Friday, June 12, 2009

Tổ quốc, Danh dự và Trách nhiệm - Hương Trà

Hương Trà

Năm 1967 người da đen của Hoa kỳ vẫn còn bị phân biệt chủng tộc: không được vào trường học của người da trắng, các sinh hoạt ngoài xã hội thường đứng sau người da trắng. Nhưng hôm nay, chính ông Barack Obama (da đen) lại được nhân dân Hoa kỳ bầu làm tổng thống. Tính đa nguyên của nền dân chủ Hoa kỳ đã làm cho thế giới phải kinh ngạc, nền kinh tế và sức mạnh của Hoa kỳ vẫn nằm trong những nước hàng đầu thế giới, điều này chứng tỏ rằng với thể chế đa nguyên thì sức mạnh và ý chí của toàn dân là tất yếu. Có thể bài viết này không thuyết phục được những người bảo thủ, nhưng lương tâm tôn trọng sự thật, tinh thần dân tộc thì ai cũng phải có.

Tổ quốc, Danh dự và Trách nhiệm, đây là niềm tự hào của mọi công dân trong một đất nước có chủ quyền. Cũng vì Tổ quốc-Danh dự-Trách nhiệm mà tiền nhân ta đã phải hy sinh xương máu để giữ vững non sông cho ngày nay toàn dân Việt cùng nhau chung hưởng. Chúng tôi không bịa đặt, vu khống hay thêu dệt hoặc thổi phồng mà chúng tôi chỉ nói lên sự thật khi nhìn lại hiện tình đất nước dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Tất cả những vấn nạn đau thương của dân tộc trong các thời kỳ cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm, công hàm công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của TQ do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 14/9/1958, tết Mậu thân, rồi sau 1975 là đánh đổ tư sản mại bản, dồn dân vào vùng kinh tế mới; tiếp đến là các hiệp ước ranh giới và lãnh hải đã ký với TQ khiến cho đất nước mất Ải nam quan, bãi Tục Lãm, gần hết thác Bản giốc cùng trên 10.000km2 đường biển, đó là những chủ trương lớn của đảng mà nhân dân không được quyền biết, kết quả ra sao cho đến nay chắc mọi người cũng đều biết. Quá khứ đã trôi qua nhưng chúng ta là công dân VN thì phải làm sao để khỏi hổ thẹn với tiền nhân. Đất nước này là của 86 triệu người chớ không phải của riêng 15 con người trong Bộ Chính Trị (BCT) ĐCSVN, đúng như lời nói của cựu thủ tướng Võ văn Kiệt trong những ngày cuối đời: “đất nước này là của chung, không phải của riêng ĐCSVN…. Trước kia tôi nghĩ rằng yêu nước là yêu XHCN. Nhưng nay nghĩ lại thấy rằng yêu nước cũng còn có nhiều đường”. Thiết tưởng đây là lời nói tận đáy lòng mà ông Võ Văn Kiệt muốn gởi gấm cho những thành phần bảo thủ trong đảng phải suy nghĩ lại sau một giấc ngủ dài.

Giờ đây, đất nước đang đứng trước thảm họa diệt vong khi các nhà lãnh đạo VN lúc nào cũng trung thành với “16 chữ vàng” và “4 tốt” đối với đàn anh Trung Quốc còn TQ thì luôn tìm cách xâm chiếm, vơ vét tài nguyên của VN thông qua các hiệp ước, hiệp định mà các nhân vật trong BCT đã âm thầm ký kết với họ. Hiện nay, toàn dân đang phải đối mặt với sự xâm lăng kiểu mới rất tinh vi của TQ, đó là việc khai thác Bauxite tại Tây nguyên nóc nhà của đông dương và huyết mạch của Việt Nam mà tưởng thú Dũng đã khẳng định là: “chủ trương lớn của đảng và nhà nước”, một chủ trương đã được TBT Nông đức Mạnh âm thầm ký với TQ năm 2001, được thủ tướng Dũng triển khai thi hành. Hàng ngàn hecta đất Tây nguyên đã và đang được chủ nhân TQ san bằng, hàng chục ngàn công nhân TQ (có thể là quân nhân) đang hiện diện ngày đêm trên các công trường khai thác, lá cờ TQ đang tung bay khắp nơi trên các công trường của họ ở Tây nguyên, đây là sự thật nhưng chính quyền thì cứ nói là không có. Các tướng lãnh cấp cao trong đảng đã viết thư đầy tâm huyết để can ngăn như: thư của đại tướng Võ nguyên Giáp, thư của thiếu tướng Nguyễn trọng Vĩnh (cựu đại sứ VN tại TQ), thư của trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, báo cáo của thiếu tướng công an Lê văn Cương, thư của các nhà văn Nguyên Ngọc, Lê phú Khải, Phạm đình Trọng. Bảng kiến nghị dừng khai thác Bauxite đầy đủ tính thuyết phục khoa học và được sự đồng tình của trên 1800 nhà trí thức VN trong và ngoài nước, trong đó có tên các nhà khoa học nổi tiếng có nhiều uy tín với quốc tế, bảng tường trình và phân tích của tiến sĩ Nguyễn thanh Sơn (giám đốc Cty Sông Hồng, cũng là thành viên cao cấp của tập đoàn TKV VN chủ đầu tư chính hợp tác với Cty Chalco TQ) về tai hại mà tương lai dân tộc phải gánh chịu từ bùn đỏ khi khai thác Bauxite, cho đến nay vẫn không được các nhà lãnh đạo VN quan tâm đúng mức. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi (nguyên Chủ tịch hội đồng khoa học VN), nhà văn Phạm Toàn, giáo sư TS Nguyễn thế Hùng vì nặng lòng với thế hệ tương lai của dân tộc, muốn cho ĐCSVN khẳng định vai trò vì dân vì nước đúng với khẩu hiệu mà đảng thường tuyên bố đã cùng nhau mạnh dạng khởi xướng Bảng kiến nghị, mặc dù đã được sự đồng tình của hầu hết các nhà trí thức VN ký tên ủng hộ, nhưng chẳng những không được xem xét. Trái lại đã được thứ trưởng Bộ Công Thương Lê Dương Quang phản bác rộng rãi trên các hệ thống thông tin và báo chí bằng những lời lẽ đầy thù hận, vu khống cho các nhà trí thức là “…kém xây dựng, hoàn toàn dựa trên những thông tin sai lạc, dựng chuyện …., thậm chí mang tính kích động đã bị các thế lực phản động xúi giục …”.

Thời gian qua, các nhà đấu tranh ôn hòa cho tự do dân chủ và quyền tự quyết của toàn dân, phù hợp với điều 69 HP hiện hành và các công ước quốc tế mà VN đã ký kết, những cuộc lên tiếng, biểu tình để phản đối hành động xâm lăng của TQ của các thành phần trẻ sinh viên, trí thức yêu nước cũng đều bị quy là theo bọn phản động nước ngoài, rất nhiều người cho đến nay vẫn còn bị tù đầy và số người tuy chưa bị đi tù nhưng vẫn bị quản chế gắt gao và công an thường xuyên gây chuyện. Kỳ thật, những hành động đòi hỏi ôn hòa cho quyền tự do dân chủ, phản đối kẻ xâm lăng, vạch ra những sai sót trong chính sách có hại cho đất nước để những người lãnh đạo đảng nhìn thấy mà kịp thời sửa sai thì lại bị quy chụp là nghe theo các thế lực phản động xúi giục. Không biết đằng sau các khẩu hiệu vì dân-vì nước của đảng, lời nói của Hồ Chí Minh khi còn sống “các vua Hùng có công dựng nước, bác cháu ta phải cố công gìn giữ nước”…. sẽ ra sao trong sự suy nghĩ của mọi người dân Việt hôm nay và mai sau?

Tất cả những sự vu khống, quy chụp để nhằm biểu dương quyền hành của đảng trên các hệ thống thông tin và báo chí trong thời gian qua đối với những cá nhân tranh đấu cho quyền tự do dân chủ, những nhà tu hành lãnh đạo các tôn giáo cho quyền tự do tín ngưỡng đã trở thành câu chuyện thường ngày trong xã hội. Bây giờ lại được chính quyền áp dụng ngay cả những công thần của đảng và các nhà trí thức ưu tú nhất. Nhân dân VN đã trải qua những biến cố đau thương không đáng có từ khi ĐCSVN chính thức ra đời và lãnh đạo nửa phần đất nước. Hàng triệu người con yêu dấu phải hy sinh trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn, hàng trăm ngàn người dân oan phải chịu chết trong cảnh con đấu tố cha, vợ đấu tố chồng, thân nhân dòng họ, xóm làng đấu tố lẫn nhau để rồi sau đó nhận lại lời xin lỗi và những giọt nước mắt muộn màng của người lãnh đạo cao nhất đảng là ông Hồ chí Minh. Những hình ảnh thương đau mà Tổ quốc và dân tộc phải gánh chịu trong sự xâm lăng của TQ năm 1974 ở quần đảo Hoàng sa, năm 1979 ở 6 tỉnh biên giới phía bắc, năm 1988 ở quần đảo Trường sa …v.v… (riêng tại Trường sa, chúng tôi đã xem được đoạn phim mà TQ chiếu trên mạng, nhìn thấy cảnh 64 chiến sĩ VN đứng hàng ngang không chống cự, thế mà hải quân TQ bắn từ người cho đến hết, khiến cho chúng tôi liên tưởng tới cảnh tàn sát dã man của quân đội TQ đối với dân thường vô tội tại các tỉnh mà TQ đi qua năm 1979 mà VN đã liệt kê trong cuốn sách tố cáo tội ác của TQ trước quốc tế được nhà xuất bản Hà nội xuất bản vào cuối năm 1979. Thật là những cảnh tượng kinh hoàng cho dân tộc mà lịch sử chắc chắn sẽ phải ghi nhớ mãi). Chúng tôi nghĩ: quá khứ rồi cũng phải đi qua, nhân dân VN với lòng khoan dung cùng với tinh thần hòa hợp và đoàn kết để hướng tới một tương lai đầy xán lạng cho quê hương, đây là lòng tha thiết của toàn dân và cũng là trách nhiệm của các cấp lãnh đạo chính quyền.

Chúng tôi luôn tin rằng: rồi đây các nhà lãnh đạo sẽ nhìn ra được sự thật để có chính sách phù hợp với trào lưu tiến bộ của thế giới, phù hợp với ý nguyện của toàn dân để những trí thức và thế hệ tuổi trẻ VN trong và ngoài nước đem hết khả năng trí tài phục vụ đất nước. Tuy nhiên hiện nay, trong sự hèn yếu của các nhân vật tối cao trong BCT bắt buộc chúng tôi phải lên tiếng và sẽ có hành động cứu nguy đất nước trong tương lai, đúng như lời khẳng định được ghi trong thư ngỏ số 2 của các nhà trí thức khoa học VN gởi quốc hội: “Nhân dân VN dựng nước được thì sẽ giữ nước được”. Với sự liên hoàn của quốc tế ngày nay, TQ sẽ không bao giờ dám dùng vũ lực để xâm lăng VN, nhưng họ sẽ dùng thế mạnh của họ nhắm vào những nhân vật lãnh đạo đảng là những người chỉ biết quyền lợi cá nhân, sẵn sàng chìu theo ý muốn của họ. Nếu như trường hợp này xảy ra theo kế hoạch của TQ thì quốc tế sẽ bó tay và VN trở thành Tây Tạng thứ 2 của TQ là điều dễ hiểu. Sở dĩ chúng tôi mạnh dạn viết lên những điều này là bởi vì trong thời gian qua 15 nhân vật tối cao của đảng đã quá nhân nhượng TQ, đã hy sinh quyền lợi đất nước quá nhiều.

Thử nhìn kỹ bản đồ đăng ký vùng lãnh hải của chính quyền VN với LHQ, chúng tôi thấy đã bỏ ngỏ quá nhiều các vùng lãnh hải mà đáng lẽ VN phải được hưởng, còn những phản đối và hành động qua lại của VN-TQ trong thời gian qua, đây là một sự dàn cảnh với nhau để xoa dịu lòng căm phẫn của toàn dân. Rất may cho dân tộc VN còn có cộng đồng VN hải ngoại đã vào cuộc, ông Nguyễn Bá Cẩn (cựu thủ tướng VNCH) đã đứng ra làm trung gian cho trên 300 hội đoàn, đoàn thể khắp nơi từ trong và ngoài nước đại diện hợp pháp cho toàn dân VN để đệ trình lên LHQ bắt buộc LHQ phải xét đến quyền lợi chung của nhân dân VN, không được đứng về phía chính quyền ĐCSVN. Chúng tôi tin tưởng rằng: với những chứng lý cùng các tài liệu lịch sử mà ông Cẩn đưa ra trước LHQ rất phù hợp với điều 73 và 76 về luật biển của LHQ, những hòn đảo trong 2 quần đảo Hoàng sa – Trường sa của VN trước khi TQ ngang nhiên dùng vũ lực đánh chiếm sẽ được trả về cho VN. Nếu như không được toại nguyện ngay bây giờ, nhưng đây sẽ là bằng chứng cho các thế hệ con cháu chúng ta sau này khi có đủ điều kiện. Rất tiếc là khi cuộc đấu tranh giành lại những phần đất thiêng liêng của Tổ quốc vừa mới bắt đầu thì ông Cẩn đột ngột qua đời. Hy vọng cộng đồng VN sẽ có người đủ tài đức để tiếp nối con đường chính nghĩa của ông trong sự mong đợi của toàn dân VN.

Trở lại vấn đề khai thác Bauxite Tây nguyên, rõ ràng càng ngày các nhà lãnh đạo CSVN càng lún sâu vào tội lỗi. Những bức thư cảnh tỉnh của các tướng lãnh trong đảng, những kiến nghị của các đoàn thể cán bộ về hưu và cựu chiến binh, đặc biệt kiến nghị của trên 1800 nhà khoa học và trí thức ở trong và ngoài nước cùng loạt bài phản biện của tiến sĩ Nguyễn Thanh Sơn thực sự đã không được chính phủ và quốc hội (hơn 90% là đảng viên) quan tâm. Hệ thống phát thanh truyền hình và trên 700 tờ báo độc quyền của cả nước đang cùng với chính quyền tạo ra một nước VN đầy triển vọng sau khi khai thác Bauxite ở Tây nguyên. Nhưng ông Đoàn Văn Kiển (lãnh đạo tập đoàn TKV) tuyên bố lợi và hại là 50/50. Một chủ trương lớn làm thay đổi cả nền văn hóa Tây nguyên, ảnh hưởng đến tương lai của đất nước được ông Kiển đem ra thực hiện trong một canh bạc 50/50.

- TBT Nông đức Mạnh người đã thường xuyên nói “dân chủ, bân biết, dân bàn, dân làm, bân kiểm tra”, nhưng ông đã quên trong lúc đặt bút ký kết âm thầm với TQ khai thác bauxite từ năm 2001. Không biết trong quá khứ và tương lai còn bao nhiêu những ký kết âm thầm như thế này nữa?

- Chủ tịch QH Nguyễn Phú Trọng tuyên bố: “không phải bất cứ dự án nào cũng đem ra bàn thảo trước QH”. Ông cho rằng các dự án khai thác Bauxite chỉ đạt có 600 ngàn đôla và còn trong thời gian thí điểm cho nên không cần phải đưa vào nghị trình bàn thảo của QH. Khi tuyên bố như vậy chắc ông đã quên rồi câu nói của thủ tướng: “đây là chủ trương lớn của đảng và nhà nước”. Trong thực tế việc khai thác đã và đang đi vào khẩn trương hoạt động với số vốn đầu tư theo như QĐ 167/2007-TTg của thủ tướng Dũng phê chuẩn quy hoạch khai thác bauxite Tây nguyên từ 2007 đến 2025 là 11,8–15,6 tỷ đôla. Lời phát biểu của ông Trọng là vô trách nhiệm đối với đất nước, không xứng đáng là đại biểu QH.

- Chủ tịch nước Nguyễn minh Triết khi nói câu “bất đồng chính kiến là chuyện bình thường”, nhưng ông đã quên rằng trong thực tế những ai không cùng quan điểm với đảng đều bị quy chụp là các thế lực phản động nước ngoài xúi giục, bị quản chế tại gia hoặc ở tù hay công an thường xuyên theo dõi, khống chế công ăn việc làm để nuôi sống bản thân và gia đình.

- Tưởng thú Nguyễn tấn Dũng nói “tôi yêu nhất, thích nhất là trung thực, ghét nhất, giận nhất là giả dối”. Nhưng trên thực tế việc làm của ông lại hoàn toàn khác hẳn như khi ông ký chỉ thị cấm báo chí tư nhân thì ông lại nói đó là theo ý nguyện của toàn dân. Ngày 07/05/2009 ông đến tư gia thăm đại tướng Võ Nguyên Giáp, khi Đại tướng yêu cầu ông dừng khai thác Bauxite thì ông hứa là: chính phủ sẽ tiếp thu ý kiến của đại tướng. Nhưng ngày hôm sau khi tiếp xúc với cử tri Hải Phòng thì ông tuyên bố rằng: chính phủ quyết đưa việc khai thác Bauxite Tây nguyên thành công nghiệp lớn của cả nước.

