Wednesday, April 22, 2009

Trịnh Công Sơn, Một Loại Ký Sinh Trùng - BB&Liêm

BB&Liêm

Sau khi miền Nam bị CS cưỡng chiếm thì bao nhiêu sự thật lịch sử đã lần lượt được phơi bày, nhưng chân tướng của Trịnh Công Sơn vẫn còn được một số người cố gắng che dấu. Những người này cố tròng vào cổ Trịnh Công Sơn cái vòng hào quang “Quốc Gia” , họ tiếp tục ca tụng Trịnh Công Sơn là một người quốc gia !

Nhưng có một sự thật hiển nhiên mà họ không thể chối cãi được, là trong suốt cuộc chiến của người Việt Quốc Gia chống lại sự xích hoá của CS Quốc tế, được thực hiện bởi tay sai đắc lực là CS Hà Nội; Trịnh Công Sơn là một tên trốn lính. Chẳng những trốn lính, chẳng những đứng bên lề cuộc chiến, không hề chiến đấu bảo vệ chính bản thân của mình trước làn sóng xâm lăng của CS, Trịnh Công Sơn còn tiếp tay cho công cuộc xâm lăng của CS bằng những bài ca phản chiến !

Vào ngày 30 - 4-1975, Trịnh Công Sơn đã lớn tiếng minh định anh ta không phải là người Quốc Gia khi hát bài Nối Vòng Tay Lớn trên đài phát thanh Sàigon để “chào mừng cách mạng thành công ” vào lúc xe tăng CS Bắc Việt vừa tới dinh Độc Lập !

Nguyễn Đắc Xuân, một người bạn rất thân của Trịnh Công Sơn, một tay đao phủ của thành phố Huế trong biến cố Tết Mậu Thân 1968, (đệ nhất đao phủ là Hoàng Phủ Ngọc Tường, cũng là bạn rất thân của Trịnh Công Sơn - Trịnh Cung và Đinh Cường ), viết rằng:

“Từ sau ngày Trịnh Công Sơn qua đời, nhiều dư luận trong và ngoài nước có khuynh hướng “lôi anh về phía bên này” hoặc “đẩy anh về phía bên kia”. Đối với Trịnh Công Sơn ai lôi anh thì cứ lôi, ai đẩy anh thì cứ đẩy, “kệ”. Trịnh Công Sơn là Trịnh Công Sơn, ai muốn hiểu sao cứ hiểu. Tuy nhiên cuộc đời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã thuộc về lịch sử, mà đã là lịch sử thì “bên này” hay “bên kia” phải được chứng minh bằng tư liệu, tư liệu thành văn và tư liệu sống, nói có sách mách có chứng. Không thể phát ngôn về Trịnh Công Sơn theo cảm tính hay theo một định kiến nào....” (Trịnh Công Sơn, có một thời như thế – Nguyễn Đắc Xuân - nhà xuất bản Văn Học).

Dựa theo những “tư liệu thành văn và tư liệu sống”, Nguyễn Đắc Xuân đã trích lại những điều sau đây do chính Trịnh Công Sơn viết xuống trong quyển sách vừa dẫn:

Thời kỳ trốn lính

Trước khi sống qua một thời kỳ bất ổn định, tôi đã từng có được hai năm sống thong dong hợp pháp như tất cả mọi người đàng hoàng đứng đắn trên mặt đất. Muốn được thế, tôi đã phải đánh đổi bằng gần sáu mươi ngày nhịn đói tuyệt đối trong hai năm (mỗi năm 30 ngày liên tiếp trước khi trình diện ) để đạt được cái mức độ không đủ tiêu chuẩn của một người lính. Nhưng muốn xuống kílô nhanh còn phải không ngủ và uống thêm điamox là một thứ thuốc rút bớt nước trong các tế bào ra. Qua năm thứ ba thì không ra trình diện nữa vì cảm thấy không đủ sức khoẻ để lặp lại cái chế độ ăn uống không có thực phẩm ấy nữa. Trốn lính gần như là một cái “nghề” đầy tính chất phiêu lưu của hàng triệu thanh niên miền Nam lúc bấy giờ. Thái độ phản kháng ấy, dù được nhìn dưới một góc độ nào đó còn mang tính thụ động, vẫn phải được nhắc nhở đến như một nốt nhạc trong trẻo đã ngân lên trong một giai đoạn u ám, nhiễm độc, giữa những đô thị miền Nam.

Tôi đã sống lang thang như một kẻ vô gia cư, vô định trú thứ thiệt. Thời gian không xê dịch nhiều, chỉ kéo dài khoảng ba năm, đó là lúc tôi nhập cư cùng một số sinh viên trốn lính khác đã có mặt trong những căn nhà tiền chế tồi tàn bỏ trống ở khu đất rộng sau trường đại học Văn khoa. Ở đây có một lợi thế là rất hiếm bị khám xét. Vào thời điểm ấy, trên khoảng đất trống lại mọc thêm một cái trụ sở Hội Hoạ Sĩ trẻ bằng gổ, hiện đa số hoạ sĩ vẫn còn có mặt trong thành phố. Giấc ngủ của tôi cứ tùy nghi hoán chuyển từ trên cái ghế bố trong túp lều này qua cái mặt nền xi măng của trụ sở hội nọ. Việc ăn uống đã có hàng quán dọc đường gần đó. Rửa mặt đánh răng thì mỗi sáng vào phòng vệ sinh của những quán cà phê quen thuộc, chỉ có việc mang theo khăn, kem và bàn chải đánh răng.

Thế đấy, nhưng chính những năm này là những năm sôi động nhất của đời tôi.

Sống trong tình trạng bấp bênh như thế tôi vẫn phải làm việc không ngừng để sống. Tôi vẫn viết đều tay và vẫn tiếp tục đi hát. Những ca khúc của tôi được in ra từng tờ rời và từng tuyển tập. Phụ trách công việc in ấn và phát hành đã có người em ruột của tôi, cũng cùng trốn lính, chăm lo. Việc in ấn càng lúc càng khó khăn, nhất là sau khi có lệnh tịch thu của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của tôi. Cảnh sát lúc bấy giờ được lệnh vào tận các nhà in để truy lùng. Thế là phải đổi kế hoạch. Thay vì in trong một nhà in, nay phải rải ra trong ba bốn nhà in khác nhau. Tịch thu nơi này còn nơi khác, và dĩ nhiên, chuyện đi đứng không phải dễ dàng. Đi từ một nhà in ở vùng SàiGòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi.

Sau lệnh tịch thu, tất cả báo chí trong và ngoài nước đều đưa tin . Các hãng thông tấn và truyền hình truyền thanh nước ngoài ào ạt đổ xô về nơi ăn chốn ở rất là “ híp pi” đó của tôi càng lúc càng đông. Mỗi ngày trung bình ít lắm cũng phải ba lần phỏng vấn, thu hình, thu mặt. Tôi bỗng trở nên người nổi tiếng bất đắc dĩ. Ban đầu cái sự kiện này cũng mang đến cho tôi chút niềm vui nhưng càng về sau càng trở thành một tai nạn. Họ săn đuổi tôi đến mọi chổ lánh mặt xa xôi nhất. Từ SàiGòn ra Huế, chỉ vài hôm sau đã thấy có mấy mạng người đủ các màu da, xứ sở khác nhau xuất hiện ở cửa. Đời sống bỗng chốc mất đi cái tự do được quyền không nói năng, được quyền ngồi yên tĩnh một mình mà suy ngẫm cho đến nơi đến chốn bao nhiêu điều mình chưa biết trong cõi đời rộng lớn này. Tôi phải sống những khoảnh khắc phù phiếm trên báo chí và trước ông kính ấy cho đến mười ngày trước ngày thành phố được hoàn toàn giải phóng. Giờ đây sau hai mươi năm thành phố đã mang tên Bác, thỉnh thoảng vẫn còn những cuộc phỏng vấn của người nước ngoài, nhưng vó không còn là một nỗi ám ảnh kinh hoàng nữa.

Nghĩ lại chuyện cũ, tôi biết rằng những cái đó có được là do tấm lòng ưu ái của quần chúng đối với mình. Sức mạnh tình cảm của đám đông quần chúng là một trong những tấm khiên che chở mình trước những mối đe dọa và là những kèo cột chống đỡ tinh thần và tình cảm mình được vững vàng trước bao nhiêu khó khăn phức tạp của cuộc sống.

Nhẩm tính lại, tôi đã hùn hạp tất cả vốn liếng của mình vào cái đại gia đình trốn lính vừa tròn chẵn mười ba năm.

Đã qua hẳn rồi cái thời của “bèo giạt mây trôi”, của những giấc ngủ bị săn đuổi. (sđd tr. 179-183)

Thuở ấy Nhị Xuân, em ở nông trường, em ra biên giới

Đêm Nhị Xuân không còn thấy rõ màu đất đỏ và những bãi mía, bãi dứa cùng lán trại cũng khoác một màu áo khác. Mưa xuống. Hội trường dã chiến như một cái rá lọc nước thả xuống những giọt dài. Chúng tôi (Phạm Trọng Cầu, Trần Long Ẩn và tôi...) cùng anh em Thanh niên Xung phong nam nữ hát với nhau dưới một bầu trời được trang trí lạ mắt như thế. Đêm cứ dài ra và những tiếng hát cứ dài ra. Nước ở con kênh dâng lên. Mặc kệ. Cứ đứng, cứ ngồi, cứ hát. Gần khuya có cô gái Thanh niên Xung phong nhanh nhẹn vui tươi mang cho cho chúng tôi những bát cháo gà trước khi chia tay. Những khuôn mặt ấy, tôi đã quen đã nhìn thấy nhiều lần. Một giờ khuya, lên xe giã từ Nhị Xuân, lòng còn âm vang tiếng cười, tiếng hát. Những bàn tay siết chặt, những cái vẫy trong đêm không nhìn thấy. Quá giờ giới nghiêm, xe dừng lại giữa đường, không được vào thành phố. Ngủ lại chờ sáng về lại thành phố, trở lại công việc thường ngày. Nhưng ở Nhị Xuân, có hai mươi người con gái Thanh niên Xung phong đi về phía khác. Mấy tháng sau, tôi được tin tất cả hai mươi khuôn mặt tôi đã nhìn, đã gặp đêm hôm nào ở Nhị Xuân cùng nhau ca hát, đã hy sinh ở biên giới Tây Nam.

Những tiếng hát giọng cười còn đó. Những cây mía cây dứa các bạn trồng vẫn còn đó , vẫn lớn lên. Tôi bồi hồi nhìn ra quãng trời rộng và thấy lại trong trí nhớ những con người trẻ trung ấy. Trong những trái tim ấy có gì khác chúng ta không. Trong giấc ngủ ban đêm, trên những vầng trán khoẻ mạnh ấy, đã có những cơn mơ nào. Chúng ta nói quá nhiều đến sự tròn đầy và chúng ta quên đi sự mất mát. Chúng ta vẽ ra lắm nụ cười mà quên đi những nỗi ngậm ngùi riêng tư. Những người bạn nhỏ đã ra đi thật vĩnh viễn, nhưng nỗi nhớ thương về họ chưa được hát đủ như một nỗi đau. Còn thiếu sót biết bao nhiêu điều chưa nói hết lúc ở nông trường và càng chưa nói được một mảy may lúc ra biên giới. Làm một điều gì chưa đến chốn với một người không còn nữa, có phải cũng đã là phạm tội với cuộc đời rồi hay không. Xin hãy tha thứ những dòng chữ óng mượt, những sắp xếp tinh khôn, những cân nhắc đong đưa xuôi chèo thuận lái. (Sđd, chương V: Phát thảo chân dung tôi – Trịnh Công Sơn. Trang 186-188 )

Anh Sáu Dân với Trịnh Công Sơn

Hơn hai mươi năm trước, đồng chí Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Văn Kiệt “rủ” Trịnh Công Sơn và tôi đi khảo sát đất Trị An. Từ chuyến đi ấy Trịnh Công Sơn và tôi cũng như một số bạn bè gọi đồng chí Bí thư bằng anh Sáu, anh Sáu Dân rất thân mật. Chuyến đi ấy anh mang đến cho hai đứa tôi về giấc mơ điện “Trị An”. Còn anh, anh không chỉ mơ mà khẳng định quyết tâm và bắt tay tổ chức hiện thực.

Buổi chiều trên đường về mưa gió mịt mù. Trịnh Công Sơn và tôi ngồi trên chiếc xe jeep.

Về đến nhà anh Sáu, áo của Sơn đổi màu mưa bụi. Còn tôi, nhờ có chiếc áo gió, áo trong của tôi còn sạch. Anh Sáu bảo chúng tôi tắm, anh Sáu mang chiếc áo của anh cho Sơn. Chiếc áo ấy Sơn vẫn để trong tủ áo của mình, ít ai biết.

Anh Sáu đánh giá và bình phẩm ca khúc của Trịnh Công Sơn theo cách của anh. Với tôi anh Sáu là một nghệ sĩ, nghệ sĩ với con người chiến sĩ của anh. Không hề có khoảng cách về tuổi tác, về cương vị xã hội, hai người nghệ sĩ ấy đã gặp nhau, đã trở thành một đôi bạn chia sẻ nhiều nổi niềm không thành lời, không thành tiếng. Những năm khó khăn, cơm độn bo bo, có lần anh Sáu gởi gạo đến gia đình Trịnh Công Sơn.

Có một lần anh Sáu tâm sự với Sơn “Anh em trí thức ở thành phố mình bỏ đi nhiều quá. Mỗi người mỗi cương vị, làm sao giữ anh em lại, cùng xây dựng đất nước”. Sau đó Trịnh Công Sơn viết ca khúc “Em còn nhớ hay em đã quên”. Lần thứ hai, anh Sáu nói với Sơn “Trong lúc khó khăn này, làm sao mọi người đều có niềm tin, niềm vui, vượt lên khó khăn để xây dựng Thành phố...” Sau đó, Trịnh Công Sơn cho ra bài “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui ”.

Sau này anh Sáu về Trung Ương, ở cương vị Phó Thủ Tướng, Thủ Tướng, Cố Vấn BCH Trung Ương Đảng, dù ở cương vị nào, mỗi lần về SàiGòn, ngoài công việc, anh hay gặp gở lại bạn bè. Trong những cuộc gặp gỡ ấy, thường có Trịnh Công Sơn. Những cuộc gặp ấy bao giờ Trịnh Công Sơn cũng ngồi gần anh Sáu, như không thể cách xa nhau. Theo tôi hiểu, ít có người Việt Nam nào đi khắp mọi miền như anh. Anh đến cả những vùng sâu vùng xa đến nỗi, chánh quyền địa phương cũng chưa đặt chân đến.

Anh kể với chúng tôi về những chuyến đi. Rồi ai có sáng tác nào mới, hát cho anh nghe. Trần Long Ẩn chuyên hát lời hai, lời ba. Nguyễn Duy đọc thơ, Trịnh Công Sơn chưa có bài mới thì tùy hứng. Một lần chị Sáu (vợ anh Sáu) nói “Sao mà tôi thích cái câu - sỏi đá cũng cần có nhau - sâu xa quá!”. Thế là Trịnh Công Sơn cầm đàn hát “Diễm xưa”. Thật khó có người nào hát hay bằng Sơn hát về mình.

Có một lần, tôi kể với Trịnh Công Sơn, anh Sáu nói với tôi rằng anh Sáu vừa nghe đài Hoa Kỳ hai buổi lúc 5h30 sáng, đài Hoa Kỳ bình luận về ba nhạc sĩ lớn của Việt Nam: Văn Cao, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, đài Hoa Kỳ bình luận, ca từ của Trịnh Công Sơn là lời của phù thủy. Họ không giải nỗi ý nghĩa nhiều tầng, nhiều góc ca từ của Trịnh Công Sơn, nên đành phải nói là lời của phù thủy. Anh Sáu thích lắm! Trịnh Công Sơn không ngạc nhiên nhiều về lời bình của đài Hoa Kỳ mà ngạc nhiên: “Anh Sáu theo dõi kỹ vậy à? Thế mà anh em mình không ai biết”.

