Saturday, April 4, 2009

Ông Phan Thanh Giản là nhân Tài Đạo Đức - Hàn Lâm Nguyễn Phú Thứ

Ông Phan Thanh Giản là nhân Tài Đạo Đức, Cương trực, Thanh Liêm, Trung Quân Ái Quốc và Thương Dân đáng được Tôn kính Vinh Danh và Ngưỡng Mộ.

Hàn Lâm Nguyễn Phú Thứ

Được biết, vua Tự-Đức (1847-1883), là con thứ hai của Vua Thiệu-Trị và Bà Hoàng Thái Hậu Từ Dũ, mất ngày 14 tháng 6 năm Quý Mùi nhằm ngày 17 tháng 7 năm 1883, trị vì 36 năm, thọ 55 tuổi.Vua Tự-Đức là vị vua thông minh, hiền lành, hiếu học, siêng năng và rất hiếu thảo với mẹ, được nhắc nhở như sau:

Trải qua 36 năm làm Vua trên ngai vàng, lúc nào cũng dành ngày chẵn vào cung để vấn an sức khỏe mẹ, đồng thời nghe lời truyền bảo của mẹ, nếu có điều gì quan trọng đáng lưu tâm thì ghi ngay vào quyển sổ tùy thân mà nghiền ngẫm. Đó là, quyển sổ từ huấn lục (tức quyển sổ chép lời mẹ dạy). Xem thế, đủ biết Vua Tự-Đức thờ mẹ rất chí hiếu bực nào.

Do vậy, khi giặc Pháp đã chiếm được lục tỉnh thuộc Nam Kỳ lúc bấy giờ, trong lãnh thổ này có quê hương của Bà Từ Dũ, làm cho nhà Vua rất tức giận và trút hết tội tình lên một vị quan văn trung-thần ái quốc là Ông Phan-Thanh-Giản, mà không xét lỗi mình là Ông Vua của một nước có quân, có quyền trong tay và lại có hành-xử chủ hòa với giặc Pháp? ...

Như thế, ở đời chúng ta nên: "Xét lỗi mình trước khi xét lỗi người" có vậy mới thấy trung thực của mọi vấn đề. Đó là bài học đáng quý vậy!

Khi nhắc đến Ông Phan Thanh Giản, không thể tạm ngưng ở đây, để tìm hiểu thêm, xin trích dẫn quyển Tìm Hiểu Các Danh Nhân của Nguyễn Phú Thứ từ trang 65 đến trang 84 như sau :

Phan-Thanh-Giản

Ông Phan-Thanh-Giản, có tên chữ là Tịnh Bá và Đạm, hiệu là Lương-Khê, biệt hiệu là Mai-Xuyên, sinh vào giờ Thìn, ngày 12, tháng 10 thuộc Hợi, năm Bính Thìn tức năm 1796 dương-lịch, thuộc đời vua Cảnh-Thịnh Nguyễn-Quảng-Toản (1792-1802). Con của Ông Phan-Thanh-Xáng, tự Văn-Ngạn, hiệu Mai-Thư tiên sinh, rất giỏi chữ nho, đến Vĩnh Long làm thơ lại cho Nam triều, thưòng lãnh nhiệm-vụ tãi lương-thực về Huế. Và con của Bà Lâm-Thị-Phần (có sách nói tên Lâm-Thị-Bút, người huyện Bảo-An). Ông nội của Ông Phan-Thanh-Giản là Ông Phan-Thanh-Tập tự Đào-Ấn hiệu Ngẫu-Cư tiên sinh và Bà nội là Bà Huỳnh-Thị-Học. Tổ tiên Ông là người Trung-Hoa đến cuối đời nhà Minh mới sang nước Việt-Nam, trước ở Bình-Định, đến lúc Tây-Sơn nổi dậy, thân sinh Ông chạy xuống Định-Tường, rồi đến xã Bảo-Thạnh, quận Bảo-An,Tỉnh Bến-Tre (Kiến-Hòa trước kia).Lúc Ông được 7 tuổi, mẹ mất sớm, được người cha gởi sang bên ngoại ở làng Phú Ngãi, để ăn học vở lòng với nhà sư Nguyễn-Văn-Noa, đến năm 1816 Ông theo học trường tỉnh Vĩnh-Long. Việc học-hành của Ông lại gặp trở ngại, vì cha bị vu cáo nên bị ở tù tại Vĩnh-Long. Ông xin ở tù thay cha, nhưng không được chấp- thuận. Các quan thuở ấy thấy Ông nhỏ tuổi mà là một đứa con hiếu-thảo, lại có đức-hạnh và thông-minh, nên các quan nâng-đỡ cùng khuyên Ông nên cố-gắng học-hành để tiến thân.Năm Ất-Dậu 1825, Ông đâu Cử-Nhơn tại Gia-Định và năm sau ra Huế thi Hội và thi Đình, Ông đậu đệ tam tiến-sĩ đầu tiên tại Nam Kỳ (Khoa thi Hội năm 1826 có khoảng 200 cống sĩ, nhưng kết quả chỉ có 10 người đậu, gồm : 7 người ở Bắc-Kỳ, 2 người ở Trung-Kỳ và 1 người ở Nam Kỳ là Ông được đứng vào hạng thứ 3 trong số 10 người, cho nên được gọi Ông là "Đệ Tam Giáp Tiến Sĩ "). Sau đó, Ông cưới vợ Cần-Giuộc, rồi được bổ-nhậm chức Biên-Tu ở Hàn-Lâm-Viện kinh đô Huế, vài tháng sau đổi ra Quảng-Bình. Rủi thay người vợ trẻ ở Cần-Giuộc mất sớm vì bịnh, nên Ông tục-huyền với Bà Trần-Thị-Hoạch ở Quảng-Trị, sống chung nhau chưa bao lâu, để báo hiếu với cha, Ông cho vợ về Kiến-Hòa để phụng dưỡng cha già. Người vợ là người đức-hạnh nên buộc lòng hy-sinh việc "xuất giá tùng phu", nghe lời chồng, cho nên khi Ông khi tiễn đưa vợ hiền về Nam Kỳ đã làm bài thơ kiệt-tác như sau :

Từ thuở vương xe mối chỉ hồng,
Lòng nầy tạc dạ có non sông,
Đường mây cười tớ ham dong ruổi,
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng,
Ơn nước nợ trai đành lỗi bận,
Cha già, nhà khó cậy nhau cùng,
Mấy lời dặn bảo cơn ly biệt,
Rằng nhớ, rằng quên, lòng hởi lòng!.

Riêng bà Trần-Thị-Họach, không những đồng-ý thay chồng để báo hiếu, mà còn sẵn sàng muốn có người hầu hạ cho chồng khi bà xa vắng, nên dẫn người tỳ thiếp tên Thịnh để giúp chồng, bị Ông quyết liệt từ khước và bảo người tỳ thiếp trở về, Bà Thịnh cảm cái nghĩa của Ông, nên về sau không lấy chồng, mà ở với Bà Hoạch cho tới già tại làng Bảo Thạnh, quận Bảo-An, Tỉnh Bến-Tre. Ngoài ra, khi Ông ra làm quan không bao giờ tỏ ra kiêu-hãnh "áo gấm về làng" bằng cách mỗi lần trở về quê thăm lại các quan ở Vĩnh-Long, thăm các thầy, thăm các bạn lúc nào nhã-nhặn lễ phép, không phô-trương ta đây là quan lớn ở triều-đình, Ông mặc áo như người thường dân. Đời sống Ông rất mực-thước, giản-dị, thanh-liêm, Ông dành nhiều thì giờ cho công-vụ và đọc-sách làm vui, cũng vì thế trong 41 năm làm quan, ít khi trở về thăm lại quê-hương của Ông, có lẽ vì đường sá quá xa xôi, việc nghỉ phép khó-khăn, đặc-biệt có lần về nhà cư tang cha vào năm 1843 và ngược lại bà Hoạch cũng thỉnh-thoảng mới ra thăm Ông tại nhiệm-sở.

Về đường quan lộ của Ông rất thăng trầm trong nhiều chức vụ qua các lãnh vực khác nhau, trải qua 3 triều đại : Minh-Mạng, Thiệu-Trị và Tự-Đức, xin trích dẫn như sau : Giai-đoạn 1826-1859, Ông lận-đận, thăng-trầm trên đường hoan lộ nhiều lần, ví như tháng 8 năm 1826 thuộc vua Minh-Mạng thứ 6, Ông giữ chức Biên Tu ở Hàn Lâm Viện, rồi được thăng chức Lang Trung Bộ Hình, kế đến Tham Hiệp ở Quảng-Bình, quyền Hiệp-Trấn Nghệ- An và sau đó làm Hiệp-Trấn Quảng-Bình. Năm sau tức 1827 Ông được về triều-đình để nhận chức Phủ-Doãn Thừa-Thiên, Ông được vua Minh-Mạng chú-ý vì có nhận-định chánh-trị sắc-bén và già dặn, nên ít lâu sau được thăng làm Thị-Lang Bộ Lễ tức làm việc tại Nội-Các và kế đến lại tái nhậm chức Hiệp-Trấn Quảng-Bình lần thứ hai đến năm 1831 Ông bị thuyên-chuyển về Quảng-Nam để dẹp cuộc khởi-loạn của dân-tộc thiểu số miền sơn cước. Cuộc chinh phạt đó, Ông gặp khó-khăn vì là quan văn, nên xem như thất bại, cho nên Ông bị giáng chức lần thứ nhứt. Rồi, Ông từ một thuộc viên của sứ bộ sang Hạ-Châu (Singapore), lại thăng lên Hàn-Lâm Kiểm-Thảo Sung Nội-Các Hành-Tẩu, đến năm 1833 được thăng Viên Ngoại-Lang Bộ Hộ, quyền ấn, Phủ Thừa-Thiên, rồi Hồng-Lô Tự-Khanh và cuối năm này, Ông được cử làm Phó Sứ sang Tàu, sau khi trở về được thăng chức Đại-Lý Tự-Khanh để coi việc Bộ Hình và được sung vào Cơ-Mật-Viện Đại-Thần. Sau đó, vì nhờ tài ngoại giao, nên Ông được khen ngợi và lãnh chức Kinh-Lược Sứ Trấn Tây (Cao-Miên), rồi trở về sung chức Bố-Chánh Tỉnh Quảng-Nam, quyền ấn Tuần-Phủ Quan-Phòng. Vào tháng 5 năm 1836 thuộc vua Minh-Mạng thứ 7, nhà vua muốn ngự du Ngũ-Hành Sơn ở Quảng-Nam, Ông dâng sớ cản ngăn đại lược như :"Nhà vua đi tuần hành, dân trong hạt chẳng vui mừng, nhưng nay khoảng tháng 4, tháng năm mùa hạ, mùa lúa không được tốt, lại đang lúc thời tiết cấy cày, trồng trọt, nếu dân lo cung đón nhà vua thì được việc này, mất việc kia.Nay xin tạm đình để dân dốc sức vào việc ruộng nương..."Lá sớ của Ông làm vua tức giận và nghi các quan ở Quảng-Nam làm việc bê-bối, nên vua cử Ông Vũ-Duy-Tân đến điều-tra hư thật. Ông này lại nịnh hót đặt điều nào : Dân chúng đang mong vua đến, các quan nhũng lạm...

Vì thế, Ông bị nịnh thần dèm xiển, nên bị giáng chức nặng-nề, làm phận sự một người quét dọn bàn ghế tại tỉnh đường Quảng-Nam và nhà vua cũng bãi bỏ cuộc ngự du Quảng-Nam. Tuy nhiên, Ông không than van, đến khi vua hiểu được lòng của Ông, thì được bổ nhậm chức Đô-Sát Viện Ngự-Sử, Sung Cơ Mật-Viện Đại-Thần. Đến năm 1843 thuộc vua Thiệu-Trị thứ 3, có một luồng khí bạch vắt ngang trời, vua xuống chiếu cầu lời trực ngôn, Ông dâng sớ chỉ trích khéo vua và tố cáo sự thối-nát hành-chánh địa-phương, đồng thời Ông đề-nghị biện-pháp cải-thiện, Ông được vua Thiệu-Trị khen ngợi. Vua Tự-Đức lên ngôi bổ Ông làm Thượng-Thơ Bộ-Lại, đến năm Tự-Đức thứ hai, Ông được cử làm Giảng Quan ở tòa Kinh-Diên mới thiết-lập và hai năm sau được cử Ông làm Phó Sứ Lãnh-Tuần Phủ Gia-Định kiêm chức Lãnh Đốc các đạo Vĩnh-Long và Định-Tường, Biên Hoà, An-Giang và Hà-Tiên (Trong khi Ông Nguyễn-Tri-Phương làm Nam Kỳ Kinh Lược Chánh Sứ). Trong chức vụ này, Ông lúc nào cũng nghĩ đến ích nước lợi dân, nên Ông lại dâng sớ điều-trần để cải-tổ, được vua chấp thuận và khen-ngợi. Năm 1853, Ông được gọi vể triều để lãnh chức Hiệp-Biện Đại-Học Sĩ Lãnh Thượng Thơ Bộ Binh. Tháng chạp năm 1856 thuộc Tự-Đức thứ 9, Ông được cử Tổng-Tài Quốc-Sử để soạn bộ Khâm-Định Việt-Sử Thông-Giám Cương-Mục. Nước Pháp và Tây Ban Nha liên minh đánh Việt-Nam, gồm 14 chiếc thuyền chở 3000 quân dưới quyền chỉ huy của Rigault de Genouilly, ngày 24-7 năm Mậu Ngọ 1858 đến đánh Đà-Nẵng, triều đình cử Ông Nguyễn-Tri-Phương chống giữ, quân giặc thấy khó chiếm, bèn bỏ ý định đánh Huế, quay vào Gia-Định năm 1959 để đánh chiếm thành Gia-Định sau hai ngày giao tranh, chiếm được hơn 80.000 ký thuốc súng, 200 khẩu đại bác và một số tiền điếu rất lớn. Các quan bày tỏ lập-trường về việc chiến hay thủ, Ông dâng sớ bàn đại lược như sau : "Thiên hạ đất rộng, công việc rất nhiều, ở chỗ việc nhiều, cai trị chỗ đất rộng, cốt làm cho yên mà thôi. Theo sức người mà dạy, không khó nhọc mà thành công, noi phép mà cai trị, quan lại quen mà dân yên, cho nên lợi không gắp trăm thì không đổi phép, công mà không gắp mưu thì không đổi đồ dùng. Làm cái kế ngày nay cốt nhứt nuôi dân chăm cày cấy, nuôi lính đủ ăn, lưu ý như thế thì sức dân được thư thả mà quân có chỗ dạy, sức đất không bỏ phí mà lương có chỗ ra, quân giỏi, lương đủ thì như nước chảy cuồn cuộn không hết, thì hoặc đánh hoặc giữ, không việc gì là không nên, đối với việc dân yên nước thịnh, may ra bổ ích đôi chút ..." Vua Tự-Đức khen rằng : "Lời nói đều có cốt yếu, bọn tân tiến không thể ví nổi, chỉ nên thực lòng cố sức giúp trẩm, đời sau chắc có tiếng khen". Kế đến : Ngày 25-2-1861 thành đồn Kỳ-Hòa (Chí-Hòa) thất thủ em Ông Nguyễn-Tri-Phương là Nguyễn-Duy tử trận, ông Phạm-Thế-Hiển bị thương nặng mấy hôm sau thì chết, riêng Ông Nguyễn-Tri-Phương cũng bị thương phải bỏ đồn rút quân về Biên-Hòa. Ngày 12-4-1861 Page hạ thành Mỹ-Tho; ngày 9-9-1861 Đề Đốc Bonard thay Charner chiếm thành Biên-Hòa và ngày 28-3-1862 Bonard chiếm thành Vĩnh-Long. Trước tình thế nguy-ngập, vua Tự-Đức cử Ông và Ông Lâm-Duy-Hiệp vào Nam-Kỳ để thương-thuyết hầu tìm cách cứu vãn tình thế, cuộc thương-thuyết diễn ra tại Sài-Gòn, có Đô-Đốc Bonard đại-diện quân Pháp và tướng Palanca đại-diện Tây-Ban-Nha (Y Pha Nho) . Kết-quả, bắt buộc phải ký hòa-ước vào ngày 5-6 dl năm 1862 nhằm ngày 9 tháng 5 âl năm Nhâm-Tuất, quân giặc ở thế thượng phong, gồm 12 khoản, trong đó những khoản làm cho dân-tộc chúng ta khổ tâm như :

  • Khoản 3 : Nhường cho Pháp các tỉnh : Biên-Hòa, Định-Tường, Gia-Định và đảo Côn-Nôn. Người Pháp được đi lại trên sông ngòi Nam-Kỳ.
  • Khoản 5 : Người Pháp và người Tây-Ban-Nha được buôn bán ở Đà-Nẵng, Đà-Lạt và Quảng-Yên.
  • Khoản 8 : Nước Đại-Nam tứcViệt-Nam phải trả 4 triệu đồng chiến phí trong hạn 10 năm...