Trong tương lai, đất nước sẽ ra sao dưới sự lãnh đạo của những con người mau quên như thế? Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau khi xem kỹ thư phúc đáp của ban bí thư TW, đã mạnh dạn viết thư phản hồi cho BCH TW đảng và QH đang trong thời gian nhóm họp với lời khẳng định: khai thác bauxite dù thí điểm cũng phải dừng. Bản báo cáo số 91/BC-CP giải trình trước QH của ông Vũ Huy Hoàng (Bộ trưởng Bộ Công thương) thủ phạm quản lý trang web….gov.vn để cho TQ tự do nói xấu VN, cũng là người chỉ thị cho thứ trưởng Lê Dương Quang vu khống các nhà trí thức, đó là bản báo cáo thiếu khoa học, mập mờ đánh lận con đen càng gây bất mãn thêm cho mọi thành phần trong xã hội. Những lời phát biểu hùng hồn đầy tinh thần trách nhiệm về sự thiệt hại khi khai thác bô-xít của các đại biểu Dương Trung Quốc, Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Lân Dũng là điểm son đầy hào hùng cho dân tộc. Trái lại, lời phát biểu của ông trưởng đoàn đại biểu tỉnh Lâm Đồng và các đại biểu khác ủng hộ việc khai thác bô-xít là hiện thân của ma quỷ trên con đường đưa đất nước và dân tộc xuống vũng bùn đen tối. Tài nguyên và khoáng sản, mỏ dầu ở Hoàng sa-Trường sa, đất đai và các danh lam thắng cảnh ở Ải Nam Quan, bãi Tục Lãm, thác Bản Giốc đã hoàn toàn do TQ hưởng hết rồi. Bây giờ đến Bô-xít Tây Nguyên nữa thì tương lai và các thế hệ con cháu của chúng ta sau này sẽ ra sao?

Các chiến sĩ quân đội và công an với trách nhiệm bảo vệ đất nước và sự bình yên cho nhân dân, sẽ nghĩ gì khi hàng ngày phải tuyệt đối thi hành những mệnh lệnh sai trái từ cấp trên thượng tầng của đảng. Chẵng lẽ vì công danh và đồng lương mà cứ tiếp tục trung thành với một thiểu số người như thế? Xin đừng làm ngơ trước sự tồn vong của dân tộc mình.

Các vị xuất gia tu hành lãnh đạo các tôn giáo chịu sự quản lý của ban tôn giáo và mặt trận chính quyền nhất là Giáo hội Phật giáo Việt Nam GHPGVN), quý Ngài sẽ nghĩ như thế nào khi quý Ngài cũng là công dân VN. Im lặng trước sự tồn vong của đất nước và khổ đau của dân tộc tức là tiếp tay cho điều ác, kết quả ra sao theo luật nhân-duyên-quả trong cuộc đời chắc quý Ngài đã biết rồi, những tấm gương của các thiền sư xưa thời Đinh, Lê, Lý Trần đối với tổ quốc, chúng tôi tin rằng vẫn còn nằm sâu trong tâm của quý Ngài. Trong các ngôi chùa thuộc GHPGVN thường có hàng chữ lớn ĐẠO PHÁP-DÂN TỘC- XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. Chúng tôi nghĩ rằng: Đạo pháp, Dân tộc sẽ mãi mãi được trường tồn vì đó là chân lý, nhưng chế độ xã hội chủ nghĩa theo thuyết duy vật biện chứng mà ông tổ khai sinh ra nó đã tuyên bố: tôn giáo là á phiện. Đây là pháp thường tình của thế gian, dĩ nhiên phải theo quy luật thành, trụ, hoại, không chớ làm sao đồng hành mãi mãi cùng Đạo pháp và Dân tộc được. Quý Ngài đã từng đi công tác đến các nước tiên tiến có nền dân chủ đa nguyên trên thế giới, có nước nào mà chính quyền bắt các tôn giáo phải chủ trương Đạo pháp- Dân tộc-Tư bản chủ nghĩa? Nhà thờ, chùa chiền và cuộc sống của quý Ngài sở dĩ được khang trang và sung túc như ngày hôm nay là cũng nhờ có sự tiếp tay của các tín đồ VN tỵ nạn CS sống ở các nước đó, niềm hạnh phúc đó của quý Ngài chắc chắn sẽ không bao giờ có nếu các tín đồ VN hải ngoại sống trong các nước CS hoặc độc tài quân phiệt. Thực tế cho thấy rằng tôn giáo phải độc lập với chính quyền thì mới giữ đúng con đường Chánh pháp và Chân-Thiện-Mỹ. Người tu hành không làm chính trị, nhưng phải có thái độ chính trị đây là lời nói chân thành và dũng cảm của Đại lão HT Thích Quảng Độ (Xử lý thường vụ Viện Tăng thống GHPGVNTN). Nếu tôn giáo chỉ có tự do tụng kinh, hành lễ, tự do làm phước, thiện dưới sự kiểm soát của chính quyền mà quên đi bổn phận công dân đối với đất nước, chấp nhận và đồng thuận không phản đối với những việc làm độc tài có hại cho đất nước và dân tộc của một thiểu số người lãnh đạo, điều này có đúng với truyền thống của tôn giáo không, nhất là Phật giáo? Nhớ lúc xưa bọn Ma vương đã nói với Đức Phật thời tại thế rằng “bây giờ tôi phá ông không được, thì ông cứ tu chứng đắc đạo và nhập Niết bàn một mình ông, nhưng sau này tôi sẽ cho các con của tôi mặc áo cà sa như ông, lấy giáo pháp của ông để giảng đạo nhưng làm thì theo ý của tôi”.

Chúng tôi tin rằng: dù ở cương vị nào từ quan to nhất, từ vị xuất gia tu hành lãnh đạo tôn giáo cho đến một công dân hoặc tín đồ bình thương, tất cả cũng đều là người VN, cũng đều hưởng thành quả của tiền nhân xưa. Những mất mát đau thương mà nhân dân đang gánh chịu do sự độc quyền lãnh đạo của 15 con người trong BCT. Chúng tôi xin nhường lời giải đáp lại cho những ai còn quá trung thành với những người lãnh đạo đảng, còn quá tin tưởng vào lòng tốt của Trung quốc. Xin đừng để cho tương lai và con cháu của chúng ta sau này phải sống cuộc đời nô lệ và đau khổ vì những việc làm của chúng ta ngày hôm nay.

Sài Gòn, ngày 10/06/2009
Hương Trà
http://www.huongtra13@gmail.com

Súc vật hóa con người - Ngô Nhân Dụng


Ngô Nhân Dụng

Trong Hồi Ký của Một Thằng Hèn, nhạc sĩ Tô Hải tố cáo “Âm mưu súc vật hóa con người được tiến hành rất có tổ chức” của đảng Cộng Sản ở Việt Nam, “là tội lớn thứ hai sau tội giết người.” Vì nó biến đổi hệ thống giá trị của nhiều thế hệ người Việt khiến cho bây giờ họ thấy “không có gì quý hơn đồng tiền!”. (trang 398)

Vì không được cơ hội bảo vệ phẩm giá con người cho nên, Tô Hải kể, “Cha con, vợ chồng sẵn sàng kiện cáo, tranh cướp, thậm chí đâm chém nhau” chỉ vì muốn giành nhau một mối lợi. Ông nêu thí dụ một nhà thơ nổi tiếng đã kiện con trai của mình để giành lại một mảnh vườn trước căn phòng của một thi sĩ bạn thân đã chết.

Nền tảng đạo đức của nước ta bắt đầu bị phá từ thời cải cách ruộng đất, bây giờ thuật lại nhạc sĩ vẫn còn thấy xấu hổ. Phương pháp đấu tố của Mao Trạch Ðông không chỉ nhắm giết người mà còn có mục đích hủy hoại những quy tắc đạo lý cổ truyền : “Thử hỏi trước kia ở đất nước ta có thời đại nào làng xóm giết nhau, cha bị con đấu tố, vợ chỉ mặt chồng giữa sân đình gọi là ‘thằng kia!’ rồi đưa ra đầu làng bắn bỏ hay không ?”( trang 235)

Vì sợ hãi guồng máy độc tài cho nên, Tô Hải thú nhận, “Tất cả chúng tôi đều sống giả, sống bằng cái đầu và trái tim của người khác... chính tôi, một nạn nhân đồng thời cũng là một tội đồ... là kẻ cố bám lấy cuộc sống, cố nuốt mọi cục phân thối hoắc... mà vẫn làm ra vẻ tươi cười.” (235)

Nhà văn Solzhenitsyn từng nhận xét là một chế độ độc tài cần hai thứ khí cụ: áp bức và dối trá, có cái này phải có cái kia, thiếu một cái không được. Người nào đã chọn cai trị dân theo lối độc tài thì hệ quả tất nhiên là người đó phải dùng cả hai khí cụ: Phải khủng bố, áp bức dân. Và phải dựng lên một bộ máy dối trá, che đậy, lừa bịp cả thế giới.

Ðấu tố, giết người, là nhưng phương cách tiêu diệt những thành phần khó kiểm soát, đồng thời cũng đe dọa những người khác. Nếu không dụ dỗ được thì ép buộc các văn nghệ sĩ phải “làm ra vẻ tươi cười” đóng vai trò “cung văn,” “minh họa,” đó là guồng máy dối trá giúp bảo vệ chế độ.

Chế độ Cộng Sản ở Việt Nam không sáng chế ra những phương pháp cai trị đó. Chính họ đã học được từ các bậc thầy Mao Trạch Ðông, Stalin và Lenin. Người học trò giỏi của những “đại sư quốc tế” này là Hồ Chí Minh. Ai cũng biết Hồ Chí Minh vẫn đề cao Stalin và Mao Trạch Ðông như các vị thánh sống. “Ông Hồ” nói, theo Nguyễn Văn Trấn kể lại, “Bác cháu chúng ta có thể nhầm chứ đồng chí Stalin không thể nào nhầm được.” Ông cũng nói, “Những điều gì cần viết đã có Chủ Tịch Mao Trạch Ðông viết cả rồi, tôi không cần viết sách nữa.”

Nhưng các bài học quan trọng nhất giúp Hồ Chí Minh thành công trong việc chiếm chính quyền ở nước ta không phải do sách vở dạy mà do kinh nghiệm sống của chính ông. Ông Hồ đã có mặt ở Liên Bang Xô Viết trong những năm chế độ này thi hành các chính sách đàn áp tàn bạo cũng như những vụ xử án dối trá chưa bao giờ thấy trong lịch sử.

Bài học lớn mà Hồ Chí Minh học được ở cả Liên Xô lẫn Trung Quốc là trong lúc thời thế tao loạn thì kẻ nào tàn ác nhất cuối cùng sẽ thắng. Bá thuật sẽ thắng vương đạo. Ðạo đức, nhân nghĩa, chỉ để nói, để tuyên truyền mà thôi; nếu lấy nhân nghĩa ra dùng thì cũng chỉ nên dùng trong thời bình. Còn trong thời loạn, ai dám giết nhiều người kẻ đó sẽ làm chúa thiên hạ. Hồ Chí Minh đã là một Tào Tháo của nước Việt Nam, lại được Stalin đào luyện những bá thuật quốc tế mới do Lenin truyền dạy nữa.

Nhóm Bôn Sơ Vích và Lenin đã thắng trong cuộc nội chiến Nga 1917 - 1920 vì họ dám giết người tàn bạo nhất so với các phe khác. Chế độ Cộng Sản mà Lenin dựng lên đã tồn tại được cũng vì sau khi cướp quyền được rồi họ vẫn dám giết hết những người có ý kiến chống đối. Nếu quá tay giết cả những người không chống mình cũng không sao! Ðó là quy tắc luân lý mới của Lenin nhưng cũng là một quy tắc xử sự của Tào Tháo: Thà mình phụ người còn hơn người phụ mình! Stalin theo đúng chính sách đó để củng cố quyền hành cá nhân, bằng cách tiêu diệt ngay các đồng chí cũ có thể cạnh tranh với mình. Hồ Chí Minh có mặt ở nước Nga trong những năm khủng bố nặng nề đó, ông đã nhập tâm. Và sau này ông lại học được thêm các phương pháp của Mao Trạch Ðông, ông đủ thông minh để thấy Mao còn hay hơn Xít vì thường giết người mà không cần dùng đến đội hành quyết. Ðem người ta ra đấu tố, bỏ đói cho tới chết; dùng “quần chúng nhân dân” làm quan tòa buộc tội, xử tử hình; cùng lúc đó dùng đội ngũ văn công ca ngợi tội ác của mình; đó là những phương pháp Mao Trạch Ðông đã dùng rồi được Hồ Chí Minh áp dụng một cách trung thành.

Người ta thường chú ý đến những tội ác của Stalin mà không chú ý đến thời Lenin sống ngắn ngủi. Trong cuốn sử The War of the World, Niall Ferguson chép một bức thư mà Lenin gửi cho các người lãnh đạo Bôn Sơ Vích ở Penza, ngày 11 Tháng Tám năm 1918, ra lệnh họ phải giết những “phú nông” (kulak) để thực hiện việc cướp thóc lúa nuôi Hồng quân:

“Các đồng chí ! Bọn kulak nổi lên phải bị đè bẹp không thương xót... Phải hành động để làm gương cho chúng thấy. 1) Treo cổ (tôi nhấn mạnh, treo cổ để mọi người phải trông thấy) ít nhất 100 tên kulak hút máu người. 2) Công bố tên họ chúng nó. 3) Lấy hết thóc lúa của chúng nó... Phải làm sao để trong vòng 100 dặm chung quanh mọi người đều phải thấy, phải biết chuyện, phải run sợ, và kêu lên với nhau : Họ đang đi giết bọn kulak và họ sẽ đi giết hết bọn kulak...

Tái Bút: “Hãy dùng các đồng chí cứng rắn nhất!” (trang 150)

Không lãnh tụ nào trong cuộc nội chiến ở Nga dám ra lệnh cho phe mình giết nhiều người như đám Bôn Sơ Vích dám làm. Ferguson tính là không kể các người chết vì chiến tranh, “trong những năm từ 1918 đến 1920 có 300,000 vụ hành quyết vì lý do chính trị. Không phải chỉ có những người thuộc các nhóm đối nghịch bị giết mà cả những người Bôn Sơ Vích cũ dám cả gan phản đối đám lãnh tụ mới.” (trang 152)

Dưới thời Lenin, trại lao động tập trung đầu tiên đã được lập ra, đến năm 1920 đã có mấy trăm trại tập trung, làm mẫu cho những trại giam sau này mà Stalin và Hitler bắt chước. Chính tổ chức mật vụ (Cheka) nảy ra sáng kiến “cải tạo” các tù nhân bằng lao động khổ sai. Trại Solovetsky lập ra năm 1923, sang năm 1924 được chính thức gọi là trại cải tạo. Với sáng kiến của Naftaly Aronovich Frenkel, một tù nhân người gốc Do Thái được tuyển để đóng vai cai tù, trại này có chính sách cho những người tù khỏe mạnh ăn no, còn người yếu cho chết đói không sao. Theo Ferguson thì dưới thời Stalin có ít nhất 18 triệu người, đàn ông, đàn bà, và trẻ con đã đi qua các cổng trại tập trung cải tạo (Mao Trạch Ðông có sáng kiến gọi là Lao Cải : Cải tạo con người bằng công việc lao động). Nhưng con số những người đã bị công cuộc tập thể hóa nông nghiệp của Stalin buộc vào đường cùng phải chết đói còn cao hơn nữa.

Ðối với các vị Chúa Ðỏ thì những cái chết đó không có gì đáng kể. Một cán bộ của Stalin giải thích cho cấp dưới nghe về cuộc đấu tranh giữa đảng Cộng Sản và các nông dân không chịu vào tập thể, “Năm nay là một năm đấu sức giữa chúng ta với chúng nó coi bên nào mạnh hơn. Phải qua một trận đói chúng mới biết ai làm chủ. Hàng triệu người đã chết, nhưng chương trình tập thể hóa nông nghiệp sẽ tồn tại mãi mãi. Chúng ta đã thắng!” (trang 204)

Hồ Chí Minh đã chứng kiến những cảnh đó khi tới Nga lần đầu để được đào luyện trong trường cán bộ quốc tế của Stalin, với vai trò đem chủ nghĩa Cộng Sản gieo rắc khắp nơi trên thế giới. Không phải Lenin hay Stalin nói, mà chính Trotsky đã nói câu này, “Con đường dẫn tới Paris và London đi qua Afghanistan, vùng Punjab và Bengal (Ấn Ðộ).” Dù Stalin đã giết Trotsky nhưng ông ta vẫn theo tấm bản đồ bành trướng đó. Trong số các cán bộ được Stalin đào tạo, hai người thành công nhất là Kim Nhật Thành ở Bắc Hàn và Hồ Chí Minh ở Việt Nam.

