Tuesday, June 9, 2009

Mượn danh ký giả để hỏi một câu THẤT HỌC và vô cùng NGU XUẨN !!! - Lý Nhân Quyền

Trong buổi hội luận ngày 29 tháng 04 năm 2009 do đài SBTN tổ chức, tôi nghe ký giả báo việt weekly, Trần Nhật Phong (TNP) đặt câu hỏi có vẻ trách móc: “… Quý vị đại diện cho lực lượng của Miền Nam Việt Nam, Quý vị là cấp lãnh đạo, ngày hôm nay, sau 34 năm, quý vị đã xin lỗi quốc dân chưa, khi chính quý vị đã làm mất Miền Nam Việt Nam ?” !

Ảnh Trần Nhật Phong

Tôi rất bàng hoàng và buồn bã khi nghe câu hỏi trên !

Hàng loạt câu hỏi chợt lóe lên trong đầu tôi:

- Không biết TNP có cha mẹ, ông bà gì không ?

- Sao họ không nói cho TNP nghe sự thật về chiến tranh Việt Nam để TNP hiểu rõ nguyên nhân nào Miền Nam Việt Nam bị rơi vào tay cộng sản Bắc Việt tham tàn ?

- Do đâu ngày hôm nay, TNP có thể thốt lên những lời xấc xược, thiếu lễ độ và thiếu hiểu biết như vậy ?!

TNP có hiểu bổn phận căn bản của người công dân đối với đất nước không ?

- Bảo vệ đất nước là bổn phận của toàn dân chứ không riêng của nhóm người nào. Trong số đó gồm luôn cả ông bà, cha mẹ, gia đình, giòng họ và chính bản thân của TNP cũng có trách nhiệm và bổn phận giữ nước .

TNP có biết lý do thật sự đưa đến mất Miền Nam Việt Nam (VN) không ?

- Miền Nam VN mất là do bọn cộng sản Miền Bắc đã cố tâm chiếm cho được Miền Nam để dâng cho quan thầy của bọn chúng là đảng cộng sản quốc tế .

- Miền Nam VN mất là do những tên ăn cơm Quốc Gia thờ ma cộng sản đã dùng báo chí, tôn giáo, nối giáo cho giặc, phá hoại Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) .

- Miền Nam VN mất là vì một số dân Miền Nam không có kinh nghiệm với cộng sản, bị việt cộng lừa đảo, không biết được sự tàn ác của chúng .

- Miền Nam VN mất là vì một số dân Miền Nam chưa ý thức được trách nhiệm của mình và thờ ơ trong việc tiếp tay bảo vệ đất nước. Họ đùa hết trách nhiệm cho quân đội và chánh quyền VNCH. Có thể trong số những người thiếu trách nhiệm đó có cha mẹ và giòng họ của TNP chăng ?

- Miền Nam VN mất là vì Hoa Kỳ đã thấy trước được sự chiến thắng toàn khối cộng sản và thấy không cần thiết phải kéo dài chiến tranh ở Việt Nam nữa.

Qua những câu hỏi ngớ ngẩn, có lẽ TNP chưa được ai dạy cho biết hay nghe qua mà không hiểu: Chiến tranh Việt Nam do đâu mà có ?

Ngày hôm nay, người dân Việt Nam và cả thế giới đều biết rõ, hồ chí minh (HCM) là tên tai sai của cộng sản quốc tế. Hắn vâng lệnh quan thầy, áp dụng kế hoạch của nga tàu: Mượn danh nghĩa chống ngoại xâm để lợi dụng lòng yêu nước của Dân Tộc Việt Nam hầu nhuộm đỏ cả nước. Cộng sản quốc tế mưu đồ dùng nước Việt Nam làm bàn đạp để chiếm luôn các nước Đông Nam Á Châu . HCM vì tham vọng cá nhân nên không ngần ngại làm thân khuyển mã, cõng rắn cắn gà nhà. Hắn dùng mọi thủ đoạn, kể cả tạo ra chiến tranh, khủng bố, đặt mìn, pháo kích, ám sát, … quyết tâm chiếm cho bằng được Miền Nam VN . Hắn còn hy vọng điên cuồng là sẽ làm bá chủ thế giới: “Tôi dắt năm châu đến đại đồng”.!

Thật tội nghiệp cho một người mang danh là ký giả mà chẳng biết gì về lịch sử và chẳng hiểu mình nói gì !?

Tôi lại suy tư: “Không biết còn bao nhiêu người trẻ Việt Nam thiếu hiểu biết như TNP !”

Rất là bất công khi đổ tất cả trách nhiệm cho những người lãnh đạo Miền Nam Việt Nam. Chánh phủ VNCH đã cố gắng tìm đủ mọi cách để giử vững phần đất còn lại được Tự Do, Dân Chủ, Hạnh Phúc, Phú Cường. Hoa kỳ là nước duy nhất viện trợ cho Miền Nam VN, nhưng Chánh Phủ VNCH vẫn vừa đánh giặc vừa xây dựng đất nước trở nên trù phú, phát triển hơn những nước trong vùng: Sản xuất lúa gạo nhất vùng, hải sản dùng không hết, sản xuất được xe hơi La Dalat, “Sài Gòn là hòn ngọc Viễn Đông”, ….

Trong khi đó, Miền Bắc ra sao ? cộng sản Bắc Việt được cả khối cộng sản yểm trợ tối đa nhưng vì áp dụng chế độ cộng sản, nên dân chúng nghèo đói xác xơ . Và sau nầy, khi việt cộng chiếm trọn cả lãnh thổ, chúng san bằng sự giàu mạnh của Miền Nam VN bằng những chiến dịch cướp tài sản: Đánh tư sản mại bản, đổi tiền, đuổi dân đi vùng kinh tế mới, ... và biến Việt Nam trở thành một trong những nước nghèo đói nhất thế giới

Thử hỏi TNP: Ai là kẻ có tội, phải xin lỗi quốc dân ?

- Có phải chính tên tội đồ hồ chí minh và bè đảng việt cộng cướp của, giết người, buôn dân, bán nước, tham tàn, bạo ngược của hắn phải xin lỗi quốc dân không ?

Càng bất công hơn nữa khi đổ tội cho những người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa "làm mất Miền Nam" ! Họ đã hy sinh cả quãng đời trai trẻ, vào sanh ra tử, xả thân bảo vệ phần lãnh thổ Miền Nam được Tự Do, yên ấm trong suốt 21 năm dài. Hy sinh như vậy chưa đủ sao ?

Nếu không có Chính Phủ VNCH và nhất là Quân Đội VNCH ngăn chận làn sóng xâm lăng của cộng sản quốc tế do nga tàu chỉ đạo và do hồ chí minh và bè lũ cộng sản Bắc Việt làm tay sai thi hành, thì cả vùng Đông Nam Á Châu đã bị cộng sản nhuộm đỏ.

TNP thử tưởng tượng, nếu không có Chánh Quyền và Quân Đội VNCH ngăn chận làn sóng cộng sản xâm lăng đó, thì có bao nhiêu nước và bao nhiêu sanh mạng phải bị cảnh chết chóc, tù đày, nghèo đói như dân tộc VN, do dịch cộng sản mang đến cho họ ?

Như vậy, Chính Phủ và Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa chẳng những có công với toàn dân Miền Nam mà còn có công với dân tộc của các nước khác .

Hơn thế nữa, sau tháng 4 năm 1975, họ lại bị tập đoàn phản quốc việt cộng trù dập, đày ãi khổ sai nơi rừng sâu nước độc trong các trại tù . việt cộng cố tình giết họ nhưng với ý chí quật cường và nhẫn nhục họ đã trở về từ cõi chết. Ngày nay, dù tuổi già sức yếu, họ vẫn tiếp tục tranh đấu cho quê hương Việt Nam.

Như vậy chưa đủ sao mà TNP còn bắt họ “xin lỗi quốc dân” ?

Còn câu thứ 2 mà TNP nói chuyển từ người bạn trong nước: “… Ngày hôm nay nếu ta không ký hiệp ước đó (ý nói hiệp ước của việt cộng bán nước cho tàu) thì 20 năm sau Việt Nam không đủ sức ký nữa !...”

Đây là câu nói của kẻ có tinh thần nô lệ, khiếp sợ ngoại bang. Câu nói nhằm mục đích ngụy biện cho hành động bán nước, chấp nhận quỳ gối, làm tai sai cho trung cộng, cầu mong giữ được chức quyền như bọn đầy tớ việt cộng đang làm.

Xin hỏi “người bạn trong nước” của TNP là ai ?

- Khi dùng nhóm chữ “người bạn trong nước”, có lẻ TNP quên rằng: Người dân trong nước vì tấm lòng tha thiết với quê hương và vì quan tâm đến vận mệnh quốc gia dân tộc, nên khi biết được tập đoàn phản quốc việt cộng bán nước cho tàu, họ đều phẫn nộ, lên án và chống đối chứ không ai biện hộ, bênh vực cho hành động của kẻ phản quốc.

Xin hỏi TNP, trong 20 năm tới, bọn cầm quyền ngu dốt việt cộng làm gì ? Không lẽ, chúng lại vẫn tiếp tục dẫn dắt đất nước đi đến chỗ nghèo đói, lạc hậu hơn để còn phải quỳ lụy bọn trung cộng ? Hay là bọn chúng sợ rằng: 20 năm sau, tập đoàn hèn nhát việt cộng đã bị dân chúng lật đổ, không còn cơ hội để ký giấy, giao đất nước Việt Nam cho tàu, nên bây giờ phải làm gấp như vậy ?

“Ngày hôm nay nếu ta không ký hiệp ước đó …”

“ta” là ai mà có quyền ký hiệp ước ?

- Có phải chăng “người bạn trong nước” của TNP là

* bộ chính trị đảng cộng sản ?

* cục tình báo ?

* hay cả tập đoàn việt cộng đã móm lời để TNP biện hộ cho hành vi bán nước cầu vinh của bọn chúng ?

“Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Tất cả người Việt Nam, trong và ngoài nước đều có bổn phận phải bảo vệ Quốc Gia Việt Nam .

Câu hỏi mà TNP phải đặt ra cho chính mình ở thời điểm nầy:

- Là người Việt Nam, TNP phải làm gì để cứu đồng bào thoát khỏi bàn tay cai trị độc ác của tập đoàn việt cộng bán nước ?

- Là người Việt Nam, TNP phải làm gì để cứu đất nước Việt Nam thoát khỏi nạn xâm lăng của trung cộng, mà chính đảng phản quốc việt cộng đã mở cửa dẩn giặc vào nhà ? Hay chỉ vì mưu cầu lợi ích cho cá nhân mình mà TNP đứng vào phe, tiếp tay bọn bán nước, phá hoại công cuộc tranh đấu của toàn dân chống bạo quyền việt cộng và bọn xâm lăng trung cộng ?

Lý Nhân Quyền



Monday, June 8, 2009

Ngày truyền thống CSQG VNCH và Lễ công bố hồ sơ Hoàng Sa, Trường Sa và chủ quyền dân tộc của giáo sư Nguyễn văn Canh

Cùng được tổ chức vào ngày thứ Bảy 6 tháng 6, năm 2009 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng Việt Nam Bắc California, tọa lạc tại số 2129 South 10th St, San Jose, CA 95.112




Chúng ta sẽ thua việt cộng dài dài nếu .... - Lê Duy San

Lê Duy San

Cuộc chiến Việt Nam mặc dầu đã được kết thúc trên ba chục năm nay, nhưng nhiều người vẫn còn tự hỏi, Quân đội của chúng ta hùng mạnh như vậy, tinh thần chiến đấu của quân đội chúng ta anh dũng như vậy, nhiều quân nhân còn xâm chữ “Sát Cộng” vào cánh tay, còn đồng bào ta thì sợ Việt Cộng như cùi, như hủi, bọn chúng tới đâu là đồng bào ta bỏ chạy tới đó, vậy mà tại sao chúng ta lại thua Cộng Sản?

Đành rằng nguyên nhân gần và trực tiếp là vì chúng ta bị đồng minh tức Hoa Kỳ bỏ. Nhưng còn nguyên nhân sâu xa là gì? Đã có rất nhiều chính trị gia, chiến lược gia, sử gia Việt Nam cũng như ngoại quốc phân tích và đã đưa ra rất nhiều lý do, chủ quan cũng có, khách quan cũng có, nhưng chưa thấy tác gỉa nào nói tới lý do đạo đức và luật pháp.

Vì đạo đức, chúng ta không thể bắt chước Cộng Sản, “thà giết lầm còn hơn tha lầm”. Bắt được những tên Cộng Sản, những tên Việt Gian, những tên ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản, chúng ta vẫn đối xử nhận đạo. Hẳn chúng ta còn nhớ, vào năm 1955-1956, một phong trào mang tên là Phong Trào Hòa Binh do các Phạm Huy Thông, Lưu Văn Lang, Trần Kim Quan v.v…t hành lập. Đây là một phong trào thiên Cộng họạt đông với mục đích hỗ trợ cho Việt Cộng và đòi Tổng Tuyển Cử theo Hiệp định Geneve 1954, chính phủ Ngô Đình Diệm cũng chỉ tống xuất một vài tên qua cầu Hiền Lương ra Bắc.

Đến đầu năm 1965 cũng có một phong trào mang tên tương tự là “Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình do những tên Việt Gian, Ăn Cơm Quốc Gia, Thờ Ma Cộng Sản thành lập như Thượng Tọa Thích Quảng Liên, Bác Sỉ Thú Y Phạm Văn Huyến, Nhà Báo Phi Bằng tức Cao Minh Chiến, Giáo Sư Tôn Thất Dương Kỵ, Bác Sĩ Lê Khắc Quyến v.v… Gần 30 thành viên của phong trào này đã bị bắt giữ, trong đó có Cao Minh Chiến, Tôn Thất Dương Kỵ và Phạm Văn Huyến. Tướng Nguyễn Chánh Thi đã đề nghị thả dù bọn này ra bắc vỹ tuyến 17 tức bên kia cầu Hiền Lương cho Việt Cộng. Nhưng Thủ Tướng Phan Huy Quát vì lý do nhân đạo, sợ làm như vậy bọn chúng có thể gẫy chân, què tay vì bọn chúng đâu biết nhẩy dù, nên đã lấy cớ rằng làm như vậy, quốc tế sẽ chỉ trích, và chỉ đồng ý giải giao bọn chúng cho Việt Cộng bằng đường bộ qua cầu Hiền Lương.

Vì luật pháp, chúng ta cũng không thể cho chúng mò tôm, bắt ốc như bọn Cộng Sản đã làm đối với những người quốc gia, mà chúng ta phải đưa chúng ra tòa để xét xử theo luật pháp. Nhiều khi chúng ta còn rất nhẹ tay với chúng. Dù có tội thì cũng chỉ giam giữ ít lâư rồi lại thả ra. Trường hợp tử hình, thật là hiếm. Không những thế, nhiều khi còn để tình cảm lấn áp. Do đó có những trường hợp kẻ bị bắt có thế lực hoặc có liên hệ với các ông lớn trong chính quyền VNCH được can thiệp và cho tại ngoại ngay từ lúc mới bị bắt hoặc được cho biết trước để mà chạy trốn hoặc phi tang chứng cớ. Trường hợp điển hình là trường hợp của Trần Đình Ngọc, giáo sư trường Đại Học Khoa Học Saigon; vì có hoạt động cho Việt Cộng nên bị bắt. Ông Nguyễn Chung Tú, Khoa Trưởng Trường Đại Học Khoa Học Saigon đã lấy tư cách và uy tín của mình để bảo lãnh cho ông Ngọc. Vì thế, ông Ngọc không những đã được tại ngoại mà cũng chẳng phải ra toà lãnh án.

Vụ Têt Mậu Thân 1968, không thiếu gì những tên Việt Cộng giết người một cách dã man, giết người một cách vô tội vạ, giết người hang loạt, vậy mà bọn chúng đâu có đưa air a tòa? Còn chúng ta, nếu vì qúa tức giận trước những hành động qúa độc ác, dã man cuả bọn chúng mà tự ý giết một tên Việt Cộng nào đó, thì dù có lý do chính đáng đến đâu cũng vẫn bị kết tội là dã man, là vô nhân đạo. Nếu không bị đưa ra tòa thì cũng bị nhiều người phê bình và thế giới nguyền rủa. Đó là trường hợp của tướng Nguyễn Ngọc Loan đã xử tử tên Việt Cộng Nguyễn Văn Lém tự Bẩy Lớp, kẻ đã sát hại cả gia đình một sĩ quan cảnh sát vào Tết Mậu Thân 1968.

