Saturday, May 2, 2009

Hàng Tướng Dương Văn Minh - Lữ Giang

Lữ Giang

Trong các tướng lãnh tham gia chính trường tại miền Nam Việt Nam, có lẽ tướng có thân phận bi thảm nhất là Tướng Dương Văn Minh. Biết Dương Văn Minh không hiểu biết gì về chính và thủ đoạn chính trị, thường suy nghĩ và hành động theo cảm tính, lại mắc bệnh tham lam, nên Hoa Kỳ đã biến ông thành một một công cụ đầy oan nghiệt để thực hiện chính sách của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn rồi loại bỏ.

Có thể coi cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh như là một chương bi thảm trong lịch sử VNCH và cũng là một chương bi thảm trong tương quan giữa VNCH và Hoa Kỳ.

Người Việt ai cũng thuộc câu “Tri bỉ tri kỷ bách chiến bách thắng”, nhưng mặc đầu đã chiến đấu với Mỹ trong 20 năm và đã ở trên đất Mỹ 34 năm, đa số người Việt chống Cộng không biết Mỹ và địch đang làm gì, cứ suy nghĩ và hành động theo cảm tính, nên đấu tranh đã 34 năm mà vẫn chưa thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Vì thế, hôm nay nhân kỷ niệm ngày mất nước, chúng tôi xin trình bày tóm lược về một số bí ẩn và tai tiếng chung quanh cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh với ước mong mọi người có thể nhìn vào đó tìm ra bài học lịch sử khi tiếp tục đấu tranh.

VỤ BIỂN THỦ MỘT THÙNG PHUY VÀNG

Trong cuốn “Việt Nam một trời tâm sự”, Tướng Nguyễn Chánh Thi có kể lại:

Sáng ngày thứ 4, một toán thuyền và độ vài trăm người có súng đi ra với nhiều lá cờ trắng xin đầu hàng. Tiếp theo là một chiếc tàu chở ông Hồ Hữu Tường và ông Trần Văn Ân, cố vấn của Lê Văn Viễn ra điều đình. Tướng Thi kể tiếp:

“Trong toán này có Thiếu Tá Tư Nhỏ trước kia ở Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đào ngũ theo Bình Xuyên vì y là con rễ của Bảy Viễn.

“Tư Nhỏ ra đầu hàng và tình nguyện đi chỉ chỗ vàng bạc chôn giấu của Bảy Viễn. Hắn ta nói:

“- Trước đây một toán Bình Xuyên 8 người cùng chiếc du thuyền của Bảy Viễn chở 6 thùng 200 lít đựng bạc và một thùng đựng vàng, hột xoàn đem đi chôn giấu. Khi chôn xong rồi thì 8 người ấy đều bị giết ngay và lấp xuống ở gần đó.

“Khi tình hình ở đây được hoàn toàn yên ổn, tôi được quan sát tận mắt sự đào hầm giấu tiền và các bộ mặt căng thẳng của Bộ Tư Lệnh của Đại Tá Dương Văn Minh và Trung Tá Nguyễn Khánh mà đâm ra hoài nghi.

“Trung Tá Nguyễn Khánh lúc đó chơi trò “cao bồi”, hai tay cầm hai khẩu súng lục, miệng nói: Cấm không ai được đến gần đây cả!

“Tiền!” Thật là khó coi? Chán mắt!

“Tôi lạnh lùng cho chiếc tàu của tôi trở về vị trí đóng quân, trong lòng tôi suy nghĩ miên man về thái độ cử chỉ của bọn họ. Tin ít mà ngờ nhiều.” [1]

Câu chuyện về tài sản của Bình Xuyên được Tướng Thi kể lại có nhiều điểm khác với câu chuyện do Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Công An Cảnh Sát Quốc Gia, tường thuật lại dưới đây. Vì thế, một câu hỏi đã được đặt ra: Phải chăng đây là hai số tiền và vàng khác nhau? Chúng tôi tin rằng hai số tiền và vàng này chỉ là một, nhưng Tướng Thi chỉ được nghe nói hay nhìn thoáng qua nên không biết chính xác, còn Đại Tá Y là người đứng ra chỉ huy việc truy tìm số tài sản này nên câu chuyện được ông kể lại đầy đủ và chính xác hơn. Về sau, ông Diệm cũng chỉ ra lệnh điều tra về số tiền và vàng mà Đại Tá Y đã tìm được, chứ không nói gì đến số tiền và vàng mà Tướng Thi đã kể.

Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trưởng Trung Ương Tình Báo của VNCH đã tường thuật như sau:

Lúc đó ông là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chợ Lớn, chỉ huy Tiểu Đoàn 184. Vào khoảng tháng 5 năm 1955, sau khi đánh đuổi quân Bình Xuyên chạy vào Rừng Sát, ông đã thả các nhân viên Phòng 2 đi thăm dò ven rừng. Các nhân viên này thấy một người đang ngồi câu cá trên một chiếc xuồng ở một khu vắng, dáng điệu rất khả nghi, nên bắt về thẩm vấn. Sau nhiều cuộc tra hỏi, người này thú nhận anh ta là một cận vệ của Bảy Viễn, được phái ở lại giữ hai thùng phuy vàng và bạc đã phải nhận chìm xuống nước trước khi chạy trốn. Ông đã cho thợ lặn xuống tìm nhưng không thấy. Nhân viên Phòng 2 tiếp tục phỏng vấn, người này quả quyết nơi anh ta làm dấu đúng là nơi đã nhận 2 thùng phuy xuống. Thấy thái độ quả quyết của anh này, ông cho thợ lặn xuống mò một lần nữa, nhưng trong một phạm vi rộng hơn. Quả nhiên, thợ lặn đã vớt được hai thùng này cách xa nơi đánh dấu khoảng 100 thước, vì bị nước cuốn trôi đi. Đây là thứ thùng phuy đựng dầu xăng loại 200 lít.

Công cuộc kiểm tra cho thấy một thùng đựng bạc giấy, còn một thùng đựng vàng. Bạc giấy toàn là loại 500$, được gói trong những bao nilon nhỏ, có nhiều bao bị nước thấm nước. Ông bảo nhân viên đem số bạc ướt phơi khô rồi đưa tất cả đi nạp vào ngân khố. Còn thùng vàng được chở đến giao cho Đại Tá Dương Văn Minh, Quân Trấn Trưởng Sài Gòn. Tướng Nguyễn Khánh, lúc đó là Trung Tá Chỉ Huy Phó của Đại Tá Minh, cho biết số vàng này khi giao nạp đã được bỏ vào trong hai cái rương, nhưng rồi sau đó không còn nghe Dương Văn Minh nói gì về số vàng này.

Ông Diệm đã ra lệnh cho Thẩm Phán Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, và Thiếu Tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, mở cuộc điều tra vụ này.

Ông Huỳnh Văn Lang, lúc đó là Bí Thư Liên Kỳ của Đảng Cần Lao và Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái, cho biết ông Lâm Lễ Trinh đã tiết lộ rằng khi được hỏi về số vàng này, Tướng Minh đã sừng sộ và giận dữ, nói rằng ông Diệm là người bội bạc, ông đã giúp ông Diệm đánh dẹp Bình Xuyên mà còn hỏi cái gì.

Ông Lang cũng cho biết ông có được đọc bản báo cáo hai trang của Đại Tá Mai Hữu Xuân. Đại Tá Xuân chỉ xác nhận số vàng Tiểu Khu Chợ Lớn tịch thu được đã giao cho Đại Tá Dương Văn Minh cất giữ và đề nghị nên đem ra chia nhau! [2]

Ông Cao Xuân Vỹ cho biết khi ông Nguyễn Ngọc Thơ đề nghị cho Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Địch Đinh Tiên Hoàng để bắt Ba Cụt, ông Diệm đã nói với ông Nhu: “Thôi, cho nó số vàng đó đi cho yên!”

CHỨA CHẤP GIÁN ĐIỆP VIỆT CỘNG

Anh Nguyễn Tư Thái, tự là Thái Đen, Phụ Tá Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt, cho biết vào đầu năm 1960, nhân viên của Đoàn thấy một người thường lui tới nhà Dương Văn Minh, ở số 3 đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn, nhưng mỗi lần đi ra, anh ta thường nhìn trước nhìn sau rất kỹ, thấy không có gì khả nghi mới bước ra. Những người bình thường không ai làm như vậy. Một hôm, đợi anh ta ra khỏi nhà Dương Văn Minh một khoảng xa, nhân viên tình báo liền bắt đẩy anh ta lên xe và đem về thẩm vấn. Lúc đầu anh ta nói anh ta chỉ là người đến dạy học cho các con của Tướng Minh. Tuy nhiên, sau nhiều cuộc thẩm vấn khéo léo, anh ta nhìn nhận anh ta là một ủy viên của Huyện Ủy Thủ Đức, được phái đến gặp Dương Văn Minh để lấy tin tức. Anh này đã bị giam giữ luôn, nhưng Dương Văn Minh không hay biết gì cả.

Sau vụ này, Đoàn Công Tác Đặc Biệt và Tổng Nha Cảnh Sát đã bố trí thường trực chung quanh nhà Dương Văn Minh, theo dõi từng bước đi của những người ra vào nhà ông, quay phim và chụp hình. Điện thoại của nhà ông cũng bị nghe lén.

Khoảng tháng 3 năm 1960, có một người có mặt mày và hình dáng rất gióng Dương Văn Minh, đã đến ở luôn trong nhà Dương Văn Minh và mỗi lần đi đâu thường được chính Dương Văn Minh chở đi. Sưu tra hồ sơ, nhân viên tình báo biết ngay đó là Dương Văn Nhựt, em của Dương Văn Minh, có bí danh là Mười Tỵ, hiện đang là Thiếu Tá trong bộ đội miền Bắc. Vợ của Dương Văn Nhựt hiện đang sống tại Sài Gòn. Theo dõi sát, nhân viên tình báo biết được Dương Văn Nhựt đang đi vận động Phật Giáo và sinh viên chống ông Diệm.

Trong cuộc phỏng vấn ngày 16.10.2004, Đại Tá Nguyễn Văn Y cho biết khi vợ Dương Văn Nhựt có bầu gần sinh, Dương Văn Nhựt đã đưa vợ tới ở nhà của Trung Tá Dương Văn Sơn, em của Dương Văn Minh. Lúc đó Dương Văn Sơn đang làm trưởng phòng truyền tin của Biệt Khu Thủ Đô. Tướng Minh thường đến nhà Dương Văn Sơn nói chuyện với Dương Văn Nhựt. Vì thế, nhà Dương Văn Sơn cũng bị theo dõi như nhà Dương Văn Minh.

Một hôm, Tổng Thống Diệm gọi ông và bảo đem tất cả hồ sơ vụ Dương Văn Minh vào gặp ông. Có lẽ trước đó Đoàn Công Tác Đặc Biệt đã trình nội vụ cho Tổng Thống biết rồi.

Khi ông đem hồ sơ vào, Tổng Thống Diệm hỏi: “Dương Văn Minh có theo Cộng Sản không?” Rồi ông nói tiếp: “Võ Nguyên Giáp nhiều công trạng như rứa mà nay Cộng Sản chỉ mới cho lên Trung Tướng. Dương Văn Minh công trạng có bao nhiêu đâu mà nay đã lên Trung Tướng rồi, còn muốn gì nữa?”

Đại Tá Y nói ông vốn là đàn em và là người quen biết với Tướng Minh nên chưa biết phải trả lời như thế nào. Tổng Thống liền đưa cho ông cái hộp quẹt và bảo đem tất cả hồ sơ ra đốt đi. Tổng Thống nói: “Mỹ mà nó biết được Trung Tướng của mình theo Việt Cộng thì xầu hổ lắm. Đốt hết đi! Từ rày tôi không muốn nhắc tới cái vụ này nữa.”

Nhưng đốt hồ sơ rồi cũng chưa xong, nhân viên tình báo còn phải bắt Dương Văn Nhựt và dẫn ông ta ra chiến khu để ông ta đi qua Cambodia và trở về lại miền Bắc, với lời cảnh cáo: “Nếu trở lại sẽ bị thanh toán”. Câu chuyện này có lẽ Tổng Cục Phản Gián của Hà Nội không hề hay biết.

Sau đó, ông Diệm đã bảo Đại Tướng Lê Văn Tÿ, Tổng Tham Mưu Trưởng, thông báo cho Tướng Minh biết từ nay ông ta chỉ có thể xử dụng các đơn vị cấp đại đội trở xuống mà thôi. Tướng Minh biết lý do tại sao, nhưng các cố vấn Mỹ không biết chuyện gì đã xẩy ra, nên rất thắc mắc. Họ nghĩ rằng ông Diệm sợ Tướng Minh làm đảo chánh nên mới hạn chế như vậy. Ngày 18.7.1962, ông Diệm thông báo cho Tướng Harkins biết ông quyết định hủy bỏ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân của Tướng Minh vì ông ta “thiếu khả năng.” Ngày 8.12.1962 Trung Tướng Dương Văn Minh được cử làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, một chức vụ được coi như “ngồi chơi xơi nước”.

Sau này, báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật của Việt Cộng trong số ra ngày 1.9.1996, dưới đầu đề “Tướng Dương Văn Minh dưới mắt các nhà binh địch vận”, đã tường thuật lại mối quan hệ giữa Tướng Dương Văn Minh và người em là Dương Văn Nhựt như sau:

“Năm 1960, Mười Tỵ, thiếu tá thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam - được lệnh về Nam nhận công tác đặc biệt. Nhiệm vụ của ông là quan hệ, tranh thủ người anh ở bên kia chiến tuyến, đại Tướng Dương Văn Minh. Sau khi vượt Trường Sơn vào Nam, Thiếu Tá Dương Văn Nhựt, tức Mười Tỵ, đã được Ban Binh Vận Trung Ương Cục tìm mọi cách đưa vào Sài Gòn. Thông qua một người em gái, ông Mười Tỵ đã đến được và ở lại nhà của Dương Văn Minh suốt một tuần lễ. Hai anh em ở hai phía chiến trận gặp gỡ hàn huyên. Bằng tình cảm gia đình, ông Mười Tỵ thuyết phục Tướng Minh. Từ đó, ông Mười Tỵ cứ phải đi về trong “vùng địch” hoặc ra nước ngoài để tiếp xúc và gặp gỡ anh mình. Khi Dương Văn Minh lưu vong ở Thái Lan, ông Mười Tỵ cũng được bố trí sang Thái Lan qua ngã Campuchia. Ông đến Nam Vang, sống trong nhà một Hoa kiều. Tại đó, trong vòng một tháng, ông vừa học bằng sách vở, vừa thực tập giao tiếp để nói tiếng Hoa hồng để nhập vai người đi buôn. Có khi từ Nam Vang ông phải bay lòng vòng sang Ý, rồi từ Ý được cơ sở Việt kiều đón về Pháp để móc nối chị dâu (vợ của Tướng Minh) từ Thái Lan qua liên lạc”.

Bài báo viết thêm:

“Kể từ 1972, bộ đội bắt đầu mở nhiều trận đánh lớn, nên Mười Tỵ được lệnh không ra vùng địch và ra nước ngoài nữa vì “sợ rủi ro làm hỏng ý đồ chiến lược”, nên việc móc nối với Dương Văn Minh được giao cho Nguyễn Hữu Hạnh.”

BỊ BIẾN THÀNH TÊN ĐAO PHỦ CỦA MỸ

Vì không hiểu gì về thủ đoạn chính trị, Dương Văn Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành tên đao phủ thanh toán Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn rồi sau đó loại bỏ.

1. Giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu

Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm nên CIA thuyết phục ông ta làm đảo chánh lật đổ ông Diệm. Dương Văn Minh đồng ý ngay. Trên danh nghĩa, ông ta là người chỉ huy cuộc đảo chánh, nhưng bên trong CIA chỉ giao cho ông ta một nhiệm vụ duy nhất là thanh toán nhà Ngô. Còn việc lập kế hoạch và chỉ huy cuộc đảo chánh được trao cho Tướng Trần Thiện Khiêm.