Hòa-ước Nhâm-Tuất ký xong, vua Tự-Đức và các triều không hài lòng và chủ trương : "Việc nhường đất, bồi tiền như thế không hợp lý, nhưng các điều ước mới định mà cãi nghị ngay thì họ sẽ không đồng ý". Ngoài ra, vua Tự Đức không bắt tội Ông Phan Thanh Giản mà còn cử Ông làm Tổng-Đốc Vĩnh-Long để từ từ thương chước để chuộc lại lổi lầm trước kia. Tháng 11-1862 Ông Phan-Thanh-Giản yêu cầu Pháp trả lại Vĩnh-Long, nhưng Pháp cho hay, chỉ trả lại khi nào Ông Quản-Cơ Trương-Định thôi đánh Pháp. (Bởi vì, khoảng thời gian trước và sau khi ký hòa-ước Nhâm-Tuất cho đến mất trọn 6 tỉnh thuộc Nam Kỳ, các sĩ phu và dân chúng thuộc 6 tỉnh (Nam Kỳ) rất uất hận nổi lên chống cự giặc ngoại xâm, dầu biết võ khí thô sơ nhưng với lòng yêu nước nồng nàn cao độ họ đã làm cho quân Pháp điên đảo, trong số những người cầm đầu lúc bấy giờ có các Ông : Trương-Định, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn-Hữu-Huân (Thủ-Khoa-Huân), Võ-Duy-Dương tức Thiên-Hộ-Dương, Đức Cố Quản Trần-Văn-Thành .v.v.). Sau đó, đề cử sứ bộ sang Pháp và Tây Ban Nha (Y Pha Nho) để xin chuộc lại gồm có : Chánh sứ toàn quyền Ông Phan-Thanh-Giản, Phó sứ là hai Ông Phạm- Phú-Thứ và Ngụy-Khắc-Đản, còn Ông Trương-Vĩnh-Ký làm thông ngôn. Để người Pháp giúp phương tiện cho sứ bộ, triều đình Huế lấy cớ là để đáp lễ Pháp Hoàng đã phái người đến chúc mừng vua Tự-Đức nhân dịp ký hòa-ước 1862. Người Pháp bằng lòng cho mượn tàu Européen và cử Aubaret, Rieunier đi theo hướng dẫn, nhưng phía Việt-Nam phải trả mọi phí tổn. Sau 2 tháng 7 ngày trên tàu, phái đoàn mới đến nước Pháp, được đón rước rất trọng thể và mãi đến ngày 7-11-1863 được vào bệ kiến vua Napoléon Đệ Tam tại điện Tuileries theo nghi lễ ngoại giao thật long trọng. Ít hôm sau, bộ ngoại giao Pháp mời sứ bộ tới và hứa sẽ nghiên-cứu rồi sửa đổi lại hòa-ước 1862 và sẽ ký một hòa-ước mới. Ông Phan-Thanh-Giản tuyên-bố đại lược rằng : "Sứ bộ Việt-Nam xin chuộc 3 tỉnh Miền Đông và Việt-Nam sẽ trả mỗi năm 2 hay 3 triệu hoặc 40 triệu một lần. Người Pháp có quyền cư trú tại 3 hải cảng để tự do buôn bán, đồng thời Việt-Nam nhượng cho Pháp hải cảng Sài-Gòn" Chánh Phủ Pháp chấp-thuận soạn thảo hòa-ước mới để thay thế hòa-ước 1862 trước kia, đồng thời trao cho sứ bộ Việt-Nam trước khi lên đường sang Tây-Ban-Nha. Bởi vì, nước Pháp lúc đó đã thâm lủng 972 triệu quan Pháp, nên vua Napoléon lẫn Tổng-Trưởng Tài-Chánh đều chủ trương trao lại đất choViệt-Nam để lấy tiền. Do vậy, sứ bộ do Ông Phan-Thanh-Giản thành-công, còn được đưa đi xem các nơi tại Pháp và Tây-Ban-Nha (Y Pha Nho) rất văn-minh của xứ người.Ngày 24-3-1864, sứ bộ về đến Sài-Gòn. Vua Tự-Đức và triều thần đều vui mừng. Vua Tự-Đức bèn phong Ông làm Thượng Thơ Bộ Lại như cũ. Nhưng thực tế, triều đình Huế đã mừng hụt, vì phe thực-dân đã vận-động để chống lại việc cho chuộc đất, đứng đầu là các nhân vật thuộc bộ hải-quân và thuộc địa như : Chasseloup Laubat, Bonard, De La Grandière ...vì thế vua Napoléon đổi ý không cho chuộc lại đất. Tháng 2-1865, Aubaret tới Huế cho hay không có hòa-ước mới và yêu cầu vua Tự-Đức cho trả tiền chiến phí, đồng thời phải cấm nghĩa-sĩ chống Pháp. Như thế, việc chuộc đất hoàn-toàn thất bại vì kẻ mạnh trở mặt, muốn thế nào cũng được, làm cho Ông Phan-Thanh-Giản lại bị vua Tự-Đức tức giận cách lưu. Đây là lần Ông bị giáng chức thứ sáu, tội nghiệp cho Ông lúc này đã 70 tuổi. Sau đó, dã tâm của giặc Pháp càng ngày càng rõ rệt là muốn nuốt trọn Nam Kỳ lúc bấy giờ có 6 Tỉnh, các lực-lượng nghĩa-sĩ chống giặc ngoại-xâm nổi lên đánh phá khắp nơi. Trước tình thế đó, Vua Tự-Đức lại cử Ông Phan-Thanh-Giản vào Nam, vì nghĩ rằng người Pháp đã biết Ông, với chức Hiệp Biện Đại Học Sĩ Bộ Hộ, Thượng Thơ Sung Kinh Lược Sứ thuộc 3 Tỉnh An-Giang, Vĩnh-Long và Hà-Tiên. Ông xin từ chức vì cớ tuổi già, nhưng không được vua chấp thuận và trước khi đi Ông có tâu rằng : "Chánh sách của Ông là luôn luôn tuân đúng theo hòa-ước". Vua Tự - Đức cũng ngỏ ý : "Muốn hoà-bình cho dân-tộc được yên ổn, nhưng không nên vì lẽ ấy mà khuất-phục tình hình một cách thụ động". Về phía thực-dân Pháp, De La Grandière (De Lagrandière?) đã thảo kế-hoạch đánh chiếm luôn ba tỉnh Miền Tây (Nam Kỳ). Ngày 15-6-1867, De Lagrandière rời Sài-Gòn xuống Vĩnh-Long với 17 chiến hạm và hắn nhờ Cố Dương đưa thơ mời Ông Phan-Thanh-Giản xuống soái hạm để cho biết lý-do động binh của hắn. Ông và Án Sát Võ-Doãn-Thanh cố-gắng thương-thuyết, nhưng bọn thực-dân đã quyết-tâm cướp nước, thì làm sao còn thương thảo được, hai Ông hoản binh, hứa sẽ nộp thành với điều-kiện yêu cầu đừng sách nhiễu dân và tiền với lúa trong kho vẫn phải để Việt-Nam nắm giữ. De La Grandière ưng thuận, nhưng khi hai Ông trở về thành vào ngày 20-6-1867, thì thành Vĩnh-Long đã bị quân Pháp chiếm. Sau đó, đến thành An-Giang mất ngày 22-6-1867 và thành Hà-Tiên cũng bị quân Pháp chiếm luôn vào ngày 24-6-1867 (Theo sách Việt-Nam Sử Lược của Ông Trần-Trọng-Kim viết : "Ông Phan-Thanh-Giản bảo các quan đành chịu nộp thành cho khỏi sự tai hại" nhưng không thấy dẫn chứng dựa theo tài-liệu nào? Chỉ thấy trong quyển La Geste Française en Indochine của Cura Taboulet tập 2, trang 518-519, đã dịch ra và in trong quyển quân-sự tập 3 của BTM do Ông Pham-Văn-Sơn biên soạn viết : Ông Phan-Thanh-Giản viết thơ buộc Tổng Đốc An-Giang và Hà-Tiên hạ vũ khi đầu hàng. "Nếu cần xin xem quyển Nguyễn-Đình-Chiểu về tác-giả và tác-phẩm trang 672" ).

Sau đó, Ông Phan-Thanh-Giản lấy tiền lúa nộp một phần cho Pháp để thanh-toán tiền bồi thường năm đó, rồi Ông ra sống tại một ngôi nhà tranh ở ngoài thành Vĩnh-Long. Chính tại nơi đây, Ông quyết-định chấm dứt cuộc đời của Ông. Có lẽ đó là lối thoát duy nhứt của Ông sau khi Ông đơn phương nộp thành trì cho Pháp mà không có sự ưng-thuận của triều đình, nhứt là trước đó vua Tự-Đức đã đặt hy-vọng bảo-vệ thành trì vào tay Ông. Ông đã hiểu mình phải làm gì, bởi vì thân làm tướng giữ thành mà để mất thành là một trọng tội, cho nên Ông tự xử lấy mình. Ông xếp tất cả áo mão và các tờ sắc-phong kèm theo tờ sớ chịu tội với triều đình rồi Ông bắt đầu tuyệt thực.

Sự tuyệt thực của Ông có ý-nghĩa là một biện pháp "ung dung tựu nghĩa" tức là bình-tỉnh đón nhận cái chết để đạt được nghĩa lớn tức là đền nợ nước. Các con cháu quì lạy khóc lóc nhưng Ông đã quyết không ai ngăn cản được. Ông vẫn bình tỉnh và sáng suốt khuyên con cái lo học-hành, không được làm việc cho Pháp, đồng thời bảo con cháu lo tang ma thật giản dị và Ông tự tay viết di bút để đề mộ bia cho Ông gồm 24 chữ Hán, viết thành 3 hàng được phiên âm như sau :

"Minh tinh thỉnh tỉnh nhược vô ứng thư,
Đại-Nam hải nhai lão thư sinh tính Phan chi cửu. Diệc dĩ thử chí mộ".

nghĩa là : Xin bỏ tấm triệu, còn nếu không chịu bỏ thì chỉ nên viết : "Linh cữu của người học trò già họ Phan ở bãi biển nước Đại-Nam" mộ chí cũng đề như thế. Đồng thời Ông làm thơ tuyệt mạng : Thời trời, lợi đất, lại người hòa, Há dễ ngồi coi phải nói ra. Làm trả ơn vua, đền nợ nước, Đành cam gánh nặng ruổi đường xa. Lên gềnh xuống thác thương con trẻ, Vượt biển trèo non cam phận già. Cũng tưởng một lời an bốn cõi, Nào hay ba tỉnh lại chầu ba! Và Ông tuyệt thực suốt 17 ngày mà không chết để chờ quyết định của vua Tự-Đức. Sau cùng, vào lúc nửa đêm mùng 4 rạng mùng 5 tháng 7 năm Đinh Mão 1867, Ông hướng về phương Bắc nơi có vua Tự-Đức để lạy 5 lạy và trước sự chứng kiến đau lòng của các con cháu, rồi Ông uống á-phiện với dấm thanh để tự vận. Lúc đó có nhiều người quan Pháp kính nể việc làm của Ông, bác sĩ hải-quân Pháp là Le Coniat đã tận lực cứu chửa, nhưng không cứu Ông được, nên phải trút hơi thở cuối cùng thượng thọ 71 tuổi và được các quan lớn nhỏ ở lục tỉnh cùng thân nhân bằng cố hữu về đông đủ để chịu tang và các con cháu đưa về an táng tại làng Bảo-Thạnh, quận Ba-Tri (Bến-Tre) đúng như ý muốn của Ông. Khi hay tin Ông chết, các quan Việt-Nam và Pháp tới phúng điếu đều ngậm ngùi thương tiếc một công thần với 41 năm công cán suốt 3 triều đại là: 1.-Vua Minh - Mạng (1820-1840) tức con thứ ba của vua Gia-Long là Thánh-Tổ Nguyễn-Phúc-Đảm, thọ 50 tuổi, trị vì 20 năm và có 170 người con. 2.-Vua Thiệu-Trị (1841-1847) tức Hoàng-TháiTử của vua Minh-Mạng là Hiến-Tổ Nguyễn-Miên-Tông, thọ 37 tuổi và trị vì 6 năm. 3.- Vua Tự-Đức (1847-1883) tức con thứ hai củaVua Thiệu-Trị với Bà Thái-Hậu Từ-Dũ, quê ở Gia-Định (Nam Kỳ) là Hoàng-Thái Tử Dực-Tông Nguyễn-Hồng-Nhậm, thọ 55 tuổi và trị vì 36 năm.