Ngày nay, ở hải ngoại cũng vậy, những người chống Cộng luôn luôn bị một số người vin vào lý do đạo đức, văn hóa để chỉ trích người khác. Nếu chống Cộng hăng say qúa thì bị chỉ trích là quá khích. Nếu dùng danh từ mạnh mẽ qúa hay bình dân quá thì bị phê bình, chỉ trích là ấu trĩ, là thiếu văn hóa, là phản tuyên truyền có khi còn bị nhục mạ là hạ cấp, là vô học.

Bọn Việt Cộng ăn gian nói dối cả trăm ngàn lần dân chúng trong nước đâu ai dám nói gì. Trái lại, ở hải ngoại, nếu có ai vì chống Cộng nói sai một chút, nói qúa lời một chút, mà đâu có phải nói họ mà chỉ là nói bọn Việt Cộng hoăc bọn Việt Gian Cộng Sản là bị chỉ trích, bị phê bình liền, có khi còn bị mạ lỵ. Bọn người này, không biết họ thuộc loại nào, có thể là bọn Việt Cộng nằm vùng, có thể là bọn Việt Gian Cộng Sản, nhưng cũng có thể chỉ vì cảm tinh cá nhân, nói ra họ lại la làng là bị chụp mũ này, mũ nọ. Có điều chắc chắn là không bao giờ thấy họ viết một bài nào chống Cộng, hoặc nếu có thì cũng chỉ hời hợt hoặc vô thưởng, vô phạt để chứng tỏ ta đây cũng là người chống Cộng còn những bài viết chỉ trích những người chống Cộng thì phê bình chỉ trích tới nơi, tới chốn. Gọi ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam là chính quyền Việt Nam mà chỉ trích thì đã đành. Viết hai chữ Cộng Sản là CS hay Việt Cộng là VC cũng bị chỉ trích hoặc gọi bọn bưng bô cho Việt Cộng hay làm lợi cho Việt Cộng là Việt Gian Cộng Sản cũng bị chỉ trích. Thật hết chỗ nói.

Trong khi đó, bọn Việt Cộng tung ra hải ngoại không biết là bao nhiêu là cán bộ đội lốt ca sĩ, du sinh, thày tu, bất đồng chính kiến v.v… thì chẳng thấy những người này nói tới. Chính vì vậy mà ngày nay, văn hóa phẩm của Việt Cộng tha hồ bầy bán trên thị trường hải ngoại và bọn Việt Gian, bọn tay sai Cộng Sản tha hồ tung hoành tổ chức nhạc hội gây qũy từ thiện, nhiều khi bọn chúng còn dám tổ chức triển lãm, hội thảo nữa mà cũng chẳng mấy ai dám nói tới, khiến bọn chúng lộng hành.

Trường hợp Cô Tim và Căn Nhà May Mắn là một thí dụ điển hình. Cô được Hội Người Việt San Fernando Valley, California tổ chức buổi Văn Nghệ Gây Qũy cho cô vào ngày 25 tháng 10 năm 2008. Cô Tim không những không chào cờ VN Cộng Hòa đã đành, cô còn ra lệnh cho ông Chủ Tịch Richard Mười Trương và những người trong ban tổ chức phải dẹp bỏ cờ vàng ba sọc đỏ đi cô mới chịu đăng đàn nói chuyện. Vậy mà ông Chủ Tịch Mười Trương và những thành viên trong ban tổ chức đã răm rắp nghe theo. Thà cứ như chùa Pháp Vân ở Canada trong buổi gây quỹ cho cô Tim chẳng cờ quạt gì cả còn hơn. Đằng này ông Chủ Tịch mười Trương cũng cũng chào cờ quốc gia, cũng hát quốc ca VNCH, cũng mặc niệm, nhưng khi nhân vật chính là cô Tim lên diễn đàn nói chuyện, thì ông lại nghe lệnh cô Tim dẹp cờ vàng đi.

Hành động này, không khác gì mượn danh từ thiện để hạ nhục cờ quốc gia VNCH. Ấy vậy mà vẫn còn có kẻ bênh vực cho cô Tim, vẫn đòi hỏi phải có bằng cớ rõ ràng mới có thể kết tội cô là người của Việt Cộng. Chắc bọn Việt Gian Cộng Sản muốn chúng ta phải trưng ra thẻ đảng viên của cô hay ít nhất cũng phải có giấy công tác của cô do Việt Cộng cấp?

Và gần đây, ngày 7 / 5 /09, Tiêu Dao Bảo Cự, một tên bất đồng chính kiến cuội đã được bọn Việt Cộng cho sang Hoa kỳ và đã tới Đại Học Berkley thuyết trình về nhà thơ Hữu Loan với bài thơ Đồi Tím Hoa Sim nhưng chẳng thấy y nói gì tới bài thơ Đồi Tím Hoa Xim mà chỉ thấy y khuyến dụ sinh viên về nước giúp ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam.

Ngày nay bọn Việt Cộng biết rằng cái chính nghĩa của chúng do sự tuyên truyền và bịp bợm mà có không còn có thể che dấu được nữa, nhất là đồng bào hải ngoại. Do đó chúng đã tìm mọi cách để xâm nhập vào cộng đồng người Việt Hải Ngoại để tìm cách chia rẽ và phá hoại sự đoàn kết của chúng ta. Chúng như con bạch tuộc. Nếu con bạch tuộc có nhiều chân thì bọn Việt Cộng có nhiều tiền. Bọn chúng sẵn sang tung tiền ra để mua chuộc những thành phần lưu mamh, ham danh, hám lợi, những thành phần ngu dốt, mê muội, tưởng chế độ Cộng Sản đã thay đổi, tưởng chúng muốn hòa hợp, hoà gỉai với người quốc gia để xây dựng đất nước. Do đó, chúng ta thấy ở bất cứ nơi nào, Hội đòan nào, Diễn đàn nào, cũng có đầy dẫy nhưng kẻ luôn luôn tìm cách phá thối, lũng loạn để gây chia rẽ.

Tóm lại, đã gọi là chống Cộng thì phải chống Cộng tới nơi, tới chốn, Bởi vì bọn Việt Cộng là một bọn cướp vô học. Không những vô học, bọn chúng còn dã man, còn tàn bạo. Chống chúng, không thể dùng những lý lẽ của Không Tử, những lời dạy của Đức Phật hay của Đức Ki Tô, mà phải dùng những lời lẽ của những bà mẹ nông dân Việt Nam hay ít nhất cũng phải là những lời lẽ của những người bình dân đang bị VC cướp của, cướp nhà. Những ai không chống Cộng hay không dám chống Cộng vì còn muốn về Việt Nam làm ăn với Việt Cộng hay về VN để ăn chơi du hí thì hãy im cái mồn lại, để người khác chống Cộng, Đừng đạo đức gỉa, đừng quân tử Tầu mà chỉ trích người khác. Thật buồn khi thấy trên các báo chí cũng như trên các diễn đàn, những bài chống Cộng thì ít mà những bài chống nhau thì nhiều.

Chúng ta phải coi chừng, đừng mắc mưu bọn Việt Cộng nằm vùng hoặc bọn Việt gian Cộng Sản mà quên đâm thẳng mũi dùi vào bọn Việt Cộng mà lại quay mũi dùi đâm vào anh em. Nếu không, chúng ta sẽ còn thua Việt Cộng dài dài ...

Cổ nhân đã dạy:

Đi với Bụt, mặc áo Cà Sa,
Đi với Ma, mặc Áo Giấy

Lê Duy San

Dân biểu Luke Simpkins Úc trình bày về Tự Do và Dân chủ ở Việt Nam trước Hạ Nghị Viện Liên bang Úc


Ngày 4 tháng 6, 2009, dân biểu đảng Tự do Luke Simpkins, của đơn vị bầu cử liên bang Cowan, Tây Úc đã phát biểu như sau tại Hạ Nghị Viện Liên bang Úc.

Tôi muốn nhân cơ hội này để nói về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam Đặc biệt, tôi muốn nói về trường hợp Cha Nguyễn Văn Lý, Linh mục Giáo hội Công giáo và là nhà tranh đấu dân chủ nổi tiếng Cha Lý sinh năm 1947 và đã ở tù hơn 15 năm vì niềm tin vào tự do ngôn luận và tự do tôn giáo. Tôi cũng ghi nhận cha Lý là một người quyết tâm phản kháng theo đường lối ôn hòa và bất bạo động. Cha Lý đã nói về và tranh đấu cho dân chủ và tự do tôn giáo trong nhiều năm qua. Từ năm 1977, ngài đã bị sách nhiễu, bắt giam, đánh đập và bị giam vì các họat động của ngài. Ngài bị giam một năm vào năm 1977. Năm 1983, ngài lại bị giam thêm 9 năm nữa vì tội danh ‘Chống phá cách mạng và phá họai đoàn kết dân tộc. Năm 2001 Cha Lý lại bị bắt về tội nêu ra là không chấp hành lệnh tạm tha. Ngài bị bắt ra khỏi nhà thờ của ngài và kết cục là vài tháng sau bị kết án 15 năm tù Ngài bị giam vì các họat động của ngài nhằm cổ vũ dân chủ, tự do ngôn luận và tự do tôn giáo. Sau vài lần được giảm án, ngài đã ở hết hai năm rưỡi tù và, mặc dù được thả, ngài vẫn bị quản thúc tại gia ở Huế.

Ngày 8 tháng 4 năm 2006, một nhóm người bất đồng chính kiến đã ký ‘Tuyên Ngôn về Tự Do và Dân chủ cho Việt Nam. ‘Tuyên Ngôn về Tự Do và Dân chủ cho Việt Nam’ kêu gọi lập một nhà nước đa đảng ở Việt Nam. Nhóm này được biết là Khối 8406, đặt tên theo ngày họ ký bản Tuyên Ngôn. Khối này đòi hỏi dân chủ và cha Lý là một sáng lập viên của Khối 8406. Một tuần sau đó, cha Lý và một số linh mục Công gíáo khác phát hành một tờ báo tên là Tự do Ngôn Luận trên mạng, nhưng vẫn chui. Dưới sự kiểm soát rất mạnh mẽ của nhà cầm quyền Việt Nam, hành động này, giỏi lắm thì có thể được coi là không sợ hãi. Vào tháng 9, cha Lý cũng liên quan đến việc thành lập đảng Thăng Tiến. Với lòng dũng cảm và sự dấn thân cho dân chủ, và sự ủng hộ của ngài cho Khối 8406, cha Lý bị giam 8 năm vào ngày 30 tháng 3 năm 2007. Ngài bị bắt ngày 19 tháng 2 sau khi công an tấn công vào tòa Tổng Giám Mục Huế. Sau đó Cha Lý bị biệt giam ở Bến Củi, Trung Phần Việt Nam. Ngài đã tuyệt thực trong khoảng ngày 24 tháng 2 cho đến 5 tháng 3 trước khi bị kết án.

Ở phiên tòa, tấm hình nay đã nổi tiếng, đã chụp cảnh một công an cố không cho ngài nói bằng cách lấy tay bịt miệng ngài. Cha Lý được người ta kể lại là đã cố hét to: “Đả đảo Cộng sản!”. Cha Lý, một người can đảm và có danh dự đã hy sinh nhiều cho các niềm tin của ngài. Ngài đã ở tù nhiều năm và bị sách nhiễu và đối xử khắc nghiệt bởi một chế độ áp bức. Tuy nhiên cha Lý không phải là người duy nhất sống mòn mỏi trong các nhà tù việt Nam. Còn có sự áp bức các người thiểu số sắc tộc, người Thượng, mà họ đã biểu tình phản đối về các vấn đề chủ quyền đất và tự do tôn giáo vào những năm 2001 và 2004. Hiện còn hằng trăm người Thượng trong tù.

Về các nhà cổ vũ cho dân chủ, chúng ta đang nhanh chóng đến ngày kỷ niệm một năm ngày bắt và giam mà không truy tố tội tám nhà họat động dân chủ Việt nam. Họ bị bắt vì phản đối chính sách của nhà cầm quyền đối với Trung Hoa. Trong khoảng ngày 10 đến 23 tháng 9 2008, công an Việt Nam đã bắt giữ một số người như sau: Nguyễn Xuân Nghĩa, nhà văn và một lãnh đạo của khối 8406 và một người từng được giải Nhân quyền Hellman-Hammett, bị bắt ngày 11 tháng 9, Pham thanh Nghiêm, Vũ Hùng, một nhà giáo, bị vu cáo miệng là đã tuyên truyền chống nhà nước, bị bắt ngày 18 tháng 9, Ngô Quỳnh, sinh viên đại học dính líu đến các cuộc biểu tình dự định chống lại cuộc rước đuốc Thế vận hội Bắc Kinh, Trần Đức Thạch, một nhà thơ nổi tiếng, bị bắt ngày 10 tháng 9, Phạm văn Trôi, một kỹ sư và thành viên của Ủy ban Nhân quyền Việt nam, bị bắt ngày 10 tháng 9; Nguyễn văn Tức, một nông dân, bị bắt ngày 10 tháng 9, và Nguyên văn Tính, từng bị giam vì tổ chức chống chế độ, bị bắt ngày 23 tháng 9.

Tôi tin tưởng chắc chắn rằng dân chủ là hình thức chính quyền chính danh duy nhất và tốt nhất để cho một quốc gia và dân trong nước được tiến bộ và thành công kinh tế Tôi trông đến ngày dân chủ ngự trị ở Việt Nam và khi tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và tự do kết hợp được tôn vinh trong xã hội đó. Cho tới ngày đó, tôi kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam hãy thả cha Lý và tất cả các tù nhân vì dân chủ. Công lý và tự do sẽ chiến thắng.

http://lyhuong.net/viet/index.php?option=com_content&view=article&id=1087:1087&catid=38:tudodanchu&Itemid=57

---o0o---

Australian Parliament House – Hansard - Thursday, 4 June 2009
HOUSE OF REPRESENTATIVES

p 89
Father Nguyen Van Ly

Mr SIMPKINS (Cowan) (4.50 pm)—I would like to take this opportunity to again speak on the issue of human rights in Vietnam. In particular, I will speak on the circumstances of Father Nguyen Van Ly, the Roman Catholic priest and famous pro-democracy dissident. Father Ly was born in 1947 and has spent more than 15 years in jail for his belief in freedom of speech and freedom of religion. I should also note that Father Ly is a man committed to peaceful and non-violent protest. Father Ly has been speaking about and taking action for democracy and religious freedom for many years. Since 1977 he has been harassed, arrested, brutalised and jailed for his activities. He was first jailed in 1977 for one year. In 1983 he was jailed for a further nine years for the charge of ‘opposing the revolution and destroying the people’s unity’. In 2001 Father Ly was again arrested for an alleged breach of probation. He was taken away from his church and some months later was eventually sentenced to 15 years. He was jailed for his activities promoting democracy, freedom of speech and freedom of religion. After several reductions in his sentence, he eventually served 2½ years and, although released from jail, he was placed under house arrest in Hue.

On 8 April 2006, a group of dissidents signed the ‘Manifesto on Freedom and Democracy for Vietnam’. The ‘Manifesto on Freedom and Democracy for Vietnam’ calls for a multiparty state in Vietnam. That group became known as Bloc 8406, named for the date they signed the manifesto. It calls for democracy and Father Ly was a founding member of Bloc 8406. A week later, Father Ly and other catholic priests published an online, yet underground, publication known as Free Speech. Given the very strong controls by the Vietnamese government on the internet, this action can best be described as fearless. In September, Father Ly was also involved in the establishment of the Viet Nam Progression Party. For his courage and commitment to democracy, and for his support of Bloc 8406, Father Ly was jailed for eight years on 30 March 2007. He had been arrested on 19 February after a raid by security police in the Catholic Archdiocese of Hue. Father Ly was then isolated in custody at Ben Cui in central Vietnam. He undertook a hunger strike between 24 February and 5 March before he was sentenced.

At the trial, the now-famous photo was taken where a security guard attempted to silence Father Ly by holding a hand over his mouth. It has been reported that Father Ly had attempted to shout out, ‘Down with communism!’ Father Ly is a courageous and honourable man who has made great sacrifices for his beliefs. He has spent many years in jail. He has spent many years being harassed and brutalised by an oppressive regime. However, Father Ly is not the only person who languishes in Vietnamese jails. There is oppression of the ethnic minority group, the Montagnard, who protested over land ownership and religious freedom issues in 2001 and 2004. Hundreds of montagnards remain in jail.