Cho nên chúng ta không ngạc nhiên nếu Hồ Chí Minh đã sử dụng tất cả các phương pháp dùng bạo lực và dối trá mà Stalin đã thử dùng rất có hiệu quả trong việc cướp quyền hành và củng cố quyền hành. Các phương pháp khủng bố bằng bạo lực ở nước ta có thể nói đã giảm bớt cường độ so với các gì Stalin đã làm, vì văn hóa phong tục Việt Nam khác với tác phong của người Nga. Về bạo lực, chính Mao Trạch Ðông mới là khuôn mẫu mà Hồ Chí Minh đã noi theo. Nhưng về mặt dối trá thì giữa Mao và Stalin không khác gì nhau. Việc sử dụng các văn nghệ sĩ vào việc đánh bóng chế độ, ca ngợi lãnh tụ đã được Stalin dùng trước, sau đến Hitler và Mao Trạch Ðông. Hồ Chí Minh đã áp dụng giống hệt ở Việt Nam.

Chính nhưng hành động đó là cái Nhạc sĩ Tô Hải gọi là “súc vật hóa con người.”

Khi một chế độ độc tài chỉ dùng bạo lực để giết chóc, đe dọa dân, khủng bố dân, thì họ độc ác nhưng vẫn chưa phi nhân.

Có những chế độ không những độc ác mà còn tìm cách hạ thấp nhân phẩm của mọi người dưới quyền, khiến cho họ trở thành hèn hạ, mất tư cách. Ðó mới là biến con người thành “súc vật” thật sự. Tất nhiên, muốn làm cho tất cả mọi người trở thành hèn hạ, đê tiện thì trước đó phải dùng đến các biện pháp tàn ác để đe dọa. Nhưng cái tội biến con người thành những kẻ hèn hạ, mất cả khái niệm về nhân phẩm còn kinh khủng hơn nữa. Tô Hải cho cái tội “súc vật hóa con người” đứng hàng thứ hai sau tội giết người. Có thể đổi lại cũng được. Tội giết người không nặng bằng, nếu vẫn để cho các nạn nhân ngẩng đầu lên chết xứng đáng làm người. Còn hơn bắt người ta sống như súc vật.

Ngô Nhân Dụng

Tô Hải có hèn không? - Ngô Nhân Dụng

Ngô Nhân Dụng

Tôi đã đọc hết cuốn hồi ký của Nhạc sĩ Tô Hải. Hơi tiếc, vì ông viết ngắn quá; chỉ có hơn 500 trang giấy in. Vừa đọc vừa tiếc. Vì có lúc đang theo ông qua những đoạn đường, trong bụng chờ sắp được nghe ông kể tiếp một chuyện đang nói nửa chừng, thì ông lại nhảy sang chuyện khác. Tiếc, và trách tác giả không để thêm thời giờ kể rõ ngọn ngành cho người đọc biết thêm. Nhưng khi nghe Tô Hải giải thích trong cuộc phỏng vấn với Ðinh Quang Anh Thái (sắp đăng trên báo này) thì hiểu tại sao. Tô Hải không có ý kể câu chuyện cuộc đời mình. Ông bảo, trong cuốn sách này, “tôi chủ ý chỉ viết về cái hèn của tôi thôi.”

Hình bìa cuốn "Hồi ký của một thằng hèn"
Như vậy thì hiểu được, vì tên cuốn sách đầy đủ là “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn,” như những lời thú tội về cái hèn của mình, một cái hèn đeo mãi trên một con người, kéo dài hơn nửa thế kỷ. Ðến năm gần tuổi 70, con người đó mới chợt thấy phải kể lại mình đã sống hèn như thế nào, và bắt đầu thú nhận.

Một điều cảm động, là tác giả muốn thú tội với thân phụ của ông trước hết. Vì trước khi ông bỏ nhà đi rồi gia nhập đảng Cộng Sản vào năm 17 tuổi, cụ thân sinh đã bảo thẳng người con trai lớn đó là đã “bị Cộng Sản nó lừa”. Không những thế, cụ còn dọa mai mốt có trốn cộng Sản chạy về nhà thì cụ sẽ đuổi đi, không nhận làm con nữa. Cả cuộc đời hai lần Tô Hải mong được gặp lại cha mẹ và các em, một lần năm 1954 khi trở về Hà Nội, và lần sau năm 1975 khi tìm vào Sài Gòn.

Cuối cùng thì ông chỉ gặp lại cụ thân sinh trên những trang giấy của cuốn hồi ký này. Ông đã kể lại một đời sống cam tâm chịu hèn không phải của riêng ông mà còn bao nhiêu những người trí thức bị trói buộc trong guồng máy “chuyên chính vô sản” nên họ đành phải làm tay sai cho đảng Cộng Sản.

Cuốn hồi ký kể biết bao nhiêu câu chuyện như một bức bích họa cho thấy tấm thảm kịch đổ lên đầu dân tộc Việt Nam trong thế kỷ trước, nó hủy hoại nền tảng đạo lý trong xã hội và làm tê liệt lương tâm của từng cá nhân.

Tai họa đó là do cách cai quản con người đã được Stalin sáng chế và Mao Trạch Ðông biên cải cho thích hợp với văn hóa phong tục Á Ðông, rồi được Hồ Chí Minh hết lòng áp dụng nước ta. Ðó là một guồng máy kiềm thúc, cai quản, ràng buộc đó đã biến hàng triệu con người trở thành những tên hèn, ngay cả những người đóng vai kiểm soát những người khác.

Có một đoạn chúng ta không thể nào quên, là năm 1956 khi Tô Hải đi “liều mạng” trở về Thanh Hóa tìm “cứu đứa con trai”. Hai vợ chồng ông đều phải đi làm công tác văn nghệ với quân đội trong thời kháng chiến cho đến sau khi hòa bình, cho nên họ đã gửi đứa con thứ hai này cho ông bà ngoại nuôi. Ông kể, “Gia đình vợ tôi chẳng có một tấc đất nào, nhưng bị đẩy lên ... (hàng) địa chủ.”

Trong thời gian cải cách ruộng đất đó, các cố vấn đã chỉ thị mỗi làng phải có mấy phần trăm là địa chủ, mấy phần trăm là phú nông, bao nhiêu là trung nông, vân vân, đúng như tỷ số theo thống kê từ bên Trung Quốc đã làm. Nếu một làng không đủ người đúng tiêu chuẩn vào mỗi hạng thì những người ở hạng dưới được “đôn lên” hạng trên. Nhưng thân phụ bà Tô Hải là cụ Nguyễn Ðăng Quỳ vốn không phải là địa chủ, cũng không phải người ở vùng quê Thanh Nghệ này. Ông đã đi theo Nam Bộ Kháng Chiến chống Pháp. Sau đó ông đã bỏ tất cả gia sản ở miền Nam đưa gia đình chạy ra Bắc, sống ở thành phố Vinh.

Tô Hải kể, “Khi Vinh bị tiêu thổ kháng chiến, ông mua một mảnh vườn sát chân núi Diễn Châu.” Nhưng Ðội Cải Cách đã “lôi ông già ra đấu,” họ tra hỏi ông tại sao mua đất, làm vườn ở nơi không phải quê quán mình, “Có phải để bóc lột nông dân hay không?” Họ đặt ra những lời kết tội bịa đặt khác, mà tác giả viết, “Tất cả lý lẽ đưa ra chỉ nhằm mục đích chiếm bằng hết những gì có thể chiếm: Giường tủ, bàn ghế, quần áo, mâm đồng, chậu thau, bát đĩa, ấm chén,... Phải kiếm cho ra một cớ gì để trấn lột công khai. Tôi thì chụp cho (ông cụ) cái mũ ‘kẻ thù giai cấp’ là xong.”

Sau khi bị cướp mất hết, từ cái quần cho đến cái bát đã mẻ, cả gia đình cụ Nguyễn Ðăng Quỳ bị giam tại chỗ ở chân núi, chỉ còn cách sống bằng ăn rau, lá kiếm được trên núi, trong cánh đồng. Hình phạt này là cách bắt những người bị tố chết đói hoặc tự tử. Nhiều người đã tự tử.>

Gia đình ông cụ có hai con trai và một con rể (tức Tô Hải) đi bộ đội đánh nhau với Pháp. Khi cụ ông bị đem đấu tố thì Tô Hải và một người con trai của cụ đều biết nhưng không ai dám về thăm bố. Họ phải “dứt khoát với kẻ thù giai cấp” để bảo toàn mạng sống của chính họ và gia đình nho nhỏ của họ.


Nhưng vợ chồng Tô Hải còn đứa con bé gửi ông bà ngoại, đứa bé cũng đang nằm trong “vòng vây của những ông bà nông dân.” Họ phải cứu lấy con! Tô Hải may mắn nhờ một người bạn cũ giúp, ông này là một cán bộ lớn thuộc Ðoàn Ủy Cải Cách Ruộng Ðất. Người bạn nhân danh chức vụ đó viết một tấm giấy ra lệnh tên địa chủ Nguyễn Ðăng Quỳ phải trả cho “Ông bộ đội Tô Ðình Hải” đứa con trai của ông đã gửi ở nhà tên địa chủ dù không có họ hàng thân thích gì hết.

Tô Hải kể, “Sáng sớm chưa rõ mặt người, tôi thấy bố vợ tôi mặt mày sưng vù, răng cửa rụng gần hết vì bị đánh, mang tới trụ sở một thằng bé, không, một cái xác trẻ con gầy guộc xám ngoét. Ðó là thằng con yêu quý của tôi. Nó chỉ còn thở thoi thóp sau bảy ngày chỉ sống nhờ những lá rau lang, mà ông bà ngoại ngắt về từ mấy luống khoai trồng trước nhà, mớm cho ... Tôi cắn răng ôm lấy con, không kịp nói một lời an ủi bố vợ. Vì các ông bà nông dân đã đuổi quầy quậy ngay sau khi ông trao trả cháu ngoại ...”

Cảnh ông ngoại trả cháu cho bố nó mà không được dặn dò, thăm hỏi một câu; người con rể không dám nói một lời cảm ơn bố vợ; đó là hình ảnh người đọc không thể nào quên được.

Cả xã hội Việt Nam đã phải sống với nhau như vậy trong những năm “long trời lở đất” khi Hồ Chí Minh quyết tâm theo đường lối cách mạng của Mao Chủ Tịch. Chính Tô Hải đã soạn một bản nhạc ca tụng Hồ Chí Minh lấy nền dựa trên giai điệu của bài Ðông Phương Hồng mà bên Trung Quốc dùng để ca ngợi Mao Trạch Ðông! Liệu ai trong chúng ta có can đảm hành động khác với Tô Hải trong khung cảnh đó? Có ai nhất định phải sống ngay thẳng, sống có đạo nghĩa, không chịu sống hèn hạ từ bỏ cả cha mình hay không? Không biết được. Người không sống trong guồng máy kìm kẹp tàn bạo của Stalin thì không thể biết mình sẽ ứng xử như thế nào cho xứng đáng làm người. Người bạn giúp Tô Hải tấm giấy giới thiệu cho đi “đòi con” chính anh ta sau này cũng bị khai trừ khỏi đảng Cộng Sản, và “khai trừ khỏi ... mặt đất” khi bị thất sủng.

Nhưng chúng ta có thể biết chắc là nhạc sĩ Tô Hải không hèn. Ông đã dành hàng chục năm cuối của cuộc đời kể tội chính mình. Ông nằm trên giường bệnh nhưng vẫn vào mạng lưới Internet, trở thành người giữ blog lớn tuổi nhất Việt Nam, nêu gương sáng cho lớp thanh niên. Thông điệp ông gửi cho giới trẻ, cho đồng bào, cho cả những người từng là đồng chí của ông còn trong đảng Cộng Sản, là: Chúng ta không được phép sống hèn nữa. Thế giới đã thay đổi. Phải trở lại làm người!

Phải can đảm phi thường thì một người ở tuổi 83 mới làm được công việc đó. Nhất là trong lúc guồng máy di sản của Stalin và Hồ Chí Minh tuy đã xộc xệch sắp tàn nhưng vẫn còn ngự trị trên đất nước chúng ta. Tô Hải đã thú tội với thân sinh ông. Với nhạc phụ ông. Bao giờ thì những người trong cả guồng máy kìm kẹp trên cũng biết ăn năn thú tội?

Ngô Nhân Dụng
*
* *

Hồi ký Tô Hải: Âm vang một thời kinh hoàng của đất nước
Trần Khải

Tác phẩm “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn” của nhạc sĩ Tô Hải sẽ được giới thiệu vào 2 giờ chiều Thứ Bảy, 13 Tháng Sáu, 2009 tại hội trường Nhật Báo Người Việt ở Quận Cam. Hồi ký này đã thực sự vượt ra ngoài chức năng hồi ký: đây là các trang sách viết cho những thế hệ sau, rằng có một thời đất nước mình như thế, một thời theo chủ nghĩa Cộng Sản và bóp nghẹt mọi tự do của từng người dân và đã biến toàn dân trở thành một thứ nô lệ mới, nơi đó các chủ nô rao giảng một lý tưởng đầy máu và nước mắt.

Tác giả viết và ý thức rằng mình chắc chắn sẽ bị công an vùi dập thô bạo, nhưng ông lo sợ rằng sự im lặng của ông sẽ làm kéo dài thêm cái chế độ CS phi nhân này. Không hèn tí nào, nhạc sĩ Tô Hải đã rời tay đàn, ngồi vào bàn máy vi tính và gõ xuống những dòng chữ ông biết là sẽ mang tai họa tới cho ông, nhớ tới những bạn đồng ngũ cùng đi kháng chiến từ thời mới lớn và rồi bị guồng máy đảng trấn áp, nhớ tới các bạn văn nghệ sĩ một thời đi giữa mưa bom ra trận chống Pháp và khi về Hà Nội lại bị lùa vào một dàn đồng ca vĩ đại, nhớ tới hàng triệu đồng bào bị đấu tố trong cải cách ruộng đất và chết oan ức... và như thế, ông viết với một ký ức gìn giữ từ nhiều thập niên, và từng chữ gõ xuống mang theo ước mơ rằng dân tộc Việt sẽ sớm thoát khỏi khổ nạn có tên là Cộng Sản này.

Và như thế, nhạc sĩ Tô Hải đã lặng lẽ viết tập hồi ký trong nhiều năm. Giữ kín, giữ bí mật trong nhiều năm vì sợ công an trấn áp. Từng trang sách hiện lên màn hình vi tính lặng lẽ, và đã trở thành một bản giao hưởng không lời mà nhạc sĩ Tô Hải muốn gửi lại đời sau. Như thế, không cần tới các nhạc khí và các dòng nhạc phức tạp, cuốn “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn” của nhạc sĩ Tô Hải đã để lại những âm vang tuyệt vời, hiển hiện cả một thời kinh hoàng của đất nước.

Ngồi tại căn nhà ở vùng ngoại ô Nha Trang, nhạc sĩ Tô Hải viết tập hồi ký để đời sau biết về, như trang 415:

“Cái gọi là chủ nghĩa Cộng Sản chính là một tà giáo đại bịp nhất trong lịch sử loài người mà những tên lãnh tụ tối cao của chúng dựa vào để gây chiến tranh nồi da xáo thịt, để tiến hành âm mưu hiểm độc tiêu diệt mọi lòng tin khác, mọi nhận thức, mọi tình cảm, mọi tình yêu, kể cả lòng yêu nước của con người.”

Nhạc sĩ Tô Hải, tức Tô Ðình Hải, sinh năm 1927 tại Hà Nội, học chữ và học nhạc ở các trường Công Giáo Hà Nội; mùa thu 1945 đậu xong Bậc I (Tú Tài I chương trình Pháp) thì gia nhập Vệ Quốc Ðoàn, tốt nghiệp hai trường Quân Chính Nguyễn Huệ Khóa I và Lục Quân Trần Quốc Tuấn Khóa V. Nhờ có tài năng âm nhạc, ông trở thành một nhạc sĩ cho cuộc kháng chiến chống Pháp, và đã sáng tác hàng trăm ca khúc, trong đó có những bản nổi tiếng như Nụ Cười Sơn Cước, Trở Lại Ðô Thành... được trao tặng nhiều giải thưởng, huân chương, huy chương do các nhân vật như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Trần Ðức Lương ... ký.

Lời giới thiệu của nhà xuất bản Tiếng Quê Hương ghi thêm về tác giả Tô Hải, “Hiện nay, ở tuổi 83, ông sống tại Sài Gòn, bệnh tật, di chuyển khó khăn, nhưng 'vẫn làm việc nằm' bên computer và là blogger già nhất nước kêu gọi sự thức tỉnh từ bỏ chế độ Cộng Sản để tìm lại sự sống cho người dân đã bị hủy hoại từ mùa Thu 1945.”

Tập hồi ký này không ai có thể trích dẫn mà nói lên cho đầy đủ những hình ảnh của đất nước được ghi lại trên trang giấy. Cuốn sách 540 trang chứa đựng nhiều thông tin tới mức không thể nói cho gọn. Nơi đây, chúng ta ghi lại một phần về lời nhạc sĩ Tô Hải kể về họa sĩ Dương Bích Liên (1924-1988), người đã tuyệt thực tới chết để bày tỏ tinh thần phản kháng chế độ.

