Friday, June 12, 2009

DÂN CHỦ VÀ ĐỜI SỐNG - Đỗ Thái Nhiên

Đỗ Thái Nhiên

Đối với CSVN, dân chủ là từ ngữ tối kỵ, không nên nhắc tới. Khi bị đối mặt với dân chủ, CSVN chỉ có thể nói lơ mơ về dân chủ tập trung, dân chủ trong nội bộ đảng. Đăc biệt, cuối tháng 05/2009, nhân một cuộc phỏng vấn của báo Đại Đoàn Kết, cơ quan truyền thông của CSVN, ông Trần Xuân Giá, cựu bộ trưởng bộ Kế Hoạch Đầu Tư, minh thị phát biểu rằng:

“Để đất nước phát triển bền vững phải xây dựng cho được nền dân chủ”.

Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao ông Trần Xuân Giá, một trong những thành viên quan trọng hàng đầu của chế độ Hà Nội lại đưa ra lời kêu gọi vừa kể? Đi tìm giải đáp cho câu hỏi này chúng ta không thể không khảo sát mối quan hệ giữa dân chủ và đời sống.

Dân chủ và tính chính thống của chế độ chính trị:

Đất nước là của toàn dân. Toàn dân là chủ nhân ông duy nhất và tối cao của đất nước. Nhà cầm quyền phải thực sự là công bộc của nhân dân. Những công bộc này phải được nhân dân trực tiếp tuyển chọn thông qua những thủ tục ứng cử và bầu cử công khai và công bằng. Một chế độ chính trị chỉ có được tính chính thống chừng nào chế độ đó ra đời từ một cuộc bầu cử hợp lệ. Hợp lệ có nghĩa là hình thức “đảng cử dân bầu “ cần bị loại bỏ triệt để. Hợp lệ còn có nghĩa là cuộc bầu cử phải được chuẩn bị chu đáo thông qua những hoạt đồng truyền thông đích thực tự do và trong sáng. Như vậy chính thống đồng nghĩa với chính nghĩa. Chế dộ phi chính thống, phi chính nghĩa không sớm thì muộn sẽ phải bị lịch sử trừng phạt.

Dân chủ và nhân quyền:

Nói một cách chung nhất nhân quyền là quyền được sống bình đẳng, quyền được thực sự nắm giữ vai trò làm chủ đất nước với tư cách công dân. Muốn như vậy muôn người như một cần được tự do tư tưởng và tự do hành động trên căn bản tự do của một người có giới hạn là tự đo của những người chung quanh. Nhân quyền của người dân chỉ là những cái bánh vẽ nếu người dân không thực sự làm chủ guồng máy cầm quyền. Làm chủ ở đây có nghĩa là sự thực thi quyền xử dụng lá phiếu để chỉ định nhà cầm quyền. Nói ngắn và gọn: dân chủ là phương pháp luận của nhân quyền. Dân chủ và nhân quyền như hai mặt không thể tách rời của một bàn tay.

Tàu xâm lược sẽ biến mỗi người dân thành một tên nô lệ. Ý thức về nhân quyền, tấm lòng tha thiết đối với nhân quyền là những động lực cực mạnh hối thúc người dân quyết liệt chống ngoại xâm, quyết liệt chống thân phận nô lệ.

Dân chủ và sức dân:

Cuộc xâm lăng của Trung Cộng nhằm vào đất nước Việt Nam đang được tiến hành bằng những hành động cụ thể trên các lãnh vực kinh tế, chính trị, quân sự. Lịch sử loài người đã chứng minh: không một quốc gia nào có thể chống ngoại xâm một cách hữu hiệu nếu chính quyền của quốc gia đó không được nhân dân ủng hộ. Nhân dân chỉ ủng hộ chính quyền chừng nào chính quyền có tính chính thống đích thực. Nói cách khác nhân dận chỉ hợp tác với chính quyền chừng nào chính quyền là công bộc của người dân hiểu theo nghĩa dân chủ chân chính. Mặt khác, sức dân chỉ tích tụ và phát triển trong một xã hội ổn định. Xã hội ổn định trên nền tảng mọi công dân đều tôn trọng luật pháp. Về mặt bản chầt, luật pháp có hai loại; pháp quyền và pháp trị. Pháp quyền là luật pháp do nhà cầm quyền độc tài lập ra để cưởng bách người dân phải tuân hành những mệnh lệnh độc tài áp bức. “Ổn định” của xã hội pháp quyền là “ổn đinh” nằm bên dưới họng súng. Pháp trị là hệ thống luật pháp được làm ra bởi những ngươì do dân bầu ra theo dung thủ tục dân chủ đích thực. Người dân chỉ tôn trọng luật pháp do dân làm ra. Dân chủ là cha đẻ của pháp trị và pháp trị là cội nguồn của ổn định xã hội.

Chỉ có chế độ dân chủ mới có hợp tác giữa chánh quyền và nhân dân, mới có ổn định xã hội, mới có sức dân để chống bành trướng Bắc Kinh.

Dân chủ và bài toán kháng cự Bắc Xâm:

Từ nhiều thập niên qua, trong những tuyên truyền xám, tuyên truyền bán chính thức, CSVN thường biện hộ cho tình trạng “lép vế” của Việt Cộng trước Trung Cộng bằng lý lẽ rằng: Trung Quốc có công hổ trợ đảng ta từ khi đảng ra đời cho đến ngày nay và rằng công lao kia bao gồm cả nhân lực lẩn vật lực, nếu tính thành tiền thì đây là số tiền cực lớn. Chính vì món nợ to lớn vừa kể, đảng ta không thể không đãi ngộ Trung Quốc bằng một lề lối ngoại giao ẩn chứa nhiều nhượng bộ. “Chính sách ngoại giao đầu hàng” cho thấy món nợ khổng lồ đã làm cho CSVN hoàn toàn mất khả năng chống Bắc xâm. Vậy thì muốn chận đứng sức bành trướng của Bắc Kinh, CSVN cần làm gì?

Trước tiên chúng ta hãy phân tích tính chất pháp lý của CSVN đứng ở vị trí con nợ của Trung Quốc. Mãi cho đến bây giờ đảng CSVN không hề có một văn kiện pháp lý nào để minh chứng CSVN là một chánh đảng có tư cách pháp nhân được luật pháp Việt Nam ban cấp và nhìn nhận. CSVN là một đảng không có giấy phép hoạt động nhưng lại có những việc làm gây xâm hai nặng nề tới tài sản và sinh mạng của người dân. Không còn nghi ngờ gì nữa: về mặt pháp lý CSVN hiển nhiên là một băng đảng. Quan hệ chủ nợ và con nợ giữa Trung Quốc và CSVN chính là quan hệ giữa Trung Quốc và một nhóm tư nhân Việt Nam, hay nói rõ hơn một băng đảng Việt Nam.

Điều tệ hại là nhờ vào tội ác cướp chính quyền băng đảng CSVN trở thành nhà cầm quyền CSVN. Từ đó Trung Quốc và CSVN đã đồng hóa món nợ của CSVN đối với Trung Quốc thành món nợ của quốc gia Việt Nam đối với chế độ Bắc Kinh. Và cũng từ đó chẳng những không chống cự mà CSVN còn tiếp tay cho Trung Quốc xâm lăng Việt Nam với ẩn ý là “Để trả nợ”. Vả lại, mặc dầu gọi là nợ, thế nhưng, giữa Trung Quốc và CSVN cũng không hề có giấy nợ, lai càng không có thời hạn trả nợ và phương pháp trả nợ.

Nhìn chung, trong hiện tình bang giao giữa Trung Quốc và CSVN, số tiền băng nhóm CSVN nợ Trung Quốc chẳng khác nào một mớ kẽm gai, CSVN vô phương giải gỡ. Chỉ có một chế-độ mới thực sự do dân bầu, thực sự dân chủ, thực sự đại diện cho toàn dân Việt Nam mới có đủ năng cách chính trị và pháp lý để kháng cự Trung Quốc xâm lược. Chế độ này sẽ nói cho Trung Quốc, nhất là nói cho công luận quốc tế rõ: Con nợ của Trung Quốc là băng đảng CSVN. Quốc gia Việt Nam không hề nợ Trung Quốc. Luận cứ vừa nêu sẽ triệt hạ mực độ hung hăng của Trung Quốc đối với Việt Nam. Đồng thời thuyết phục nhiều quốc gia trong cộng đồng quốc tế ủng hộ Việt Nam chống Bắc xâm.

Tóm lại,

Dân chủ là tính chính thống của chế độ chính trị, là động cơ tâm lý tạo khối đoàn kết toàn dân.

Dân chủ là công cụ thực thi nhân quyền. Nhân quyền là ngọn lửa chống mọi loại nô lệ, nhất là nô lệ ngoại xâm.

Dân chủ là mọi trường qui tụ sức dân trong nỗ lực chống ngoại xâm.

Dân chủ lả cơ hôi lý luận nói lên chân lý rằng với tư cách một băng đảng hoạt động không giấy phép CSVN đã là con nợ của Trung Quốc. Quốc gia Việt Nam không hề nợ Trung Quốc.

Các điều vừa tóm lược ở trên là một khảng định mạnh mẽ rằng: muốn đề kháng lực bành trướng của Bắc Kinh, muốn tồn tại như một quốc gia dộc lập, Việt Nam không thể không tiến lên dân chủ. Ông Nguyễn Xuân Giá kêu gọi dân chủ cho Việt Nam để nỗ lực xây dựng dân chủ cho Việt Nam hay chỉ để ru ngủ người dân. Không cần phải đi tìm hậu ý của Nguyễn Xuân Gia, mỗi người dân Việt Nam đều có nghĩa vụ cố gắng hết sức mình để thực hiện dân chủ cho Việt Nam. Đó là nội dung trọng tâm của bài viết Dân Chủ Và Đời Sống.

Đỗ Thái Nhiên

Con kiến đi kiện củ khoai - Lê Minh


Lê Minh

Từ lâu trong dân gian Việt Nam đã có thành ngữ “con kiến mà kiện củ khoai” để ám chỉ việc một người thấp cổ bé họng đòi thưa kiện một quan chức quyền cao chức trọng, hay một cường hào ác bá nào đó. Câu thành ngữ này hôm nay thật đúng với câu chuyện Luật sư Cù Huy Hà Vũ đòi kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Luật sư Cù Huy Hà Vũ


Hôm qua 11/06/2009, Luật sư Cù Huy Hà Vũ đã nộp đơn kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Tòa Án Nhân Dân thành phố Hà Nội “do đã ban hành trái pháp luật Quyết định số 167/2007/QĐ-TTg ngày 1/11/2007 phê duyệt Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng quặng Bauxite giai đoạn 2007-2015, có xét đến năm 2025”.

Lá đơn ghi rõ tên người đứng đơn kiện là Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ, thường trú tại 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội. Tên người bị kiện là “Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam”, tức là đuơng kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người đã ký Quyết định bên trên. Cơ sở để LS. Cù Huy Hà Vũ đâm đơn kiện là do TT.Nguyễn Tấn Dũng đưa ra Quyết định 167/2007QĐ-TTg trái với các luật hiện hành về Bảo vệ Môi trường, Quốc phòng, Di sản Văn hóa và cũng trái với điều luật về Ban hành Văn bản Quy phạm Pháp luật.

Quyết định đưa ra trái với “Luật về Bảo vệ Môi trường”

LS.Cù Huy Hà Vũ đã căn cứ vào Chương III của Luật Bảo vệ Môi trường, mà theo đó yêu cầu dự án phải có Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, trong đó Điều 15 Mục 1 có quy định “Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược là một nội dung của dự án và phải được lập đồng thời với quá trình lập dự án”.

“Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược” phải được thẩm định kỹ càng, và được nêu rõ trong Khoản 6 Điều 17 Mục 1 là “Kết quả thẩm định báo cáo môi trường chiến lược là một trong những căn cứ để phê duyệt dự án”.

Điểm a Khoản 7, Điều 17 Mục 1 cũng nói rõ là đối với các dự án lớn có tầm cỡ quốc gia thì Bộ Tài Nguyên và Môi Trường tổ chức Hội đồng Thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược đối với các dự án do quốc hội, chính phủ, thủ tướng phê duyệt”.

Do đó, LS.Cù Huy Hà Vũ kết luận rằng, vì “chưa có một Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược” cho nên Quyết định của TT.Nguyễn Tấn Dũng là “trái với Luật Bảo Vệ Môi Trường”.

Đó là điều sai trái thứ nhất!

Quyết định đưa ra trái với “Luật về Quốc phòng, Bảo vệ Di sản Văn Hóa”

LS.Cù Huy Hà Vũ cũng dẫn chứng Khoản 2 Điều 11 Luật Quốc Phòng vì “Quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội vùng, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và khu vực trọng điểm về quốc phòng phải được Bộ Quốc Phòng và cơ quan có thẩm quyền của chính phủ phối hợp thẩm định”.