Lúc làm Kinh-Lược trấn nhậm tỉnh Vĩnh-Long Ông có lập miếu thờ Đức Khổng Tử do Ông Nguyễn-Thông trông nom, khởi công năm Giáp Tý 1864 đến cuối năm 1866 hoàn-thành, đồng thời cất tòaVăn-Xương-Các chung trong đất Văn -Thánh tại làng Long-Hồ để khi rảnh rổi việc quan, Ông cùng các bạn văn nho họp luận bàn thi phú. Tòa Văn Xương-Các đến nay vẫn còn uy-nghiêm dưới nhiều cây cổ thụ trồng từ xa xưa, cách chợ Vĩnh-Long khoảng 3 cây số. Bên trong có thờ chân dung Ông và bài-vị Ông Võ Trường Toản. Riêng tại Miểu Quốc-Công nằm trong thị xã Vĩnh-Long cũng có thờ Ông, hai nơi này lúc nào khói hương cũng nghi ngút. Ngoài ra, năm 1966, chánh-quyền Tỉnh và thân hào nhân sĩ trước kia, cũng dựng tượng đồng bán thân Ông đặt tại công viên tại chợ Vĩnh-Long. Bởi vì, Ông là vị quan thanh-liêm, cương trực, hết lòng phục mệnh các vì vua và lo cho đất nước, dân tộc, lúc bấy giờ, cho nên Ông bị hành-động gian-xảo của giặc Pháp ở thế thượng phong về quân-sự cùng văn-minh tân kỳ của giặc Pháp (bởi vì, Ông đã thấy tận mắt khi cầm đầu sứ bộ sang Pháp), lúc nào cũng muốn cưỡng chiếm 6 tỉnh Nam-Kỳ cho bằng được. Dù ai, ngoài Ông ra cũng không tránh khỏi kết-quả thiệt-thòi của giặc Pháp đưa đến. Vì thế, Ông đành thất thủ thành và đưa đến cái chết can-đảm. Trong khi đó, có tin từ triều đình Huế gởi vào : Bãi chức hàm của Ông, đục tên trên bia tiến-sĩ ngoài Huế để làm gương, cuối cùng đến năm 1885 vua Đồng-Khánh mới phục hồi chức hàm và đến năm 1924 vua Khải-Định mới phong thần cho Ông. Hơn nữa, sau khi Ông chết, hai con của Ông là: Phan-Tôn và Phan-Liêm đã nghe lời Ông căn dặn trước khi chết là : "không ra làm quan với Pháp" mà còn đứng lên chống Pháp. Vì vậy, khi Ông qua đời không những thân bằng quyến thuộc, các quan lớn nhỏ Việt-Pháp cùng đồng bào miền lục tỉnh đến nơi tiễn đưa Ông rất long-trọng và luyến tiếc một nhân tài không thể cưỡng lại tình thế lúc bấy giờ. Riêng Ông Nguyễn-Đình-Chiểu làm bài thơ điếu Ông, bằng chữ Nôm như sau : Non nước tan tành hệ bởi đâu? Dàu dàu mây bạc (trắng) cõi Ngao châu, Ba triều công cán vài hàng sớ, Sáu tỉnh cang (cương) thường một gánh thâu, Ải (Trạm) Bắc ngày trông (chiều) tin nhạn (điệp) vắng, Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu, Minh tinh (sinh) chín chữ (*) lòng son tạc, Trời đất từ đây mặc gió thu. (*) Ông Phan-Thanh-Giản viết di bút để lại cho các con cháu có 11 chữ là : Đại Nam hải nhai lão thư sinh tánh Phan chi cửu có nghĩa là "Linh cữu của người học trò già họ Phan ở bãi biển nước Đại-Nam". Như vậy, chữ "cữu" là cuối chữ của câu 11 chữ do Ông Phan-Thanh-Giản viết rớt đúng chữ "linh" thì rất đúng quy tắc. Bởi vì, theo quy-tắc thời xưa, khi viết minh tinh (tấm triệu) hay mộ bia bắt buộc phải chú ý đến 4 chữ : Quỷ, Khốc, Linh, Thính và phải tôn trọng quy tắc: "Nam Linh, Nữ Tính, bất dụng Quỷ Khốc nhị tự". Nhưng tại sao Ông Nguyễn-Đình-Chiểu là đồ nho lại viết 9 chữ và cắt bỏ hai chữ Đại-Nam có ý nghĩa gì ? Theo thiển nghĩ lúc bấy giờ ở Nam Kỳ lục tỉnh đã bị giặc Pháp chiếm, thì không thể dùng chữ Đại-Nam mà phải cắt bỏ để trách khéo Ông Phan-Thanh-Giản? và có ý để Ông Phan-Thanh-Giản thành Quỷ sau khi chết, bởi để mất Nam Kỳ. Hơn nữa, câu thơ chót Ông Nguyễn-Đình-Chiểu kết bằng chữ gió thu (tức gió mùa Thu, theo ngũ-hành thuộc Kim, theo phương hướng thuộc hướng Tây) ý nói lục tỉnh Nam Kỳ giờ đây do giặc Pháp cai trị là để gói trọn sự thống hận đổ trút hết tội tình lên Ông Phan-Thanh-Giản, giống như hành động vua Tự-Đức vậy.

Xin xem bảng kê dưới đây sẽ thấy rõ hơn :

QủyKhốcLinhThínhQủyKhốcLinhThínhQủyKhốcLinh
1234567891011
ĐạiNamhảinhailãothơsanhtánhPhanchicửu


123456789


QủyKhốcLinhThínhQủyKhốcLinhThínhQủy

Ngoài ra, Ông Nguyễn-Đình-Chiểu không dừng ở đây, lại làm thêm bài thơ điếu Ông Phan-Thanh-Giản bằng chữ Hán, không kém sự phiền giận của Ông. Xin trích dẫn như sau :

"Bỉnh tiết tằng lao sinh Phú Bật,
Tận trung hà hận tử Trương Tuần,
Hữu thiên lục tỉnh tồn vong sự,
Nam đắc thung dung tựu nghĩa thần..."

Với 4 câu thơ trên Ông Nguyễn-Đình-Chiểu, mượn Ông Phú-Bật ở đời nhà Tống được vua cử đi sứ để thuyết phục được giặc Khiết-Đan và lấy lại được đất cho nhà Tống, còn Ông Phan-Thanh-Giản cũng được cử đi sứ, nhưng không thành công. Riêng Ông Trương-Tuần ở đời nhà Đường giữ thành Tuy Dương, chống giặc An-Lộc-Sơn, đã chiến đấu đến cuối cùng, thành mất Ông Trương Tuần chết theo thành, còn Ông Phan-Thanh-Giản không theo gương người xưa, chết tức khắc theo thành?. Vì thế, việc còn mất lục tỉnh, còn có trời. Nhưng, Ông Phan-Thanh-Giản muốn ung dung làm thần (tựu nghĩa thần) thì thật khó lắm thay! Quả thật, Ông Nguyễn-Đình-Chiểu, là con người vì yêu nước nồng-nàn, cho nên việc mất lục tỉnh Nam-Kỳ làm Ông tức giận tột cùng. Vì thế khi Ông Phan-Thanh-Giản chết, Ông làm hai bài điếu để hờn giận, căm thù thật đáng sợ hơn là thương tiếc Ông Phan-Thanh-Giản lâm vào tình trạng tiến thối lưỡng nan lúc bấy giờ.

Qua những trích dẫn vừa qua, chúng ta thấy được Ông Phan Thanh Giàn đáng được tôn kính Vinh Danh, bởi vì Ông là Nhân Tài Đạo Đức, Cương trực, Thanh Liêm, Trung Quân Ái Quốc và Thương Dân suốt đời, giống như các bậc danh nhân ngày xưa, đáng cho thế hệ chúng ta và kế tiếp sau này tôn vinh và ngưỡng mộ mãi mãi. Để biểu lộ tôn kính đối với các bậc tiền nhân bằng hành động, không gì bằng mỗi khi có dịp chúng ta qua Tiền Giang hay Hậu Giang thuộc miền Nam Việt Nam, xin nhín chút thời giờ quý báu đến Bến Tre để thăm các lăng mộ của các Ông : Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản, Võ Trường Toản... Nếu du khách muốn đi thăm viếng mộ Ông Nguyễn-Đình-Chiểu ở ấp Vĩnh-Đức-Trung, làng An Đức, quận Ba-Tri, Tỉnh Bến Tre (Kiến - Hòa trước kia), trước hết phải đến Mỹ-Tho thuộc Tỉnh Tiền-Giang (Định-Tường trước kia) tìm bến bắc Rạch Miểu, để qua con sông Tiền Giang, kế đến lấy xe đò đi về Thị Xả Bến-Tre khoảng 12 cây số, rồi đi tiếp về chợ quận Ba-Tri khoảng 35 cây số, thì thấy lăng mộ Ông Nguyễn-Đình-Chiểu.

Hàn Lâm Nguyễn Phú Thứ

http://lyhuong.net/viet/index.php?option=com_content&view=article&id=850:850&catid=37:bandoc&Itemid=56

SYDNEY BIỂU TÌNH PHẢN ĐỐI CASULA POWER HOUSE VỀ CUỘC TRIỂN LÃM “NAM BANG!”


http://lyhuong.net/viet/index.php?option=com_content&view=article&id=852:852&catid=39:sinhhoatcongdong&Itemid=58

SYDNEY BIỂU TÌNH PHẢN ĐỐI CASULA POWER HOUSE
VỀ CUỘC TRIỂN LÃM “NAM BANG!”
LIÊN QUAN ĐẾN CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Sau biến cố tháng tư đen năm 1975, từng đoàn người Việt phải gạt nước mắt tạm biệt quê hương thân yêu đi tìm tự do qua các ngả đường vượt biên vượt biển vì không chấp nhận sống dưới chế độ phi nhân và độc tài của Cộng sản. Casula là một trong những địa danh thuộc Hội Đồng Thành Phố Liverpool tiểu bang New South Wales Úc Châu, nơi đây một số lớn người Việt tỵ nạn CS định cư và đã nỗ lực tạo dựng cuộc sống ổn định và phát triển nhanh chóng đặc biệt là sự thành công trong các lãnh vực kinh doanh, y tế, chính trị và giáo dục, chuẩn bị sự kế thừa của những thế hệ trẻ tiếp nối đóng góp rất ý nghĩa vào nền văn hóa đa dạng của Úc Châu.

Chiều thứ Bảy ngày 4 tháng 4 năm 2009, hưởng ứng lời mời gọi của Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do tiểu bang NSW hơn 1000 đồng hương với những lá Cờ Vàng và Cờ Úc từ các nơi kéo đến tham dự cuộc biểu tình phản đối Casula Power House (CPH) tổ chức cuộc triển lãm mang tên “Nam Bang!”. Như chúng ta đã biết Nghị Quyết 36 của csVN luôn ẩn núp qua hình thức: từ thiện, văn nghệ .v.v… Lần này lợi dụng “văn hóa nghệ thuật” để tuyên truyền về chiến tranh Việt Nam.

Nội dung cuộc triển lãm “Nam Bang!” hoàn toàn bóp méo sai sự thật, thiếu hẳn sự công bằng, nhấn mạnh nhiều về hậu quả của chất độc da cam, ám chỉ Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh là phi nghĩa và độc ác! Cuộc triển lãm hoàn toàn không nhắc nhở gì tới những hình ảnh về tội ác chiến tranh điển hình như cuộc thảm sát Tết Mậu Thân 1968 với những hầm hố chôn người tập thể do Việt Cộng gây ra, những trại tập trung cải tạo đã bỏ tù hàng trăm ngàn quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa, chính sách “kinh tế mới” xua đuổi người dân đến những vùng rừng thiêng nước độc.v.v... Họ cố tình quên đi hình ảnh những người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa can trường và những quân đội đồng minh trong đó có 507 binh sĩ Úc đã hy sinh cho mục đích cao cả bảo vệ nền Công Lý Hòa Bình và Tự Do cho miền Nam Việt Nam. Tệ hại hơn nữa, cuộc triển lãm này còn trưng bày một số hình ảnh đề cao Hồ Chí Minh, hắn là một tên tội đồ đã gây biết bao nhiêu tang thương cho Dân Tộc Việt.

Biểu ngữ lớn với hàng chữ:

“Nam Bang” and Vietnam War Exhibition in Casula Power House are Biased and Inaccurate

cùng với hàng trăm những biểu ngữ cầm tay “The Vietnamese Australians demand Balance & Fairness in Art Exhibition”, “Vietnam War Truth: War of Defence by South VN and its allies, not War of VC vs American”, “Vietnam today: bauxite, destruction, exploitation in Asia Pacific”, “Liverpool Council must be fair” do các đồng hương giương cao trước lối vào cổng chính của Trung Tâm Văn Hóa Nghệ Thuật Casula.

Chương trình khai mạc vào lúc 4:30 chiều do LS Nguyễn văn Thân điều hợp. Sau nghi thức chào cờ Úc - Việt và phút mặc niệm, Luật sư Võ Trí Dũng Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do tiểu bang NSW ngỏ lời chào mừng các đồng hương, ông đã trình bày rõ những dữ kiện chính của cuộc biểu tình ôn hòa:

  • Phản đối Ban Quản Trị Casula Power House và Hội Đồng Thành Phố Liverpool có thái độ coi thường Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu.
  • Xuyên tạc cuộc chiến Việt Nam như một cuộc chiến giữa Cộng Sản Bắc Việt và Hoa Kỳ, hoàn toàn không nhắc nhở gì đến Chính Phủ Quốc Gia tại miền Nam và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mà họ coi như chỉ là những người lính đánh thuê cho Mỹ
  • Phản đối trưng bày một số hình ảnh đề cao Hồ Chí Minh như là một anh hùng dân tộc.
  • Người Việt tỵ nạn CS là những nhân chứng sống trong cuộc chiến Việt Nam, phản đối sự thiếu công bằng của Casula Power House và vạch trần tội ác chiến tranh của Việt Cộng trước công luận Úc.

Với khí thế dâng cao liên tục hô lên “NO Nam Bang Exhibition!” được tiếp theo với những tiếng la vang dội từ các đồng hương: NO…NO…NO.

Tiếp đến Ban Tổ Chức kính mời Linh mục Chu Văn Chi, vị lãnh đạo tinh thần của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam TGP Sydney, góp lời chia sẻ của Ngài về cuộc triển lãm, Ngài nói: “Với tâm tình là một người Việt Nam, cuộc triển lãm quả là một vết thương, một vết chém cho cá nhân tôi và cho tất cả những đồng hương của chúng ta vì họ đã không nói lên sự xác thực của chiến tranh Việt Nam. Chúng ta là những nạn nhân của chế độ CS, vì thế chúng ta phải có mặt ngày hôm nay để phản đối và nói thay cho những người còn ở trong nước…”

Sau đó, Ông Nguyễn Văn Thanh đại diện Hội Đồng Tư Vấn Giám Sát CĐNVTD/NSW cho biết: mặc dầu các vị cựu Chủ Tịch Cộng Đồng và LS Chủ Tịch đã cố gắng tiếp xúc với bà Thị Trưởng của Hội Đồng Thành Phố Liverpool để phân tích và bày tỏ quan điểm lập trường của Cộng Đồng chúng ta nhưng bà Thị Trưởng đã không quan tâm mà Bà còn cảm thấy “comfortable” tạm dịch là “không có gì sai trái” với cuộc triểm lãm này! Vì thế, Cộng Đồng chúng ta cần phải biểu dương sức mạnh của tập thể người Việt quốc gia tại Úc trước mọi sự ngoan cố và thách thức của csVN và tay sai trong cuộc chiến Văn Hoá Vận đối với Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu.

Rất nhiều lần các vị MC liên tục hô to “Shame on Casula Power House” tiếp theo với những tiếng la vang dội từ các đồng hương: Shame!…Shame!....Shame!

Bà Phạm Ánh-Linh Phó Chủ Tịch CĐNVTD/NSW đặc trách Văn Hóa Giáo Dục phát biểu: “Cuộc triển lãm về chiến tranh VN là một chương trình kéo dài trên 10 năm nay do Casula Power House tổ chức. Theo như quảng cáo thì cuộc triển lãm lấy tên Nam Bang sẽ nói về những hậu quả của chiến tranh Việt Nam đối với những nạn nhân của cuộc chiến này.

Người Việt tỵ nạn CS là những nhân chứng sống và là nạn nhân trực tiếp của cuộc chiến VN. Họ đã phải liều mạng trên biển cả, nơi rừng sâu để đánh đổi lấy tự do. CĐNVTD là một cơ cấu Tiểu Bang và Liên Bang được bầu lên và đại diện cho 200,000 người nạn nhân chính của cuộc chiến VN. Thế nhưng tập thể này đã không hề được tham khảo, không được hỏi ý kiến. Các vị chủ tịch liên tiếp trong trên 10 năm qua đã xác nhận điều này với ban tổ chức triển lãm và ban tổ chức triển lãm cũng công nhận.

Trong buổi gặp mặt với bà Thị Trưởng Thành phố Liverpool Wendy Willer, cơ quan bảo trợ trực tiếp cho cuộc triển lãm, bà Thị Trưởng luôn miệng nói: Tôi cảm thấy thoải mái với cuộc triển lãm này (I am comfortable with the exhibition). Sau khi được ban đại diện CĐ đưa ra những bằng chứng thiên lệch và che đậy cho những tội đồ của CSVN thì bà không (dám) nói là bà thoải mái với với cuộc triển lãm này nữa, nhưng lại xoay ra nói: tôi thoải mái với quá trình thực hiện cuộc triển lãm này, (I am comfortable with the process of the exhibition) vì đã có tham khảo. Ban đại diện CĐ hỏi bà đã tham khảo với ai là người VN, thi bà tránh đi và trả lời: “Tôi không cần phải nói với quý vị đó là ai” (I don’t have to tell you who were consulted). Vậy thì đó là ai ? Chắc chắn phải là những các cá nhân, không có tính cách đại diện và biết đâu bà đã tham khảo với đại diện VC trong tòa lãnh sự ở Sydney hay không chừng tòa đại sứ ở Canberra không chừng !

Tổng Thống Putin đã tuyên bố « CS không bao giờ thay đổi mà chỉ phải chấm dứt chúng mà thôi ».

Trong trận chiến này, CĐNVTD/NSW đã gởi thơ đến các vị Hiệu Trưởng các trường học có nhiều học sinh VN ở vùng Liverpool, Fairfield, Bankstown, Marrickville để nhắc nhở họ đừng nên đưa học sinh đến xem cuộc triển lãm này vì các em sẽ học những điều sai lệch.