Như ở trang 515, nhạc sĩ Tô Hải kể lại về họa sĩ Dương Bích Liên:

“Ðó là lần đầu ở nước Việt Nam có một văn nghệ sĩ xin ra khỏi Ðảng rồi tự tử (hay tự xử mình) bằng cách nhịn ăn, chỉ uống rượu trong 30 ngày, tiêu hủy toàn bộ tác phẩm còn lưu giữ, tài liệu, thư từ, bản thảo, ghi chép ... để ra đi không một lời nhắn nhủ gì cho bạn bè, hậu thế... Phải chăng vì ông đã trót 'được' (hoặc 'bị') trao giải thưởng cao nhất của Nhà Nước (giải thưởng Hồ Chí Minh) mà cái chết của ông phải xếp vào loại chết bình thường?”

Nơi các trang sau, nhạc sĩ Tô Hải kể tiếp về họa sĩ Dương Bích Liên:

“... Ông, người họa sĩ Không Chịu Ðánh Mất Cái Tôi mà chọn con đường câm lặng cho đến lúc về với hư vô! Xin lỗi hương hồn ông, may là ông không vợ con nên tớ được thoải mái viết tất cả những gì suy nghĩ về ông mà không sợ bị kiện ra tòa, kể cả Ban Xét Duyệt Giải Thưởng Hồ Chí Minh nếu bây giờ mới té ngửa ra là: ông là họa sĩ duy nhất không có một tác phẩm nào phục vụ cách mạng cả... ông xứng đáng được tôn vinh nhất trong giới văn nghệ sĩ miền Bắc vì đã chọn con đường sống vì nghệ thuật đích thực, là 'người đầu tiên không hài lòng với các tác phẩm, với công việc sáng tạo của bản thân và tự kết thúc cuộc đời mình bằng cách nhịn ăn... ' (Trích Dương Bích Liên của Nguyễn Hào Hải và Trần Hậu Tuấn. NXB Mỹ Thuật 2003) cho đến chết... 'mọi niềm tin trong ông đều đổ vỡ dần. Và điều kinh khủng đối với ông là ông vẫn sáng suốt để chứng kiến sự đổ vỡ từng ngày.'

... Ông sáng suốt đốt hết tài liệu, thư từ, ghi chép và còn biết dặn lại người bạn thân nhất của ông, nhà nghiên cứu triết học Nguyễn Hào Hải là 'có nguyện vọng muốn được ra đi trong lặng lẽ, đưa tang có lẽ chỉ cần đặt quan tài lên một cỗ xe ngựa đơn sơ, và rời thành phố vào sáng sớm, theo tiễn chỉ cần một đứa trẻ ăn mặc chỉnh tề... ' (Trích như trên)

... Với tớ, Dương Bích Liên là người nghệ sĩ đích thực, đau khổ và dũng cảm duy nhất của miền Bắc Việt Nam.”

Nhạc sĩ Tô Hải giải thích rằng, “...suốt hai cuộc kháng chiến kéo dài 30 năm, tuy 'đi theo Cách Mạng,' Dương Bích Liên chẳng hề có tác phẩm nào 'chiến đấu và sản xuất' cả, ngoài tấm Bác Hồ Qua Suối mà khi xem thấy cứ buồn ơi là buồn: một ông già đơn độc và một con ngựa nhỏ tí giữa bạt ngàn rừng xanh xám và một dòng suối hung dữ! Không bóng người nào bên cạnh ông già?” (trang 518)

Nhạc sĩ Tô Hải kể, họa sĩ Dương Bích Liên được cử lên sống bên cạnh ông Hồ ba tháng để vẽ “Bác,” nhưng Dương Bích Liên chỉ có một bản ghi chép, không bao giờ trở thành tác phẩm. Trong kháng chiến chống Pháp, chẳng để lại gì, và trong “cuộc chiến chống Mỹ,” Dương Bích Liên đi thực tế dưới bom đạn cùng các họa sĩ nổi tiếng thì “khi trở về, ông chỉ có một Chiều Biên Giới, mà theo tớ, nó buồn đến lạnh người, không một màu sáng, trừ mấy cọng cỏ lau bị gió thổi sắp đổ ngã về phía bên kia biên giới không một bóng người... Tác phẩm dính líu đến chiến tranh nhất lại là 'tác phẩm có vấn đề' nhất! Ðó là Hào. Tớ đứng rất lâu trước tác phẩm này để cố 'đọc' những gì mà tác giả muốn gửi gấm. Tớ chỉ thấy buồn và lạnh đến rùng mình! Lần đầu tiên, tớ thấy trong tranh ông có bóng dáng Con Người. Nhưng là những con người bất động, súng không cầm tay mà đeo ngang lưng, chẳng ra tiến chẳng ra lùi, dường như chấp nhận số phận sẽ được 'hào' chôn vùi, những đường hào quá sạch có góc vuông y hệt những... quan tài!” (trang 518)

Tác phẩm “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn” của nhạc sĩ Tô Hải là một cuốn sách cần đọc, cần để trong tủ sách gia đình và dặn con em mình đọc, để biết rằng đất nước của mình như thế.

Trường hợp độc giả ở Nam California. Xin mời tới tham dự buổi sinh hoạt giới thiệu tác phẩm “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn” của nhạc sĩ Tô Hải, từ 2 giờ đến 5 giờ chiều Thứ Bảy, 13 Tháng Sáu 2009. Tại hội trường nhật báo Người Việt: 14772 Moran, Westminster, Nam California. Ðược biết, một số thân nhân của tác giả sẽ có mặt trong dịp này.

Ðây là một tập hồi ký chắc chắn sẽ có ảnh hưởng lớn, không chỉ trong văn học sử sau này, mà còn cho tất cả những người đang mơ ước được sống tự do thực sự, dân chủ thực sự.

Trần Khải
*
* *

Nhạc sĩ Tô Hải

Mặc Lâm
,
phóng viên đài RFA
2009-05-31

http://www.rfa.org/vietnamese/programs/LiteratureAndArts/To-hai-a-senior-dissident-musician-part1-mlam-05312009121737.html

Chương trình Văn Học Nghệ Thuật tuần này xin giới thiệu Nhạc sĩ Tô Hải, một nhạc sĩ nổi tiếng rất sớm của Miền Bắc. Ông được nhiều người biết đến trong thời gian gần đây vì đã tham dự cuộc biểu tình chống Trung Quốc của sinh viên tuy tuổi đã ngoài 80.

Mặc Lâm có cuộc nói chuyện với ông sau đây.

Thưa quý vị, một đoạn ngắn nhạc phẩm "Nụ cười sơn cước" mà quý vị vừa nghe là nhạc phẩm đã đưa nhạc sĩ Tô Hải đến với quảng đại quần chúng Miền Bắc trong thập niên 50. Nhạc sĩ Tô Hải đã dành cho chúng tôi một cuộc nói chuyện lý thú chung quanh việc sáng tác cũng như các hoạt động khác trong suốt cuộc đời ông. Ngoài ca khúc, giao hưởng, nhạc thính phòng, ông còn viết nhạc cho hàng chục vở kịch, bộ phim. Nhạc sĩ Tô Hải còn là dịch giả của hơn chục đầu sách, trong đó có các tác phẩm của những nhà văn lớn như Victor Hugo, Peter Adam...

Tôi thấy các nhà lãnh đạo hiện nay phải nói thẳng là "quá hèn". Trước sự xâm lược của Trung Quốc mà tất cả những bạn bè tôi, những anh em mà tôi gọi là "cựu chán binh" chứ không phải "cựu chiến binh" mà không ai ra ủng hộ các cháu, các em.

Nhạc sĩ Tô Hải

Người nhạc sĩ đa tài này năm nay đã 83 tuổi nhưng vẫn còn ngày ngày ngồi trước máy tính để viết trên trang blog của mình. Có lẽ Nhạc sĩ Tô Hải là một blogger lớn tuổi nhất Việt Nam và những trang viết của ông vẫn còn đậm chất trữ tình, hài hước xen lẫn những lý luận sắc bén trước nhiều vấn đề xã hội. Trước tiên ông cho biết:

NS Tô Hải: Tôi thuộc loại thanh niên trước Cách Mạng Tháng Tám (1945), tôi đã tham gia làm "tự vệ chiến đấu" chuẩn bị để "cướp chính quyền". Rồi đến ngày 2 tháng 9 tôi chuyển từ tự vệ chiến đấu sang Vệ Quốc Đoàn để chống Pháp, để giải phóng đất nước khỏi ách thực dân, chống bất công xã hội. Lúc bấy giờ thanh niên có học không ai là không muốn làm cái chuyện đó cả.

Mặc Lâm: Thưa Nhạc Sĩ, có phải chính thời gian đi kháng chiến này mà ông đã bước vào lĩnh vực sáng tác hay không?

NS Tô Hải: Đúng. Trong thời gian chiến đấu, nhất là khi rút lui lên trên rừng, lúc bấy giờ làm gì có phương tiện gì như tivi, radio, cho nên mình cũng phải nghĩ ra cách làm thế nào để bộ đội người ta vui. Thế là tôi viết kịch, tôi làm nhạc - gọi là làm ca khúc cho đúng chữ hơn. Tôi có khiếu nhạc từ lúc còn học trường dòng, kể cả đi học chữ thì ngày xưa cũng có trường dạy âm nhạc, cho nên tôi có viết một số các sơ lược về các nguyên tắc "composition", "harmonie", cho nên tôi có khá hơn anh em, vì thế tôi làm được một loạt những bài hát như "Nụ cười sơn cước" được phổ biến. Lúc bấy giờ tôi có là nhạc sĩ nhạc siếc gì đâu. Hoàn cảnh lúc bấy giờ gọi là nghĩ cái gì, cảm thấy cái gì là mình viết, chớ cũng chưa phải biết là âm nhạc phải phục vụ chiến đấu gì đâu. Cứ thế là anh em đều làm, mạnh dạn viết. Tôi, Ngọc Bích, Canh Thân đi theo bộ đội thì đều sáng tác theo kiểu khúc thức, thậm chí đến cả giai điệu, cả đến tiết tấu, nhịp điệu là đều ảnh hưởng đủ các thứ, nào là nhà thờ cúng có, hướng đạo cũng có, rồi thì phim ảnh của Pháp, của Mỹ, bắt chước phim Horoshi, cả đến những bài của Nhật Bản lúc bấy giờ nó sang, sau này là đế quốc Mỹ - Bob Hope, cho nên chúng tôi cứ sáng tác thục mạng lên, thế là dần dần bổng dưng nổi tiếng trở thành nhạc sĩ lúc nào không biết.

Mặc Lâm: Có một thời gian ông được học âm nhạc từ các giảng viên nước ngoài, ông có thể kể lại vài điều về thời kỳ này hay không?

NS Tô Hải: Tôi được tập trung cũng với các anh Nguyễn Xuân Khoát, anh Nguyễn Văn Đương, Nguyễn Văn Tý, Vũ Trọng Hối, Trương Ngọc Trác. Chúng tôi được tập trung, bỏ hẳn công việc để mà tập trung vào một nơi và được các chuyên gia nước ngoài dạy cho các hình thức sáng tác khác với lại ca khúc. Chúng tôi được tập trung học 18 tháng tất cả các hình thức nhạc nào mà Việt Nam từ xưa tới nay chưa được học. Nhưng mà khổ một nỗi là trong âm nhạc, học là một việc, còn làm được hay không lại là một chuyện, thì trong số đó anh em chúng tôi chỉ có một vài anh làm được, trong đó có tôi. Thì tôi có viết một số tác phẩm mà bên này thường gọi là "những tác phẩm âm nhạc đích thực"; họ gọi là "composition" đó, thì tôi có được một tác phẩm được khen thưởng và được biểu diễn ít hôm rồi thì là phải xếp, tại vì thời đó chúng tôi làm gì có dàn nhạc giao hưởng, cho nên phải đi mượn cả ở các nơi như trường nhạc, quân nhạc, một số đoàn văn công, cuối cùng tác phẩm cũng sống được một thời gian.

Tình hình như thế này, vào thời buổi này thì làm sao mà giấu nổi mà các nhà lãnh đạo thì cứ giấu! Cái chuyện Trung Quốc ăn dần đất nước của mình cả trong đất liền lẫn ở ngoài biển, thế mà anh em sinh viên chúng nó là con cháu tôi, chúng nó đi biểu tình thì bị các anh đàn áp.

Nhạc sĩ Tô Hải
Tiếng hát người chiến sĩ biên thùy

Mặc Lâm: Trong loạt bài được ông sáng tác ở giai đoạn này có một bài được nhắc tới nhiều đó là bài "Tiếng hát người chiến sĩ biên thùy". Bài này sáng tác vào năm 1958 lúc đó Miền Bắc và Trung Quốc đang trong giai đoạn nồng ấm, nhưng ông đã cảnh báo hãy coi chừng biên thùy phía Bắc. Ông có thể cho biết lý do nào đã thúc đẩy ông sáng tác nhạc phẩm này không?

NS Tô Hải: Tình hình lúc bấy giờ tôi cũng không có ý thức chính trị gì lắm đâu, nhưng mà tôi luôn nghĩ rằng biên thùy là phía Bắc, chứ nước Việt Nam chia đôi thì tôi không nghĩ đó là biên thùy. Thế còn bên Lào với bên Campuchia thì tôi ở trong quân đội nên tôi biết thừa là quân đội của mình đang ở hẳn bên đó, ở Cánh Đồng Chum đánh nhau, hy sinh ở bên đó rất nhiều, thì tôi không nghĩ có chuyện gì bên biên giới Lào. Ý thức của tôi là giữ biên thùy như ông cha chúng ta thường giữ.

Trong các tác phẩm của Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận ngày xưa viết về Ải Chi Lăng, viết về Hội Nghị Diên Hồng, bàn về bảo vệ đất nước, đánh hay thắng thì toàn ở phía Bắc. Cái ý thức của tôi là như thế, nhưng tôi không hề có chữ nào là chống Trung Quốc. Mà nếu bây giờ tôi viết thì sẽ viết khác. Thế nhưng các bài đó lúc bấy giờ phổ biến bình thường. Chỉ có điều là đến thời kỳ Trung Quốc đánh ta năm 1979 thì các bài đấy được phát liên tục. Thế nhưng sau khi hòa hoãn với "16 chữ vàng" và "bốn tốt" thì các bài đấy xếp xó.

Mặc Lâm: Xin mời quý thính giả thưởng thức một đoạn của "Tiếng hát người chiến sĩ biên thùy" do nhạc sĩ Tô Hải sáng tác.

Biểu tình chống Trung Quốc cùng sinh viên VN

Mặc Lâm: Xin quay lại với Nhạc sĩ Tô Hải. Thưa ông, các trang blog trên mạng đã đồng loạt đưa tin về việc ông cùng với các sinh viên Việt Nam biểu tình chống Trung Quốc trong thời gian vừa qua. Xin ông cho biết vài chi tiết về sự việc này.

NS Tô Hải: Tôi thì nói thật là đã lâu rồi tôi chán, thậm chí có lúc tôi rút về ở một cái làng nhỏ ở Nha Trang. Cho nên vào đây tôi ở trên một cái lầu tầng 11, tôi bảo là mình đi tu tiên. Tôi chả dính líu gì đến xã hội, tôi chả sinh hoạt gì, thậm chí đến hội nhạc thành phố mời tôi thì tôi cũng chả dự. Thế nhưng đến lúc thấy chuyện anh em sinh viên biểu tình đúng quá. Tình hình như thế này, vào thời buổi này thì làm sao mà giấu nổi mà các nhà lãnh đạo thì cứ giấu! Cái chuyện Trung Quốc ăn dần đất nước của mình cả trong đất liền lẫn ở ngoài biển, thế mà anh em sinh viên chúng nó là con cháu tôi, chúng nó đi biểu tình thì bị các anh đàn áp. Thì tôi ra đây để cho chúng mày đàn áp.

Chúng nó chỉ có mỗi khẩu hiệu "Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam", "Đả đảo Trung Quốc xâm lược", thế mà anh lại đàn áp.

Nói thật là tôi cũng chỉ muốn ra để hà hơi tiếp sức cho anh em vì nói chung bây giờ anh em sinh viên - thanh niên ở đây không được như thanh niên - sinh viên các nước đâu. Họ bị o ép, họ bị dọa đuổi khỏi học đường. Vì những chuyện đấy mà mình muốn ra để tranh thủ nói được với anh em một vài điều.