Trong khi đó Khoản 1 Điều 4 của Luật Di Sản Văn Hóa có quy định “lối sống, nếp sống” là thuộc di sản văn hóa, phải được nhà nước bảo vệ và phát huy. Với quy mô của việc khai thác Bauxite ở Tây Nguyên chắc chắn sẽ đưa đến việc di dời nhiều bộ tộc người thiểu số, và di hại trong tiến trình khai thác cũng ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng vạn thậm chí hàng triệu người miền ngược cũng như miền xuôi. Trong khi đó, tính cho đến nay cũng chưa hề có một sự thẩm định nào của ngành văn hóa về di hại đối với các di sản văn hóa.

Ấy vậy mà Quyết định của ông Thủ tướng chỉ “Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25/12/2001”, mà không hề đả động đến các bộ Luật kia.

Đó là điều sai trái thứ hai!

Quyết định đưa ra trái với “Luật về Ban hành Văn bản Quy phạm Pháp luật”

Ngoài ra, LS.Cù Huy Hà Vũ cũng nhấn mạnh rằng theo Điều 15 Luật Ban hành Văn bản Quy phạm Pháp luật thì Thủ tướng ban hành Quyết định, chỉ thị phải căn cứ vào Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước, Nghị quyết, Nghị định của chính phủ. Bỏ qua các bước này mà ban hành Quyết định là làm sai luật.

Đó là điều sai trái thứ ba!

Nêu ra chừng ấy dẫn chứng, LS.Cù Huy Hà Vũ xác định việc ra Quyết định số 167/2007/QĐ-TTg ngày 1/11/2007 phê duyệt Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng quặng Bauxite giai đoạn 2007-2015, có xét đến năm 2025” của TT.Nguyễn Tấn Dũng là trái với luật hiện hành, và ông yêu cầu Tòa Án Nhân Dân TP.Hà Nội thụ lý Đơn kiện của ông.

Dư luận cho rằng việc LS.Cù Huy Hà Vũ đâm đơn kiện đuơng kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là hành động “Châu Chấu đá Xe”, hoặc là “Con kiến mà kiện củ khoai”, bởi vì tuy LS.Cù Huy Hà Vũ có can đảm đưa đơn kiện, nhưng liệu Tòa Án Nhân Dân TP.Hà Nội có dám thụ lý đơn kiện này không, hay là sẽ ... cho vào thùng rác? Hay rồi đây LS.Cù Huy Hà Vũ sẽ được công an “chiếu cố” hỏi thăm như kiểu họ đã làm trước đây đối với các Luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Lê Quốc Quân, Lê Trần Luật,.. để rồi vụ kiện đi vào quên lãng?

Được biết LS.Cù Huy Hà Vũ là con trai của nhà thơ Cù Huy Cận. Ông có bằng thạc sĩ văn chương, tiến sĩ luật tại Pháp. Ông cũng đã tốt nghiệp Học viện Quốc tế Hành chính của Pháp. Ngoài ra ông còn là hoạ sĩ, có chân trong Hội Nghệ thuật ở Việt Nam. Ông từng nổi tiếng với nhiều vụ kiện trong nước, trong đó phải kể đến vụ kiện UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế về quyết định cấp phép đầu tư xây dựng dự án khách sạn Life Resort trên đồi Vọng Cảnh vào tháng 5/2006. Rồi vụ kiện Bộ trưởng và Bộ Văn hóa Thông tin liên quan đến Phòng lưu niệm nhà thơ Xuân Diệu tại 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội. Mặc dầu là người công tác lâu năm ở Bộ Ngoại Giao trước đây, nhưng ông chưa hề vào Đảng. Ngoài ra ông cũng từng ứng cử vào Quốc Hội và tự ứng cử vào chức vụ Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin, và đương nhiên là thất bại!

TT.Nguyễn Tấn Dũng có thu hồi lại Quyết định hay không, hay sẽ tìm kiếm "một con Dê tế thần", hay là ... làm lơ cho xong chuyện, thì vụ kiện này chắc chắn sẽ làm cho nhà nước CSVN lúng túng vì xưa nay quen hành xử "luật rừng".

Cho dù “Con Kiến” tí hon Cù Huy Hà Vũ đi kiện “Củ Khoai” gộc Nguyễn Tấn Dũng không thành công thì cũng sẽ gây một tiếng vang lớn, và là phát súng bắn tan nỗi sợ, thói hèn trong lòng trí thức Việt Nam, chấm dứt một cái hèn đeo mãi trên một con người, kéo dài hơn nửa thế kỷ.

Lê Minh
Sydney ngày 12/06/2009


Thursday, June 11, 2009

Luật sư Cù Huy Hà Vũ kiện tưởng thú Nguyễn Tấn Dũng về vụ bauxite Tây Nguyên

Thanh Phương

Luật sư Cù Huy Hà Vũ
_Luật sư Cù Huy Hà Vũ (Hà Nội) hôm nay vừa nộp đơn khởi kiện ông Nguyễn Tấn Dũng vì theo ông, thủ tướng Việt Nam đã ra một quyết định ''trái pháp luật'' khi vẫn cho thực hiện các dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên, bất chấp những lời phản đối của dư luận. Sau khi nộp đơn kiện, luật sư Cù Huy Hà Vũ đã dành cho RFI bài phỏng vấn sau đây.




Nguồn: http://www.rfi.fr/actuvi/articles/114/article_3813.asp





Mời bấm tải PDF File



Hiểm họa xâm lăng từ phương Bắc - Trương Phú Thứ


Nguyên tác: Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu,
Phụ chú và giới thiệu: Trương Phú Thứ


Nước Việt Nam đang đứng bên vực thẳm của một cuộc xâm lăng của người anh em “môi hở răng lạnh” cộng sản Trung quốc. Những năm tháng gần đây, bá quyền Trung quốc đã dùng sức mạnh khống chế và áp bức tập đoàn cầm quyền Hà Nội phải cắt đất dâng biển cho người đồng chí vĩ đại. Mấy ngày qua, báo chí quốc nội đưa tin hải quân của cộng sản Trung quốc đã xua đuổi các thuyền bè đánh cá của ngư dân miền Trung ngay trên vùng biển của Việt Nam. Nhiều tầu bè đánh cá đã bị đâm chìm, cướp bóc nhiên liệu và các dụng cụ đánh cá. Cộng sản Trung quốc cũng như các triều đại vua chúa của Trung Hoa luôn luôn coi lãnh thổ của quốc gia Việt Nam như là một tỉnh, một phần đất của Trung Hoa và họ chưa bao giờ từ bỏ ý đồ xâm chiếm.

Gần nửa thế kỷ trước, vào mùa hè năm 1962, trong một tài liệu huấn luyện cho các cán bộ cao cấp đảng Cần Lao, Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã viết:

Từ năm 972, sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu hồi phần đất mà Trung Hoa xem là của họ.

Chính sách ngàn đời của Trung Hoa là thống trị Việt Nam và không lúc nào họ thỏa mãn với sự thần phục và triều cống của chúng ta. Ngay những lúc mà quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa, thì các nhà lãnh đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, tìm cách thỏa thuận với Trung Hoa và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng điều mà Trung Hoa muốn không phải Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất là lãnh thổ Việt Nam mà họ coi như bị tạm mất.

1. Diễn biến lịch sử

Từ năm 900 đến năm 1840, Trung Hoa đã bẩy lần đem quân xâm chiếm nước Việt Nam. Hai lần do nhà Tống chủ trương, ba lần do nhà Minh và một lần do nhà Thanh. Những họat động xâm chiếm liên tục như vậy chứng tỏ các triều đại vua chúa Trung Hoa đều theo một chính sách chung là thống trị và chiếm lãnh giang sơn nước Việt Nam. Lý do mà Trung Hoa muốn và cần phải xâm chiếm Việt Nam vì lưu vực sông Hồng Hà ở miền Băc Việt Nam là đường thóat ra biển của các tỉnh Tây Nam Trung Hoa và đó cũng là con đường xâm nhập của các đạo quân viễn chinh vào lãnh thổ Trung Hoa. Bởi vậy Trung Hoa luôn ôm mộng thôn tính nếu không được cả giang sơn Việt Nam thì ít ra cũng phải là miền Bắc Việt Nam. Cũng vì lý do này mà khi triều đình Tự Đức cầu viện Trung Hoa để chống lại quân Pháp thì Lý Hồng Chương lại ngả theo Pháp mà đề nghị một kế họach chia đôi nước Việt Nam để dành các phần đất bao bọc lưu vực sông Hồng Hà lấy đường ra biển. Sau khi đệ nhị Thê Chiến chấm dứt, Tưởng Giới Thạch đã giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 17 lên phía bắc Việt Nam cũng vì lý do này. Xem ra như vậy thì Việt Nam luôn là miếng mồi nhòm ngó của Trung Hoa bất kỳ ở thể chế nào.

Họa xâm lăng triền miên đe dọa dân tộc chúng ta và trở thành một ám ảnh cho các nhà lãnh đạo nước ta. Do đó mà lịch sử ngọai giao của chúng ta lúc nào cũng bị đè nặng và chi phối bởi tâm lý thuộc quốc. Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ đã tìm cách bứt phá ra khỏi cái ách lệ thuộc đó nhưng hai nhà lãnh đạo của dân Việt với những chiến công lẫy lừng và tài ngoại giao khéo léo cũng phải khuất phục trước những gai góc thực tế. Họa xâm lăng từ phương Bắc đã trói buộc các nhà lãnh đạo nước ta vào con đường một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cõi về phía Nam.

Khi Việt Nam bị Tây phương tấn công, triều đình nhà Nguyễn đã không đủ tri thức và khả năng dùng phương tiện ngọai giao để khai thác những mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương mà thóat ra khỏi được vòng binh đao. Bởi vì quan quân nhà Nguyễn vẫn bị cái mặc cảm thuộc quốc đè nặng trên từng lời ăn tiếng nói. Chính sách ngoại giao chật hẹp đã đưa đất nước vào thế bị cô lập. Tất nhiên lúc hữu sự không thể nào đối mặt với sóng gió. Hành động ngọai giáo duy nhất lúc bấy giờ là sai sứ sang Tầu cầu cứu. Trung Hoa vào lúc đó cũng đang bị Tây phương đe dọa, nếu không thì Việt Nam lại một lần nữa bị Trung Hoa đô hộ.

2. Chống ngoại xâm

Quá trình chống ngọai xâm của các vua chúa ngáy xưa cũng chỉ hạn hẹp trên lãnh vực quân sự. Đó là một thiếu sót to lớn đưa đến những thất bại liên tục. Nước ta là một quốc gia nhỏ lúc nào cũng bị họa xâm lăng đe dọa thì ngoại giao là một trong các lợi khí sắc bén và hữu hiệu để bảo toàn độc lập và lãnh thổ.

Các biện pháp chống ngọai xâm từ phương Bắc mà các vua chúa ngày xưa đề ra chỉ giới hạn và liên quan đến hai nước Trung Hoa và Việt Nam. Sự thần phục và triều cống của triều đình nước Nam chỉ là những biện pháp hõan binh và biện pháp chống ngọai xâm chưa từng bao giờ được đặt thành một chính sách. Từ đó những kế sách ngoại giao chưa bao giờ được cân nhắc hay hoạch định. Sau đó là những nỗ lực của Việt Nam trên phương diện quân sự cũng rất giới hạn trong mục đích giữ họăc tranh giành đất để dung thân. Đối với một nước nhỏ, trong công cuộc chống ngoại xâm thì biện pháp quân sự không đủ để tự vệ mà cần phải biết khai thác các lợi thế qua các biện pháp ngoại giao.

Tuy nhiên biện pháp cần thiết và hữu hiệu nhất lại hoàn toàn thuộc quyền chủ động của chúng ta là phải nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, đồng thời phát huy ý thức quốc gia dân tộc. Lại nữa phải áp dụng một chính sách cai trị khóang đạt và mở rộng thành phần cũng như khuôn khổ lãnh đạo. Nếu ý thức quốc gia và dân tộc ăn sâu vào tâm não của người dân, mọi người đề cao và tranh đấu cho độc lập tự do thì cho dù quân xâm lăng có đánh tan được đạo quân của chúng ta và ngay cả chiến thắng chúng ta trên trường ngoại giao thì cũng vẫn không thể nào tiêu diệt được ý chí quật cường của cả một dân tộc.

Nhưng ý chí quật cường đó mà vắng bóng lãnh đạo sẽ không đưa tới những kết quả mong muốn. Bởi vậy phải tạo ra những cơ hội để quần chúng tham gia và chia sẻ bổn phận cũng như trách nhiệm trong guồng máy lãnh đạo. Bộ máy này càng đông càng hay vì bọn xâm lăng không thế nào tiêu diệt hết được những người lãnh đạo. Tiêu diệt lãnh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các lực lượng xâm lăng.

Để chống xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao. Nhưng hơn hết là phải chủ động nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân. Phát huy ý thức quốc gia và dân tộc đồng thời mở rộng sự tham gia của quần chúng vào hệ thống lãnh đạo. Như vậy thì một thể chế chuyên chế và độc tài không thể nào có đủ điều kiện và khả năng để bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được. Bởi vì bản chất của một thể chế độc tài là tiêu diệt tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập của người dân để giữ quyền lãnh đạo quốc gia cho một người hay một tập đoàn. Thể chế độc tài này không những sẽ không tiêu diệt được ý chí tư do dân chủ trong quần chúng mà lại còn là một lợi khí cho kẻ ngọai xâm. Bởi vì dưới thể chế này thì nhân dân sẽ bị áp bức rồi trở nên chống đối phe nhóm lãnh đạo. Họ sẽ hợp tác ngay cả với bọn xâm lăng. Lịch sử thế giới đã xác nhận chỉ có những dân tộc sống trong tự do dân chủ mới có khả năng chống lại ngoại xâm.