Anh Sáu quý trọng tài năng của Trịnh Công Sơn và rất yêu con người và tính cách của Sơn có khi hồn nhiên như trẻ thơ.

Có một đêm, anh Sáu rủ Sơn và tôi đến chơi. Anh Sáu mang chai Mao Đài đãi hai chúng tôi. Sơn xỉn. Thế là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bắt đầu dạy Thủ tướng Võ Văn Kiệt làm chánh trị. “Anh đi Nhật mà không gọi em là không chính trị. Nhật họ quý em lắm. Anh đi nước ngoài anh phải thế này, thế kia, thế nọ...” Anh Sáu và tôi cứ cười, Sơn thì vẫn cứ thao thao.

Hôm sau tỉnh rượu, tôi lại với Sơn, Sơn ngửa mặt cười:

- Có thật vậy à ? Anh Sáu có giận mình không ?

- Không! Anh Sáu vui!

- Lần sau nhớ nhắc mình nhé!. Tôi thầm nghĩ, Sơn phải là Sơn nhắc làm gì?

Vào một ngày cuối tháng ba năm nay, tôi gặp anh Sáu, anh Sáu hỏi thăm Sơn. Tôi báo anh, Sơn bịnh nhiều, Sơn đang cấp cứu trong bịnh viện. Anh nói:

- Mai mình đi Hà Nội, sau Đại hội Đảng mình về, mình thăm Sơn, các em Sơn. Xem nước ngoài nào chữa được Sơn, mình tạo điều kiện để Sơn đi.

Nhưng không kịp nữa, chiều ngày 1-4-2001 tôi gọi điện thoại cho anh “Anh Sáu ơi! Sơn mất rồi...” Anh hỏi, anh nói nhưng tôi không nhớ gì, chỉ nhớ “Đau lòng quá!” và chị Sáu kêu lên “...buồn quá...”

Buổi chiều ngày 3-4-2001, vào 18 giờ, tôi nhận được điện thoại của anh, anh chị đi thăm mộ Trịnh Công Sơn đang trên đường về, hẹn tôi ở nhà Trịnh Công Sơn.

Buổi gặp này có anh Sáu, chị Sáu, các em của Trịnh Công Sơn, anh Phạm Phú Ngọc Trai và tôi. Anh hỏi những ngày cuối cùng của Sơn...Anh nói:

- Những năm sau này, Sơn yếu nhưng sức sáng tác của Sơn rất dồi dào. Mỗi lần gặp lại là Sơn có sáng tác mới. Ca từ trong ca khúc sau này của Sơn càng thâm thúy. Ai nghe cũng thấy mình ở trong ấy. Sơn đi là một mất mát lớn, không chỉ cho nền âm nhạc nước nhà mà là còn sự mất mát nhiều mặt của nền văn hóa Việt Nam. Thương và tiếc, tiếc quá! Một mất mát lớn, rất lớn.

Anh Phạm Phú Ngọc Trai thêm một vòng thông tin: “Nước ngoài đánh giá Trịnh Công Sơn không chỉ là một danh nhân Việt Nam mà còn là danh nhân thế giới”. Anh Sáu trầm ngâm khẽ gật gù.

Tôi nói: “Lúc sinh thời Sơn vắng mặt chổ này chổ kia, nhưng khi Sơn ra đi, Sơn có mặt khắp mọi nơi”. Chúng tôi đều gặp nhau trong ý nghĩ về Sơn.

Có một lần nhà thơ Nguyễn Duy nói với tôi: “Với anh Sáu thì mình phục rồi. Riêng tôi có điều phục nữa, anh Sáu là người rất dí dỏm, người biết đùa là người trẻ, người thông minh, mình là người thích nói đùa, mà nhiều khi mình đối đáp không kịp anh ấy!”. Đúng như Nguyễn Duy nhận xét. Lần nào gặp anh, theo từng câu chuyện, lúc nào anh cũng rạng rỡ, nụ cười, giọng cười của anh như kéo mọi người gần nhau.

Buổi gặp gỡ chiều này, tôi ngồi bên anh suốt hai tiếng đồng hồ, tôi không thấy anh cười. Tôi có cảm tưởng Trịnh Công Sơn đã mang theo nụ cười của anh. Anh Sáu buồn, buồn lắm, Sơn có biết không. Nguyễn Quang Sáng . (Trịnh Công Sơn, người hát rong qua nhiều thế hệ – Nhà xuất bản Trẻ, tr. 173-175)

Lý Quý Chung, một nhà báo và là một dân biểu Việt Nam Cộng Hòa, sau ngày 30-4-1975 đã chính thức phô bày bộ mặt thật, có viết về hai chữ “ gia nô” như sau:

- Ở miền Nam trước 1975, một người chỉ cần nói đọc báo nào, nghe nhạc gì thì biết ngay người đó là ai, thái độ của người đó đối với chế độ Thiệu và người Mỹ như thế nào và thái độ của người đó đối với cuộc chiến tranh ra sao? Có báo “ gia nô” (đó là cách gọi của người Sài Gòn trước 1975 đối với loại báo chí của chính quyền Thiệu hoặc theo phe Thiệu ).... ( TCS MTNT tr. 210)

Bài viết của Nguyễn Quang Sáng ghi lại nguyên nhân ra đời của hai bản nhạc “Em còn nhớ hay em đã quên” và “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” . Nguyễn Quang Sáng cho biết anh Sáu Dân Võ Văn Kiệt chỉ mới nói vài lời mà Trịnh Công Sơn đã lãnh hội được ý của anh Sáu muốn cái gì và Sơn tự biết mình phải làm cái gì ! Nói theo cách của Lý Quý Chung, đây đúng là hành vi của một “gia nô”. Thiên tài âm nhạc Trịnh Công Sơn sau 1975 đã tự biến hình thành một nhạc - nô viết nhạc theo ý muốn của “trên” để đáp ứng cho nhu cầu tuyên truyền.

Cũng qua bài viết của Nguyễn Quang Sáng, độc giả còn được nhìn thấy cung cách và thái độ của thiên tài âm nhạc họ Trịnh đối với anh Sáu Dân Võ Văn Kiệt. Cái thái độ ấy phải gọi thế nào cho đúng ? Bưng bô ? Liếm gót ?

Riêng cái cung cách của một cán bộ tuyên truyền thì được Trịnh Công Sơn thể hiện rất rõ qua những lời sau đây: “việc in ấn càng lúc càng khó khăn, nhất là sau khi có lệnh tịch thu của chính quyền Nguyễn văn Thiệu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của tôi .... phải rải ra trong ba bốn nhà in khác nhau ... chuyện đi đứng không phải dễ dàng ... đi từ một nhà in ở Sàigòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi ....”

Nếu chính quyền Nguyễn văn Thiệu tịch thu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của Trịnh Công Sơn, thì chính quyền nào cấp giấy thông hành cho ca sĩ Khánh Ly sang Nhật hát bản Diễm Xưa của họ Trịnh tại hội chợ quốc tế Expo Osaka năm 1970? Chẳng lẽ đó là chính quyền Hà Nội ?

Nếu chính quyền ông Thiệu ra lệnh tịch thu toàn bộ các tập ca khúc, thì tại sao các tập ca khúc của Trịnh Công Sơn với hình bìa do Trịnh Cung, Đinh Cường vẽ, vẫn được bày bán công khai tại các nhà sách ở Sài Gòn, ai muốn mua bao nhiêu cũng có ?

Nếu chính quyền ông Thiệu tịch thu toàn bộ băng nhạc thì tại sao “nhạc Trịnh” vẫn vang dội tại các quán cà phê ở Sài Gòn, tại các câu lạc bộ quân trường? Khánh Ly vẫn nhởn nhơ trình diễn nhạc Trịnh tại Queen Bee hàng đêm, và nhạc Trịnh vẫn được hát tại câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc trong trại Phi Long - Tân Sơn Nhất vào mỗi cuối tuần ?

Và đây mới là chuyện lạ bốn phương: “đi từ một nhà in ở Sài Gòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi ...” Đây là thời điểm nào? Trước 30 tháng 4 năm 75 hay sau ngày “giải phóng” ?

Chính quyền Thiệu đã đặt nhiều trạm kiểm soát như thế, mà người em ruột của Trịnh Công Sơn phụ trách phần in ấn và phát hành thường lui tới ba bốn nhà in hàng ngày mà vẫn không bị cảnh sát bắt vì tội trốn lính ?

Căn cứ vào những tài liệu “thành văn” và tài liệu “sống”, hầu như ai cũng biết rằng, thiên tài âm nhạc của họ Trịnh có cơ hội nẩy nở và thăng hoa là nhờ môi trường tự do, khai phóng của miền Nam dưới hai thời đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa. Chính nhờ sự rộng lượng bao dung của chế độ Việt Nam Cộng Hòa và sư che chở của một số sĩ quan cao cấp của QLVNCH mà họ Trịnh mới sáng tác được trên dưới 600 nhạc phẩm. Cũng chính chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã đem bài Diễm Xưa đến Hội Chợ Quốc Tế Osaka 1970 để rồi họ Trịnh mới chiếm giải nhất về Dân Ca và được người Nhật thực hiện trên đĩa vàng. Bài hát Nối Vòng Tay Lớn được sử dụng trong các buổi sinh hoạt, họp mặt của thanh niên, sinh viên ...

Tóm lại, danh vọng và tiếng tăm mà họ Trịnh có được là nhờ ở chế độ Việt Nam Cộng Hòa và những sĩ quan cao cấp trong QLVNCH đã cưu mang và che chở cho họ Trịnh. Nói một cách dễ hiểu hơn, Trịnh Công Sơn đã sống như một loại ký sinh trùng trong lòng hai chế độ Cộng Hòa miền Nam.

Ký sinh trùng như giun, sán sống trong ruột của con người, nhờ hấp thụ chất bổ dưỡng tích tụ trong ruột non của con người mà chúng nó mới sống khoẻ sống mạnh và sinh sôi nẩy nở. Thiên tài âm nhạc của Trịnh Công Sơn sẽ không thể phát triển và thăng hoa nếu không ký sinh trong môi trường tự do khai phóng của Việt Nam Cộng Hòa, cho dù đang ở trong giai đoạn chiến đấu chống xâm lăng cộng sản. Và trong lúc Trịnh Công Sơn trốn tránh trách nhiệm, sống như một loài ký sinh trùng giữa đô thị để viết những bài ca phản chiến thì hàng triệu thanh niên cùng lứa tuổi đang hy sinh xương máu tại các chiến trường miền Nam trong từng giây, từng phút.

Đúng với lẽ công bình của trời đất và lương tâm con người, Trịnh Công Sơn đã mang một món nợ rất lớn đối với những người đã chết để họ Trịnh được hít thở không khí tự do cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Những người ấy đã nằm xuống để họ Trịnh được sống, để họ Trịnh được có cơ hội nói ra những lời vô ơn bạc nghĩa và thực hiện những hành vi phản bội trong ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhiều người miền Nam từng coi Trịnh Công Sơn là thần tượng, từng ngưỡng mộ thiên tài âm nhạc của họ Trịnh đã ngỡ ngàng và đau đớn biết bao nhiêu khi nghe Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh kêu gọi mọi người cùng hát bài Nối Vòng Lay Lớn để “chào mừng cách mạng thành công” giữa lúc Sài Gòn đang trong cơn hấp hối !

Nhiều người vẫn chưa quên giọng hát hồ hởi, tiếng vổ tay đánh nhịp dồn dập đầy sự phấn khởi của họ Trịnh trong ngày uất hận, đau thương và đen tối nhất của lịch sử dân tộc !

Trong ngày đen tối đó, họ Trịnh đã công khai bội phản những người từng cưu mang, dung dưỡng, che chở cho anh ta; minh thị phản bội những “ tấm lòng ưu ái của quần chúng đối với mình ” !

Nếu Trịnh Công Sơn không phải là một con người có tâm địa phản trắc thì Trịnh Công Sơn là con người gì?

Hãy nghe Trịnh Công Sơn định nghĩa: “trốn lính là một hành động phản kháng.”

Trốn lính vào thời điểm cộng sản đang tiến chiếm miền Nam là một hành động phản kháng, vậy thì Trịnh Công Sơn muốn phản kháng ai và phản kháng điều gì? Có phải là phản kháng chế độ Việt Nam Cộng Hòa đang dung dưỡng họ Trịnh, phản kháng những nổ lực của quân dân miền Nam đang ngăn chận làn sóng đỏ để bảo vệ cơm no áo ấm cho 25 triệu đồng bào, trong đó có cá nhân và gia đình của Trịnh Công Sơn ?

Thiên tài âm nhạc của Trịnh Công Sơn thật ra không ai phủ nhận, nhưng cái thiên tài ấy đã phản bội chính nghĩa quốc gia, tiếp tay với chế độ phi nhân, tiếp tay với những con người không còn lương tri đã đối đãi với đồng bào ruột thịt như kẻ thù không đội chung trời; cái thiên tài ấy đã góp phần gây ra tai họa khủng khiếp cho dân tộc, đẩy đất nước xuống hố diệt vong. Vậy thì cái vòng hào quang Quốc Gia mà ai đó cố choàng cho Trịnh Công Sơn là không có thật, không bao giờ có thật. Thật sự trong tận cùng tim đen, Trịnh Công Sơn cũng không hề muốn đội cái vòng hào quang Quốc Gia ấy.

Một lần nữa, hãy nghe họ Trịnh khẳng định chỗ đứng:

- Con kênh này sẽ kêu gọi những con kênh khác ra đời. Kênh chị, kênh em sẽ mọc lên cùng khắp để góp phần lợi ích cho những con người mới trong một thời đại mang tên Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam {sđd, tr.170: Nam Thạch Hãn những ngày đầu tháng ba (1979 ) }

- Trốn lính gần như là một cái “nghề” đầy tính chất phiêu lưu của hàng triệu thanh niên miền Nam lúc bấy giờ. Thái độ phản kháng ấy, dù nhìn dưới góc độ nào đó còn mang tính thụ động, vẫn phải được nhắc nhở đến như một nốt nhạc trong trẻo đã ngân lên trong một giai đoạn u ám, nhiễm độc, giữa những đô thị miền Nam. (sđd,tr.180).

Giai đoạn mà Trịch Công Sơn cho rằng “u ám, nhiễm độc” đó, như đã nói ở trên, chính là giai đoạn mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đang ra sức bảo vệ tự do no ấm cho 25 triệu đồng bào miền Nam, chống lại công cuộc xích hóa của CS quốc tế mà Hà Nội là tay sai. Trốn lính trong giai đoạn ấy chỉ có những loại người sau đây: hèn nhát, ích kỷ và CS nằm vùng.

Cho rằng có “hàng triệu thanh niên miền Nam trốn lính” vào thời bấy giờ, Trịnh Công Sơn đã mặc nhiên hòa nhịp theo cung điệu tuyên truyền của các cán bộ cộng sản, loại cán bộ đã huênh hoang “lên lớp” những sĩ quan QL/VNCH trong các trại tù cải tạo rằng: máy bay của ta nấp ở trên mây, đợi lúc máy bay địch xuất hiện thì bất thần bay ra nghênh chiến.

Gọi hành động trốn lính là một “thái độ phản kháng”, Trịnh Công Sơn muốn xác định rõ ràng anh ta không phải là người Quốc Gia.

Gọi hành động trốn lính là “một nốt nhạc trong trẻo trong giai đoạn u ám, nhiễm độc..”, Trịnh Công Sơn muốn minh định rõ “thiên tài âm nhạc” họ Trịnh không thuộc Việt Nam Cộng Hòa mà thuộc về “thời đại mang tên Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”!