Khi tiến hành cuộc đảo chánh, Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh hạ sát Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân; Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, và Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt.

Khi được ông Diệm báo tin đang ở nhà thờ cha Tam, Dương Văn Minh đã cho lập “toán hành quyết” đi đón và giết ông Diệm và ông Nhu. Toán này do Đại Tá Mai Hữu Xuân cầm đầu. Tướng Minh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung, cận vệ của mình, đi theo làm sát thủ.

Khi xác ông Diệm đưa về Tổng Tham Mưu, một quân cảnh cho biết chính mắt ông ta thấy Tướng Dương Văn Minh đã xuống lột quần ông Diệm ra xem có “chim” hay không.

Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin hai ông đã chết, ông rất xúc động và đến hỏi Dương Văn Minh:

- Tại sao hai ông ấy chết?

Ông Minh có vẽ khó chịu, trả lời bằng tiếng Pháp: Ils sont morts! Ils sont morts! (Mấy ông ấy chết rồi, thì chết rồi) [3]

2. Giết ông Ngô Đình Cẩn

Chính Tướng Nguyễn Khánh đã cho soạn thảo và ban hành Sắc Luật số 4/64 ngày 28.2.1964 thiết lập Toà Án Quân Sự đưa ra những quy định trái với nguyên tắc bất hồi tố của hình luật, và cử nhóm tay chân bộ hạ vào làm “phán quan” để tuyên án tử hình ông Cẩn. Sắc Luật lại quy định rằng các bị cáo không có quyền kháng cáo hay thượng tố. Bị cáo bị án tử hình có thể đệ đơn xin ân xá lên Quốc Trưởng trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Trong trường hợp phạm nhân bị xử tử hình đã đệ đơn ân xá, án tử hình sẽ thi hành trong hạn 5 ngày kể từ khi tuyên án, nếu trong hạn đó, đơn xin ân xá không được chấp thuận. Những sự quy định này nhắm gài Tướng Dương Văn Minh, lúc đó đang là Quốc Trưởng bù nhìn, vào cái thế phải chịu trách nhiệm giết ông Cẩn.

Mặc dầu đứng đàng sau Tướng Khánh trong vụ làm luật giết ông Cẩn và biết chắc ông Cẩn phải bị giết, Đại Sứ Cabot Lodge giả vờ đứng ra làm con thoi, đề nghị Tướng Minh ân xá cho ông Cẩn. Tướng Minh biết mình bị gài nên nói với Đại Sứ Lodge: “Khánh luôn luôm tìm cách đặt tôi vào tình trạng khó khăn (He always tries to put me in the difficult position). Tôi sẽ bị cả nước thù ghét và tố cáo nếu tôi ân xá Cẩn.” Đại Sứ Lodge nhận xét: “Rõ ràng là Khánh đang sắp xếp các sự việc để cho Minh gánh lấy tất cả trách nhiệm nếu không hành quyết Cẩn.”

Hôm 5.5.1964 Tướng Dương Văn Minh đã ký quyết định bác đơn xin ân xá của ông Cẩn và trở thành tên sát thủ ông Cẩn!

BỊ ĐƯA RA LÀM HÀNG TƯỚNG

Vào tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ thấy tình hình miền Nam Việt Nam không còn cứu vãn được, nên đã sắp xếp cho miền Nam đầu hàng Bắc Việt để tránh sự đổ máu quá nhiều. Biết Tướng Dương Văn Minh có liên lạc với Việt Cộng, Đại Sứ Martin của Mỹ đã phối hợp với Đại Sứ Merillon của Pháp thuyết phục Tướng Thiệu từ chức và lừa Tướng Dương Văn Minh ra làm hàng tướng bằng cách tạo cho ông một ảo vọng rằng chỉ có ông mới có thể nói chuyện với “phía bên kia” để hình thành một “chính phủ liên hiệp Quốc – Cộng!”

Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp, một phân tích viên của CIA ở Saigon lúc đó, nói rằng tại miền Nam lúc đó, không ai tin Hà Nội có thể chấp nhận một giải pháp khi họ đang trên đà chiến thắng. Ông Vũ Văn Mẫu cũng đã nhận ra được điều đó nên khi gặp Đại Sứ Merillon, ông đã nói với ông Đại Sứ bằng tiếng Latin rằng nếu giải pháp một chính phủ liên hiệp không thành thì xin giúp ông được ra đi.

Frank Snepp cho biết thêm:

“Khi tôi đang bận đánh máy bản báo cáo thì Polgar ở trong phòng riêng với các viên chức khác của Trạm Tình Báo (Toà Đại Sứ) thảo luận về việc chuyển giao nhanh quyền hành. Một khi Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương phải trao quyền hành ngay lập tức cho Minh “Lớn”, và Quốc Hội phải sẵn sàng chấp thuận sự chuyển giao, để sự chuyển giao đó có thể được thực hiện “một cách hợp hiến” (nhấn mạnh của Đại Sứ Martin) và “nhanh chóng”. [4]

Sau khi ép buộc Tướng Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng Thống, Mỹ thúc đẩy Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh để đầu hàng Việt Cộng, nhưng ông Trần Văn Hương không hiểu gì về tình hình lúc đó nên tìm cách cù cưa. Ông bí mật đến gặp Tướng Minh và yêu cầu Tướng Minh làm Thủ Tướng, nhưng Tướng Minh từ chối. Tuy nhiên, do sự thúc đẩy của CIA và một số nhân vật chính trị, cuối cùng ông cũng đồng ý trao quyền cho Tướng Minh với điều kiện phải có sự quyết định của Quốc Hội.

Ngày 26.4.1975 lưỡng viện Quốc Hội đã họp tại Thượng Viện dưới quyền chủ toạ của ông Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện, để đưa Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Có 136 trong số 219 nghị sĩ và dân biểu đến họp. Sau khi Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, và Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tổng Giám Đốc CSQG trình bày về tình hình, Quốc Hội bắt đầu thảo luận về việc trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh. Có rất nhiều sự bất đồng về việc trao quyền, nhiều người cho rằng sự trao quyền này là bất hợp hiến. Nhưng các nhóm vận động hậu trường đã hoạt động rất ráo riết nên cuối cùng, lúc 20 giờ 54 phút, Quốc Hội đã biểu quyết chấp thuận trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh với số phiếu 147/151.

Chiều 28.4.1975, Tướng Dương Văn Minh đã nhận chức Tổng Thống. Lễ bàn giao được diễn ra tại Phòng Khánh Tiết của Dinh Độc Lập.

Cũng trong chiều 28.4.1975, Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân, vào Dinh Hoa Lan gặp Tướng Minh cho biết tình hình và hỏi Tướng Minh có định ra đi không. Tướng Minh cho con gái là Dương Mai, con rễ là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài và hai cháu ngoại lên tàu di tản với Đô Đốc Cang, còn ông và bà Minh ở lại.

Đêm 29.4.1975, Tướng Minh vào ngủ trong Dinh Độc Lập để tránh pháo kích. Lúc đó, ông chỉ còn hy vọng Thượng Tọa Thích Trí Quang, người hứa sẽ đưa người “phía bên kia” đến thương lượng để thành lập chính phủ liên hiệp. Tướng Nguyễn Hữu Có kể lại lúc 4 giờ 35 sáng ngày 30.4.1975, Thích Trí Quang đã nói với Dương Văn Minh qua điện thoại:

“Thưa Tổng Thống, cũng như Tổng Thống là tôi vẫn chờ đến giờ nầy và theo tôi nghĩ có lẽ với tình thề hiện tại, trong sứ mạng của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chính trị, có thể nói là chấm dứt. Với trọng trách là Tổng Thống, hơn nữa là một Đại Tướng, tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của Đại Tướng, chứ giải pháp chính trị của tôi coi như chấm dứt, và từ giờ phút này nếu có chuyện gì xẩy đến thì mọi trách nhiệm đều do Tổng Thống, à quên Đại Tướng quyết định với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này Đại Tướng rất rành và giỏi hơn tôi. Xin chào Tổng Thống ...”

Dương Văn Minh chỉ trả lời gọn một câu: “Thầy giết tôi rồi!” và cúp máy điện thoại.

Lúc đó là 4 giờ 45 phút sáng.

Frank Snepp kể lại, sau đó Tướng Minh đi đi lại lại một cách bực dọc (nervously) trong dinh Độc Lập trống vắng. Đoàn sứ giả đi thương lượng ở Tân Sơn Nhứt không thấy về. Có người khuyên ông nên tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, nhưng ông không đồng ý. Ông nói rất nhiều đồng bào của ông sẽ khinh ông. (Too many of his countrymen would think ill of him). Ông muốn hoản lại chuyện này cho đến khi nội các được thành lập. Khi đó ít ra những người khác phải chia xẻ sự sỉ nhục.[5]

Lúc 8 giờ 30, ông đến Phủ Thủ Tướng thảo luận lại thành phần chính phủ của Vũ Văn Mẫu rồi quay về dinh Độc Lập làm lễ ra mắt.

Lúc 10 giờ 15 sáng ngày 30.4.1975, khi thấy không còn gì để hy vọng nữa, Dương Văn Minh lên tiếng trên đài phát thanh Sài Gòn kêu gọi quân nhân, cảnh sát và các lực lượng bán quân sự “giữ vị trí, buông súng để bàn giao chính quyền trong vòng trật tự”. Lúc 11 giờ 30, chiếc xe tăng Cộng Sản đầu tiên loại T-54 tiến trên đại lộ Thống Nhứt về phía Dinh Độc Lập, ủi sập cổng, sau khi bắn hai phát đại bác long trời lở đất. Tiếng chân chạy ồn ào trong đại sảnh, có tiếng đạn lên nòng, một khẩu lệnh vang lên: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Dương Văn Minh là người bước ra đầu tiên, Thiếu Tá tùy viên Hoa Hải Đường đi bên cạnh, phía sau là Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền... Nhiều bộ đội ở đầu kia đại sảnh hét to: “Mọi người giơ hai tay lên!”. Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và đoàn tùy tùng nhất loạt tuân lệnh.

Hai ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài phát thanh Sài Gòn để đọc lời đầu hàng. Nhưng khi hai ông vào bên trong đài phát thanh thì không còn nhân viên kỹ thuật nào ở đó để làm công việc thu băng. Sinh viên Nguyễn Hữu Thái phải mất hai tiếng mới tìm ra nhân viên kỹ thuật. Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo, ông Minh đọc và đài phát thanh phát đi vào lúc 13 giờ 30.

Tính lại, Dương Văn Minh đã làm Tổng Thống không tới 40 tiếng đồng hồ: Nhận chức vào chiều 28 tại Dinh Độc Lập đến trưa 30.4.1975 đã tuyên bố đầu hàng!

NHÌN LẠI CON NGƯỜI CỦA DƯƠNG VĂN MINH

Tướng Nguyễn Chánh Thi tiết lộ rằng khi còn ở Pháp, Tướng Dương Văn Minh có gởi cho ông một lá thư đề ngày 15.4.1987, trong đó có đoạn như sau:

"Thi,

“Được tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm.

“Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không - Pháp chẳng giúp đỡ gì - mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên.

“Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết.

“Anh em có đọc sách của anh Đỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Đỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần-lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Đỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi.

“Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Đôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra ...”

Thân phận của Tướng Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành một cái mền rách, nhưng vì quá yếu kém về chính trị, nên cho đến khi gần tới giờ về cỏi âm, ông vẫn chưa nhận ra được! Lãnh đạo mà như thế, mất miền Nam là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên.

Nhìn lại con người của Dương Văn Minh, chúng ta thấy có 3 đặc điểm sau đây:

Thứ nhất là tham nhũng và thiếu trách nhiệm:

(1) Biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bình Xuyên và một số tiền bạc thu được sau cuộc đảo chánh 1.11.1963. Cho một tay chân bộ hạ nổi tiếng tham những là Tướng Mai Hữu Xuân kiêm ba chức quan trọng cùng một lúc để truy lùng tài sản và khảo của các viên chức chế độ cũ, đó là Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo và Đô Trưởng Sài Gòn. Tướng Xuân đã nhận cả tiền của Việt Cộng để thả các cán bộ cao cấp của Việt Cộng ra.

(2) Không quan tâm đến tình hình miền Nam sau cuộc đảo chánh và có quyết định sai lầm: Ra lệnh phá hủy các ấp chiến lược đã được thiết lập để đối phó với Cộng Sản, đưa miền Nam tới bờ vực thẳm khiến Hoa Kỳ phải thực hiện “Pentagon’s coup” để lật đổ và đưa quân vào miền Nam cứu vãn tình thế.

Thứ hai là ngố:

Mặc dầu làm việc với Hoa Kỳ và hành động theo sự xúi biểu của Hoa Kỳ, ông không hiểu gì về chính sách và thủ đoạn của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn, nên đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ:

(1) Ông bị biến thành một tên sát thủ giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn thay cho người Mỹ khi Hoa Kỳ muốn thay đổi chính sách. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó ông bị Hoa Kỳ loại và đưa những tay chân bộ hạ của CIA lên cầm quyền.

(2) Khi Miền Nam sắp sụp đổ, ông bị Hoa Kỳ lường gạt bằng chiêu bài “hoà giải hoà hợp” để đưa ông ra làm Hàng Tướng!

Thứ ba là hèn:

(1) Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, cận vệ thân tín của ông, được ông phái đi giết Đại Tá Lê Văn Tung và Thiếu Tá Lê Văn Triệu, sau đó hạ sát ông Diệm và ông Nhu. Ấy thế mà sáng 30.1.1964, khi linh Nhảy Dù bắt Thiếu Tá Nhung trước mặt ông và dẫn đi, rồi tối hôm đó hạ sát, ông chẳng có một lời nào!

(2) Sáng ngày 30.4.1975, bộ chỉ huy 3 chiến thuật của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang quần thảo với Việt Cộng trước cổng Bộ Tổng Tham Mưu ở Lăng Cha Cả thì Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng. Thiếu Tá Phạm Châu Tài, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy 3 chiến thuật, đã nói chuyện với Tổng Thống Dương Văn Minh qua điện thoại:

- Tôi là chỉ huy trưởng cánh quân đang tử chiến với Việt Cộng ở Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đang cố liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu thì lệnh ngưng chiến đã ban ra và quân của Việt Cộng vẫn còn đang tiến về thủ đô. Tôi vào trong Bộ Tổng Tham Mưu thì không còn một tướng lãnh nào ở đây, họ đã bỏ chạy hết, do đó tôi muốn nói chuyện với Tổng Thống để xin quyết định.

Tổng Thống Minh trả lời:

- Các em chuẩn bị bàn giao đi.

Thiếu Tá Tài hỏi lại:

- Có phải là đầu hàng không?

Tổng Thống Minh trả lời:

- Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng của Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập.

Thiếu Tá Tài nói:

- Nếu xe tăng của Việt Cộng tiến về Dinh Độc Lập thì chúng tôi sẽ đến cứu Tổng Thống. Nếu Tổng Thống ra lệnh đầu hàng thì Tổng Thống có chịu trách nhiệm với hơn 1000 quân đang tử chiến ở Bộ Tổng Tham Mưu hay không?"

Tổng Thống Minh trả lời:

- Tùy ý các anh em.

Nói xong cúp máy!

(3) Ký giả Borries Gallasch, phóng viên tờ Der Spiegel của Đức, người ký giả ngoại quốc duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào sáng 30.4.1975, đã kể lại thái độ của Tướng Dương Văn Minh khi đối diện với các bộ đội cộng sản đến bắt ông đầu hàng như sau: Đại Tướng Dương Văn Minh im lặng. Dưới chiếc mũ cối, những người lính bộ đội nhìn ông Minh với vẻ tò mò... Cuối cùng ông Minh đã lên tiếng, hỏi một người lính: “Em trai của tôi hiện nay ra sao? Khi nào tôi có thể gặp chú ấy?”.