3 Bài học cho tập đoàn cầm quyền cộng sản Việt Nam

Lãnh thổ của quốc gia Việt Nam luôn luôn là một miếng mồi, một mục tiêu nhòm ngó của bất cứ thể chế nào bên Tầu. Vì nhu cầu địa lý và kinh tế, bọn bá quyền Bắc Kinh sẽ còn nhiều áp lực khống chế và đòi hỏi đám đàn em ở Hà Nội phải nhượng bộ, thỏa mãn những ngược ngạo của chúng. Tập đoàn cầm quyền ở Hà Nội vì nhu cầu sống còn đã cắt đất nhường biển cho cộng sản Trung quốc nhưng “giấc mộng lớn” của đảng cộng sản Trung quốc không chỉ là Việt Nam mà là toàn thể khu vực Đông Nam Á. Con đường độc đạo để đi đến Lào, Cao Miên, Thái Lan … không đâu thuận tiên và “ngon ăn” hơn Việt Nam. Để chống lại họa xâm lăng từ phương Bắc, thiết tưởng tập đoàn cộng sản Hà Nội nên nghiền ngẫm bài học “chống xâm lăng” của Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Thuở sinh thời, Ông Nhu đã phải đối đầu với đoàn quân cộng sản Bắc Việt thi hành nhiệm vụ quốc tế xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa. Chỉ với một cái bút trong tay, Ông Nhu đã họach định ra Ấp Chiến Lược đánh tan đám quân xâm lăng từ miền Bắc vả cả bọn cộng sản nằm vùng ở miền Nam. Trong tài liệu “Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, cố Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh đã xác nhận có đến 75% cán bộ và cơ sở của cộng sản ở lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa đã bị tiêu diệt vì những hậu quả trực tiếp của chương trình Ấp Chiến Lược.

Một trong những sửa sọan để chống xâm lăng là đảng cộng sản Việt Nam phải có những cải cách thực sự về tự do dân chủ, khơi dậy lòng tự hào và yêu nước của toàn dân. Quyền tự do của người dân phải được tuyệt đối tôn trọng chứ không phải bị khép kín trong một hệ thống “xin-cho”. Tạo điều kiện và hợp tác với các tôn giáo trong các chương trình cải cách và thăng tiến giáo dục, xã hội. Quyết tâm bài trừ tham nhũng, các đảng viên tham ô phải bị xét xử công khai và trừng phạt đích đáng. Sau nữa là phải mở rộng cánh cửa công quyền để những người không có cái thẻ đảng viên có cơ hội tham gia vào hệ thống lãnh đạo. Trong bối cảnh hiện tại, công tác xây dựng một ý chí quốc gia và dân tộc trong quần chúng là cần thiết và cấp thời. Bọn bá quyền Trung quốc chưa xua quân qua ải địa đầu tiến hành cuộc xâm lăng nhưng hàng hóa Trung quốc đã tràn ngập đến từng ngõ ngách trên lãnh thổ Việt Nam. Các hãng xưởng của Trung quốc đã thấy ở khắp các tỉnh thành. Công nhân Trung quốc đang ngày đêm khai thác bô xít ở Tây Nguyên và cái bóng ma của Mao Trạch Đông lúc nào cũng lởn vởn trong bộ Chính Trị của đảng Cộng Sản Việt Nam. Hình thức xâm lăng này còn bội phần nguy hiểm hơn những hành động quân sự. Chỉ có tinh thần đoàn kết của toàn dân, tình tự quê hương và tự ái dân tộc trong một thể chế tự do dân chủ mới có thể ngăn ngừa được đại họa này.

Lịch sử ghi chép rằng quân dân nước Nam đã sáu lần đẩy lui được đoàn quân xâm lược từ phương Bắc. Cha ông chúng ta đánh Tống bình Chiêm để giữ vững và mở mang non sông bờ cõi thì lẽ nào cộng sản Hà Nội lại ô nhục bán cả giang sơn tổ quốc cho bọn cộng sản Trung quốc sao?

Trương Phú Thứ

Wednesday, June 10, 2009

Lê Phước Tuấn chỉ bị “probation” và không bị trục xuất về VN - Nguyễn Dương


Cali Today News – Như độc giả Cali Today đã nhiều lần theo dõi vụ án của anh Lê Phước Tuấn, người đã đả thương Nguyễn Quốc Huy, một người trong phái đoàn Thủ tướng Cộng sản Phan Văn Khải đến thăm Hoa Kỳ vào năm 2005.

Trong mấy năm qua, tòa án di trú đã xử anh và anh có thể bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ. Thế nhưng, theo tin tức của anh Bùi Mạnh Hùng từ Hoa Thịnh Đốn thì “Phiên tòa di trú xử vụ anh Lê Phước Tuấn đã kết thúc chiều hôm nay Thứ Ba, ngày 9 tháng 6, 2009, tại Arlington, VA. Tòa đã phán quyết Anh Lê Phước Tuấn chỉ bị PROBATION mà thôi và SẼ ĐƯỢC Ở LẠI HOA KỲ…. Quyết định của tòa án về vụ án sẽ được chính thức công bố trong tương lai gần đây.”
*
* *


Vụ án Lê Phước Tuấn

Tuyết Mai &Trịnh Quốc Thiên

Virginia: - Sau một phiên tòa kéo dài từ 1 đến 4:30 chiều ngày 9 Tháng 6, 2009, tại Tòa án Di Trú Arlington, VA, Tòa đã tuyên án Lê Phước Tuấn một năm tù ở và án treo(probation) cho đến Tháng Mười, 2009 ( không bị trục xuất về VN). Nhưng Lê Phước Tuấn đã ở tù một năm rồi nên chỉ còn mấy tháng án treo.

Hiện diện trong phiên tòa này có Lê Phước Tuấn và một người bạn, trong Cộng đồng VN vùng HTĐ có Ông Lý Văn Phước, Cô Lữ Anh Thư, Cô Nguyễn Thị Ngọc Giao, Luật sư Trịnh Quốc Thiên, Ông Michael Benge. Và Luật sư đại diện cho Lê Phước Tuấn là Bà P. Zahadi. Đây có lẽ là phiên tòa cuối cùng trong vụ án Lê Phước Tuấn bắt đầu từ năm 2005.

Phiên tòa đã diễn ra vô cùng sôi nổi. Công tố viên tố cáo Lê Phước Tuấn đã hành hung vô cớ, đả thương chí mạng Ông Nguyễn Quốc Huy, Phó Chủ Tịch Văn Phòng Thủ Tướng CSVN ngày 21 Tháng 6, 2005 trước Khách Sạn Willard ở Washignton, D.C. Công tố viên đề nghị án tù từ một đến mười năm và trục xuất Lê Phước Tuấn về VN. Lê Phước Tuấn đã nhận tội hành hung. Luật sư của Lê Phước Tuấn đưa ra yếu tố anh đã bị hạ nhục, hành hạ từ lúc còn nhỏ ở VN vì là “Con lai” , “Con của Đế Quốc Mỹ” vì vậy Lê Phước Tuấn rất căm thù CSVN. Trong lúc đi biểu tình phản đối phái đoàn của Thủ Tướng CS Phan Văn Khải trước Tòa Bạch Ốc, Lê Phước Tuấn và đoàn người biểu tình bị một đám mười, mười lăm CSVN từ Tòa Bạch Ốc tiến qua công viên La Fayette, gây hấn, khiêu khích, mạ lỵ, chửi bới. Cảnh sát đến giải tán.

Đến trưa, sau khi ăn trưa thì đoàn người biểu tình đi qua Khách Sạn Willard là nơi phái đoàn ngoại giao CSVN cư ngụ. Lê Phước Tuấn nhận diện được người đứng trước Khách Sạn Willard là người đã chửi bới anh trước Tòa bạch Ốc hồi sáng, nên đã nhào lại đánh vào mặt người này. Anh không biết đó là một nhân viên ngoại giao cao cấp của phái đoàn CSVN. Sự hành hung này xảy ra do sự nóng giận chứ không phải là một âm mưu có toan tính trước.

Sau khi nghe qua sự trình bày của hai bên, Ông Tòa có ý kiến đây không phải là một âm mưu, có tổ chức, hành hung có vũ khí, mà sự việc chỉ vì sự nóng giận với những lời mạ lỵ, phỉ báng hồi sáng, vì vậy Tòa tuyên án Lê Phước Tuấn bị một năm tù và tù treo đến Tháng Mười. Nhưng Lê Phước Tuấn đã ở tù mười hai tháng trước đây, nên nay chỉ còn bốn tháng án treo.

Lê Phước Tuấn cho biết một vài cảm nghĩ sau phiên tòa như sau. Anh nói, sự thật thì đâu có ai muốn ở tù, nhưng đi tranh đấu mà bị ở tù thì tù không có gì đáng sợ. Mình phải làm sao, đấu tranh cho tám mươi bốn triệu người dân còn ở VN và những người đang bị cầm tù ở VN được trả tự do.

Mình ở đây được tự do mà mình không làm gì, không đấu tranh cho những người không có tự do ở VN thì sự sống của mình đây có ý nghĩa gì? Cố nhiên khi vụ án chấm dứt, anh không bị ở tù thêm, không bị trục xuất về VN là điều rất đáng mừng. Nhưng điều làm anh cảm động, vui mừng hơn là nhìn thấy các cô, chú, bác đã thương yêu và đóng góp tiền bạc giúp đỡ lo về mặt pháp lý để anh không bị trục xuất về tay CS. Anh vô cùng biết ơn tất cả cô, chú, bác đã giúp đỡ.

Lê Phước Tuấn nói tiếp, anh đi tranh đấu cho VN, mà nếu đồng bào mình lơ là, để thua vụ án này, anh bị trục xuất về VN để bị CS hành hạ tàn bạo thì đây là điều thật đáng buồn. CS sẽ coi cộng đồng người Việt ở hải ngoại không ra gì. Theo Anh Lê Phước Tuấn, sự việc anh không bị trục xuất về VN cho CS thấy người Việt ở hải ngoại luôn hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau.

Lê Phước Tuấn mong mỏi các chú bác ở đây dành chút thì giờ để tranh đấu cho đồng bào mình ở quê nhà, chứ đừng nghĩ mình đã yên thân ở đây rồi quên, tội nghiệp đồng bào mình còn ở đó . Ở bất cứ nơi nào, cộng đồng nào, ai cần giúp gì anh cũng sẵn sàng tiếp tay. Những người trẻ nên đứng lên đòi hỏi nhân quyền cho Việt Nam.

Được biết Lê Phước Tuấn sinh năm 1971, tại Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Cha anh là người Mỹ (African American), phục vụ trong US Marine, theo lời cậu của anh thì cha anh đã mất tích ở VN, MIA. Mẹ của anh đã qua sống ở Thai lan. Từ năm 5-6 tuổi anh sống với ông bà ngoại và cậu. Lúc đi học anh thường bị các bạn học, thầy giáo và những nhân viên của nhà trường hạ nhục, miệt thị là “con đế quốc”, “Mỹ lai đen”… không chịu đựng được sự kỳ thị nên anh nghỉ học sau hai năm và theo cậu làm việc rất vất vả như làm ruộng, đánh cá … để kiếm sống. Nhưng đời sống của anh không được bình yên, những người lính CS thường bắt anh cởi trần truồng nhảy múa cho họ xem chơi. Nếu anh không làm thì họ đánh trên đầu, hay lấy lưỡi lê đăm vào chân anh. Họ càng đâm nhiều thì anh càng nhảy nhanh, và họ đã tìm thấy thú vui trong trò chơi ác độc như vậy, đã để lại những vết thẹo trên chân, trên đầu anh, chấn thương còn mãi mãi trong tâm hồn anh.

Năm 15 tuổi anh bị đưa đi trại lao động, vì dáng vóc to lớn hơn ngừơi Việt Nam, anh luôn bị bắt buộc phải làm việc gắp lần những người VN khác mà tiền lương thì như nhau, nghĩa là chỉ đủ ăn qua ngày. Anh luôn bị bạc đãi, bị đánh đập hành hạ trên đầu, trên mặt, ít nhất là một tuần một lần.

Tháng 6, 1992 anh được qua Mỹ theo diện con lai. Ngày 21 tháng 6, 2005 Anh cùng bè bạn và đồng hương tập họp tại Công viên La Fayette trước Tòa Bạch Ốc ở Washington, D.C. để phản đối cuộc viếng thăm của Thủ Tướng CSVN Phan Văn Khải. Kế đến là vụ hành hung rồi bị bắt và sau đó Lê Phước Tuấn bị truy tố ra tòa về tội hành hung nhân viên ngoại giao.

Theo luật pháp HK, Lê Phước Tuấn có thể bị một tới mười năm tù và có thể bị trục xuất về VN. Nhưng nếu Sở Di Trú HK trục xuất Lê Phước Tuấn về VN thì sẽ vi phạm luật HK và luật Quồc tế, vì không được trục xuất tội phạm về quồc gia mà họ sẽ bị tra tấn.