Tôi thấy các nhà lãnh đạo hiện nay phải nói thẳng là "quá hèn". Trước sự xâm lược của Trung Quốc mà tất cả những bạn bè tôi, những anh em mà tôi gọi là "cựu chán binh" chứ không phải "cựu chiến binh" mà không ai ra ủng hộ các cháu, các em. Chúng nó chỉ căng cái khẩu hiệu "Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam" thế mà lại đi đàn áp chúng nó, bắt chúng nó. Và hôm đó tôi nói rất nhiều chuyện. Anh em chúng nó có tội tình gì, không hề có một câu nào chống chủ nghĩa xã hội, đả đảo cộng sản, hay là đả đảo ông Triết, ông Dũng gì cả. Chúng nó chỉ có mỗi khẩu hiệu "Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam", "Đả đảo Trung Quốc xâm lược", thế mà anh lại đàn áp. Tại hiện trường họ không dám bắt bớ ai nhưng mà sau này họ tìm rất nhiều cách để họ trù dập, thậm chí họ bắt bằng cách vu cho những tội khác. Tôi thấy mình bây giờ đã 83 tuổi, người ốm yếu như thế này mà mình còn sợ bị bắt cùng với anh em hay sao, cho nên tôi cứ ra, chứ tôi cũng chẳng có cái gan to đến nổi đi đầu ra để làm ông Yeltsin leo lên xe tăng đâu.

Kính thưa quý vị, hồi gần đây nhạc sĩ Tô Hải đã được một nhà xuất bản tại hải ngoại nhận in và phát hành cuốn hồi ký của ông mang tựa đề: "Hồi ký một thằng hèn". Tác phẩm này mặc dù đã lưu hành trên mạng Internet một thời gian nhưng việc in cuốn sách là một bước ngoặc mới đối với sự nghiệp của người nhạc sĩ. Mời quý vị theo dõi buổi nói chuyện với Nhạc sĩ Tô Hải về cuốn sách này trong kỳ phát thanh tới .

*** _ Trong chương trình Văn Học-Nghệ Thuật kỳ trước Mặc Lâm đã có cuộc nói chuyện với Nhạc sĩ Tô Hải qua quá trình sáng tác cũng như việc ông tham gia biểu tình với sinh viên chống Trung Quốc.

Kỳ này người nhạc sĩ tài hoa nhưng bất khuất này sẽ cho chúng ta biết nguyên nhân nào đã dẫn tới việc ông viết hồi ký với một cái tên rất ấn tượng là "Hồi Ký Một Thằng Hèn", sắp ra mắt trong vài ngày tới. Chương trình được thực hiện bởi Mặc Lâm sau đây:

Mặc Lâm: Thưa Nhạc Sĩ, trong kỳ trước thính giả đã được nghe ông trình bày việc ông cùng với sinh viên biểu tình chống Trung Quốc. Trong buổi nói chuyện hôm nay, chúng tôi rất mong được ông kể lại về việc ông viết cuốn hồi ký mà mọi người đang chờ đợi có tên là "Hồi Ký Một Thằng Hèn". Để bắt đầu xin ông cho biết trong suốt bao nhiêu năm làm việc trong vai trò của một nhạc sĩ, ông có nhận xét gì về việc sáng tác của người văn nghệ sĩ Miền Bắc, thưa ông?

Viết theo yêu cầu

Nhạc sĩ Tô Hải: Vấn đề này có lẽ anh hỏi thì anh có thể trả lời được rồi. Tất cả văn nghệ sĩ chúng tôi ở Miền Bắc, anh nào cũng viết theo yêu cầu, theo nghị quyết thì anh đó sống đàng hoàng hơn người dân, nhưng mà đó là sống đời sống vật chất thôi, chớ còn đời sống về tinh thần thì tôi cho rằng một trăm phần trăm là đều thấy khổ. Cả những ông trùm văn nghệ như ông Nguyễn Đình Thi cuối cùng cũng để lại cho đời những lời tuyên bố mà chắc là các anh cũng đã biết, hay là những ông như Chế Lan Viên thì cũng phải viết lại cuộc đời của mình, xin lỗi đồng bào, lỗi tại ai mà ba ngàn người đi đến khi về chỉ còn có 5, lỗi tại ai? thì ông nói là tại ông ấy: "Tại tôi, tôi luôn luôn hô cho người ta xung phong". Ông viết là bây giờ mấy người còn lại thì có tiếp tục viết về quá trình mình phục vụ ở Miền Bắc không. Ông Nguyễn Khải thì các anh chắc cũng biết rồi. Ổng chết rồi, ổng để lại một cái bản là lên án ghê gớm nhất từ xưa đến nay và được phổ biến cả thế giới rồi. Cả cuộc đời là gì? Ổng là đại tá, là đại biểu quốc hội, là ban chấp hành Hội Nhà Văn, nhưng mà cả cuộc đời ổng chỉ là viết những thứ mà ổng tự đặt ra là, ổng tự cho là "một mớ tạp nham, chẳng có chút giá trị gì về văn học nghệ thuật". Nói chung, tất cả những người có ăn, có quyền lợi nhiều nhất từ nhà nước thì bây giờ ông thấy là các cái đó chẳng qua là vì miếng cơm manh áo cho vợ con thôi.

Cho nên một thế hệ văn nghệ sĩ Miền Bắc đã viết toàn những đồ vứt đi, trong đó có tôi.

Tóm lại, chẳng anh nào viết thật lòng cả, cho nên tôi dám nói một trăm phần trăm là kể cả những anh là "quan văn nghệ" viết mà không theo đúng trái tim của mình, mà viết theo yêu cầu. Cho nên chuyện này tôi cho rằng chẳng có anh nào gọi là văn nghệ thật có tên có tuổi mà thấy sung sướng cả. Thì đấy là cái khổ, chớ còn đời sống vật chất thì giữa lúc nhân dân đau khổ, kiếm từng miếng thịt, kiếm từng miếng đậu phụ, thì dân văn nghệ cũng không đến nỗi. Anh nào càng viết được nhiều, càng nịnh bợ được nhiều thì anh đó lại càng được hưởng quyền lợi hơn. Anh vào được cái chức ban chấp hành, anh vào được cái chức tổng thư ký, mà tất cả đều là cơ quan của đảng và nhà nước, thì anh ăn lương. Anh sẽ có một bậc lương, thí dụ như tổng thư ký thì anh ăn lương ngành bộ trưởng. Quyền lợi thì ví dụ như của ông Nguyễn Khải mà tôi vừa giới thiệu đấy, thì ông hơn hẳn chúng tôi, về gia đình, vợ con, nhà cửa, thậm chí có ông như ông tổng thư ký một cái là được về ở ngay chỗ chung với các ông Trần Đức Lương, chung với ông Vũ Bảo mà gần đây một số trang web có đưa lên. Nhưng mà thật tình những cái đó ổng chỉ hưởng là vì ổng làm những việc không đúng trái tim mình. Nguyễn Khải thì ổng có nói là cái giải thưởng Hồ Chí Minh của ổng là một cái bia cắm trên một đời văn học nghệ thuật đã đến hồi chấm dứt.

Tất cả những cái đó anh em văn nghệ ngày hôm nay đều tỉnh ra và thấy rằng tác phẩm của mình bây giờ có ai thèm đọc; thậm chí đưa vào các giáo trình học của các lớp một, lớp hai thì nó cũng thật đáng buồn cười. Ví dụ như đến bây giờ sách học lớp chín vẫn có những bài trích ở trong những bài mà các ông ấy viết ra để ca ngợi cải cách ruộng đất, thì bố mẹ thấy con học những bài đó ai cũng phải buồn cười. Các tác phẩm đó đâu còn là tác phẩm, cho nên cả cuộc đời của các ông ấy bây giờ có cái gì đâu! Ông nào có cái gì thì đều ở trước cách mạng tháng tám thôi. Người ta nói tới Xuân Diệu, nói tới Huy Cận, kể cả ông Nguyễn Tuân thì bây giờ người ta chỉ nói đến những tác phẩm của ổng từ năm 1945 trở về trước, chớ sau 45 cho đến bây giờ ổng có còn cái gì đâu! chẳng lẽ lại kể ổng có tác phẩm về "phở", về "giò chả". Cho nên một thế hệ văn nghệ sĩ Miền Bắc đã viết toàn những đồ vứt đi, trong đó có tôi.

Những anh hùng không có thật

Mặc Lâm: Ông vừa nhắc đến việc học sinh đang phải học những bài học rất khác xa với thực tế. Có phải ý ông muốn nhắc đến những anh hùng như Lê Văn Tám, Tô Vĩnh Diện, Bế Văn Đàn hay là Phan Đình Giót .... theo ông thì những nhân vật này có thật như những gì mà báo chí hay sách giáo khoa viết hay không?

Nhạc sĩ Tô Hải: Những nhân vật đó có thật nhưng mà các nhà báo thường phóng nó lên. Tôi xin nói rằng một cái chết từ kháng chiến chống Pháp cũng vậy, thì tới ông nhà báo là lập tức những nhà báo, gọi là báo cáo láo, báo bộ là bố bạo, đều viết cho nó đẹp thêm thôi, chớ sự thật thì trong chiến tranh chả có chiến tranh nào mà không có cái chết, thí dụ chết khi mà xông lên mà nằm ở lổ châu mai thì cũng là một thứ chết, chết nằm vắt ở trên khẩu pháo thì cũng là chết, chết mà cầm hai cái chân để cho trung liên người ta bắn rồi thì mình chết thì cũng là chết. Nhưng mà các ông nhà báo biến lên thành những thứ gọi là điển hình hóa, là ổng đưa nó lên thành ra muốn ai trở thành anh hùng tự dưng cứ thế mà mấy ổng dệt ra thêm.

Nhưng mà rồi con cái chúng ta nó cứ phải học và nó cứ tưởng là chuyện thật. Cho đến Lê Văn Tám cũng vậy, nó cứ tưởng là chuyện thật.

Mặc Lâm: Riêng về anh hùng Tô Vĩnh Diện thì sự thực như thế nào, thưa ông?

Nhạc sĩ Tô Hải: Tôi có bằng chứng của những người ở ngay cùng đơn vị, cùng tiểu đội đó với Tô Vĩnh Diện, thì đó là một tai nạn. Anh đó là bẻ càng, nhưng mà bẻ cái càng trong lúc kéo pháo lên chớ không phải lao xuống dốc. Kéo lên thì đáng lẽ anh đó đánh tay càng về bên trái thì anh lại đánh cái càng về bên phải cho nên nó mới tuột, nó đè phải anh ấy, chớ không phải anh ấy lấy thân anh ấy để anh chèn cái khẩu súng, chèn cái khẩu pháo. Thì đấy là cách mà báo chí ở cái xã hội này "nói dzậy mà không phải dzậy".

Mặc Lâm: Dù sao thì việc thổi phồng những nhân vật này là tâm lý muốn chiến thắng bằng mọi giá trong hoàn cảnh lúc đó, thưa ông?

Nhạc sĩ Tô Hải: Nhưng mà rồi con cái chúng ta nó cứ phải học và nó cứ tưởng là chuyện thật. Cho đến Lê Văn Tám cũng vậy, nó cứ tưởng là chuyện thật. Ngày hôm nay con tôi nó học Trường Lê Văn Tám, nó bảo là người ta nói không có Lê Văn Tám, đó là những chuyện phản khoa học. Hoặc là những chuyện anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, anh hùng thì có nhưng mà người ta cứ thêu dệt ra thêm, nó không khoa học. Nói thật, một người lấy thân mình bịt lổ châu mai thì ai mà học quân sự đều biết ở phía trong chỉ cần đẩy một cái, là cái xác đó rớt xuống và lại bắn tiếp tục thôi chớ làm gì người đã chết rồi mà còn bịt được lổ châu mai.
Đỏ hóa Miền Nam

Mặc Lâm: Sau ngày giải phóng có nhiều người từ Bắc vào Nam cảm thấy thất vọng về những gì mà nhà nước đã nói cho họ biết trước đó. Chẳng hạn như bà Dương Thu Hương thì bà này đã ngồi bệt xuống vỉa hè để khóc, còn ông lúc đó thì sao?

Nhạc sĩ Tô Hải: Tôi thì tôi cho là bà Dương Thu Hương lúc bấy giờ tuổi của bả cũng còn trẻ, học hành của bả cũng ít, chớ còn bản thân chúng tôi thì biết cả rồi. Xin nói là chúng tôi ở Miền Bắc, những lớp văn nghệ sĩ biết tiếng Tây, tiếng Anh thì chúng tôi thiếu gì tài liệu mà đọc đâu, thậm chí không có thì giờ mà đọc nữa. Cho nên chúng tôi biết rằng cuộc chiến tranh này họ (cộng sản) mà thắng thì dân Miền Nam sẽ khốn nạn. Vì sao? Họ sẽ mang tất cả những gì mà họ đã tiến hành ở Miền Bắc theo đúng cái chủ nghĩa cộng sản theo kiểu Tàu mang vào trong Miền Nam để họ thực hiện. Thế cho nên bà Dương Thu Hương thì bả lạ, mà cũng chưa chắc bả nói thật là phải ngồi xuống vỉa hè mà khóc vì thấy mình bị lừa, thấy cái xã hội này nó không phải như người ta nói. Báo chí (Miền Bắc) nói là trong này bị kềm kẹp, bị đói khổ, bị đế quốc Mỹ xâm lược, vân vân, thì bả khóc. Chứ còn tôi thì tôi chả khóc, tôi chỉ lo, mà không phải lo cho tôi đâu, mà bạn bè chúng tôi, tất cả văn nghệ sĩ nào đã có học thì đều biết rằng đây là một cuộc "đỏ hóa" Miền Nam này, mà đã đỏ hóa Miền Nam này - đỏ theo kiểu Việt Nam, tức cộng sản Việt Nam khác cộng sản Tàu, khác cộng sản Nga ở chỗ là sẽ mất hết, nghĩa là nhà máy, đồng ruộng, và thậm chí đến cả những người buôn bán lẻ, những người mà tôi có viết trên bài "Những người bị ruồng bỏ". Thực tế ai cũng sẽ khổ thôi. Thế còn cái khổ nữa là cái chuyện làm cho hơn một triệu gia đình chờ mong con cháu gọi là "đi học tập 20 ngày" mà sự thật gọi là đi tù thì đúng hơn, mà là đi tù không có án. Thế thì những cái đó chúng tôi trông thấy trước.

Cho nên chúng tôi biết rằng cuộc chiến tranh này họ (cộng sản) mà thắng thì dân Miền Nam sẽ khốn nạn.

Xin được sống trong một xã hội tự do

Mặc Lâm: Thưa những điều ông vừa bày tỏ với thính giả hôm nay cũng là những gì mà cuốn sách mang tên "Hồi ký một thằng hèn" do ông sáng tác chứa đựng. Ông có lo lắng khi cuốn sách này được phát hành rộng rãi sẽ làm cho nhà nước quan tâm đặc biệt đến ông hay không?

Nhạc sĩ Tô Hải: Khi đã quyết định đưa ra thì sự thật tôi không sợ gì nữa và sẵn sàng chờ tất cả những cái gì sẽ đến với tôi. May mắn là vợ con tôi thì cũng hoàn toàn ủng hộ tôi. Và cũng không thể nào trù vợ con tôi để mà bắt tôi phải im hơi lặng tiếng được. Đây, xin mời các ông đến bắt đi, để có dịp tôi dạy cho các ông những bài học yêu nước, những bài học về những sai lầm mà ngày xưa chúng tôi đã phải chịu đựng, mà bây giờ thực tế ra thì các ông đang sửa chữa nhưng các ông không tuyên bố đó thôi. Các ông đã không dám làm cải cách ruộng đất, các ông đã không dám bắt văn nghệ sĩ đi đày, đi cải tạo, trừ những văn nghệ sĩ mà đóng lon thiếu tá trở lên thì các ông bắt đi thôi. Chớ còn ngày xưa ở ngoài Miền Bắc chúng tôi anh em chẳng có đáng cái tội gì, chỉ có cái là tự do viết không theo yêu cầu của các ông thôi là các ông bắt đi "cải tạo". Tất cả các chuyện đó bây giờ các ông đang sửa chữa đấy. Vừa rồi đây tại Huế lại tặng thưởng thêm cho Trần Dần nữa, đưa Lê Đạt vào nhà tang lễ của quốc gia, in lại Phạm Quỳnh, in lại Nguyễn Văn Vĩnh. Tất cả những cái đó là các ông đều làm mà các ông không nói ra. Chớ còn tôi thì bây giờ tôi chỉ nói ra hộ các ông thôi. Tôi thì tôi hy vọng, tôi mong rằng làm sao tất cả mọi người hãy thúc đẩy các nhà cầm quyền hôm nay có nhiều hành động và ứng xử có tiến bộ. Tôi chỉ xin mong dân chủ. Hãy cho chúng tôi được nói. Đừng bịt mồm chúng tôi nữa. Đừng truy tố chúng tôi vì những tội gọi hẳn là cái tội "nháy nháy", là tội yêu nước nữa. Để cho chúng tôi được sống trong một xã hội tự do như là mọi xã hội tự do khác, kể cả xã hội tự do thấp kém nhất là xã hội tự do Campuchia hiện nay mà các ông cũng không cho.