Làm tướng mà phải đầu hàng là nhục rồi, nhưng lại còn hèn hơn nữa khi nói mé cho những tên bộ đội nhỏ bé của Cộng quân biết rằng ông có người em theo Việt Cộng là Dương Văn Nhựt để chứng tỏ ta đây cũng thuộc “gia đình Cách Mạng”!

NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG

Ngày 8.8.1983, Dương Văn Minh, được chính quyền Hà Nội cho phép di cư sang Pháp và sống với hai người con trai là Dương Minh Đức và Dương Minh Tâm. Khoảng năm 1988, ông âm thầm qua Pasadena, Nam California, Hoa Kỳ, và sống với con gái là Dương Mai đang định cư ở đó. Trong những những ngày còn lại của cuộc đời, Tướng Dương Văn Minh phải sống trong bóng tối, không dám gặp cộng đồng người Việt tại đây.

Ngày 5.8.2001, ông bị té từ xe lăn, được đưa vào bệnh viện Huntington Memorial Hospital và qua đời ngày hôm sau, hưởng thọ 86 tuổi. Linh cữu ông cũng được phủ cờ vàng ba sọc đỏ, được di chuyển lên xe bởi 6 người thân gồm các ông Hoa Hải Đường, Nguyễn Hồng Đài, Trịnh Bá Lộc, Hoa Hải Thọ, Ngô Long và Nguyễn Trí Dũng. Sau đó, linh cửu ông đã được hoả thiêu trưa thứ bảy 18.8.2001 vào lúc 12 giờ tại vãng sanh đường Skyrose thuộc nghĩa trang Rose Hill, Nam California.

Lữ Giang
26.4.2009
Nguồn: E-Mail from HLK 2.5.09

Ghi chú:
[1] Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam: Một trời tâm sự, Xuân Thu, Hoa Kỳ 1987, tr. 27 và 28.
[2] Huỳnh Văn Lang, Nhân chứng một chế độ, Tập II, California, Hoa Kỳ, tr. 66 – 70.
[3] Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, Xuân Thu, California, Hoa Kỳ 1989, tr. 231.
[4] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 382 – 383. [5] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 540.




Âm Mưu Văn Hóa Đỏ Của cộng sản Việt Nam - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Đối với những người đã nghiên cứu qua thuyết Marx-Lênin hoặc bất cứ ai từng sống dưới chế độ cộng sản thì những âm mưu văn hóa đỏ trình bày trong bài viết nầy không có gì mới lạ. Ngược lại với giới trẻ thuộc thế hệ 1,5 và 2 lớn lên hoặc sinh trưởng ở hải ngoại, chắc chắn đây là những vấn đề chưa được nghe đến. Tôi nghĩ vậy vì gia đình nào vừa đặt chân đến vùng đất tự do, cha mẹ phải dành trọn thời giờ để làm lại cuộc đời và lo tương lai cho con cháu. Nhưng rất tiếc, một số lớn bậc phụ huynh đã lơ là bổn phận giáo dục hoặc dành rất ít thời gian để hướng dẫn thế hệ đi sau về phương diện văn hóa cũng như chính trị. Đây là bài học đau lòng mà ngày hôm nay thế hệ thứ nhất phải nhận lấy những hậu quả không mấy tốt đẹp khi một số thanh niên thuộc thành phần trẻ thế hệ 1, 5 và 2 trở lại chống đối cha mẹ mình Các bạn trẻ hải ngoại được cha mẹ, gia đình và xã hội nuông chiều trong những môi trường quá tự do, khi thành công thì quên hẳn nguồn gốc rồi tự cao tự đại, trở mặt miệt thị đấng sinh thành cũng như các bậc chú bác là thành phần ít học, sống bám vào trợ cấp, tranh đấu hung hăng, chống cộng một cách điên cuồng…làm ô danh cộng đồng và xấu hổ cho lớp trẻ !

Lý do nào đã đưa đến tình trạng nầy ? Trước khi đi vào chi tiết xin tất cả hãy ghi nhận một thực tế: Giới trẻ tại Âu-Mỹ sống dưới chế độ tự do, được hấp thụ một nền văn hóa nhân bản nhưng thành phần nầy lại ăn phải bã văn hóa đỏ của cộng sản mà vẫn không hay biết. Có thể vì giới trẻ không có nhiều thời gian để sống chung với gia đình hoặc cha mẹ quá bận rộn công ăn việc làm rồi lơ là trong vấn đề chăm sóc con cái. Đừng quên rằng, gia đình chính là môi trường cần thiết để gặp gở, tạo thông cảm, trao đổi, học hỏi và chuyện trò thân mật với nhau, giữa cha mẹ, anh em, họ hàng thân thuộc. Ngoài ra còn lý do chính cũng nên nói ra, là một số cha mẹ bị mặc cảm thua kém con cháu nên thường tránh né đề cập đến những kinh nghiệm hiểu biết của mình hoặc những suy tư thời cuộc, lý do tranh đấu và tương lai của đất nước. Chính điều nầy càng tạo thêm hoặc đào sâu những cái hố ngăn cách về quan niệm sống, tinh thần đạo lý cũng như chính trị giữa hai lớp tuổi già với trẻ hay nói đúng hơn, giữa cũ và mới.

Trường học, thư viện, hội đoàn, câu lạc bộ, các tổ chức văn hóa nghệ thuật là những môi trường hữu hiệu để đào tạo và phát triển con người nhất là giới trẻ Việt Nam ở hải ngoại. Cộng sản đã lợi dụng nơi đây để tuyên truyền, mua chuộc, biến thành lò cấy và trồng người ngắn hạn qua chương trình kiều vận của chúng. Thành phần trẻ là cái đích mà Hà Nội nhắm vào, chúng không từ một phương tiện gì, từ tình cảm, tiền bạc cho đến những hứa hẹn suông. Ngoài ra Hà nội còn xử dụng thủ đoạn hăm dọa khi một thành phần trẻ nào đó bị ‘dính chàm’ do cái bẫy giăng sẵn về tiền bạc, trai gái hoặc tội phạm. Chúng chụp ngay cơ hội để buộc con mồi phải thi hành các chỉ thị thâm độc của chúng. Cái đểu của cộng sản là lợi dụng thành phần thuộc thế hệ 1,5 và 2 hải ngoại bằng cách đánh vào tâm lý thanh niên, khơi động lòng yêu nước, nghĩa đồng bào và tinh thần hăng say phục vụ bất vụ lợi để biến thành phần nầy trở một lực lượng vừa chống lại cha ông, chú bác, anh em và cộng đồng bằng hình thức nầy hay hình thức khác. Mục đích chính của cộng sản là nhuộm đỏ những con thiêu thân trẻ nhẹ dạ ở hải ngoại để mai kia xử dụng thành phần thay thế lớp già là những người đã kiên trì chống chế độ chúng từ ba mươi bốn năm qua.

Để thực hiện mưu đồ thu gọn cộng đồng người Việt trong thời gian sắp đến, nghĩa là sau khi thế hệ thứ nhất hết khả năng tranh đấu hoặc đến tuổi phải rủ nhau về chầu ông bà, đảng cộng sản đã và đang thi hành một kế hoạch chuẩn bị đưa thành phần thuộc giới đỏ lên thay thế, lãnh đạo cộng đồng để thi hành âm mưu hòa giải hòa hợp, nghĩa là đem nguyên cộng đồng người Việt tỵ nạn dâng cho đảng. Một đội ngũ hùng hậu được tung ra, ngoài cán bộ tuyên truyền đội lốt ngoại giao, các tay nằm vùng, những văn nghệ sĩ đầu đỏ ba xu, bọn cò mồi ăn lương tháng, Hà nội còn gởi hằng trăm ngàn ‘rắn con’ là những du sinh ra nước ngoài để chiêu dụ thành phần trẻ hải ngoại nhất là sinh viên học sinh trong các trường trung cũng như đại học. Đám du sinh nầy được huấn luyện kỹ thuật tuyên truyền, nói như vẹm, miệng tráo trở như rắn và nếu cần, chúng xử dụng luôn tình cảm cá nhân để thuyết phục thành phần nai tơ hải ngoại.

Nhiệm vụ chính của đám rắn con nầy: Một, chiêu dụ lớp trẻ hải ngoại phản bội cha ông để quay về bắt tay hòa giải hòa hợp với cộng sản theo chương trình kiều vận. Hai, kiếm vợ kiếm chồng xứ ngoài, tìm nơi nương tựa cho bản thân và gia đình sau nầy, đồng thời thi hành lệnh Hà nội bằng cách cấy người, xâm nhập vào ngay trong tập thể cộng đồng người Việt tỵ nạn bằng hình thức hôn nhân. Điều nầy không lạ vì có một ít gia đình chống cộng ở hải ngoại nhưng sau ngày thành sui gia với cán bộ đỏ thì tự nhiên đổi ngay thái độ, né tránh hoặc ngang nhiên chống lại cộng đồng. Họ được ‘đổi đời’ lần thứ hai nhờ bám vào cộng sản, chỉ trong một sớm một chiều đã lên ngay chức thông gia, ngang hàng với quan quyền chế độ đỏ, đồng thời trở nên giàu có với số ‘hồi môn’ ân huệ do sui gia tặng dưới hình thức mua dâu mua rể !

Tôi không ngạc nhiên khi một số bạn trẻ hải ngoại ra mặt chống lại cha ông mình vì thành phần trẻ hải ngoại vô tình hoặc thiếu thông tin và giáo dục chính trị, nên chỉ thấy ‘cái hay cái đẹp’ của chế độ cộng sản qua xảo quyệt tuyên truyền của những tay cộng sản, để rồi ngang bướng chống lại các đấng sinh thành và miệt thị chương trình tranh đấu của cộng đồng nhằm giải thể chế độ cộng sản. Bài viết "Âm Mưu Văn Hóa Đỏ" không ngoài mục đích gởi đến giới trẻ hải ngoại thuộc thế hệ 1, 5 và 2:

Cộng sản nhân danh thành phần nông công để cướp chính quyền từ chế độ quân chủ Nga và bành trướng chủ nghĩa vô sản nhằm mưu đồ nhuộm đỏ nhân loại. Cướp được nơi nào cộng sản xóa ngay nền văn hóa truyền thống đồng thời thay thế bằng một "quái thai văn hóa", mục đích chính là gột rửa, tẩy xóa tính chất nhân bản – hay gọi là văn hóa tự do - tốt đẹp của con người. Đó chính là đường lối cai trị đất nước và phục vụ quyền lợi riêng tư của đảng cộng sản. Văn hoá vô sản chính là phương tiện nhồi sọ con người nhằm ‘thần tượng hóa đảng’ cũng như ca tụng ‘lãnh tụ đỏ’ của chúng, đồng thời đây cũng là vũ khí tinh thần để bảo vệ chế độ của chúng. Ngoài ra, văn hóa đỏ còn chủ trương ‘ngu muội hóa’ và ‘bần cùng hóa’ con người mà trong quá khứ cộng sản đã dùng tất cả phương tiện nhằm đưa cả dân tộc đến tận cùng ngu dốt và nghèo đói. Người dân dưới chế độ cộng sản, một khi đã dốt mà còn đói nữa thì chắc chắn sẽ trở thành con vật, không biết gì hơn là phải ngoan ngoãn phục tùng nhà nước để được phân phối thực phẩm Như vậy chủ trương cộng sản là dùng bao tử để trị dân, tức là hình thức khốn nạn của một giống súc vật man ri mọi rợ, xử dụng miếng ăn để sai khiến con người ! Đây chính là âm mưu đen tối, thâm độc và vô nhân đạo của chủ nghĩa cộng sản mà "văn hóa đỏ" đóng một vai trò tối quan trọng trong đời sống hằng ngày của người dân dưới chế độ của chúng.

Nhưng rồi từ chủ nghĩa cho đến các tập đoàn cầm quyền cộng sản đều bị thành phần bị trị cũng như toàn thể thế giới tự do khinh tởm, tẩy chay và hạ bệ. Liên Sô cũng như các xứ Đông Âu đã thẳng tay liệng thuyết Marx-Lenin vào sọt rác và lật đổ bọn cầm quyền qua những cuộc cách mạng xanh trong thế kỷ vừa qua. Thế giới ngày nay chỉ còn lại bốn tập đoàn lì lợm, vẫn ngoan cố dùng kẽm gai súng đạn làm phương tiện duy trì quyền lực để bảo vệ vĩnh viễn ngai vàng của chúng. Trong đó đảng cộng sản Việt Nam là tập đoàn ù lì nhất, khốn nạn nhất, tham nhũng nhất và thâm độc nhất đang dẫn đầu bọn cộng sản thế giới ! Giới trẻ cần phải ghi nhận một điều, tất cả tập đoàn cộng sản ngày nay không còn núp bóng danh từ vô sản cũng như dựa vào thành phần nông công để cai trị và vinh thân phì gia, mà chúng lợi dụng cái vỏ của đảng làm thành trì bảo vệ ngai vàng, tài sản và dòng họ của chúng. Như vậy bốn chữ "chuyên chính vô sản" đã lỗi thời, thành phần nông dân thợ thuyền ngày nay trở thành nạn nhân hàng đầu của chế độ cộng sản: Chính giới vô sản bị bọn tỷ phú đỏ bóc lột đến tận cùng xương tủy, điều nầy không lạ gì, giới thợ thuyền nông dân là thành phần lao động căn bản của xã hội nhưng lại nghèo đói nhất trong cái thiên đường cộng sản lạc hậu và khốn nạn nhất của nhân loại. Các thành phần nầy phải lệ thuộc, sống bám vào các điều kiện của nhà nước, bán mồ hôi, đổi máu để kiếm bữa cơm bữa cháo qua ngày. Vậy, tính từ giới lãnh đạo xuống đến đảng viên của Việt cộng, Tàu cộng, Hàn cộng cũng như Cuba cộng đều là những tay tỷ phú, thì những chữ "chủ nghĩa vô sản", "văn hóa vô sản" là những danh từ bịp bợm do chúng đẻ ra cũng hoàn toàn lỗi thời, cần phải đổi thành ‘tư bản đỏ’ và "văn hóa đỏ" thì đúng và chính xác.

Như đã trình bày ở phần trên, cộng sản lợi dụng giới "vô sản" để kích động, gây căm thù và xúi giục thành phần nông công đứng lên chống lại chế độ quân chủ thời đó. Nhưng trong cái vỏ ‘vô sản’ mị dân đó lại gồm có ba cái ‘vô’, chủ trương đi ngược với luân thường đạo lý con người và văn minh tiến bộ xã hội: Đó là vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo … là những âm mưu để tiêu diệt tình cảm gia đình, tình yêu tổ quốc và niềm tin tôn giáo, nhằm biến con người thành một sinh vật vô tri giác do đảng sinh ra và chỉ biết phụng sự đảng !

1. Gia đình là đơn vị căn bản và tối cần thiết để đào tạo và giáo dục con người trở thành những công dân hữu ích cho xã hội và đất nước. Một xã hội vô gia đình, theo chủ trương của cộng sản, chẳng khác gì một đơn vị sản xuất, nơi mà trẻ con sinh ra được huấn luyện để thành những cái máy nhằm để phục vụ đảng như tổ chức loài ong, loài kiến … Như vậy con người dưới xã hội chủ nghĩa đã biến thành một loại sinh vật không nguồn gốc, không tình cảm, không lý trí, suốt đời phải lao động để được phân phối khẩu phần ăn theo khả năng làm việc. Có thể nói rằng cộng sản xem gia đình như một "xưởng đẻ" nhỏ để sản xuất con người theo tiêu chuẩn và kế hoạch của nhà nước, cha mẹ chỉ có bổn phận sinh con, nuôi ăn từ lúc mới sinh đến khi biết đi biết nói. Tới tuổi cắp sách đến trường thì phải dâng con cho đảng để đảng giáo dục và huấn luyện trong các đội nhi đồng, thiếu niên cờ đỏ, đoàn thanh niên lao động. Nếu lý lịch tốt thuộc thành phần con cháu cán bộ, gia đình tử sĩ hay có công với chúng thì được cân nhắc vào đảng, bằng không, sẽ bị liệt vào hạng công dân thứ yếu, thuộc thành phần bị trị, là sâu bọ của xã hội và cuối cùng nhà nước tập trung thành một lực lượng để bán ra xứ ngoài làm nô lệ lao động và nô lệ tình dục.