Hơn thế nữa cha của Lê Phước Tuấn là một chiến binh Hoa Kỳ đã hy sinh mạng sống cho sự tự do của miền Nam VN. Lê Phước Tuấn đã thiếu tình cha từ thuở ấu thơ. Bây giờ nếu Lê Phước Tuấn bị trục xuất về VN, anh chẳng những bị CSVN bỏ tù, mất tự do, mà còn bị hành hạ, đày đọa và ba con của anh hiện đang sống ở Mỹ sẽ không có cha. Đây là những yếu tố đáng để quan tòa quan tâm cứu xét. Có lẽ những yếu tố này họp cùng nhiều yếu tố khác như là “Con lai”, “Con đế quốc Mỹ”… Lê Phước Tuấn đã chịu đựng quá nhiều kỳ thị ở VN và sự tấn công này là do cơn nóng giận chứ không là một âm mưu, cho nên Tòa đã tuyên án Lê Phước Tuấn một năm tù và vài tháng án treo.

Hôm nay vụ án Lê Phước Tuấn coi như đã chấm dứt. Lê phước Tuấn kính gởi lời tri ân sâu xa tới tất cả quý ân nhân, các chú bác HO, các anh em “con lai” và đồng bào gần xa đã hết lòng thương yêu hỗ trợ anh về tinh thần cũng như vật chất trong suốt thời gian qua.

Tuyết Mai &Trịnh Quốc Thiên


THÔNG BÁO của Phong Trào Quốc Dân Đòi Trả Tên Sài Gòn về các buổi ra mắt phim tài liệu "SỰ THẬT VỀ HỒ CHÍ MINH"


PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀIGÒN
P.O Box 17 - 516, Greenlane. Auckland – NEW ZEALAND
P.O Box 6005, Torrance, CA 90504 – USA
Website: www.saigonforsaigon.org
Email: s4s@saigonforsaigon.org

THÔNG BÁO

Phong Trào Quốc Dân Đòi Trả Tên Sài Gòn về các buổi ra mắt phim tài liệu

"SỰ THẬT VỀ HỒ CHÍ MINH"

Như đã công bố qua Thông Báo ngày 2 tháng 9 năm 2007, để đẩy mạnh chiến dịch “Tẩy trừ huyền thoại giả trá Hồ Chí Minh”, PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀI GÒN quyết định thực hiện cuốn phim “SỰ THẬT VỀ HỒ CHÍ MINH”. Đây là một phim tài liệu trình bày sự thật về cuộc đời Hồ Chí Minh và những hệ lụy ông ta đã gây ra cho Dân Tộc và Đất Nước Việt Nam .

Sau hơn 18 tháng nỗ lực và với sự giúp đỡ của nhiều thức giả, chuyên viên, mạnh thường quân và sự khuyến khích của nhiều người, PHONG TRÀO đã hoàn thành bản tiếng Việt cuốn phim này. Các bản tiếng ngoại quốc sẽ được xúc tiến thực hiện trong giai đoạn tới.

PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀI GÒN sẽ tổ chức buổi ra mắt đầu tiên phim tài liệu “SỰ THẬT VỀ HỒ CHÍ MINH” tại Little Saigon, Nam Cali, Hoa Kỳ vào Thứ Bẩy, 11 tháng 7 năm 2009.

Sau đó, để quảng bá cuốn phim đến đông đảo đồng hương, phái đoàn PHONG TRÀO SÀI GÒN sẽ đến giới thiệu với cộng đồng Việt Nam tại các thành phố TB California, TB Texas, Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, miền Đông Hoa Kỳ và Canada trong các ngày cuối tuần tháng 7 và tháng 8.

Cuối tháng 8 và tháng 9, cuốn phim sẽ ra mắt đồng hương tại Âu Châu, và trong tháng 10 tại Úc Châu.

Vào giữa tháng 11, PHONG TRÀO sẽ tiếp tục tổ chức các buổi giới thiệu cuốn phim tại Nhật Bản, một số thành phố khác của Hoa Kỳ và Canada cho đến cuối năm 2009.

Lịch trình các buổi ra mắt cuốn phim được liệt kê đày đủ trong website của PHONG TRÀO: http://www.saigonforsaigon.org

Trong các buổi ra mắt này, ngoài việc trình bày mục tiêu và kế hoạch thực hiện và quảng bá phim, PHONG TRÀO sẽ tặng đồng hương tham dự cuốn DVD phim tài liệu này.

PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀI GÒN mời gọi đồng hương tham dự đông đảo các buổi ra mắt cuốn phim kể trên, và sau đó tiếp tay quảng bá rộng rãi cuốn phim này đến đồng bào trong và ngoài nước. Đối với đồng hương ở xa không thể tham dự, PHONG TRÀO sẽ thông báo trong thời gian tới cách thức tiếp nhận DVD phim tài liệu “ SỰ THẬT VỀ HỒ CHÍ MINH” qua đường bưu điện.

Tại Thành phố Auckland , New Zealand
Ngày 11 tháng 6 năm 2009
Linh mục NGUYỄN HỮU LỄ
Đại diện PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀI GÒN

Ý Nghĩa Ngày Quân lực Việt Nam Cộng Hòa - Phạm Phong Dinh


Phạm Phong Dinh

Ngày 20.7.1954 đánh dấu ngày quốc hận thứ nhất của dân tộc Việt Nam, sau khi cộng sản Bắc Việt cùng với thực dân Pháp ký kết Hiệp định Genève chia đôi đất nước, lấy vĩ tuyến thứ 17 chạy ngang con sông Bến Hải làm ranh giới Bắc Nam. Ðó cũng là ngày đánh dấu cuộc di cư từ bỏ chế độ cộng sản lần thứ nhất của người Việt với gần một triệu dân miền Bắc gồng gánh bồng bế nhau tìm đủ mọi cách để được đáp tàu vào vùng đất miền Nam tự do, nơi đó nước Việt Nam Cộng Hòa non trẻ đang chập chững những bước đầu tiên trong cộng đồng chính trị thế giới.

Giữa bối cảnh một nửa đất nước oằn oại rên siết trong gông cùm cộng sản, trong bóng đêm của dối trá và tội ác, một nửa nước còn lại vừa phải đối phó với quân cộng sản còn nằm mai phục trong các chiến khu cũ thời Pháp và đương đầu với những vấn đề ổn định nội bộ, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, danh xưng lúc đó là Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam, tiếp nhận di sản nghèo nàn và lạc hậu do phía quân đội Pháp hồi hương bàn giao lại, đảm nhận trọng trách nặng nề bảo quốc an dân. Ngày 1.7.1955 Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam chính thức hình thành, đánh dấu ngày khai sinh một quân lực non trẻ mà đã dám chiến đấu chống lại cả một đại khối cộng sản quốc tế hung hãn tràn xuống từ phương Bắc. Tên tội đồ dân tộc, kẻ giết hàng triệu người mà miệng vẫn cười Hồ Chí Minh, một cán bộ cao cấp của cộng sản quốc tế, cúi đầu làm chó săn nhận vũ khí và thực hiện sách lược “Dùng người Việt giết người Việt” của quan thầy Nga Sô và Trung Cộng, vơ vét thanh thiếu niên miền Bắc đẩy vào miền Nam bắn dùng bọn thổ phỉ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thực hiện sách lược “Dùng người Miền Nam giết người Miền Nam” tàn sát chính đồng bào ruột thịt của mình.

Dưới thời của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm của nền Ðệ Nhất Cộng Hòa, sau khi ông chính thức làm Tổng Thống sau cuộc Trưng Cầu Dân Ý 1955, Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam được cải danh thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với xác quyết quân đội sẽ được phát triển và tối tân hóa thành một đạo quân mạnh để đập tan bất cứ một cuộc xâm lược nào từ phương Bắc. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong suốt lịch sử 20 năm chiến đấu bảo vệ tổ quốc, tuy có những lúc thăng trầm nghiêng ngửa, có những lúc thiệt hại nặng nề, nhưng những người chiến binh dũng cảm Việt Nam Cộng Hòa vẫn giữ vững ý chí chiến đấu, không chấp nhận chế độ cộng sản, quyết đánh cho đến hơi thở và giọt máu cuối cùng. Từ ngày 1.11.1963, sau khi một nhóm tướng lãnh đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm, đất nước và quân đội Việt Nam Cộng Hòa bị suy yếu trầm trọng vì tình trạng chỉnh lý tranh giành quyền lực liên miên giữa các tướng lãnh. Cộng Sản Bắc Việt nương cơ hội này lăm le tràn xuống đánh dứt điểm miền Nam. Hồi tưởng lại hoàn cảnh đất nước thật đen tối trước ngày 19.6.1965, vận mệnh của nước Việt Nam Cộng Hòa như sợi chỉ mỏng manh treo nghìn cân trước làn sóng xâm nhập đã bắt đầu ồ ạt với hàng trăm ngàn quân chính qui Bắc Việt đã có mặt ở Miền Nam.

Về chính trị, tình hình đầy xáo trộn và bất ổn. Những cuộc xuống đường dưới sự khích động của những phần tử cộng sản nằm vùng và trà trộn liên miên xảy ra, mà hậu quả hiển nhiên và tức thì là sự rối loạn, khẩn trương của xã hội, dân chúng lúc nào cũng lo âu trước thời cuộc hỗn độn. Cộng sản nhân đó gia tăng những hoạt động tuyên truyền, phá hoại, lũng đoạn hàng ngũ những người Quốc Gia. Ở nông thôn thì Việt cộng gia tăng khủng bố dân chúng, bắt cóc, thủ tiêu và ám sát dã man những viên chức xã ấp tận tụy với chính nghĩa quốc gia, thậm chí những người dân vô tội dù chỉ tỏ chút ngần ngừ hay biểu lộ thái độ không hợp tác, ủng hộ, là đã có thể bị Việt cộng tuyên án tử hình và hạ sát. Bầu không khí sợ hãi, chết chóc bao trùm khắp miền nông thôn, nhất là ở những cùng xa xôi hẻo lánh mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chưa thể thiết lập nền an ninh vững chắc.


Về mặt quân sự, lợi dụng lúc giao thời, chính phủ dân sự Việt Nam Cộng Hòa không có khả năng tập họp được sức mạnh của quân đội, cộng sản liên tục cho binh đội xâm nhập Miền Nam, chuyển dạng thái chiến tranh xâm lược từ du kích chiến sang vận động chiến, mở những trận đánh lớn để thử thách sức mạnh và ý chí chiến đấu của quân dân Việt Nam Cộng Hòa, điễn hình là những trận đánh Bình Giả và Ðồng Xoài cuối năm 1964 và giữa năm 1965. Trong bối cảnh chính tình nhiễu nhương, quân đội không được lãnh đạo và chỉ huy thích đáng, đã đưa đến thiệt hại rất nặng cho quân ta trong hai trận đánh này, mà chỉ trông cậy vào trái tim nồng nàn tình đất nước tình đồng bào và chính thân xác của các anh, người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mới có thể cắn răng ngăn chống được cơn sóng dữ cộng sản đã mấp mé gần ngưỡng cửa Sài Gòn.

Về mặt kinh tế, vì chiến tranh tàn phá, đất đai bị bỏ hoang, do đó mức sản xuất sút kém, đời sống dân chúng lệ thuộc vào ngoại viện. Một đất nước từng xuất cảng gạo mà phải nuốt nước mắt nhận những hạt gạo gọi là viện trợ của nước ngoài. Trong khi đó cộng sản luôn tìm cơ hội cắt đứt đường tiếp tế giữa nông thôn và thành thị, làm cho mức sinh hoạt của xã hội ngày càng đắt đỏ và rất khó kiểm soát, gian thương lộng hành trắng trợn. Người dân ở thành thị khốn khổ vì nạn vật giá gia tăng hàng ngày bao nhiêu, thì người dân ở nông thôn càng oằn nặng dưới sự khủng bố và bóc lột ghê rợn của cộng sản bấy nhiêu. Ðóng góp nuôi quân, thuế khóa nặng nề, dân công, sưu địch, con em bị bắt buộc cầm súng trong vùng cộng sản kiểm soát đã là nguyên nhân thúc đẩy đồng bào liều chết bỏ chạy ra vùng quốc gia để được quân đội bảo vệ và chính quyền giúp đỡ.