Qua những tài liệu sống và những tài liệu thành văn, Trịnh Công Sơn là tổng hợp của:

    - Một kẻ ích kỷ
    - Một tên hèn nhát trốn lính
    - Một tên nằm vùng
    - Một loại ký sinh trùng
    - Một kẻ phản bội
    - Một tên lừa dối

    - Một tên ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản.
Trước lịch sử, Trịnh Công Sơn đã hiện nguyên hình. Không nên bóp méo lịch sử bằng cách choàng lên đầu Trịnh Công Sơn vòng hào quang Quốc Gia không hề có thật; cũng đừng hô biến “Nối Vòng Tay Lớn” trở thành một biểu tượng đoàn kết đấu tranh dân chủ, trong khi bài hát ấy đã được tác giả của nó hát lên để đón mừng cái chế độ phi nhân bóp họng dân chủ !

Phải trả lại sự thật cho lịch sử.

BB& Liêm


30.4.1975 - 30.4.2005 : Ba Mươi Năm Nhìn Lại - Phùng Ngọc Sa

Phùng Ngọc Sa

Toàn thể công dân Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là Tập Thể Người Việt Tị Nạn Cộng Sản Hải Ngoại chắc đều ghi nhớ, biến cố 30-4-75 là một sự kiện nghiệt ngã và đau thương nhất trong lịch sử Việt Nam cận đại; nó không những gây tang tóc cho dân tộc mà còn làm cho đất nước vô cùng khốn khổ điêu linh.

Ai cũng biết, 30-4 chính là ngày mà cộng sản Bắc Việt vâng lệnh quan thầy Liên Xô-Trung Cộng xé bỏ hiệp định Paris, một hiệp định quốc tế do chính chúng và các tên đầu sỏ Nga-Tàu đồng ký kết vào ngày 27-1-73 để chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình tại Việt Nam, nhưng rồi bọn gian manh nầy lại trở mặt phản bội, dốc toàn lực xua quân mở những trận tấn công ác liệt và đẫm máu cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa, từ ngày đó, toàn thể nhân dân Miền Nam hoàn toàn bị rơi vào tay lũ giặc xâm lăng Miền Bắc, bị mất tất cả quyền làm người để rồi trở thành một hạng thứ dân; vì thế ngưới dân Miền Nam gọi 30-4-75 là Ngày Quốc Hận (tháng Tư Đen)

I. Tội Ác Của Cộng Sản Việt NamTrong 30 Năm Qua

Từ 30-4-75 đến nay, 30-4-05 là 30 năm, khoảng thời gian khắc nghiệt đó đã xảy ra biết bao cảnh đau thương tang tóc cho đất nước và đồng bào; cụ thể bạo quyền CSVN đã gây nhiều tội ác tày trời dưới đây:

1. Phung phí xương máu nhân dân Việt Nam làm tay sai đánh thuê cho Đế quốc đỏ chiếm Căm Bốt.

CSVN vì kiêu ngạo, hợm hĩnh coi mình làđỉnh cao trí tuệ loài người, con ếch tưởng mình là con bò, lại ngu dại nghe lời xúi giục của Liên-Xô chống Trung Cộng, tự nguyện làm tay sai thi hành cái gọi là nghĩa vụ quốc tế, xua quân đánh chiếm Căm Bốt. Trong 10 năm chiếm đóng đất nước nầy, VC đã phung phí không biết bao là xương máu và tài sản của nhân dân Việt Nam. Khi bị áp lực quốc tế và Liên Hiệp Quốc buộc phải rút quân ra khỏi Căm Bốt thì, theo tài liệu của viện Nghiên Cứu Chiến Lược Anh quốc, và Bộ Thương Binh CSVN năm 1980, VC đã chi hết 27 tỉ đô la chiến phí, và phải bị mất nữa triệu binh sĩ, trong đó có hơn 200.000 thương binh mà kết quả chẳng đem lại một tí lợi lộc gì cho dân tộc Việt. Lý do: chính quyền Căm Bốt của Thủ tướng Hussein do Hà Nội dựng ra lại chạy theo đuôi Trung Cộng.

2. Tội phản quốc

Ngoài việc phải trả một số nợ khổng lồ mà Trung Cộng đã viện trợ giúp VC trong các trận chiến chống nhân dân Việt Nam và cái gọi là kháng chiến chống Pháp, đuổi Mỹ; CSVN vì quyền lợi của đảng và phe nhóm, đã hy sinh quyền lợi tối cao của tổ quốc, phản bội dân tộc: chính thức cắt đất, dâng biển cho kẻ thù Phương Bắc bằng các Hiệp Định Biên Giới Việt-Trung và Hiệp Định Vịnh Bắc Bộ ký tại Bắc Kinh ngày 25-12-2000.

3. Chống lại nhân dân Việt Nam

Vì chỉ muốn chóng làm giàu để thụ hưởng, CSVN đã giả nhân giả nghĩa nói là giúp dân có công ăn việc làm, lấy chiêu bài xuất khẩu lao động, lùa dân đi làm thân trâu ngựa ở nước ngoài để ăn tiền đầu; hơn nữa vì muốn thu nhiều lợi, tập đoàn thống trị và bọn tư bản đỏ đã tán tậm lương tâm mang cả phụ nữ và trẻ em đi rao bán trên khắp thế giới, biến tầng lớp nầy trở thành kẻ nô lệ tình dục cho ngoại quốc để thu tiền. Hành động man rợ này đã khiến dư luận quốc tế kinh tởm và các tổ chức phi chính phủ khác phải lên tiếng cảnh cáo Hà Nội.

Đất nước Việt Nam vốn rừng vàng, biển bạc, trước đây nào có thua kém gì các nước cùng khu vực như Thái Lan, Nam Hàn và Mã Lai v.v. thế mà ngày nay dù được cộng đồng người Việt hải ngoại vì tình quyến thuộc đã dồn dập gửi tiền giúp đỡ trong nước mỗi năm gần 3 tỉ đô la, nhưng cho đến giờ phút nầy, đại đa số người dân Việt Nam, đặc biệt là 80% nhân dân nông thôn vẫn còn lâm vào cảnh lầm than, nghèo đói, trong khi đó thì trái lại, bọn cường hào ác bá mới của bạo quyền cộng sản vì muốn có cuộc sống xa hoa phè phởn, đua nhau tham nhũng, hối mại quyền thế, tha hồ áp bực bóc lột người dân. Phần người dân lương thiện, thì nội cái chuyện lo ăn, lo mặc còn chưa đũ sức, hơn nữa lại bị chế độ công an trị kềm kẹp áp bức; thấp cổ bé miệng nào đâu còn dám mơ nghĩ gì đến hưởng quyền tự do dân chủ. Cuối cùng Việt Nam không những là một nước thuộc loại nghèo khổ nhất thế giới mà cả phẩm giá người dân cũng bị chà đạp, nhân quyền do đó còn quá bết, nên Việt Nam bị Hoa Kỳ liệt vào danh sách các nước đáng quan tâm đặc biệt(C.P,C).

4. Đối xử vô nhân đạo và trả thù quân-cán-chính VNCH.

Ngay khi tướng Dương Văn Minh vừa ra lệnh cho quân đội phải buông súng đâu hàng, bọn cán binh cộng sản đã xông vào các quân y viện, bệnh viện Hồi Lực xua đuổi tất cả thương phế binh đang điều trị quẳng ra đường như vứt đồ phế thải. Những ngày tháng sau đó, bọn chúng đã giam cầm, đầy đọa hàng trăm ngàn quân-cán-chính Việt Nam Cộng Hòa vào trong các trại tập được gọi là trại cải tạo để hành hạ trả thù, khiến phần lớn gia đình của tầng lớp nầy bị đổ vỡ tan nát, gây cảnh chồng xa vợ, mẹ lìa con thơ.

Nhiều gia đình bị đày đi các nơi rừng sâu nước độc mà cộng sản đặt cho một mỹ từ vùng kinh tế mớikhông có thuốc men, thiếu cả mọi tiện nghi văn minh tối thiếu để bọn thống trị lấy cớ tịch thu nhà cửa ruộng vườn của dân. Do quá bị đàn áp, o ép nên nhiều người đành phải bỏ nước ra đi tìm đường tự do, trong đó lắm người bị rục tù vì tội vượt biên, và trên bước đường tìm tự do, một số lớn không may bị bọn hải tặc hãm hại, hoặc bị bỏ mình trong chốn rừng sâu nước độc hay làm mồi cho cá mập trong lòng đại dương. Trong khoảng thời gian khắt nghiệt đó, thì tất cả những gì xấu xa và khốn nạn nhứt trong xã hội đều trút trên đầu trên cổ hàng ngũ chiến bại, mà bọn VC chiến thắng đặt cho một tên mới: bọn Ngụy Quân, Ngụy Quyền và Ngụy Dân. Nói chung toàn thể Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa cùng gia đình là đối tượng chính để gánh chịu những đòn thù của CSVN.

II. Ý Nghĩa Ngày Quốc Hận

Chỉ xin trưng dẫn vài hình ảnh trên cũng đủ chứng minh, ngày 30-4 không những là một ngày đau thương cho hàng ngũ quân-cán-chính Việt Nam Cộng Hòa mà còn cho toàn thể nhân dân Miền Nam. Lý do đó, đã từ ba mươi năm qua cộng đồng người Việt hải ngoại đều gọi 30-4 là Ngày Quốc Hận, ý muốn nhắc nhở nhân dân Việt Nam, đặc biệt là Tập Thể Tị Nạn Cộng Sản phải luôn luôn ghi nhớ biến cố đau thương tang tóc này để làm bài học cho tương lai. Không một ai chấp nhận đổi tên Ngày 30-4 dù với bất cứ mỹ từ nào.

Ghi nhớ những sự kiện lịch sử đất nước để ôn cố tri tân là truyền thống tốt đẹp nhất của mọi dân tộc. Xin lấy một di tích cổ và vài mẩu chuyện ghi trong lịch sử Trung Hoa dưới đây cho thấy điều đó đúng và hợp lý:

- Chuyện bức tường cổ đền thờ Jerusalem của Do Thái để cụ thể chứng minh: Ngày nay Do Thái, tức Israel là một quốc gia tân tiến, chính quyền của họï có thừa khả năng trùng tu hoặc tái tạo cả cổ thành Jerusalem, làm cho nó trở nên tráng lệ và xinh đẹp để du khách thăm viếng; nhưng không, họ vẫn để nguyên trạng, đặc biệt giữ một mảng bức tường đãõ cũ kỹ và đổ nát của cổ đền thờ rồi gọi đó là Bức Tường Than Khóc, với dụng ý nhắc nhở người Do Thái đừng quên đi cái nhục mất nước. Hàng năm, đông đảo dân Do Thái khắp nơi trên thế giới tụ tập về đó, cùng nhau đứng trước bức tường cũ đổ nát nầy để chiêm ngưỡng và than khóc, rồi nhắc nhở nhau về trang sử bi thương mất nước của người Do Thái; ghi nhớ việc dân tộc nầy bị lưu đày phân tán ra khắp nơi trên thế giới.

- Lịch sử Trung Hoa ở thời Xuân Thu Chiến Quốc cũng ghi chép: Câu Tiễn, vua nước Việt, sau khi được Ngô Phù Sai thả cho về nước; vì muốn giữ mãi mối thù vong quốc và cái nhục phải nếm phân Ngô Vương; Câu Tiễn đã cắt đặt người hằng ngày, cứ đợi tới bữa ăn thì chỉ ngay mặt Câu Tiễn mà chữi mắng, và nhắc lại cái nhục mất nước trước đây để Câu Tiễn nung nấu ý chí và chuẩn bị báo thù . Lịch sử Trung Hoa còn nhắc lại Chu Nguyên Chương, người sáng lập triều đại nhà Minh, nguyên là một cái bang (ăn mày), thế mà khi đã trở thành hoàng đế, nhà vua vẫn giữ lại chiếc gậy và bộ đồ ăn xin, thường được treo trong cung điện để con cháu và thần dân ra vào được thấy.

Bài học lịch sử đã chỉ giáo, vậy thử hỏi tại sao tổ chức tay sai VC như đảng Việt Tân, thoát thân từ Mặt Trận Hoàng Cơ Minh còn dám ngoan cố đòi đổi Ngày 30-4 thành Ngày Tự Do Cho Việt Nam, hoặc Ngày Đòi Tự Do Cho Việt Nam. Xin thưa không phải lũ nầy u mê hay ngu dốt mà chẳng qua là họ hành động theo chỉ thị của cộng sản Hà Nội. Ý Hà Nội nghĩ rằng, nếu còn giữ chủ đề 30-4 là Ngày Quốc Hận, tức là nó còn mang sắc thái chống cộng rõ rệt, và như thế là còn hun đúc thêm ý chí cho Tập Thể Tị Nạn tiếp tục đấu tranh giải trừ chế độ cộng sản tại quê nhà, điều nầy ắt không lợi cho bạo quyền cộng sản trong nước. Chủ trương thay đổi ý nghĩa ngày 30-4 là một hành động không những giúp CSVN xóa đi chữ Tị Nạn Cộng Sản trên lý lịch của đồng bào Việt Nam hải ngoại, nạn nhân của 30-4; ngoài ra, còn giúp VC giả vờ xóa bỏ hận thù và khuyên hải ngoại nên quên đi quá khứ để hòa hợp làm tôi mọi cho chúng. Thật ra, đồng bào hải ngoại đâu có ai muốn mãi giữ hận thù làm chi, song vì họ quá biết là VC chỉ lẽo mép hô hào hòa giải, hòa hợp, xóa bỏ hận thù để khai thác chất xám (trí thức), chất xanh (đô la), chứ chúng nào đâu có thương xót gì người Việt hải ngoại mà trước đây chúng từng nguyền rủa và lên án tầng lớp nầy là Việt gian và là bọn cặn bã xã hội. Hơn nữa CSVN cũng biết, tuy cưỡng chiếm được Miền Nam và thống nhất đất nước, nhưng chúng đâu đã lấy được lòng người và thống nhất được dân tộc. Do đó chúng phải nhờ đám tay sai Việt Tân thực hiện điều này bằng cách đổi ý nghĩa ngày 30-4. Nhưng rủi thay, VC quá ngu dại, nên mới đi thuê một đám lưu manh từng gây nhiều thành tích bất hảo, nên bọn nầy vừa ló đuôi ra thì đã bị Tập Thể Người Việt Tị Nạn lật tẩy.

III. Được & Mất Của Hai Phía Cộng Sản và Quốc Gia.

1. Phía CSVN:

Tuy cưỡng chiếm được Miền Nam, nhưng VC đã bị toàn dân và thế giới lột mặt nạ, bộ mặt gian ác đã lộ hẳn, chứng tỏ chúng chỉ là một lũ cướp, một tập đoàn tay sai cộng sản quốc tế. Do đó biết bao mỹ từ tốt đẹp được gọi là chính nghĩa tuyệt đối như: - phục vụ đồng bào; thống nhất đoàn kết; giải phóng quốc gia mà trước đây CSVN đã vơ về trong tay chúng, thì giờ nầy, sau khi thống nhất được đất nước bằng bạo lực đều đã bị tiêu tan. Thử xem:

- Yêu nước và phục vụ nhân dân và đồng bào chăng? Quả thật VC quá dối trá. Đối với bọn chúng, yêu nước có nghĩa là bán nước, cụ thể là cắt đất nhường biển cho kẻ thù TC; còn phục vụ nhân dân? Thử hỏi giai cấp bần cố nông và công nhân là chỗ dựa và trụ cột của cộng sản thì giờ đây tầng lớp nầy còn ủng hộ cộng sản nữa không? Hay vì VC quá tham nhũng bóc lột nên họ đã quay mặt trở thành kẻ thù của chúng.