Theo tinh thần của nền văn hóa nhân bản thì cha mẹ giữ một vai trò quan trọng trong việc giáo dục con cháu. Gia đình chính là lớp học đầu tiên, nơi khai trí bằng bài vở lòng ‘tiên học lễ hậu học văn’ từ lúc đứa trẻ vừa biết nói. Khi vừa đủ trí khôn con cái cũng được chính gia đình giáo dục tiếp về "công dung ngôn hạnh" và "trung hiếu lễ nghĩa" để tạo cho lớp trẻ phải biết bổn phận với quê hương tổ quốc, đạo hiếu thảo với cha mẹ, đạo xử thế với đồng bào và đạo làm người với Trời Đất. Chủ trương vô gia đình chính là mục đích mà cộng sản muốn xóa bỏ công lao sinh thành và nuôi dưởng của cha mẹ đồng nhồi sọ lớp trẻ chối bỏ trách nhiện và bổn phận đối với gia đình, quên người thân để trở thành những con thiêu thân chỉ biết tuân lệnh, phụng sự, sống và chết cho đảng. Chủ trương nầy cũng không ngoài âm mưu tách rời liên hệ máu mủ và tình cảm gia đình giữa cha mẹ anh em, vợ chồng con cái, người thân ruột thịt, để con cái sinh ra trở thành những đứa trẻ vô thừa nhận xem bậc sinh thành, người thân như kẻ thù nghịch. Như vậy có thể kết luận, con người sinh ra dưới chế độ cộng sản là những con vật do đảng sinh ra, giáo dục, kiểm soát từng cá nhân một từ tư tưởng, hành động, tình cảm cho đến cuộc sống hằng ngày như ăn ngủ, học hành, làm việc, tiếp xúc, giao tế, cưới vợ gã chồng, đau ốm, sống chết đều do nhà nước an bài.

Cộng sản thay gia đình giáo dục gì cho trẻ thơ ? Ngay từ ngày cắp sách đến trường chúng đã nhồi vào trí óc non dại những bài học nói láo rập theo lối tuyên truyền của cộng sản, phản bội bằng cách theo dõi hành động, nghe ngóng lời ăn tiếng nói của cha mẹ để báo cáo với cô giáo, thù hận đối với quân dân cán chính VNCH, chém giết những ai chống lại đảng và nhà nước và nặc mùi sắt máu phải tranh đấu đến giọt máu cuối cùng ! Chúng còn dạy cho trẻ con mới lọt lòng mẹ đã biết căm thù tư bản và chính thể Việt Nam Cộng Hòa cũ đồng thời đem già Hồ ra so sánh và bôi nhọ từ Chúa đến Phật. Tôi vắn tắt vài chuyện nhỏ để biếu cho thành phần trẻ theo cộng sản cũng như những tên chủ trương hòa giải hòa hợp với Hà nội. Đây là những chuyện thật được in ra trong các sách giáo khoa và truyện bằng hình vẽ dành cho trẻ em, ví dụ:

- Bài toán cộng trừ cho các lớp nhỏ tiểu học: Có 5 thằng ngụy đi vào làng cướp của hiếp người, quân ta anh dũng bắn hạ một lượt 4 thằng. Vậy còn mấy thằng chạy thoát ?

- Truyện bằng tranh dành cho các lớp mẫu giáo: Cô giáo đưa ra một truyện vẽ bằng bốn bức họa và giải nghĩa rằng, không có Chúa cũng không có Phật nào cả mà chỉ có bác Hồ vĩ đại của các cháu mà thôi. Chính bác Hồ đem lại cơm ăn áo mặc cho các cháu. Bây giờ các cháu nhắm mắt lại xin Chúa xin Phật cho các cháu kẹo xem thử có đứa nào cho không ? Nếu không, thì bây giờ các em nhắm mắt và xin Bác Hồ thì bác Hồ sẽ cho ngay ! Thế là kẹo bánh được liệng vào từ các cửa sổ !

- Nhồi sọ trẻ con ngay từ lúc biết đánh vần: Trong việc đánh Mỹ cứu nước, các chị nông dân miền Bắc đã dùng súng trường bắn rơi hàng ngàn chiếc máy bay thả bom B52 của Mỹ Ngụy và trẻ chăn trâu thì dùng ná cao su hạ hàng vạn máy bay lên thẳng của địch !

- Tuyên truyền láo khoét gây căm thù cho dân chúng miền Bắc: Thằng Ngô Đình Diệm kéo cái máy chém đi khắp miền Nam, hằng ngày nó đã chém đầu hàng ngàn quân dân anh hùng của chúng ta ! Bài học sau cùng nầy chúng vẫn còn đem ra giảng dạy trong thời kỳ đầu cho những người đi tù cải tạo !

Đó có phải là những bài học vở lòng rất "đạo đức" và "văn hóa" để dạy cho trẻ con tại Việt Nam ngay khi chúng vừa cắp sách đến trường ! Ngày nay, đối với thành phần ngây thơ hải ngoại thì những chuyện lố bịch nầy có lẽ cũng không thể đem ra thuyết phục, chúng đổi chiến lược bằng những trò xảo thuật kín đáo qua hình thức ca tụng công lao đảng vì dân vì nước đồng thời tráo trở, biến tên tội đồ thành cha gia dân tộc, không ngoài mục đích níu kéo lòng ngưỡng mộ của thành phần trẻ và những người nhẹ dạ, mục đích đánh lận con đen, kêu gọi bắt tay hòa giải hòa hợp và gởi tiền về xây dựng đất nước.

Không có gia đình thì không còn xã hội, ý tôi muốn nói là một xã hội có tôn tri trật tự, thấm nhuần đạo đức và mang nặng tính nhân bản. Một khi không còn gia đình và xã hội, con người sẽ mắt hẳn nguồn gốc đạo lý và căn nguyên hướng thiện mà Trời đã ban sẵn cho mỗi người khi mới lọt lòng mẹ. Cái gốc con người khi vừa sinh ra bao giờ cũng tốt, chỉ có xã hội xấu mới tạo ra con người xấu. Thử tính xem những trẻ con xuất thân trong hoàn cảnh thiếu mái ấm gia đình, không tình thương cha mẹ, không người chăm sóc dạy dỗ, thiếu giáo dục nhà trường thì đại đa số trở nên tội phạm của xã hội. Vậy gia đình là gốc của con người, là cái nôi của đạo lý và là môi trường giáo dục con người từ lúc mở mắt chào đời đến lúc trưởng thành khôn lớn. Chỉ có cộng sản mới chủ trương vô gia đình, nghĩa là diệt bỏ tình thân ruột thịt để con người không còn bận bịu tình cảm riêng tư. Điều nầy chứng minh trẻ con sinh ra dưới chế độ cộng sản không có con tim và khối óc, lớn lên thành những người mang dòng máu lạnh, sẵn sàng bán đứng cha mẹ anh chị em mình để trở nên đảng viên cuồng tín, sặc mùi tranh đấu và sẵn sàng biến thành con thiêu thân trọn đời hiến dâng cho đảng.

Trước đà tiến bộ của nhân loại cũng như sự phát triển về truyền thông, cộng sản Việt Nam không dám ngang nhiên tuyên truyền như trước kia ba cái ‘vô’ khốn nạn của chúng, nhưng chúng vẫn âm thầm tráo trở, đặt lên hàng đầu ba âm mưu diệt gia đình, tổ quốc cũng như tôn giáo trong lề lối cai trị của chúng. Hậu quả của chủ trương ‘vô gia đình’ có nghĩa là biến xã hội thành một tập thể thiếu giáo dục, do đó Việt Nam ngày nay dưới chế độ cộng sản được đánh giá bởi người ngoại quốc : Một xã hội không có tình người, không còn luân lý đạo đức.

Một xã hội chỉ biết gian manh dối trá và vật chất là cái thước để đo con người. Thậy vậy, thiên đường ngày nay dưới chế độ cộng sản là một xã hội:

- Không còn luân lý: Mất đạo đức dẫn đến tình trạng mẹ bán con đi làm điếm. Ăn thai nhi cường dương bổ thận. Những tên già lấy trẻ con đáng tuổi cháu chắt. Con gái chưa sạch mũi, cần tiền bán ngay trinh tiết. Trong gia đình không còn tôn tri trật tự, ai có tiền làm chủ. Ngoài xã hội đồng tiền cái thước, là chiếc cân để đo giá trị con người. Trường hợp điển hình, một tên tỉnh ủy thành phố Sàigòn bất lực đã dụ mua trái thận của một sinh viên nghèo và anh nầy đã chết sau khi bán gần toàn bộ trái thận của mình !

- Không có tình người: Văn hóa đỏ đã làm cho mọi người trong gia đình, láng giềng, hàng xóm nghi kỵ lẫn nhau, nhìn nhau bằng cặp mắt nghi ngờ, mở miệng ra thì sợ lở lời liên lụy đến bản thân. Bổn phận của người dân là phải báo cáo từ tư tưởng đến hành động của người thân, bạn bè, láng giềng, người làm việc cùng sở cho công an, cho chính ủy cơ quan ! Mọi người ra đường thì nhắm mắt làm ngơ vì sợ liên lụy mỗi khi bắt gặp ai bị thương vì tai nạn hoặc đau nặng vì trúng gió…

- Gian manh dối trá: Xem những tờ báo của cộng sản phát hành trong nước, ai cũng thấy trên hai phần ba tin tức đều đăng các tin ăn quỵt, cướp giựt, đâm chém, giựt vợ chém chồng xảy ra từng giây phút. Đánh nhau, gây thương tích án mạng cũng vì những chuyện nhỏ nhặt như tranh nhau một củ khoai, vài đồng bạc, bó rau, ký gạo….

- Xô bồ vật chất: Mua quan bán chức, mua bằng các cấp, mua trinh đủ loại, mua mạng người dễ dàng như đi chợ mua con gà con vịt. Tiền bạc vật chất giải quyết được tất cả mọi việc một cách hiệu quả và nhanh chóng. Muốn có tiền, với một người không còn lương tri tình cảm thì họ không bao giờ bỏ qua bất cứ hình thức tội phạm nào. Một xã hội chỉ biết tiền và tiền, đua đòi vật chất thì đồng tiền vật chất đã làm mất hẳn lý trí con người. Đây là hậu quả của âm mưu văn hóa đỏ nhằm xóa bỏ vai trò giáo dục gia đình qua chủ trương ‘vô gia đình’ của cộng sản !

- Sa đọa trầm trọng: Con người dưới xã hội chủ nghĩa hiện giờ chỉ còn hai cái quan trọng nhất : Ăn và Ôm ! Chưa có xứ nào mà tình trạng ăn uống ngoài bữa cơm gia đình ồn áo náo nhiệt như ở Việt Nam. Từ trong ngỏ hẻm ra đến đường, cảnh ăn uống tấp nập từ lúc vừa thức dậy cho đến quá khuya. Gánh hàng nhỏ lớn bày ngay giữa đường, xe đẩy chen nhau dành chỗ, người ngồi la liệt dưới đất và ăn uống một cách ngon lành, dù là trái cóc, con khô cho đến gói xôi, ly chè, tô cháo nhậu với nước lạnh pha cồn mà lúc nào cũng đát khách ! Ăn (và uống) để quên đời ! Dù kéo xe, đạp xích-lô, làm thợ vịn, bán hàng rong… ngày kiếm được vài chục ngàn (chừng 1 hay 2 US$) nhưng trước khi về nhà cũng ghé qua quán nhậu làm vài ly để quên ! Người dân lao động muốn quên đi nỗi cực nhọc thân xác, uống cho say rồi về ngủ để ngày mai tiếp tục đi cày. Giới trẻ sinh viên học sinh thì không còn hy vọng, học được ngày nào hay ngày đó, uống cho say để quên đi cái tương lai đen như mõm chó. Giới có tiền thì ngồi chật nhà hàng từ sáng đến tối, ăn trả thù đời cho những ngày đói khổ trước kia. Lúc nào còn tiền thì cứ việc hưởng thụ, không cần suy nghĩ để mặc cho đời đưa đẩy. Những con quỷ đỏ cán bộ cán bộ ăn no rững mỡ lại bị bất lực, chúng phải lùng kiếm những thứ gì cường dương bổ thận. Bất cứ con gì, củ gì giúp chuyện phòng the, dù bao nhiêu cũng ra lệnh cho đàn em cung phụng. Khốn nạn nhất là đám cán bộ nhà nước nghe theo lời mấy thằng Tàu, ăn thai nhi còn sống lấy ra từ bụng người mẹ, càng nhỏ thì kết quả càng cao ! Và cái xã hội thiếu đạo đức đã sinh nhiều cảnh đau lòng, những cô gái các bà mẹ nạo thai con mình đem bán lấy tiền !

Thú thứ hai độc đáo nhất địa cầu, cũng phát sinh ra từ dưới chế độ cộng sản nhằm giúp cho con người đi tìm cảm giác : Đó là ôm ! Việt Nam là một động ôm khổng lồ, từ Bắc kéo xuống Nam, từ hang ổ chủ tịch tới ủy ban xã, từ thành phố đến thôn quê, từ đêm đến ngày, từ trong nhà ra ngoài ngỏ, từ trên khô xuống dưới nước … với các hình thức: Café ôm, bia ôm, nhậu ôm, câu ôm, tắm ôm, chòi ôm, võng ôm, (đi) học ôm, đấm bóp ôm, hớt tóc ôm, karaôm, du lịch ôm, tham quan ôm … nhằm giải quyết thất nghiệp cho phụ nữ và thỏa mãn dục vọng cho nam giới. Văn hóa đỏ đã biến con người dưới chế độ cộng sản bại hoại tinh thần, suy nhược thể xác, con người trở thành thiêu thân, ngụp lặn trong đam mê hèn hạ, mất niềm tin để trở thành công cụ phục vụ đảng.

2. Vô tổ quốc có thể hiểu rằng dưới chế độ cộng sản không còn tổ quốc. Đảng đã thay thế vai trò tổ quốc để giáo dục và lãnh đạo con người và con người chỉ còn bổn phận độc nhất với đảng qua châm ngôn "trung với đảng hiếu với lãnh tụ". Âm mưu vô tổ quốc của cộng sản không ngoài mục đích của nhà nước là chủ trương "quản lý" cả thể xác lẫm tâm hồn người dân dưới chế độ. Chúng muốn biến tất cả từ tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc đến mồ hôi và xương máu trở thành công cụ phục vụ đảng. Cộng sản chủ trương rằng lý tưởng quốc gia phải bị tiêu diệt, người dân không có quyền yêu nước theo con tim và lý trí của mình, mà tất cả suy tư cũng như hành động đều phải được chỉ đạo và chịu kiểm soát bởi nhà nước. Đảng cộng sản Việt Nam luôn đề cao cảnh giác tinh thần yêu nước của người dân khi đưa ra chủ trương vô tổ quốc. Chúng quan niệm rằng phải tận diệt tinh thần quốc gia, lòng yêu nước chân chính để che giấu âm mưu già Hồ bán đứng người quốc gia cho phát xít Nhật và thực dân Pháp trong thế kỷ vừa qua, đồng thời đem chủ nghĩa cộng sản khốn nạn của Nga Tàu về đặt lên đầu lên cổ dân tộc Việt Nam và tình nguyện làm tôi mọi cho quan thầy đỏ Nga Tàu. Mới đây cộng sản đàn áp lòng yêu nước của người dân, nhất là thành phần trẻ khi họ đồng thanh vùng dậy xuống đường chống việc Tàu cộng xâm chiếm lãnh thổ.