Cũng vào dịp này, xin quý phụ huynh tiếp tay bằng cách nều thấy hiện tượng gì thiên công trong trường học thì hãy mau mắn nói ngay với Hiệu Trưởng và sau đó tiếp xúc với CĐ để chúng ta cùng tiếp tay nhau chống Cộng.

Bà Ánh Linh đã kêu gọi những người tổ chức và tiếp tay thực hiện cuộc triển lãm hãy mở mắt để nhìn sự thật về chiến tranh VN, mở tai để nghe tiếng nói của nạn nhân và mở lòng để biết thương cảm thực sự đến các nạn nhân cuộc chiến đang hiện diện tại Úc và đang trả thuế để họ thực hiện cuộc triển lãm nàỵ

Chỉ có khoảng 40-50 chiếc xe vào xem, vậy là khoảng 80-100 người. Với 1 sự quảng bá rộng rãi mà chỉ 100 người vào xem thì rõ ràng là nhiều người đã ý thức được đây là một cuộc triển lãm không trung thực và không đáng để được xem”.

Kế tiếp là những lời phát biểu của các vị trong Cộng Đồng: ông Nguyễn văn Bôn vị lãnh đạo tinh thần của Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo VN, LS Võ Quốc Dũng, Ông Nguyễn Đình Khánh Giám Đốc Đài Phát Thanh Việt Nam Úc Châu, cô Bảo Khánh Giám Đốc Đài Phát Thanh Việt Nam Sydney Radio, cô Giáo sư Hoài Đăng.

Chương trình biểu tình kết thúc lúc 6g10 chiều cùng ngày.

Phải nói: Đây là một ngày quan trọng, vì hơn bao giờ hết trong tháng tư đen năm nay, đánh dấu 34 năm Quê Hương Việt Nam vẫn còn bị csVN tiếp tục gia tăng đàn áp thô bạo những quyền căn bản của con người thì sự kiện biểu tình bày tỏ sự phản kháng của Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Sydney đối với Ban Quản Trị CPH là sự kiện lịch sử, là hình ảnh sống động vô cùng ý nghĩa khẳng định tiếng nói của tập thể đồng lòng tẩy chay trước những nội dung đầu độc, lợi dụng “nghệ thuật” làm công cụ tuyên truyền chính trị cho CS nhằm phân hóa Cộng Đồng Người Việt tỵ nạn CS tại Hải Ngoại. Tóm lại, chủ đích của cuộc triển lãm “Nam Bang!” nhắm tới việc lôi kéo thế hệ 1.5 và thế hệ thứ hai tại Hải Ngoại đi theo chủ điểm của Nghị Quyết 36. Trong những bước ban đầu, ban Quản Trị của CPH mời gọi một số các bạn trẻ yêu thích nghệ thuật đóng góp tranh ảnh triển lãm cho chương trình “Vietnam Voices” nhưng sau đó dần dần họ đã chuyển hướng hợp tác với các nhân vật thân Cộng có chủ đích làm CHÍNH TRỊ núp dưới cái dù “văn hóa nghệ thuật”.

Đứng trước sự kiện này là những người còn quan tâm đến thế hệ mai sau tại Hải Ngoại cần phải suy nghĩ và đặt vấn đề cho đúng tầm mức quan trọng của nó.

Câu hỏi đặt ra là: Chúng ta có muốn thế hệ con em của chúng ta sẽ quay lại phỉ báng thế hệ Cha Ông của chúng sau khi tiếp nhận sự giải thích sai lạc về chiến tranh Việt Nam từ những Trung Tâm Văn Hóa Nghệ Thuật ở khắp các nơi trên thế giới nơi có đông người Việt tỵ nạn CS cư ngụ tương tự như CPH?

Câu trả lời của chúng ta ắt hẳn là KHÔNG BAO GIỜ, thưa quý đọc giả.

Thanh Hà
Tường Trình từ Casula Power House - Sydney
Ngày 4 tháng Tư Đen năm 2009








Hình ảnh: Thanh Hà

THÁNG TƯ - Minh Trang

Minh Trang

Tháng tư 1975.

Như nhiều người dân miền nam Việt Nam lúc đó. Khi nghe tin đất nước thanh bình, hai miền nam bắc thông thương, mọi người từ nay sẽ không còn nhìn thấy cảnh chiến thanh chết chóc thảm khốc thê lương.

Chẳng riêng gì gia đình chúng tôi mà hầu như đại đa số dân chúng trong miền nam đều có ý định ở lại quê nhà, nơi chôn nhau cắt rún, nơi sinh ra lớn lên và nơi mái gia đình thân yêu.

Thế nhưng…

Cũng tại cái quyết định quá là sai lầm này mà cuộc sống của chúng tôi đã lao đao, khốn đốn, khổ sở tận cùng suốt ba năm dài.

Sau một đêm dài giới nghiêm, màn kịch đổi tiền cho mỗi đầu người còn có hai trăm đồng. Sau đó cộng sản đã đánh tiếp tục vào những người dân được mệnh danh là bọn tư sản. Những mỹ từ được đánh bóng, được mài dũa thật kêu như làm ít hưởng nhiều, tiến lên thế giới đại đồng?

Âm thanh nhai đi nhai lại mỗi ngày từ đầu trên cuối ngõ (mà đến giờ người ta vẫn cười nhạo báng là làm và nghe … qua loa) qua những chiếc loa quỷ quái với giọng điệu the thé và chát chúa như những chiếc búa tạ đã đập vào những thanh sắt….

Những em bé lên ba tập tễnh vào nhà trẻ, chiều về hát ê a những bài ca ca tụng bác Hồ già. Trẻ con đã được dạy bảo những gì? Hãy kể lại cho cô giáo nghe những gì cha mẹ đã nói năng và tâm sự ở nhà!

Đến lúc chính đứa con trai lên ba của chúng tôi đã thỏ thẻ điều này, tưởng tượng cái khối óc trẻ con vô tư trong trắng này nay mai sẽ trở thành bọn công an soi mói rình rập ngay chính người thân bên cạnh mình đã làm chúng tôi không còn lưu luyến giây phút nào ở lại. Phải mau rời nơi đây, hãy đem những đứa trẻ đầu óc còn ngây thơ trong trắng này đi mau trước khi chúng nó trở thành kẻ không còn tim gan và đôi mắt cú vọ suốt đời chỉ biết làm những công cụ tay sai cho bọn sói lang và rình rập những người hiền lương mà nơi họ chỉ mơ đơn thuần một cuộc sống an lành.

Chúng tôi rời quê hương vào năm 1978….

Chiếc ghe nhỏ bé đã mang chúng tôi đi, lênh đênh trên biển cả suốt mấy ngày dài. May mắn làm sao, đám người tội nghiệp này đã không bị cướp biển, không bị bão tố kéo dài, không bị mất đi một mạng sống nào như những chiếc ghe xấu số khác và cuối cùng chúng tôi đã được đến nơi đây. Nước Đức đã cưu mang và đón nhận như bàn tay người mẹ hiền vớt chúng tôi từ nơi tăm tối.

Thời gian đó, làn sóng thuyền nhân và danh từ tỵ nạn là những tin tức nóng hổi được đưa lên báo chí, truyền thanh, truyền hình mỗi ngày như chính phủ Đức đã đón nhận bao nhiêu người tỵ nạn và đưa về nơi đâu. Hình ảnh người tỵ nạn được đưa lên hàng đầu của những trang nhật báo Buổi Chiều hay Miền Nam Thời Báo…vv…vv..

Nhớ lại lần đó…

Radio và đài truyền hình đã đến phỏng vấn đám người tỵ nạn chúng tôi. Người phóng viên bản xứ rút trong túi áo ra một lá cờ nho nhỏ với màu vàng và ba sọc đỏ thân thương. Qua lời thông dịch của anh sinh viên đi du học và cũng đã ở lại xin tỵ nạn:

Hãy cho chúng tôi biết cảm tưởng của các anh chị khi cầm lá cờ này trong tay và cái không khí tự do này ra sao?

Cảm tưởng ư?

Không khí tự do này ra sao ư?

Chúng tôi đã không nói lên được một lời nào mà chỉ nhìn nhau …và khóc như chưa lần nào được khóc.

Bây giờ thì đã 30 năm trôi qua…

Ngoảnh lại nhìn những ngày xa xăm đó, chân bước đi mà lòng cứ ngập ngừng.

Ừ! Thì ra nào có ai lại muốn bỏ quê hương xứ sở để mà ra đi?

Nào có ai lại muốn bỏ lại quê hương lẫn bạn bè thân yêu từ khi bé thơ cho đến lúc trưởng thành?

Nào có ai lại muốn quay lưng không nhìn lại mảnh vườn, căn nhà sinh ra và từ đó đã lớn lên?

Thế mà đành phải bỏ hết, bỏ tất cả để mà ra đi.

Từ đó…..

Mỗi năm không hẹn mà ai cũng cùng nhau cứ đến tháng tư là gặp nhau cùng nhau gióng trống.

Trống dồn như giục giã. Trống hối thúc mình nhớ đừng bao giờ quên cội nguồn. Trống nhắc nhở chúng ta lánh xa cái màu đỏ ghê người kia.

Còn lại gì? Vẫn muôn đời còn đây lá cờ vàng ba sọc đỏ.

Mỗi năm đến tháng tư là lá cờ lại được bay phất phới. Lá cờ bên cạnh những người già che dấu dùm họ những nỗi niềm nhớ quê hương. Lá cờ bên cạnh trẻ thơ với nụ cười hồn nhiên biểu tượng một thế hệ mới trong không khí tự do đầy nhân quyền bác ái đang lớn dần.

Cờ bay … tiếng hát quật cường vang vang.

Đã có những người đứng lên đi dựng đường cho một ngày mai sáng lạn. Cũng có nhiều người đã bỏ thây nơi vùng đất tạm dung. Ai ai cũng ôm ấp trong lòng một ngày sẽ được trở lại quê nhà với màu cờ thật sự tự do.

Người ta hay nói cóc chết ba năm quay đầu về núi. Còn chúng ta, những người Việt tha hương thì muôn đời quay đầu vọng cố hương.

Chúng tôi đã chứng kiến thật nhiều người già lần lượt từ bỏ cuộc sống an lành nơi đây để trở về, niềm ước mơ sau cùng là được chết nơi quê hương của mình. Nhưng rồi sau đó chỉ một thời gian ngắn lại thấy trở ... ra!

Điều gì khúc mắc? Điều gì đã ngăn trở những người già nua với giấc mơ đơn thuần được về và chết nơi quê hương của mình?

Có phải chăng là tại biểu tượng màu cờ vàng ba sọc đỏ này?

Lá cờ cho chúng ta đi đứng tới lui, cái tự do đầy tình tự và có quyền lựa chọn. Quê hương thân thương nhưng con người đã trở thành chai đá, cái màu đỏ đã nhuộm hết tim gan và biến con người mất hết lương tri.

Tháng tư lại trở về.

Tờ lịch đã được gạch đỏ nhiều lần dưới số 30. Cái dấu ấn đau thương này chúng ta không được quyền quên. Tháng tư về là lại nhớ cảnh đau thương của đoàn người lần mò đi trong đêm tối đầy chông gai để được tìm đến nơi có ánh sáng chan hòa đầy tình người.

Tháng tư về là lại nhớ đến người thân cha mẹ bạn bè đã nằm vất vưởng nơi nào ở quê hương.

Ôi! Tháng tư.

Giá mà trên những tờ lịch không còn in tháng tư, có lẽ con người chúng ta sẽ bớt đi những nặng nề của dĩ vãng, tháng tư trĩu buồn làm bao nhiêu người đã khóc âm thầm…

Này mẹ, này chị …

Tháng tư về làm mẹ nhớ, chị nhớ …. người cha thân yêu, người chồng đầu ấp tay gối nay đã nơi đâu? Có nhìn thấy chăng? Đám con đã lớn khôn. Có đứa hiên ngang ngẫng mặt làm con dân Việt, cũng có đứa đôi mắt tự đã mờ để trốn khỏi cái vỏ ốc da vàng của mình …

Tháng tư trở về, hãy ôm vào lòng những tin yêu và hy vọng. Tháng tư cứ đến, cứ đi.

Hãy nói với chính chúng ta, tháng tư sẽ chẳng còn buồn bã hay tuyệt vọng mà là vun tưới những mầm xanh kia thành những đóa hoa đầy ắp tình người. Hãy nhắc nhở mầm xanh non ấy lá cờ lúc chúng ta mang ra đi và nhắc mãi những mầm xanh non ấy thay ta gìn giữ tiếp tục ngọn cờ này.

Chắc chắn sẽ có ngày chúng ta trở về lại quê hương.

Tháng tư sẽ không còn buồn và nét gạch sẽ không còn màu đậm đỏ mà thay vào là những màu xanh tươi hy vọng của con người, của tự do, của yêu thương.

Minh Trang

Munich, những ngày tháng tư 2009



Oan Hồn Người Cha Trong Ngày Vui Đại Thắng - Trần Quốc Kháng

Trần Quốc Kháng

Ai có thể làm thống kê, tổng kết xem từ ngày quê hương chúng ta sa vào thảm hoạ Cộng Sản, có mấy chục triệu người, không nhiều thì ít, không trực tiếp thì gián tiếp, là nạn nhân của đảng giặc VC? Khó khăn hơn nữa là trường hợp của hàng triệu gia đình, hoàn toàn bị tan nát.

Dù sao, chúng tôi thiết tưởng, khi mang trong lòng mối "thù nhà nợ nước" thì lẽ ra, tất cả các nạn nhân đều có ý chí, Chống Cộng hăng say. Nhưng không hiểu sao, có nhiều trường hợp, họ lại cúi đầu sống trong ô nhục, làm tôi tớ cho kẻ thù, phản bội đồng bào, "vong ân bội nghĩa" với ông cha?
Câu chuyện "Oan Hồn Người Cha Trong Ngày Vui Đại Thắng”—khởi đầu năm 1945 và kết thúc năm 1975—là trường hợp điển hình cho nhiều trường hợp khác nhau. Trong đó có nỗi oan khiên của người cha là học giả Phạm Quỳnh và sự việc ô nhục của người con là “nhạc sĩ vẹm” Phạm Tuyên.

Còn thảm cảnh nào ô nhục hơn cuộc đời của Phạm Tuyên? Sau khi đảng giặc VC đã giết cha mình, làm cho gia đình mình tan nát, làm cho đất nước tan hoang, làm cho đồng bào VN khốn khổ thì Phạm Tuyên lại đi làm tôi tớ cho kẻ thù, viết bài hát mừng VC chiếm được miền Nam ngày 30.4.1975:

"Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng...
Lời Bác dậy đã thành chiến thắng huy hoàng
Ba mươi năm đấu tranh giành trọn vẹn non sông
Ba mươi năm Dân Chủ Cộng Hòa,
kháng chiến đã thành công"

Hiển hiện, "ngày vui" ấy là ngày vui của đảng giặc VC. Ngày "đại thắng" ấy là ngày đại thắng của Quốc Tế Cộng Sản—do Nga Tàu điều khiển.

Lẽ dễ hiểu là trong cuốn "Chủ Nghĩa Quốc Tế Vô Sản", đảng giặc VC đã khẳng định, chúng là “một đơn vị của đoàn quân QuốcTế Vô Sản”. Còn Hồ Chí Minh, căn cứ vào thư của chính hắn viết cùng nhiều tài liệu khác của đảng VC thì ai cũng thấy, hắn là ‘Ðại Diện’ của Quốc Tế CS, lãnh lương của QTCS, làm theo lệnh của QTCS.

Nói cách khác, Hồ là tay sai của Nga Tàu, không hơn không kém. Chính Hồ đã để lộ vai trò tôi tớ hắn khi tuyên bố:

"Nhận chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản để giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ".

Hai chữ “cách mạng” trong câu nói của họ Hồ có nghĩa là “cách mạng vô sản”. Đó là việc áp đặt ách đô hộ Mác-Lênin trên quê hương chúng ta.