With regard to pro-democracy advocates, we are rapidly approaching the first anniversary of the arrest and jailing without charge of eight Vietnamese democracy activists. They were arrested for protesting against government policies toward China. Between 10 and 23 September 2008, Vietnamese security forces detained a number of those people: Nguyen Xuan Nghia, a writer and leader of Bloc 8406 and a past recipient of the Human Rights Watch Hellman-Hammett award, was arrested on 11 September; Pham Thanh Nghiem, Vu Hung, a schoolteacher, verbally accused of committing propaganda against the state, was arrested on 18 September; Ngo Quynh, a university student who was involved in the planned demonstrations against the Beijing Olympic Torch Relay; Tran Duc Thach, a wellknown poet, was arrested on 10 September; Pham Van Troi, an engineer and member of the Vietnam Committee on Human Rights, was arrested on 10 September; Nguyen Van Tuc, a farmer, was arrested on 10 September; and Nguyen Van Tinh, previously jailed for organising against the regime, was arrested on 23 September.

It is my firm belief that democracy is the only legitimate form of government and best allows a nation and its people to progress and succeed economically. I look forward to the day when democracy prevails in Vietnam and when freedom of speech, freedom of religion and freedom of association will be enshrined in that society. until that day, I call upon the government of Vietnam to release Father Ly and all pro-democracy prisoners. Justice and freedom will prevail.

Sunday, June 7, 2009

ÂM MƯU VĂN HÓA ĐỎ - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Đối với những người đã nghiên cứu qua thuyết Marx-Lênin hoặc bất cứ ai từng sống dưới chế độ cộng sản thì những âm mưu văn hóa đỏ trình bày trong bài viết nầy không có gì mới lạ. Ngược lại với giới trẻ thuộc thế hệ 1,5 và 2 lớn lên hoặc sinh trưởng ở hải ngoại, chắc chắn đây là những vấn đề chưa được nghe đến. Tôi nghĩ vậy vì gia đình nào vừa đặt chân đến vùng đất tự do, cha mẹ phải dành trọn thời giờ để làm lại cuộc đời và lo tương lai cho con cháu. Nhưng rất tiếc, một số lớn bậc phụ huynh đã lơ là bổn phận giáo dục hoặc dành rất ít thời gian để hướng dẫn thế hệ đi sau về phương diện văn hóa cũng như chính trị. Đây là bài học đau lòng mà ngày hôm nay thế hệ thứ nhất phải nhận lấy những hậu quả không mấy tốt đẹp khi một số thanh niên thuộc thành phần trẻ thế hệ 1, 5 và 2 trở lại chống đối cha mẹ mình Các bạn trẻ hải ngoại được cha mẹ, gia đình và xã hội nuông chiều trong những môi trường quá tự do, khi thành công thì quên hẳn nguồn gốc rồi tự cao tự đại, trở mặt miệt thị đấng sinh thành cũng như các bậc chú bác là thành phần ít học, sống bám vào trợ cấp, tranh đấu hung hăng, chống cộng một cách điên cuồng … làm ô danh cộng đồng và xấu hổ cho lớp trẻ !

Lý do nào đã đưa đến tình trạng nầy ? Trước khi đi vào chi tiết xin tất cả hãy ghi nhận một thực tế: Giới trẻ tại Âu-Mỹ sống dưới chế độ tự do, được hấp thụ một nền văn hóa nhân bản nhưng thành phần nầy lại ăn phải bã văn hóa đỏ của cộng sản mà vẫn không hay biết. Có thể vì giới trẻ không có nhiều thời gian để sống chung với gia đình hoặc cha mẹ quá bận rộn công ăn việc làm rồi lơ là trong vấn đề chăm sóc con cái. Đừng quên rằng, gia đình chính là môi trường cần thiết để gặp gở, tạo thông cảm, trao đổi, học hỏi và chuyện trò thân mật với nhau, giữa cha mẹ, anh em, họ hàng thân thuộc. Ngoài ra còn lý do chính cũng nên nói ra, là một số cha mẹ bị mặc cảm thua kém con cháu nên thường tránh né đề cập đến những kinh nghiệm hiểu biết của mình hoặc những suy tư thời cuộc, lý do tranh đấu và tương lai của đất nước. Chính điều nầy càng tạo thêm hoặc đào sâu những cái hố ngăn cách về quan niệm sống, tinh thần đạo lý cũng như chính trị giữa hai lớp tuổi già với trẻ hay nói đúng hơn, giữa cũ và mới.

Trường học, thư viện, hội đoàn, câu lạc bộ, các tổ chức văn hóa nghệ thuật là những môi trường hữu hiệu để đào tạo và phát triển con người nhất là giới trẻ Việt Nam ở hải ngoại. Cộng sản đã lợi dụng nơi đây để tuyên truyền, mua chuộc, biến thành lò cấy và trồng người ngắn hạn qua chương trình kiều vận của chúng. Thành phần trẻ là cái đích mà Hà Nội nhắm vào, chúng không từ một phương tiện gì, từ tình cảm, tiền bạc cho đến những hứa hẹn suông. Ngoài ra Hà nội còn xử dụng thủ đoạn hăm dọa khi một thành phần trẻ nào đó bị ‘dính chàm’ do cái bẫy giăng sẵn về tiền bạc, trai gái hoặc tội phạm … Chúng chụp ngay cơ hội để buộc con mồi phải thi hành các chỉ thị thâm độc của chúng. Cái đểu của cộng sản là lợi dụng thành phần thuộc thế hệ 1,5 và 2 hải ngoại bằng cách đánh vào tâm lý thanh niên, khơi động lòng yêu nước, nghĩa đồng bào và tinh thần hăng say phục vụ bất vụ lợi để biến thành phần nầy trở một lực lượng vừa chống lại cha ông, chú bác, anh em và cộng đồng bằng hình thức nầy hay hình thức khác. Mục đích chính của cộng sản là nhuộm đỏ những con thiêu thân trẻ nhẹ dạ ở hải ngoại để mai kia xử dụng thành phần thay thế lớp già là những người đã kiên trì chống chế độ chúng từ ba mươi bốn năm qua.

Để thực hiện mưu đồ thu gọn cộng đồng người Việt trong thời gian sắp đến, nghĩa là sau khi thế hệ thứ nhất hết khả năng tranh đấu hoặc đến tuổi phải rủ nhau về chầu ông bà, đảng cộng sản đã và đang thi hành một kế hoạch chuẩn bị đưa thành phần thuộc giới đỏ lên thay thế, lãnh đạo cộng đồng để thi hành âm mưu hòa giải hòa hợp, nghĩa là đem nguyên cộng đồng người Việt tỵ nạn dâng cho đảng. Một đội ngũ hùng hậu được tung ra, ngoài cán bộ tuyên truyền đội lốt ngoại giao, các tay nằm vùng, những văn nghệ sĩ đầu đỏ ba xu, bọn cò mồi ăn lương tháng, Hà nội còn gởi hằng trăm ngàn ‘rắn con’ là những du sinh ra nước ngoài để chiêu dụ thành phần trẻ hải ngoại nhất là sinh viên học sinh trong các trường trung cũng như đại học. Đám du sinh nầy được huấn luyện kỹ thuật tuyên truyền, nói như vẹm, miệng tráo trở như rắn và nếu cần, chúng xử dụng luôn tình cảm cá nhân để thuyết phục thành phần nai tơ hải ngoại.

Nhiệm vụ chính của đám rắn con nầy: Một, chiêu dụ lớp trẻ hải ngoại phản bội cha ông để quay về bắt tay hòa giải hòa hợp với cộng sản theo chương trình kiều vận. Hai, kiếm vợ kiếm chồng xứ ngoài, tìm nơi nương tựa cho bản thân và gia đình sau nầy, đồng thời thi hành lệnh Hà nội bằng cách cấy người, xâm nhập vào ngay trong tập thể cộng đồng người Việt tỵ nạn bằng hình thức hôn nhân. Điều nầy không lạ vì có một ít gia đình chống cộng ở hải ngoại nhưng sau ngày thành sui gia với cán bộ đỏ thì tự nhiên đổi ngay thái độ, né tránh hoặc ngang nhiên chống lại cộng đồng. Họ được ‘đổi đời’ lần thứ hai nhờ bám vào cộng sản, chỉ trong một sớm một chiều đã lên ngay chức thông gia, ngang hàng với quan quyền chế độ đỏ, đồng thời trở nên giàu có với số ‘hồi môn’ ân huệ do sui gia tặng dưới hình thức mua dâu mua rể !

Tôi không ngạc nhiên khi một số bạn trẻ hải ngoại ra mặt chống lại cha ông mình vì thành phần trẻ hải ngoại vô tình hoặc thiếu thông tin và giáo dục chính trị, nên chỉ thấy ‘cái hay cái đẹp’ của chế độ cộng sản qua xảo quyệt tuyên truyền của những tay cộng sản, để rồi ngang bướng chống lại các đấng sinh thành và miệt thị chương trình tranh đấu của cộng đồng nhằm giải thể chế độ cộng sản.
Bài viết ‘Âm Mưu Văn Hóa Đỏ’ không ngoài mục đích gởi đến giới trẻ hải ngoại thuộc thế hệ 1,5 và 2:

Cộng sản nhân danh thành phần nông công để cướp chính quyền từ chế độ quân chủ Nga và bành trướng chủ nghĩa vô sản nhằm mưu đồ nhuộm đỏ nhân loại. Cướp được nơi nào cộng sản xóa ngay nền văn hóa truyền thống đồng thời thay thế bằng một ‘quái thai văn hóa’, mục đích chính là gột rửa, tẩy xóa tính chất nhân bản – hay gọi là văn hóa tự do - tốt đẹp của con người. Đó chính là đường lối cai trị đất nước và phục vụ quyền lợi riêng tư của đảng cộng sản. Văn hoá vô sản chính là phương tiện nhồi sọ con người nhằm ‘thần tượng hóa đảng’ cũng như ca tụng ‘lãnh tụ đỏ’ của chúng, đồng thời đây cũng là vũ khí tinh thần để bảo vệ chế độ của chúng. Ngoài ra, văn hóa đỏ còn chủ trương ‘ngu muội hóa’‘bần cùng hóa’ con người mà trong quá khứ cộng sản đã dùng tất cả phương tiện nhằm đưa cả dân tộc đến tận cùng ngu dốt và nghèo đói. Người dân dưới chế độ cộng sản, một khi đã dốt mà còn đói nữa thì chắc chắn sẽ trở thành con vật, không biết gì hơn là phải ngoan ngoãn phục tùng nhà nước để được phân phối thực phẩm Như vậy chủ trương cộng sản là dùng bao tử để trị dân, tức là hình thức khốn nạn của một giống súc vật man ri mọi rợ, xử dụng miếng ăn để sai khiến con người ! Đây chính là âm mưu đen tối, thâm độc và vô nhân đạo của chủ nghĩa cộng sản mà ‘văn hóa đỏ’ đóng một vai trò tối quan trọng trong đời sống hằng ngày của người dân dưới chế độ của chúng.

Nhưng rồi từ chủ nghĩa cho đến các tập đoàn cầm quyền cộng sản đều bị thành phần bị trị cũng như toàn thể thế giới tự do khinh tởm, tẩy chay và hạ bệ. Liên Sô cũng như các xứ Đông Âu đã thẳng tay liệng thuyết Marx-Lenin vào sọt rác và lật đổ bọn cầm quyền qua những cuộc cách mạng xanh trong thế kỷ vừa qua. Thế giới ngày nay chỉ còn lại bốn tập đoàn lì lợm, vẫn ngoan cố dùng kẽm gai súng đạn làm phương tiện duy trì quyền lực để bảo vệ vĩnh viễn ngai vàng của chúng. Trong đó đảng cộng sản Việt Nam là tập đoàn ù lì nhất, khốn nạn nhất, tham nhũng nhất và thâm độc nhất đang dẫn đầu bọn cộng sản thế giới ! Giới trẻ cần phải ghi nhận một điều, tất cả tập đoàn cộng sản ngày nay không còn núp bóng danh từ vô sản cũng như dựa vào thành phần nông công để cai trị và vinh thân phì gia, mà chúng lợi dụng cái vỏ của đảng làm thành trì bảo vệ ngai vàng, tài sản và dòng họ của chúng. Như vậy bốn chữ ‘chuyên chính vô sản’ đã lỗi thời, thành phần nông dân thợ thuyền ngày nay trở thành nạn nhân hàng đầu của chế độ cộng sản: Chính giới vô sản bị bọn tỷ phú đỏ bóc lột đến tận cùng xương tủy, điều nầy không lạ gì, giới thợ thuyền nông dân là thành phần lao động căn bản của xã hội nhưng lại nghèo đói nhất trong cái thiên đường cộng sản lạc hậu và khốn nạn nhất của nhân loại. Các thành phần nầy phải lệ thuộc, sống bám vào các điều kiện của nhà nước, bán mồ hôi, đổi máu để kiếm bữa cơm bữa cháo qua ngày. Vậy, tính từ giới lãnh đạo xuống đến đảng viên của Việt cộng, Tàu cộng, Hàn cộng cũng như Cuba cộng đều là những tay tỷ phú, thì những chữ ‘chủ nghĩa vô sản’, ‘văn hóa vô sản’ là những danh từ bịp bợm do chúng đẻ ra cũng hoàn toàn lỗi thời, cần phải đổi thành ‘tư bản đỏ’ ‘văn hóa đỏ’ thì đúng và chính xác.

Như đã trình bày ở phần trên, cộng sản lợi dụng giới ‘vô sản’ để kích động, gây căm thù và xúi giục thành phần nông công đứng lên chống lại chế độ quân chủ thời đó. Nhưng trong cái vỏ ‘vô sản’ mị dân đó lại gồm có ba cái ‘vô’, chủ trương đi ngược với luân thường đạo lý con người và văn minh tiến bộ xã hội: Đó là vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo … là những âm mưu để tiêu diệt tình cảm gia đình, tình yêu tổ quốc và niềm tin tôn giáo, nhằm biến con người thành một sinh vật vô tri giác do đảng sinh ra và chỉ biết phụng sự đảng !

1. Gia đình là đơn vị căn bản và tối cần thiết để đào tạo và giáo dục con người trở thành những công dân hữu ích cho xã hội và đất nước. Một xã hội vô gia đình, theo chủ trương của cộng sản, chẳng khác gì một đơn vị sản xuất, nơi mà trẻ con sinh ra được huấn luyện để thành những cái máy nhằm để phục vụ đảng như tổ chức loài ong, loài kiến … Như vậy con người dưới xã hội chủ nghĩa đã biến thành một loại sinh vật không nguồn gốc, không tình cảm, không lý trí, suốt đời phải lao động để được phân phối khẩu phần ăn theo khả năng làm việc. Có thể nói rằng cộng sản xem gia đình như một ‘xưởng đẻ’ nhỏ để sản xuất con người theo tiêu chuẩn và kế hoạch của nhà nước, cha mẹ chỉ có bổn phận sinh con, nuôi ăn từ lúc mới sinh đến khi biết đi biết nói. Tới tuổi cắp sách đến trường thì phải dâng con cho đảng để đảng giáo dục và huấn luyện trong các đội nhi đồng, thiếu niên cờ đỏ, đoàn thanh niên lao động. Nếu lý lịch tốt thuộc thành phần con cháu cán bộ, gia đình tử sĩ hay có công với chúng thì được cân nhắc vào đảng, bằng không, sẽ bị liệt vào hạng công dân thứ yếu, thuộc thành phần bị trị, là sâu bọ của xã hội và cuối cùng nhà nước tập trung thành một lực lượng để bán ra xứ ngoài làm nô lệ lao động và nô lệ tình dục.

Theo tinh thần của nền văn hóa nhân bản thì cha mẹ giữ một vai trò quan trọng trong việc giáo dục con cháu. Gia đình chính là lớp học đầu tiên, nơi khai trí bằng bài vở lòng ‘tiên học lễ hậu học văn’ từ lúc đứa trẻ vừa biết nói. Khi vừa đủ trí khôn con cái cũng được chính gia đình giáo dục tiếp về ‘công dung ngôn hạnh’ và ‘trung hiếu lễ nghĩa’ để tạo cho lớp trẻ phải biết bổn phận với quê hương tổ quốc, đạo hiếu thảo với cha mẹ, đạo xử thế với đồng bào và đạo làm người với Trời Đất. Chủ trương vô gia đình chính là mục đích mà cộng sản muốn xóa bỏ công lao sinh thành và nuôi dưởng của cha mẹ đồng nhồi sọ lớp trẻ chối bỏ trách nhiện và bổn phận đối với gia đình, quên người thân để trở thành những con thiêu thân chỉ biết tuân lệnh, phụng sự, sống và chết cho đảng. Chủ trương nầy cũng không ngoài âm mưu tách rời liên hệ máu mủ và tình cảm gia đình giữa cha mẹ anh em, vợ chồng con cái, người thân ruột thịt, để con cái sinh ra trở thành những đứa trẻ vô thừa nhận xem bậc sinh thành, người thân như kẻ thù nghịch. Như vậy có thể kết luận, con người sinh ra dưới chế độ cộng sản là những con vật do đảng sinh ra, giáo dục, kiểm soát từng cá nhân một từ tư tưởng, hành động, tình cảm cho đến cuộc sống hằng ngày như ăn ngủ, học hành, làm việc, tiếp xúc, giao tế, cưới vợ gã chồng, đau ốm, sống chết đều do nhà nước an bài.