- Khẩu hiệu Đoàn Kết như con ngươi trong con mắt là câu đầu môi chót lưỡi của bọn VC bịp trước, giờ đây chỉ còn là một sáo ngữ. Lý do: Tranh ăn, hoặc chia chát không đều đã trở mặt giết nhau như ngóe, cụ thể là vụ thảm sát toàn thể sĩ quan cao cấp của Bộ Tổng Tham Mưu của tướng Đào Trọng Lịch vào năm 1997 ở Cánh Đồng Chum bên Lào, vụ cho nổ trực thăng để hạ sát bộ tham mưu quân Khu IV, Thanh Hóa trong tháng giêng 2005 vừa qua và nhiều vụ thủ tiêu bí mật khác, đặc biệt là hiện tượngï đấu đá nhau trong nội bộ giữa hai phe Võ Nguyên Giáp và Lê Đức Anh, (tức là bọn chống và thân Tàu) đã kéo dài hàng chục năm mà chưa ngã ngũ, khiến nội bộ đảng cộng sản nứt rạn vô phương cứu chữa.

- Giải Phóng Nhân Dân, Giải Phóng Miền Nam Chăng? Khẩu hiệu có vẻ ăn khách, đã một thời VC dùng để phĩnh gạt dư luận và lôi kéo đồng bào nhẹ dạ lương thiện theo chúng, thử hỏi làm sao có thể tồn tại vì:

- Hàng trăm ngàn quân-cán-chính VNCH và gia đình có thể nào chấp nhận hai chữ giải phóng đồng nghĩa với việc bị tước mất tự do và bản thân bị đọa đầy nhiều năm trong ngục tù, còn gia đình thì bi kỳ thị, bị o ép khốn khổ trăm bề.

- Trí thức Miền Nam phải chịu cải tạo tư tưởng, không được tự do sáng tác, xót xa nhứt là khi thấy bao nhiêu công trình nghiên cứu của họ bị thiêu đốt trong ngọn lửa căm thù; bao nhiêu di tích văn hóa lịch sử bị tàn lụi bởi chủ thuyết ngoại lai Marxít-Leninít, và từ đó thấy đạo đức con người bị suy đồi khủng khiếp.

- Giới kinh doanh lớn nhỏ bị buộc phải chịu cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, cải tạo công thương ác liệt, bị tước đoạt tài sản, mất quyền tự do kinh doanh. Tất cả rất đau lòng thấy cả một nền kinh tế phồn thịnh của Miền Nam trước đây bị một lũ man rợ tàn phá một cách không thương tiếc.

- Nông dân, ngư dân, nhân dân lao động Miền Nam bị lùa vào các tổ chức hợp tác xã, tập đoàn trên mấy chục năm không được tự do làm ăn, tự do phát huy khả năng nghề nghiệp.

- Tín đồ các tôn giáo tại Miền Nam không còn được tự do hành đạo cũng như thờ phụng như trước kia trong chế độ VNCH; hàng giáo phẩm các tôn giáo còn bị ngược đãi ngục tù.

- Hàng triệu nhân dân hai Miền Nam lẫn miền Bắc liều chết bỏ nước ra đi tìm tự do.

Tất cả tầng lớp nói trên không chấp nhận, và đều muốn thoát khỏi sự giải phóngcủa CSVN, thế là chiêu bài giải phóng, một chỗ dựa của cộng sản để bịp hoàn toàn mất hết giá trị.

2. Phía Người Việt Quốc Gia

Như đã trình bày ở phần trên, sau 30-4-75, chúng ta, tất cả người Việt Quốc Gia đều bị mất mát hoàn toàn; không những mất công ăn việc làm, tài sản và của cải bị tước đoạt, con cái lại không được tiếp tục học hành, thậm chí nhiều người phải mất cả mạng sống. Tất cả chỉ còn lại hai bàn tay trắng, và bất kỳ nơi đâu tại Miền Nam, hình ảnh còn lại chỉ là những cảnh tan thương: gia đình tan nát, xã hội đảo lộn và nghèo nàn.

Tuy nhiên, lúc mà người dân Miền Nam đang bị bọn cộng sản xâm lăng Miền Bắc chà đạp và dìm sâu xuống tận đáy vực thẳm, nhờ qua tiếng than khóc rên rỉ và căm hờn của họ, khiến một số người mà trước đây còn mơ mơ màng màng không phân biệt được đâu là quốc gia, đâu là cộng sản, ai chính, ai tà, còn chưa biết hẳn bộ mặt thật của cộng sản, thì giờ đây trước cảnh ngộ nầy họ đã thức tỉnh và nhận thức được rằng, bọn người mà trước đây mình đã từng tiếp tế yểm trợ nuôi dưỡng, thậm chí còn đích thân tiếp tay giúp VC phá hoại hàng ngũ quốc gia, bây giờ mới thấy rõ chúng đã lộ nguyên hình, là một bè lũ phi nhân phản tộc gian ác, và chỉ là một bọn tay sai cộng sản quốc tế. Sựï thức tỉnh và hối hận đó lớn dần đã mau chóng tác động đến hàng ngũ những người cộng sản còn có lương tâm, cũng như những nhà trí thức dân chủ từng chiến đấu dưới lá cờ cộng sản.Tập thể nầy vì lòng yêu nước nồng nàn và khát vọng tự do dân chủ, mãnh liệt đứng lên phản kháng chống lại đương quyền cộng sản, đòi hỏi nhân quyền, dân chủ cho Việt Nam. Đó là tiếng nói dũng mãnh của những nhà cách mạng lão thành Hoàng Minh Chính, Nguyễn Văn Trấn, Lê Giản, v.v. của những nhà trí thức Nguyễn Xuân Tụ, tức Hà Sĩ Phu, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Thanh Giang, Phan Đình Diệu, Lữ Phương, v.v. của các văn nghệ sĩ , nhà báo như Nguyên Ngọc, Dương Thu Hương, Phùng Gia Lộc, Nguyễn Huy Thiệp, Lưu Quang Vũ và Nguyên Duy; đặc biệt những văn nghệ sĩ nầy nhân cơ hội đảng cởi trói vào năm 1987 đã mạnh mẽ sáng tác nhiều tác phẩm mang tính cách phê phán, chĩa mũi nhọn vào bọn cầm quyền cộng sản, giai cấp bốc lột và bọn cường hào ác báo mới, khiến đảng hoảng sợ vội vã trói lại rồi cách chức và tống giam hàng loạt tổng biên tập các báo, các tạp chí cấp tiến như Sông Hương, Langbian, v.v.thậm chí VC còn trắng trợn tống giam nhà văn Dương Thu Hương gây ra sự phản đối rầm rộ trên thế giới.

Riêng Nguyễn Xuân Tụ, tức nhà khoa học Hà Sĩ Phu còn can đảm, công bố nhiều bản luận văn phê phán chủ nghĩa Marx , ý tác giả muốn bứng tận gốc rễ chủ nghĩa Marx, một thuyết ngoại lai đã gây tại họa cho toàn dân Việt Nam. Quả thật đây là một hiện tượng đặc biệt, lần đâu tiên dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, ở trong hệ thống kềm kẹp có người dám công khai phê phán chủ thuyết sai trái của bạo quyền CSVN.

Hiện tượng nói trên mỗi ngày một lan rộng và tác động mãnh liệt vào tâm lý quần chúng chứng tỏ, là ngày tàn của bạo quyền CSVN sẽ không còn xa. Song, chúng ta cũng không nên lạc quan tếu vì biết rằng, tịnh tiến cuộc đấu tranh của dân tộc dưới thời Bắc Thuộc từng kéo dài Một Ngàn Năm (1000), nô lệ thực dân Pháp, là Tám Mươi Lăm Năm (85); trong giai đoạn nghiệt ngã lịch sử nầy dân ta đâu có ngồi yên, và vẫn hy sinh, trường kỳ chiến đấu cho đến khi đuổi được quân thù ra khỏi nước. Với bạo quyền CSVN tuy chỉ mới Ba Mươi Năm (30), nhưng đã có biết bao là phong trào đấu tranh âm thầm cũng như công khai chống VC tỉ như các tổ chức Phục Quốc Miền Nam, tổ chức vũ trang kháng chiến của chiến sĩ Trần Văn Bá, Lê Quốc Túy đã từng trực tiếp chiến đấu chống cộng, tiếp tay với các phong trào đòi hỏi Dân Chủ, Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo.Với sự liên tục đấu tranh kết hợp trong nước và hải ngoại, thì ngày cáo chung chế độc cộng sản hy vọng gần kề, tuy nhiên cần phải kiên trì tiếp tục đấu tranh cho đến khi tận diệt được hiểm họa CSVN.

IV. Lập Trường Của Cựu Tù Nhân Chính Trị

Trong cái rủi lại có được điều may. Biến cố mất nước 30-4 đã đưa đẩy gần 3 triệu người không chấp nhận chế độ CSVN phải bỏ nước ra đi tìm tự do, trong đó có hàng trăm ngàn quân-cán-chính Việt Nam Cộng Hòa và gia đình sau thời gian bị giam cầm trong lao tù cộng sản hoặc bị đày ải trong các rừng sâu nước độc được VC gán cho mỹ danh là vùng kinh tế mới, được đồng minh Hoa Kỳ vì lý do nhân đạo giúp đỡ cho tái định cư tại quê hương tự do nầy.

Được tái định cư tại Hoa Kỳ, quả thật tập thể tù nhân chính trị chúng ta đã một phần được đền bù về phương diện vật chất cũng như tinh thần; con cái được học hành và một số lớn đã thành công về học vấn cũng như tài chánh. Đáng thương hại là có hàng trăm ngàn thương phế binh của VNCH và 80 triệu đồng bào còn bị đau khổ quằn quại trong nước. Tuy nhiên, được may mắn như thế nhưng một số chiến hữu chúng ta vì thiếu suy nghĩ bị rơi vào một trong các trường hợp sai trái dưới đây:

- Vội vàng quên quá khứ, quên hẳn những hình ảnh man rợ mà bọn cộng sản từng đối xử tồi tệ với thân nhân và gia đình chúng ta lúc còn bị kẹt trong nước; rồi bòn mót tiền trợ cấp, tiền lao động của con cái đem về nước để le lói với bọn cường hào ác bá VC và hưởng thụ, kiếm gái tơ, không cần tìm hiểu, biết đâu những hạng nầy chính là con cháu của họ. Khi trở lại Mỹ còn khoe là VC đã tiến bộ, đã đổi mới nhiều. Xin quý vị hãy lấy đầu óc để phán đoán và hỏi lại: cái được gọi là đổi mới, những cái xa hoa tráng lệ đang có tại đất nước bây giờ là của ai? Của bạo quyền cộng sản? Của tư bản ngoại quốc? Hay của người dân lao động chân lấm tay bùn?

- Một số vốn từng ăn trên ngồi trước, quen chỉ tay năm ngón, qua Mỹ sợ người ta quên mình, thiếu suy nghĩ và nhẹ dạ đã như con thiêu thân chui vào những tổ chức bất chính làm trò hề cho đồng bào cười chê. Họ quên rằng, những tổ chức chống cộng giả hiệu múa may quay cuồng hiện nay tại hải ngoại không khác những voi nan và ngựa giấy đang diễn trò rẻ tiền trên sân khấu chính trị người Việt hải ngoại để làm hề cho thế giới khinh bỉ.

- Một số người khác, tuy cũng là những nạn nhân cộng sản, nhưng có cái nhìn quá hời hợt, ngoài việc mũ ni che tai, còn lên án đồng minh phản bội bỏ rơi, nên Việt Nam mới bị rơi vào tay cộng sản. Họ quên rằng, nếu đồng minh không vì quyền lợi riêng, hy sinh chiến thuật để đạt được chiến lược, cụ thể là phải bỏ Việt Nam để tìm cách tách Trung Cộng khỏi Nga, tức buộc CSVN chỉ được chọn một trong 2 nước đầu sỏ đàn anh, nhờ thế mới xé khối cộng sản làm 2 mảnh; từ đó CSVN mất hết một chỗ dựa, yếu thế rồi cuối cùng lại phải chui vào quỹ đạo của Mỹ bằng con đường Diễn Diến Hòa Bình.

Tình thế đã thay đổi, chiến thuật do đó cũng phải đổi thay, chúng ta không còn phải chiến đấu trên chiến trường, mà đấu tranh trên chính trường. Do xu thế thời đại và khuynh hướng quốc gia dân tộc, đối thoại thay đối đầu. Nhưng phải hỏi lại, ai có tư cách đối thoại? Không lý chúng ta laị nhu nhược để cho bọn lưu manh chính trị, bọn cơ hội chủ nghĩa nhân danh chúng ta để nói chuyện với CSVN như mưu đồ của một số tổ chức mua bán kháng chiến chăng? Không được. Phải tìm mọi cách, mọi phương pháp để điểm mặt chỉ tên những tổ chức tay sai, chống cộng giả, và xin làm đối lập cuội. Nhớ kỷ, đừng để rơi vào vết xe đỗ của những năm 1945-1946, trong đó Mặt Trận Quốc Dân Đảng, gồm có các chính đảng VNQDĐ, Đại Việt QDĐ và Duy Dân vì mắc mưu CSVN đã bỏ đi cơ hội quý báu cứu nước, bị cộng sản khoác áo chống Pháp lừa gạt rồi thỏa hiệp với chúng vô điều kiện cho chúng hủy diệt mình.

Mong rằng, quý vị cựu tù nhân chính trị hãy tỉnh táo và sáng suốt nhận định tình hình. Tuy vì tuổi tác, không còn sức khỏe để bền bĩ tiếp tục đấu tranh chính trị trên chính trường, nhưng mong qúy chiến hữu qua kinh nghiệm và nhờ truyền thông báo chí, hướng dẫn dư luận, triệt bỏ những tổ chức tay say CSVN mới sớm dẹp được hiểm họa cộng sản trong nước. Đó là điều thiết tha kêu gọi, và mong muốn các cựu tù nhân chính trị đề cao cảnh giác nhân dịp kỷ niệm Ba Mươi Năm Ngày 30-4. Ước mong thay.

Phùng Ngọc Sa


Tuesday, April 21, 2009

Ai là Việt kiều? - Nguyên Giao


Nguyên Giao

Trên truyền thông Việt ngữ, càng ngày hai chữ “Việt kiều” càng thấy xuất hiện nhiều hơn. Chúng ta nên hiểu và sử dụng danh xưng này như thế nào để được chỉnh về chính trị (politically correct)?
“Kiều” có nghĩa là ở hải ngoại, được dùng làm tĩnh tự cho các danh tự, như: “Kiều dân” là người dân sống ở bên ngoài ranh giới quốc gia mà người ấy được sinh ra (native land); “Kiều hối” là tiền bạc ở ngoại quốc; “Kiều vận” là vận động dân mình ở ngoại quốc.

Chữ “kiều” đã được dùng trong các chữ “Pháp kiều”, “Hoa kiều”, “Mỹ kiều”, và “Việt kiều yêu nước”. Dười thời Đệ Nhất Cộng Hoà, người Hoa sinh sống ở nam Việt Nam được chính thức gọi là Hoa kiều. Suốt trong cuộc chiến Bắc-Nam Việt Nam (1954-1975), nhà cầm quyền Hà Nội gọi các thành phần người Việt ở hải ngoại có những sinh hoạt phản chiến, hỗ trợ, hay có lợi cho cộng sản Việt Nam là “Việt kiều yêu nước”.

Tương tự, người Thái sinh sống ở ngoài Thái Lan là Thái kiều, và người Phi không ở nước Phi là Phi kiều. Trong hoàn cảnh chính trị quốc gia bình thường, liên hệ giữa chính phủ một nước với kiều dân của họ tốt đẹp, và không có vấn đề gì làm hai bên phải bận tâm: Khi những viên chức của chính phủ một quốc gia xuất ngoại công cán ở nơi xa có kiều dân của họ sinh sống, các viên chức cao cấp thuờng được kiều dân tiếp đón tưng bừng như các hình ảnh thấy trên các bản tin thời sự. Ngược lại, khi các kiều dân có dịp về thăm nơi “chôn rau, cắt rốn” của mình, họ thường được đối xử bình thường - có khi còn được biệt đãi - bởi các viên chức chính phủ, nhất là ở các cơ quan liên hệ đến hải quan, du lịch, hay thông hành.