Hoàn cảnh bi đát của Việt Nam Cộng Hòa trước ngày 19.6.1965 là như vậy. Ðất nước đã bước đến mấp mé bên bờ vực thẳm, chỉ một bước nữa thôi, quân dân Miền Nam rất có thể sẽ nằm dưới sự thống trị của cộng sản Hà Nội. Nhưng những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ cho phép điều đó xảy ra. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một tập thể duy nhất có tổ chức chặt chẽ và tinh thần kỷ luật cao, không thể chần chờ trước cơn quốc biến, nên đã đứng ra nhận chịu trên vai trách nhiệm nặng nề cứu nguy đất nước và dân tộc. Cho đến gần giữa năm 1965, Hội Ðồng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã loại bỏ được những thế lực phân chia sức mạnh quân đội, cùng chia xẻ trách nhiệm lãnh đạo và điều hành guồng máy quốc gia. Nhưng để tỏ rõ thiện chí và quyết tâm kiến tạo nền dân chủ cho Miền Nam, ngày 5.5.1965, Hội Ðồng Quân Lực đã quyết định trao quyền lãnh đạo đấ nước lại cho chính phủ dân sự, cụ Phan Khắc Sửu được mời làm Quốc Trưởng, Bác sĩ Phan Huy Quát làm Thủ Tướng. Nhưng cũng chỉ hơn một tháng sau, ngày 11.6.1965, chính phủ dân sự do cụ Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng nhận định rằng tình hình đất nước đã đến lúc lâm nguy nếu người quốc gia không mạnh mẽ hành động và tìm ra một con đường tức thời nào đó. Con đường đó, sau những cân nhắc, chính là sức mạnh của Quân Ðội. Chính phủ Phan Khắc Sửu quyết định trao trả quyền lãnh đạo đất nước lại cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bằng tuyên cáo chính thức như sau:

TUYÊN CÁO
CỦA QUỐC TRƯỞNG
CHỦ TỊCH HỘI ÐỒNG QUỐC GIA LẬP PHÁP VÀ
THỦ TƯỚNG CHÁNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA
    Sau khi duyệt lại tình trạng ngày càng một khẩn trương của đất nước, sau khi đã xét lại và xác nhận rằng: những cơ cấu và thể chế Quốc Gia hiện tại không còn phù hợp với tình thế, sau khi đã hội ý cùng toàn thể tướng lãnh Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa tại Phủ Thủ Tướng ngày 11.6.1965, chúng tôi, Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa, Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp, Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa đồng thanh quyết định long trọng trao trả lại cho Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa trách nhiệm và quyền hành lãnh đạo quốc gia đã được Hội Ðồng Quân Lực ủy thác cho chúng tôi chiếu theo Quyết Ðịnh số 8 ngày 5.5.1965, Tuyên Cáo số 7 ngày 5.5.1965, Quyết Ðịnh số 5 ngày 16.2.1965, Quyết Ðịnh số 6 ngày 17.2.1965 và Quyết Ðịnh số 4 ngày 16.2.1965.

    Yêu cầu toàn thể đồng bào các giới không phân biệt giai tầng địa phương, đảng phái và tôn giáo, ủng hộ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong việc lãnh đạo toàn Quân và toàn Dân đúng theo tinh thần của Cách Mạng 1.11.1963.

    Làm tại Sài Gòn ngày 11.6.1965

    Phan Khắc Sửu
    Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa

    Phan Huy Quát

    Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa

    Phạm Xuân Chiểu

    Chủ Tịch Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp
Ngày 12.6.1965, trong một buổi họp quy tụ tất cả những tướng lãnh đang nắm những trọng trách trong Quân Ðội từ cấp Tổng Tham Mưu Trưởng, Tư Lệnh bốn Vùng Chiến Thuật cho đến các Tư Lệnh Quân Binh Chủng, Hội Ðồng Quân Lực đã đề cử Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đảm nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia (tương đương Tổng Thống), Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đảm nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (tương đương Thủ Tướng), thông qua quyết định như sau:


QUYẾT ÐỊNH
THÀNH LẬP ỦY BAN LÃNH ÐẠO QUỐC GIA

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

- Sau khi nghiên cứu Bản Tuyên Cáo Chung của Quốc Trưởng, Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp và Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa ngày 11.6.1965 trao trả trách nhiệm và quyền hành lãnh đạo Quốc Gia cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

- Chiếu biên bản Ðại Hội Ðồng các Tướng Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày 12.6.1965.

Các Tướng Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Tư Lệnh các vùng chiến thuật và quân binh chủng đã quyết định:
    Quyết Ðịnh:

    Ðiều 1. Thành lập một ủy ban lãnh đạo của Quân Lực mệnh danh là Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia.

    Ðiều 2. Thành phần của Ủy Ban nói trên gồm có : một Chủ Tịch, một Tổng Thơ Ký, một Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp, Tổng Trưởng Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu Trưởng, các Tư Lệnh Vùng Chiến Thuật, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô.

    Ðiều 3. Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia thay mặt toàn thể Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa điều khiển Quốc Gia.

    Ðiều 4. Hoàn toàn tín nhiệm và chỉ định:

    A. Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu.

    B. Tổng Thư Ký : Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu.

    C. Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp: Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ.

    Ðiều 5. Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia có nhiệm vụ thiết lập thể chế và các cơ cấu Quốc Gia cùng thành lập một Nội Các Chiến Tranh.

    Sài Gòn, ngày 14 tháng 6 năm 1965

    Toàn thể các Tướng Lãnh và Tư Lệnh Quân Binh Chủng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Ðó là ngày đánh dấu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đứng lên gánh vác hai trách nhiệm lớn: bảo vệ nền tự do độc lập của Việt Nam Cộng Hòa, làm tiền đồn ngăn chống làn sóng cộng sản và xây dựng một đất nước lạc hậu nghèo khó vì chiến tranh triền miên với mục đích tiến lên thành một quốc gia phú cường, ngẫng cao đầu sánh vai với cộng đồng thế giới. Ngày 19.6.1965 thành phần Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương trong một buổi lễ ra mắt được tổ chức long trọng ở Thủ Ðô Sài Gòn, đã tuyên thệ trung thành với Tổ Quốc, nhận trách nhiệm lèo lái quốc gia và làm thành phần tiền phương của quân dân Việt Nam Cộng Hòa chỉ huy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ đất nước. Từ thời điểm đó, ngày 19.6 được đánh dấu như là một cái mốc lịch sử, một chương mới của cuộc chiến đấu chống đại khối cộng sản quốc tế của quân dân Miền Nam, mà Quân Lực Việt Nam Cộng hòa là thành phần gồng gánh trách nhiệm lãnh đạo đất nước, xây dựng nền độc lập, tự do và dân chủ, bình định những mầm móng nằm vùng bạo loạn, ở tiền tuyến thì chỉ huy quân đội ngăn chống cơn sóng xâm lăng cuồng sát của đạo quân hiếu chiến cộng sản Bắc Việt. Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu sau khi đắc cử Tổng Thống đầu tiên của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa trong tháng 11.1967 vẫn tiếp tục cho tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm hàng năm ngày Quân Lực 19.6 với những cuộc diễn binh của tất cả các đơn vị và quân binh chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để biểu dương sức mạnh và ý chí quật khởi của dân tộc Việt Nam chống xâm lược cộng sản từ phương Bắc.

(Ngày 19.1.2004, cựu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, người từng một thời lái máy bay oanh tạc những cơ sở tàng trữ vật chất dành cho cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam ở Miền Bắc, người từng tuyên bố tử thủ Miền Nam trong những ngày cuối cùng của tháng 4.1975 ở Thủ Ðô Sài Gòn, đã tự động lìa bỏ hàng ngũ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nộp đơn xin cộng sản Hà Nội khoan hồng cho ông ta được phép về Việt Nam. Nguyễn Cao Kỳ đã nhục nhã quỳ gối viết những hàng chữ ô uế trong lá đơn xin chiếu khán vào Việt Nam, thể theo những điều kiện của cộng sản Hà Nội. Kỳ đã kính cẩn và khép nép ký cái tên tầm thường của mình dưới huy hiệu cờ máu của cộng sản, mặc nhiên chối bỏ cái quá khứ oanh liệt được làm người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ giờ phút đó, Nguyễn Cao Kỳ, con người một thời từng thốt lời ngạo nghễ với giặc cộng và cả với đồng minh, giờ đây đã nhận chịu sự “khoan hồng, nhân đạo” của giặc một cách tuyệt đối và vô điều kiện. Còn nhớ ngày xưa trong những lần Bắc phạt trở về, chỗ ngực chiếc áo bay màu đen của ông Kỳ vàng óng Lá Quốc Kỳ Vàng mà ông rất hãnh diện mang trên đó, thì ngay nay Kỳ đã cúc cung cúi đầu quy phục lá cờ đỏ, biểu tượng của diệt chủng và diệt dân tộc của cộng sản Hà Nội, bằng một thái độ rất ươn hèn rất không tương xứng với vị thế của một người cựu Tướng chỉ huy toàn Miền Nam. Với ảo tưởng rằng sẽ nhận được những cái hôn thắm tình “hữu nghị” và rất “anh em” của bọn cộng sản Hà Nội, Kỳ xênh xang áo gấm về nước. Thật ô nhục, với thân phận là người cao nhất nước của năm 1965 trong cương vị Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, thì đáng lẽ ít nhất gã thủ tướng của bạo quyền Hà Nội là Phan Văn Khải sẽ ra tận cầu thang máy bay hôn lên cái trán bóng mỡ và lên hai đôi gò má dầy da của Kỳđể tỏ rõ tinh thần “hòa giải hòa hợp” giữa riêng bọn chúng và chỉ mỗi bọn chúng với nhau, thế mà chỉ lèo tèo có một gã gọi là chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc và một gã thành ủy Sài Gòn.

Cộng sản thường có lối đặt chữ rất mù mờ bất thành câu. Mặt Trận Tổ Quốc là mặt trận gì, nếu phải đặt cho tròn câu với đầy đủ danh từ và động từ, thì phải là Mặt Trận Tổ Quốc Ðứng Lên hay Ngồi Xuống hoặc Giải Phóng gì đó, Mặt Trận Tổ Quốc khơi khơi là thế nào ? Như vậy người ta thấy ngay nó là một cái mặt trận không làm gì cả, không ra gì cả, từ đó suy ra rằng gã chủ tịch chỉ là một cái con người rơm lúc lắc theo những cơn gió ngoài đồng. Ðưa một cái hình nộm hữu danh vô thực, vô quyền và không giữ vị trí tối cao nào trong hệ thống tổ chức cộng sản, Hà Nội đã trịch thượng gởi một cái thông điệp đến Nguyễn Cao Kỳ, mà chúng ta có thể hiểu như sau: “Nông Ðức Mạnh, Phan Văn Khải và Trần Ðức Lương sẽ không bao giờ hạ mình xuống ngang hàng với gã hàng thần lơ láo Nguyễn Cao Kỳ, dù là chỉ để ban cho một cái vỗ vai khen ngợi, thì đừng có mà mơ tưởng đến những cái hôn của chúng và đôi cánh tay giang ra ôm ấp trong tư thế “hòa hợp hòa giải”. Lại càng khó có thể được ngồi gác chân trong những bộ salon đắt tiền ở Bắc Bộ Phủ bàn chuyện đại sự với cộng sản”. Ðó là một cách làm nhục đối phương một cách khá là trắng trợn và rõ ràng của Hà Nội, Nguyễn Cao Kỳ đủ thông minh để biết điều đó và đủ hèn để cúi đầu im lặng leo lên máy bay trở về Mỹ quốc, không kèn và không trống.

Từ nay, những nhà viết sử đã có thể thêm vào đằng sau những Trần Di Ái, Trần Ích Tắc, Mạc Ðăng Dung, Lê Chiêu Thống cái tên Nguyễn Cao Kỳ. Còn đối với bè lũ cộng sản Hà Nội:

Chừng nào mà chúng chưa tự trói mình quỳ gối cúi xin dân tộc tha thứ cho những tội ác tày trời của chúng.

Ngày nào mà nhân phẩm người phụ nữ còn bị chà đạp, hàng trăm ngàn cô gái còn bị bán khắp thế giới làm nô lệ tình dục.

Chừng nào mà hàng triệu trẻ em nghèo còn thất học và vẫn lang thang khắp đầu đường xó chợ.

Ngày nào mà người công nhân Việt Nam còn bị bọn chủ ngoại quốc hành hạ, xúc phạm danh dự và thân thể.

Chừng nào mà những nghĩa trang của những tử sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn bị san bằng và hủy diệt, những người chiến sĩ thương phế Việt Nam Cộng Hòa còn bị chà đạp nhân phẩm và bị bỏ rơi ngoài lề xã hội.

Ngày nào mà dân tộc Việt Nam không được hoàn toàn tự do bày tỏ chính kiến khác biệt, niềm tin tôn giáo, tín đồ và những nhà lãnh đạo tôn giáo còn bị bách hại, giam cầm.

Và trên tất cả, chừng nào mà dân tộc Việt Nam vẫn chưa được cho sống như con người đúng nghĩa với những quyền lợi căn bản.

Thì ngày ấy cộng sản Hà Nội đừng có ảo tưởng mơ mộng cái gọi là hòa hợp hòa giải. Chúng chỉ có hai chọn lựa. Thứ nhất, tự nguyện trao trả đất nước lại cho dân tộc để có thể được cứu xét tha thứ. Thứ hai, dọn mình chờ ngày toàn dân đứng lên lật đổ chúng, lúc đó, xin được báo trước và cảnh cáo cho chúng biết, đến sắt thép cũng phải nát tan thành tro bụi dưới cơn thịnh nộ của trời và người).