Cộng sản thay gia đình giáo dục gì cho trẻ thơ ? Ngay từ ngày cắp sách đến trường chúng đã nhồi vào trí óc non dại những bài học nói láo rập theo lối tuyên truyền của cộng sản, phản bội bằng cách theo dõi hành động, nghe ngóng lời ăn tiếng nói của cha mẹ để báo cáo với cô giáo, thù hận đối với quân dân cán chính VNCH, chém giết những ai chống lại đảng và nhà nước và nặc mùi sắt máu phải tranh đấu đến giọt máu cuối cùng ! Chúng còn dạy cho trẻ con mới lọt lòng mẹ đã biết căm thù tư bản và chính thể Việt Nam Cộng Hòa cũ đồng thời đem già Hồ ra so sánh và bôi nhọ từ Chúa đến Phật. Tôi vắn tắt vài chuyện nhỏ để biếu cho thành phần trẻ theo cộng sản cũng như những tên chủ trương hòa giải hòa hợp với Hà nội. Đây là những chuyện thật được in ra trong các sách giáo khoa và truyện bằng hình vẽ dành cho trẻ em, ví dụ:

- Bài toán cọng trừ cho các lớp nhỏ tiểu học: Có 5 thằng ngụy đi vào làng cướp của hiếp người, quân ta anh dũng bắn hạ một lượt 4 thằng. Vậy còn mấy thằng chạy thoát ?

- Truyện bằng tranh dành cho các lớp mẫu giáo: Cô giáo đưa ra một truyện vẽ bằng bốn bức họa và giải nghĩa rằng, không có Chúa cũng không có Phật nào cả mà chỉ có bác Hồ vĩ đại của các cháu mà thôi. Chính bác Hồ đem lại cơm ăn áo mặc cho các cháu. Bây giờ các cháu nhắm mắt lại xin Chúa xin Phật cho các cháu kẹo xem thử có đứa nào cho không ? Nếu không, thì bây giờ các em nhắm mắt và xin Bác Hồ thì bác Hồ sẽ cho ngay ! Thế là kẹo bánh được liệng vào từ các cửa sổ !

- Nhồi sọ trẻ con ngay từ lúc biết đánh vần: Trong việc đánh Mỹ cứu nước, các chị nông dân miền Bắc đã dùng súng trường bắn rơi hàng ngàn chiếc máy bay thả bom B52 của Mỹ Ngụy và trẻ chăn trâu thì dùng ná cao su hạ hàng vạn máy bay lên thẳng của địch !

- Tuyên truyền láo khoét gây căm thù cho dân chúng miền Bắc: Thằng Ngô Đình Diệm kéo cái máy chém đi khắp miền Nam, hằng ngày nó đã chém đầu hàng ngàn quân dân anh hùng của chúng ta ! Bài học sau cùng nầy chúng vẫn còn đem ra giảng dạy trong thời kỳ đầu cho những người đi tù cải tạo !

Đó có phải là những bài học vỡ lòng rất ‘đạo đức’‘văn hóa’ để dạy cho trẻ con tại Việt Nam ngay khi chúng vừa cắp sách đến trường ! Ngày nay, đối với thành phần ngây thơ hải ngoại thì những chuyện lố bịch nầy có lẽ cũng không thể đem ra thuyết phục, chúng đổi chiến lược bằng những trò xảo thuật kín đáo qua hình thức ca tụng công lao đảng vì dân vì nước đồng thời tráo trở, biến tên tội đồ thành cha gia dân tộc, không ngoài mục đích níu kéo lòng ngưỡng mộ của thành phần trẻ và những người nhẹ dạ, mục đích đánh lận con đen, kêu gọi bắt tay hòa giải hòa hợp và gởi tiền về xây dựng đất nước.

Không có gia đình thì không còn xã hội, ý tôi muốn nói là một xã hội có tôn tri trật tự, thấm nhuần đạo đức và mang nặng tính nhân bản. Một khi không còn gia đình và xã hội, con người sẽ mắt hẳn nguồn gốc đạo lý và căn nguyên hướng thiện mà Trời đã ban sẵn cho mỗi người khi mới lọt lòng mẹ. Cái gốc con người khi vừa sinh ra bao giờ cũng tốt, chỉ có xã hội xấu mới tạo ra con người xấu. Thử tính xem những trẻ con xuất thân trong hoàn cảnh thiếu mái ấm gia đình, không tình thương cha mẹ, không người chăm sóc dạy dỗ, thiếu giáo dục nhà trường thì đại đa số trở nên tội phạm của xã hội. Vậy gia đình là gốc của con người, là cái nôi của đạo lý và là môi trường giáo dục con người từ lúc mở mắt chào đời đến lúc trưởng thành khôn lớn. Chỉ có cộng sản mới chủ trương vô gia đình, nghĩa là diệt bỏ tình thân ruột thịt để con người không còn bận bịu tình cảm riêng tư. Điều nầy chứng minh trẻ con sinh ra dưới chế độ cộng sản không có con tim và khối óc, lớn lên thành những người mang dòng máu lạnh, sẵn sàng bán đứng cha mẹ anh chị em mình để trở nên đảng viên cuồng tín, sặc mùi tranh đấu và sẵn sàng biến thành con thiêu thân trọn đời hiến dâng cho đảng.

Trước đà tiến bộ của nhân loại cũng như sự phát triển về truyền thông, cộng sản Việt Nam không dám ngang nhiên tuyên truyền như trước kia ba cái ‘vô’ khốn nạn của chúng, nhưng chúng vẫn âm thầm tráo trở, đặt lên hàng đầu ba âm mưu diệt gia đình, tổ quốc cũng như tôn giáo trong lề lối cai trị của chúng. Hậu quả của chủ trương ‘vô gia đình’ có nghĩa là biến xã hội thành một tập thể thiếu giáo dục, do đó Việt Nam ngày nay dưới chế độ cộng sản được đánh giá bởi người ngoại quốc : Một xã hội không có tình người, không còn luân lý đạo đức.

Một xã hội chỉ biết gian manh dối trá và vật chất là cái thước để đo con người. Thậy vậy, thiên đường ngày nay dưới chế độ cộng sản là một xã hội:

- Không còn luân lý: Mất đạo đức dẫn đến tình trạng mẹ bán con đi làm điếm. Ăn thai nhi cường dương bổ thận. Những tên già lấy trẻ con đáng tuổi cháu chắt. Con gái chưa sạch mũi, cần tiền bán ngay trinh tiết. Trong gia đình không còn tôn tri trật tự, ai có tiền làm chủ. Ngoài xã hội đồng tiền cái thước, là chiếc cân để đo giá trị con người. Trường hợp điển hình, một tên tỉnh ủy thành phố Sàigòn bất lực đã dụ mua trái thận của một sinh viên nghèo và anh nầy đã chết sau khi bán gần toàn bộ trái thận của mình !

- Không có tình người: Văn hóa đỏ đã làm cho mọi người trong gia đình, láng giềng, hàng xóm nghi kỵ lẫn nhau, nhìn nhau bằng cặp mắt nghi ngờ, mở miệng ra thì sợ lở lời liên lụy đến bản thân. Bổn phận của người dân là phải báo cáo từ tư tưởng đến hành động của người thân, bạn bè, láng giềng, người làm việc cùng sở cho công an, cho chính ủy cơ quan ! Mọi người ra đường thì nhắm mắt làm ngơ vì sợ liên lụy mỗi khi bắt gặp ai bị thương vì tai nạn hoặc đau nặng vì trúng gió …

- Gian manh dối trá: Xem những tờ báo của cộng sản phát hành trong nước, ai cũng thấy trên hai phần ba tin tức đều đăng các tin ăn quỵt, cướp giựt, đâm chém, giựt vợ chém chồng xảy ra từng giây phút. Đánh nhau, gây thương tích án mạng cũng vì những chuyện nhỏ nhặt như tranh nhau một củ khoai, vài đồng bạc, bó rau, ký gạo ….

- Xô bồ vật chất: Mua quan bán chức, mua bằng các cấp, mua trinh đủ loại, mua mạng người dễ dàng như đi chợ mua con gà con vịt. Tiền bạc vật chất giải quyết được tất cả mọi việc một cách hiệu quả và nhanh chóng. Muốn có tiền, với một người không còn lương tri tình cảm thì họ không bao giờ bỏ qua bất cứ hình thức tội phạm nào. Một xã hội chỉ biết tiền và tiền, đua đòi vật chất thì đồng tiền vật chất đã làm mất hẳn lý trí con người. Đây là hậu quả của âm mưu văn hóa đỏ nhằm xóa bỏ vai trò giáo dục gia đình qua chủ trương ‘vô gia đình’ của cộng sản !

- Sa đọa trầm trọng: Con người dưới xã hội chủ nghĩa hiện giờ chỉ còn hai cái quan trọng nhất: Ăn và Ôm ! Chưa có xứ nào mà tình trạng ăn uống ngoài bữa cơm gia đình ồn áo náo nhiệt như ở Việt Nam. Từ trong ngỏ hẻm ra đến đường, cảnh ăn uống tấp nập từ lúc vừa thức dậy cho đến quá khuya. Gánh hàng nhỏ lớn bày ngay giữa đường, xe đẩy chen nhau dành chỗ, người ngồi la liệt dưới đất và ăn uống một cách ngon lành, dù là trái cóc, con khô cho đến gói xôi, ly chè, tô cháo nhậu với nước lạnh pha cồn mà lúc nào cũng đát khách ! Ăn (và uống) để quên đời ! Dù kéo xe, đạp xích-lô, làm thợ vịn, bán hàng rong … ngày kiếm được vài chục ngàn (chừng 1 hay 2 US$) nhưng trước khi về nhà cũng ghé qua quán nhậu làm vài ly để quên ! Người dân lao động muốn quên đi nỗi cực nhọc thân xác, uống cho say rồi về ngủ để ngày mai tiếp tục đi cày. Giới trẻ sinh viên học sinh thì không còn hy vọng, học được ngày nào hay ngày đó, uống cho say để quên đi cái tương lai đen như mõm chó. Giới có tiền thì ngồi chật nhà hàng từ sáng đến tối, ăn trả thù đời cho những ngày đói khổ trước kia. Lúc nào còn tiền thì cứ việc hưởng thụ, không cần suy nghĩ để mặc cho đời đưa đẩy. Những con quỷ đỏ cán bộ cán bộ ăn no rững mỡ lại bị bất lực, chúng phải lùng kiếm những thứ gì cường dương bổ thận. Bất cứ con gì, củ gì giúp chuyện phòng the, dù bao nhiêu cũng ra lệnh cho đàn em cung phụng. Khốn nạn nhất là đám cán bộ nhà nước nghe theo lời mấy thằng Tàu, ăn thai nhi còn sống lấy ra từ bụng người mẹ, càng nhỏ thì kết quả càng cao ! Và cái xã hội thiếu đạo đức đã sinh nhiều cảnh đau lòng, những cô gái các bà mẹ nạo thai con mình đem bán lấy tiền !

Thú thứ hai độc đáo nhất địa cầu, cũng phát sinh ra từ dưới chế độ cộng sản nhằm giúp cho con người đi tìm cảm giác: Đó là ôm ! Việt Nam là một động ôm khổng lồ, từ Bắc kéo xuống Nam, từ hang ổ chủ tịch tới ủy ban xã, từ thành phố đến thôn quê, từ đêm đến ngày, từ trong nhà ra ngoài ngỏ, từ trên khô xuống dưới nước … với các hình thức: Café ôm, bia ôm, nhậu ôm, câu ôm, tắm ôm, chòi ôm, võng ôm, (đi) học ôm, đấm bóp ôm, hớt tóc ôm, karaôm, du lịch ôm, tham quan ôm…nhằm giải quyết thất nghiệp cho phụ nữ và thỏa mãn dục vọng cho nam giới. Văn hóa đỏ đã biến con người dưới chế độ cộng sản bại hoại tinh thần, suy nhược thể xác, con người trở thành thiêu thân, ngụp lặn trong đam mê hèn hạ, mất niềm tin để trở thành công cụ phục vụ đảng.

2. Vô tổ quốc có thể hiểu rằng dưới chế độ cộng sản không còn tổ quốc. Đảng đã thay thế vai trò tổ quốc để giáo dục và lãnh đạo con người và con người chỉ còn bổn phận độc nhất với đảng qua châm ngôn ‘trung với đảng hiếu với lãnh tụ’. Âm mưu vô tổ quốc của cộng sản không ngoài mục đích của nhà nước là chủ trương ‘quản lý’ cả thể xác lẫm tâm hồn người dân dưới chế độ. Chúng muốn biến tất cả từ tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc đến mồ hôi và xương máu trở thành công cụ phục vụ đảng. Cộng sản chủ trương rằng lý tưởng quốc gia phải bị tiêu diệt, người dân không có quyền yêu nước theo con tim và lý trí của mình, mà tất cả suy tư cũng như hành động đều phải được chỉ đạo và chịu kiểm soát bởi nhà nước. Đảng cộng sản Việt Nam luôn đề cao cảnh giác tinh thần yêu nước của người dân khi đưa ra chủ trương vô tổ quốc. Chúng quan niệm rằng phải tận diệt tinh thần quốc gia, lòng yêu nước chân chính để che giấu âm mưu già Hồ bán đứng người quốc gia cho phát xít Nhật và thực dân Pháp trong thế kỷ vừa qua, đồng thời đem chủ nghĩa cộng sản khốn nạn của Nga Tàu về đặt lên đầu lên cổ dân tộc Việt Nam và tình nguyện làm tôi mọi cho quan thầy đỏ Nga Tàu. Mới đây cộng sản đàn áp lòng yêu nước của người dân, nhất là thành phần trẻ khi họ đồng thanh vùng dậy xuống đường chống việc Tàu cộng xâm chiếm lãnh thổ.

Cộng sản chủ trương vô tổ quốc cũng nhằm chận đứng tinh thần yêu nước của người Việt tha phương. Chúng sợ những tổ chức yêu nước từ quốc nội ra đến xứ ngoài mở màn cho một cuộc cách mạng. Chúng sợ những cuộc nổi dậy của người dân cũng như các lực lượng quân sự từ nước ngoài xâm nhập vào. Chúng sợ những nhà tranh đấu đang xuất hiện kêu gọi lòng yêu nước của toàn dân. Chúng sợ những ngòi bút kích động lòng yêu nước, hướng dẫn dư luận và vạch trần tội ác. Chúng sợ thành phần trẻ bất mãn vì chuyện bán đất nhượng biển mà già Hồ và đảng cộng sản đã ký công hàm dâng cho Tàu cộng.

Tiếng hát ‘Quê hương là chùm khế ngọt’ và hình ảnh ‘duyên dáng áo dài’, là những miếng mồi chiêu dụ người Việt hải ngoại về thăm quê hương, mục đích đem tiền của về để cứu vớt chế độ đang trên đà tuột dốc kinh tế. Cộng sản đã chứng tỏ chủ trương vô tổ quốc qua vụ bán đất nhượng biển cho quan thầy Tàu cộng mà cả thế giới đều biết và gắt gao lên án. Trong nước, những ai yêu tổ quốc đều bị theo dõi, hăm dọa tù đày cũng như cuộc xuống đường nào mang tinh thần yêu nước đều bị trấp áp bằng kẽm gai, súng đạn và nhà tù. Xin nhắc nhở bạn trẻ một điều, những ai đụng đến quan thầy Tàu cộng đều phải tù tội, như vậy đối với cộng sản, tổ quốc bây giờ không còn là Việt Nam mà chính là Tàu cộng !