Cộng sản chủ trương vô tổ quốc cũng nhằm chận đứng tinh thần yêu nước của người Việt tha phương. Chúng sợ những tổ chức yêu nước từ quốc nội ra đến xứ ngoài mở màn cho một cuộc cách mạng. Chúng sợ những cuộc nổi dậy của người dân cũng như các lực lượng quân sự từ nước ngoài xâm nhập vào. Chúng sợ những nhà tranh đấu đang xuất hiện kêu gọi lòng yêu nước của toàn dân. Chúng sợ những ngòi bút kích động lòng yêu nước, hướng dẫn dư luận và vạch trần tội ác. Chúng sợ thành phần trẻ bất mãn vì chuyện bán đất nhượng biển mà già Hồ và đảng cộng sản đã ký công hàm dâng cho Tàu cộng.

Tiếng hát "Quê hương là chùm khế ngọt" và hình ảnh "duyên dáng áo dài", là những miếng mồi chiêu dụ người Việt hải ngoại về thăm quê hương, mục đích đem tiền của về để cứu vớt chế độ đang trên đà tuột dốc kinh tế. Cộng sản đã chứng tỏ chủ trương vô tổ quốc qua vụ bán đất nhượng biển cho quan thầy Tàu cộng mà cả thế giới đều biết và gắt gao lên án. Trong nước, những ai yêu tổ quốc đều bị theo dõi, hăm dọa tù đày cũng như cuộc xuống đường nào mang tinh thần yêu nước đều bị trấp áp bằng kẽm gai, súng đạn và nhà tù. Xin nhắc nhở bạn trẻ một điều, những ai đụng đến quan thầy Tàu cộng đều phải tù tội, như vậy đối với cộng sản, tổ quốc bây giờ không còn là Việt Nam mà chính là Tàu cộng !

3. Cộng sản vô thần chúng cho rằng tôn giáo là một loại thuốc phiện mê hoặc con người. Không có Ông Bà Thần Thánh Phật Chúa mà chỉ có độc nhất đảng và lãnh tụ là thần tượng phải thờ phượng. Thực ra cộng sản rất sợ tôn giáo, vì tôn giáo không chấp nhận một xã hội vô thần và tôn giáo là thành phần đối đầu quan trọng với chủ nghĩa vô thần cộng sản. Ngoài ra, tôn giáo nào cũng được tổ chức chặt chẽ, có niềm tin, có tinh thần, có chỉ huy và tín đồ tin tuyệt đối vào đấng Thần Linh, họ sẵn sàng nghe mệnh lệnh các chủ chăn hay lãnh đạo giáo hội để bảo vệ đạo giáo. Con chiên sẽ tranh đấu đến hơi thở cuối cùng, Phật tử có thể tự thiêu vì đạo pháp, đó là mối lo sợ của cộng sản. Tôn giáo là những tập thể lớn đủ khả năng đánh bại bạo quyền cộng sản. Do đó chúng nhất quyết phải loại bỏ tôn giáo, xóa tan niềm tin người dân vào Thượng Đế vào Đức Phật. Muốn đạt được mục tiêu, trước tiên cộng sản tạo lên những thần tượng và bắt dân chúng thờ phượng thay Chúa thay Phật. Liên sô thì Staline, Tàu có Mao và Việt Nam, cộng sản phải thần tượng tội đồ dâm tặc Hồ thành kẻ yêu nước, cha già dân tộc không ngoài mục đích bắt dân chúng tôn sùng thờ phượng.

Ngày nay cộng sản không thể bưng bít, bịp bợm và tiếp tục xảo trá nhồi sọ dân chúng ba cái chủ nghĩa súc vật ‘vô gia đình, vô tôn giáo và vô tổ quốc’ nữa, chúng phải âm mưu tạo ra những trò bịp bợm có vẻ văn minh và hợp lý để lừa dân chúng đồng thời che mắt quốc tế. Mặt trận tổ quốc là một tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản, đóng vai trò thu tóm các tôn giáo, đoàn thể để kiểm soát, thao túng và chỉ đạo theo đường hướng đảng đã vạch ra: Các hội đoàn yêu nước, công giáo, phật giáo, cao đài quốc doanh là những tổ chức do các đảng viên cộng sản trá hình sáng lập và lãnh đạo để thu các tổ chức khác về một mối. Đối với bên ngoài, tôn giáo nào dưới chế độ cộng sản cũng phát triển, được tôn trọng những bên trong là những tổ chức chỉ được hoạt động theo chỉ thị của đảng và nhà nước mục đích gây xáo trộn và làm suy thoái tinh thần đạo giáo để những tổ chức nầy trở nên cộng cụ phục vụ cho nhà nước.

Gần đây trên các diễn đàn vừa xuất hiện một bài viết tuyên truyền cho cộng sản, tác giả bài viết cho rằng cộng sản Việt Nam ngày nay đã thực sự chấp nhận tôn giáo. Bằng chứng ngay tên đầu nậu đảng Lê Khả Phiêu trong nhà còn có bàn thờ Phật và luôn luôn có một ni cô (trông thật mát mắt !) luôn đi kèm bên cạnh tên dâm dục Lê Khả Phiêu ! Xin đừng ngây thơ hoặc chủ mưu tuyên truyền cho cộng sản, một khi chúng kêu Trời Đất, Chúa, Phật bằng thằng Trời, thằng Chúa, thằng Phật thì trong gia đình chúng nó cả chục bàn thờ thì cũng chỉ là hình thức đánh lận con đen ! Khu Đại Nam cách Sàigòn khoảng 40 cây số (cách thị xã Thủ Dầu Một 5 cây số) là một vùng lâu đài cộng sản cho xây trên một diện tích 450 ha, vĩ đại như cung vua chúa bên Tàu ngày xưa, trong đó, ngay chánh điện có tượng Đức Phật và chúng đã ngang nhiên đặt thêm tượng già Hồ khốn nạn để cho dân chúng đến thắp hương vái lạy ! Thật ra đó chính là cung điện để tưởng niệm già Hồ (như lăng Ba Đình ở Hà nội) nhưng bọn cộng sản chưa dám nêu đích danh mà phải núp bóng Phật để tráo trở bán vé cho khách vào vái lạy. Chúng tạm thời phải mượn danh Phật giáo lừa gạt dân chúng xem như đây là ngôi chùa lớn nhất Việt Nam với lối kiến trúc phí tổn hàng trăm tỷ đồng. Nếu các vị trong hàng giáo phẩm công giáo Việt Nam không khôn khéo thì mai đây đám quốc doanh cũng sẽ đem già Hồ vào trong các nhà thờ để dân chúng đến đọc kinh cầu nguyện hằng ngày !

Xin đừng nhìn một cách hời hợt trước những trò giả tạo như tổ chức ngày lễ Vua Hùng, lễ Hội dân tộc, Thi Hoa Hậu trong nước hoặc các chương trình văn hóa cổ truyền do các đoàn văn công Việt Cộng trình diễn ở xứ ngoài. Đây là hình thức mà chế độ cộng sản dùng để che đậy âm mưu tội đồ của chúng trước sự tồn vong của dân tộc và đất nước mà quan trọng, tôi xin nhấn mạnh, thật quan trọng là việc suy đồi văn hoá.

Tóm lại, cộng sản thường vỗ ngực tuyên truyền rằng nhờ văn hóa đỏ mà Việt Nam trở thành trung tâm ‘đỉnh cao trí tuệ loài người’ và ‘chiếc nôi của nhân loại’. Nhưng thực ra chúng đã đem lại gì cho quê hương tổ quốc sau trên 60 năm cai trị ? Về phương diện văn hóa thì, luân lý đảo lộn, thú (Việt cộng) lên làm người và người (dân miền Nam) trở xuống thú, xã hội xô bồ, trộm cắp, cướp giật, đĩ điếm, tình người biến mất. Tính mạng con người không đáng vài xu, anh em giết nhau vì vài đồng bạc, cha mẹ bán con vì củ khoai ký gạo. Cái thâm độc của cộng sản là đã biến xã hội thành thiên đường của ăn chơi đàng điếm để hủy hoại tinh thần đạo đức, tình người cao thượng của dân tộc Việt Nam. Dưới chế độ cộng sản hiện giờ, muốn sống còn thì phải biết lừa thầy phản bạn, dối gạt cha mẹ anh em, lừa lọc bạn bè hàng xóm. Những gì đã và đang xảy ta dưới xã hội chủ nghĩa của cộng sản Việt Nam cho thấy đạo đức và tình người đã khoát áo ra đi nhường chỗ gian manh tội ác ngự trị.

Ngoài ba triệu đảng viên và thành phần đỏ vinh thân phì gia nhờ bám vào chế độ cộng sản, còn lại vẫn còn trên một nửa dân số sống trong nghèo đói thiếu ăn thiếu mặc, con cái không được học hành và đau ốm thiếu nơi chăm sóc chữa trị. Đừng nhìn những kiến trúc vật chất dành cho thành phần tỷ phú đỏ và người nước ngoài, lối sống phô trương chụp giựt của kẻ ‘đổi đời’ học làm sang mà cần nhìn vào thực trạng xã hội, cần suy nghĩ để thấy rằng ở Việt Nam hiện giờ vẫn còn hàng triệu người lương thiện phải đi ăn xin, lượm rác để sống, hàng trăm ngàn thanh niên thiếu nữ phải ra nước ngoài làm nô lệ hoặc chấp nhận bán mình làm điếm khắp năm châu. Trên địa cầu nầy, dù những nơi chậm tiến, thiếu văn minh nhưng vẫn không đến nỗi tồi tệ như thiên đường cộng sản Việt Nam hiện nay.
Tài sản vật chất của quê hương tổ quốc bị tàn phá hoặc mất mát thì có thể sửa chữa và xây dựng lại trong vòng vài năm, vài chục năm. Nhưng một khi văn hóa và đạo lý con người hoàn toàn suy sụp thì phải tính từ thế hệ nầy qua thế hệ khác và mất hằng thế kỷ mới có thể phục hồi lại nguyên vẹn. Đó là cái tột lớn đối với tổ quốc và dân tộc Việt Nam mà đảng cộng sản đã gây ra. Sử sách sẽ ghi lại, nghìn đời để cho hậu thế phán xét.

Đinh Lâm Thanh
Paris, 15.02.2009



Chăn Gối Với Kẻ Thù - Huong Giang Nguyen

James Webb
chuyển ngữ
May/June 1997

Biết giải thích như thế nào với những đứa con của tôi rằng khi tôi mười mấy, đôi mươi, những tiếng nói ồn ào nhất của những người cùng thời lại nhằm mục đích phá nát những nền tảng của xã hội Hoa Kỳ, để xây dựng lại một xã hội dựa theo quan điểm đầy tự mãn của họ. Giờ đây nhìn lại, ngay cả chúng ta, những người đã trải qua giai đoạn này, cũng không hiểu được tại sao lại có những kẻ với trình độ học vấn cao, đa số sinh ra từ gia đình thượng lưu, lại có thể gieo rắc những tư tưởng phá hoại làm nhiễm độc bầu không khí của thập niên 1960 và những năm đầu của thập niên 1970. Ngay cả Quốc Hội cũng bị nhiễm những con vi khuẩn nầy.

Sau khi tổng thống Nixon từ chức vào tháng Tám 1974, cuộc bầu cử mùa thu năm ấy mang lại 76 tân dân biểu thuộc đảng Dân Chủ và 8 thượng nghị sĩ. Đại đa số những dân cử chân ướt chân ráo này đã tranh cử dựa trên cương lĩnh của Mc Govern. Nhiều người trong số họ được xem như những ứng viên yếu kém trước khi Nixon từ chức, vài người không xứng đáng thấy rõ, chẳng hạn như Tom Downey, 26 tuổi, thuộc New York, người chưa từng có một nghề ngỗng gì và vẫn còn ở nhà với mẹ.

Cái gọi là Quốc Hội hậu Watergate nầy diễu hành vào thành phố với một sứ mệnh vô cùng quan trọng mà sau này trở thành điểm tập hợp cho cánh Tả của Hoa Kỳ: chấm dứt sự giúp đỡ của nước Mỹ dưới bất kỳ hình thức nào cho chính quyền đang bị vây khốn Nam Việt Nam. Không nên lầm lẫn ở chỗ này – đây không phải là sự kêu gào thanh niên Mỹ đừng đi vào cõi chết của những năm trước đây. Những người lính Mỹ cuối cùng đã rời Việt Nam hai năm trước rồi, và đã tròn bốn năm không có một người Mỹ nào bị tử trận.

Bởi những lý do mà không một viện dẫn lịch sử nào có thể bào chữa được, ngay cả sau khi quân đội Mỹ triệt thoái, cánh Tả vẫn tiếp tục những cố gắng để đánh gục nền dân chủ còn phôi thai của Nam Việt Nam. Phụ tá sau này của Nhà Trắng Harold Ickes và nhiều người khác trong “Chiến Dịch Kiểm Soát Tài Chính” – có một lúc được giúp đỡ bởi một người tuổi trẻ nhiều tham vọng Bill Clinton – làm việc để cắt toàn bộ những khoản tài trợ của Quốc Hội nhằm giúp miền Nam Việt Nam tự bảo vệ. Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, điều hành bởi David Dellinger và được quảng bá bởi Jane Fonda và Tom Hayden, phối hợp chặt chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và 1974, đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại điều được cho là những con ác quỷ trong chính quyền miền Nam Việt Nam. Những đồng minh của họ trong Quốc Hội liên tục thêm vào những tu chính án để chấm dứt sự viện trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam chống cộng, ngăn cấm cả đến việc sử dụng không lực để giúp những chiến binh Nam Việt Nam đang bị tấn công bởi các đơn vị Bắc Việt được khối Sô Viết yểm trợ.

Rồi đến đầu năm 1975 Quốc Hội Watergate giáng một đơn chí tử xuống các nước Đông Dương không cộng sản. Tân Quốc Hội lạnh như băng từ chối lời yêu cầu gia tăng quân viện cho Việt Nam và Cam Bốt của tổng thống Gerald Ford. Ngân khoản dành riêng này sẽ cung cấp cho quân đội Cam Bốt và Nam Việt Nam đạn dược, phụ tùng thay thế, và vũ khí chiến thuật cần thiết để tiếp tục cuộc chiến tự vệ. Bất chấp sự kiện là Hiệp Định Paris 1973 đặc biệt đòi hỏi phải cung cấp “viện trợ để thay thế trang thiết bị quân sự vô giới hạn” cho Nam Việt Nam, đến tháng Ba phe Dân Chủ trong Quốc Hội biểu quyết với tỷ số áp đảo, 189-49, chống lại bất kỳ viện trợ quân sự bổ sung cho Việt Nam và Cam Bốt.

Trong các cuộc tranh luận, luận điệu của phe Tả phản chiến gồm toàn những lời lên án các đồng minh đang bị chiến tranh tàn phá của Hoa Kỳ. Và đầy những hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp cho các quốc gia nầy dưới sự cai trị của chế độ Cộng Sản. Rồi dân biểu Christopher Dodd , tiêu biểu cho sự ngây thơ hết thuốc chữa của các đồng viện, lên giọng đầy điệu bộ
“gọi chế độ Lon Nol là đồng minh là làm nhục chữ nghĩa…Tặng vật lớn nhất mà đất nước chúng ta có thể trao cho nhân dân Cam Bốt là hòa bình, không phải súng. Và cách tốt nhất để đạt được mục đích này là chấm dứt viện trợ quân sự ngay lập tức.”
Sau khi trở thành chuyên gia đối ngoại trong vòng chỉ có hai tháng kể từ lúc thôi bú mẹ, Tom Downey chế diễu những cảnh cáo về tội ác diệt chủng sắp sửa xảy ra ở Cam Bốt, cái tội ác đã giết hơn một phần ba dân số của quốc gia này, như sau, “chính phủ cảnh cáo rằng nếu chúng ta rời bỏ các quốc gia ấy thì sẽ có tắm máu. Nhưng những cảnh cáo cho việc tắm máu trong tương lai không thể biện minh cho việc kéo dài việc tắm máu hiện nay.”