Trong 30 năm chiến tranh, dưới chiêu bài "đánh Pháp chống Mỹ", Quốc Tế CS đã sử dụng đất nước chúng làm bãi chiến trường. Quốc Tế CS đã đem "núi xương sông máu" của dân tộc VN, lót đường cho chủ nghĩa phi nhân Mác-Lênin bành trướng. Kết quả hiện thời là hàng chục năm trôi qua, sau khi năm chiến tranh chấm dứt, VN vẫn là nơi nghèo khổ, lầm than và nhiều tệ đoan xã hội nhất thế giới.

Vì vậy, khi VC tung ra bài “Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Đại Thắng” thì dân chúng VN, đối kháng bằng cách đổi ngược tất cả lời ca cho đúng với sự thật trong lịch sử.

Ða số dân chúng trong chế độ VC, đều nghe trẻ nhỏ tụ tập chơi ngoài đường, nghêu ngao hát—sau Tháng Tư Ðen 1975:

"Như có bác Hồ trong thùng phi đậy nắp
Lời Bác nay trở thành thối hoắc trong thùng
Ba mươi năm Bác làm tan nát non sông
Ba mươi năm Dân Chủ Cộng Hoà chẳng thấy...”

Trong ngày 30 tháng 4, nếu người con là Phạm Tuyên vui mừng ca hát "như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng" thì ngược lại, oan hồn của người cha là Phạm Quỳnh, ắt hẳn phải cảm thấy, vừa ngậm ngùi, vừa tủi nhục. Ngậm ngùi trước thảm cảnh “nước mất nhà tan”. Tủi nhục vì có đứa con đi làm tôi tớ cho kẻ thù, phản dân hại nước mà lại tưởng là vinh!

* Văn Nhân Sinh Tặc Tử

Trong thời gian trước đây, nhiều cây bút lão thành đã viết bài nhằm minh oan cho học giả Phạm Quỳnh. Vấn đề này, chắc chắn sẽ đuợc lịch sử phát xét công minh. Tuy nhiên, khi đề cập đến chuyện "Văn Nhân Sinh Tặc Tử" thì thiết tưởng, cũng cần nhắc lại vài nét đại cuơng về nguời quá cố.

Qua Văn Học Sử VN, nhiều quý vị còn nhớ, Phạm Quỳnh là người có công rất lớn trong văn học. Vốn là người uyên thâm Nho Giáo và triết học Tây Phương, học giả Phạm Quỳnh còn tốt nghiệp trường Thông Ngôn (Collège Des interprêtes) năm 1908. Ông được bổ nhiệm làm việc ở trường Viễn Đông Bác Cổ. Năm 1917, ông là chủ biên và là linh hồn của Nam Phong tạp chí. Năm 1919 ông sáng lập hội Khai Trí Tiến Đức. Cả hai tổ chức văn hóa này đã "vang bóng một thời" trên hai miền Nam Bắc VN.

Năm 1932, ông được vua Bảo Đại mời vào kinh đô Huế, giữ chức vụ Thượng Thư Bộ LạI—tương đương với Thủ Tướng Chính Phủ hiện thời.

Đến năm 1945, Việt Minh Cộng Sản nổi dậy cướp chính quyền. Học giả Phạm Quỳnh bị bọn côn đồ Trần Huy Liệu, nhận lệnh của Hồ Chí Minh, đến kinh đô Huế, ép buộc vua Bảo Đại trao Ấn Tín.

Chúng còn bắt học giả Phạm Quỳnh cùng nhiều nạn nhân khác, trong đó có hai cha con ông Ngô Đình Khôi—bào huynh của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm—đem vào rừng, đập bể sọ, rồi chôn vùi trong nấm mồ tập thể với bản án “Việt gian”!

Ai can tội Việt gian? Nếu học giả Phạm Quỳnh can tội “Việt gian” vì theo học “Trường Thông Ngôn” rồi làm việc cho vua Bảo Đại thì Hồ Chí Minh can tội gì khi khi làm bồi cho thực dân Pháp trên tàu L'Admiral La Touche Tréville?

Sau khi đến Pháp, Hồ viết thư van xin bọn Thực Dân cho vào học nội trú trại “Trường Thuộc Địa”. Như vậy thì rõ ràng, sau giấc mộng làm tay sai cho Pháp không thành, Hồ xoay sang làm tay sai cho Đệ Tam Quốc Tế CS.

Còn trong lãnh vực báo chí, học giả Phạm Quỳnh là người có công hay có tội? Chúng tôi xin nêu lên nhận xét của những cây bút lão thành:

Trên trang 939 của cuốn "Thành Ngữ, Điển Tích, Danh Nhân Tự Điển" Quyển II, xuất bản tại Sài Gòn năm 1967, soạn giả là giáo sư Trịnh Vân Thanh — người bất đồng chính kiến với học giả Phạm Quỳnh mà cũng phải nhìn nhận:

"Trên lãnh vực văn hoá, Phạm Quỳnh xứng đáng là một kiện tướng có đủ năng lực, tài ba để điều khiển một cơ quan ngôn luận và có công rất lớn trong việc phát huy những khả năng tiềm tàng của Việt Ngữ và xây dựng một nền móng vững chắc cho Quốc Văn, bằng cánh tô bồi với những tinh hoa mà ông đã rút tỉa, trong những tư tưởng và học thuật của Âu Tây”.

Trên trang 76 của cuốn "Nhà Văn Hiện Đại" Tập I, soạn giả là nhà văn Vũ Ngọc Phan, đã nêu nhận xét về học giả Phạm Quỳnh:

"Ông là người chủ trương cái thuyết: đọc sách Tây là để thâu thái lấy tư tưởng, lấy tinh thần văn hóa Âu Tây để bồi bổ cho nền Quốc Văn còn khiếm khuyết, để chọn lấy cái hay của người mà dung hoà với cái hay của mình, ngõ hầu gìn giữ cho cái học của mình không mất bản sắc, mà vẫn có cơ tiến hoá được".

Hồi đầu năm 1999, chúng tôi được biết thêm 2 nhà văn khác là cụ Mạc Kinh ở Luân Đôn và cụ Duy Xuyên ở Houston, Hoa Kỳ. Cụ Mạc Kinh viết bài "Nỗi Oan Khiên Của Nhà Học Gỉa Phạm Quỳnh", đăng trên tờ Việt Báo ở Houston số 71. Còn cụ Duy Xuyên thì viết bài "Đốt Lò Hương Cũ Số 9". Trên trang 84 của tờ VB số 72, cụ Duy Xuyên đã nêu lên nhận xét về học giả Phạm Quỳnh:

"Một người chỉ dùng cây viết tô điểm thêm đậm nét dòng văn hóa Tổ Tiên, người đã mượn ba tấc lưỡi Tô Tần thuyết phục người Pháp trả lần hồi nền tự trị cho quê hương, người đã hết lòng cúc cung tận tụy phò vua trẻ hồi loan từ 1932 cho đến 1945, trung quân ái quốc một lòng một dạ, vì đã thấm nhuần Nho Gíao, lấy tam cương ngũ thường làm chuẩn, nhưng buồn thay, người quân tử gặp lúc nhiễu nhương, cây bút làm sao chống lại mã tấu, lựu đạn của bọn vô lại đầu đường xó chợ".

Quả thật là như vậy, dẫn đầu "bọn vô lại ấy" là Hồ Chí Minh. Trong những năm đầu của thảm hoạ Cộng Sản, ngoài việc thủ tiêu học giả Phạm Quỳnh, quốc tặc Hồ Chí Minh còn là thủ phạm trong các vụ thủ tiêu Đức Huỳnh Phú Sổ, các ông Lý Đông A, Trương Tử Anh, Hoàng Đạo và Khái Hưng. Hàng ngàn chiến sĩ cách mạng khác, chỉ vì có khuynh hướng Quốc Gia, mà bị họ Hồ lừa gạt và sát hại vô cùng dã man.

Tại sao, Trần Huy Liệu giết cha của Phạm Tuyên mà lại còn bắt giam anh của Phạm Tuyên là Phạm Giao và cướp luôn chị dâu của Phạm Tuyên nữa? Chuyện thê thảm xẩy ra chỉ vì, chị dâu của Phạm Tuyên—vợ ông Phạm Giao—là người đẹp nổi tiếng trường Đồng Khánh. Trước đó, Trần Huy Liệu đã say mê, theo đuổi một thời.

Nhưng Liệu là kẻ vô luân nên bị "người đẹp" khinh bỉ. Khi "nàng" kết hôn với ông Phạm Giao thì Liệu "ôm hận ngàn thu", mong đợi có dịp trả thù. Dịp ấy đã đến khi Cộng Sản cướp chính quyền năm 1945. Cụ Duy Xuyên đã nêu lên nhận xét về hành động đểu cáng và tàn ác của Trần Huy Liệu:

"Chỉ vì không lấy được người mơ ước mà Liệu đã nỡ lòng làm tan nát nhà họ Phạm và dập liễu vùi hoa để thoả mãn thú tính của một tên vô lại".

Câu chuyện đểu cáng, bất nhân không ngừng ở đó. Sau khi "người đẹp" qua tay Trần Huy Liệu thì lại lọt vào tay quốc tặc Hồ Chí Minh. Vì biết ý họ Hồ thèm muốn người đẹp nên Liệu tức tốc, gởi "nàng" đến Phủ Chủ Tịch “làm quà” biếu Bác để Bác thoả mãn nhục dục!

Như vậy thì rõ ràng, VC đã làm gia đình họ Phạm tan nát. VC đã làm đất nước tan hoang. VC đã làm đồng bào lầm than, nghèo khổ. Mang mối "thù nhà nợ nước" rõ ràng như thế mà Phạm Tuyên lại cúi đầu, đi làm tôi tớ cho Cộng Sản, viết lời ca "Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Đại Thắng" thì còn ô nhục nào hơn! Nhiều người bảo rằng "cha nào con nấy", nhưng trong câu chuyện này thì hiển nhiên là trái ngược: "Văn Nhân Sinh Tặc Tử".

* Luận Cổ Suy Kim

Thật ra, câu chuyện nêu trên chỉ là câu chuyện điển hình. Vấn đề chính yếu được nêu lên: Từ ngày "nước mất nhà tan" đến nay, có bao nhiêu người, thay vì nung nấu trong lòng mối "thù nhà nợ nước", chống lại chế độ Mafia VC thì lại bắt tay thân thiện, hưởng ứng chiêu bài của kẻ thù tung ra? Nguyên do nào làm họ mù quáng? Họ không còn nhớ cội nguồn của bản thân họ, của gia đình họ là những nạn nhân đau thương của đảng giặc VC?

Quả thật là như vậy. Trong 2 năm 1945-1946, hàng trăm ngàn người có ông cha đã bị VC sát hại, trong các “chiến dịch” thủ tiêu, ám sát hay chém giết tập thể khi VC nổi lên cướp chính quyền. Trong những năm “Cải Cánh Ruộng Đất”, hàng triệu người có cha mẹ bị VC cướp hết cơ nghiệp, rồi đem ra đấu trường hành hạ trước khi giết hại hay tống giam.

Hồi Tết Mậu Thân năm 1958, hàng chục ngàn người có thân nhân bị VC sát hại tập thể ở Huế. Kế tiếp là sau khi miền nam thất thủ năm 1975 thì con số phỏng đoán không còn ở mức “hàng triệu” người nữa. Mà ở mức “hàng chục triệu” người—có ông bà, cha mẹ, vợ hay chồng, anh hay chị em, họ hàng hay bạn hữu v.v. bị VC đầy đọa chết trong tại tù hay bị VC xô đẩy vào đường cùng, nên sa vào thảm họa trên hành trình vượt biển tỵ nạn.

Đến nay thì hàng chục năm trời đã trôi qua. Nhiều người bị tiêm nhiễm “nọc độc trí vận” của VC cho rằng, đó là chuyện “hận thù trong quá khứ, nên bỏ qua để hướng về tương lai”. Chúng tôi xin khẳng định rằng, bản tính con người, khi biết yêu quý điều THIỆN thì tất nhiên, sẽ ghê tởm những điều GIAN dối và HẬN THÙ những kẻ gây ra tội ÁC. Mà VC là bọn đại gian, đại ác. Nên ai có lương tri cũng phải hận thù VC. Do đó, nếu thế hệ cha anh chưa xoá bỏ được chế độ Mafia VC thì thế hệ con em sẽ nối tiếp, chống Cộng đến cùng, cho đến khi nào đảng giặc VC không còn hoành hành thì đất nước ta mới có Dân Chủ Tự Do. Đồng bào ta mới ấm no, hạnh phúc.

Đó là điều sơ đẳng. Rất sơ đẳng trong đời sống. Chỉ tiếc rằng, trong khi đảng giặc VC có sở trường đại gian đại ác, nhất là kỹ thuật “lừa già dối trẻ” rất thiện nghệ thì tình trạng dân trí của khá đông đồng bào VN lại “thấp kém”.

Trong đó, người thì nhẹ dạ dễ tin; người thì cuộc sống chỉ biết “giá áo túi cơm”; người có bằng cấp chuyên môn cao, tưởng là “trí thức”, nhưng lại chỉ biết “vinh thân phì gia” hay “cháy nhà hàng phố bình chân như vại”! Mặc dù, tất cả các thành phần kể trên, đều là thành phần thiểu số, nhưng đã dẫn đến hệ quả: Mắc mưu VC hết chiều bài này đến chiêu bài khác!

Ấy là chưa kể, những người sa vào trường hợp như “nhạc sĩ vẹm” Phạm Tuyên—sau khi VC đã giết cha mình, làm cho gia đình mình tan nát, làm cho đất nước tan hoang, làm cho đồng bào VN khốn khổ—mà lại bắt tay, hợp tác thân thiện với giặc dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng lẽ, họ không biết, hay đã quên cỗi nguồn của bản thân họ? Chẳng lẽ họ lại không nhận ra, hàng chục triệu đồng bào hiện nay, không nhiều thì ít, không trực tiếp thì gián tiếp, đều là nạn nhân của chế độ Mafia VC.

* Nhìn Lại Cội Nguồn

Ngược dòng thời gian thì vào đầu tháng 4 năm 1975, Quốc Tế Cộng Sản đã điều động hàng chục sư đoàn chính quy từ miền Bắc VN—với xe tăng T54, đại pháo 130 ly, hoả tiễn 122 ly và SA-7 của Nga Sô; với súng liên thanh AK và B40 của Tàu Cộng—để tiến quân, đánh chiếm miền Nam. Từ sông Bến Hải đến mũi Cà Mâu, dân chúng hoảng hốt. Hầu như ai cũng hiểu rằng, miền Nam nhỏ bé, mà lại bị cô thế, viện trợ Mỹ bị cúp, súng đạn chẳng còn bao nhiêu thì tất nhiên, VNCH sẽ xụp đổ.

Thảm cảnh "Tháng Tư Đen" diễn ra. Ở bến tàu. Ở phi trường. Ở Toà Đại Sứ Mỹ. Dọc theo quốc lộ từ miền Trung vào miền Nam. Tổng cộng mỗi ngày, hàng trăm ngàn người chen lấn nhau, đạp lên nhau, tranh giành nhau lên tàu, tranh giành nhau lên phi cơ, hoặc liều chết dùng những chiếc thuyền bé nhỏ để vượt đại dương!

Nhiều người từ Kontum, từ Pleiku, chạy ra Đà Nẵng. Cộng Sản chiếm Đà Nẵng, họ chạy vào Sài Gòn. Cộng Sản chiếm Sài Gòn, họ chạy lên Tây Ninh, băng qua biên giới, rồi vượt cả ngàn dặm rừng núi ở bên Cao Miên, để đến Thái Lan. Họ chấp nhận muôn vàn chông gai trên đường lánh nạn VC. Nào là thú dữ. Nào là Khờ Me Đỏ dã man tàn ác. Nhưng thà chết còn hơn kéo dài cuộc sống lầm than trong chế độ Cộng Sản!