3. Cộng sản vô thần chúng cho rằng tôn giáo là một loại thuốc phiện mê hoặc con người. Không có Ông Bà Thần Thánh Phật Chúa mà chỉ có độc nhất đảng và lãnh tụ là thần tượng phải thờ phượng. Thực ra cộng sản rất sợ tôn giáo, vì tôn giáo không chấp nhận một xã hội vô thần và tôn giáo là thành phần đối đầu quan trọng với chủ nghĩa vô thần cộng sản. Ngoài ra, tôn giáo nào cũng được tổ chức chặt chẽ, có niềm tin, có tinh thần, có chỉ huy và tín đồ tin tuyệt đối vào đấng Thần Linh, họ sẵn sàng nghe mệnh lệnh các chủ chăn hay lãnh đạo giáo hội để bảo vệ đạo giáo. Con chiên sẽ tranh đấu đến hơi thở cuối cùng, Phật tử có thể tự thiêu vì đạo pháp, đó là mối lo sợ của cộng sản. Tôn giáo là những tập thể lớn đủ khả năng đánh bại bạo quyền cộng sản. Do đó chúng nhất quyết phải loại bỏ tôn giáo, xóa tan niềm tin người dân vào Thượng Đế vào Đức Phật. Muốn đạt được mục tiêu, trước tiên cộng sản tạo lên những thần tượng và bắt dân chúng thờ phượng thay Chúa thay Phật. Liên sô thì Staline, Tàu có Mao và Việt Nam, cộng sản phải thần tượng tội đồ dâm tặc Hồ thành kẻ yêu nước, cha già dân tộc không ngoài mục đích bắt dân chúng tôn sùng thờ phượng.

Ngày nay cộng sản không thể bưng bít, bịp bợm và tiếp tục xảo trá nhồi sọ dân chúng ba cái chủ nghĩa súc vật ‘vô gia đình, vô tôn giáo và vô tổ quốc’ nữa, chúng phải âm mưu tạo ra những trò bịp bợm có vẻ văn minh và hợp lý để lừa dân chúng đồng thời che mắt quốc tế. Mặt trận tổ quốc là một tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản, đóng vai trò thu tóm các tôn giáo, đoàn thể để kiểm soát, thao túng và chỉ đạo theo đường hướng đảng đã vạch ra: Các hội đoàn yêu nước, công giáo, phật giáo, cao đài quốc doanh là những tổ chức do các đảng viên cộng sản trá hình sáng lập và lãnh đạo để thu các tổ chức khác về một mối. Đối với bên ngoài, tôn giáo nào dưới chế độ cộng sản cũng phát triển, được tôn trọng những bên trong là những tổ chức chỉ được hoạt động theo chỉ thị của đảng và nhà nước mục đích gây xáo trộn và làm suy thoái tinh thần đạo giáo để những tổ chức nầy trở nên cộng cụ phục vụ cho nhà nước.

Gần đây trên các diễn đàn vừa xuất hiện một bài viết tuyên truyền cho cộng sản, tác giả bài viết cho rằng cộng sản Việt Nam ngày nay đã thực sự chấp nhận tôn giáo. Bằng chứng ngay tên đầu nậu đảng Lê Khả Phiêu trong nhà còn có bàn thờ Phật và luôn luôn có một ni cô (trông thật mát mắt !) luôn đi kèm bên cạnh tên dâm dục Lê Khả Phiêu ! Xin đừng ngây thơ hoặc chủ mưu tuyên truyền cho cộng sản, một khi chúng kêu Trời Đất, Chúa, Phật bằng thằng Trời, thằng Chúa, thằng Phật thì trong gia đình chúng nó cả chục bàn thờ thì cũng chỉ là hình thức đánh lận con đen ! Khu Đại Nam cách Sàigòn khoảng 40 cây số (cách thị xã Thủ Dầu Một 5 cây số) là một vùng lâu đài cộng sản cho xây trên một diện tích 450 ha, vĩ đại như cung vua chúa bên Tàu ngày xưa, trong đó, ngay chánh điện có tượng Đức Phật và chúng đã ngang nhiên đặt thêm tượng già Hồ khốn nạn để cho dân chúng đến thắp hương vái lạy ! Thật ra đó chính là cung điện để tưởng niệm già Hồ (như lăng Ba Đình ở Hà nội) nhưng bọn cộng sản chưa dám nêu đích danh mà phải núp bóng Phật để tráo trở bán vé cho khách vào vái lạy. Chúng tạm thời phải mượn danh Phật giáo lừa gạt dân chúng xem như đây là ngôi chùa lớn nhất Việt Nam với lối kiến trúc phí tổn hàng trăm tỷ đồng. Nếu các vị trong hàng giáo phẩm công giáo Việt Nam không khôn khéo thì mai đây đám quốc doanh cũng sẽ đem già Hồ vào trong các nhà thờ để dân chúng đến đọc kinh cầu nguyện hằng ngày !

Xin đừng nhìn một cách hời hợt trước những trò giả tạo như tổ chức ngày lễ Vua Hùng, lễ Hội dân tộc, Thi Hoa Hậu trong nước hoặc các chương trình văn hóa cổ truyền do các đoàn văn công Việt Cộng trình diễn ở xứ ngoài. Đây là hình thức mà chế độ cộng sản dùng để che đậy âm mưu tội đồ của chúng trước sự tồn vong của dân tộc và đất nước mà quan trọng, tôi xin nhấn mạnh, thật quan trọng là việc suy đồi văn hoá.

Tóm lại, cộng sản thường vỗ ngực tuyên truyền rằng nhờ văn hóa đỏ mà Việt Nam trở thành trung tâm ‘đỉnh cao trí tuệ loài người’ và ‘chiếc nôi của nhân loại’. Nhưng thực ra chúng đã đem lại gì cho quê hương tổ quốc sau trên 60 năm cai trị ? Về phương diện văn hóa thì, luân lý đảo lộn, thú (Việt cộng) lên làm người và người (dân miền Nam) trở xuống thú, xã hội xô bồ, trộm cắp, cướp giật, đĩ điếm, tình người biến mất. Tính mạng con người không đáng vài xu, anh em giết nhau vì vài đồng bạc, cha mẹ bán con vì củ khoai ký gạo. Cái thâm độc của cộng sản là đã biến xã hội thành thiên đường của ăn chơi đàng điếm để hủy hoại tinh thần đạo đức, tình người cao thượng của dân tộc Việt Nam. Dưới chế độ cộng sản hiện giờ, muốn sống còn thì phải biết lừa thầy phản bạn, dối gạt cha mẹ anh em, lừa lọc bạn bè hàng xóm. Những gì đã và đang xảy ta dưới xã hội chủ nghĩa của cộng sản Việt Nam cho thấy đạo đức và tình người đã khoát áo ra đi nhường chỗ gian manh tội ác ngự trị.

Ngoài ba triệu đảng viên và thành phần đỏ vinh thân phì gia nhờ bám vào chế độ cộng sản, còn lại vẫn còn trên một nửa dân số sống trong nghèo đói thiếu ăn thiếu mặc, con cái không được học hành và đau ốm thiếu nơi chăm sóc chữa trị. Đừng nhìn những kiến trúc vật chất dành cho thành phần tỷ phú đỏ và người nước ngoài, lối sống phô trương chụp giựt của kẻ ‘đổi đời’ học làm sang mà cần nhìn vào thực trạng xã hội, cần suy nghĩ để thấy rằng ở Việt Nam hiện giờ vẫn còn hàng triệu người lương thiện phải đi ăn xin, lượm rác để sống, hàng trăm ngàn thanh niên thiếu nữ phải ra nước ngoài làm nô lệ hoặc chấp nhận bán mình làm điếm khắp năm châu. Trên địa cầu nầy, dù những nơi chậm tiến, thiếu văn minh nhưng vẫn không đến nỗi tồi tệ như thiên đường cộng sản Việt Nam hiện nay.

Tài sản vật chất của quê hương tổ quốc bị tàn phá hoặc mất mát thì có thể sửa chữa và xây dựng lại trong vòng vài năm, vài chục năm. Nhưng một khi văn hóa và đạo lý con người hoàn toàn suy sụp thì phải tính từ thế hệ nầy qua thế hệ khác và mất hằng thế kỷ mới có thể phục hồi lại nguyên vẹn. Đó là cái tột lớn đối với tổ quốc và dân tộc Việt Nam mà đảng cộng sản đã gây ra. Sử sách sẽ ghi lại, nghìn đời để cho hậu thế phán xét.

Đinh Lâm Thanh
Paris, 15.02.2000

34 Năm Sau Và Họ Là Ai? - Lão Gà Tre

Lão Gà Tre

Ba mươi bốn năm (34) so với chiều dài lịch sử của một triều đại thời xưa thì ngắn, nhưng với một đời người thì dài lắm, nhất là đối với những ai quan tâm đến thời cuộc, đến vận mệnh khổ đau của dân tộc Việt Nam thì nó lại càng dài hơn.

Ba mươi bốn năm trôi qua quả thật như một giấc mơ hãi hùng! Máu, nước mắt, khổ lụy, nghiệt ngã vẫn còn đây! Những cuộc vượt thoát vô tiền khoáng hậu của người Việt trốn chạy cộng sản – mà cả thế giới đều biết – vẫn còn ghi đậm trong lịch sử nhân loại. Riêng đối với người Việt tị nạn, làm sao có thể quên được những ngày tháng hãi hùng ấy. Có lẽ nó sẽ nằm sâu, nằm mãi trong tiềm thức của mỗi chúng ta.

Ba mươi bốn năm rồi mà người đi vẫn đi, không còn đi được bằng cách vượt biển, vượt biên thì cũng tìm cơ hội khác để đi: ODP (đoàn tụ), lấy vợ, lấy chồng, du học, chạy chọt làm sao để rời xa cái gọi là “thiên đường xã hội chủ nghĩa”. Chính ngay những người theo cộng sản cả đời, những người được hưởng ơn mưa móc như núi, nhưng nếu có cơ hội ra đi là họ đi ngay để trốn khỏi cái “thiên đường” quái đản ấy.

Chừng đó thôi cũng đủ để chứng minh một cách hùng hồn rằng con người không thể sống dưới chế độ cộng sản. Khổ thay, Việt Nam là một trong bốn nước cộng sản còn lại mà loay hoay mãi vẫn không thể nào thoát khỏi cái thiên đường mù đầy oan nghiệt ấy! Nếu miền Nam Việt Nam không bị bán đứng vào tay cộng sản vào 1975, thì chắc chắn, sau sự sụp đổ của khối cộng sản Ðông Âu và Nga Sô, toàn cõi Việt Nam bây giờ đã là một xứ tự do, giàu mạnh như bao nhiêu quốc gia văn minh khác. Ít ra cũng bằng Nam Hàn với nền văn minh nhân bản như ngày nay.

Khỏi cần phải tố cáo hay chê bai chế độ; khỏi cần luận tội tập đoàn cộng sản lãnh đạo đất nước đã tàn phá quê hương như thế nào sau 34 năm thống nhất hai miền Nam-Bắc; khỏi cần so sánh với các nước láng giềng và các quốc gia khác trên thế giới – cũng bằng ấy thời gian đã vươn lên như đi hia bảy dặm – mà cứ nhìn vào xã hội tan nát, luân thường đạo lý tiêu tan, thị trường cung cầu quái dị, con người chạy theo vật chất một cách điên cuồng là biết ngay.

Khỏi cần phải nghe những luận điệu vì cảm tính của một số người về thăm quê hương rồi trở lại hồ hởi ca ngợi: “Ðất nước ngày nay khá rồi, thôn quê đã có điện nước, người dân có quyền đi lại và có quyền chửi luôn cán bộ cộng sản”. Thế sao? Chỉ có ba bóng đèn thắp sáng trong vài túp lều thô sơ, nghèo khổ, lạc hậu; chỉ có vài người vụt miệng chửi đổng cán bộ là đã có tự do, là đất nước khá rồi hay sao? Trong khi đó đa số các quốc gia tự do trên thế giới đã và đang tiến vào một đời sống sung túc và văn minh nhất của con người lại không đem ra so sánh!

Ðúng! Việt Nam đã có tự do, nhưng đó là thứ tự do của giai cấp cai trị được “tự do” ăn trên ngồi trước, “tự do” trấn lột quần chúng để thụ hưởng những xa hoa, phù phiếm trên nỗi thống khổ của toàn dân, vốn đã quá khổ trong một thế kỷ qua vì chiến tranh bom đạn. Phải, Tự là “tự” họ quyết định sự sống của người khác bằng họng súng và Do là “do” họ tạo nên những thủ đoạn đê hèn để áp đảo người dân, tước đoạt mọi thứ quyền tự do căn bản của con người.

Ðúng! Có tiến bộ, nhưng là thứ tiến bộ lừa đảo, mưu mô xảo quyệt cướp giựt để đàn áp mọi sự chống đối của người dân – khao khát hít thở không khí tự do – đã và đang đứng lên đòi tự do tôn giáo, tự do được sống làm người.

Nói tới chính trị là phải chứng minh bằng dữ kiện, bằng đường lối cai trị của một chế độ đang điều hành guồng máy quốc gia. Chế độ ấy như thế nào thì chúng ta đã thừa biết, khỏi cần nhắc lại làm gì cho tốn giấy tốn mực. Nếu họ thật tâm lo lắng cho quyền lợi của quê hương đất nước, cho người dân được hưởng những quyền tối thiểu của con người thì 34 năm qua đất nước đã khá lên rồi. Nếu họ có thật tâm xây dựng đất nước thì tại sao chúng ta phải bỏ nước ra đi, phải tiếp tục ra đi cho đến ngày nay, và phải chấp nhận sống chết trong đường tơ kẽ tóc để tìm tự do? Vì thế, những luận điệu nông cạn thiếu suy nghĩ ấy chỉ là mớ lý luận có lợi cho cục tuyên vận của CSVN.

Vậy, họ là ai?

Họ là những thành phần ích kỷ, chỉ biết sống cho mình, miễn sao có một đời sống sung túc trên xứ người là đã thỏa mãn. Còn quê nhà, bà con làng xóm có sống như thời kỳ “đồ đá” thì cũng mặc. Miễn sao lâu lâu ta về thăm cái xứ lạc hậu ấy để thí cho một vài đồng đô, vừa được tiếng, vừa được những người thọ ơn ca tụng cho thỏa cái tự ái vị kỷ của mình.

Họ là ai?

Họ là thành phần cán bộ được cộng sản cấy theo đoàn người tỵ nạn, nằm vùng khắp mọi nơi, đóng vai quốc gia trá hình, chờ cơ hội là bò dậy tấn công vào hàng ngũ người Việt Quốc Gia, vốn đã chia rẽ trầm trọng do bản chất vị kỷ, phi chính trị của những người sinh hoạt ngoài công cộng.

Họ có mặt sinh hoạt nội gian, nội gián trong mọi tổ chức, đảng phái chính trị. Mục tiêu chính của họ là phá nát các tổ chức chính trị chống cộng, bày mưu, chước kế đâm bên này, thọc bên kia, gây mâu thuẫn nội bộ, tung những nguồn tin giật gân ra ngoài làm cho quần chúng mất niềm tin. Mục tiêu của họ chỉ có thế thôi. Khi đã thành công vì phá được các tổ chức chính trị đi đến tình trạng gần như bị tê liệt thì họ đi đâu và làm gì? Dĩ nhiên là họ đã lặn thật kỹ, viện cớ chán ngán thế sự, lui về ngồi rung đùi đếm tiền và hưởng nhàn, ôm theo một đống tiền, gọi là công tác phí trọn đời.

Thà rằng tỏ rõ thái độ đầu hàng như một ông tướng, ông nhạc sĩ “nhớn” đã quay về với đảng và nhà nước, ăn năn sám hối để được hưởng “lộc” cuối đời. Dù xú danh muôn thuở, người đời nguyền rủa, nhưng ít ra họ đã biểu lộ thái độ chính trị dứt khoát theo cộng để người ta phân biệt lằn ranh biên giới rõ ràng giữa họ và chúng ta. Còn hơn những tên nằm vùng sống với nhiều mặt nạ khác nhau để quậy phá các tổ chức chính trị, hội đoàn, cộng đồng; thậm chí trong giới cầm bút cũng không thiếu những tên tự xưng là người cầm bút, nhưng bất xứng, lại háo danh, hám lợi. Chính họ là một thứ bồi bút không hơn không kém, viết lách theo đơn đặt hàng, núp bóng trong tổ chức Văn Bút, để “cố đấm ăn xôi” một cách quyết liệt với mục đích xé nát tổ chức nhằm xóa bỏ dấu tích còn lại của người Việt quốc gia trên diễn đàn quốc tế. Họ cố đấm dù không ăn được xôi đến độ một cách phi lý, phi văn hóa mà bất cứ ai có chút suy nghĩ cũng phải nghi ngờ chắc chắn đàng sau họ phải có một sức đẩy nào đó. Họ chính là “những kẻ vô lại may mắn” như nhà văn Phạm Ngũ Yên đã đặt tên trong một loạt bài tố cáo đích danh những tên vô lại này trước công luận vào năm 2008.