Trên chiến trường Việt Nam việc chấm dứt viện trợ quân trang, quân cụ là một tin làm kinh ngạc và bất ngờ. Các cấp chỉ huy quân đội của miền Nam Việt Nam đã được đảm bảo về việc viện trợ trang thiết bị khi người Mỹ rút quân – tương tự như những viện trợ Hoa Kỳ vẫn dành cho Nam Hàn và Tây Đức – và đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ tái oanh tạc nếu miền Bắc tấn công miền Nam, vi phạm hiệp định Paris 1973. Bây giờ thì họ đang mở mắt trừng trừng nhìn vào một tương lai bất định khủng khiếp, trong lúc khối Sô Viết vẫn tiếp tục yểm trợ cho Cộng Sản Bắc Việt.

Trong lúc quân đội Nam Việt Nam, vừa choáng váng vừa mất tinh thần, tìm cách điều chỉnh lại lực lượng để đối phó với những thiếu thốn trang thiết bị cần thiết, quân miền Bắc được tái trang bị đầy đủ lập tức phát động ra cuộc tổng tiến công. Bắt giữ được nhiều đơn vị bị cô lập, quân miền Bắc tràn xuống vùng đồng bằng trong vòng có 55 ngày. Những năm về sau tôi phỏng vấn các người lính miền Nam Việt Nam còn sống sót trong các cuộc giao tranh, nhiều người trải qua hơn chục năm trong các trại tập trung của cộng sản sau khi cuộc chiến chấm dứt. Điệp khúc này không bao giờ chấm dứt:
“Tôi không còn đạn dược.” “Tôi chỉ còn 3 quả đạn pháo cho mỗi khẩu một ngày.” “Tôi không còn gì để phát cho binh sĩ của tôi.” “ Tôi phải tắt máy truyền tin, bởi vì tôi không thể nào chịu đựng được nữa những lời kêu gọi xin tiếp viện.”

Phản ứng của Hoa Kỳ trước sự sụp đổ này cho thấy có hai nhóm khác nhau, và điều này vẫn còn tiếp tục được thấy rõ trong nhiều vấn để chúng ta đang đương đầu ngày nay. Đối với những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam, và đối với gia đình, bạn bè, và những người cùng quan điểm chính trị với họ, đây là là một tháng đen tối và tuyệt vọng. Những khuôn mặt mà chúng ta thấy đang chạy trốn sự tấn công của Bắc Quân là những khuôn mặt rất thật và quen thuộc, không phải đơn thuần là những hình ảnh truyền hình. Những thân người xoay trong không gian như những bông tuyết, rơi xuống chết thảm khốc sau khi đeo bám tuyệt vọng vào thân trực thăng hay phi cơ, có thể là những người chúng ta quen biết hoặc từng giúp đỡ. Ngay cả đối với những kẻ không còn niềm tin vào khả năng đánh bại Cộng Sản, đây không phải là cách để chấm dứt cuộc chiến.

Đối với những kẻ từng trốn tránh cuộc chiến và lớn lên tin rằng đất nước chúng ta là quỷ dữ, và ngay cả khi họ thơ mộng hoá những ý định của người cộng sản, những tuần lễ sau cùng này đã chối bỏ trách nhiệm của mình trong sự sụp đổ này bằng những phê phán quân đội Nam Việt Nam đầy tính sa lông, hay là công khai reo mừng. Ở trung tâm Luật Khoa của đại học Georgetown nơi tôi đang theo học, việc Bắc Việt trắng trợn ném bỏ các điều cam kết về hòa bình và bầu cử trong hiệp định Paris 1973, và tiếng xe tăng của Bắc Quân trên đường phố Sài Gòn được xem như là một cái cớ để thực sự ăn mừng.

Sự chối bỏ trách nhiệm vẫn còn tràn lan trong năm 1997, nhưng thực ra cái kết cuộc này chính là mục tiêu của những cố gắng không ngừng nghỉ của phong trào phản chiến trong những năm theo sau sự rút quân của Mỹ. George McGovern, thẳng thắn hơn nhiều người, công khai tuyên bố với người viết trong lúc nghỉ khi thâu hình cho chương trình “Crossfire” của CNN vào năm 1995. Sau khi tôi đã lý luận rằng cuộc chiến rõ ràng là có thể thắng được ngay cả vào giai đoạn cuối nếu chúng ta thay đổi chiến lược của mình, ứng cử viên tổng thống năm 1972, người tình nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, bình luận, “Anh không hiểu là tôi không muốn chúng ta chiến thắng cuộc chiến đó sao?” Ông McGovern không chỉ có một mình. Ông ta là phần tử của một nhóm nhỏ nhưng vô cũng có ảnh hưởng. Sau cùng họ đã đạt được điều họ muốn.

Có lẽ không còn minh chứng nào lớn hơn cho không khí hân hoan chung quanh chiến thắng của Cộng Sản là giải thưởng điện ảnh năm 1975, được tổ chức vào ngày 8 tháng 4, ba tuần trước khi miền Nam sụp đổ. Giải phim tài liệu hay nhất được trao cho phim Hearts and Minds, một phim tuyên truyền độc ác tấn công những giá trị văn hóa Hoa Kỳ cũng như những cố gắng của chúng ta để hỗ trợ cho sự chiến đấu cho nền dân chủ của miền Nam Việt Nam. Các nhà sản xuất Peter Davis và Bert Schneider (người thủ diễn một vai trong câu chuyện của david Horowitz) cùng nhau nhận giải Oscar. Schneider thẳng thừng trong việc công nhận sự ủng hộ những người Cộng Sản của mình. Đứng trước máy vi âm ông ta nói
”Thật là ngược đời khi chúng ta đang ở đây, vào thời điểm mà Việt Nam sắp được giải phóng.”
Rồi giây phút đáng kinh ngạc nhất của Hollywood xảy ra – dù giờ đây đã được cố tình quên đi-. Trong lúc quốc gia Việt Nam, mà nhiều người Mỹ đã đổ máu và nước mắt để bảo vệ, đang tan biến dưới bánh xích của xe tăng, Schneider lôi ra một điện tín được gởi từ kẻ thù của chúng ta, đoàn đại biểu Cộng Sản Việt Nam ở Paris, và đọc to lên lời chúc mừng cho phim của mình. Không một phút giây do dự, những kẻ nhiều quyền lực nhất của Hollywood đứng dậy hoan nghênh việc Schneider đọc bức điện tín này.

Chúng ta, những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam hoặc là những người ủng hộ những cố gắng ở đó, nhìn lại cái khoảnh khắc này của năm 1975 với sự sửng sốt không nguôi và không bao giờ quên được. Họ là ai mà cuồng nhiệt đến thế để đầu độc cái nhìn của thế giới về chúng ta? Sao họ lại có thể chống lại chính những người đồng hương của mình một cách dữ tợn đến thế? Sao họ có thể đứng dậy để hoan nghênh chiến thắng của kẻ thù Cộng Sản, kẻ đã làm thiệt mạng 58000 người Mỹ và đè bẹp một đồng minh chủ trương ủng hộ dân chủ? Làm sao có thể nói rằng chúng ta và họ đang sống trong cùng một đất nước?

Từ lúc ấy đến nay, không một lời nào của Hollywood nói về số phận của những con người biến mất sau bức màn tre của Việt Nam. Không ai đề cập đến những trại tập trung cải tạo mà hàng triệu chiến binh miền Nam Việt Nam đã bị giam giữ, 56000 người thiệt mạng, 250000 bị giam hơn 6 năm, nhiều người bị giam đến 18 năm. Không người nào chỉ trích việc cưỡng bách di dân, tham nhũng, hay là chế độ công an trị mà hiện vẫn còn đang tiếp diễn. Thêm vào đó, ngoại trừ phim Hamburger Hill có ý tốt nhưng kém về nghệ thuật, người ta chỉ hoài công nếu muốn tìm một phim thuộc loại có tầm vóc diễn tả các chiến binh Hoa Kỳ ở Việt Nam với đầy đủ danh dự và trong những khung cảnh có thật.

Tại sao?

Bởi vì cộng đồng làm phim, cũng như những kẻ thuộc loại đỉnh cao trí tuệ trong xã hội, chưa bao giờ yêu thương, kính phục, hay ngay cả thông cảm với những con người đã nghe theo tiếng gọi của đất nước, lên đường phục vụ. Và vào lúc mà một cuộc chiến âm thầm nhưng không ngừng nghỉ đang diễn ra về việc lịch sử sẽ ghi nhớ đất nước chúng ta tham dự ở Việt Nam như thế nào, những kẻ chế diễu chính sách của chính quyền, trốn lính, và tích cực ủng hộ kẻ thù, cái kẻ thù mà sau cùng trở nên tàn độc và thối nát, không muốn được nhớ đến như là những kẻ quá đỗi ngây thơ và lầm lẫn.

Giữa những người dân Mỹ bình thường, thái độ của họ trong khoảng thời gian rối ren nầy lành mạnh hơn nhiều. Đằng sau những tin tức bị thanh lọc và những bóp méo về Việt Nam, thực tế là những công dân của chúng ta đồng ý với chúng ta , những người đang chiến đấu, hơn là với những kẻ làm suy yếu cuộc chiến đấu này. Khá thú vị là điều nầy đặc biệt đúng với tuổi trẻ Mỹ, mà giờ đây vẫn còn được mô tả như là thành phần nổi loạn chống chiến tranh.

Như được tường trình lại trong bài Ý Kiến Quần Chúng, những kết quả thăm dò của Gallup từ năm 1966 cho đến khi Hoa Kỳ chấm dứt sự tham dự cho thấy tuổi trẻ Mỹ thực ra ủng hộ cuộc chiến Việt Nam lâu bền hơn bất cứ lứa tuổi khác. Ngay cả cho đến tháng 1 năm 1973, khi 68 phần trăm dân Mỹ trên 50 tuổi tin rằng chuyện gởi quân sang Việt Nam là một sai lầm, chỉ có 49 phần trăm những người tuổi từ 25 đến 29 đồng ý. Những phát hiện nầy cho thấy giới trẻ nói chung rõ ràng là không cực đoan, điều này đã được củng cố thêm bằng kết quả bầu cử năm 1972 – trong đó lứa tuổi từ 18 đến 29 ưa thích Richard Nixon hơn là George McGovern bằng tỷ lệ 52 so với 46 phần trăm.

Tương tự như vậy, mặc dù trong quá khứ những người chống đối này, mà ngày nay đang thống lĩnh giới báo chí và giới khoa bảng, đã khăng khăng nói ngược với thực tế, sự xâm nhập vào Cam Bốt năm 1970 đã được ủng hộ quần chúng mạnh mẽ. – Sự xâm nhập này đã gây ra sự phản đối rộng khắp ở các sân trường đại học, kể cả một vụ xung đột làm cho bốn người chết ở Kent State University. Theo những kết quả thăm dò dư luận của Harris gần 6 phần 10 dân Mỹ tin rằng sự xâm nhập vào Cam Bốt là đúng đắn. Đa số được hỏi ý kiến, trong cùng bản thăm dò này vào tháng 5 năm 1970, ủng hộ tái oanh tạc miền Bắc, một thái độ cho thấy sự bác bỏ hoàn toàn phong trào phản chiến.

Các cựu chiến binh Việt Nam, dù bị bôi bẩn thường xuyên trên phim ảnh, trong các bản tin, và trong các lớp học, như là những chiến binh miễn cưỡng và thất bại, vẫn được những người dân Mỹ bình thường tôn trọng. Trong một nghiên cứu toàn diện nhất từ trước đến giờ về những cựu chiến binh Việt Nam (Harris Survey, 1980, ủy quyền bởi Veterans Administration) , 73 phần trăm công chúng và 89 phần trăm cựu chiến binh Việt Nam đồng ý với câu phát biểu “Vấn đề rắc rối ở Việt Nam là quân đội chúng ta được yêu cầu chiến đấu trong một cuộc chiến mà các lãnh tụ chính trị ở Washington không để cho họ được phép chiến thắng”, 70 phần trăm những người từng chiến đấu ở Việt Nam không đồng ý với câu phát biểu “Những gì chúng ta gây ra cho nhân dân Việt Nam thật đáng xấu hổ.” Trọn 91 phần trăm những người đã từng phục vụ chiến đấu ở Việt Nam nói rằng họ hãnh diện đã phục vụ đất nước, và 74 phần trăm nói rằng họ thấy thoải mái với thời gian trong quân đội. Hơn nữa, 71 phần trăm những người phát biểu ý kiến cho thấy họ sẵn sàng chiến đấu ở Việt Nam một lần nữa , ngay cả nếu biết rằng cái kết quả chung cuộc vẫn như thế và sự giễu cợt sẽ đổ lên đầu họ khi họ trở về.

Bản thăm dò này còn có cái gọi là “nhiệt kế đo cảm giác,” để đo lường thái độ của công chúng đối với những nhóm người khác nhau, với thang điếm từ 1 đến 10. Cựu chiến binh từng phục vụ ở Việt Nam được chấm điểm 9.8 trên thang điểm này. Bác sĩ được 7.9, phóng viên truyền hình 6.1, chính trị gia 5.2, những người biểu tình chống chiến tranh 5.0, kẻ trốn quân dịch và chạy sang Canada được cho 3.3.

Trái ngược với những câu chuyện huyền thoại được dai dẳng phổ biến, hai phần ba những người phục vụ ở Việt Nam là quân tình nguyện chứ không phải bị động viên, và 77 phần trăm những người tử trận là quân tình nguyện. Trong số những người tử trận:86 phần trăm là da trắng,12.5 phần trăm người Mỹ gốc Phi Châu và 1.2 phần trăm thuộc các chủng tộc khác. Những cáo buộc rất phổ biến như là chỉ có dân thuộc các nhóm thiểu số và người nghèo được giao cho những công tác khó khăn trong quân đội khi ở Việt Nam là điều sai lạc. Sự bất quân bình trong cuộc chiến, thực ra chỉ đơn giản là do những thành phần đặc quyền đặc lợi trốn tránh trách nhiệm của mình, và chính những người này kể từ thời gian ấy đã kiên trì bôi bẩn những kinh nghiệm về cuộc chiến để nhằm tự bào chữa cho chính mình, phòng khi sau này bị lịch sử phán xét.

James Webb, cựu tiểu đoàn trưởng TQLC ở Việt Nam, cựu Bộ Trưởng Hải Quân, hiện là Thượng Nghị Sĩ của tiểu bang Virginia

Thế còn những kẻ không những đã hiểu sai ý nghĩa một cuộc chiến, mà còn không hiểu nổi dân tộc của mình, những kẻ thuộc thành phần tinh hoa của xã hội đó bây giờ ra sao? Bây giờ họ đang ở đâu nếu không phải ở trong tòa Bạch Ốc? Trên vấn đề lịch sử quan yếu này, cái vấn đề đã xác định thế hệ của chúng ta, họ dấu mình thật kín. Họ nên dấu mình như thế.