Chữ “kiều” sẽ trở nên khúc mắc hơn khi một quốc gia bị các biến cố chính trị đưa đến các cuộc di dân có khi là ngoài ý muốn tự nguyện của một số các công dân ra khỏi biên giới quốc gia, hay khi quốc gia bị chia thành các chế độ chính trị đối nghịch.

Thí dụ: Hiện có hai nước Hàn quốc: Bắc Hàn, và Nam Hàn, cùng là hội viên của Liên Hiệp Quốc. Như vậy, nếu xét đến liên hệ giữa các Hàn kiều, và hai chính phủ đối nghịch chính trị, cũng như khác biệt về luật lệ quốc tịch, và di dân của Nam và Bắc Hàn, cần phải phân biệt có hai loại Hàn kiều: Nam Hàn kiều, và Bắc Hàn kiều.

Cũng tương tự như Hàn kiều, trường hợp các Hoa kiều của Trung Cộng, và Đài Loan cũng cần phải được phân biệt cho rõ ràng, để có thể tránh được những hiểu nhầm vô tình, hay “vơ đũa cả nắm”, có thể đưa đến những hậu quả “chết người”: Một Nam Hàn kiều trên đất Mỹ vi phạm những điều kiện của luật lệ di trú nếu bị trục xuất về Bắc Hàn thì khác gì như bị án tử hình?

So với các quốc gia trên thế giới, Việt Nam là một trường hợp khúc mắc liên hệ đến hai chữ “Việt kiều”. Lý do là vì Việt Nam là quốc gia độc nhất trên thế giới có tỉ lệ dân Việt ở hải ngoại tương đối cao (khoảng 3 triệu, so với 84 triệu trong nước), mà hầu hết thành phần này lại là nạn nhân của chính phủ đang cầm quyền ở Việt Nam, hậu quả của biến cố 1975. Vốn là tị nạn chính trị chế độ cộng sản, người Việt ở hải ngoại luôn luôn tìm mọi cách để biểu lộ cho người dân trong nước, dân bản xứ, cũng như cộng đồng thế giới biết họ không chấp nhận những ngưới cầm quyền ở Hà Nội là đại diện chính thức, và hợp pháp cho quốc gia Việt Nam. Các viên chức của Hà Nội khi đi công cán ở hải ngoại thường bị các kiều dân “dàn chào”, biểu tình phản đối, làm cho bĩ mặt trước truyền thông quốc tế. Ngược lại, khi về thăm Việt Nam, người Việt ở hải ngoại thường bị các viên chức có thẩm quyền ở hải quan, liên hệ đến thông hành, và du lịch cố ý ấn định giá vé, lệ phí cao hơn gấp hai, gấp ba so với cho người trong nước, làm khó khăn để bòn tiền trà nước, để ý bằng con mắt nghi ngờ, cùng các biện pháp kỳ thị khác.

Trong thời chiến, trước khi chiếm được miền Nam, cộng sản Hà Nội đã dùng một số “Việt kiều yêu nước” để tuyên truyền cho chiêu bài “Chống Mỹ, cứu nước” của họ. Thật ra, “Việt kiều yêu nước” chỉ là “người Việt thân cộng ở hải ngoại”.

Ngày nay, Hà Nội lại muốn tiếp tục “mập mờ đánh lận con đen” muốn lợi dụng nguồn tài nguyên (như ngoại tệ, và kiến thức kỹ thuật) càng ngày càng gia tăng của người Việt ở hải ngoại để duy trì chế độ. Họ dùng chữ “Việt kiều” để gọi chung tất cả 3 triệu người Việt ở hải ngoại, với tà ý “xập xí, xập ngầu” với đồng bào ở trong nước, cũng như cộng đồng thế giới rằng 3 triệu người Việt ở hải ngoại vẫn là “Khúc ruột ở xa ngàn dặm”, ám chỉ họ được sự công nhận, và hỗ trợ của 3 triệu “Việt kiều”. Những ai còn nghi ngờ ý đồ của Hà Nội xin hãy tìm đọc kỹ nội dung bộ luật hiện hành về quốc tịch của Hà Nội để thấy rằng: Cộng sản Hà Nội không nhượng bộ một ly nào đối với người Việt trong cũng như ngoài nước. Bộ luật quốc tịch Việt Nam cộng sản vẫn khăng khăng qui định: Người Việt nào chưa được giấy phép của Chủ tịch Nước từ bỏ quốc tịch Việt Nam vẫn là công dân Việt Nam, dù đã vào quốc tịch bất cứ nước nào. Hà Nội không chấp nhận song tịch, mà xác quyết người Việt có quốc tịch nước ngoài vẫn là người còn quốc tịch Việt Nam, nên vẫn bị luật lệ Việt Nam chi phối. Hà Nội còn triệt để hơn nữa khi áp dụng luật này cho các con cháu thế hệ thứ hai sanh tại ngoại quốc của người Việt ở hải ngoại: Những thiếu niên Việt sanh tại Mỹ, Pháp, Úc, v.v., con cái của cha mẹ có quốc tịch của các nước ấy, vẫn bị nhận vơ là “con dân” của cộng sản Hà Nội! Trên thế giới thử hỏi có chính phủ nào vừa vô lý, vừa trâng tráo, và nham hiểm như vậy không?

Trong khi đó, mỗi khi người Việt ở hải ngoại có vấn đề với các cơ quan thẩm quyền sở tại – thí dụ như về giấy tờ cư trú, di dân, hay mỗi khi bị dân bản xứ kỳ thị ở các quốc gia Đông Âu – các viên chức ở sứ quán của Hà Nội lại hoặc bất lực, hoặc cố ý quay mặt làm lơ, không hành xử nhiệm vụ thuộc phạm vi công vụ của mình.

Để tránh sự lợi dụng của nhà cầm quyền Hà Nội, cũng như những thành phần thân cộng ở hải ngoại, chúng ta, nhất là những người Việt đã có quốc tịch của nước sở tại (như Pháp, Đức, Anh, Úc, Mỹ), nên minh xác rõ ràng rằng chúng ta là “người Pháp (hay Đức, hoặc Anh, hay Úc, hoặc Mỹ) gốc Việt, cựu tị nạn cộng sản (nếu thích hợp)”, chứ không phải là Việt kiều gì hết! Con em của chúng ta được sinh ra ở hải ngoại là “người Pháp (hay Đức, hoặc Anh, hay Úc, hoặc Mỹ) gốc Việt”, tự động có quốc tịch, và là công dân của nước mà chúng đã được sanh ra. Không kể một thiểu số thân cộng, hầu hết người Việt ở hải ngoại không những không là “Việt kiều”, mà còn công khai cương quyết chống lại các kế hoạch kiều vận của bạo quyền Hà Nội, đồng thời tiếp tay hỗ trợ cho các chiến sĩ tranh đấu cho tự do, nhân quyền, và dân chủ ở trong nước.

Cũng đừng quên rằng, vì có quốc tịch của nước mà chúng ta sinh sống, đổi lại những quyền lợi đáng kể mà tất cả các công dân của nước đó đều được hưởng hàng ngày, chúng ta có bổn phận thực thi những nghĩa vụ công dân như đóng thuế, đi bầu, tôn trọng hiến pháp cũng như luật lệ, và phục vụ quyền lợi dân tộc và quốc gia sở tại.

Nguyên Giao
San Diego, Hoa Kỳ
Tháng Tư, 2009


Hòa Lan Thông Báo Tổ Chức Đi Genève Biểu Tình

    Kính thưa quý vị,

    Theo quy định của LHQ, cứ mỗi bốn năm một lần; năm nay phái đoàn Hà Nội phải đến trước Hội đồng Nhân quyền LHQ phúc trình theo thể thức “Kiểm điểm Thường Kỳ Toàn diện” (Universal Perodic Review ) về tình trạng nhân quyền tại VN cùng sự tuân thủ các công ước quốc tế đã ký kết. Sau phúc trình các quốc gia khác sẽ chất vấn phái đoàn Hà Nội xem sự thực như thế nào.

    Ý thức tầm quan trọng đó, Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người VN và Cơ Sở QuêMẹ sẽ tổ chức và kêu gọi cuộc Biểu Tình yêu sách cho nhân quyền và dân chủ cho VN lúc 9 giờ sáng thứ sáu ngày 8-5-2009 tại Place des Nations, trước trụ sở LHQ, Genève.

    Đáp ứng lời kêu gọi này CDVNTNCS/HL sẽ tổ chức một phái đoàn đến Genève tham gia cuộc biểu tình cho nhân quyền, tự do và công lý . Phái đoàn sẽ được hướng dẫn bởi ông Phó Chủ Tịch Nội Vụ . Vậy BTV/CD xin thông báo đến quý hội đoàn, tổ chức và quý đồng hương được rõ. Quý vị nào muốn tham gia cùng phái đoàn xin hãy liên lạc với ông:

    Lưu-Phát-Tấn đt: 06-23141479
    Ghi danh: Cho đến hạn chót ngày 1.5.2009
    Địa điểm tập trung: Buurschapenlaan 58 5235 EG s’ Hertogenbosch
    Ngày 7-5 khởi hành lúc 20:00 giờ
    Ngày 8-5 biểu tình xong về trong ngày.

    Trân trọng thông báo,

    T/m BTV/CDVNTNCS/HL
    C/tịch Nguyễn Liên Hiệp




CON ĐƯỜNG CHÚNG TA ĐI - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Khi bước chân xuống tàu vượt biên hay lên phi cơ đi tỵ nạn, thâm tâm mỗi người chúng ta ai cũng đều mơ ước ra xứ ngoài sẽ làm một điều gì cho đất nước, hay một ngày nào đó sẽ quay về cùng toàn dân giải phóng quê hương thoát khỏi chế độ cai trị độc tài đảng trị của Cộng sản. Ngày ký tên xin hưởng quy chế tỵ nạn, tất cả đã long trọng xác nhận rằng bản thân cũng như gia đình không thể quay về sống dưới chế độ Cộng sản. Như vậy những người bỏ nước ra đi đã xem Cộng sản là kẻ thù không đội trời chung thì giờ đây phải dứt khoát lập trường việc chống Cộng, lấy chính nghĩa tự do, nhân quyền và hạnh phúc của toàn dân Việt Nam để xác định con đường tranh đấu.

A. MỘT CUỘC TRANH ĐẤU CÓ CHÍNH NGHĨA

Mục tiêu tranh đấu dứt khoát là tập đoàn Cộng sản phải bị tiêu diệt hoàn toàn. Không bắt tay hòa giải hòa hợp với kẻ thù và chọn con đường Tự Do để cứu dân tộc thoát khỏi xiềng xích mà chế độ Cộng sản đã bần cùng hóa, ngu muội hóa và nô lệ hóa dân chúng để cai trị gần 33 năm qua. Trời, Đất không thể gần nhau, thiên thần và ác quỷ không thể làm bạn, nước với lửa không thể kết hợp thì hai chế độ Tự Do và Cộng sản cũng không thể chung đụng, hợp tác, liên hệ hay bắt tay sống chung hòa bình. Giữa Quốc Gia và Cộng sản bắt buộc phải có một làn ranh dứt khoát rõ ràng. Mầm mống Cộng sản là một loại siêu-vi-khuẩn vô cùng nguy hiểm, một khi đã diệt thì bắt buộc phải giết tận gốc. Nếu khinh thường, chúng nó sẽ hồi sinh và quật phá trở lại mạnh mẽ gấp trăm nghìn lần như trường hợp chích ngừa chưa đủ dung lượng hay con bệnh truyền nhiễm chữa trị không đúng cách.

Hành trang của một người tranh đấu cần phải dứt khoát, xác định lập trường con đường đang đi. Một khi lý tưởng đã rõ ràng là phải đánh đổ bạo quyền Hà Nội thì hành động chống Cộng phải nhiệt tình và liên tục. Không lưng chừng hay quay chiều đổi hướng vì quyền lợi vật chất. Không mượn con đường chính trị để mưu cầu lợi ích vinh thân phì gia cho gia đình cá nhân hay phe nhóm, như vậy lý tưởng của chúng ta sẽ trở nên trong sáng, là ngọn nến, là ánh đuốc để thu phục người thân, bạn bè, đồng đội và những người chung quanh.

Hành động chống Cộng đòi hỏi phải rõ ràng, thiết thực và hiệu quả. Muốn vậy, cần phân định bạn, thù thật minh bạch, không thể lẫn lộn trắng đen, không thể nhập nhằng hòa giải hòa hợp để xây nền đắp móng giúp chế độ Cộng sản càng ngày càng vững chắc. Nếu vô tình hà hơi cho Cộng sản thì đây là một hình thức hợp thức hóa hành động tội ác cũng như của cải tài sản mà chúng đã bóc lột của người dân.

Cần ghi nhận, cuộc tranh đấu nào cũng gian nan vất vả, muốn đạt được thắng lợi, điều tất yếu, phải cam đảm, bền chí và sáng suốt nhắm thẳng mục đích, chọn con đường chính trực và lương thiện để tiến tới. Không thể lương lẹo theo đường tắt, móc ngoặc hoặc đi đêm với kẻ thù để tìm phương tiện, tiền bạc và mưu đồ quyền lực. Như vậy kẻ nào có hành động mờ ám chính là người đâm sau lưng cộng đồng người Việt Quốc Gia. Ngoài ra việc chống Cộng không phải độc quyền dành riêng cá nhân, đoàn thể hay một đảng phái nào mà chính là bổn phận của tất cả mọi người, vậy phải biết hổ trợ nhau, tạo thế mạnh và đồng loạt tiến tới. Trên cùng chuyến tuyến không thể thọc gậy bánh xe người bạn bên cạnh, xô ngã bạnđồng hành, bôi xấu chụp mũ đồng đội để chen lên hàng đầu, cướp công sức, tạo tiếng vang với âm mưu lập công cho cá nhân, gia đình và phe nhóm.

Việc chống Cộng là trách nhiệm của tất cả chúng ta, không thụ động, không tiêu cực mà cần chủ động trong giai đoạn quyết liệt nầy. Tùy môi trường, khả năng và hoàn cảnh của mỗi người để góp công chung sức. Được như vậy mỗi người trong chúng ta sẽ thắp lên một ngọn nến nhỏ, thì hàng vạn, hàng triệu ngọn nến sẽ soi sáng cả một bầu trời. Nhờ đó mà kẻ thù của chúng ta, thành phần cò mồi đón gió trong cộng đồng cũng như toàn thế giới sẽ thấy rõ con đường chính nghĩa của chúng ta đang đi.

Kính đề nghị tất cả nghiên cứu kỹ trước mỗi hành động để lúc ra tay khỏi rơi vào mê hồn trận của kẻ thù đang giăng ra. Thủ đoạn của Cộng sản bao giờ cũng nhập nhằng và tráo trở, chúng tung hỏa mù, đổi đen thành trắng để dụ dỗ, lôi kéo những ai hời hợt hấp tấp nghe theo. Tôi xin đơn cử một vấn đề nóng bỏng hiện nay là việc Trung Cộng chiếm hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa của chúng ta. Với tinh thần yêu nước cao độ, ai cũng đau lòng trước cảnh nước mất nhà tan, tất cả mọi người hải ngoại đã xuống đường ủng hộ các cuộc biểu tình tại quốc nội đồng thời lên án Cộng sản bán nước và Tàu Cộng xâm lăng. Cũng vì quá nhiệt tình, đôi lúc chúng ta đã vô ý đi đúng kế hoạch của Cộng sản tung ra. Chúng khôn khéo chuyển mũi dùi chống đối vào quân ngoại xâm Trung Cộng để khỏa lấp tội dâng đất dâng biển cho quan thầy bằng giấy trắng mực đen. Nhiều cộng đồng hải ngoại không biểu tình trước tòa đại sứ Việt Cộng để kết tội kẻ bán đất nhượng biển mà tập trung trước sứ quan Trung Cộng ! Không đập kẻ ký giấy bán nước, rước giặc vào nhà mà lại chú tâm đá đảo người mua đến nhận hàng !