Họ là ai?

Họ cũng là những người vượt biển vượt biên ra đi tìm tự do, nhưng sống “với vật chất và vì vật chất” nên theo thời gian, thời thế thế thời phải thế. Họ đã quay lưng, cúi đầu phục vụ trực tiếp, hay gián tiếp cho cục tuyên vận CSVN, sẵn sàng đâm vào vết thương lòng của tập thể người Việt tỵ nạn để kiếm lợi.

Họ là ai?

Họ là những nhà “làm chính trị” theo kiểu lập dị, với mớ lý luận thiên tả, ưa bềnh bồng, không định hướng như con thuyền không bến. Họ sống bên này với thế giới tự do văn minh, phủ phê vật chất nhưng luôn luôn mơ mộng ở một “thiên đường” khác: thiên đường của hoang tưởng, thiên đường của không tưởng. Nhưng nếu họ được sống thực trong cái “thiên đường” ấy, chắc chắn là họ phải lên cơn điên và trở thành người điên sớm nhất. Tiếc thay, khi va chạm với thực tế trong cái xã hội tha hóa ấy thì hối hận cũng đã muộn màng!

Họ là ai?

Họ là thành phần làm chính trị theo kiểu salon, thích đọc diễn văn “xa đấm, gần đâm”. Nghĩa là ở xa thì hô hào “Ðấm” đá, những ở gần thì “Ðâm” đầu bỏ chạy. Họ cứ tưởng sẽ hòa hợp được với cộng sản bằng một mớ kiến thức về kỹ thuật mà họ học được từ hải ngoại. Về nước họ sẽ được trọng dụng và đảng cộng sản sẽ nghe theo họ. Ðúng là hoang tưởng!

Họ là ai?

Họ là những thương gia, với quan niệm “chỉ làm thương mại, không làm chính trị”. Giấc mơ của họ là giấc mơ của những “đại gia” thời mới, đượỳc nhà nước ca tụng và tâng bốc trên tận mây xanh. Trước khi đặt vấn đề đầu tiên là “tiền đâu”; dĩ nhiên là họ phải chạy theo giai cấp thống trị, làm theo lệnh của bạo quyền để kiếm lợi. Vì vậy, với thành phần chỉ biết mua bán để kiếm lợi thì trách họ làm gì cho bận tâm. Với họ quê hương dân tộc không bằng một quả chanh, khi vắt hết nước là liệng vỏ ngay. Gần đây, nhiều “đại gia” đổ tiền về làm ăn vì được đảng nâng bi ca tụng hết mình, nhưng chỉ một thời gian sau thì những đại gia này đều bị trấn lột sạch sành sanh kêu Trời không thấu! Cái giá “không làm chính trị, chỉ biết làm ăn” họ đã phải trả một cách cay đắng.

May thay, dân tộc Việt trường tồn qua mấy ngàn năm nay cũng nhờ vào hồn thiêng tổ tiên phù trợ, nên thành phần “Họ Là Ai” nói trên chỉ là thiểu số ung nhọt, sâu mọt trong đại gia đình dân tộc Việt mà thời nào cũng có trong lịch sử. Còn đại đa số những người bỏ nước ra đi tìm tự do thật sự từ năm 1975 đến nay, vẫn một lòng, một chí hướng, đó là giải thể chế độ cộng sản để đưa đất nước tiến lên trong tự do dân chủ. Ngày nào còn bóng dáng cộng sản là còn đấu tranh đòi quyền sống cho đồng bào ruột thịt đang chịu đựng trăm đắng ngàn cay ở quê nhà.

Ba mươi bốn năm rồi, mặc dù những hiện tượng chia rẽ trong hàng ngũ của chúng ta đã xảy ra vì địch và vì chính chúng ta tạo nên cũng có, nhưng những chiến sĩ can trường đã và đang âm thầm hay công khai đấu đầu với CSVN ở khắp mọi nơi vẫn kiên trì, bất khuất, vẫn một lòng với đại cuộc đấu tranh chống cộng. Ở quốc nội, các vị chân tu của các tôn giáo, các nhà đấu tranh cho dân chủ vẫn không sờn lòng đứng lên đòi quyền sống, quyền hành đạo, quyền được phát biểu tư tưởng, mặc dù bị bắt bớ giam cầm dã man trong suốt 34 năm qua. Ở hải ngoại, vẫn những chiến sĩ xung trận ngăn chặn mọi sự xâm nhập của CSVN trên mọi chiến tuyến. Xin cầu chúc “chân cứng đá mềm” tới những tấm lòng bất khuất mà thời nào họ cũng đứng lên trong dòng sinh mệnh của dân tộc Việt.

Là những người may mắn thoát khỏi nanh vuốt của tập đoàn cộng sản, chúng ta không thể nào ngồi yên để hưởng thụ, mà đã đến lúc phải góp sức vào công cuộc chung, tiếp tay với những anh hùng đang xả thân vì nước bằng cách vận động, góp tinh thần – dù chỉ là lời nói – cho quí vị lãnh đạo tinh thần, những nhà đấu tranh cho dân chủ ở trong nước đang ngày đêm gian khổ, sống chết trước sự đàn áp dã man của bạo quyền cộng sản.

Có như thế thì chúng ta mới không phụ lòng những anh hùng liệt sĩ đã nằm xuống cho chính chúng ta được sống. Có như thế thì mới không hổ thẹn với chính lương tâm mình mỗi khi nhìn lại chặng đường lưu lạc gian khổ suốt ba mươi bốn năm qua: “Ta đã làm được gì cho quê hương dân tộc”? Có như thế mới làm gương cho thế hệ trẻ trong việc gìn giữ nguồn gốc và tinh thần trách nhiệm đối với sự sinh tồn của dân tộc. Một Brian Doan, một Madison Nguyễn, một John Nguyễn ... cũng chỉ là một thiểu số nhỏ bé, bé hơn cả những hòn sỏi khi ném xuống mặt hồ yên lặng, vẫn chưa đủ sức làm gợn sóng lăn tăn. Thế nhưng, mặt khác của vấn đề là sự tỉnh thức của chúng ta, của tập thể người Việt không cộng sản, đó là đoàn kết và cố gắng chăm sóc cho thế hệ nối tiếp gìn giữ truyền thống giáo dục gia đình.

Nhân mùa quốc nạn, xin được thắp nén hương lòng gửi đến hồn thiêng của các anh linh tử sĩ, đồng bào vượt biển, vượt biên đã anh dũng nằm xuống cho đất mẹ sớm nở hoa tự do. Ðồng thời cũng xin được nguyện cầu bình an cho những anh hùng dân tộc đang ngày đêm chiến đấu một mất một còn với CSVN trên mọi mặt trận.


Lão Gà Tre

Đem Tâm Tình Viết Cho Người Bạn Trẻ - Phạm đình Thừa

Phan thiết-Phạm đình Thừa
Người Bạn Trẻ thân mến,

Bạn và tôi, tuy chưa thật sự đối diện nhau, chưa một lần cùng nhau bày tỏ tâm tình nhưng chúng ta lại có những mối tương đồng không dứt bỏ được. Chúng ta cùng màu da vàng, màu mắt nâu, màu tóc đen và cùng thuộc giòng giống Con Rồng, Cháu Tiên theo huyền thoại lập quốc. Chúng ta cùng hảnh diện về một lịch sử đấu tranh dài, trên 4.000 năm dựng nước của cha ông, và gần đây hơn, chúng ta cùng chia nhau nỗi thảm sầu của người dân vong quốc. Chúng ta cùng canh cánh bên lòng hoài vọng và lý tưởng đấu tranh để, một hôm, trở về quê cũ, nơi đang nhuốm đầy tang tóc, điêu linh. Bạn sẽ có dịp thi thố tài năng làm thăng hoa đất Mẹ và Tôi có thể an nhàn thoải mái trong Tự Do, Hạnh Phúc chung của dân tộc mà đi vào buổi tà dương đời mình.

Tôi đã gặp bạn, lớp người trẻ thoát sinh vào thời điểm những năm cuối cuộc chiến. Tôi đã chào mừng bạn cất tiếng khóc vào đời, sau cơn Hồng thủy bạo tàn phủ chụp lên từng phần đất quê hương, tháng 4 năm 1975. Nhưng ... lòng tôi lại bùi ngùi vì căn cước đầu đời bạn đã in rõ dòng chữ Tỵ Nạn Chính Trị hoặc Thành Phần Ngụy. Nhắc lại sự kiện này, quả tình tôi đã cố tạo cái móc thời gian đánh dấu sự ra đời một thế hệ - thế hệ các bạn, thế hệ nối tiếp thế hệ chúng tôi, lớp người đã kinh qua chiều dài của cuộc chiến 30 năm (45-75).

Tôi đã dõi theo mọi biến thiên thuận chiều cũng như nghịch lý trong sự trưởng thành đời bạn. Tôi đã chứng kiến cảnh vài con gà lẻ loi trong đàn vịt đông đảo: Những cô, chú tí hon tỵ nạn, lần đầu tiên, cắp sách đến trường, trên những phần đất năm châu, bắt đầu ê a thứ ngôn ngữ mới, không phải tiếng mẹ đẻ, giữa rừng bạn đồng học người bản xứ. Và trên những con đường quê hương, bước chân chim của các bạn tung tăng đến lớp vỡ lòng, đã phải ngập ngừng vì cổ bị choàng mãnh khăn đỏ, đầu bị nhét vào những câu hát ca tụng một xác chết lạ hoắc. Chân bước đi mà bụng đói meo vì thiếu quà sáng; mãnh vải đỏ như chiếc vòng "kim cô" trên đầu Tôn Ngộ Không, xiết chặc, đóng kín khu vườn tư duy vừa mới hé. Số đông các bạn đã không may, phải nhận chịu một nền học thuật với khẩu hiệu thay cho kiến thức khoa học, đào kinh, quét đường thay cho luân lý ngàn đời của dân tộc. Tôi đã đứng dưới cội những cây bàng lớn, ngập đầy xác lá buổi chớm Thu, miền bắc Mỹ, nhìn các bạn rưng lệ, đưa tay vẫy chào tiển biệt người thân, rồi sau đó, một mình trở về căn phòng nội trú. Lần đầu tiên xa nhà, bước vào ngưỡng cửa Đại học, các bạn là những chú nai con, ngơ ngác buồn, nhìn chiếc xe của cha mẹ xa dần và mất hút sau đám lá vàng tung bay trong gió loạn. Đây cũng là hình ảnh tiêu biểu của một số các bạn mang kiếp tha hương từ lúc tuổi xanh. Cùng vào thời gian đám thanh, thiếu niên tỵ nạn tại hải ngoại chuẩn bị đi vào khung trời kiến thức mới, giữa tâm tình ngỗn ngang, tại quốc nội hàng triệu, triệu học sinh phải đau đớn lìa bỏ bút nghiên, bị tống xuất ra khỏi học đường vì cái tội mang giòng máu Ngụy Quân, Ngụy Quyền hay Ngụy Dân. Họ không được phép tiếp tục Đại học để trả món nợ không tưởng, không vay. Rồi bốn năm, năm năm hay mười năm sau, số đông các bạn tại hải ngoại trở thành chuyên viên ưu tú, khoa học gia có khả năng, có đời sống xã hội vững chắc. Thời gian qua mau, ngắn gọn như các danh từ chỉ số đơn giản nhưng nó đã không ngắn gọn và đơn giản trong tiến trình thu thập kiến thức của các bạn và cũng đã trở nên quá dài, với đầy cam go thử thách, trong cuộc đời tỵ nạn của lớp người cha, anh. Số phận người thanh niên cùng trang lứa tại quốc nội càng bi đát hơn, phải thay cha bị tù "cải tạo", làm cần câu cơm cho gia đình, qua những nghề cùng đinh nhất trong một xã hội được mệnh danh là Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng bên cạnh chiếc gương đời trong sáng còn phản ảnh giá trị nhân bản quý báu đó, cũng không thiếu những trường hợp xẩy chân, vấp ngã. Sự xẩy chân, vấp ngã tất nhiên đến từ phương thức đào luyện của một nền học thuật vắng mặt luân thường, phản dân tộc, diệt tính người, trống rổng bên trong nhưng đầy hào nhoáng tuyên truyền bên ngoài. Cho đến khi cùng gia đình thoát được khỏi cảnh đời cay nghiệt, tăm tối, các bạn đã cố gắng không ngừng để hội nhập vào xã hội mới, nhưng dấu hằn trên vùng tri thức ngày tuổi nhỏ chắc khó có thể tẩy sạch trong một sớm, một chiều. Cũng gần đồng dạng với sắc thái xã hội trong nước, cuộc sống ích kỹ tại các nước văn minh làm héo úa không ít cây hy vọng vừa đâm chồi. Một số trong các bạn tự chọn cho mình hướng đi nhiều cay đắng; số đông khác được trang bị dồi dào kiến thức khoa học văn minh, biểu hiện qua mớ bằng cấp các bạn đã bỏ công khó nhọc đạt được. Điều này là niềm hãnh diện chung của một sắc dân bất hạnh còn đang lang thang, rãi rác khắp năm châu. Tuy nhiên, khoa học vốn vô hồn, bản chất con người lại đa dạng và hệ thống giáo dục Tây phương không đặt nặng phần cao quý của nhân phẩm. Chính vì vậy, không gian dầu to rộng nhưng lòng người văn minh hình như càng ngày càng thu hẹp lại. Tưởng rằng những người bạn trẻ của tôi đã bị nhận chìm, mất dấu ở hai đầu cực học thuật vô tính, vô hồn nhưng sự kiện này đã không xảy ra -một điều đại phúc cho dân tộc!

Tôi lại gặp bạn, giờ đây đã là những thanh niên, nam nữ duyên dáng, tuấn tú, cường tráng. Dầu mới từ quốc nội sang đây hay đã thể nhập vào các xứ văn minh gần 1/4 thế kỷ, dưới mắt chúng tôi -những người thuộc thế hệ trước- các bạn vẫn là một khối thuần nhất dễ thương, mang một phần tim óc, một phần máu mủ và cả một trời hoài vọng của chúng tôi trong các bạn. Các bạn đã tay trong tay, đội mưa dầm, đạp tuyết lạnh, bất chấp cái nóng nung người ngày Hạ chí, cái đe dọa của cơn bảo cấp cao, vượt những đoạn đường dài trên các phần đất năm châu để đến cùng người đồng bào, góp một bàn tay, thêm một tiếng nói đấu tranh đòi lại tự do, nhân quyền trên quê hương. Chưa bao giờ màu cờ vàng ba sọc đỏ rực rở, choáng ngợp cả không gian như trong các cuộc biểu dương ý chí bất khuất trước bạo quyền cộng sản Việt nam và bè lũ tay sai tại hải ngoại, nhân vụ Trần văn Trường treo cờ máu và hình Hồ chí Minh tại thị xã Westminster, Nam Cali. Ngọn nến các bạn đốt lên đã làm rực sáng một vùng trời Tây phương trong màn đêm, dội vào lương tri đám nhân loại ngây-thơ-tàn-nhẩn của các phong trào "anti-war" vào đoạn cuối trang sử đẩm máu của cuộc chiến Việt nam. Nam Cali, bắc Cali, Denver, Houston, Dallas, Washington.. ., những thành phố Mỹ, Canada, Úc châu, Âu châu..., tất cả các bạn đã cùng nhịp nhàng đứng lên đấu tranh với hành trang là lá cờ Quốc Gia đầy chính nghĩa, với lòng hăng say nhiệt thành của tuổi trẻ. Không phải đến bây giờ, năm 1999, các bạn mới hiện diện, làm bừng sôi khí thế đấu tranh; đã từ lâu, từ lúc bước đi còn chập chững, các bạn đã tham dự. Nhưng giai đoạn ấy, các bạn còn quá nhỏ để có thể tự nói lên ý tưởng và thái độ chọn lựa của chính mình. Vì vậy, người cộng sản -những kẻ sở trường dùng hiện tượng để tuyên truyền thay vì đi sâu vào căn nguyên của bản chất sự kiện- đã rêu rao (và được phụ họa bởi các thành phần mệnh danh trí thức mà tầm nhìn lại không thoát được vùng trời đáy giếng) rằng chúng tôi, bậc cha anh các bạn, đã trao tay "bó đuốc căm thù" cho thế hệ các bạn! Người Mỹ có câu nói để đời: "The truth is greater than the facts". Thời gian, như dòng nước, đã cuốn trôi rác rưởi tuyên truyền để chỉ còn tinh động lại sự thật không thể chối cải: sự tham dự của các bạn xuất phát từ chọn lựa của con người tự do với đầy đủ ý thức tự thể. Không có động lực nào phát sinh từ cái gọi là "bó đuốc căm thù", sản phẩm mộng du của bạo quyền cộng sản Việt nam và đám tay sai hải ngoại. Có chăng là ý chí đấu tranh "lấy nhân nghĩa thắng hung tàn" trong giòng máu bất khuất của dân tộc, luân lưu từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ đời này qua đời khác. Qua biểu tình, các bạn đã lớn tiếng minh danh, đã gào to khẳng định vào mặt những chú Cuội thời đại tại Bắc bộ phủ cũng như tại các cơ sở ngoại giao của cộng sản tại hải ngoại, tác giả những chiến dịch tuyên truyền xão mị, nhằm lừa đảo công luận quốc tế và quốc nội. Lá cờ vàng ba sọc đỏ nho nhỏ nhưng linh động, ánh nến lung linh nhưng không bao giờ tắt trong tay hàng ngàn, hằng vạn các bạn đã tạo cuồng phong, thành lửa tam muội bay về quê hương, nhập vào đại thể dân tộc để, một ngày gần đây, bứng sạch và thiêu rụi gốc, rễ cây cổ thụ ý-thức-hệ-cộng-sản, từ lâu được vun xới bằng máu xương đồng loại. Các bạn rất đáng được vinh danh, đáng đuợc xưng tụng.