Mặc Lâm: Xin cám ơn Nhạc sĩ Tô Hải về cuộc nói chuyện ông dành cho chúng tôi trong ngày hôm nay.


http://www.rfa.org/vietnamese/programs/LiteratureAndArts/To-hai-a-senior-dissident-musician-part2-mlam-06072009092355.html

RFA Radio phỏng vấn nhạc sĩ Tô Hải



Bi Hay Hài Kịch Của Đám Văn Nô, Bồi Bút Cộng Sản ? - Nguyễn Thanh Ty

Nguyễn Thanh Ty

Kể từ ngày “Chủ trương lớn của đảng ta” là quyết chí “cõng” quân Tàu Ô, cả vạn người vào nước, dưới chiêu bài “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện” để khai thác quặng bô xít, nhưng thực chất đàng sau là nhờ quân Thiên triều của Đại Hán vào trấn thủ Tây Nguyên để bảo kê cho chiếc ngai vàng của mình được “muôn năm trường trị”, đảng Cộng sản Việt Nam, bè lũ “thập ngũ nhân bang” chóp bu trong Bộ Chính trị Bắc Bộ phủ, đã bị búa rìu dư luận trong nước lật mặt nạ, giáng cho những đòn chí tử, tá hỏa tam tinh mặt mày, y như bị thiên lôi giáng.

Chuyện khai thác “bô xít” (beauxite), âm mưu bán nước cho Tàu Cộng – “Chủ trương lớn của đảng ta” - bị “tuyệt đại đa số” nhân dân, từ đại công thần lão tướng Võ Nguyên Giáp đến các nhà khoa học uy tín, văn nghệ sĩ, đại biểu nhân dân… kịch liệt phản đối đã biến thành chuyện “bô xịt” (bull shit). Nhưng bên cạnh đó lại cũng có những tên văn nô, bồi bút cứ bưng tai trước thảm họa của dân tộc sắp đến đã được trưng dẫn, cứ nhắm mắt viết bừa để hoan nghênh “Chủ trương lớn của đảng ta” là “đúng đắn” mục đích chỉ để đảng ban phát cho tí ơn huệ, xem ra rất hài hước.

Duy có điều mỉa mai và buồn cười, những văn nô, bồi bút này lại “lạy ông con ở bụi này” than thở rằng “cái sự viết” đó là “bi kịch” của đời mình.

Vậy, một đời khom lưng, cúi đầu làm văn nô, bồi bút cho cái chế độ gian ác là bi hay hài kịch?

Hơn 60 năm qua dưới ách cai trị sắt máu của đảng Cộng sản bằng “chuyên chính” búa gõ đầu, liềm cắt cổ, giây thừng trói bao tử, người dân Việt Nam khiếp đảm, sợ mất mật, không một ai dám ngẫng đầu, há miệng ho he một lời phản kháng, kêu ca thán oán.

Dân ngu khu đen, khố rách áo ôm, thấp cổ bé miệng, phận con sâu cái kiến thì đã đành!

Còn những hạng trí thức, sĩ phu chữ nghĩa, bằng cấp, học vị đầy mình sao cũng chịu ngậm miệng nín khe một phép cả? Mũ cối đội nặng trĩu trên đầu, suốt đời cam tâm chắp tay, khom lưng đứng chực cửa hầu môn chỉ để chờ hô… khẩu hiệu tán dương, ca tụng kẻ đại gian, đại ác!

- Tại sao vậy?
- Tất cả chỉ vì một chữ hèn.

Cái hèn của đám sĩ phu Bắc Hà ở Hà Nội trước năm 1975 thì chúng ta cũng đã được biết ít nhiều qua phản ảnh của một vài người có liêm sỉ như Hữu Loan, Phùng Quán, Trần Dần … thà chịu sống trong cảnh nghèo khó, khốn cùng chớ quyết không ngồi chung chiếu với những kẻ ti tiện, chuyên xu nịnh, một đời chịu nhục, gục mặt nói hùa, khom lưng quì gối, tình nguyện làm tên văn nô, bồi bút, bẻ cong ngòi bút đổi trắng thay đen sự thật, bao che, chuốt lục tô hồng cho bạo quyền, cốt chỉ để kiếm miếng ăn và chút địa vị trong bộ máy cai trị.

Nhưng cái hèn của sĩ phu sẽ đưa đất nước đến họa diệt vong.

Tác giả Vô Danh trong Cổ Học Tinh Hoa nói rằng:

“Liêm, sỉ là tính rất hay của loài người, vì người mà không liêm thì cái gì cũng lấy, không sỉ thì việc gì cũng làm. Người mà đến thế là người bỏ đi, không khác gì giống vật. Nhất là những bậc đứng chủ trương việc nhà, việc nước mà vô liêm, sỉ thì nhà phải suy bại, nước phải suy vong. Nghĩ cho kỹ, thì sỉ cần hơn liêm; người không liêm làm những chuyện bất nghĩa, căn nguyên cũng ở vô sỉ mà ra.”

Đứng đầu đám xu nịnh, vô liêm sỉ hạ tiện này chính là “thi nô cung đình” Tố Hữu, một đệ nhất cao thủ trong nghề nâng bi, bợ đĩa. Tài nịnh của y đã đạt tới mức thượng thừa nên mới có thế phun ra những câu thơ khiến người ta mỗi lần đọc đến phải đỏ mặt vì ngượng.

“Yêu biết mấy nghe con tập nói,
Tiếng đầu lòng con gọi Xít Ta Lin”

Xít Ta Lin ơi! Xít Ta Lin ơi !
Hỡi ơi ! Ông mất đất trời biết không ?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng,
Thương mình thương một, thương ông thương mười.

Bác Mao nào ở đâu xa,
Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao »

Nhưng cái thời ngu dân của Đảng Cộng sản độc tài toàn trị « trói » giới văn nghệ sĩ:

« Bắt phanh trần phải phanh trần,
Cho may ô mới được phần may ô”

đã qua rồi. Bây giờ là thời đại Internet. Thời đại thông tin bùng nổ từng ngày. Chỉ một cái nhấp chuột là bao nhiêu bí mật đen tối của đảng ta lập tức hiện nguyên hình trên màn ảnh. Một hình ảnh «đảng ta» rất trần truồng, méo mó như một quái thai dị dạng rất khó coi.

Giấy của đảng không gói được lửa nữa. Màn đen tăm tối của sự bưng bít, che giấu thông tin đã bị xé toang. Bao nhiêu trò lường gạt, bịp bợm của đảng ta, từ ngày « bác » dùng lá cờ đỏ của tỉnh Phúc Kiến làm quốc kỳ của mình, biểu tượng cho một nước chư hầu của Đại Hán, đem về nước đến nay đã bị nhân dân, nhất là giới sinh viên, học sinh, văn nghệ sĩ, blogger… không chịu ép mình dưới sự giáo dục nhồi sọ của đảng, bóc mẻ trần trụi.

Đảng Cộng sản Việt Nam hóa ra, trước sau, chỉ là thứ tay sai, một tên lính xung kích của Tàu và Liên Xô.

- Ta đánh Mỹ là đánh cho Tàu và Liên xô ! Tổng Bí thư Lê Duẫn đã hãnh diện, công khai tuyên bố « bộ đội cụ Hồ » là lính đánh thuê cho Cộng sản Quốc tế như vậy.

Vì thế, uy tín của đảng ta xây dựng bằng thứ pháp thuật bàng môn tả đạo, khôn ba năm, chỉ dại một giờ đã bị ngọn lửa «sự thật» thiêu rụi, mất sạch.

Lòng tin của nhân dân đối với đảng ta giờ đây chỉ còn là sự kinh tởm và khinh bỉ.

Bạo lực khủng bố, trấn áp, đe dọa, trù dập, tù đày, bao vây kinh tế… không còn làm cho ai khiếp sợ như trước nữa.

Nhà bà Trần Khải Thanh Thủy chưa đầy hai tháng, bị 11 lần, đảng ngậm phân người trộn với dầu nhớt và mắm tôm phun trước cửa, chỉ tổ dơ miệng mình chứ chẳng làm cho bà run sợ mãy may. Bà vẫn cứ ngang nhiên viết những bài tố cáo cái chế độ đốn mạt này tung lên internet để thế giới nhìn cho rõ bộ mặt ghê tởm của đảng cộng sản Việt Nam.

Ngọn lửa đấu tranh chống bạo quyền của quần chúng đã bùng cháy mãnh liệt khắp nước.

Dân oan khiếu kiện đất đai đã hàng hàng, lớp lớp kéo nhau đi biểu tình với những biểu ngữ viết trên băng rôn, viết trên áo, trên nón… công khai chỉ mặt, nêu đích danh những tên tham quan ô lại ăn cướp tài sản của nhân dân. Họ còn dám kéo đến trước cửa tư dinh, biệt thự của những tên chóp bu lãnh đạo như Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng để đòi nợ máu.

Vụ việc Tòa Tổng Giám mục Hà Nội và giáo xứ Thái Hà là một ví dụ cụ thể điển hình về đấu tranh bất bạo động nhưng ngoan cường, dũng mãnh. Đảng Cộng sản đã dùng đủ mọi mưu ma chước quĩ để thực hiện cho bằng được sự gian trá của mình nhưng cuối cùng cũng đành bó tay chịu trói trước sự thật.

Và rãi rác đây đó đã có xãy ra nhiều vụ việc dân chúng vì không thể chịu đựng nổi sự lộng quyền, ức hiếp của bọn công an (nạn kiêu binh hiện nay) nên đã nổi lên đánh trả lại để tự vệ. Con giun xéo mãi cũng quằn là điều tất yếu. Đã có một số công an bị chết, bị thương và bị bắt làm con tin.

Dĩ nhiên sau đó là đòn trả thù tàn độc của đảng ta đối với dân đen, bắt giam, tra khảo, đánh đập, hành hạ, bỏ tù… để bảo vệ đảng viên, bọn chó săn trung thành thân tín của mình.

Giới sĩ phu, nhân sĩ, trí thức nhiều người cũng đã mạnh dạn gióng lên tiếng nói phản kháng mạnh mẽ, đấu tranh trực diện với đảng Cộng sản Việt Nam. Họ không còn hèn, còn sợ nữa. Họ đã hất đổ ra khỏi người thái độ hèn nhát, rụt rè gà phải cáo đã bị đảng úp chụp đè nặng trên đầu bấy lâu nay.
Thái độ dứt khoát đó đã làm cho đảng ta lo lắng và run sợ. Nền chuyên chính đã lung lay tận gốc rễ.

Xin đơn cử vài ví dụ điển hình:

Trong bài viết: « Lời bộc bạch của một đảng viên » của tác giả Blogger psonkhanh: (trích)
«Lâu nay tôi không viết blog, không comment vì tôi sợ.Tôi nghe được những thằng bạn làm bên an ninh nói rằng đang thực hiện những chỉ thị của cấp trên rất quyết liệt để tìm ra dấu vết, tung tích của những blogger « có vấn đề » để có cách xử lý thích đáng.Tôi thực sự sợ, có lẽ tôi hèn nhát. Nhưng hôm nay tôi muốn viết, tôi buộc phải viết, tôi không giải thích được tâm trạng của mình lúc này, nhưng tôi cảm nhận rõ ràng một sự thôi thúc phải nói ra những gì mình suy nghĩ cho nhiều người đọc. Sự thôi thúc đó đến từ đâu tôi cũng không chắc, nhưng thật tình là tôi vẫn rất run sợ khi post bài này, tôi không phải là người dũng cảm, nhưng tôi thấy mình cần làm điều đó.

… Tôi đã gần 50 tuổi, đang làm cho một viện nghiên cứu của Nhà nước, đã được 15 năm tuổi đảng. Thật lòng là tôi đã nghĩ đến việc ra khỏi đảng nhưng lại không dám thực hiện, tôi không đủ can đảm và mạnh mẽ để chấp nhận một cách kiếm sống mới hoàn toàn mà tôi không tự tin với nó.

…Nếu lên được trưởng phòng thì không phải lo tiền bạc, người ta cúng cho mình. Do vậy mà trong nội bộ người ta đấu đá giành giật nhau ghê lắm, vào Đảng cũng chỉ hy vọng lên được chức cao hơn. Nói thật ngày xưa tôi vào Đảng cũng với động cơ như thế, nhưng không nghĩ rằng như thế chỉ mới là cái bắt buộc sơ đẳng, muôn ngoi lên được đòi hỏi phải nhiều thủ thuật lắm, và phải biết luồn cúi thật giỏi, chà đạp người khác mà không bị cắn rứt. Mà cả hai cái này tôi đều dở, có lúc thấy phải làm nhưng làm cũng không đạt yêu cầu. Chuyên viên như tôi (dù là được xếp vào ngach cao cấp) bây giờ toàn phải nói vẹt, nói dối đến mức mất tư cách mà chẳng biết phải làm sao. Giờ mới thấy mình hèn nhưng đã muộn. Những người đảng viên như tôi bây giờ chiếm đa số tuyệt đối trong Đảng. Họ đều chán nãn và bi quan, không còn tin vào đường lối chủ nghĩa Cộng sản và học thuyết Mác Lê Nin nữa, họ chỉ hy vọng vào sự đổi mới của Đảng. Nhưng bây giờ Đảng không còn đổi mới được nữa. Đảng đang đi vào ngõ cụt. »

Một tác giả khác, Ông Nguyễn Quang Nhàn với bài viết: Trên đường đi đến thiên đàng… « Tản mạn của một người theo Cộng sản »: (trích)
«Phấn khởi» «hồ hở » đi trên con đường đến «thiên đàng…»

Cái ngày tháng Tư lịch sử 1975 đã quyết định trang sử mới của nước Việt Nam sau hơn 20 năm dòng bến hải bị cắt chia ! Cả miền Nam ngập trong màu cờ xanh, đỏ, sao vàng. Là người tham gia phong trào sinh viên học sinh dấn thân trong nội thành tôi cũng rất « phấn khởi » « hồ hởi » - theo cách nói sau ngày 30/4 - để tham gia vào công tác « cách mạng » -xây dựng chính quyền, xây dựng « chế độ mới », làm người trong đội quân « giải phóng ». Công việc gì cần đến sự an ninh, an toàn đều có lực lượng chúng tôi.(« Quan trọng » và « oai » ghê vậy đó !!)

(Nhưng) Hào quang…lóa sáng lên… rồi tắt giống như chớp lửa của trái đạn bay. Ai rồi cũng phải quay về với cuộc sống thực của chính bản thân gia đình mình và thực sống với cuộc sống xã hội. Người có tính toán trước, sống thực tế, thực dụng thì khác. Những anh chàng « tiểu tư sản » trí thức tham gia cách mạng thì chìm đắm trong cơn mê… hơi dài ( !) thậm chí ban đầu còn « tả khuynh » ! Tin vào « Tổ chức » ! Tin tưởng Đảng ! Đảng là cuộc sống của tôi ! Nói thì cái gì cũng « Đảng ta! ». Đất nước sau chiến tranh, cái gì cũng nguyên nhân do chiến tranh nên… chờ đất nước « ổn định » rồi lo cho chuyện riêng mình ! Cứ chờ ! Chờ mãi… đến bây giờ cũng chưa « ổn định », vẫn còn « định hướng » may mà có cái không thể chờ, nếu cứ chờ, chờ mãi chắc… đến giờ này… vẫn còn ế « vợ » !

Sau này nghĩ lại thấy mình quá dại, ảo tưởng, quá ngây thơ, thật tội nghiệp !

« Dân ngu khu đen » như tôi được đảng vĩ đại dẫn dắt trên đường đi đến « thiên đàng », thấy sao nói vậy. Mấy chục năm rồi, từ lúc đầu xanh, tuổi trẻ đến bây giờ đầu bạc, mắt mờ nhưng « thiên đàng » ở đâu cũng chẳng biết, thăm thẳm, mịt mù, bây giờ « tự đổi mới », « định (lại )hướng nữa…nếu giáp cái vòng hơn 60 năm xưa, nhân dân tự mình đi đến thiên đàng bây giờ chắc không ai còn đòi « dân chủ » !

Một sinh viên đang du học ở Đài Loan tên Lê Trung Thành, trong một bức tâm thư gửi về cho sinh viên, bạn bè trong nước, đọc được trên mạng lưới Toàn cầu, sau khi kể lại những sự việc mắt thấy, tai nghe ở xứ người, một xứ tự do, không cộng sản, anh kết luận: « Còn cờ đỏ sao vàng thì không bao giờ có độc lập tự do hạnh phúc ! »

Còn nhiều, rất nhiều bậc sĩ phu khác nữa, như Nguyễn Khải, Nguyễn ĐìnhThi, Chế Lan Viên, Nguyễn Đăng Mạnh, Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu, Đào Hiếu, Hoàng Minh Tường… ở cuối đời, họ đã nhất loạt cùng nhau đứng dậy, can đảm cất cao tiếng nói yêu nước, tố cáo cái chế độ bất nhân, hòa nhịp với lời gào thét của nhân dân để đòi lại đất nước đang nằm trong tay giặc Tàu, đòi nhân quyền, tự do, hạnh phúc mà đảng Cộng sản Việt Nam đã cướp đi hơn 60 năm nay.

Tác giả Vô Danh trong sách Cổ Học Tinh Hoa cũng đã nói :

« Than ôi! Thế mà ngày nay, nhân tình phản trắc, phong tục suy đồi, người ta quên cả liêm, sỉ không kể chi người thường, thậm chí đến bọn sĩ phu cũng chan chan như thế cả. Ôi! Nếu cho là sự xấu hổ chung cho cả nước, cũng không phải là nói ngoa.