Với sự trợ giúp của các nước Ðồng Minh, trong đó phần đóng góp chính yếu đến từ Hoa Kỳ từ sau năm 1954, QLVNCH đã dần lớn mạnh, không những đủ khả năng chận đứng đà xâm lăng cuồng bạo của binh đội cộng sản Bắc Việt, mà còn đánh cho bọn chúng tan tành thành từng mảnh vụn trong những chiến thắng lừng danh thế giới như Mậu Thân 1968, chiến dịch hành quân sang Kampuchea đập nát những hang ổ kho tàng tiếp liệu cộng quân năm 1970. Trong cuộc hành quân sang Hạ Lào, chiến dịch Lam Sơn 719, mặc dù bị báo chí và truyền thông Hoa Kỳ cũng như nằm vùng cộng sản tiết lộ bí mật, QLVNCH ngay từ đầu đã ở trong thế hạ phong nhưng vẫn đánh thiệt hại rất nặng lực lượng cộng quân. Chiến thắng lừng lẫy nhất mà đã làm cho toàn thế giới phải cúi đầu ngưỡng phục, kể cả giới truyền thông báo chí phản chiến và thân cộng cũng phải xấu hổ gục đầu công nhận tính chất xâm lược rõ ràng của cộng sản Hà Nội và tinh thần chiến đấu dũng mãnh của QLVNCH. Ðó là cuộc chiến Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972. QLVNCH đã để lại trong lịch sử Việt Nam trang sử chiến đấu chói lọi nhất, thiêu cháy huyền thoại Ðiện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp. Sau cơn thảm bại mùa hè 1972 nhục nhã, Giáp bị cách chức.


QLVNCH chiến đấu trong nỗi cô đơn cay cực mà chưa từng có một đội quân nào trên thế giới đã trải qua hoàn cảnh ngặt nghèo tương tự. Vừa phải đổ máu xương ngăn chống cộng sản ở phía trước mặt mà còn phải hứng chịu những vết đâm lút sâu của những thế lực bạn bè từ phía sau lưng và sự hững hờ từ phía hậu phương. Người chiến binh Việt Nam Cộng Hòa bị trói tay không cho đánh, mặc dù chỉ chiến đấu để tự vệ, bảo vệ làng xóm. Chính họ đã hy sinh mạng sống để cho dân tộc được sống và được hạnh phúc. Sự dàn xếp của những thế lực cộng sản quốc tế và tư bản đã đưa đến ngày tang thương 30.4.1975, QLVNCH một lần nữa bị buộc phải hoàn toàn buông súng. Bọn cộng sản tiểu nhân đắc chí ngổ ngáo tiến vào chiếm lấy Việt Nam Cộng Hòa, ngông nghênh tuyên bố đại thắng, thực hiện sách lược sĩ nhục lăng mạ và đày ải những người chiến binh QLVNCH và vợ con gia đình của họ. Nhưng thật sự có phải cộng sản Bắc Việt đã chiến thắng hay không ? Sau hơn một phần tư thế kỷ kể từ ngày 30.4.1975, giờ đây mọi góc cạnh của sự thật đã được phơi bày dưới ánh sáng của mặt trời. Chúng ta khẳng định mạnh mẽ QLVNCH không hề thua và cộng sản không hề thắng trong trận chiến đấu cuối cùng ngày 30.4.1975. Sự thắng thua chỉ được phân định khi hai lực lượng cùng đối mặt chiến đấu giữa hai chiến tuyến. Hai võ sĩ so găng trên võ đài, một võ sĩ bị trói tay chân và với sự đồng tình của ban trọng tài đã bị võ sĩ kia đánh đập rồi tự đưa tay tuyên bố chiến thắng và tha hồ lăng mạ sĩ nhục đối phương. Cuộc thắng thua còn chưa được phân định khi viên đạn cuối cùng còn chưa được bắn ra khỏi nòng súng.

Giờ đây, sau gần ba mươi năm chứng kiến những tội ác ghê tởm hãi hùng của cộng sản Hà Nội bủa lên đầu chính dân tộc của chúng, công luận thế giới đã khẳng định chế độ cộng sản là một cái quái thai kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại và cần phải hủy diệt nó. Ngọn gió đã đổi chiều thuận lợi cho QLVNCH. Hệ thống truyền thông và báo chí ngoại quốc từng một thời ngày xưa góp tay bôi nhọ làm nhục người chiến sĩ VNCH, ngày nay đã hồi phục danh dự cho QLVNCH, biểu dương tinh thần chiến đấu và chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa. Cuối cùng thì những giá trị nhân bản thực sự của người lính Việt Nam Cộng Hòa đã được thế giới thừa nhận và tôn vinh. Những nắm xương khô đang mục rã theo với thời gian nghiệt ngã của 300 ngàn tử sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nằm câm nín u uất dưới những nghĩa trang hoang phế điêu tàn, hay ở những chống rừng sâu núi thẳm, cùng với nửa triệu chiến sĩ thương phế mà phần lớn còn sống lây lất và khắc khoải bên kia bờ Thái Bình Dương, tất cả những người anh hùng vĩ đại đó giờ đây đã được tôn vinh. Ðiều mà những người còn sống, những người còn lành lặn thân xác phải làm là sẽ cùng nhau tìm cách cắm lên bia mộ các anh những nén hương của lòng tri ân với những giọt nước mắt tiếc thương, cùng nhau gởi về cho các anh thương phế chút lòng của những người đồng đội mà ngày xưa từng kiêu hãnh đứng chung dưới lá Quân Kỳ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để các anh còn tiếp tục nuôi dưỡng một niềm tin. Rồi sẽ có một ngày, cơn thịnh nộ của đất trời và của toàn dân tộc Việt Nam sẽ như con sóng thần biển Ðông cuốn xô đi những tàn tích của cái ác.

Chúng ta cũng nghiêng mình trước Bức Tường Ðá Ðen ở Washington D.C, tri ân hơn 58,000 chiến sĩ Hoa Kỳ trận vong, những người bạn đã từng sát cánh chia sẽ nỗi cơ cực và chết chóc của chiến tranh với người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vì nền tự do của đất nước Việt Nam Cộng Hòa. Chúng ta tri ân và vinh danh 300,000 chiến binh thương phế Hoa Kỳ đã bỏ lại một phần thân thể của các anh trên một đất nước thật quá xa xôi để trở về nhận chịu sự thờ ơ lãnh đạm của chính người dân Mỹ, cùng mang mễn những chứng bệnh tinh thần trầm kha. Giờ đây thì anh linh của tất cả những người lính trận vong Hoa Kỳ và Việt Nam đã có thể đi về phía cõi vĩnh hằng với lòng thanh thản, những chiến sĩ thương binh Hoa Kỳ và Việt Nam đã có thể thể ngẫng cao đầu cười nửa miệng trên những đống gạch đổ nát ngỗn ngang của bức tường thành Bá Linh và những mảnh vụn của cái quái thai chủ nghĩa cộng sản. Chính là các anh, người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và người lính Quân Lực Hoa Kỳ đã là nỗ lực chánh hủy diệt cái ác mệnh danh là chủ nghĩa cộng sản đó. Chúng ta có thể xác quyết một điều là, ngày nào mà người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa còn tập họp, đoàn kết đứng chung dưới lá Quốc Kỳ và Quân Kỳ Việt Nam Cộng Hòa, thì ngày đó cộng sản Hà Nội còn rất run sợ, ngày ăn không thấy ngon, đêm ngủ không được yên giấc. Chúng phải hiểu một điều đơn giản nhưng rất thật là, cho dù chúng có nặn cái bộ óc “trí tuệ” của loài Vượn đến thế nào để cho ra bao nhiêu cái nghị quyết nhắm vào người Việt hải ngoại và Tập Thể người lính QLVNCH, thì cũng sẽ hoàn toàn không ăn được cái giải gì, giống như những cú đánh mất hút vào cõi hư vô. Chúng chỉ thắng được chúng ta ngày 30.4.1975, khi chúng ta bị buộc phải buông súng mà thôi. Ba mươi năm trước, cộng sản Hà Nội cậy có súng AK để đánh đập, hạ nhục, giết chóc những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn vũ khí trong những trại tù khắc nghiệt và dã man của chúng. Ngày nay, ba mươi bốn năm sau, tuy rằng trong tay người lính chúng ta không còn cây súng M 16, nhưng chúng ta có rất nhiều sức mạnh mà cộng sản Hà Nội hằng run sợ.

Thứ nhất, sự phẫn nộ của người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hàng trăm ngàn người lính đã ra được đến bến bờ tự do, dù họ không còn vũ khí, nhưng mỗi trái tim bất khuất của các anh chính là thứ vũ khí sắc bén nhất và hữu hiệu nhất, những trái tim đó đã kết nên thành một bức tường cứng rắn. Ba mươi năm nay, cộng sản đã hằng bắn phá vào bức tường ấy, chỉ để thấy rằng chúng đã một lần nữa chiến bại. Tập Thể Người Lính Việt Nam Cộng Hòa vẫn luôn là lực lượng duy nhất đối kháng và ngăn chống cực lực mọi cuộc tấn công của cộng sản, dù là bằng bất cứ hình thức nào.

Thứ hai, cuộc chiến đấu bằng cây viết của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Cộng sản từng tuyên án: “Một nhà văn “ngụy” bằng mười sư đoàn tác chiến”. Ngày nay, cây viết của những người lính đã trở thành cây súng M 16 bắn những giọt mực ngạo nghễ và thách thức vào mặt cộng sản Hà Nội, ngòi bút xé toang bức màn đen tối của giả dối và tàn bạo để đưa ra trước công luận thế giới và lịch sử sự thật về cuộc chiến tranh xâm lược của cộng sản quốc tế lên Miền Nam và cuộc chiến đấu bảo quốc kiệt liệt của quân dân Miền Nam.

Thứ ba, chiến thắng vẻ vang chấn động cả thế giới của người Việt hải ngoại qua sự kiện vừa kỳ lạ lẫn kỳ diệu: Lá Quốc Kỳ Vàng Ðại Nghĩa Ba Sọc Ðỏ hiện nay đã phất phới, ngạo nghễ tung bay ở nhiều tiểu bang, quận hạt, thành phố và trong nhiều trường đại học khắp nước Mỹ. Ðó há chẳng phải là một dấu hiệu, một sự thừa nhận chân thành của người Mỹ, rằng chỉ có Lá Cờ Vàng Việt Nam mới là biểu tượng của chính khí dân tộc Việt Nam, là biểu trưng của cuộc chiến đấu quật cường của một dân tộc nhỏ bé chỉ có gần 18 triệu người mà đã anh dũng ngăn chống một đại khối cộng sản quốc tế với dân số hơn 1 tỉ người. Không chỉ ở Hoa Kỳ, mà gần như trên toàn thế giới, Lá Quốc Kỳ Vàng Ba Sọc Ðỏ của Việt Nam Cộng Hòa vẫn hằng năm tung bay trên cột cờ thị chính của những thành phố lớn trong ngày 30.4. Ðó há chẳng phải là sự ghê tởm và chối bỏ chủ thuyết cộng sản và lá cờ máu tanh hôi của bè bọn cộng sản Hà Nội của lương tâm thế giới hay sao.


Ngày Quân Lực 19.6 năm nay có nhiều ý nghĩa quan trọng. Nó đánh dấu sự bắt đầu hồi sinh của QLVNCH và của niềm tin chính nghĩa quốc qua cuộc đọ sức gay go giữa cái Thiện và cái Ác. Ngày tàn của bọn cộng sản Hà Nội không còn bao xa nữa. Bên trong cái vỏ bọc hào nhoáng phù du hiện tại mà bọn cộng sản tô vẻ ở quê nhà, chỉ là một cái ruột rỗng tuếch mục nát chờ giờ sụp đổ. Với sự tập họp của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, được thể hiện qua sự đoàn kết cao độ trong Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa Hải Ngoại, kết hợp với những phong trào đấu tranh đòi quyền sống, quyền làm người và quyền tự do tín ngưỡng ngày càng sôi sục ở quốc ngoại và quốc nội, dân tộc Việt Nam có quyền hy vọng sẽ có nhiều chiến thắng khác liên tục và lừng lẫy hơn, để cuối cùng lật đổ được bè lũ bạo quyền Hà Nội.


Anh linh của tiền nhân, của những vị thần tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long, các Trung Ðoàn Trưởng, Tiểu Ðoàn Trưởng, sĩ quan và các chiến sĩ Vị Quốc Vong Thân xin hãy hiển linh thương xót phù trì cho dân tộc Việt Nam và QLVNCH có được nhiều sức mạnh đứng lên lật đổ bạo quyền cộng sản, đem ánh sáng công chính và hạnh phúc trở lại trên khắp mọi miền đất nước, ném bọn chúng vào cõi sâu thẳm tối tăm nhất và đời đời của địa ngục.
    Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm
    Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm
Phạm Phong Dinh

Half Man Half Tree







Thù Hận, Chống Đối Quá Khích - Đinh Lâm Thanh


Đinh Lâm Thanh

Nhiều người trong đó có một vài nhà trí thức, những tay chính trị đón gió, bọn cò mồi và những tên nằm vùng thường lặp lại luận điệu của Hà Nội cho rằng, một số người Việt trong cộng đồng hải ngoại vẫn còn mang thù hận trong lòng và thường quá khích chống đối Việt Nam. Tôi mượn trang giấy nầy để trả lời rõ ràng và dứt khoát như sau:

Đừng bóp méo sự thật, người Việt tự do hải ngoại không thù hận Việt Nam, hay nói thật chính xác và rõ ràng hơn, không thù hận Đất Nước, không thù hận bất cứ người Việt Nam nào dù là Bắc hay Nam, mà mục đích chính là hô hào cổ võ để đánh đổ cho bằng được những tay đầu sỏ trung ương đảng Cộng sản và nhà cầm quyền Hà Nội. Bọn chúng chỉ là một tập đoàn nhỏ, số lượng đếm trên đầu ngón tay nhưng từ mấy chục năm qua đã luân phiên cai trị, đàn áp bóc lột tám chục triệu người vô tội. Những đảng viên cấp nhỏ, sĩ quan quân lính trong quân đội chính quy, trong đạo quân công an kềm kẹp, anh chị em công nhân viên nhà nước đều là những người đáng thương, chẳng qua vì sinh kế và mạng sống buộc họ phải phục tùng. Đối tượng của người Việt tự do chính là những tay đầu não Cộng sản cần phải đạp đổ để dành lại tự do hạnh phúc cho toàn dân chứ không phải là người Việt gốc miền Bắc, miền Nam hoặc cán bộ công nhân viên cấp nhỏ của nhà nước.