Nhìn khí thế đấu tranh của các bạn hiện tại, tôi chạnh nhớ một đoạn đời dĩ vãng mấy mươi năm xưa, trong khoảng hai thập niên sau năm 1945 và 1963. Năm 1945 là giai đoạn đánh dấu một khúc quanh quan trọng nhưng đầy đau thương trong dòng sử Việt. Hơn lúc nào hết, cao trào đấu tranh chống thực dân Pháp, giành độc lập cho nước nhà đã bộc phát mãnh liệt và cùng khắp. Núp dưới chiêu bài Bài Phong, Phản Đế, mặt trận Việt Minh (tức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội được thành lập năm 1941, thoát thai từ Đông Dương Cộng Sản Đảng) quy tụ được đa số người trẻ tại Hà Nội thuộc thành phần trí thức, sinh viên và tiểu tư sản thành thị, qua một tổ chức ngoại vi có tên là Dân Chủ Đảng. Mặt trận Việt Minh do Hồ chí Minh lãnh đạo, trước khi tạo được căn bản thực lực sâu rộng trong quần chúng, đã đưa ra lời kêu gọi đoàn kết, liên hiệp với các đảng phái, phong trào, tổ chức đấu tranh khác và không bao giờ ló đuôi cộng sản. Nhưng khi xây dựng xong cơ sở, đào tạo đủ lớp cán bộ trung kiên, chúng đã trở mặt, thanh toán mọi tầng lớp quần chúng có tinh thần và tâm huyết thật sự vì Quốc Gia, Dân Tộc. Chúng cũng không còn e dè, giương cao ngọn cờ đỏ của cộng đảng quốc tế. Một vài thành tích "cướp công" và "lật lộng" sơ khởi được thể hiện qua cuộc biểu tình chiều ngày 17 tháng 8 năm 1945 tại nhà hát Lớn, Hà nội. Lần đầu tiên, cán bộ tuyên truyền và vũ trang cộng sản trương lá cờ đỏ sao vàng và hạ cờ quẻ Ly xuống, trong sự ngỡ ngàng của quần chúng, công chức và sinh viên tham dự. Hai ngày sau, ngày 19 tháng 8, cũng tại mặt tiền nhà hát Lớn, hàng rào cờ đỏ vây quanh vườn hoa và lần này, theo lời kêu gọi bao hàm ý hâm dọa, người biểu tình phải tự vũ trang bằng mọi phương tiện có sẵn từ dao bầu, kéo sắc, kiếm thờ, cầy, cuốc ... để biểu dương ý chí! Sự lật lộng (ngay cả bắt tay với Thực dân Pháp để tiêu diệt người Quốc gia) của Việt Minh (tiền thân đảng Cộng sản Việt nam) đã kéo dài công cuộc đấu tranh giành độc lập của dân ta và tạo nên cuộc chiến xâm lăng nối tiếp tại miền Nam Việt nam. Cuộc chiến tại miền Nam, cộng sản khai triển tối đa sách lược gây mâu thuẩn, tạo hổn loạn và lần này còn có thêm cả âm mưu đưa quân vào Việt nam của Hoa kỳ, nhằm dựng nên một bờ đê, cản làn nước lũ ý thức hệ cộng sản từ phương Bắc tràn xuống. Việt nam, tiền đồn ngăn chận cộng sản tại Đông bán cầu, thật xa xôi với nước Mỹ ở Tây bán cầu!

Thế hệ chúng tôi, đám thanh, thiếu niên của hai thập niên ấy, kẻ mới chào đời, người đang bước vào tuổi hoa niên, cũng với nhiệt tình mới lớn như các bạn hôm nay, không thể nào bịt tai trước tiếng réo gọi dị thường của núi sông. Chúng tôi đã hăng say dấn thân, theo làn sóng người tầm vong, kéo sắc, để hô to lời đuổi Thực dân, đánh Phong kiến, năm 45. Cũng đã là bọt bèo của làn sóng sinh viên, học sinh, tăng ni, thợ thuyền, lao động ... đòi quyền sống, chống độc tài, chống tham nhũng, chống bất công, chống kỳ thị tôn giáo, đòi hòa bình vv...và vv... vào những năm 63, 65, 73. Nhưng bên cạnh cái ồn ào, dấy động đó, một số lớn ý thức được "trò chơi" nguy hiểm tại thị thành trong lúc giặc cướp đanh rình rập ở ngoại biên, nên đã tự nguyện trở thành những người lính bé nhỏ trong đoàn quân chống giặc Cộng.

Ba mươi năm, 45-75, máu chảy thành sông, xương chất cao như núi ... và kẻ thủ lợi sau cùng vẫn là Việt nam Cộng Sản Đảng hay Việt cộng! Tuy nhiên, môi giới của công cuộc cướp cạn máu xương và công lao toàn dân, ngoài sách lược và nhân sự tuyên truyền của đảng cộng sản, phải kể đến những kẻ vì danh vọng, tiền bạc và bóng sắc, cam tâm làm chó săn, làm tay sai, bán đứng đồng loại và Tổ Quốc. Đây là thành phần nguy hiểm nhất vì chúng luôn ngụy trá dưới mọi lớp vỏ tình cảm và lý tưởng quốc gia -điểm yếu của tâm lý quần chúng. Chúng quanh quẩn bên ta, chúng âm thầm mai phục dưới những khẩu hiệu thanh cao và hoa mỹ nhất. Sau tháng 4 năm 1975, chiến tranh cạn dòng, rác rến lại phơi bày, khuôn mặt thật của những tên phản bội lộ ra. "Thỏ rừng đã hết thì chó săn cũng không còn", loại người này không bao giờ có thể tồn tại lâu dài dưới tập quán man rợ của người cộng sản. Đây là bài học đích đáng và quý báu cho thế hệ chúng tôi về những con người, một thời, được chúng tôi tôn xưng thần tượng, là người lãnh đạo tinh thần hay đấu tranh sáng giá, là anh hùng thật sự vì dân, vì nước!

Người bạn trẻ,

Đưa ra hai hoàn cảnh đất nước vào hai giai đoạn lịch sử khác nhau, tôi muốn trình bày chút kinh nghiệm tự thân của thế hệ chúng tôi. Một sai lầm to lớn trong công cuộc đấu tranh chống Thực dân giành độc lập, cũng như trong cuộc chiến tự tồn của nữa phần đất nước sau này, là quan niệm "minh chủ", "lãnh tụ". Phải chăng đây là mối "lưu truyền" từ bao đời trước, xuất khởi từ một giai đoạn xa xưa, thuộc thời hoàn kim của kỹ cương và đạo hạnh mà người đứng ra gánh vác chuyện sơn hà, chân thành cống hiến cả đời mình cho tha nhân, cho đồng loại? Trên một khía cạnh nhận định chủ quan, thời gian là lưu chất, là cường toan, đã soi mòn, chọc thủng quan niệm này. Với bản chất hào sản và mở rộng tâm tình, người Việt chúng ta vẫn tiếp nhận anh hùng, lãnh tụ và minh chủ một cách không đắn đo. Thêm vào đó, quan niệm "đầu gà hơn đuôi phụng" lại khơi cao ngọn lửa tham vọng trong lòng một số người không nhỏ. Lợi dụng điểm tâm lý này, Cộng Sản Việt Nam (CSVN) đã vẽ ra lắm loại anh hùng, nhiều thứ lãnh tụ để khích động. Lãnh tụ sinh viên, thợ thuyền, thần tượng tôn giáo, anh hùng ôm bom "xông vào kho xăng", kho đạn, anh hùng lao động... trong cuộc chiến 30 năm. Tất cả các loại anh hùng một thời và lãnh tụ giai đoạn này được tạo dựng chỉ với mục đích làm nỗi bật lãnh tụ độc tôn và độc nhất của CSVN: Hồ Chí Minh. Thần tượng được tạo nặn từ đất đá, cây gỗ; Nguyễn Tất Thành, một tên du thủ, du thực lang thang, thuộc được mấy lời kinh vô sản, một sớm một chiều bỗng trở nên kẻ vì nước non, dân tộc, lê gót quê người với danh xưng Nguyễn Ái Quốc, rồi Hồ Chí Minh, "cha già dân tộc"! Thậm chí, suốt đời tên này, qua mớ thơ, văn vay mượn và tự bốc rẻ tiền, chưa "sản xuất" được ý tưởng nào gọi là sạch nước cản, thế mà CSVN vẫn có thể đẻ ra nhóm từ "tư tưởng Hồ Chủ Tịch" gán ghép cho y hầu lừa bịp thiên hạ. Bạo lực mã tấu và súng đạn, đi kèm với tuyên truyền xão mị, được người cộng sản xử dụng tối đa qua "công nhiệp" củng cố uy danh "thần tượng" đỏ. Trong biến chuyển như vậy, người thanh niên thế hệ chúng tôi vẫn còn khư khư mang tiền thân chiếc phao lãnh tụ đi vào lịch sử! Nhiệt tình, tâm huyết và lòng tự phụ bị kích thích bằng ngọn lửa vô sản: "Đám con trẻ của thời đại, vừa mới chớm phải nọc duy vật, đã hăng hái bỏ hết thuần phong mỹ tục của cha, ông, tự coi mình là thần thánh. Những chuyện đau lòng: bỏ tù bố, giết anh, bỏ vợ, bỏ chồng không cùng lý tưởng để lấy đồng chí, đã xẩy ra không sao đếm xiết." (Trích Việt Nam Máu Lửa của Nghiêm Kế Tổ, trang 51) Số thanh niên mê "nhảy hòa bình" (lối khiêu vũ bần cố nông của Liên Sô sau cuộc cách mạng vô sản 1917), nghe theo tiếng gọi "góp máu" của "cha già dân tộc", đã tạo nên vết chàm nhơ bẩn và gớm ghiếc không bao giờ bôi xóa được, trên đất Bắc, trong cái gọi là "cải cách ruộng đất" và cũng chính họ, đạo quân mất nhân tính, một lần nữa, thực hiện "đúng chỉ tiêu" lời hiệu triệu thi hành "nghiã vụ quốc tế vô sản", hăng hái vượt Trường sơn, xâm lăng miền Nam. Cuộc di cư vĩ đại của 1 triệu đồng bào ta, tháng 7 năm 1954, đã chuyên chở lớp thanh niên dị ứng với sắt, máu căm thù vào Nam và nơi đây, nhập với làn sóng người cùng trang lứa, họ đấu tranh cật lực để bảo tồn phần đất còn lại chưa bị nhuộm đỏ. Nhưng hình như "oan khiên" lãnh tụ vẫn còn đeo đẳng số phận quê hương nên cán bộ cộng sản nằm vùng tại miền Nam mới có cơ hội tái tục nghề thầy pháp, kêu gọi âm binh đóng vai anh hùng, lãnh tụ. "Vua biểu tình", "lãnh tụ xuống đường", "anh hùng đốt đài phát thanh"...tất cả đã gây nên lắm cảnh tượng xáo trộn, đau lòng tại các đô thị miền Nam, được lồng dưới các chiêu bài á phiện: chống độc tài, bất công, kỳ thị tôn giáo, tranh đấu cho người nghèo... Bài học chưa ráo mực của thời 45, một số thanh niên thế hệ tôi lại sớm quên, ồn ào góp tiếng chống "nội chiến từng ngày", tự đấm ngực sỉ vả mình là "bọn lai căn", "lủ bội tình", rập khuôn với đám vẹt tuyên vận, bọn văn công nằm vùng. Làm như vậy, tưởng có thể giải quyết niềm băn khoăn của chính mình và của cả thời đại! Trong khi đó, ở ngoại biên, giặc cộng xâm lăng càng gia tăng cường độ đánh phá. Hậu quả những xáo trộn tại đô thị đã là một trong nhiều tác động nguy hại, tạo nên mối tang thương của dân tộc, ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Trong công cuộc đối đầu với Thực, Cộng tham tàn, quỷ quyệt, cũng đã không thiếu hình ảnh những con người, những phong trào thực tâm vì tiền đồ tổ quốc, dân tộc, mạnh dạn đứng lên, xã thân. Vào giai đoạn năm 45, trong Nam, được hậu thuẩn của thanh niên, các đảng phái chính trị, các tổ chức tôn giáo đã hợp nhất chống Cộng như Cao Đài, Hòa Hảo, Việt Nam Độc Lập, Phục Quốc. Ngoài Bắc, Việt Nam Quốc Dân Đảng, tháng 9 năm 1945, đã phát hành báo, tố cáo trước quần chúng bộ mặt thật của Việt cộng và tổ chức biểu tình tuần hành qua Hồ Hoàn Kiếm, qua phố chợ. Đồng Minh Hội với Việt Tam quân hăng hái đụng độ với Đệ Tứ Chiến Khu của cộng sản tại vùng Đầm Hà, Tiên Yên, Mon Cay. Người Công giáo cũng đã tổ chức hệ thống phòng ngự tự vệ, chống lại sự xâm nhập của Việt cộng tại Bùi Chu, Phát Diệm. Trước khí thế đấu tranh từ Nam ra Bắc, Việt cộng đã phải nhiều phen chùn bước. Cuộc chiến tự tồn tại miền Nam, lịch sử cũng đã ghi đậm nét những gương hy sinh vì đại nghĩa dân tộc. Bình Long, Kontum, Quảng Trị ... những địa danh ngập máu giặc cướp với bao tên tuổi anh hùng thật sự, lừng lẫy đi vào sử xanh, trong hàng ngũ Quân, Dân, Cán, Chính. Nhưng nếu tin vào sự sắp bày cay nghiệt của Thiên mệnh thì quả thật Trời cao đã không tựa lòng hảo nhân: kết quả công cuộc đấu tranh trường kỳ, gian nan của toàn dân đã bị cộng sản Việt nam cướp đoạt để rồi, chính bọn chúng đã và đang đưa đất nước trở về thời tiền sử lạc hậu, đẩy nhân dân vào cảnh nghèo đói, lầm than. Trên phương diện nhận định khách quan, tham vọng của thực dân và cộng sản, quan niệm đối đầu trực diện từ sách lược "chiến tranh nóng" đến "chiến tranh lạnh" của tư bản trước chủ nghĩa bá quyền (totalitarianism) cộng sản, đã biến đất nước chúng ta thành đấu trường và phương tiện thực hiện là những đợt cai thầu bản xứ được đánh bóng thành anh hùng, thành lãnh tụ. Hồ chí Minh và nhóm đảng viên cộng sản tiền phong ngoài Bắc, những người lãnh đạo đất nước, lãnh tụ "xuống đường" đủ loại ... trong Nam, tất cả đều là sản phẩm du nhập, được thai nghén từ các trung tâm quyền lực tại điện Cẩm Linh, tại Hoa Thịnh Đốn. Sở dĩ các sản phẩm này được tồn tại vì tình trạng chủ quan của một xã hội với trình độ dân trí ở mức phôi thai. Vừa bước chân ra khỏi ngưởng cửa phong kiến, vừa đánh vỡ được vỏ sò thực dân, người dân -đa số vốn xuất thân từ ruộng đồng-, không thể không choáng ngợp trước ánh sáng quyến rủ của hào quang Tự Do, Dân Chủ, Độc Lập và Phú Cường. Tâm trạng náo nức đón chờ luồng gió nhân bản mới, tâm lý mỏi mòn vì chiến chinh dai dẳng, cộng thêm tác động thô bạo của các hệ thống tuyên truyền tinh vi, đã là môi trường thuận tiện cho sự áp đặt đám ngụy lãnh tụ. Thế hệ chúng tôi bị du vào cơn đồng thiếp; tâm hồn, ý tưởng bị bao vây, bị xâu xé nát tan bởi quá nhiều quan niệm an bang, tái thế khác biệt. Cuối cùng, chỉ còn lại con đường dấn thân duy nhất: cầm súng chiến đấu để tự tồn. Cuộc chiến đầy lý tưởng và tình người đó đã không may đi đến cuối đường cay đắng, phản ảnh qua biến cố nát lòng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sau cuộc chiến, hậu quả không tránh khỏi là trạng thái hụt hẫng phủ vây. Khủng hoảng niềm tin và lòng đầy ngờ vực -hội chứng tất nhiên của một thế hệ tao ngộ quá nhiều cạm bẩy và lừa đảo.