Đối với những kẻ đã đem cuộc hành trình tuổi trẻ đánh bạc trên cái ý tưởng rằng tổ quốc mình là một lực lượng ác quỷ, sau khi nhận ra sự ngây thơ của mình trong những năm sau năm 1975, chắc họ phải có một cảm giác rất kinh khủng. Thật là sáng mắt sáng lòng cho những kẻ đã tỉnh thức, đã tự vượt qua được phản ứng chối tội, để chứng kiến cảnh tượng hàng trăm ngàn người dân miền Nam Việt Nam chạy trốn “ ngọn lửa tinh nguyên của cách mạng “ trên những con tàu ọp ẹp, sự chạy trốn mà chắc chắn 50 phần trăm sẽ vùi thây ngoài biển, hoặc là nhìn thấy những hình ảnh truyền hình của hàng ngàn chiếc sọ người Cam Bốt nằm lăn lóc trên những cánh đồng hoang, một phần nhỏ của hàng triệu người bị giết bởi những người Cộng Sản “giải phóng quân.”

Thực vậy, chúng ta hãy thẳng thắn nhìn nhận. Thật đáng tủi nhục biết bao khi nhìn vào khuôn mặt của một thương binh, hay là nghe diễn từ tốt nghiệp của một học sinh thủ khoa người Mỹ gốc Việt Nam, mà người cha quá cố của em đã chiến đấu bên cạnh những người Mỹ, cho một lý tưởng mà bọn họ công khai mỉa mai, chế diễu, và xem thường. Và thật là một điều đáng xấu hổ khi chúng ta có một hệ thống chính quyền đã để cho em học sinh đó thành công nhanh chóng ở đây, mà lại không thực hiện được một hệ thống như vậy ở quê hương của em.

Nguồn: (1) Sleeping With the Enemy. By James Webb, 30 April 2003

SLEEPING WITH THE ENEMY
(Somethings never change)
The American Enterprise
May/June 1997
James Webb
Posted on Monday, April 07, 2003 9:43:16 AM by Valin

Anti-war protesters boast that there will be "no business as usual" until the war in Iraq ends. In Washington, San Francisco, and New York, peace activists have taken to the streets to block traffic, burn the President in effigy, and vomit on the steps of federal buildings. These activists represent a variety of causes but most share the belief that America, an evil nation, deserves to be defeated. In the May/June 1997 issue of The American Enterprise, James Webb took a closer look at what the Vietnam era protesters-- many of whom are at anti-war protests today--really wanted:

It is difficult to explain to my children that in my teens and early twenties the most frequently heard voices of my peers were trying to destroy the foundations of American society, so that it might be rebuilt according to their own narcissistic notions. In retrospect it's hard even for some of us who went through those times to understand how highly educated people--most of them spawned from the comforts of the upper-middle class--could have seriously advanced the destructive ideas that were in the air during the late '60s and early '70s. Even Congress was influenced by the virus.

After President Nixon resigned in August of 1974, that fall's congressional elections brought 76 new Democrats to the House, and eight to the Senate. A preponderance of these freshmen had run on McGovernesque platforms. Many had been viewed as weak candidates before Nixon's resignation, and some were glaringly unqualified, such as then-26-year- old Tom Downey of New York, who had never really held a job in his life and was still living at home with his mother.
This so-called Watergate Congress rode into town with an overriding mission that had become the rallying point of the American Left: to end all American assistance in any form to the besieged government of South Vietnam. Make no mistake--this was not the cry of a few years earlier to stop young Americans from dying. It had been two years since the last American soldiers left Vietnam, and fully four years since the last serious American casualty calls there.

For reasons that escape historical justification, even after America's military withdrawal the Left continued to try to bring down the incipient South Vietnamese democracy. Future White House aide Harold Ickes and others at "Project Pursestrings"--assisted at one point by an ambitious young Bill Clinton--worked to cut off all congressional funding intended to help the South Vietnamese defend themselves. The Indochina Peace Coalition, run by David Dellinger and headlined by Jane Fonda and Tom Hayden, coordinated closely with Hanoi throughout 1973 and 1974, and barnstormed across America's campuses, rallying students to the supposed evils of the South Vietnamese government. Congressional allies repeatedly added amendments to spending bills to end U.S. support of Vietnamese anti-Communists, precluding even air strikes to help South Vietnamese soldiers under attack by North Vietnamese units that were assisted by Soviet-bloc forces.

Then in early 1975 the Watergate Congress dealt non-Communist Indochina the final blow. The new Congress icily resisted President Gerald Ford's January request for additional military aid to South Vietnam and Cambodia. This appropriation would have provided the beleaguered Cambodian and South Vietnamese militaries with ammunition, spare parts, and tactical weapons needed to continue their own defense. Despite the fact that the 1973 Paris Peace Accords called specifically for "unlimited military replacement aid" for South Vietnam, by March the House Democratic Caucus voted overwhelmingly, 189-49, against any additional military assistance to Vietnam or Cambodia.

The rhetoric of the antiwar Left during these debates was filled with condemnation of America's war-torn allies, and promises of a better life for them under the Communism that was sure to follow. Then-Congressman Christopher Dodd typified the hopeless naiveté of his peers when he intoned that "calling the Lon Nol regime an ally is to debase the word.... The greatest gift our country can give to the Cambodian people is peace, not guns. And the best way to accomplish that goal is by ending military aid now." Tom Downey, having become a foreign policy expert in the two months since being freed from his mother's apron strings, pooh-poohed the coming Cambodian holocaust that would kill more than one-third of the country's population, saying, "The administration has warned that if we leave there will be a bloodbath. But to warn of a new bloodbath is no justification for extending the current bloodbath."

On the battlefields of Vietnam the elimination of all U.S. logistical support was stunning and unanticipated news. South Vietnamese commanders had been assured of material support as the American military withdrew--the same sort of aid the U.S. routinely provided allies from South Korea to West Germany--and of renewed U.S. air strikes if the North attacked the South in violation of the 1973 Paris Peace Accords. Now they were staring at a terrifyingly uncertain future, even as the Soviets continued to assist the Communist North.

As the shocked and demoralized South Vietnamese military sought to readjust its forces to cope with serious shortages, the newly refurbished North Vietnamese immediately launched a major offensive. Catching many units out of position, the North rolled down the countryside over a 55-day period. In the ensuing years I have interviewed South Vietnamese survivors of these battles, many of whom spent ten years and more in Communist concentration camps after the war. The litany is continuous: "I had no ammunition." "I was down to three artillery rounds per tube per day." "I had nothing to give my soldiers." "I had to turn off my radio because I could no longer bear to hear their calls for help."

The reaction in the United States to this debacle defines two distinct camps that continue to be identifiable in many of the issues we face today. For most of those who fought in Vietnam, and for their families, friends, and political compatriots, this was a dark and deeply depressing month. The faces we saw running in terror from the North Vietnamese assault were real and familiar, not simply video images. The bodies that fell like spinning snowflakes toward cruel deaths after having clung hopelessly to the outer parts of departing helicopters and aircraft may have been people we knew or tried to help. Even for those who had lost their faith in America's ability to defeat the Communists, this was not the way it was supposed to end.

For those who had evaded the war and come of age believing our country was somehow evil, even as they romanticized the intentions of the Communists, these few weeks brought denials of their own responsibility in the debacle, armchair criticisms of the South Vietnamese military, or open celebrations. At the Georgetown University Law Center where I was a student, the North's blatant discarding of the promises of peace and elections contained in the 1973 Paris Accords, followed by the rumbling of North Vietnamese tanks through the streets of Saigon, was treated by many as a cause for actual rejoicing.

Denial is rampant in 1997, but the truth is this end result was the very goal of the antiwar movement's continuing efforts in the years after American withdrawal. George McGovern, more forthcoming than most, bluntly stated as much to this writer during a break in taping a 1995 edition of cnn's "Crossfire." After I had argued that the war was clearly winnable even toward the end if we had changed our strategy, the 1972 presidential candidate who had offered to go to Hanoi on his knees commented, "What you don't understand is that I didn't want us to win that war." Mr. McGovern was not alone. He was part of a small but extremely influential minority who eventually had their way.

There is perhaps no greater testimony to the celebratory atmosphere that surrounded the Communist victory in Vietnam than the 1975 Academy Awards, which took place on April 8, just three weeks before the South's final surrender. The award for Best Feature Documentary went to the film Hearts and Minds, a vicious piece of propaganda that assailed American cultural values as well as our effort to assist South Vietnam's struggle for democracy. The producers, Peter Davis and Bert Schneider [who plays a role in David Horowitz's story--see page 31], jointly accepted the Oscar. Schneider was frank in his support of the Communists. As he stepped to the mike he commented that "It is ironic that we are here at a time just before Vietnam is about to be liberated." Then came one of the most stunning--if intentionally forgotten--moments in Hollywood history. As a struggling country many Americans had paid blood and tears to try to preserve was disappearing beneath a tank onslaught, Schneider pulled out a telegram from our enemy, the Vietnamese Communist delegation in Paris, and read aloud its congratulations to his film. Without hesitating, Hollywood's most powerful people rewarded Schneider's reading of the telegram with a standing ovation.

Those of us who either fought in Vietnam or supported our efforts there look at this 1975 "movie moment" with unforgetting and unmitigated amazement. Who were these people who so energetically poisoned the rest of the world's view of us? How had they turned so virulently against their own countrymen? How could they stand and applaud the victory of a Communist enemy who had taken 58,000 American lives and crushed a struggling, pro-democratic ally? Could they and the rest of us be said to be living in the same country anymore?

Not a peep was heard then, or since, from Hollywood regarding the people who disappeared behind Vietnam's bamboo curtain. No one has ever mentioned the concentration camps into which a million South Vietnamese soldiers were sent; 56,000 to die, 250,000 to stay for more than six years, and some for as long as 18. No one criticized the forced relocations, the corruption, or the continuing police state. More to the point, with the exception of the well-intentioned but artistically weak Hamburger Hill, one searches in vain for a single major film since that time that has portrayed American soldiers in Vietnam with dignity and in a true context.

Why? Because the film community, as with other elites, never liked, respected, or even understood those who answered the call and served. And at a time when a quiet but relentless battle is taking place over how history will remember our country's involvement in Vietnam, those who ridiculed government policy, avoided military service, and actively supported an enemy who turned out to be vicious and corrupt do not want to be remembered as having been so naive and so wrong.

Among everyday Americans, attitudes during this troubled time were much healthier. Behind the media filtering and distortion on Vietnam, the fact is that our citizenry agreed far more consistently with those of us who fought than with those who undermined our fight. This was especially true, interestingly, among the young Americans now portrayed as having rebelled against the war.

As reported in Public Opinion, Gallup surveys from 1966 to the end of U.S. involvement show that younger Americans actually supported the Vietnam war longer than any other age group. Even by January of 1973, when 68 percent of Americans over the age of 50 believed it had been a mistake to send troops to Vietnam, only 49 percent of those between 25 and 29 agreed. These findings that the youth cohort as a whole was distinctly unradical were buttressed by 1972 election results--where 18- to 29-year-olds preferred Richard Nixon to George McGovern by 52 to 46 percent.

Similarly, despite persistent allegations to the contrary by former protesters who now dominate media and academia, the 1970 invasion of Cambodia--which caused widespread campus demonstrations, including a riot that led to four deaths at Kent State University-- was strongly supported by the public. According to Harris surveys, nearly 6 in 10 Americans believed the Cambodian invasion was justified. A majority in that same May 1970 survey supported an immediate resumption of bombings in North Vietnam, a complete repudiation of the antiwar movement.

Vietnam veterans, though persistently maligned in film, news reports, and classrooms as unwilling, unsuccessful soldiers, have been well thought of by average Americans. In the most comprehensive study ever done on Vietnam vets (Harris Survey, 1980, commissioned by the Veterans Administration) , 73 percent of the general public and 89 percent of Vietnam veterans agreed with the statement that "The trouble in Vietnam was that our troops were asked to fight in a war which our political leaders in Washington would not let them win." Seventy percent of those who fought in Vietnam disagreed with the statement "It is shameful what my country did to the Vietnamese people." Fully 91 percent of those who served in Vietnam combat stated that they were glad they had served their country, and 74 percent said they had enjoyed their time in the military. Moreover, 71 percent of those who expressed an opinion indicated that they would go to Vietnam again, even knowing the end result and the ridicule that would be heaped on them when they returned.

This same survey contained what was called a "feelings thermometer," measuring the public's attitudes toward various groups on a scale of 1 to 10. Veterans who served in Vietnam rated a 9.8 on this scale. Doctors scored a 7.9, TV reporters a 6.1, politicians a 5.2, antiwar demonstrators a 5.0, and draft evaders who went to Canada came in at 3.3.

Contrary to persistent mythology, two-thirds of those who served during Vietnam were volunteers rather than draftees, and 77 percent of those who died were volunteers. Of those who died, 86 percent were Caucasian, 12.5 percent were African-American, and 1.2 percent were from other races. The common claim that it was minorities and the poor who were left to do the dirty work of military service in Vietnam is false. The main imbalance in the war was simply that the privileged avoided their obligations, and have persisted since that time in demeaning the experience in order to protect themselves from the judgment of history.

And what of these elites who misread not only a war but also their own countrymen? Where are they now, other than in the White House? On this vital historical issue that defined our generation, they now keep a low profile, and well they should.

What an eerie feeling it must have been for those who staked the journey of their youth on the idea that their own country was an evil force, to have watched their naiveté unravel in the years following 1975. How sobering it must have been for those who allowed themselves to move beyond their natural denial, to observe the spectacle of hundreds of thousands of South Vietnamese fleeing the "pure flame of the revolution" on rickety boats that gave them a 50 percent chance of death at sea, or to see television pictures of thousands of Cambodian skulls lying in open fields, part of the millions killed by Communist "liberators." How hollow the memories of drug-drenched and sex-enshrined antiwar rallies must be; how false the music that beatified their supposedly noble dissent.

Indeed, let's be frank. How secretly humiliating to stare into the face of a disabled veteran, or to watch the valedictory speech of the latest Vietnamese-American kid whose late father fought alongside the Americans in a cause they openly mocked, derided, and despised. And what a shame that the system of government that allowed that student to be so quickly successful here is not in place in the country of her origin.

— James Webb, a Marine rifle platoon and company commander in Vietnam, has served as Secretary of the Navy and is the author of several novels.
The American Enterprise Online


Hồi chuông thức tỉnh - Nam Dao


Nam Dao

Kể từ sau hiệp định Genève 1954 cho tới nay, hơn nửa thế kỷ qua Cộng sản Việt Nam đã xử dụng bạo lực và cai trị dân bằng bao tử để củng cố quyền lực. Chính sách tem phiếu hộ khẩu là một hình thức kiểm soát bao tử ép người dân phải nô lệ nhà nước từng giọt dầu, từng hạt muối, từng thước vải đã làm thui chột tinh thần phản kháng và ý chí quật cường vùng lên của con người. Một nhà cầm quyền có trách nhiệm phải biết vun bồi tinh thần phản kháng và ý chí quật cường vươn lên trong lòng dân vì đây là vũ khí quan trọng để chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Tội ác lớn của Cộng sản Việt Nam là đã làm thui chột tinh thần trên đã được cha ông ta dày công vun bồi suốt chiều dài bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.

Lời kêu gọi “Một tháng biểu tình tại gia để chống việc lấy Vàng tức dân tộc đổi Nhôm nước ngoài” của Hòa thượng Thích Quảng Độ cũng không đi ngoài mục đích kêu gọi toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước hãy làm sống dậy trong tâm hồn mình tinh thần phản kháng và ý chí quật cường vùng lên trước hiểm họa đất nước sắp rơi vào vòng kim cô nô lệ giặc Tầu.