Đó là sự thật trong lịch sử. Đó là kết quả của cuộc chiến 15 năm (1960-1975) do đảng Cộng Sản khởi xướng: Máu và nước mắt của tù nhân ướt đẫm khắp nơi trong trại tù đầy. Máu và nước mắt của đồng bào lai láng khắp nơi trên biển Đông.

Trong lịch sử nước nhà, một ngàn năm giặc Tàu đô hộ dân ta, một trăm năm thực dân Pháp giầy xéo đất nước ta, không ai thấy giặc ngoại xâm nào ác độc và xảo quyệt bằng giặc Cộng. Chưa có thời kỳ nào, Xã hội VN có nhiều chuyện vô luân, nhiều chuyện bất nhân như thời “Xã Hội Chủ Nghĩa”.

Chứng cớ điển hình là sau khi chiếm được miền Bắc, VC đã chủ mưu, xách động người nghèo, đấu tố người giàu. Thảm trạng cướp cuả giết người trong những năm “Cải Cách Ruộng Đất” diễn ra khắp nơi. Luân thường đạo lý trong xã hội tiêu tan. Con đấu tố cha, vợ đấu tố chồng. Họ hàng hoặc bạn hữu nghi kỵ nhau, tố cáo nhau, hậm hực tranh giành nhau từng ly từng tý!

Sau khi chiếm được miền Nam, VC “đánh tư sản” làm cho hàng triệu gia đình tan nát. Đồng thời, chúng đầy đoạ để trả thù hàng trăm ngàn Quân Nhân, Công Chức và Cảnh Sát VNCH trong ngục tù—nguỵ danh là trại “học tập cải tạo”. Thâm độc và đểu cáng nhất là chiến dịch “Hoa Nở Về Đêm”! Vì “Đảng” thừa biết, hàng trăm ngàn gia đình Quân Nhân, Công Chức, Cảnh Sát VNCH, bị sa vào cảnh bần cùng. Khi người chồng bị đầy đọa trong tù thì người vợ trẻ ở nhà, biết làm gì nuôi thân và nuôi con? Nên “Đảng” bèn bật đèn xanh, cho cán bộ, bộ đội, hay công an đến nhà dụ dỗ, hăm dọa và lừa gạt. Trước cảnh “cây gậy và củ cà rốt” có bao nhiêu thiếu phụ, vẫn giữ lòng son sắt trong khi chồng bị sa cơ? Có bao nhiêu người đã “thay dạ đổi lòng”? Có bao nhiều người bị sa ngã, hoặc bị lừa gạt?

Dù sao, lời nói của tên thổ phỉ Nguyễn Hộ vẫn là bằng cớ hùng hồn cho thấy, chiến dịch “Hoa Nở Về Đêm” là sự thật. Nhiều người còn nhớ, khi thảo luận cùng đồng đảng về cách đối xử với thành phần “Quân, Cán, Cảnh VNCH” thì Hộ công khai bảo rằng:

“Nhà của chúng: Ta ở; vợ của chúng: Ta lấy; con của chúng: Ta sai; còn chúng: Ta cho vào tù trong những khu rừng thiêng nước độc...”.

Hiện thời, hàng chục năm trời đã trôi qua—kể từ khi chiến tranh chấm dứt. Nếu phỏng theo luận điệu của VC thì “dưới ánh sáng Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”, nước VN đã “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” đến mục tiêu: Trung tâm mua bán nô lệ, kể cả nộ lệ tình dục và trẻ thơ, với giá rẻ nhất thế giới.

Điển hình là kỹ nghệ du lịch gắn liền với các dịch vụ mãi dâm — do các công ty “Quốc Doanh” hay Công An và Quân Đội VC khai khác — là một trong những tệ đoan do nhà nước XHCN chủ xướng, không thể nào chối cãi. Bên ngoài thì VC đóng kịch cấm đoán chuyện mãi dâm. Nhưng thực sự bên trong, chúng muốn sử dụng thân xác gái điếm, nhằm thu hút du khách làng chơi ngoại quốc, kiếm Ðô-La, nuôi Công An và Bộ Đội, bảo vệ chế độ.

Trong thời XHCN thì "thượng bất chánh, hạ tắc loạn". Bên trên thì trùm Mafia Đỏ làm chuyện hại dân hại nước, dâng cả lãnh thổ và lãnh hải cho Tàu Cộng. Bên dưới thì trùm Mafia Đen là Năm Cam cùng ma cô, du đãng, cướp trộm hoành hành.

Hồi đầu năm 2003 vừa rồi, báo chí VC đã tiết lộ, có cả ngàn cán bộ Cộng Sản, kể cả đảng viên cao cấp —như cựu thủ tướng VC Võ Văn Kiệt; Trần Mai Hạnh, Giám Đốc đài phát thanh VC; Phạm Sĩ Chiến, Phó Giám Đốc Viện Kiểm Soát Nhân Dân v.v.—đã đỡ đầu, che chở, hay đồng loã với trùm Mafia Năm Cam trong các “dịch vụ”: Mãi dâm, tống tiền, thủ tiêu nhân chứng, cướp đoạt tài sản của dân, buôn lậu ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ thơ ra ngoại quốc.

Thảm cảnh trên đất nước chúng ta, đại cương là như thế. Nên hình ảnh cán binh VC—chân đi "dép râu", đầu đội "nón cối" hay nón "tai bèo"—đã làm cho dân chúng VN ghê tởm:

Đôi dép râu dẫm nát đời son trẻ
Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai

Vì “đời son trẻ bị dẫm nát”. Vì “tương lai bị che khuất”. Nên hàng triệu người Việt phải bỏ “quê cha đất tổ”, liều mình trốn chạy VC. Theo Liên Hiệp Quốc phỏng đoán thì tổng cộng có khoảng từ 6 đến 7 triệu thuyền nhân đã liều mạng vượt biên vượt biển. Nhưng chỉ có độ 40% là đến được bến bờ Tự Do. Phần còn lại bị chết vì đắm tàu lúc gặp bão. Vì hải tặc giết hại, hay bị chúng bắt mang đi rồi biệt tăm. Thảm cảnh đau thương diễn ra liên tiếp khoảng 10 năm trời. Máu và nước mắt của đồng bào tỵ nạn lai láng khắp nơi trên biển Đông. Muôn người khóc than ai oán. Tưởng là gỗ đá cũng mủi lòng thương. Thế mà VC lại có thể buông lời mỉa mai đồng bào tỵ nạn lúc sa vào thảm cảnh “thần sầu quỷ khốc”:

“Chúng là rác rưởi, trôi dạt khắp năm châu bốn biển. Không ai thèm vớt. Nếu có vớt thì cũng vì bắt buộc”.

Đó là lời nói của thủ tướng giặc VC là Phạm Văn Đồng. Tiếp đến là Ðỗ Mười, cũng nhân danh là Thủ Tướng, chửi bới đồng bào tỵ nạn thậm tệ:

“Chúng là bọn du đãng đĩ điếm, trốn chạy theo Mỹ Ngụy ra nước ngoài để có bơ thừa sữa cặn mà ăn ”.

Thế nhưng, khoảng 10 năm sau, bọn “lòng lang dạ thú” đánh hơi, biết trong túi người tỵ nạn có nhiều Đô-La thì chúng xoay chiều 180 độ, ngỏ lời ve vãn:

“Họ là da thịt của chúng ta. Họ là máu mủ của chúng ta. Họ là khúc ruột của chúng ta ngoài ngàn dậm”.

Quả thật là “nói như VẸM”, trâng tráo như thế là cùng! Vậy mà vẫn có người nghe!!! Chứng cớ là nhiều người đã xin kẻ thù cấp chiếu khán, “bỏ áo tỵ nạn”, mặc “áo gấm về làng”.

* Ai Mặc “Áo Gấm Về Làng”? Ai Đi Theo “Tặc Tử” Phạm Tuyên?

Đó là những người về VN với chủ đích để huênh hoang “cái tôi giàu sang phú quý”—trước thảm cảnh lầm than nghèo khổ của họ hàng hay bạn hữu và đồng bào quốc nội. Thậm chí, một số người còn vô luân và bất nhân đến độ, về VN với dã tâm, đi từ nơi này đến nơi khác để lừa gạt các thiếu nữ nghèo khổ—muốn đi Mỹ; hay mua trinh tiết của các trẻ thơ; hoặc vui thú trên thân xác của các thiếu nữ bất hạnh sinh ra trong thời XHCN!!! Nhiều kẻ thì về VN thường xuyên vì mấy ‘cô vợ non’, ‘bồ nhí’ hoặc ‘gái bao’ thúc dục!!!

Phải chăng, tất cả những thành phần này muốn quên “cỗi nguồn tỵ nạn VC”? Kẻ thì biến thành “những con kên kên” trước cảnh khổ đau của đồng bào. Kẻ thì biến thành “Việt Kiều” đúng như ý bọn Mafia mong muốn. Tệ trạng “áo gấm về làng” đã góp phần không nhỏ giúp VC vừa “được tiếng, vừa được miếng”. Được tiếng là “cởi mở”, là “đổi mơí”, là “hoà hợp hoà giải dân tộc”... Được miếng là mỗi năm có vài tỷ Đô-la.

Hiển nhiên, VC sử dụng ngân khoản ấy để mua thêm súng đạn, tăng cường phương tiện cho công an và bộ đội, để chúng có thêm sức mạnh, xiết chặt gông cùm Mác-Xít trên đầu trên cổ người dân.

Đồng thời, VC còn dùng số tiền “viện trợ” ấy để hoạt động “nằm vùng” ở hải ngoại; trả tiền cho bọn Việt gian cùng bọn bồi bút—viết báo hỗ trợ những chiêu bài của mấy tổ chức “chống cộng cuội” và đánh phá những người Quốc Gia chân chính, gây ra cảnh nhiễu nhương trong cộng đồng tỵ nạn. Hệ quả là đồng bào chán nản. Ý chí đấu tranh cũng như tinh thần chống Cộng bị suy thoái.

Có lẽ, quái gở nhất trong khối tỵ nạn là hành động của một số cựu Quân Nhân và Công Chức “trở cờ đón gió”. Dẫn đầu là vài ba Tướng Tá, đã có những hành động PHẢN PHÚC—không khác Phạm Tuyên “vong ân bội nghĩa” với ông cha. Không hiểu nguyên do nào mà cảm quan của họ đã bị tê liệt? Tê liệt đến độ không còn biết đến liêm sỉ hay danh dự của chính bản thân họ!

Chứng cớ là họ đã hưởng ứng quỷ kế xuyên tạc lịch sử của VC. Kẻ thì viết bài ca tụng tên quốc tặc Hồ Chí Minh và đảng giặc gian manh VC. Kẻ thì bịa chuyện trong “hồi ký” để bôi nhọ Chính Nghĩa của VNCH mà chính bản thân đương sự đã phục vụ gần hết đời người.

Thậm chí, có kẻ còn tự ý “bôi tro trán trấu” vào mặt, đi về VN làm công cụ tuyên truyền cho giặc. Ắt hẳn, tất cả danh tánh và hành động của họ sẽ bị “lưu xú vạn niên” trong sử sách.

Chỉ tiếc rằng, trong khi đảng giặc VC có sở trường đại gian đại ác, nhất là sách lược “Công An Trị” cùng kỹ thuật tuyên truyền để “lừa già dối trẻ” rất thiện nghệ thì tình trạng dân trí của một số khá đông đồng bào chúng ta lại “thấp kém”, nên cứ bị lừa gạt hết lần này đến lần khác.

Chỉ tiếc rằng, trong khi Chính Nghĩa Quốc Gia Dân Tộc càng ngày càng sáng tỏ thì nhóm thiểu số cựu Quân Nhân và Công Chức VNCH lại “trở cờ đón gió” cùng với bọn “áo gấm về làng” đã “tiếp máu” cho VC – đáng kể nhất là mỗi năm vài ba tỷ Đô-La.

Đó là vài nguyên nhân điển hình đã “giúp” đảng giặc gian manh VC tiếp tục nắm quyền cai trị trên đất nước trong khi các nước CS Đông Âu và Ðế Quốc Ðỏ là Liên Bang Xô Viết đã tan rã từ nhiều năm qua.

Ngày Quốc Hận 30-4-03
Trần Quốc Kháng
Rev Tháng Tư Ðen 2009


Tiểu Bang Massachusetts: Cấm Sử Dụng Cờ Máu Của Việt Cộng,

Tiểu Bang Massachusetts: Cấm Sử Dụng Cờ Máu Của Việt Cộng, Chỉ Sử Dụng Cờ Vàng Đại Diện Cho Việt Nam

Nguyễn Thị Sông Hương

http://vietvungvinh.com/Portal.asp?goto=VietNam/2009/20090403_06.htm


Các Dân Biểu Thượng Và Hạ Viện Tiểu Bang Massachusetts vừa thông qua nghị quyết trong cuối tháng 3 năm 2009 là Cấm Cờ Đỏ Cộng Sản VN Được Treo ở tiểu bang nầy . Theo Nghị Quyết chung (H 3415) của Tiểu Bang Massachusetts gồm nhiều điều khoản khác nhau , trong đó có điều khoản Cấm treo cờ đỏ CSVN được thông qua với House 145-0, Senate 37-0 . Trong điều khoản ghi rõ như sau:

"BAN NORTH VIETNAMESE FLAG - This bill would provide that the old South Vietnamese flag be the only flag depicting the country of Vietnam that may be displayed at any state-sponsored public function or in any public institution of learning. Supporters note that the flag, a symbol of resilience, freedom and democracy, was the official flag of South Vietnam from 1954 until that country surrendered to North Vietnam in 1975. They say that the flag of the current oppressive Communist regime of Vietnam is offensive to many Vietnamese-Americans and should not be used at public events."

Tạm dịch: "CẤM TREO CỜ BẮC VIỆT - Nghị Quyết chỉ định lá cờ cũ Nam Việt Nam (Cờ Vàng) là lá cờ duy nhất đại diện cho quốc gia Việt Nam có thể dùng để treo trong các buổi sinh hoạt công cộng do Tiểu Bang bảo trợ hay được treo ở các cơ sở Giáo Dục công cộng . Theo các nhà yểm trợ nhận định là Cờ Nam Việt Nam (Cờ Vàng) là biểu tượng của sự Quật Cường, Nhân Ái và Dân Chủ từ năm 1954 cho tới khi đất nước rơi vào tay CSVN năm 1975 . Hơn nữa cờ CSVN là lá cờ chủ nghĩa CSVN mang tính đàn áp, kích động tinh thần người Mỹ Gốc Việt nên không thể dùng để treo trong các buổi sinh hoạt công cộng .

Điều khoản nầy được thông quốc hội Tiểu Bang Massachusetts thông qua 145-0, Senate 37-0 là một chiến thắng của Người Việt Hải Ngoại tại Tiểu Bang Massachusetts nói riêng và toàn thế giới nói chung.

Nguyễn Thị Sông Hương

http://www.wickedlocal.com/westwood/town_info/government/x1465806930/Beacon-Hill-Roll-Call

Friday, April 3, 2009

TỘI ÁC CỘNG SẢN, 30-4 - Phạm Ðào Nguyên

Phạm Ðào Nguyên

Hằng năm cứ vào ngày 30- 4, người Việt khắp nơi ở hải ngoại biểu tình, hay làm lễ tưởng niệm ngày Quốc hận. Bầu trời mờ đục che khuất dưới vòm mây xám. Năm nay trời mưa buồn lê thê như chia xẻ niềm ưu tư, và thông cảm nỗi xót xa của dân Việt trên toàn thế giới, có cả người trong nước đang bị gông xiềng dưới chế độ cộng sản.

Ngày 30-4-75 miền Nam tự do sụp đổ, đã đưa dân tộc Việt ở cả hai miền Nam Bắc đến tận cùng nỗi khổ. Nước Việt Nam đã biến thành địa ngục của trần gian. Lòng tôi bùi ngùi xúc động, nhớ lại những gì đã xảy ra trên quê hương tôi ngày ấy, 30- 4 -1975.