Sau hào khí biểu dương chính nghĩa người Quốc gia của các bạn, sau những tín hiệu khích lệ đưa ra trong các cuộc biểu tình chống lại âm mưu của tập đoàn lãnh đạo CSVN qua vụ Trần văn Trường, một số trong các bạn đã mạnh dạn, bằng các phương tiện truyền thông, bày tỏ nhiệt tâm và hoài vọng của mình. Điều này rất tốt để tiếng nói yêu nước được lan xa, trong việc kết hợp. Cũng xin được nói lên lời hoan hô khi các bạn biểu tỏ ý chí tự lực, tự cường trong việc phủ nhận quan niệm lãnh tụ, minh chủ -một lầm lở của lớp người đi trước. Các bạn đã sáng suốt trong nhận định để không biến thành một đơn vị ngoại vi thống thuộc bất cứ một tổ chức, phong trào, mặt trận ngụy trá nào như tổ chức ngoại vi "Dân Chủ Đảng" của CSVN thời 45. Tinh thần thế hệ trẻ Việt nam hải ngoại đã được nhận diện rõ ràng. Thừa hưởng cái dũng của cha ông, các bạn đã không ngã lòng trước bạo lực của dùi cui (baton), của diễn dịch pháp lý một chiều và cùng chia xẻ niềm đau của đồng loại, cái nghiệt ngã của tiết trời, trong suốt hơn 50 ngày, đêm tham dự chống việc treo cờ máu và hình Hồ tặc. Sau biến cố Trần Trường, các bạn đã âm thầm lui vào bóng tối để chuẩn bị hành trang cho bước đường kế tiếp. Dầu đa số các bạn không ồn ào lên tiếng thừa nhận công lao (credits) nhưng dĩ nhiên, không ai có thể phủ nhận được điểm son các bạn đã ghi. Tuy nhiên, khẩu hiệu "Peace, Love and Forgiveness" và hình ảnh "phản chiến" rút ra từ tác phẩm video của Hayslip Lệ Lý (với dĩ vãng nữ du kích Việt cộng), trong đêm đốt nến 26 tháng 2 tại thị xã Westminster, đã tạo băn khoăn cho những người đang ưu tư với công cuộc đấu tranh chống tội ác cộng sản, trên bình diện chính trị và tuyên truyền. Cũng đã xãy ra triệu chứng "quá đà" trong ngôn từ của một vài cá nhân tự xưng thuộc lớp người trẻ. Lời kêu gọi "tuổi già dẹp hết đi để cho tuổi trẻ toàn quyền hành động" đã làm thất vọng bao người! Tôi không nghĩ rằng đây là lời yêu cầu chính đáng xuất phát từ nhiệt huyết của đại khối tuổi trẻ hải ngoại. Vì vậy, nhắc lại các sự kiện này, tôi chỉ mong các bạn dè dặt, đặt mối hoài nghi chính đáng (reasonable doubt) đối với con người và sự việc trên bước đường dấn thân. "Con sâu làm rầu nồi canh", những kẻ chuyên nghiệp vây máu, chia phần thường cố tạo ra nhiều sâu bọ, lắm hỏa mù, mâu thuẩn, đặc biệt là đám chuyên viên lão luyện tại Bắc bộ phủ. Lối mòn lịch sử thường được lắm kẻ dẫm lên, nhưng tôi hy vọng các bạn không gặp phải trường hợp tương tự như cha anh với những cái tên Huỳnh tấn Mẫm, Nguyễn trọng Nho, Đoàn văn Toại, Trịnh công Sơn ... của một thời kêu gào phản chiến, "make love no war". Bọn người này hoặc vì danh, vì lợi và có thể vì chút lý tưởng hảo đã biến mình thành những con rối xách động, dọn đường cho các âm mưu bóp chết miền Nam của CSVN và ngoại bang. Nơi miền đất yên hàn đầy tự do, các bạn đã, đang và sẽ có nhiều cơ hội phán đoán, lựa chọn hơn thế hệ người trước. Sự phán đoán và chọn lựa của người trí thức nhân bản với cùng đích phục vụ tha nhân, khác hơn của kẻ ngụy trí thức, ngụy quân tử mà cùng đích là danh vọng và đỉnh chung.

Truyền thống đạo đức dân tộc đặt chữ "lễ" trước tiên trong mọi hành xử ở phạm vi gia đình cũng như xã hội -"tiên học lễ, hậu học văn". Quan niệm của đa số người mình là có "học", mang trong đầu đầy ấp kinh luân, chữ nghĩa, mà không có "hạnh" cũng vứt đi. Sự kính trọng tuổi già là một trong những giá trị ngời sáng soi rọi vào đời sống tinh thần và vật chất của dân ta từ mấy nghìn năm nay. Chính giá trị nhân bản này đã tạo ra kỹ cương và an toàn xã hội mà các nước Tây phương mong muốn thực hiện; trái lại, người cộng sản lại muốn phá bỏ đi. Bởi vì, đối với cộng sản, chỉ có các lãnh tụ đỏ, hệ tư tưởng Mát xít, Lê-nin nít, Mao ít và "tư tưởng Hồ chủ tịch" (?) mới được kính ngưỡng, tôn thờ. Nhân vị không có chỗ đứng trong xã hội cộng sản; con người chỉ được lượng giá theo năng lực sản xuất và hành vi chính trị, theo định hướng vô sản. Chính vì vậy, cương thường, đạo lý đảo lộn từ khi Hồ chí Minh du nhập ý thức hệ cộng sản vào đất nước ta. Danh từ "đồng chí" nghèo nàn được xữ dụng một cách vô luân thay thế cho mọi danh xưng trong liên hệ gia đình và gia tộc! Không còn cha, mẹ, anh, em, chú bác, cô, dì ... mà chỉ "cá mè một lứa" -"đồng chí". Độc nhất một kẻ tự cho mình cái uy quyền giữ lại màu sắc bị chính chúng lên án "phong kiến", "hủ lậu" qua tiếng "bác" đặt trước họ là Hồ chí Minh - "bác Hồ"! Nhóm từ "họ nhà tôm" của người dân miền Bắc thật quá đúng để diễn tả tình trạng điên đảo luân thường này. Lịch sử oằn oại trở mình, ghi lại bi kịch con trở thành điềm chỉ viên, đấu tố cha, mẹ để mong mau chóng lột xác người. Hơn nữa thế kỹ sau, một vài người trẻ mượn diễn đàn báo chí và phát thanh tại Cali, thốt lên lời bất kính với lớp người trước, phải chăng họ đang bước vào giai đoạn lột xác? Nhưng chọn phương thức lột xác bằng cách dẫm lên truyền thống đạo đức để chứng tỏ cái tự ngã (ego) với tầm nhìn sâu rộng (vision) qua hiện tượng chối bỏ (denial) là một hành vi thụt hậu. Tôi không tin trạng thái lột xác theo kiểu này đang xảy ra, ngay cả với những cá nhân đã thốt lên lời nói gây xúc động quần chúng như vừa đề cập. Nhưng nghi vấn "họ đã nói thay, nói giùm" không thể không đặt thành! Khi tự ý bày tỏ cảm nghỉ mình trong "bức xúc" hoặc vì một áp lực khách quan, các bạn trẻ đó đã bỏ quên cái kinh nghiệm quý báu về quản trị mà đa số thường áp dụng ở học đường cũng như ngoài xã hội. Đó là phương thức "tổ-hoạt" (tạm dịch danh từ teamwork) với quan niệm kết hợp tài năng, kinh nghiệm, kiến thức và không bao giờ đặt thành giới hạn tuổi tác. Khi đưa ra lời kêu gọi "tuổi già đi chỗ khác chơi", ngoài việc tự cô lập mình với đại khối quần chúng, họ còn cố vẽ lại lằn ranh "tuổi tác" mà mấy năm trước đây, một thiểu số trong giới cựu quân nhân đã bị công luận lên án vì tiêu đề "lính già, lính trẻ". Sự chia rẽ còn được khai thác xa hơn trong ý đồ thăm dò, "nhóng thử" qua đề nghị thay Quốc kỳ, đổi Quốc ca! Nhưng tất cả âm mưu thâm độc đó đã nhận lãnh những hậu quả đích đáng và im lìm chìm vào quên lảng. Bởi vì, đồng bào chúng ta tại hải ngoại, sau bao kinh nghiệm dài thương đau trong công cuộc đối đầu với Cộng sản, đều ý thức được bất kỳ hình thức chia rẻ và mâu thuẩn nào cũng tạo nên lợi thế cho đối phương.

Nhìn lại đoạn đường đấu tranh cho đồng bào ruột thịt tại quê nhà của tập thể người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại, bên cạnh những thành công, đã không tránh khỏi những điều "trông thấy mà đau đớn lòng" gây ra bởi một số cá nhân hoặc tổ chức núp dười chiêu bài đấu tranh chống cộng để trục lợi. Họ ồn ào trương bảng, dựng cờ và đôi khi quyết liệt hơn cả người thực tâm, đưa cao tay hô to lời tố Cộng nhưng ẩn tàng sau những hành vi, ngôn từ và giọng văn ca tụng tự do, lên án tội ác là ý đồ ru ngủ tâm thức người tỵ nạn bằng con đường "giao thương" và "giao lưu văn hóa". Chính họ đã làm băng rã niềm tin, phá sản ý chí đấu tranh trong lòng một số người. Các bạn và tôi, chúng ta cũng đã chứng kiến sự ra đời cũng như chết yểu của rất nhiều đoàn thể, phong trào, mặt trận trên sân khấu chính trị của cộng đồng người Việt. Trò khỉ nhảy bàn độc, cảnh những người già "không nên nết" diễn ra thường xuyên. Xét kỹ, tất cả đều là hiện tượng nhân, quả tất nhiên phát sinh từ các vùng đất tự do. Trong khu vườn trăm hoa, bên cạnh những đóa hoa nhân bản ngát hương, không tránh khỏi sự đâm chồi của vài cánh hoa mỏm chó, dăm cụm hoa cức lợn, hoa cỏ. Dĩ nhiên, không ai mong muốn chúng góp mặt, như ông bà ta thường ví von: "Cố ý trồng hoa, hoa chẳng nở. Vô tình cắm liễu, liễu xanh um". Tuy nhiên, sự xuất hiện đông đảo tổ chức, đoàn thể, mặt trận..., trên khía đấu tranh độc lập và tự chủ, vẫn là điều tốt để tránh tình trạng "cai thầu" độc quyền mà CSVN và ngoại bang mong muốn áp đặt. Về phía các bạn, may mắn có được tự do tư duy và nhận định đòi hỏi một cân nhắc cẩn trọng trong chọn lựa. Tôi tin rằng các bạn có đủ tinh tế để không vì một vài thực tế nhiễu nhương nhất thời mà lên án và tạo rào cản bao quanh một thế hệ, nhất là từ thế hệ đó mình xuất thân và trưởng thành.

Các bạn đã tiếp tục duy trì lửa đấu tranh qua các chương trình hoạt động kế tiếp, điển hình là chiến dịch treo cờ Quốc Gia tại khu Tiểu Sài gòn, thị xã Westminster, nơi thường xuyên xảy ra tranh chấp giữa đồng bào và đám người đội lốt tỵ nạn nhưng lại làm tay sai cho giặc Cộng. Các bạn đã làm sửng sờ và tạo nhiều xúc động trong lòng người bước chân đến khu thương mãi Tiểu Sàigòn bằng lễ chào cờ hằng tuần, vào ngày thứ Bẩy, suốt thời gian tháng Tư, trước khi chia tay nhau đi công tác. Các bạn là hương hoa nhân bản đang đợi chờ và khao khát làn gió lành thổi về xoa dịu đau thương của người đồng loại trên quê hương điêu tàn.

Gần đây, theo làn sóng dấn thân của đa số các bạn, đã có những kêu gọi "bàn giao" từ thế hệ trước. Danh từ nghe thật "nổ như tạc đạn" nhưng thực tế nó trở nên vô nghĩa khi đề cập đến công cuộc đấu tranh hiện tại và mai hậu của các bạn. Thủ tục bàn giao, lần đầu tiên tôi tham dự, vào lúc còn là một Sinh Viên Sĩ Quan (cadet) sắp ra trường nhận nhiệm vụ trên các chiến trường 4 Quân khu. Chúng tôi đã bàn giao Quân kỳ của Trường lại cho Khóa kế tiếp và đây là thủ tục tượng trưng cho yêu cầu bảo vệ, gìn giữ các giá trị Truyền Thống của ngôi trường. Kiểm soát lại cá nhân tôi và "gia tài" của thế hệ mình, phải nói thẳng rằng chúng tôi không có gì để bàn giao! 24 năm của công trình đấu tranh chống CSVN tại hải ngoại, tuy thành quả có đạt nhưng nó như gió ban mai, sương buổi sớm. Nói một cách chính xác hơn, đó là kết quả của một tập hợp cố gắng gồm nhiều màu, lắm sắc và đôi khi không có sự đồng thuận nào trên phương diện quan niệm hoạt động. Nếu "bàn giao" là bàn giao kinh nghiệm thì lại càng không ổn, vì kinh nghiệm do học hỏi mà có chứ không đến từ bàn giao. Nếu "bàn giao" dùng để chỉ sự truyền chuyển các giá trị tinh thần (bao gồm phong tục, tập quán, truyền thống) của dân tộc thì gia đình là đơn vị chính yếu mở đầu. Hành trang các bạn đang mang chứa đầy nhiệt tình, tâm huyết và đã được định hướng rõ ràng. Điều, thế hệ cha anh có thể dâng tặng thêm và cá nhân tôi nghĩ các bạn đang trông chờ, là sự hướng dẫn khách quan và những bài học kinh nghiệm đắng cay. Bởi vì, trước một đối thủ có quá nhiều kinh nghiệm lật lộng, gian manh, với phương tiện tuyên truyền dồi dào như CSVN, sự độc hành có thể làm cho con đường các bạn đi dài thêm và chắc sẽ làm dài thêm nỗi chờ mong của một dân tộc đang bị nung, nướng trên lửa đỏ.

Tôi đang viết những dòng tâm tình cùng bạn vào giữa tháng Tư. 24 năm nay, hằng năm cứ vào thời gian này, lòng tôi chùn lại với bao hình ảnh thê lương cũ của ngày 30 tháng 4 năm 1975. Đất trời Việt nam ngày đó âm u, vần vũ với mưa buồn như sụt sùi nhỏ lệ khóc than cho một dân tộc bất hạnh bị đọa đày. Người lính trẻ lần đâu tiên bật tiếng khóc khi phải bắt buộc buông súng! Năm nay, cơn mưa trái mùa đầu Xuân miền Bắc Mỹ rơi nhẹ trên những cánh hoa Đào. Gió tạt, mưa sa, Đào vẫn rộ nở để đón chào mùa Xuân và lòng tôi, bên cạnh nỗi u sầu của một kiếp đời lưu lạc, vẫn cố nở nụ cười mừng nụ Đào tí hon vừa hé cánh. Bởi vì, tôi liên tưởng đến các bạn -Hoa Đào của Tin Yêu và Hy Vọng!

Phan Thiết Phạm Đình Thừa
Bắc Mỹ, ngày 20 tháng 4 năm 1999