Ai căm thù ai ? Ai vẫn xử dụng trò đểu giả để lừa bịp dư luận ? Hà Nội thường rêu rao rằng một số người Việt nước ngoài vẫn còn căm thù đồng thời nhóm người nằm vùng, đón gió trở cờ lợi dụng diễn đàn tự do kêu gọi hãy tha thứ quên đi quá khứ để bắt tay hòa giải. Tôi thấy làm lạ khi Hà Nội vẫn còn dùng những nơi trưng bày ‘tội ác Mỹ-Ngụy’ để rêu rao bôi xấu chế độ tự do và luôn luôn lợi dụng các dịp lễ lộc để khơi lại căm thù …

Chiến tranh nào không tàn bạo, không đổ máu, không chết chóc. Tội ác do Cộng sản gây ra tại miền Nam hàng hà sa số gấp ngàn gấp vạn lần những gì do Đồng minh và Việt Nam Cộng Hòa gây ra vì nhầm lẫn hoặc vì tình thế bắt buộc khi đối đầu với chiến thuật dã man của Cộng sản Hà Nội khi lùa dân làm bia đở đạn cho chúng. Chỉ một vài bức hình như cảnh một bé gái chạy giặc trong vụ Mỹ đánh vào một khu xôi đậu ở miền Trung hoặc tên đặc công bị vị chỉ huy Cảnh sát bắn bỏ ngay giữa đường phố, Cộng sản Hà Nội và tay sai cũng như các phần tử phản chiến thường đưa lên các cơ quan truyền thông quốc tế. Hình ảnh nầy đâu có thể so sánh cảnh hàng ngàn người dân vô tội bị chúng chôn sống tập thể trong Tết Mậu Thân 1968, những cảnh hàng trăm thường dân bị pháo giết hại hoặc cảnh những tên đặc công ném mìn lựu đạn vào giữa chợ búa lúc đông người. Cũng chưa đủ, Hà Nội dùng đủ phương tiện để vận động Mã Lai đập bỏ bia tưởng niệm thuyền nhân tại quốc gia nầy là một hình thức gây hấn, chà đạp lên sự đau khổ của những người đã trốn chạy chế độ khát máu lúc chúng vừa kéo vào ngự trị miền Nam.

Bề mặt vuốt ve Việt kiều nhưng Hà Nội vẫn đểu giả huấn luyện hàng ngàn người, gởi ra xứ ngoài để tuyên truyền gây chia rẽ và phá hoại. Chúng dùng tiền của Việt kiều để gầy dựng cơ sở, nuôi dưỡng và yểm trợ bọn nằm vùng để phá lại cộng đồng người Việt tại các xứ tự do.

Thù hận chất chứa trong lòng, ai hơn ai ? Đối với người tỵ nạn xứ ngoài, giòng giống con cháu Lạc Hồng từ Bắc chí Nam đều là anh em máu mủ, kể cả chị nông dân, anh bộ đội, cán bộ, công an nhà nước. Mọi người đều là nạn nhân bị tập đoàn Cộng sản mượn danh rồi bóc lột lại chính họ đến tận xương tủy. Chúng tôi không hận thù, không quá khích mà dùng phương tiện báo chí truyền thông để lột mặt nạ và dùng ngòi bút vạch trần những xảo quyệt của tập đoàn Cộng sản đồng thời tiếp tay với những người yêu nước đánh cho bằng được đám người thiểu số cầm quyền. Chúng chỉ vỏn vẹn vài ba trăm trong bộ chính trị trung ương và guồng máy hành chánh, nhưng chúng đã thay phiên nhau trị vì trên mồ hôi nước mắt và xương máu của nhân dân Việt Nam từ hơn năm chục năm nay.

Bài viết trên Trích đoạn trong mục ‘Việt Nam Đổi Mới và Hòa Giải Hòa Hợp’ của ấn phẩm Tham Luận Chính Trị ‘MỘT ĐỜI XÓT XA., ISBN số 978-1-60643-652-3, do Nam Việt xuất bản và Tự Lực phát hành tháng 6/2008 tại Hoa Kỳ.

Đinh Lâm Thanh

http://www.hoivanhoanguoiviettudo.com/

TƯƠNG QUAN GIỮAVĂN HÓA VÀ CHÍNH TRỊ - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Gần đây một vài tổ chức văn học nghệ thuật chủ trương rằng hoạt động văn hóa phải hoàn toàn tách khỏi môi trường chính trị. Nghe qua thì đúng, là văn hóa phải vượt ra ngoài tất cả xung đột ý thức hệ, nhưng nếu chủ trương nầy xuất phát từ nhà nước Việt Nam thì chính là một kế hoạch chính trị được lồng vào để phục vụ chế độ.

Tôi đồng ý rằng, nền văn hóa nhân loại phải vượt lên tất cả những vướng mắc nhất thời, nếu loay hoay vào những biến chuyển chính trị để tìm một hướng đi cho văn hóa thì có thể chúng ta đã đi ra ngoài mục tiêu tốt đẹp nhằm phục vụ con người. Nhưng đó chỉ là lý thuyết dù trong thời bình và dưới ảnh hưởng tự do dân chủ của một quốc gia đã có sẵn nền tảng văn minh vững chắc, đôi lúc cũng không thể tách chính trị và văn hóa ra làm hai lãnh vực riêng biệt. Huống gì so với hiện tình đặc biệt của chúng ta, một đất nước cai trị bởi Cộng sản và dân tộc bị phân hóa làm hai với hai nền văn hóa chống đối nhau thì vấn đề tách rời chính trị ra khỏi văn hóa không thể xảy ra.

Thật vậy, một khi hai lãnh vực văn hóa và chính trị của một dân tộc bị phân hóa làm hai bởi một cuộc chiến tranh ý thức hệ không ranh giới thì hai lãnh vực nầy cần phải được kết hợp, dung hòa đồng thời bổ túc lẫn nhau để bảo vệ và phát triển nền văn hóa nhân bản hầu đưa đời sống con người đến Chân Thiện Mỹ.

Một câu hỏi xin đưa ra : Vậy đối với Việt Nam chúng ta, dựa vào chế độ chính trị để làm nền tảng phát triển văn hóa, hay, dùng văn hóa để cãi tạo và xây dựng chế độ ?

Dù hiểu theo chiều nào thì văn hóa và chính trị là hai hành động lúc nào cũng phải liên quan mật thiết với nhau. Đất lành sinh trái ngọt hoặc nói ngược lại, cây tốt khó mọc từ bùn dơ. Vậy có thể kết luận, chế độ chính trị tốt tự nhiên sẽ nẩy sinh một nền văn hóa tự do nhân bản và ngược lại một nền văn hóa nô bộc là nền tảng giúp cho chế độ càng ngày càng thêm độc tài thối nát.

Trước khi đề cập đến hai nền văn hóa riêng biệt cũng như hai khuynh hướng chính trị đối nghịch của Việt Nam tại quốc nội cũng như người Việt Quốc Gia hải ngoại, xin quý vị đừng đơn giản hóa và đóng khung hai danh từ ‘văn hóa’ cũng như ‘chính trị’ trong một nghĩa hạn hẹp, mà đề nghị có một hướng nhìn bao quát rộng lớn hơn.

Không thể hạn chế nền văn hóa của một dân tộc chỉ vỏn vẹn nằm trong phạm vi văn chương, ngôn ngữ và nghệ thuật mà cần phải đề cập đến truyền thống, đạo đức, phong tục cổ truyền, tập quán nhân gian, tôn giáo, y phục, ẩm thực… Cũng vậy, đối với hành động chính trị, không nên gò bó bằng những hình thức bên ngoài như hội họp xuống đường hô hào đá đảo mà phải nghĩ đến mục đích tối hậu của các hành động để tạo một tinh thần yêu nước, thương đồng bào và hướng về đất tổ. Vậy để được khách quan, cần nghiên cứu những chi tiết dưới nhiều lãnh vực khác nhau trong chiều hướng phục vụ đời sống tinh thần lẫn vật chất của con người để người làm chính trị có một lối nhìn bao quát hơn. Đối với hoạt động văn hóa cũng vậy, nhất là hoàn cảnh chúng ta hiện giờ, cũng cần nới rộng phạm vi hành động ra, song song với các chương trình tranh đấu, xây dựng, bảo vệ lý tưởng, sự toàn vẹn quê hương và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam để những suy nghĩ của người làm văn hóa khỏi bị lệch lạc.

Nói đến văn hóa và chính trị của Việt Nam trước và sau 1975 cũng như trong và ngoài nước thì thật không đơn giản. Từ việc thay đổi chế độ rồi nền văn hóa đỏ ra đời, đến môi trường tự do với các phong trào cách mạng đời sống Âu-Mỹ và việc bảo vệ văn hóa cổ truyền ở hải ngoại là những ưu tư của những người hằng quan tâm đến vận nước và gia tài văn hóa dân tộc.

Chúng ta không thể khách quan xem việc bảo tồn văn hóa Việt Nam một cách đơn giải như dưới thời bình và trong một chế độ tự do dân chủ, vì nền văn hóa của tổ tiên để lại đã bị đổi chiều trong quốc nội và đang bị phá sản tại hải ngoại. Việc bảo tồn văn hóa của chúng ta không thuận buồm xuôi gió mà phải đương đầu trực diện trước một cuộc chiến khốc liệt, không ranh giới, không quy ước. Đó là cuộc chiến ý thức hệ giữa Tự Do và Cộng Sản mà văn hóa chính là vũ khí của chiến trường để đối đầu với nhau.

Nếu xét về lượng, trận chiến hiện nay giữa ta và địch không cân xứng cả chính trị lẫn văn hóa. Cộng sản đã dốc toàn lực để ăn thua đủ trong giai đoạn quyết liệt một mất một còn với chúng ta. Hà Nội đã tung hết khả năng, từ vật lực đến nhân lực, đánh một lượt hai mặt chính trị lẫn văn hóa vào cộng đồng người Việt Quốc Gia. Chúng đã xử dụng môi trường văn hóa làm bàn đạp cho thế chính trị, hai mặt trận phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ với nhau. Cộng đồng chúng ta trong thế bị động và chỉ có chống đở. Lượng đã yếu mà còn bị một số tổ chức hải ngoại kêu gọi loại bỏ yếu tố chính trị ra ngoài chương trình phát triển và bảo tồn văn hóa là một điều bất lợi cho công cuộc tranh đấu hiện nay. Nếu chúng ta thiếu lý tưởng không có tinh thần để chống đở, bảo tồn và phát triển văn hóa cổ truyền dân tộc Việt Nam thì xem như chưa đánh đã thua ! Trước một đối thủ dư thừa nhân-vật-lực cộng thêm những thủ đoạn tráo trở gian manh, nếu chúng ta không sức, thiếu khả năng và sáng suốt thì chắc chắn chúng ta sẽ đi vào con đường hỏa mù mà kẻ thù đã giăng ra.

Không thể thuần túy và đơn giản kêu gọi giới trẻ theo học tiếng Việt, nghe một buổi thuyềt trình hay đọc vài cuốn sách là xong việc bảo tồn và phát triển văn hóa như chương trình của một vài tổ chức đề ra. Nếu chỉ có thế thì không khác gì chúng ta mời giới trẻ đến xem một cuộc triển lãm, nghe một chương trình ca nhạc xong rồi ai về nhà nấy. Như vậy làm văn hóa trong tình hình chính trị hiện nay thì chẳng đi đến đâu mà còn đem lại một kết quả ngược chiều. Điều quan trọng là phải biết tạo cho mọi người, nhất là thành phần trẻ có một tinh thần yêu nước, biết đâu là nguồn gốc dân tộc, đâu là lịch sử oai hùng, đâu là di sản của tổ tiên. Phải làm thế nào cho thế hệ trẻ hiểu được nỗi khổ tâm kẻ ra đi cũng như cảm thông thân phận của người ở lại, phải biết đâu là chính nghĩa, đâu là con đường phải tiến tới để mai kia còn quay về phục vụ quê hương.