Mục đích Cộng sản tung ra là muốn người Việt hải ngoại đồng loạt bắt tay với du sinh dưới cờ Đỏ Sao Vàng để kết án Trung Cộng chiếm đất. Từ chỗ nầy, chúng ta đã thấy hai điểm nhập nhằng có lợi cho Cộng sản: Khỏa lấp tội bán nước của chúng và chúng có cơ hội rêu rao rằng Cộng sản quốc nội và Tự Do hải ngoại bắt tay nhau để chống ngoại xâm trong tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc.

B. PHẢI LÀM GÌ TRONG HIỆN TẠI ?

Để góp ý vào việc tranh đấu, tôi xin đưa ra vài đề nghị : Con đường tranh đấu cần sự góp mặt tất cả các thành phần, hướng về một mục tiêu và bắt tay nâng đở nhau tạo sức mạnh để vượt qua những trở ngại. Nhưng không nên quên một điều tối cần cần thiết: Phân biệt bạn, thù và các thành phần nguy hiểm đang vây quanh chúng ta. Cổ nhân đã dạy "biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng" câu nói nầy có thể áp dụng vào trận chiến không giới tuyến của chúng ta hiện nay.

B1. Bạn đồng chí hướng: Bất luận cá nhân, đoàn thể, đảng phái nào cùng chung một lý tưởng, dứt khoát chống Cộng và quyết tâm đánh đổ đảng Cộng sản bằng mọi giá đều có thể xem là bạn đồng hành. Dù đường lối tổ chức, phương thức hành động có cách biệt nhau nhưng mục đích chính vẫn xem Cộng sản Việt Nam là kẻ thù cần phải tiêu diệt thì đó là bạn, người cùng hội cùng thuyền mà chúng ta phải phụ lực, nâng đở để cùng tiến tới mục đích. Đừng vì một vài dị biệt, đố kỵ cá nhân rồi mượn phương tiện truyền thông để bôi nhọ lẫn nhau, như vậy chúng ta đã vô tình rơi vào âm mưu đen tối của Cộng sản. Cũng xin đừng nên xét đoán đường lối hoạt động của từng đảng, từng hội đoàn để có một lối nhìn lệch lạc và làm suy yếu khí thế chung. Có thể đơn giản để nhận được ai là bạn qua những lần góp mặt dưới cờ, xuống đường tranh đấu. Ai đã dành thời gian công sức cho sinh hoạt chung dưới cờ Vàng Ba Sọc Đỏ thì có thể xem họ là người đồng hành, ít ra đã mang sẵn trong người một tinh thần cộng tác, một lý tưởng trong sáng.

B2. Kẻ thù: Đủ người đủ mặt đang vây quanh chúng ta. Trước hết phải nêu đích danh là chính tập đoàn lãnh đạo Việt Cộng trong nước, bọn hưởng quyền đặc miễn ngoại giao tại các sứ quán. Đây chính là kẻ thù rõ ràng, dễ nhận diện để người Việt Quốc Gia đối phó, tùy cơ ứng biến trong các hoàn cảnh và môi trường khác nhau.

B3. Thành phần nguy hiểm: Bạn và thù thì dễ nhận mặt nhưng khó xác định đối với thành phần lơ lửng một khi chúng chưa xuất đầu lộ diện. Tôi xin phép chia thành phần nầy làm năm nhóm, tính theo mực độ nguy hiểm từ trên xuống dưới : Nằm vùng, đối lập cuội, trở cờ đón gió, dính chàm và trí thức mất gốc.

B3.1. Nằm vùng:
Thành phần nguy hiểm là những tên Cộng sản nằm vùng. Chúng được huấn luyện kỹ về tuyên truyền, giao tế, kiều vận, đặc công để len lỏi vào các đoàn thể đảng phái của chúng ta. Bình thường những tên nầy lúc nào cũng tỏ vẽ chống Cộng nhiệt tình, hăng say nhưng nếu tinh ý chúng ta sẽ thấy những cái sơ hở khi chúng giận dử bất mãn, lúc no say hay bốc đồng không kịp kềm chế như một số đã bị cộng đồng lột mặt nạ đưa ra ánh sánh. Chúng có mặt trong nhiều lãnh vực và ẩn mình len lỏi vào các cơ cấu tổ chức của người Việt Quốc Gia. Chúng nghiên cứu từ mục tiêu, tổ chức, đường lối, nhân sự, khả nàng tài chánh, môi trường và phạm vi hoạt động của từng cơ sở một để báo cáo cho các sứ quán và trung ương để nơi đây vạch ra cho chúng chương trình phá hoại. Các thành phần nầy không hẳn là những tên Cộng sản chính hiệu mà đa số là những người nằm vùng từ thời trước, ra nước ngoài xin tỵ nạn để tiếp tục phục vụ chế độ Cộng sản. Cần lưu ý nhiều tên còn ẩn danh một cách kín đáo, chưa bị các cộng đồng lật tẩy trong các đoàn thể, đảng phái và tôn giáo. Giai đoạn tranh đấu quyết liệt mà địch hành động qua nghị quyết 36 là Cộng sản chỉ thị cho các sứ quán đẩy mạnh chương trình phá rồi cộng đồng qua phương tiện tuyền thanh, truyền hình, báo chí cũng như kiều vận nhắm vào thành phần trẻ.

Một số đã bị lật tẩy như tên cựu thiếu tá quận trưởng ở San Diego, hoạt động giấu mặt ẩn danh từ hàng chục năm qua. Cũng gần đây nhiều cơ quan báo chí núp dưới những danh từ chống Cộng thật kêu nhưng bị lộ diện sau khi chúng phải ra mặt thi hành lệnh của sứ quán. Dù chúng thanh minh bào chữa cách nào cũng không thể qua mặt được cộng đồng người Việt Quốc gia vì cái kim nằm lâu trong túi cũng có ngày lòi ra.

Trong các tháng vừa rồi, nhiều cơ quan truyền thông đã vạch mặt chỉ tên nhiều sư Đỏ do Hà Nội bổ sung cho nhóm nằm vùng qua chương trình tu nghiệp, du học, thuyết pháp hoặc du lịch dài hạn. Những sư ông sư bà nầy được Cộng sản bố trí trong các chùa từ Mỹ, Âu qua Úc…Nhiều sư có đảng tịch, có vợ chính vợ chui với hàng triệu mỹ kim trong ngân hàng…

B3.2. Đối lập cuội:
Nhiều người do Cộng sản huấn luyện để đóng vai đối lập rồi tung ra hải ngoại thi hành nhiều chiêu bài khác nhau. Tôi xin đưa ra vài khuôn mặt điển hình : Hoàng Minh Chính, Nguyễn Tiến Trung và Bùi Tín là những con rối do Cộng sản dàn dựng qua các lá bài đối lập mà Hà Nội đã gởi đi chiêu dụ người Việt hải ngoại:

Hoàng Minh Chính, sư tổ chủ nghĩa Marx-Lênin, đảng viên lãnh đạo đảng Cộng sản với lá bài một chính phủ hòa hợp ba thành phần. Hoàng Minh Chính qua Mỹ lén lút họp với đám cò mồi dưới danh nghĩa ‘Tiểu Diên Hồng’ mà trước đây trong một số bài viết tôi gọi là ‘kiềng ba chân’.

Du sinh Nguyễn Tiến Trung, còn trẻ, từ Pháp đi một vòng thế giới vận động một cách ồn ào và láo khoét với các cộng đồng qua chiêu bài ‘Nối Vòng Tay Lớn’, lập ‘kiến nghị van xin’ ân huệ với nhà cầm quyền Cộng sản !

Bùi Tín đảng viên gộc được phép bỏ đảng trở thành đối lập để tiếp tục công tác nằm vùng dưới vai trò một người tỵ nạn chính trị tại Pháp !.

Đến đây xin mở một dấu ngoặc, bất cứ ai, dù trước đây thuộc thành phấn nồng cốt của Cộng sản nhưng nay tỉnh ngộ quay trở với chúng ta là một điều may mắn cho vận nước. Nhưng điều kiện tiên quyết là phải đến với sự sám hối, lòng chân tình và quyết tâm hợp lực với chúng ta trong công cuộc tranh đấu cho công bằng tự do dân chủ. Đằng nầy, mấy tay Cộng sản gộc nhận lệnh ra ngoài hô hào chống Cộng sản, kêu gọi lật đổ chế độ một thời gian rồi trở về, vẫn nhà cao cửa rộng, vẫn lãnh tiền lương tháng, tiền hưu bổng và hưởng tất cả ân huệ của đảng. Lúc đau ốm lại được điều trị trong bệnh viện dành riêng cho lãnh tụ thì chỉ có những kẻ mù mới tôn sùng hạng người nầy như ngọn đuốc của phong trào tranh đấu !

B3.3. Trở cờ đón gió: Tiếp đến là thành phần chính trị có mồi, trở cờ theo gió, đổi trắng thay đen tùy theo tình hình thời thế. Một khi bỏ nước ra đi tỵ nạn, họ đã hiểu biết thế nào là Cộng sản nhưng vẫn cúi đầu làm nô lệ cho kẻ thù thì không thể tồn tại trong cộng đồng người Việt Qưốc Gia. Lý thuyết Cộng sản bây giờ không còn quyến rũ được ai nhưng một vấn đề vẫn làm cho con người mờ mắt, đó là Tiền. Một người vì tiền, và chỉ vì đồng tiền mà có thể đổi trắng thay đen như cắc kè kỳ nhông thì chúng có thể bán đứng cả cha mẹ vợ con là chuyện bình thường. Lý tưởng quốc gia, hạnh phúc dân chúng không đánh động được lương tâm và trái tim hạng người nầy vì họ là những khối thịt biết đi, cuộc đời vỏn vẹn chỉ có dollars, đôi đũa và chiếc giường ! Thành phần cò mồi đón gió chính là mục tiêu để Cộng sản áp dụng nghị quyết 36 qua chương trình kiều vận. Với hàng trăm triệu ngoại tệ chúng sẵn sàng nuôi dưỡng một số tay sai để thi hành kế hoạch đánh phá người Việt Quốc gia hải ngoại. Những chuyện đau lòng vừa xảy ra trong cộng đồng người Việt tại Mỹ đã chứng minh những điều tôi trình bày ở trên.

Người chống Cộng hăng say trước kia nay vì chiếc bánh vẽ của kẻ thù đã quay mặt phản bội chúng ta, trở về bưng bô cho địch như Nguyễn Cao Kỳ. Cao bồi nầy được Cộng sản huấn luyện hai năm tại Sàigon, trở về Mỹ kêu gọi hoà giải hòa hợp với chiêu bài ‘một chính phủ hai thành phần’ mà trước đây tôi gọi là ‘thế hai cẳng’. Dù một người chống Cộng ngày xưa nay quay về bưng bô cho kẻ thù hay tên mất nết Phạm Duy cũng như những tên ca sĩ tham tiền trở về giả lả tuyên bố vung vít để xin hát kiếm tiền độ nhật … đều là thành phần phản bội, bị đồng tiền làm mờ mắt thì không thể có mặt trong cộng đồng hải ngoại.

Hạng cò mồi đón gió trên không nguy hiểm bằng những ông bà trí thức đang sinh hoạt trong cộng đồng người Việt Quốc gia trên khắp thế giới. Họ có khả năng, có tiền và có môi trường hoạt động, nhưng tiếc thay họ dùng chất xám và vật chất để đầu tư cho một mưu đồ đen tối.

B3.4. Dính chàm: Nếu những vị trí thức hay sĩ quan, công chức chạy trốn Cộng sản sau ngày mất nước, hoặc nín thở qua sông sau nhiều năm tù tội dưới chế độ mới thì những người nầy chắc chắn đã nếm mùi Cộng sản. Với kiến thức sẵn có, lẽ ra họ còn chống Cộng hơn những thành phần khác nhưng tại sao lại âm thầm chống đối những người đang nổ lực tranh đấu cho nhân quyền tự do dân chủ Việt Nam ? Điều nầy cho phép cộng đồng người Quốc Gia nghĩ rằng một số ít quý vị đã "dính chàm". Cộng sản nắm được một vài yếu điểm thầm kín nào đó để buộc những người nầy thi hành kế hoạch nằm trong nghị quyết 36. Trường hợp nầy thì hết thuốc chữa, một khi đã dính chàm thì không bao giờ rửa sạch vết dơ hay thoát khỏi những đòn thâm độc của Cộng sản.

Người đi tù hàng chục năm dưới chế độ Cộng sản trước kia chưa chắc là người chống Cộng ngày nay mà có thể họ đã dính chàm và nằm trong kế hoạch trồng người. Hãy đọc thật kỹ hồi ký của họ, trong đó bưng bít bằng nhiều cảnh tưởng tượng, viết sai sự thật, đánh bóng với những sự kiện nghịch lý mà những ai đã ở tù Cộng sản đều nhìn thấy rõ. Tôi đã đọc nhiều hồi ký cải tạo, có người tự cho mình là anh hùng, nhà lãnh tụ đã đứng từng lên chống Cộng sản, tổ chức chính phủ cứu nguy dân tộc ngay từ trong nhà tù !

Dưới ánh sáng mặt trời tất cả đều không có gì lạ. Có những anh tù cải tạo về, viết sách nói những chuyện không tưởng để rồi bị những bạn tù ngày trước tố cáo và chính ngòi bút vung vít đã đốt cháy họ thành tro. Thường những anh nào thường lớn tiếng chống đối chế độ ngay trong tù thì chính là ‘ăng ten’ hạng nặng trong các trại giam để được hưởng một vài quyền lợi vật chất nào đó.

B35. Trí thức mất gốc: Đối với một số trí thức hải ngoại thuộc thành phần du học trước năm 1975, chúng tôi xin nhấn mạnh một số ít, là thành phần cô chiêu cậu ấm con cái công chức cao cấp của hai nền Cộng Hòa trước đây. Muốn trốn lính thì con đường du học là giải pháp độc nhất để tránh trách nhiệm người trai thời chiến. Như vậy có thể gọi họ thuộc thành phần trốn quân dịch. Khi ra nước ngoài lại ăn phải bả Cộng sản, đứng vào hàng ngũ Việt Kiều Yêu Nước, quay ngược chống phá chế độ, phản bội những người đã nằm xuống. Những vị nầy đã được nuôi dưỡng đùm bọc bằng tài sản quốc gia, bằng mồ hôi nước mắt, bằng xương máu của nhân dân Miền Nam nhưng đã quay lưng trở lại chống chế độ và chống ngay cả cha ông của họ đang phục vụ dưới cờ Tự Do. Hình ảnh Cộng quân tiến chiếm Miền Nam gây đau thương chết chóc cho hàng chục triệu nhân mạng, bóc lột tận cùng xương tủy người dân, đem đất dâng cho quan thầy Trung Cộng, bán thanh niên nam nữ làm nô lệ, cung cấp gái điếm cho năm châu cũng chưa đủ cho họ sáng mắt hay những vị nầy đã ngậm phải bùa ngải của Cộng sản ? Nếu bây giờ những ông bà trí thức cò mồi vẫn thấy rằng chế động Đỏ là nôi của loài người, là đỉnh cao của nhân loại sao không về phục vụ Cộng sản như Tôn Nữ Thị Ninh mà còn sống bám vào Cộng Đồng người Việt hải ngoại ? Quan niệm chính trị là quyền tự do của mỗi người, nhưng trong cao trào tranh đấu dân chủ cho Việt Nam, nếu những người nầy không ủng hộ, không tham gia thì xin hãy im lặng đứng qua một bên để chúng tôi làm việc. Nếu lãnh tiền của địch để phá hoại thì xin hãy nghĩ lại, chính cộng đồng là môi trường đã đùm bọc và nuôi dưỡng để được vinh thân phì gia ở quê người.