Tuy vậy, mùa đông rét mướt, tòng, bách vẫn xanh; mưa gió tối tăm, gà trống vẫn gáy. Đời tuy hôn mê, vẫn còn người tỉnh. » (Tác giả Vô Danh này tài thật! Thấy rõ được cái thực trạng xã hội của Xã Hụi Chủ nghĩa này trước cả thế kỷ. NV)

Đời tuy hôn mê vẫn còn người tỉnh! Ngày nay, thời đại mạt Hồ đang lúc «khẩn trương» suy tàn, sĩ phu ai người tỉnh, ai người mê?

Muốn biết ai tỉnh, ai mê cứ lấy hai ví dụ điển hình dưới đây làm «cái ni» để đo nhân cách các «trí thức» trong nước:

- Nhạc sĩ Tô Hải với Hồi Ký của Một Thằng Hèn.
- Hiện tượng Hà văn Thịnh, giảng viên sử Đại học Huế, với Bài Trần Tình.

1.- « Hồi ký của một thằng hèn » của nhạc sĩ Tô Hải.

Mấy tháng gần đây, cuốn Hồi ký của nhạc sĩ Tô Hải tuy chưa xuất bản, chỉ mới giới thiệu sơ sơ trên mạng, nhưng âm vang của nó đã chấn động đến giới «sĩ phu trí thức Xã Nghĩa», nhất là giới lãnh đạo «đảng ta» hơi «bị» choáng vì chữ « hèn » trong cái nhan đề của cuốn sách: «Hồi ký của một thằng hèn». Tác giả định mượn gió vẻ trăng chăng? Mượn mình để mắng cả một tập thể đang «mê» chăng ?

Ở hải ngoại, nhiều người quan tâm đến «hiện tượng» 700 tờ báo đảng với hơn 13 ngàn ký giả, ký thiệt, văn, thi sĩ viết bài mà chỉ có một Tổng Biên tập, một lãnh chúa lãnh đạo, nên cũng tò mò muốn đọc cuốn hồi ký này để biết «Thằng nào là thằng hèn, làm văn nô bồi bút cho cái chế độ phi nhân này!»

Riêng nhạc sĩ Tô Hải vì sao lại hèn? Đã cho mình là «thằng hèn» sao lại còn đủ can đảm viết hồi ký để kể khổ cái hèn của mình toét toè loe ra cho bàn dân thiên hạ chiêm ngưỡng?

Lê Phú Khải viết lời tựa giới thiệu cho cuốn hồi ký trên, ngay những dòng đầu có nhắc đến một sĩ phu đầy nhân cách, sớm tỉnh thức trong cơn hôn mê dài của chế độ Cộng sản. Lê Phú Khải viết:

(trích) « Đọc ‘Hồi ký của một thằng hèn’ của nhạc sĩ Tô Hải, tôi bất giác nhớ đến bác sĩ Nguyễn Khắc Viện. Ông là một trí thức Việt kiều, rất hăng hái hoạt động trong phong trào mác-xít, đảng viên đảng Cộng sản Pháp, đã tình nguyện về nước để tham gia kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hăng hái là thế, mà ở tuổi ngoài tám mươi, khi làm bản tổng kết đời mình, ông đã phải thốt lên: «Đời tôi là đời một thằng ngây thơ». Trong hai chữ «thơ» và chữ «ngây», tôi xin giữ lại cho mình chữ «thơ» vì đã đi theo kháng chiến, còn cái chữ « ngây» để chỉ cái sự đi theo chủ nghĩa xã hội thì xin… vứt nó đi!».

Bên cạnh bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, Lê Phú Thứ còn trưng ra thêm một nhân chứng khác, Nguyễn Khải, đại tá, nhà văn, giải thưởng Hồ chí Minh. Trước khi chết ông đã gửi lại lời trối của kẻ đã lạc (lầm!)

đường trong mấy câu:

« Quả thực dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào đấu tranh giải phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do, công bằng và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã đến thế!»

Đối với nhạc sĩ Tô Hải, tác giả Hồi Ký Của Một Thằng Hèn, Lê Phú Thứ viết:

Tô Hải và Nguyễn Khắc Viện – hai con người, hai số phận, cả hai đều được Nhà nước Cộng sản tặng nhiều huân chương «cao quí», nhưng cái tương đồng giữa hai người là ở chỗ họ đều thiết tha yêu nước, nhưng không thể yêu chủ nghĩa xã hội.

Cậu học trò Tô Hải gia nhập Vệ Quốc Đoàn ngay từ những ngày đầu cách mạng. Cuộc đời binh nghiệp của Tô Hải có đủ niềm vui và nỗi buồn, vinh quang và tủi nhục, được ông ghi lại trong cuốn sách mà bạn đang cầm trong tay. Nó là cuốn sách cần cho những ai muốn biết về chủ nghĩa cộng sản trong hiện thực. Nó cần cho những ai chưa tỉnh giấc nồng của những mộng mị được sơn phết vàng son. »

Có thể nói không ngoa rằng Hồi Ký Của Một Thằng Hèn là cuốn biên niên sử ghi lại quá trình từng bước, từng bước, nhân dân Việt Nam, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ bị tước đoạt đi cái quí giá của con người là Tự Do. Là chứng nhân của lịch sử, Tô Hải ghi lại trung thực, sống động cả một quá trình nhào nặn, đấu tố, cưỡng bức tư tưởng để biến văn học nghệ thuật thành « vũ khí đấu tranh » của Đảng, cho Đảng, vì Đảng. Hồi Ký Của Một Thằng Hèn là những trang viết bằng máu và nước mắt ghi lại tỉ mỉ tấn bi kịch của chính tác giả và bạn bè ông, nay kẻ cỏn người mất, để mọi người được biết họ đã phải sống như thế nào, phải… « hèn nhát» ra sao chỉ cốt để tồn tại. »

Và trãi qua những đại bi kịch được đảng cộng sản luôn say máu đấu tranh tạo ra như Cải Cách Ruộng Đất, Chỉnh Đảng, Chỉnh Quân, Nhân Văn Giai Phẩm, Xét Lại Chống Đảng, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Cải Tạo Tư Sản… Tô Hải thấy đàng sau nó thực sự là cái gì ?Nó chẳng phải cái gì khác ngoài mưu đồ của một lũ cơ hội chuyên nghề lừa bịp, trấn áp nhằm chiếm bằng được quyền cai trị đất nước. Ông không che giấu những việc đáng xấu hổ khi tả lại cảnh phải đóng vai « đại hèn » để vợ con có miếng ăn, không bị cắt sổ gạo, bị đuổi khỏi biên chế hay tệ hại hơn nữa, bị đi cải tạo, vào tù. Ông thẳng thắn chỉ ra những bộ mặt cơ hội trong giới văn nghệ sĩ đã nhẫn tâm bước qua xác đồng nghiệp để kiếm chút đỉnh chung. » (ngưng trích)

Nhà văn Uyên Thao cũng viết về Hồi Ký Của Một Thằng Hèn của Tô Hải như sau :

(trích) « Dù viết về các lời lẽ gian trá hay hành vi tàn bạo của chế độ, dù viết về những ngu xuẩn tận cùng hay lưu manh ghê gớm, dù viết về toan tính bản thân hay tâm tư của bè bạn, Tô Hải không bao giờ rời nỗi đau đã thành cực hình vò xé tim óc.

Đó là nỗi đau phải sống cuộc sống không còn là cuộc sống con người. Nỗi đau càng lớn hơn khi luôn phải gặp gỡ không ít kẻ mệnh danh trí thức vẫn vênh váo tự hào với cuộc sống đó. »

Những lớp lớp cá nhân Tô Hải qua Hồi Ký Của Một Thằng Hèn dù có đáng thương mức nào, đáng tội nghiệp tới đâu thì cảm xúc xót thương, tội nghiệp dành cho họ sẽ hoàn toàn vô ích.

Bởi nỗi đau mà Tô Hải gánh chịu không phải nỗi đau riêng của Tô Hải, không phải hậu quả chỉ đến với một cá nhân do những chọn lựa của bản thân mà chính là một nét thực tế biểu hiện cái thân phận oan khiên mà dân tộc Việt Nam đang gánh chịu.

Cho nên thay vì bày tỏ cảm giác tội nghiệp xót thương cho cá nhân này hay cá nhân khác, cần nhìn thẳng vào nỗi nhục tự biến mình thành công cụ tôi đòi, nỗi nhục vận dụng tới tận cùng khả năng trí óc để ngụy biện cho sự tình nguyện khom lưng, uốn gối là thức thời – theo kiểu Nguyễn Tuân với câu nói từng được lập lại « phải biết sợ để tồn tại. »

Về phần tác giả, Tô Hải, khi bắt đầu viết Hồi Ký Của Một Thằng Hèn, Ông đã có những suy tư gì lúc đặt bút lên trang giấy?

Chúng ta hãy đọc qua bài viết ngắn của Ông với nhan đề : VÌ SAO TÔI VIẾT HỒI KÝ?

(trích) « Câu mở đầu đó, nếu tôi không nhầm, là của George Sand mà tôi đã đọc, đã thương cảm và đã tự nhủ rằng rồi đây chính mình cũng sẽ phải để lại cho đời ít dòng nói thật khi bước vào tuổi 70, nếu như cái chết lãng nhách không đến bất chợt.

Biết đâu đấy, rồi đây lịch sử sẽ có thêm được một số chi tiết trong « tội ác diệt văn hóa » của nhà cầm quyền Việt Nam trong một thời gian trên nửa thế kỷ nhờ những chứng liệu ghi trong hồi ký của một kẻ từng làm thứ văn nghệ gọi là « vì Đảng vì dân » trong suốt đời mình. »

Tô Hải nhận định suốt một thời gian dài từ năm 1945 đến đầu thế kỷ 21, lịch sử văn học nghệ thuật ở miền Bắc chỉ là một lỗ hổng lớn vì giới trí thức, văn nghệ bị cai trị bởi cái đám ‘đỉnh cao trí tuệ loài người’ :

« Tác phẩm của họ đâu rồi, ngoài lèo tèo mấy bài thơ của Hữu Loan, Trần Dần, Phùng Quán…và chẳng có một tiểu thuyết, một đoạn văn nào đáng được trích giảng trong các chương trình từ tiểu, trung đến đại học? Vậy mà suốt thời kỳ đất nước nằm dưới «sự lãnh đạo vô cùng sáng suốt» và «duy nhất đúng đắn» của những tên «xuất thân thành phần cơ bản», trình độ học thức ở mức «đánh vần được chữ quốc ngữ», các văn nghệ sĩ công chức ở nơi này vẫn được nhà cầm quyền trao tặng «Giải thưởng Nhà Nước», « Giải thưởng Hồ Chí Minh» và đủ thứ bằng khen, giấy khen, được trang trọng lồng kính treo kín những bức tường phòng khách! Thử hỏi những tác phẩm được khen nức khen nở ấy bây giờ ra sao ?

Té ra tất cả đã bị lịch sử xếp xó.

Hơn thế nữa, những tác giả được Nhà nước XHCN khen hàng loạt nọ, trong thực tế, còn là những kẻ bán rẽ lương tâm đã lợi dụng các loại hình văn nghệ để ca ngợi những điều bất nhân, bất nghĩa bị cả nhân loại phỉ nhổ: Khuyến khích con đấu cha, vợ tố chồng, hô hào, kích động người cùng một nước chém giết lẫn nhau, ra sức ca ngợi những tên sát nhân khét tiếng như Stalin,Mao Trạch Đông…thậm chí, còn quì gối khấu đầu tạ ơn những tên đao phủ và cái tổ chức tội ác là «Đảng đã cho ta mùa xuân», dạy những đứa trẻ bập bẹ biết nói : «tiếng đầu lòng con gọi Stalin» ! Nhục nhã thay cho nhnữg kẻ cam tâm bợ đít, luồn trôn những kẻ giết cha mình! Cho tới cuối thế kỷ thứ 20 vẫn còn những kẻ u mê cứ tưởng các tác phẩm « tuyên truyền» cho cuộc chiến huynh đệ tương tàn, cho hận thù dân tộc, cho đấu tranh giai cấp của chúng là giá trị lắm ! Cứ xem chúng tâng bốc nhau, nịnh bợ nhau, bôi xấu nhau, để được nhận cái… vết nhơ một thời làm lính văn nghệ của Đảng thì thấy.

Trong khi đó, hồi ký của các «lãnh tụ cách mạng» chỉ là những cuốn sách viết ra cốt tự đề cao mình một lần cuối, để giải thích (chống chế thì đúng hơn) cho những hành động sai lầm, đổ tội cho người khác về những thất bại mang tính lịch sử mà kẻ viết hồi ký chính là tội phạm. Vậy thì, tôi, Tô Hải, một cái tên được nhiều người biết ở cái thời «âm nhạc phục vụ công nông binh», ở cái thời mà âm nhạc, nếu không làm đúng yêu cầu của đảng sẽ lập tức bị bọn «quan văn nghệ» lên án là «mất lập trường», là «cá nhân tiểu tư sản», thậm chí là « âm nhạc phản động», có gì để mà hồi với ký ?

Tô Hải đã «tự thú trước bình minh» cái hèn của mình ra sao và bắt nguồn cội rễ như thế nào khi ông nghĩ rằng mình đã hết hèn để nói toạc móng heo ra «nỗi bất bình dồn nén ám ảnh suốt mấy chục năm T.H»:

« Trước hết, tôi phải đè bẹp được sự « hèn nhát » trong tôi là cái đã bén rễ sâu chặt do thời gian quá dài sống trong lồng kín, cách ly bầu trời tự do.

Tôi tình nguyện làm một trong những người vạch trần những bộ mặt chính trị dỏm, văn nghệ dỏm, những tên cơ hội, đã cản trở, giết chết tác phẩm, đẩy những tài nang vào hố sâu quên lãng.

Đáng buồn là những chuyện được giấu kín đó, tôi đều được biết, thậm chí còn được tham dự các kế hoạch hại người (được gọi là kiểm điểm, học tập, thu hoạch…) ngay từ khi chúng mới được phác họa, trong suốt quá trình tôi ở cương vị cấp ủy, lãnh đạo, chỉ đạo nghệ thuật.

Để bảo vệ chổ đứng của mình, tôi đã không dám cãi lại những lời chửi rủa bố tôi là đồ « phản động», mẹ tôi là «Việt gian», họ hàng nhà tôi là « tay sai đế quốc»!

Và khi không còn chịu « lao động nghệ thuật » nữa, «bỗng dưng» ông được cái nhà nước công nông binh tặng cho cái «Huân Chương Lao Động Hạng Nhất» và đè ông ra đeo lên cổ cái mề đay « Giải thưởng Nhà nước». Ông mô tả đó là «Một bức tranh cười ra nước mắt» và kêu lên một cách mĩa mai chua xót: « Bi kịch hay hài kịch đây?»

Như thế đó, Tô Hải hy vọng rằng đất nước sẽ có ngày hoàn toàn đổi mới thật sự, hồi ký của ông sẽ được in ra để làm tài liệu lưu trữ về một thời cay đắng và tủi nhục nhất trong lịch sử Việt Nam. Và ông cũng mong rằng bạn bè, con cháu đời sau hiểu cho rằng ông đã có thời tưởng rằng mình là một cánh đại bàng bay bỗng giữa trời nhưng than ôi, gần hết cuộc đời ông vẫn chỉ là «một con đại bàng… cánh cụt, chạy lè tè trên mặt đất mà vẫn vấp ngã đến gãy mỏ, trụi lông.»

« Nhưng, ‘ vừa là tội đồ vừa là tòng phạm’ làm sao con đại bàng cánh cụt kia có thể bay cao, bay xa ? Thôi thì xin làm con sói của Alfred de Virngi, con bói cá của Musset tru lên tiếng rú cuối cùng, phan ngực, xé lòng, hiến cho lịch sử một mẫu trái tim, một mẫu óc, một chút hơi tàn của thân xác.
Với niềm tin vô bờ bến rằng ngày tàn của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam đã đến rất gần, dù có chậm hơn ở các nước bậc cha ông, anh cả, anh hai đến vài ba thập kỷ, niềm tin ấy vẫn cháy bỏng trong tôi thúc giục tôi vứt bỏ mọi sợ hãi, mọi hèn kém để ngồi vào computer.

Nhưng, Tô Hải lại mắc cái nhưng to tướng, tập Hồi Ký Của Một Thằng Hèn đã được viết xong từ năm 2000, nhưng do… hèn, Tô Hải vẫn không dám cho ra mắt bạn đọc như lời ông thú nhận trong « Đôi điều phi lộ viết… sau cùng » và còn cẩn thận ghi thêm một dòng ở ngoài bìa «Để xuất bản vào năm 2010». Có lẽ ông nghĩ rằng lúc đó ông đã «đi theo Bác» rồi thì những quân cẩu trệ sẽ chẳng làm gì được ông nữa chăng ? Ông lầm! Chúng sẽ thi hành đủ các thủ đoạn bẩn thỉu như đã làm đối với hai ông Trần Độ và Hoàng Minh Chính với cái chết của ông và vợ con ông sẽ … hết đất sống về sau !