Bây giờ là tháng 4, tôi xin kể về những nỗi thống khổ của người miền Nam sau 1975, để chúng ta có dịp ôn cố tri tân. Sau tháng tư năm 1975, con dân nước Việt trên toàn cõi Việt nam đều ngậm ngùi rơi lệ, vì chúng ta đã mất tất cả. Một Việt nam Tự do không còn nữa, dù bạn là người miền Nam hay miền Bắc. Cho đến ngày nay, sau ba mươi bốn năm hoà bình, Việt Nam vẫn đang mãi quằn quại trong gông cùm nô lệ, đói nghèo, đàn áp, và xiềng xích của bọn cộng sản.

Bây giờ sống ở Mỹ, nhưng tôi cũng không biết tại sao tôi nhớ Việt nam? Nhiều lúc tôi hỏi chính mình, tôi nhớ qúa, nhớ con đường làng, nhớ chợ quê, nhớ ngày Tết, nhớ dòng sông! Ở đó có quá nhiều kỷ niệm, dù nhiều kỷ niệm đau thương đến với gia đình tôi. Hơn 20 năm xa xứ, tôi chưa về thăm lại một lần. Việt nam là quê hương tôi, là mồ mả cha ông, là bà con thân tộc, còn đối với người Mỹ, Việt nam vẫn mãi mãi là vết thương không bao giờ lành. Dù 30 năm sau, tất cả các cuộc chiến xảy ra, người Mỹ đã đem cuộc chiến Việtnam ra mổ xẻ, phân tích và nghiên cứu.

Tôi không phải là nhà văn, nhà báo, cũng không làm chính trị, không là cán bộ hay làm lính trước năm 1975. Tôi là một giáo viên. Nhiệm vụ của tôi là dạy dỗ con em yêu gia đình, yêu tổ quốc Việt nam, và giảng giải đời sống khoa học thực dụng chung quanh các em. Tôi chỉ mong làm tròn bổn phận một công dân trong xã hội, phục vụ nhân quần tròn trách nhiệm của mình. Tôi không tham gia chính trị, tôi cũng không cần phải liên hệ với chính trị đảng phái. Tôi sinh ra trước khi hiệp định Geneve ký kết và lớn lên ở Miền Nam; tôi được thừa hưởng mọi điều tự do tự nhiên không phân vân, hay thắc mắc. Từ sau ngày Cộng sản giết cha, cha tôi làm thầy thuốc bắc, nào có tội tình chi. Hai bác tôi là nông dân, cũng bị bắt lên núi rồi mất tích, lúc ấy tôi nhìn cộng sản như một loại khủng bố hung tàn, khi còn hai miền Nam Bắc đối nghịch nhau.

Sau 29-3-1975, tôi trở về sống ở làng quê với Cộng sản, tôi thấy rõ bộ mặt thật của cộng sản là khủng bố, độc tài và gian ác. Con người dưới chế độ cộng sản luôn luôn sợ hãi, đói nghèo, và nô lệ. Đảng cộng sản Việtnam là hiện thân của lừa bịp, láo khoét và tàn ác. Họ có khoảng chừng hai triệu người nhưng đã thống trị và đô hộ cả 80 triệu người khác dưới một chính sách ác nghiệt. Cộng sản là lũ qủy hay là loài thú dã man đội lốt người.

Bây giờ nhiều người nói rằng chuyện đã xưa rồi, hảy quên, nhớ làm gì, nhưng tôi vẫn cứ nhớ. Tôi muốn được kể cho con cháu tôi biết rằng tại sao chúng ta phải tha phương cầu thực. Tại sao các con là người Việt nam phải sống rải rác các nơi trên thế giới từ nước này đến nước khác sau ngày 30-4-75. Nhìn lại được nhau là nhờ mớ tóc đen, da vàng mũi tẹt. Gặp nhau hỏi thăm rằng anh là người Á châu? Thậm chí có người không còn muốn nhìn mình là người Việt nam. Vậy thì tôi xin viết ra đây những gì có thật bằng mắt thấy tai nghe, để con cháu tôi hãnh diện được làm người Việt nam mà không quay mặt phủ nhận gốc gác của mình.

Người Việt nam ra đi là người Việt nam đã hứng chịu chồng chất tai ương do cộng sản đổ lên đầu, sau ngày chế độ tự do miền Nam sụp đổ. Đến bây giờ sau 34 năm, Việt nam vẫn chưa có Tự do, không có quyền làm người, và dân chúng vẫn mãi đói nghèo, ngoại trừ hai triệu đảng viên. Có hàng trăm tên đảng viên cộng sản gởi tiền ở ngân hàng Thụy sĩ, mỗi người có đến từ 2-3 tỉ đô la? Tại sao chúng có nhiều tiền đến thế, mà trong khi dân chúng lại cơ hàn. Thế giới còn phải lên tiếng vì tình trạng đói nghèo của dân Việt Nam. Đàn bà, con gái, con nít, là sản phẩm để chế độ đem bán qua các gian thương cho ngoại quốc để lấy ngoại tệ!! Một dân tộc đang chìm đắm trong mọi hoàng cảnh nô lệ.

Tôi đã chứng kiến sự bạo tàn, áp chế của một chế độ đầy quyền lực sắt máu, và độc tài để cai trị nhân dân. Mạng sống của con người rẻ mạt như cỏ rác, họ muốn giết, nửa đêm gọi cửa, dẫn ra bải cát, hay triền núi bắn bỏ. Năm ba hôm sau có ai thấy được, thân nhân lượm xác về chôn. Đang đêm du kích dẫn cả bầy đến nhà, ùa vào đánh người mà có ai thèm điều tra, hay bảo vệ đâu. Ai kêu oan ta thán, chưởi bới là bị ghép phản động đưa đi tù. Nhiều danh từ mới mà người Nam chúng tôi chưa nghe thấy bao giờ như ,“Bọn ác ôn, bọn phản động hiện hành, giải phóng, cách mạng, thành phần bóc lột, tư sản mại bản, ngụy quân, ngụy quyền, hồ hởi phấn khởi, cải tạo tư tưởng, cải tạo lao động, cách mạng văn hóa, cách mạng nông nghiệp v.v...”. Tất cả những từ ngữ thật kêu này dùng để che lấp sự ngược đãi, đói nghèo, tù tội, và cướp bóc. Nhiều từ ngữ được đảo ngược lại, cũng như chính sách cai trị của họ với chính sách tự do ngày trước.

Quê tôi giải phóng bao người đói
Cả vạn khối người bị cùm gông
Bỏ tù được gọi là cải tạo
Kinh tế mới, đón người khắp phố đông

Trời Nam tan tóc loài quỷ lộng

Tiếng khóc lời than ngập non sông

Liền sau ngày 30-3-75 khi Cộng sản tiếp thu Đà Nẵng, việc đầu tiên vô nhân đạo là vào bệnh viện Duy Tân, quân du kích, và bộ đội đuổi hết những thương binh, phế binh của miền Nam ra khỏi bệnh viện. Những thương bệnh binh còn đau, vết thương chưa lành. Những chiếc xe lăn của họ bị cướp đoạt, những người lính mù lòa cõng trên vai người lính cụt chân. Những thương bệnh binh còn mang bọc ruột bên ngoài được đồng đội què quặt dìu dắt. Họ vất vưởng trên đường phố, tôi đứng nhìn theo, mắt rơi lệ, lòng ngậm ngùi.

Một cuộc giải phóng của bọn cướp của giết người đã đưa mấy chục triệu người dân Nam Việt nam đến tận cùng nỗi khổ, và đói rét khốn cùng. Cộng sản biến miền Nam nước Việt thành địa ngục của trần gian, một nơi chốn đen tối nhất của xã hội loài người trên thế giới. Thế giới của cộng sản, một thế giới chết chóc, đói nghèo và tù tội.

Khoảng 200 ngàn người thanh niên, đàn ông vì tham gia bảo vệ miền Nam nay trở thành tội phạm. Họ trở nên những tên tù. Một thứ tù được bắt đi bằng những lời lưà bịp từ chính thể gọi là Việt nam Dân Chủ Cộng hoà, Độc lập Tự do Hạnh phúc của cộng sản Việt nam. Họ gọi là hoà giải hoà hợp và đưa những người của chính quyền cũ đi học tập chính sách 10-15 ngày tùy theo cấp bực. Một sự lưà bịp trắng trợn có cần gì chứng minh không vì nó rõ ràng trước mặt, họ thành những tên tù, đúng hơn là nô dịch không có án. Nhà tù mọc lên như nấm dọc theo Trường sơn. Có người làm nô dịch đến chết vì đói vì bịnh hay lao khổ. Con người không còn là con người mà là con vật người.

Người tù ở trong một nhà tù nhỏ, và người dân ở trong nhà tù lớn hơn, nhà tù cộng sản. Mọi người sống trong bóng tối cộng sản, không có được nguồn tin tức nào từ thế giới bên ngoài. Phố xá xác xơ, nghèo đói chết chóc vất vưởng chung quanh. Mọi người hoảng sợ lẫn nhau, vì mạng lưới công an khủng bố, tổ chức cài đặt khắp nơi có hệ thống để theo dõi mọi người, từ trẻ con đến đàn bà đàn ông, anh hàng xóm tới anh bộ đội. Mạng lưới khủng bố đe dọa kinh hoàng.

Kinh tế hoàn toàn bế tắc, mọi người không có việc làm, ngoại trừ làm ruộng. Lao động là vinh quang, là chủ thuyết làm cho dân nghèo đi để trị của cộng sản hay bọn cộng sản ngu?. Người dân ăn “sắn hay củ mì”, khoai, bo bo, chút ít gạo, có khi nhiều năm trường, con người trở nên xanh xao, bịnh hoạn. Nhiều thương gia, chính khách trước đây từng ủng hộ, họ âm thầm tiếp tế cho cộng sản, giờ hoảng hốt sợ hải, chờ tới phiên mình lên đoạn đầu đài, ân hận thì đã muộn màng. Đó là trường hợp của những người có học ở miền Nam tham gia Mặt Trận giải phóng miền Nam sau tháng 4-75 chỉ tồn tại ba tháng là bị đạp đổ. Trương như Tảng bỏ chạy, Nguyễn Hữu Thọ, Đoàn văn Toại, Kiều Mộng Thu, Trịnh Ðình Thảo, Phạm văn Thảo vv... bị đá văng ra khỏi cái chính quyền cộng sản một cách thê thảm. Một số bị tù? Người Mỹ như bà Jean Fonda mặc áo bà ba đen, ôm súng AK ủng hộ Hồ chí Minh, ủng hộ cộng sản vì người Mỹ chưa từng sống dưới sự cai trị tàn bạo của Cộng sản bao giờ.

Hơn mười năm sống với cộng sản, tôi thấy bằng chính mắt, nghe bằng chính tai tôi những tội ác của chế độ cộng sản phi nhân này gây ra. Những điều kinh hoàng về chế độ mà ngày trước 75, tôi sinh ra ở miền Nam, hay bây giờ con tôi lớn lên ở Mỹ, không thể tưởng tượng là có thật.

Trước năm 75 hằng ngày tôi chứng kiến cảnh chết chóc của những người lính từ hai miền Nam Bắc trên xóm làng quê hương tôi, tuy đau khổ nhưng không khổ bằng sau 75. Sau năm 75, số người chết tương đương với những năm chinh chiến: người tự tử hàng ngày từ miền quê đến thị thành vì áp bức, vì đói nghèo, vì khủng bố. Những người thanh niên, thanh nữ bị chết bởi bắt đi khai hoang vào những bải mìn, bãi cỏ bỏ hoang từ bao lâu nay. Hễ hở ra một tiếng thở dài ta thán, cũng bị theo dõi là có tư tưởng phản động.

Người đói chết trong tù, người đói chết bên đường. Người chết ngoài biển khơi, người chết trên rừng già. Người chết vì bị giết, hay bị lao dịch. Người chết vì vượt biên bị người Miên giết, bị cộng sản bắt được giết, hay bị Thái giết. Người thất chí nói chống đối bị bắt đánh tới chết, người khác bị bỏ tù, nhà tù mở ra như nấm từ thành phố đến Trường sơn.

Miền Nam Việt nam trở thành nhà tù hay địa ngục đầy kinh dị, mà tôi, người miền Nam chưa hề tưởng tượng hay nghe nói đến, trong lịch sử loài người. Nhớ những năm 78 người vượt biên bị bắt được gọi “Phản quốc, ” bị bắn tại chỗ, thế rồi bây giờ đổi thành “Việt Kiều Yêu Nước.” Đừng nghe những gì Việt cộng nói mà hãy nhìn những gì Việt cộng làm.

Người cộng sản dùng những chiêu bài như “Nước Việt nam là một, người Việt nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi.” Hay “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.” Mục đích là muốn chiếm trọn miền Nam để cướp bóc dã man từ tài sản đến nhân mạng bằng nhiều cách, nhiều chiến thuật, chính sách ấy thực hiện liên tục móc nối nhau: Thứ nhất đưa đàn ông đi tù làm nô dịch, rồi dân ở thành phố bị cô lập đến đói, thực phẩm không được chuyển vào thành phố. Giá cả thực phẩm ở thành phố tăng vọt hàng ngày hàng giờ. Trong khi những gia đình Ngụy, nhất là những người đàn bà trước kia là công chức, nay không có việc làm, họ đem bán tất cả đồ đạc có được như đồ trang sức, áo quần, bàn ghế, tất cả những gì có thể được để đổi lấy miếng ăn.

Ai đi buôn thì bị đón bắt tịch thu dọc đường, vì người đi buôn là có tội, tội lười biếng không lao động. Chiến dịch “Ngăn sông, cấm chợ, và lao động là vinh quang,” một chính sách dã man, ăn cướp cạn, không luật pháp. Cộng sản là bọn thú đội lốt người. Luật trên đầu súng, luật của cộng sản là luật rừng của bọn cướp.

Dần dà người thành phố vì đói nghèo, đành bỏ phố mà ra đi theo áp lực của chính quyền cộng sản phải đi vào những miền mà Cộng sản đặt tên “Kinh tế mới,” để lao động. Một số đàn bà bị họ dụ dỗ, lừa đảo là đi Kinh Tế Mới để chồng con được tha về, cùng nhau lên núi tạo đời sống mới. Nhưng khi người vợ đi rồi, nhà cửa bị họ lấy bằng cách thu mua rẻ mạt, còn chồng con vẫn mãi ở trong tù. Núi non trùng điệp, rừng thiêng nước độc, những người đàn bà tay yếu chân mềm từ trước đến nay, đến đây ít tháng con cái bị bệnh sốt rét hoành hành, đói khát, chết dở sống dở, đành chạy về lại thành phố sống la lết ở rầm cầu, xó chợ qua ngày. Rồi thì công an bắt được đưa đi tù, bỏ đàn con đói khát, khốn khổ bơ vơ. Trẻ con làm đủ thứ nghề để sống, con gái làm điếm, con trai ma cô, trộm cướp du đãng. Tai họa đến thì phải đi tù. Có khi một gia đình cha bị tù vì làm việc trước 75, mẹ tù vì cư ngụ bất hợp pháp hay chống đối, còn con cái vì làm điếm, hay trộm cướp đi tù. Ai thấu cho nỗi niềm đau của dân chúng miền Nam sau thời 75.

Số đàn bà nào ù lì ở lại thành phố thì sa ngay vào chiến dịch “HOA HỒNG,” tức là những nhà đàn bà có chồng đi cải tạo, được chính quyền gởi cán bộ, bộ đội tới ở trong nhà. Họ dùng bằng được mọi thủ đoạn nhặt khoan để họ cướp vợ. Làm sao họ cướp được của rồi, họ phải cướp vợ của người miền Nam. Làm sao để người miền Nam tan tóc, đổ nát, thì họ mới vui. Biết bao người đàn bà lấy cán bộ. Bọn cộng sản đã tài chủ hóa, sở hữu hoá những nhà này, vợ này thành của họ. Những người lính hay cán bộ chính quyền cũ trình diện học tập 10 ngày, nay trở thành nô dịch vô hạn định. Làm nô dịch không án tù, không ai biết được số phận của mình. Những đứa con của họ không được tiếp tục theo học tiếp sau trung học.