C. TRẬN CHIẾN NGÀY HÔM NAY

Trận chiến ngày nay giữa hai ý thức hệ Quốc Gia và Cộng sản, đối với chúng ta, có thể nói đã nằm ngoài quy ước của một cuộc chiến tranh cổ điển. Hơn nữa chúng ta không có vũ khí, máy bay, tàu chiến, súng đạn để đánh thẳng vào hang ổ Cộng sản. Tây phương (Mỹ, Châu-Âu) không có xứ nào dại dột kéo quân đến kiếm chuyện giúp chúng ta, trừ khi Việt Nam nằm trên những mỏ dầu vĩ đại giống như các xứ Á-Rập thì các cường quốc Tây Phương mới nhảy vào gây chiến.

Đừng nghĩ đến việc người Việt Quốc Gia hải ngoại có thể trở về đánh đuổi Cộng sản giành lại đất nước mà động lực chính để triệt hạ Cộng sản Việt Nam chính là nổ lực từ bên trong.

Một cuộc cách mạng từ trong nước cũng không dễ dàng bùng nổ cùng một lúc mà phải qua ba giai đoạn. Từ thời kỳ mở đường đến giai đoạn quyết liệt và cuối cùng là giây phút dứt điểm. Thành phần mở đường của giai đoạn đầu là việc xuống đường từ Nam ra Bắc, từ thành thị đến thôn quê của thanh niên, sinh viên, công nhân, dân oan, Phật tử và giáo dân. Qua giai đoạn quyết liệt là sự góp mặt đứng dậy của toàn dân dưới sự lãnh đạo các đảng phái đối lập trong nước và giai đoạn cuối để dứt điểm, chính là do thành phần Cộng sản thực sự phản tỉnh từ trung ương đến địa phương cũng như lực lượng quân đội nhân dân bất mãn.

Phải thành thật nhìn nhận rằng Người Việt Quốc Gia hải ngoại chưa thực hiện hết khả năng của mình trong việc góp công, góp sức cho phong trào tranh đấu quốc nội. Chúng ta chưa có chương trình, kế hoạch cấp thời, ngắn cũng như dài hạn để giúp đở quốc nội. Nói riêng hải ngoại, cũng chưa có đường lối chống trả đòn phép do Cộng sản tung ra mà thường thấy những hành động chắp vá. Tình trạng nầy có thể ví như cảnh mất trâu mới làm chuồng hoặc nước lụt đến đâu thì đắp đê đến đó.

Mới đây một vài đoàn thể đã đem lại phấn khởi cho cộng đồng hải ngoại qua chủ trương chống nghị quyết 36. Nhưng phải thành thật mà nói kết quả chưa mang lại gì nhiều, vì các tổ chức nầy, ngoài vài văn bản kêu gọi vận động quần chúng cũng như vạch trần thủ đoạn âm mưu của nghị quyết, các tổ chức nầy chưa có kế hoạch thiết thực để chống lại những thủ đoạn của Cộng sản đang tung ra dưới nhiều lãnh vực. Kêu gọi, tố cáo suông chưa đủ mà cần những hành động thiết thực cấp thời, ngắn cũng như dài hạn.

Trong lúc Cộng đồng Người Việt Quốc Gia đánh Cộng sản theo lối ‘chạy theo’ thì Hà Nội đã và đang dồn tất cả nổ lực đánh phủ đầu và trực diện chúng ta một lượt về hai lãnh vực:

Tinh thần: Từ tuyên truyền, tôn giáo, truyền thông, giáo dục, văn hóa nghệ thuật đến việc phá rối, móc nối, cấy người, mua chuộc, chụp mũ, chia rẽ và hăm dọa.. Cộng sản không bỏ sót một lãnh vực nào. Những hành động dưới đây đã chứng minh những gì cộng đồng người Việt Quốc Gia đã gặp trong thời gian qua:

Tuyên Truyền: Một số báo mà thành phần chủ trương cũng như ban biên tập đều có liên hệ hay nằm trong tổ chức Cộng sản. Các đài phát thanh được thành lập bởi nguồn tài chánh từ Việt Nam hay các tổ chức kinh tài nằm vùng và do thành phần cò mồi đón gió đứng tên điều hành.

Tôn Giáo: Đảng viên Cộng sản đội lốt nhà sư xuất hiện trong chùa. Cha Cố qua Mỹ vắt sữa giáo dân. Nhà Phật không còn là nơi linh thiên thờ phượng mà biến thành ổ dung thân an toàn cho Cộng sản, chỗ kinh doanh của chế độ trong nước. Ngoài ra Cộng sản đở đầu thành lập những giáo hội Phật Giáo quốc doanh để mưu đồ thay thế giáo hội Phật Giáo chân chính. Cán bộ nằm vùng trở thành giáo dân và Phật tử, đóng vai cò mồi vét túi con chiên và thiện nam tín nữ. Những việc mua bán, quyên tiền một cách công khai trắng trợn trong các nơi thờ phượng vì những cò mồi của Sư, Cha đã biến Chùa, nhà thờ thành cái chợ. Bước chân vào chùa là phải chi tiền, không cúng dường thì phải đóng góp ủy lạo, giúp thiên tai nạn lụt, kẻ nghèo cùng bất hạnh hay phải mua lộc hoặc món ăn mang về để làm vui lòng các vị trụ trì. Sư Cha ngày nay, nhất là ở các xứ tự do, mặt mày thân mình không còn khắc khổ đạo hạnh như ngày trước mà ông nào cũng phì nộn với cái bụng nước lèo vì quá độ dinh dưỡng.

Truyền Thông: Cộng sản đặt nặng vấn đề truyền thông và đưa lên hàng đầu trong chương trình kiều vận của nghị quyết 36. Thế giới càng văn minh tiến bộ thì vai trò truyền thông ảnh hưởng càng lớn. Dân từ các đô thị đến những vùng thôn quê có thể nghe, đọc tin và xem hình của thế giới bằng một cái bấm nhẹ trên con chuột máy vi tính. Tại sao Cộng sản lợi dụng tối đa truyền thông ? Vì đây là phương tiện tuyên truyền đa dạng, lợi dụng để thông tin một chiều, gây hoang mang nghi ngờ, đánh phá đối phương bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần một vấn đề nào đó. Trong thời gian qua, nhiều sự việc xảy ra trên đất Mỹ đã chứng minh Cộng sản nhúng tay vào các cơ quan truyên thông của người tỵ nạn bằng cách xử dụng báo chí, truyền thanh nằm vùng để đánh phá cộng đồng dưới nhiều lãnh vực.

Giáo Dục: Già Hồ đã dạy cho đệ tử ‘trồng cây mười năm, trồng người trăm năm’, nhưng đứng trước tình thế cấp bách, bọn đàn em đã rút ngắn thời gian trồng người không còn thời gian trăm năm mà phải chủ trương ăn vội. Chúng phải xử dụng một số cò mồi non trong các trường trung-đại-học cũng như các tay nằm vùng chưa thông suốt bài bản để đáp ứng với tình thế mới. Do đó, những tay non nầy đã bị lộ chân tướng khi đối đầu với tập thể Cộng đồng. Nhưng vẫn còn một vấn đề rất quan trọng là Cộng sản đang đẩy mạnh các chương trình giáo dục mầm non cũng như giới trẻ hải ngoại. Chúng xử dụng ngoại tệ, gài người vào trong các công tác giáo dục trẻ em cũng như giới trẻ bằng nhiều hình thức, nổi bật nhất là chúng len lỏi vào các chương trình dạy tiếng Việt cũng như mua chuộc sinh viên tại các trường đại học.

Văn Hóa Nghệ Thuật: Một điều nhức nhối của cộng đồng người Việt hải ngoại, Việt Cộng đưa ra nước ngoài nhiều đoàn hát, trình diễn văn nghệ, phô trương áo dài và tuyển chọn hoa hậu với mục đích dùng các chương trình văn hóa để tuyên truyền ru ngủ và kêu gọi đồng bào về thăm quê hương, đem chất xám và tiền bạc phụng sự đất nước. Những hoạt động kiều vận phát xuất từ trong nước đã bị tẩy chay tại Úc, Âu sang đến Mỹ. Việt Cộng đổi ngay cách làm việc, dùng những tay cò mồi, ham tiền ở nước ngoài làm những công việc thay chúng. Một việc không tốn công tốn của mà còn đem lại nhiều thành quả tốt. Đó là những buổi trình diễn văn nghệ tưởng niệm vinh danh cũng như tạ ơn Cộng sản và những thành phần đối lập cuội, nằm vùng đã chết…

Kinh Tế: Lãnh vực thứ hai thật quan trọng nhưng người Việt Quốc Gia nước ngoài ít đặt nặng trọng tâm, đó là vấn đề kinh tài của địch. Việt Cộng khai thác triệt để, không chừa một khía cạnh nào để rút tiền của người Việt nước ngoài. Từ các lãnh vực nhỏ như thực phẩm, ăn ở, phục sức, những nhu cầu tinh thần qua sách báo phim ảnh, văn nghệ đến những chương trình rộng lớn như mua bán bất động sản, lập cơ sở đầu tư. Kết quả tất cả mồ hôi nước mắt của người tỵ nạn trước sau gì cũng chạy vào túi kẻ thù.

Có thể kết luận, Cộng sản đang lo sợ trước hai sức mạnh của cộng đồng người Việt tỵ nạn : Tinh thần đoàn kết và túi tiền của đồng bào nước ngoài. Vậy người Việt Quốc Gia đã có chương trình kế hoạch gì để đối phó ? Không thể ra vài thông cáo phản đối hay biểu tình dài hạn để chống đối hành động của thành phần nằm vùng ? Có can đảm cắt hẵn hồ bao hay vẫn tiếp tục làm giàu cho Cộng sản ? Có can đảm ngưng đổ tiền vào các tổ chức kinh tài, xử dụng bay Vietnam Airlines hoặc bơm tiền đầu tư về Việt Nam ?

D. NHỮNG VẤN ĐỀ NÊN LƯU TÂM

D1. Ngồi lại với nhau : Đặt quyền lợi chung lên trên, hãy tạm quên cái tôi ích kỷ, cái quá khứ hão huyền ngày trước để ngồi lại với nhau. Có ngồi lại được trong tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau thì mới hy vọng tạo được một sức mạnh. Cộng đồng chúng ta đã bị kẻ thù phân hóa, chia năm xẻ bảy để trở thành những nhóm tạp nhạp để rồi đánh phá, bôi nhọ lẫn nhau. Rốt cuộc không một đoàn thể, đảng phái nào còn thực lực và uy tín lãnh đạo. Một khi những tổ chức lớn không đoàn kết được với nhau thì khó kêu gọi dân chúng kết hợp thành một khối.

D2. Nuôi kẻ thù: Không một binh pháp nào cho phép vừa đánh địch vừa tiếp tế cho địch, nhưng đa số người Việt hải ngoại đều mắc phải lỗi lầm trầm trọng nầy. Xuống đường biểu tình chống đối Việt Cộng ngày trước thì ngay hôm sau lên máy bay Vietnam Airlines về Việt Nam chi tiền cho chúng. Đây cũng là một lối tranh đấu cuội. Một khi chấp nhận đứng vào hàng ngũ chống Cộng sản, tất cả chúng ta phải tự kềm chế hoặc hy sinh, không nhiều thì ít một một cái gì, một phần nào cho chương trình tranh đấu chung. Xin làm một bài tính, năm vừa qua Việt kiều gởi 6 tỷ ngoại tệ về Việt Nam một cách chính thức qua các ngân hàng. Đó chưa kể số gởi chui hoặc cầm tay về thì số tiền từ trên trời rơi vào tay đảng Cộng sản là một con số lớn. Nếu tính thêm các gia đình người Việt nước ngoài hằng ngày chi dùng mua sắm qua các cơ quan kinh tài chìm nổi của Hà Nội thì con số thu vào của địch là bao nhiêu ? Nếu thiếu số tiền khổng lồ nầy Việt Cộng sẽ chết không kịp trối !

D3. Cảnh giác: Đừng bị mắc lừa bởi chiêu bài hòa giải hòa hợp, phải dứt khoát loại bỏ hẳn Cộng sản ra ngoài. Chống là chống đến cùng, loại kẻ thù ra khỏi vòng chiến, không thể nhập nhằng ‘Van’ ‘Xin’. Nếu cúi đầu van xin Cộng sản thì chúng ta tự đặt mình vào thế yếu, quay lại bưng bô cho Cộng sản, không khác gì tiếp tục giúp Cộng sản duy trì con đường sắt máu để thống trị dân tộc Việt Nam.

Cộng sản với trăm mưu ngàn kế, gặp nhau vừa đưa tay ra bắt là tay mình đã ‘dính chàm’ không lý do nầy thì cũng chuyện khác. Nạn nhân không có lối thoát mà lẩn quẩn trong vòng kềm tỏa của Việt Cộng để phải thi hành những chỉ thị của chúng. Những bài học để đời vẫn còn đó, mấy ai đã bắt tay với chúng rồi được chúng thả cho đi một cách an toàn !

Một vị trí thức tại Mỹ đở đầu cho hai du sinh Việt Nam đã trả lời báo chí khi họ đặt câu hỏi hành động của ông có sai trật hay lầm lẫn gì không, thì vị nầy trả lời một câu thật gọn như sau ‘Giả sử ủng hộ có trật chút xíu hay lầm lẫn thì mình chẳng mác gì đâu” !!! Đúng là một câu nói của một ông bác sĩ làm chính trị ! Tôi nghĩ rằng ông bác sĩ nầy đã quên câu sau : Người làm thương mãi mà sai lầm, dù tính là cách gia đình, cũng bị sập tiệm. Người cầm quân ra trận sai lầm thì chỉ có việc thí quân. Người làm văn hóa sai lầm là giết chết một thế hệ còn nếu làm chính trị mà sai lầm thì đưa quốc gia dân tộc đến chỗ diệt vong.

D4. Lầm lẫn: Có người cho rằng phải trở về Việt Nam ứng cử, tham gia vào quốc hội để dùng lá phiếu của mình thay đổi chế độ. Cần có mặt trong quốc hội để soạn thảo hiến pháp...Không hiểu những người nầy nghĩ gì khi quyết tâm về Việt Nam ứng cử ? Đó chỉ là một trò bịp, lật lọng, biến trắng thành đen của Cộng sản Sau mỗi lần bầu cử, có được bao nhiêu người đối lập thật sự trong quốc hội ? Ví dụ có vài người được Cộng sản cho phép trúng cử vào đây thì cũng chỉ là con số vô nghĩa giữa đám đảng viên Cộng sản chiếm trên chín mươi phần trăm. Chắc chắn những người làm cảnh nầy sẽ được chiếu cố tận tình bằng kẽm gai, bằng tiền, bằng gái và bằng hứa hẹn. Trường hợp không mua chuộc được thì chúng vẫn còn trăm mưu ngàn kế như cho xe rơi xuống đèo, chết trong động mãi dâm hay bị báo chí vạch đời tư từ giòng họ nội ngoại cho đến con cháu. Làm luật đâu chưa thấy nhưng các đại biểu đối lập nầy sẽ trở thành những khối thịt ngồi im lãnh tiền và gật đầu ‘nhất trí’ còn nhanh hơn những tên cộng sản gộc nữa là đằng khác. Ai cho các ông có ý kiến, ai thèm nghe các ông nói, nếu bọn Cộng sản còn ngự trị trên đất nước Việt Nam, còn nắm quyền lực từ trong ra ngoài và từ trên xuống dưới. Trước đây một số trí thức nước ngoài có ý định hiến chất chất xám cho đất nước, đầu tư giúp công ăn việc làm cho dân nghèo đã hăm hở quay về Việt Nam. Họ được nhà nước tiếp đón trọng thể và sau đó một thời gian vắt xong tiền bạc và chất xám, nhà cầm quyền mời đến cho xem những đoạn phim ngắn quây trong khách sạn mà vai chính là những ông bà Việt kiều về đầu tư. Sau đó có nhiều ông bà trở ra lại nước ngoài và hoàn toàn im lặng không bao giờ dám hé răng ! Đáp ứng lời mời của Cộng sản trong một phạm vi nhỏ, các ông bà tự nguyện về đóng góp chất xám và tiền của cho Tổ Quốc mà đã bị gài bẫy thê thảm như vậy, huống gì các vị trở về để làm luật (!) thay đổi chế độ thì đúng là chuyện cóc ngồi đáy giếng, đội đá vá trời một khi chế độ Cộng sản vẫn còn đó.