Với quân tiểu nhân ti tiện, mặt người dạ thú như cộng sản Việt Nam thì đừng có hòng chúng có lòng nhân với câu «nghĩa tử là nghĩa tận» như lời người xưa giáo huấn.

2. Hiện tượng Hà văn Thịnh với Bài Trần Tình vụ bô xít «Chủ trương lớn của đảng ta!»

Hà văn Thịnh hiện là giảng viên Sử của Đại Học Huế. Ngoài việc rao giảng lịch sử đảng Cộng sản trong giảng đường cho các em sinh viên thấm nhuần công lao trời biển của đảng ta và « Ơn Bác, ơn đảng » ra, ông còn ký hợp đồng viết bình luận cho báo Lao Động.

Ngày 19/01/09 ông viết một bài về vụ khai thác bô xít trên Tây Nguyên nhan đề «Gánh nặng của thế hệ hôm nay» đăng trên báo Lao Động cùng ngày. Nội dung là lên án việc khai thác tài nguyên bừa bãi, của đảng không cần biết đến hệ lụy về môi trường sống. Có đoạn rất cứng:

(trích) « Có tài nguyên thiên nhiên là tốt, cần lắm. Nhưng, có những đất nước không có tài nguyên vẫn giàu có như thường – bài học từ Nhật Bản là một dẫn chứng điển hình. Nếu chúng ta cứ vắt thật nhanh, bòn thật nhiều « của để dành » cho con cháu, thì mai này lịch sử sẽ ra sao ? Dù muốn hay không, chúng ta buộc phải thừa nhận rằng chưa bao giờ tài nguyên của đất nước bị khai thác một cách vội vã đến như thế và, chưa đủ tinh thần trách nhiệm đến như thế.

Phải giải quyết xong « bài toán » chất thải từ việc khai thác các loại quặng trước khi khai thác nó, đó là nguyên tắc. Phải tính toán sao cho tài nguyên của đất nước được chia đều cho nhiều thế hệ là bổn phận của người đi trước. Đây không là chuyện hôm nay, mà là lợi ích dài lâu. Nếu không vì lợi ích dài lâu, đất nước ta sẽ không phát triển bền vững. »

Sau đó ông cùng nhiều người ký tên trong bản kiến nghị gửi lên đảng để phản đối việc khai thác bô xít.

Thật ra bài báo cũng không có gì đáng nói. Nội dung không có gì mới mẻ hơn và không bằng nhiều bài báo khác của các nhà khoa học hay hai bức thư của tướng Giáp, đã phân tích tỉ mỉ vấn đề thảm họa môi trường, hiệu quả kinh tế, an ninh lãnh thổ v.v…đầy đủ hơn, giá trị hơn nhiều.

Điều đáng nói ở đây là bài viết tiếp theo ngày 27/4 cũng của ông giảng viên sử Hà văn Thịnh, sự việc lại quay ngoắc lại bài trước 180 độ, khiến cho nhiều người đọc phải bất ngờ đến độ sững sờ.

Có người gọi ông là con thò lò hai mặt. Có kẻ kêu ông là con kỳ nhông, một loài bò sát có khả năng đổi màu da rất nhanh ở môi trường thích nghi như ở cát thì màu trắng, ở bụi rậm thì màu xanh.

Số là, sau khi bài báo ngày 19/1 đăng ít lâu thì ngày 24/4 Bộ Chính trị ra Thông báo số 245 TB/TƯ có « Kết luận của Bộ Chính trị về bô xít » về việc quy hoạch phân vùng, thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng quặng bô xít giai đoạn 2007-2015, có xét đến năm 2025 thì ngày 27/4 ông Hà văn Thịnh lập tức viết ngay bài « Sáng tỏ sự cân bằng đúng » để ca tụng « Chủ trương lớn của đảng ta » là đúng đắn và cần thiết, có nội dung trái ngược hẳn lại bài trước.

Xin trích vài điểm trong 5 điểm ông đã chỉ ra và khen nức nở đảng ta là vô cùng anh minh, sáng suốt trong việc «đường ta ta cứ đi mặc chó cứ sủa» trong việc «cõng» Trung Quốc vào Tây Nguyên để chúng tha hồ làm vương, làm tướng trong việc khai thác bô xít:

« Thứ hai, ‘ hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội’ là sự cân bằng đúng và đủ cho cả hai mặt lợi ích và bền vững. Cách nhìn nhận vấn đề như thế thể hiện sự tỉnh táo cần thiết trong giải pháp trước mắt và cả giải pháp chiến lược lâu dài.

Thứ năm, qua vấn đề bô xít, phải rút ra những bài học sâu sắc về sự hiểu biết và dư luận. Đa số người dân không hiểu tường tận sự thật của vấn đề nên dễ bị lợi dụng và bị kích động, đưa một chuyện riêng về kinh tế thành nguy cơ về chính trị, an ninh. Trong khi đó BCT đã khẳng định ‘không sử dụng lao động phổ thông nước ngoài’, tức là đã nhìn thấy bằng tầm nhìn xa một cách rõ ràng. Mặt khác, một vấn đề ở đây là ‘dân biết, dân làm, dân kiểm tra’.

Trách nhiệm của giới trí thức là rất lớn trong việc đánh giá, xem xét các lợi ích cục bộ và lợi ích tổng thể, kịp thời và chính xác trong việc tham mưu cho Đảng và Nhà nước trước những nhiệm vụ cấp bách, liên quan đến sự nghiệp của dân tộc, tương lai của đất nước. Đảng lắng nghe và thấu hiểu ý kiến trí thức, nhưng không có nghĩa bỏ qua viêc một số người lợi dụng điều đó để xuyên tạc chống phá. »

Sau bài báo «tắc kè đổi màu da », dư luận trong nước rất bất bình về cái ông giảng viên khoa sử Hà văn Thịnh này. Đã có nhiều bài viết phản bác ông rất nặng ký. Nhưng tình trạng càng tệ hại hơn khi ông viết thêm một tâm thư gửi cho những người cùng ông ký kiến nghị phản đối. Vì bức thư này, ông Thầy sử Hà văn Thịnh lại càng bị phạng thêm nhiều quả búa tối tăm mặt mũi vì đã để lộ ra cái hèn của một anh nhà giáo, cam tâm uốn gối, khom lưng làm văn nô, bồi bút quá ư lộ liễu và trơ trẽn.

Xin đan cử hai bài phản bác làm điển hình, các tác giả vừa trích ý thư của ông vừa bình:

1. Ông V.Quốc Uy trong bài 2 viết: «Chữ ký của một kỳ nhông » và «Đừng xóa tên ông Thịnh », ông Quốc Uy đánh giá:

« Trong bài ‘Chữ ký của một kỳ nhông’ tôi đã phác họa chân dung hai ông Hà văn Thịnh trái ngược nhau, một CHÍNH một TÀ, có vẻ trắng đen phân biệt, nên khó tin là một người. Nhưng sau khi đọc ‘Thư ông Hà văn Thịnh’ gửi những người đã gửi kiến nghị’ thì tôi lại tưởng tượng chân dung ông Hà văn Thịnh sinh động hơn. Sự đời không phải chỉ có CHÍNH hay TÀ, mà còn có ‘cải TÀ qui CHÍNH’, ‘cải CHÍNH qui TÀ’, có khi lại ‘TÀ CHÍNH luân phiên’.

Thiên hạ bình phẩm. Người thì cảm động trước ‘lời thú tội’ thành thực của ông Thịnh, chỉ thương chung cho cái kiếp nhà báo, nhà văn Xã hội Chủ nghĩa. Ngược lại, có người càng mất cảm tình với ông Thịnh hơn, vì ông đã lôi cả đám cùng nhúng chàm vào để làm nhòe đi cái trách nhiệm và tư cách cá nhân. Người ta nhại :

Bút nô là tại ‘hướng đình’
Cả làng nô bút, đâu mình Hà Văn… ?

Phải ghi nhận công của ông Hà văn Thịnh trong bức thư này là đã nói toẹt ra (một cách hơi Chí Phèo) về cái ‘hướng đình’ (định hướng) đã làm cho ‘cả làng toét mắt’. Tôi thấy nên cám ơn ông vì với bức thư ấy ông đã cung cấp những sự thực của một ‘người trong chăn’, để nhắc nhở cả làng phải mau mau xoay lại cái ‘hướng đình’ (nếu không thì chẳng những toét mắt mà còn mù cả lũ cho mà xem).

Xin trích mấy câu của ông Thịnh để ghi lại cái công ấy:

« Nói là bồi bút cũng phải, không sai đâu. Thế nhưng, cần phải lật ngược vấn đề rằng có ai ăn lương hiện nay mà đã không từng một lần ‘bồi bút’? CNXH khoa học sai nhiều như thế, ai nói?

Còn nói dối? Không có một nhà giáo dạy KHXH nhân văn nào không nói dối để nhận lương!

Xin các quí vị hiểu biết lịch sử đúng như nó cần phải được hiểu như thế! »

… Nhưng có lẽ ông Thịnh không đến nỗi yên tâm làm công cụ như những người khác, không hỗn hào như thứ trưởng Bộ Công Thương Lê Dương Quang, dám văng vào mặt những trí thức mà chính những người lãnh đạo cấp cao cũng phải kính nể những lời khiếm nhã như ‘xuyên tạc sự thật’ - nhằm dụng ý xấu – hoàn toàn mang tính bịa đặt và kích động’. Ông Hà văn Thịnh, không biết do bị bạn bè phê phán, hay do sự day dứt của một người đứng trên bục giảng mà trong giây phút nào đó ông đã không chịu nỗi cái thân phận bồi bút, khiến ông quên cả giữ gìn mà tố cáo ra những điều cần phải tố cáo?Cuộc vật lộn giữa vị giảng viên đại học với tên bồi bút dối trá thường không phải một lần là đã phân thắng bại, nhưng bạn bè và sinh viên cổ vũ cho ai, đâu là vinh đâu là nhục thì người thầy giáo chắc phải cảm nhận được. Nhiều bài nhắc đến tên ông Hà văn Thịnh, vì đó không chỉ là tên một người mà còn là một hiện tượng : Hiện tượng Hà văn Thịnh, đầy kịch tính.

Những người như ông Thịnh không ít. Nhưng nhiều, mà vị nào cũng thấy cô đơn. « Chính quyền cho tôi vào sổ đen, còn người trung nghĩa gạt tên mình ra. Đời thật là bi kịch »,ông tâm sự rất thật như thế.

3.Blogger Linh

Tác giả Linh viết trong blog của mình như sau: (trích)
« Ông Hà văn Thịnh viết bức thư nhằm giải bày sự việc ông viết hai bài báo trên báo Lao Động về beauxite có tinh thần trái ngược hẵn nhau vào ngày 19/1 và ngày 27/4. Đọc cứ như hề:

‘Tôi như một kẻ tội đồ. Đảng không tin tôi. Những người chính trực trên đất nước này cũng thế. Có thể, ‘cách đi’ của nhà báo nhọc nhằn, đau đớn đã làm cho tôi không biết cách né tránh hay dùng bút danh. Nhưng đó là số phận. Tôi chấp nhận. Tôi đã lường trước chuyện này lúc toà báo yêu tôi viết khi tôi mới thấy tên mình trong danh sách (ký tên phản đối khai thác beauxite Tây Nguyên) trước đó vài giờ ’.

Muốn kéo cả nhân loại xuống bùn để không phải chịu trách nhiệm cá nhân, ông cho rằng toàn giới nhà giáo (dạy KHXH nhân văn) đều nói dối như ông, toàn giới ăn lương đều từng làm bồi bút như ông.

Và ông thắc mắc với nhũng người phản đối sự tráo trở bất nhất của ông trong hai bài viết trước và sau khi có kết luận của Bộ Chính trị ‘ Hơn nũa, tại sao quí vị không đánh thẳng vào các VIP đi mà lại cứ nhè vào một kẻ phải viết báo để kiếm sống, để mong mỏi chút thay đổi nhạt mờ?’.

… Trong bài 27/4, ông hết lời ca ngợi Bộ Chính trị nào là có chủ trương từ lâu, cân nhắc suy xét kỹ càng, nào là biết tiếp thu ý kiến người dân, nào là có tầm nhìn xa một cách rõ ràng. Thế nhưng trong bài trần tình với những người cùng ký tên vào đơn phản đối việc khai thác beauxite, ông lại viết như thể xoa đầu Bộ Chính trị ‘Lời để kết thúc, tôi muốn nói rằng BCT đã ra thông báo như thế là đã biết sai rồi’.

Vậy là ‘chủ trương đúng đắn’ của BCT là đúng hay sai đây? Hay ông Thịnh là người có biệt tài ngửi gió? Còn ‘thơm’ hay ‘thối’ thì là tùy hướng gió?

Và tác giả Blog Linh kết thúc bài viết dài của mình bằng một câu rất ngắn nhưng cũng rất nặng ký :
« Xem ra ông Thịnh có thể có chữ ‘sĩ’ nhưng ắt là không có chữ ‘sỉ’. Hà văn Thịnh hay Hà Phù Thịnh?

Kẻ sĩ của một nước mà hèn thì quốc gia ấy ắt sẽ phải suy vong. Nhà nước độc tài đảng trị cộng sản Việt Nam đang đi vào vết xe đổ, bắt sĩ phu trong nước thành kẻ hèn để dễ bề cai trị thì con đường bại vong, mất nước đã thấy sờ sờ ngay trước mắt.

Suốt hơn 60 năm dưới gọng kềm sắt máu của đảng cộng sản Việt Nam giới sĩ phu, trí thức, văn nghệ sĩ… đều bi o ép, bắt buộc dưới mọi hình thức từ bạo lực đến khủng bố, hăm dọa, bao vây kinh tế, bóp bao tử, trù dập… phải phục vụ tuyên truyền, bẻ cong sự thật, làm lệch lịch sử có lợi cho chúng thì chuyện kẻ sĩ bị hèn không phải là chuyện lạ và đáng trách. Không hèn hôm nay thì ngày mai buộc phải hèn chỉ vì để sống còn.

Kẻ sĩ Bắc Hà, ở trong giai đoạn đảng đang say máu ‘giết lầm hơn bỏ sót’, như cá nằm trên thớt, những ai không cúi đầu nghe theo lệnh đảng như Hữu Loan, Phùng Quán, Trần Dần, Phan Khôi…được mấy ai ?

Tuy nhiên điều đáng hổ thẹn ở đây là có người, con số không phải là ít, lại hãnh diện cam tâm khom lưng làm văn nô, bồi bút cho ác quyền mà lương tâm và lương tri không một mảy may ‘bức xúc’ và ‘trăn trở’ với những dòng chữ nhơ nhớp của mình viết ra.

Loại người này luôn luôn chực chờ, rình mò cơ hội để sẵn sàng lập công dâng đảng, bất chấp thủ đoạn cốt chỉ được nhận cái vết… nhơ một thời làm lính văn nghệ cho đảng như Tô Hải đã vạch ra.

Cái đám lính văn nghệ cho đảng hiện nay rất đa số, đa năng, đa hiệu. Ngoài nghiệp vụ của người làm báo là thông tin ra chúng còn làm tài khôn của chó săn, cầm đèn chạy trước ô tô, chiếm luôn quyền hạn của lập pháp, hành pháp và tư pháp nữa. Bài viết của chúng luôn có đủ ba nhiệm vụ: vu cáo, kết tội và hung hăng ra án phạt trong khi đối tượng đang còn trong tình trạng điều tra.
Cứ xem các bài báo của những Xuân Quang (báo Nhân Dân), Như Phong (báo Công An), Anh Quang (báo Hà Nội Mới), Hà văn Thịnh (Báo Lao Động), Thái Nam, Phạm Gia Minh, Nguyễn Ngọc Trân, Thi Nga…và còn nhiều kẻ phải bịt mặt để viết bài vu khống, mạ lỵ, hạ nhục, bôi bẩn đối tượng, ký tên hai chữ tắt P.V để khỏi xấu hổ với chữ nghĩa bẩn thỉu của mình thì đủ biết chúng là loại gì.

Tóm lại, dù chúng có lấy bút danh, bút hiệu gì gì đi nữa để trốn tránh dư luận thì tự thâm tâm chúng cũng là những thứ văn nô, bồi bút, chó săn tệ mạt, hèn nhát.

Một ngày nào đó ‘đảng không tin tôi nữa’ như Hà Văn Thịnh than thở thì rồi chúng cũng sẽ cùng nhau đấm ngực và khóc rống lên, ca bài ca con cá rằng ‘Đời là bi kịch’.

Hãy ngẫm xem hai trường hợp điển hình vừa nêu trong bài, một nhạc sĩ Tô Hải và một giảng viên sử Hà văn Thịnh, ai là kẻ bi, ai là kẻ hài của một kiếp văn nô, bồi bút ?

Nguyễn Thanh Ty
17/5/09