Hòa thượng Thích Quảng Độ không làm chính trị. Ngài đang làm tròn bổn phận của một công dân gương mẫu, trước hiểm họa sơn hà nguy biến phải lên tiếng đấu tranh sao cho phù hợp với hoàn cảnh bị giam lỏng tại Thanh Minh thiền viện. Với tấm lòng từ bi bác ái thương dân, Ngài đã đưa ra một giải pháp đấu tranh khá an toàn cho toàn dân và tương đối khả thi cho nhiều người là “biểu tình tại gia”. Một hành động hoàn toàn không vi phạm luật pháp cho nên bạo quyền không có cớ và nhất là không có đủ tay sai công an đến từng nhà để gây sự. Lời kêu gọi trên cũng không mang tính chất đấu tranh bất bạo động theo kiểu xin cho. Bởi vì tuy với cái vỏ bề ngoài ôn hòa bất bạo động, nhưng hành động của nó nếu được thể hiện ở tầm vóc quy mô sẽ gây thiệt hại lớn và có thể dẫn đến sự sụp đổ của chế độ độc tài. Lịch sử thế giới đã chứng minh cho thấy rằng những cuộc biểu tình lãng công quy mô của dân chúng bất hợp tác với nhà cầm quyền sẽ làm tê liệt guồng máy quốc gia dẫn đến sự sụp đổ của chế độ khó tránh khỏi.

Cuộc chiến đấu lật đổ bạo lực và chống lại ngoại xâm nào mà chả gian truân với những thất bại lót đường cho chiến thắng cuối cùng. Từ ngàn xưa cho tới nay các vị anh hùng dân tộc như Trần Bình Trọng hay Nguyễn Thái Học và các anh hùng liệt sĩ Yên Bái, dẫu biết rằng xác xuất thành công rất thấp khi phải đối đầu với kẻ thù khổng lồ Pháp đầy đủ súng ống tối tân, nhưng vẫn coi nhẹ thất bại và ra quân. Sự thất bại mang tính chất giai đoạn trong dòng sử đấu tranh chống Pháp đã để lại cho dân tộc Việt Nam thời đó một gia tài đấu tranh to tát là tinh thần đối kháng bất khuất vùng lên làm sống dậy ngọn lửa Diên Hồng ngày càng lan rộng khắp ba miền, khai tử trang sử buồn 100 năm đô hộ giặc Tây.

Hòa thượng Thích Quảng Độ cũng vậy. Với cái nhìn xa về con đường đấu tranh Ngài không đặt vấn đề thành bại mang tính chất giai đoạn. Ngày hôm nay trước hiểm họa nô lệ giặc Tầu, qua Lời kêu gọi biểu tình tại gia Hòa thượng Thích Quảng Độ muốn gửi đến toàn dân một thông điệp đấu tranh rất quan trọng là kêu gọi toàn dân hãy làm sống dậy trong tâm hồn mình tinh thần phản kháng và ý chí quật cường vùng lên lật đổ chế độ bán nước buôn dân đang tiếp tay với Trung Cộng thực hiện ý đồ Hán hóa Việt Nam qua việc để cho Tầu mang hàng trăm ngàn dân Tầu cộng sang khai thác Bauxite ở Tây Nguyên.

Tinh thần biểu tình tại gia phản kháng chế độ không phải chỉ chấm dứt sau tháng Năm 2009, mà nó còn phải được duy trì ngày càng quyết liệt hơn. Một khi ngọn lửa đối kháng đã bùng cháy trong lòng mình thì mỗi ngày trôi qua là mỗi ngày sống với ý thức biểu tình tại gia. Với ý thức đó, mỗi người sẽ thể hiện tinh thần đối kháng bằng những hành động khác nhau phù hợp với hoàn cảnh sống cá nhân và phương tiện có trong tay. Khi ngọn lửa phản kháng và bất khuất vùng lên đã thắp sáng trong lòng dân, tất nhiên lịch sử VN sẽ được lật sang trang mới, ghi lại những thành qủa hào hùng cứu nước bảo toàn đất tổ.

Lời kêu gọi biểu tình tại gia của Hòa thượng Thích Quảng Độ trong lúc này chính là hồi chuông đánh thức tinh thần phản kháng và ý chí quật cường của toàn dân Việt đã bị Cộng sản Việt Nam làm soi mòn từ hơn nửa thế kỷ qua.

Nam Dao (Adelaide)

Tài Liệu:
(Ỷ Lan phỏng vấn Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ)

Ỷ Lan: Bạch Hòa thượng, biểu tình tại gia là một danh từ mới lạ, đồng thời là một động thái biểu dương chưa hề xẩy ra trong thế giới. Kính xin Hòa thượng giải thích cho thính giả được biết vì sao Hòa thượng chọn hành động này để phản đối nguy cơ khai thác bô-xít Tây nguyên ? Sao không xuống đường biểu tình như thường lệ ?

Hòa thượng Thích Quảng Độ: Ở các nước tự do, dân chủ thật sự thì mọi quyền làm người của công dân đều được tôn trọng, kể cả quyền biểu tình nơi công cộng để nói lên ngưỡng vọng chính đáng của mình trong trật tự, kỷ luật. Không ai đàn áp, bắt bớ, bỏ tù. Nhưng ở Việt Nam hiện nay toàn dân đang sống dưới chế độ độc tài, công an trị. Tất cả quyền sống của con người đều bị bóp nghẹt. Nếu dân chúng xuống đường biểu tình thì tức khắc bị đàn áp và tống vào trại giam.

Vì thế Giáo hội phải chọn phương pháp Vô Tướng, tức biểu tình ở nhà, không khẩu hiệu, không biểu ngữ, không hoan hô đả đảo ai. Chỉ nói lên ước vọng của mình bằng sự im lặng. Cho nên công an có muốn bắt cũng không biết đâu mà bắt. Không lẽ đến từng nhà gõ cửa hỏi người ta: Ông bà cô bác có đang biểu tình ngồi đấy không ?!

Thực ra phương pháp này không có gì mới mẻ đâu. Nó bắt nguồn từ phương pháp bất bạo động đó thôi. Nhưng vì ở Việt Nam theo luật cộng sản hiện hành, ra đường tụ tập 5 người trở lên cũng đã vi phạm pháp luật rồi. Dù không bạo động cũng bị đàn áp. Cho nên phải biểu tình trong nhà, thế thôi. Đây là động thái chưa từng xẩy ra trên thế giới như cô Ỷ Lan nói, thì đúng đấy.

Nhưng nó sẽ xẩy ra ở Việt Nam trong tháng 5 tới.

Ỷ Lan: Kính xin Hòa thượng cho biết một tháng biểu tình tại gia trong hoàn cảnh kinh tế khủng hoảng, dân đói nghèo, việc này có khả thi không ?

Hòa thượng Thích Quảng Độ: Chính tôi khi đưa ra khoảng thời biểu đó cũng nghĩ đến việc này. Đồng bào Việt trong nước, nhất là ở miền Bắc từ sau năm 1954 đến 1986 phải sống dưới chế độ bao cấp. Cái gì cũng phải có tem có phiếu mới mua được. Gạo… tất cả các thứ thực dụng hằng ngày, từng giọt dầu, từng hạt muối… năm nhà hai tháng được chung một cuộn chỉ đưa ra chia nhau, đo từng tấc từng thước, khổ cực vô cùng. Tôi ra miền Bắc năm 1982 sống đến 1986, chế độ tem phiếu vẫn còn chặt chẽ. Ba bốn người chung nhau mỗi năm mới được một mét vải. Có khi là họ lấy vải hai màu, một màu hết phải lấy hai màu. May cái quần một ống trắng một ống đen. Rất kỳ khôi (cười). Nó khổ đến như thế đấy. Thế thì hằng chục năm như thế. Còn đồng bào miền Nam thì bắt đầu từ năm 1975 cho đến 1986 cũng là mười năm ăn bo bo mỏi răng thôi. Cực khổ vô cùng.

Nghĩ lại những hàng chục năm khổ cực như thế mà còn chịu được. Bây giờ đây một tháng biều tình tại gia không đến nỗi như hàng chục năm kia đâu. Có thể là khổ, là thiếu thốn, nhưng không đến nỗi khổ cực hằng chục năm dưới chế độ tem phiếu, bao cấp. Suy nghĩ lại, đây là mình chịu khổ thắt lưng buộc bụng một tháng thôi. Nhưng trong một tháng này chia làm ba phần, cố gắng cho mỗi miền mười ngày. Tức là :

- Đồng bào miền Bắc biểu tình trong nhà từ ngày mồng 1 tháng 5 đến ngày mồng 10 tháng năm 2009.

- Sau đó thì bắt đầu đến đồng bào miền Trung từ ngày 11 tháng 5 đến ngày 20 tháng 5 biểu tình trong nhà. Chỉ ngồi trong nhà, không đi đâu.

- Cuối cùng đợt thứ ba là từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 31 tháng 5 dành cho đồng bào miền Nam.

Tôi chia ra ba đợt như vậy thì mỗi đợt chỉ có mười ngày thôi. Xin toàn thể đồng bào từ Nam chí Bắc dốc hết tâm lực vào trong 10 ngày biểu tình ngồi trong nhà. Cứ đóng cửa hoặc mở cửa như thường. Cứ ngồi trong nhà thôi. Cũng không lo bị bắt. Ai biết đâu mà bắt. Không lẽ công an đi vào từng nhà mà hỏi ông bà đang biểu tỉnh đấy à ?! Ai mà coi được.

Cái việc làm đây mà nếu được kết quả thực sự, đồng lòng mà làm chừng ba mươi chục triệu người hưởng ứng thôi. Làm một tháng như thế cũng có kết quả đấy. Kết quả này là kết quả lớn lắm. Nó là sự sống còn của cả một dân tộc, một đất nước. Nếu làm được như vậy là một cách đánh động dư luận trong nước và ngoài nước một luồng không khí mới thổi vào trong cuộc vận động cho dân chủ, cho nhân quyền và toàn vẹn lãnh thổ ở Việt Nam hiện nay.

Cho nên qua các cơ quan thông tấn, báo chí, đài phát thanh ở nước ngòi… tôi rất mong rằng quý vị cố cổ động, rồi thì hội thảo trên các Paltalk, diễn đàn để cố sao chuyển đạt được cái tin này, lời kêu gọi này về Việt Nam đến đồng bào ba miền Nam Trung Bắc, đến được nhiều nhà chừng nào tốt chừng đó.



ACRL: TS Trần Mỹ Vân vinh danh HT Thích Quảng Độ

Từ trái: Dân biểu Con Sciacca, Sheikh Abdul Rahman, TGM Peter Jensen, Thượng tọa Thích Phước Nhơn, TS Trần Mỹ Vân, TGM George Pell, Cựu Phó thủ tướng John Anderson, Chủ tịch ACRL Rocky Mimmo, Gambhir Watts (Ấn giáo)

TS Trần Mỹ Vân phát biểu tại ACRL
Sydney - Tiến sĩ Trần Mỹ Vân, giáo sư môn Á châu học tại Đại học South Australia, đã tạo sự chú ý lớn lao của một cử tọa gồm các giới lãnh đạo tôn giáo và chính trị Úc về tình trạng đàn áp Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất cùng Hòa thượng Thích Quảng Độ dưới bàn tay nhà cầm quyền CSVN.

Hôm thứ Năm 23/4/09, buổi lễ khai mạc Trung tâm Ambrose cho Tự do Tôn giáo (Ambrose Centre for Religious Liberty - ACRL) đã mời TS Trần Mỹ Vân lên phát biểu về tình hình Phật giáo tại Việt Nam. Được biết ACRL là một trung tâm nghiên cứu với mục đích bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng căn bản của con người. Buổi lễ khai mạc diễn ra tại Quốc hội tiểu bang New South Wales được chủ toạ bởi Cựu Phó thủ tướng Úc, ông John Anderson. Trong số khoảng 150 vị lãnh đạo tôn giáo và chính trị Úc, người ta cũng nhận thấy sự hiện diện của nhiều khuôn mặt tiếng tăm như đức Hồng y George Pell (Tổng giám mục Sydney của đạo Công giáo), Tiến sĩ Peter Jensen (Tổng giám mục Sydney của Anh giáo), đại diện của nhiều tôn giáo như Ấn giáo, Hồi giáo, Bahai, nhiều dân biểu Quốc hội tiểu bang lẫn liên bang, v.v...

Riêng về phía Phật giáo thì có sự hiện diện của Thượng tọa Thích Phước Nhơn vị đại diện của Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất tại Úc châu. Từ tiểu bang Nam Úc, người ta nhận thấy có Dân biểu Jack Snelling, chủ tịch Hạ viện Nam Úc và là một người luôn hỗ trợ các cuộc tranh đấu đòi tự do dân chủ của cộng đồng người Việt.

Trong một bài phát biểu gây xúc động mãnh liệt trong cử tọa, TS Mỹ Vân nói:

“Suy ngẫm về kinh nghiệm tâm linh bản thân, tôi thấy rõ quyền tự do tôn giáo là quan trọng. Nhưng buồn thay, không phải ai ai trên thế giới cũng được hưởng tự do đó. Tôi rất buồn phiền khi được biết rằng người dân Tây Tạng ngay trên đất nước của họ, không có quyền giữ hình của đức Đạt lai Lạt ma, vị lãnh đạo tâm linh của họ. Họ phải giấu hình ngài đi, hoặc phải tiêu huỷ, nếu không sẽ bị trừng phạt và tra tấn. Tôi thiển nghĩ đức Lạt ma có dạy điều gì chống lại nhân loại và hoà bình đâu. Ngược lại là đằng khác, ngài chỉ dạy tình thương, sự hiểu biết, lòng khoan dung và tha thứ... Tự do tôn giáo không phải là chuyện không có cũng chẳng sao, mà là một quyền con người căn bản mà không một nhà cầm quyền nào có thể tước đoạt.

“Khi nghĩ tới Việt Nam thì tôi lại càng buồn phiền hơn nữa. Việt Nam ngày nay bị cai trị bởi một chế độ độc tài cộng sản. Nhiều nhà sư, linh mục, nữ tu sĩ và tín đồ đã bị sách nhiễu, bỏ tù, giam lỏng tại gia chỉ vì họ giữ vững đức tin tâm linh của riêng họ, hoặc vì họ mong muốn chính quyền không can thiệp vào tôn giáo, vì họ đòi hỏi tự do tín ngưỡng và dân chủ cho Việt Nam. Giản dị là không ai có thể bắt họ cải đạo để trở thành người theo chủ nghĩa cộng sản...

“Tôi xin mượn cơ hội này để nêu lên trường hợp của Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất. Giáo hội đã bị cấm không được hoạt động, tài sản của Giáo hội bị tịch thu. Những vị lãnh đạo tối cao của Giáo hội đã từng bị bắt giam ròng rã nhiều năm, bị đi đày ngay trên xứ sở họ, và tiếp tục bị cầm tù, chỉ vì họ từ chối khuất phục chế độ cộng sản. Hoà thượng Thích Quảng Độ, vị lãnh đạo của giáo hội bị cấm đoán này, là một học giả xuất chúng, một vị chân tu và tác giả nhiều thơ văn. Ngài đã hiến trọn đời mình cho đạo Phật và cho lợi ích nhân loại. Vậy mà suốt 3 thập niên qua, ngài đã gặp đủ mọi khó khăn chẳng khác gì vị Tăng thống trước là Hoà thượng Thích Huyền Quang. HT Quảng Độ đã được trao tặng giải Thoroft Rafto, một giải thưởng lẫy lừng, và ngài cũng từng được đề cử 9 lần cho giải Nobel Hoà bình. Ngài đã trở thành biểu tượng của phong trào Phật giáo tranh đấu ôn hòa cho tự do tôn giáo và nhân quyền.”

Được biết khi nói đến đó, TS Trần Mỹ Vân đã giương lên cho cử toạ thấy những bức tem thư với hình HT Quảng Độ mà bà đã được phép cho in ấn đặc biệt. Những tấm tem HT Quảng Độ đã được cử toạ hoan nghênh nhiệt thành. Trong thời gian tới, Trung tâm ACRL dự định sẽ tổ chức nhiều buổi hội thảo tại các tiểu bang khác xứ Úc.

Bà Trần Mỹ Vân là giáo sư Phân khoa Quốc tế học, chuyên giảng dạy Á châu học tại Đại học South Australia. Trước kia bà du học Úc châu theo chương trình Colombo và góp phần thành lập Cộng đồng người Việt Tự do tại Úc trong những buổi đầu.