D5. Không dựa hoàn toàn vào người Mỹ: Chúng ta cần sự ủng hộ tinh thần và vật chất nhưng không thể phải lệ thuộc toàn diện vào nước ngoài. Anh tư bản nào cũng giống nhau, giúp đở, bảo trợ, chỉ huy lúc đầu không ngoài mục đích sẽ khống chế và cai trị sau nầy. Mỹ là chim đầu đàn khối tự do, họ thường tự hào về bổn phận với đối với những ai cần đến, nhưng quyền lợi của nước Mỹ và dân tộc Mỹ vẫn là mục đích của hành động. Không ai bắt dân mình thắt lưng buộc bụng, móc hồ bao biếu không cho một dân tộc khác. Không chính phủ nào đem dân mình làm bia đở đạn bảo vệ cho một quốc gia nào đó mà không có dụng ý. Người Mỹ đã bảo vệ và nuôi dưỡng chúng ta gần 33 năm nay nhưng đừng quên họ đã hai lần phản bội đồng minh nhỏ bé chúng ta. Muốn đem quân vào Việt Nam thì giết Ngô Đình Diệm và khi muốn rút ra thì hạ bệ Nguyễn Văn Thiệu. Những người làm chính trị dựa hơi vào quyền lực Mỹ hãy lấy đây làm bài học để đời.

D6. Yểm trợ quốc nội: Không thể vác súng về chống Cộng như ngày trước mà vai trò của chúng ta là yểm trợ cả hai mặt, tinh thần lẫn vật chất. Vấn đề tinh thần thì tôi đã trình bày ở trên, duới đây xin đề cập đến việc yểm trợ vật chất bằng cách thiết lập một ‘quỹ tranh đấu’ theo pháp lý, ngôn chính danh thuận, việc tổ chức, điều hành, kinh tài phải do tổ một chức lớn, rành mạch, trong suốt như một đại công ty theo luật thương mãi của Mỹ. Quỹ nầy sẽ yểm trợ cho công cuộc tranh đấu tại quê nhà cũng như đài thọ giúp đở những gia đình gặp khó khăn trong quá trình tranh đấu. Cần nên tránh những hành động đánh bóng của cá nhân, đoàn thể, đảng phái. Trường hợp có người gởi tiền về giúp cá nhân người tranh đấu trong nước nhưng lại phổ biền rộng rãi và nhiều lần trên internet, việc nầy gây khó khăn cho những người thụ hưởng. Chỉ vài trăm bạc không đi đến đâu nhưng vì thói ham danh của người dốt làm chính trị mà hành động của họ trở thành con dao để kẻ thù giết hại những người tranh đấu trong nước !

E. CHUẨN BỊ GÌ CHO TƯƠNG LAI ?

Trước một vài những biến cố như Mỹ ký hiệp thương trực tiếp với Việt Cộng, Mỹ mời ít người vào tòa Bạch Ốc nói chyện thì một số tự xưng là lãnh tụ hoặc vài đoàn thể đảng phái hiện thời đang nghĩ rằng thời cơ đã đến và cờ đang ở trong tay. Họ rầm rộ chuẩn bị một cuộc đổi đời, nhưng hành trang là cái gì để gầy dựng lại quê hương ? Gia tài Mẹ Việt Nam đã rách nát tang thương sau 60 năm cai trị bởi một nhóm người dốt nát và tham nhũng. Mai đây khi lấy lại quê hương, nếu không có chính nghĩa, lập trường và nhất là một chương trình hành động thì đất nước cũng rơi vào tình trang hổn độn và tồi tệ còn hơn dưới thời Cộng sản hiện tại.

Người làm chính trị mà lý tưởng lệch lạc, không có kế hoạch, không có sách lược thì chẳng khác gì một anh mù xem voi hoặc người đi biển không có địa bàn. Nếu vận nước nằm trong tay những người nầy, chắc chắn đất nước chúng ta lại rơi vào tình trạng bất ổn chính trị, kinh tế lủng đoạn và xã hội rối loạn như thời kỳ hậu đảo chánh, khi các tướng lãnh giết xong tổng thống Ngô Đình Diệm. Rồi nạn bè phái, móc nối chèn ép, tranh dành quyền lực, bôi nhọ đâm chém lẫn nhau, tham lam vơ vét chẳng khác gì tình trạng dưới chế độ Cộng sản bây giờ.

Chúng ta cần những người có thực lực, đủ khả năng và đức độ để xóa cũ làm lại từ đầu, hầu đổi đời cho tám chục triệu dân. Xét qua số lãnh tụ đang ra mặt ồn ào hiện giờ thì một số ít không có khả năng, thiếu tầm vóc, mất tư cách, tự vung vít đánh bóng và ngồi chờ lệnh của ‘nhà trắng’ thì họ cũng là những phường chèo chẳng làm nên tích sự gì.

Chúng ta đã có lý tưởng trong sáng và tinh thần tranh đấu nhiệt tình nhưng vẫn chưa đủ để đánh bại chế độ bạo quyền Công sản mà phải cần thêm hai yếu tố quan trọng :

E1. Một kế hoạch cấp thời để cùng đồng bào trong nước đứng dậy đánh đổ bạo quyền Cộng sản và một chương trình trung hạn để tái thiết sau khi kết thúc trận chiến. Phần nầy xin đề nghị những nhà chính trị, nhân sĩ học cao hiểu rộng, những người làm luật cũng như kinh tế để ý đóng góp với những tổ chức tranh đấu có thực lực, quy mô và uy tín.

E2. Một ngọn đuốc soi sáng con đường đang đi. Đó là thuyết Dân Tộc Sinh Tồn. Những điều cần thiết tôi trình bày ở phần trên có thể tìm thấy trong chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn của nhà Cách Mạng Trương Tử Anh. Một bộ sách gối đầu giường của những người đang tranh đấu cho Tự Do Dân Chủ Việt Nam. Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn là một hệ thống tư tưởng về triết học và chính trị do nhà cách mạng Trương Tử Anh công bố ngày 10.2.1938. Nhân dân Việt Nam phải tự hào về một chủ thuyết dân tộc do người Việt Nam đề xuất, vì quyền lợi của nhân dân và tổ quốc Việt Nam. Ở ngưỡng cửa thế kỷ 21 nầy, vào lúc chủ nghĩa ngoại lai Cộng sản đã phá sản nhưng vẫn còn ngoan cố, chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ quá khích lại nhân danh tự do gây xáo trộn trật tự xã hội thì Dân Tộc Sinh Tồn phải chiếm lĩnh vị trí ý thức hệ chỉ đạo để hồi phục đất nước trên mọi lãnh vực, nhất là xây dựng lại niềm tự hào dân tộc và dân chủ tự do.

Dân tộc Việt Nam mang giòng máu bất khuất trong người, đầu óc thông minh sáng tạo với những đức tính cần cù nhẫn nại. Nhưng tiếc thay, một ngàn năm bị Tàu đô hộ, một trăm năm Tây xâm chiếm và sáu mươi năm quằn quại dưới ách thống trị của Cộng sản, trong đó hai hơn mươi năm Hà Nội đã gây ra biết bao tội ác chiến tranh, hủy hoại từ nhân lực cho đến tài sản để đưa đất nước đi vào con đường chậm tiến, lạc hậu bần cùng đói rách và phụ thuộc vào khối Cộng quốc tế.

Kinh tế Việt Nam trông hào nhoáng bên ngoài nhưng thực chất là giả tạo, văn hóa đỏ phát triển tăng theo hướng suy đồi trụy lạc. Mai đây con cháu chúng ta phải gánh lấy tất cả hậu quả do tập đoàn Cộng sản vừa dốt nát vừa tham nhũng để lại.

Đáng lý với 80 triệu dân chúng ta đã là một cường quốc về quân sự lẫn kinh tế tại Châu Á sau gần 33 năm ngưng tiếng súng. Nhưng Cộng sản đã làm được gì hay chỉ biết dùng súng đạn bảo vệ quyền lực để vơ vét cho bè đảng, bản thân và gia đình. Một mai đất nước quay trở lại chế độ tự do thì gia tài của Mẹ chỉ là một đống rác với nợ nần chồng chất. Lãnh đạo đất nước sau thời hậu chiến là gánh một trách nhiệm cựu kỳ quan trọng. Chúng tôi chưa nghe một ‘Chính Phủ Lưu Vong’, ‘Chính phủ Tỵ Nạn’, ‘Một Chính Phủ Lâm Thời’ một đảng phái, đoàn thể hay cá nhân nào chuẩn bị một chương trình thiết thực để đối đầu với tình trạng đất nước sau thời hậu chiến mà chỉ nghe những sáo ngữ rập theo sách vở thoát ra từ miệng của những nhân vật mang nhiều tiếng xấu !

Trước khi kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, tôi xin quý vị ghi nhận bài tham luận ‘Con Đường Chúng Ta Đi’ không phải là một đề tài để khuyên nhủ hay nhắn gởi đến ai. Đây chỉ là những ý nghĩ thô sơ của một người tranh đấu để tâm tình với những người tranh đấu dưới một lá cờ.

Đinh Lâm Thanh
Paris, vào Thu 2007

Đường Đi Khó





Đến Những Bạn Như Tôi - Thúy Nga

Thúy Nga

Hơn 34 năm về trước tôi là một đứa trẻ rất nhỏ. Sài Gòn còn đọng lại trong tôi qua hình ảnh của cha mẹ để lại. Tôi lớn lên trong lòng chế độ cộng sản, được giáo dục bởi chế độ, nhưng rồi trong tôi "thức tỉnh" những điều và cảm thấy mình may mắn được nhận ra. Cái quan tâm lớn nhất của tôi là làm thế nào để những thế hệ của tôi và nhỏ hơn được biết ra sự thật về cuộc chiến tranh hơn 30 năm về trước. Thời gian này được dịp để tôi có đôi lời tâm sự và nhắn gởi.

30/4 đen, 30/4 Quốc Hận. Ít nhất một lần khi nghe điều này tôi và các bạn đều nghĩ là gàn, thậm chí là " phản động ". Và rồi một ngày khi tôi phát hiện, mình cũng như bao thế hệ thanh niên khác đều bị lừa, những gì mà chúng ta tiếp nhận từ nền văn hoá cộng sản hoàn toàn trái ngược. Tôi tin vào những điều đó đơn giản chỉ là một cái nhìn qua cuộc sống thực tế và những gì mà đảng cộng sản đương thời đã và đang gây hại cho dân tộc Việt Nam.

Hôm nay, một 30/4 nữa lại về, chúng ta không ăn mừng một chiến thắng vẻ vang hay một ngày toàn thắng giành độc lập. Tôi và các bạn đang tiếp tay cho đảng cộng sản ăn mừng ngày 30/4 tang thương này một cách vô thức. Đây là một biến cố đau thương là vì ngày này chính là ngày Miền Nam Việt Nam chúng ta đã bị cướp bởi Cộng Sản Bắc Việt. Hai cuộc kháng chiến lớn chống Pháp-Mỹ mà chúng ta được nhồi nhét vào đầu thực chất là một âm mưu bành trướng thế lực của cộng sản đỏ. Đâu chỉ thế, ngày này đã khiến cho toàn dân tộc Việt Nam mất đất nước vào tay ngoại bang phương bắc mà tập đoàn cộng sản là chiếc cầu nối để rước voi về giày mả tổ.

Thật vậy, hãy thử nhìn lại, thảm cảnh ngày hôm nay, người dân chúng ta đâu chỉ ăn đồ Tàu, xài đồ Tàu mà các cô gái Việt Nam hôm nay trở thành những món hàng cho trai Tàu lựa chon. Hơn thế nữa, đất nước chúng ta đã bắt đầu xuất hiện những con đường mang tên Tàu. Cái tên Sài Gòn bị đảng cộng sản thay bằng tên thành phố Hồ Chí Minh. Tôi và các bạn vẫn còn có một ngày sẽ đòi trả lại hai chữ Sài Gòn vốn trở thành cái tên thân yêu và mãi mãi vĩnh cửu trong lòng tất cả. Thế nhưng nếu bị đổi là thành phố Mao Trạch Đông hay Ôn Gia Bảo ... thì một chút cơ hội cho chúng ta cũng sẽ không còn. Sự tủi nhục và thảm cảnh này ai có tội? Người Việt Nam chăng? Không, họ chỉ có lỗi khi câm nín sống xuôi theo chiều gió chứ không có tội. Kẻ có tội chính là đầu sỏ Hồ Chí Minh - người mà chúng ta luôn bị bắt buộc phải tôn kính và học tập, là nhà cầm quyền cộng sản tàn ác mà ông ta đã đào tạo nên. Tôi và các bạn, sự im lặng của chúng ta bao năm qua là tiếp tay cho thế lực gian ác đó.

Trên thực tế, người dân dù ngu dốt, ít học và thiếu hiểu biết nhưng vẫn có thể nhận thức được rằng họ đang bị đối xử bất công, thậm chí nhà cầm quyền cộng sản đôi khi xem họ thua cả loài vật. Người dân chỉ có bổn phận nghe và làm theo chứ không được quyền nói, điều này tôi và các bạn đều được chứng kiến hàng ngày. Thế nhưng có căm phẫn, chửi rủa sự tàn bạo của chế độ này cũng không đưa đất nước thoát ra khỏi thảm cảnh hiện nay. Tự do thật sự không phải đòi mà có, nó cần phải được đánh đổi, đôi khi cả bằng máu.

Đất nước chúng ta thật sự đã mất kể từ ngày mất Miền Nam Việt Nam chứ không phải đến bây giờ mới thảng thốt kêu: “Sắp mất nước!" Lời nói vô hại, sự than vãn cũng không có ích lợi gì. Thế nhưng nếu như lời nói có thể tẩy não thế hệ như chúng ta và lớp trẻ mai sau vốn đã bị nền giáo dục cộng sản độc hại, có thể thức tỉnh để xiết chặt tay trong tay cùng nhau đập tan sự thống trị nhu nhược đối với ngoại bang và tàn bạo với dân tộc, để đòi lại quyền làm người cho bạn, cho tôi và cho tất cả những người dân Việt khốn khổ dưới ách thống trị của đảng cộng sản mấy mươi năm qua. Chúng ta chẳng phải đã từng học: "Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh". Đất nước hôm nay, đâu cần giặc phải đến bởi giặc vốn đã ở trong mái nhà của chúng ta từ lâu thì hà cớ gì chúng ta lại câm nín, đem những đồng tiền mồ hôi, thấm đượm nước mắt để vỗ béo cho những tên thái thú, những tên cộng nô vốn mang hình dạng người nhưng không khác gì bầy sói lang. Nói mất Hoàng Sa-Trường Sa, giới trẻ chúng ta đa phần vẫn bàng quang cho rằng "chuyện nhà nước". Nhà không có mái sao gọi là nhà? Đất nước không còn, mái ấm gia đình tất sẽ không còn.

Hãy thức tỉnh đi các bạn! Chúng ta là những con người thực, có tri giác và biết nhận thức thì đừng cam tâm sống trong thế giới ảo mà đảng cộng sản đã áp đặt tạo dựng. Im lặng chính là sự đồng thuận với tội ác. Một tiếng nói, một lời rỉ tai cho dù nhỏ bé nhưng với trăm ngàn tiếng nói ấy góp lại sẽ trở thành một cơn sóng lớn nhấn chìm tập đoàn đảng cộng sản bán nước cầu vinh trong một ngày không xa.

Thúy Nga
Việt Nam