Trước các chương trình đầu độc ru ngủ qua văn hóa của Cộng sản, chúng ta cũng phải dựa theo con đường chính trị để phát huy tính chất nhân bản chống lại văn hóa vô sản, dùng tôn giáo đối đầu văn hóa vô thần, lấy tình người cãi tạo văn hóa loài thú !

Trong lúc địch ru ngủ chúng ta bằng văn hóa đỏ mà những người trong cộng đồng làm văn hóa bằng hình thụ động, chống đở hoặc chạy theo chiêu bài ‘loại chính trị ra khỏi văn hóa’ và ‘giao lưu văn hoá với cộng sản’ thì không khác gì chưa ra trận chúng ta đã đầu hàng vô điều kiện. Tóm lại trong hoàn cảnh hiện tại chúng ta không thể tách rời ‘chiến tranh văn hóa’ ra khỏi ‘chiến tranh chính trị’. Hai mặt trận phải song song hổ trợ cho nhau để đối đầu với Cộng sản khi chúng dùng văn hóa để phục vụ mưu đồ chính trị bất chánh. Nếu chúng ta muốn bảo tồn văn hóa nhân bản mà loại hẳn vấn đề chính trị ra ngoài thì lấy gì làm căn bản cho trận chiến không biên giới ngày nay ?

Xin ghi nhớ, chúng ta là những chiến sĩ trong cuộc chiến giữa hai nền văn hóa nhân bản và văn hóa vô sản. Kẻ thù với khả năng dư thừa sẵn có, chúng đang lấn áp chúng ta trên mọi lãnh vực. Nếu những nhà làm văn hóa không tiếp tay với Cộng đồng Người Việt Quốc Gia thì xin tiếp tục làm văn hóa theo đường lối thuần túy và đừng hô hào lên tiếng đòi hỏi loại bỏ yếu tố chính trị ra ngoài vòng chiến. Thái độ và hành động nầy không khác gì việc tiếp sức cho kẻ thù, phá hoại công cuộc tranh đấu chung của toàn thể dân tộc Việt Nam hiện nay.

Đinh Lâm Thanh

Tuesday, June 9, 2009

Nói với con bằng thứ tiếng nào đây? - Ngọc Lan

Ngọc Lan

Tính từ ngày cộng đồng Việt Nam hiện diện trên miền đất này đến nay đã ba mươi mấy năm. Ba mươi mấy năm đủ cho một lớp người trưởng thành, lớn lên và sản sinh ra thêm một thế hệ nữa. Ðể có thể tồn tại và phát triển, mỗi người chúng ta phải đối diện với biết bao vấn đề, chất chồng biết bao tâm tư, trong đó cam go và khó khăn nhất vẫn là vấn đề bất đồng ngôn ngữ.

Trong khuôn khổ bài báo này, người viết không muốn đề cập đến vấn đề bất đồng ngôn ngữ trong giao tiếp ngoài xã hội, mà sâu xa hơn, đó là bất đồng ngôn ngữ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái.

Lựa chọn thứ ngôn ngữ nào đây, và dạy con thứ ngôn ngữ nào đây để con có thể vừa ra ngoài bằng chúng bằng bạn, vừa có thể hiểu được, cảm thông được tâm tư của cha mẹ, và không quên cái gốc Việt Nam của mình. Ðiều đơn giản đó, chúng ta đã bao giờ tự hỏi mình?

Phải thừa nhận rằng số người Việt Nam không nói được tiếng Anh, hoặc tiếng Anh chỉ dừng lại ở những câu giao tiếp thông thường là rất lớn. Cha mẹ quan tâm, hỏi thăm con bằng tiếng Việt, con nghe, hiểu, nhưng trả lời bằng tiếng Anh. Cha mẹ nghe tiếng được tiếng mất, nhưng đại khái hỏi nó học hành hôm nay ra sao, nghe nó trả lời “Good” hay “ok” thì cứ yên tâm là được. Khi con học cao hơn, sâu hơn, con cần khám phá cái này, tìm hiểu cái kia, không thể hỏi cha mẹ, hay tự nó biết 'kiến thức của ba mẹ nó hạn hẹp' thì nó cứ hỏi thầy hỏi bạn, hay mày mò trên Internet. Ðến lúc đó, cha mẹ và con cái hình như đã là hai thế giới khác nhau, bởi không chia sẻ được những suy tư.

Cũng có những bậc cha mẹ cố thu xếp thời gian đến với những lớp ESL (English as a Second Language) để mong có thể hiểu con cái mình nói gì. Nhưng sự tiến bộ đó không là bao khi trở về nhà tiếng Việt vẫn là ngôn ngữ chính. Ði chợ, đi làm, quanh quẩn trong cái khu đông đúc người Việt thì cần gì phải trau giồi tiếng Anh.

Với những đứa bé mới chập chững vào lớp một, bước đầu học đọc, học viết, học đặt câu. Nó réo lên, “Mẹ ơi spell giùm con chữ ‘bush’.” “À, 'push' hả?” “Không, con nói là 'bush' không phải 'push,' 'b' không phải 'p'...” Người mẹ bắt đầu lúng túng, bởi lưỡi người lớn cứng rồi, sao mà khó phân biệt 'b' hay 'p' quá.

Hay có khi từ trường trở về, nó hào hứng kể cả một câu chuyện dài xảy ra ở lớp, vốn tiếng Việt không đủ, nó sử dụng tiếng Anh. Cha mẹ không hiểu, hỏi đi hỏi lại, đến lúc nó ôm đầu và bảo, “Never mind, không có gì,” thì cả cha mẹ lẫn con đều cảm thấy sự bất lực của mình. Con mất đi sự phấn khởi lúc đầu. Cha mẹ buồn sao con mình không nói được tiếng Việt hay tự trách mình sao không hiểu hết tiếng Anh.

Bên cạnh đó, lại có những cha mẹ chỉ thuần sử dụng tiếng Anh với con, tự hào là cha mẹ và con cái đều có thể chia sẻ mọi điều. Nhưng một sớm mai kia, bất chợt có người nói, “Con người Việt sao không nói được tiếng Việt” mới giật mình, “không chừng con mình đã mất gốc tự lúc nào...”

Tôi mượn câu chuyện sau đây của một người bạn, cũng là một người mẹ, để mỗi chúng ta tự suy nghĩ cho chính mình.

“Hôm nay trong lớp của Beo có tổ chức một trò chơi gọi là 'Teach in a Teaching Day.' Mỗi đứa sẽ thay phiên nhau lên dạy hay hướng dẫn những bạn khác trong lớp bất cứ kỹ năng gì mà mình thích.

Beo suy nghĩ mãi mà vẫn không biết nó sẽ làm gì. Cuối cùng, Beo quyết định sẽ dạy vài câu tiếng Việt xã giao. Mẹ khen ý kiến đó hay. Thế là buổi tối hai mẹ con lên một danh sách vài câu tiếng Việt thông thường cùng cách đếm số một hai ba.

Beo nằm lăn ra tập viết và tập đọc suốt buổi tối.

Thấy con khổ sở đánh vần, mẹ mới ngỡ ngàng là cái vốn tiếng Việt của thằng con trai 10 tuổi của mình chỉ bằng con số không.

Beo đọc đã rất khó khăn, ngay cả việc đếm từ 1 tới 10, huống gì tới viết.

Nhưng thấy con cố gắng, mẹ cũng không tỉ mỉ sửa lại cho hoàn hảo, bởi không muốn làm con thất vọng mà nản chí.

Sáng nay, trên đường lái xe đưa con đến trường, mẹ hỏi vui, ‘con đã sẵn sàng chưa?’ Beo lắc đầu, ‘I do not want to do it. I cannot do it.’

Mẹ sững sờ, phát cáu lên. Giận mà la con ngay trong xe. Rồi tự nhiên mẹ bật khóc vì thất vọng, buồn, và cả cô đơn nữa. Hai mẹ con đã tập dợt cực lực cả đêm hôm qua, giờ con nói là con làm không được. Con là người Việt Nam thế mà chỉ vài câu tiếng Việt thông thường nhất mà bì bõm không xong thì còn làm quái gì được.

Con thấy mẹ giận thì im re. Sau đó lí nhí cũng bằng tiếng Anh là con đã có kế hoạch khác, con sẽ dạy tụi nó xếp máy bay bằng giấy vậy.

‘Tùy con,’ mẹ hờn dỗi.

Con vào trường rồi, lòng mẹ chùng lại. Con không nói được tiếng Việt thì con không có đủ tự tin để mà dạy người khác. Con tự hiểu con không thể làm đại khái như người lớn được.

Mà con không nói được tiếng Việt là tại mình hết chứ có phải tại nó đâu mà la nó. Ừ, tại mình tất.

Hồi còn ở chung nhà, có bà nội nói tiếng Việt thường xuyên với con, mẹ thì nửa Anh nửa Việt. Rồi bà nội mất. Tiếng Việt trong nhà không còn ai nói. Mẹ lại bận bịu với chuyện học hành để mong lấy lại mảnh bằng đại học, rồi cao học để sau này cuộc sống sẽ vững vàng hơn. Mẹ vất vả học tiếng Anh với cuốn từ điển tiếng Việt bên cạnh, sẵn đó thì mẹ giúp con mà cũng là đem con ra để mà thực hành tiếng Anh cùng mẹ, chứ mẹ không có thời gian dạy con học tiếng Việt hay mang con đến nhà thờ hay chùa Việt Nam vào cuối tuần cho con nói tiếng Việt với những đứa trẻ Việt khác.

Càng ngày, mẹ lại càng chỉ nói toàn tiếng Anh với con cho nhanh để không phải giải thích. Con ở một nơi không hề có bóng người Việt, hoặc nếu có thì người ta cũng nói với nhau bằng tiếng Anh cho nó nhanh.

Mẹ nhớ hôm dẫn con về Việt Nam thăm ngoại, thấy con không nói được một câu tiếng Việt nào cho ra hồn, ai cũng trách, trong khi mẹ thì vẫn thản nhiên, ‘Thì từ từ nó cũng nói được thôi. Nó vẫn là Việt Nam mà.’

Buổi tối đi ngủ, mẹ kể chuyện cổ tích Việt Nam cho con nghe bằng tiếng Anh. Mẹ không biết dịch danh từ trái thị ra tiếng Anh là gì nên khi kể chuyện Tám Cám, mẹ ghép bừa trái thị bằng trái cam (orange). Bà ngoại hỏi, ‘Sao không kể cho nó nghe bằng tiếng Việt.’ Mẹ kêu, ‘con buồn ngủ quá rồi. Kể nhanh cho nó đi ngủ. Nếu kể bằng tiếng Việt, rồi lại phải giải thích bằng tiếng Anh, chắc tới sáng luôn quá!’

Bà ngoại im lặng.

Giờ nhớ lại, mẹ nghĩ chắc lúc đó bà ngoại buồn lắm. Và cũng rất cô đơn như mẹ bây giờ. Vì cháu cưng của bà không nói chuyện được với bà, còn con của bà thì xì xồ với cháu bà bằng cái thứ tiếng gì đó mà bà nghe không được. Xa lạ quá. Ngày xưa, bà ngoại kể chuyện Tấm Cám cho mẹ hằng đêm. Mẹ say sưa nghe, mãi không chán. Bây giờ, mẹ kể cho con nghe bằng tiếng Anh, thì cũng đại khái để thỏa mãn trí tò mò con nít, chứ không bay bổng ‘vàng ảnh vàng anh,’ hay ‘thị ơi thị rụng bị bà’ được. Con mình không có cái diễm phúc đó. Chỉ vì nó không biết tiếng Việt.

Chẳng phải mẹ chảnh chẹ không muốn con mình học tiếng Việt. Cũng chẳng phải cái vốn tiếng Anh của mẹ hay ho gì để có thể tự tin mà dạy con.

Chỉ bởi cái vốn tiếng Việt của con đã eo hẹp từ ngày con bé, thì càng lớn, càng mất đi thêm. Con lớn rất nhanh. Hỏi mẹ nhiều hơn. Lắm lúc mẹ phải nghiên cứu trên Internet để học thêm rồi mới trả lời cho con được. Mà cái vốn tiếng Việt của con làm sao đáp ứng được cái kiến thức cần thiết của con. Thế là mẹ xài tiếng Anh cho nhanh. Cho xong việc. Rồi cứ hớn hở động viên mình ráng học thêm tiếng Anh với con. Vì vậy, cái chuyện học tiếng Việt của con lại có cớ xếp xó. Mẹ cứ tự nhủ, ‘từ từ tụi nó học, biết mấy hồi.’

Cho đến hôm nay, mẹ thấy thằng con 10 tuổi của mẹ phát âm líu cả lưỡi từ 1 tới 10, tim mẹ thắt lại. Mẹ sai rồi.

Bao nhiêu đề tài mẹ làm toàn là đề cao văn hóa, con người, truyền thuyết, lịch sử Việt Nam. Mẹ lúc nào cũng lớn tiếng tự hào mẹ là người Việt Nam, da vàng mũi tẹt.

Thế mà có mỗi việc dạy con tiếng Việt thì hơn 10 năm nay, mẹ đã làm không được.”

Thực sự, nói với con bằng thứ ngôn ngữ nào đây, tiếng Việt hay tiếng Anh, hình như không dễ dàng như người ta tưởng.

Ngọc Lan