009

Mường Giang