Cộng sản bài trừ triệt để những người của thế hệ sau, liên hệ với người chính quyền cũ đến ba đời. Những đứa con có cha làm cho chính quyền Quốc gia chỉ còn cách cắt đá, làm đường sắt, làm công nhân, và không bao giờ có cơ hội ngóc đầu nổi. Một nạn kỳ thị khủng khiếp phủ lên đầu con dân miền Nam bằng cái “Hộ Khẩu” mà có người nói lái là hậu khổ, chưa từng có trên thế gian này, ngoại trừ người Việt nam.

Những chiến dịch khủng bố tinh thần xảy ra liên tục từ 1-5-1975, cộng sản quyét sạch văn hoá tự do bằng cách tịch thu sách báo, tạp chí, đặc san của người miền Nam, mà họ gọi là sách báo đồi trụy. Bắt đầu, họ tổ chức những đội thanh niên xung phong đi tịch thu ở từng nhà một, tất cả các lọai sách báo miền Nam. Cấm hát tất cả loại nhạc miền Nam, cộng gọi là nhạc vàng, làm con người yếu hèn. Ai cất dấu bắt được, bị bắt, bị tù.

Nhà tù nhan nhản trên miền núi, vì ở đó họ đang cần công nhân nô lệ làm nô dịch để sản xuất phụng sự cho 2 triệu cán bộ và quân đội. Những bản nhạc chém giết như “Giải phóng miền Nam, Tiếng chày trên sóc Mâm bô, Tiếng đàn ta lư, Ai yêu bác Hồ...” toàn là lời nhạc chém giết như ,“Cầm gươm ôm súng xông tới...” hát theo kiểu Tàu éo éo chói tai. Chiến dịch bài trừ này kéo dài theo thời gian từ 1-5-75 cho đến năm 1982 thì nhẹ bớt, và nỗ lực ráo riết nhất là 1981 cho đến khi thật sự không còn sách báo nữa mới thôi.

Những sách báo miền Nam được chia làm năm loại: được đăng tải trên các báo cộng sản như Tạp chí Cộng sản, Tin sáng, Quân đội nhân dân, Sài gòn giải phóng vv...

Loại A là loại sách chống cộng và ca tụng chính thể tự do của Mỹ như sách cuả Nguyễn mạnh Côn, Duyên Anh, Nhất Linh..vv... sách dịch gồm những tác giả André Gide, Pearl Buck, Pasternak v.v..
Loại B là loại sách khêu gợi, đầu độc, cộng sản gọi là văn hóa đồi trụy như của Miller, Kazan, Francoise Sagan, Trần thanh Hiệp, Thanh tâm Tuyền vv...

Loại C là loại sách tình cảm, nhạc vàng, gồm những tác giả như Bàng bá Lân, Mộng Tuyết, Tuệ Nga, Eric Sagan, S. Maugham, R. Nathan, A. Dumas, Lamartine vv..

Loại D là loại sách về tôn giáo và triết học. Trong loại này được chấp nhận một số ít vì có vài loại sách chống Mỹ.

Loại E loại phản chiến và khoa học kỹ thuật. Loại sách này nếu bắt được tạm thời tha.

Loại F là loại gồm sách đấu tranh, sáng tạo hay nghệ thuật.

Số sách tịch thu được nhiều nhất là 1981, thành phố Sài gòn khoảng 60 tấn, ba tỉnh Bình Trị Thiên khoảng 50 tấn, tỉnh Quảng Nam 10 tấn. Cùng năm này, công an lùng bắt và nhiều người còn giữ sách đã bị ra toà án nhân dân và bị đi lao dịch.

Trên mặt trận kinh tế, họ đổi tiền ba lần để bần cùng hoá người dân miền Nam. Lần thứ nhất ngày 22-9-75 với tỉ lệ là 1 đồng mới bằng 500 đồng tiền cũ giới hạn 200 đồng cho mỗi hộ. Trong đợt này họ phát hành 8 loại giấy bạc: 10 xu, 20 xu, 50 xu, 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng và 50 đồng. Rất khó khăn nhất cho người dân miền Nam là đồng bạc 50 đồng, vì không có tiền thối lại.

Lần thứ hai ngày 3-5-78 đổi tiền cả hai miền Nam Bắc. Miền Bắc 1 đồng đổi 1 đồng thống nhất, nhưng 1 đồng miền Nam bằng 8 hào thống nhất. Đợt này họ phát hành thêm 5xu, 10 xu, 20 xu, 50 xu, 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 30 đồng, 50 đồng, và 100 đồng.

Lần thứ ba đổi tiền ngày 14-9-85. Một lần nữa họ đổi tiền theo tỷ giá 10 đồng tiền cũ được 1 đồng tiền mới. Họ phát hành tiền loại 2 đồng, 10 đồng, 30 đồng, 50 đồng, 100 đồng. Năm 1978 là năm mà kinh tế miền Nam khủng hoảng nhất, dân miền Nam đói rét khủng khiếp nhất. Người miền Nam từ thiên đường rơi tỏm xuống địa ngục. Khi đói nghèo thì ta thán, bỏ chạy, còn nhân dân miền Bắc thì chịu đựng những cơn đói hành hạ từng bao nhiêu chục năm trường trước đây, họ trở nên lì hơn.

Mục đích những lần đổi tiền là làm nhỏ đi đồng tiền miền Nam Việt Nam, nghĩa là bần cùng hóa nhân dân miền Nam để cai trị. Ba lần như vậy, người miền Nam không còn gì hết, từ nghèo đến đói và tóc tang. Đồng thời cùng một lúc với các chiến dịch đổi tiền, tịch thu sách báo, họ đánh tư sản mại bản nhiều lần. Họ kiểm kê tài sản hàng hóa những thương gia miền Nam, từ thành thị đến thôn quê, rồi đưa nhóm người này vào tù. Họ lấy tất cả nhà cửa, hàng hóa, vàng bạc, đưa thương gia đi lao dịch, và vợ con đi vào kinh tế mới để sản xuất. Núi rừng thâm sơn gió chướng, bệnh hoạn giết chết bao người!

Đầu năm 1978, chiến dịch đuổi người Tàu ra khỏi nước, bằng cách thu nộp mỗi người 10-20 lượng vàng để đóng tàu bè ra đi. Người muốn đi ngoại quốc phải ký giao nhà cửa cho cán bộ quản lý hay đúng ra là hình thức ăn cướp hay hối lộ. Họ làm hỏng máy và cho những chiếc tàu ra khơi không an toàn vào ngày gió bão để giết người hàng loạt trên biển Đông. Có những tàu quá trọng tải nên vừa ra khơi là chìm, miễn sao cán bộ cộng sản lấy được tiền, vàng bạc, nhà của. Số cán bộ làm giàu rất mau lẹ trên xương máu người đồng chủng không thương tiếc, không còn có chút cảm giác của con người. Đó là loại người cộng sản, loại người lạnh máu, loại người vô nhân đạo nhất thế gian này.

Ở nông thôn, họ tịch thu ruộng đất của dân chúng, thành lập hợp tác xã. Của cải tài sản của dân nay biến thành của nhà nước hay cán bộ, và dân chúng đi làm thuê, cán bộ tính công hàng ngày. Cộng sản cấm buôn thúng bán bưng, mọi dịch vụ thương mại đi vào hợp tác xã mua bán, và dẹp chợ, vì mọi người phải đi lao động hàng ngày. Mỗi ngày làm 8 tiếng có được từ 6 đến 10 điểm đến khi chúng tính chia chỉ có hai ký lúa, khoảng 1 ký gạo? Làm sao đủ sống? Hàng năm mỗi người còn phải đóng thuế thân là 360 điểm cho xã hội chủ nghĩa. “Lao động là Vinh quang,” câu khẩu hiệu, câu châm ngôn đầu môi mép miệng của bọn cộng sản. Mọi người dân từ thành thị đến thôn quê kêu trời không thấu, ngữa mặt thấy máu rơi, tội tù và đói khổ.

Cộng sản giết người bằng những thủ đoạn âm thầm, thâm độc mà người ngoại quốc mới nhìn vào cứ tưởng là khoan hồng. Thật ra, những người miền Nam có tội tình gì? Tội bảo vệ tự do, tội chống lại sự xâm lăng của miền Bắc, tội bảo vệ tài sản mình ư? Dưới chế độ cộng sản, con người không còn quyền làm người, ra khỏi thôn là phải xin phép công an, đám giổ đám cúng phải xin phép vì luật không tụ họp quá hai người. Nếu chính quyền địa phương không cho phép thì sẽ bị bắt đi tù. Ban đêm tụi công an mật vụ đi rình từng nhà nghe thử có ai nói lời bất mãn không. Hằng ngày có ai đến nhà, họ nói gì, ai ăn ngon mặc đẹp mà khai nghèo, thì sẽ phải đi tù vì khai baó không thật thà? Không được đi lại, không được nói, không được ăn, không được đi chùa đi nhà thờ, tất cả là không. Không còn gì nữa cả dưới chế độ cộng sản. Vô sản, vô quyền, vô thần mới đúng nghĩa của chính sách của cộng sản Việt nam. Tất cả đời sống con người bị kiểm sóat, kiềm kẹp chặt chẽ bằng mọi cáh. Đi đến đâu là có mật vụ theo dỏi, ngay cả con nít cũng bị đầu độc trong việc này.

Con người dưới chế độ cộng sản là sống trong một nhà tù khổng lồ, vô cùng khiếp sợ. Việt nam, nơi tôi sinh ra, lớn lên và tôi đã tìm đường bỏ chạy. Không những riêng gì tôi, mà hàng triệu người, ai chạy được thì chạy, tìm sự sống trong cái chết. Có người nói rằng, cột đèn miền Nam nếu chạy được cũng muốn chạy, huống hồ chi con người. Ra đi để các con chúng tôi có đời sống tự do, có chút không khí tự do để hít thở, để sống và để làm lại con người. Hàng triệu người bỏ trốn, từ bỏ cái xã hội chủ nghĩa, từ bỏ cái thiên đường cộng sản, dù phải chết trên biển cả hay trong rừng già. Thiên đường cộng sản là thiên đường mù, hay thiên đường lót đầy máu của dân chúng Việt Nam.

Trên chuyến hải hành đầy gian khổ, lênh đênh trên biển khơi, đói khát với giông bão hãi hùng, cái giá của tự do quá đắt với người Việt chúng tôi. Một phần ba số người ra đi chết trên biển cả. Đến bến bờ tự do, gia đình tôi có được tự do, thì chúng tôi phải đương đầu với những khó khăn về ngôn ngữ, thời tiết, và văn hóa. Dù gì đi nữa, thì con cái chúng tôi còn có được chút không khí tự do để thở và hy vọng ngày mai. Hy vọng ngày tự do sẽ đến với dân tộc Việt nam chúng tôi sớm hơn.

Thế giới bây giờ đã thấy được bộ mặt thật của cộng sản Việt nam, ông Hồ chí Minh không còn là thần tượng của bà Jean Fonda, và những người phản chiến nước ngoài nữa. Dù cộng sản Việt nam bưng bít thế nào đi nữa, láo khoét mãi với thế giới loài người bên ngoài, để đày đọa người dân trong nước, thì bây giờ cũng không còn dấu diếm được nữa.

Thế giới của những nhà độc tài đã lần lần bị thoái hóa, và bị tiêu diệt bơỉ ánh sáng văn minh tiến bộ bên ngoài. Phải chăng tôi đang hy vọng ảo, là ánh sáng sẽ có ở cuối đường hầm, nhưng dù gì thì tôi vẫn tin và hy vọng ở ngày mai. Tất cả những nhà độc tài đã từ từ triệt tiêu vì lạc hậu và vô nhân đạo, và ngày ấy Tự do sẽ đến với Việt Nam tôi. Tự do sẽ đến để cho những người bà con tôi, thân nhân tôi, dù là con cái của đời sau, họ cũng có được chút không khí tự do, ánh sáng tự do, để hít thở, và để có được quyền sống, quyền làm người như bao người khác trên thế giới.

Phạm Ðào Nguyên

Thursday, April 2, 2009

Khi Nào Thì Hết Sợ - Trương Văn Phú

Trương Văn Phú

Gần đây trên mạng Internet liên tục xuất hiện các bài viết đề cập đến thời gian đã qua, hay còn gọi là thời kỳ đã qua. Mặc dù không đưa ra những mốc thời gian cụ thể, xong ai cũng hiểu rằng thời kỳ đó bắt đầu từ 1954 ở miền Bắc và 1975 ở miền Nam.

Một nét đặc trưng và bao trùm lên trên tất cả mọi người dân Việt Nam trong thời gian đó là: Nỗi sợ và Cái hèn.

Chính nỗi sợ làm cho chúng ta hèn. Vậy chúng ta sợ cái gì? Một điều chắc như đinh đóng cột là chúng ta sợ Cộng Sản. Với chính sách chuyên chế vô sản, với các cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng, cải cách ruộng đất,… và đặc biệt là chủ trương “Bóp lấy dạ dày nhân dân” đã làm cho dân tộc Việt Nam từ một dân tộc anh hùng trở thành một dân tộc sợ hãi và hèn nhát.

Nhân dân sợ

Khi nhìn lại hơn một triệu người dân Miền Bắc di cư vào Nam sau năm 1954. Nhìn lại tình cảnh hỗn độn, dân chúng đua nhau tháo chạy khỏi Miền Nam năm 1975 và thời gian sau đó ai trong chúng ta cũng có thể hình dung ra nổi sợ hãi người cộng sản như thế nào. Không sợ làm sao được khi mẹ tôi nấu cơm độn khoai không đủ 40% khoai liền bị lập biên bản. Ba tôi phải đem hai cái bình điện (Ắc-qui) đục ra để làm chậu trồng rau, vì sợ rằng có bình điện tức là nhà giàu, là tư sản, là có tội, là nợ máu nhân dân.

Giang hồ sợ

Có một lần khi chứng kiến hai băng đảng giang hồ đang giáp mặt nhau chuẩn bị tỉ thí trong một quán nhậu ở thành phố Nha Trang. Đôi bên đang dàn trận với khí thế hừng hực, đột nhiên một trong những người cầm đầu của một bên rút trong túi ra cái thẻ màu đỏ, đập xuống bàn kèm theo mấy câu chửi thề. Ngay lập tức băng giang hồ bên kia biết rằng mình đụng phải “thứ dữ” nên nhanh chóng rút lui, mặt xanh như đít nhái!

Trí thức sợ

Trí thức là thành phần ưu tú của dân tộc, ấy vậy mà cũng sợ, cũng hèn. Để diễn đạt nỗi sợ của trí thức, xin mượn mấy câu thơ dưới đây của nhà thơ Bùi minh Quốc:

“Bao nghẹn uất Nguyệt Nga xé trời kêu chẳng thấu
Giữa chợ đời biệt dạng Lục Vân Tiên
Hảo hớn bận giang hồ quán nhậu
Thi nhau bốc phét để quên hèn.”

Lãnh đạo tôn giáo sợ


Ở Việt Nam có hai tôn giáo lớn. Đứng đầu là Phật Giáo với hơn 80% dân số theo Phật giáo. Chỉ thấy một số ít thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất của Hòa thượng Thích Quảng Độ có thể gọi là không biết sợ. Tôn giáo lớn thứ hai là Công Giáo. Cũng vì sợ mà bao năm trời đã chấp nhận im hơi lặng tiếng mặc cho xã hội đảo điên, mặc cho luân thường đạo lý trở nên bèo dạt mây trôi.

Chính quyền sợ

Kể cũng lạ, mọi thành phần dân tộc đều sợ công sản, vậy chính quyền cộng sản thì sợ ai nữa. Nói zậy nhưng không phải zậy, đây mới chính là thành phần sợ nhiều nhất, sợ lâu nhất và hèn hơn ai hết. Cái sợ thứ nhất là: Cộng sản bé sợ cộng sản lớn. Cụ thể là hết sợ Liên Xô bây giờ đến sợ Tàu. Phái Bắc nhượng đất, phía đông nhường biển, rồi bây giờ dâng cả Tây nguyên luôn cho êm. Chưa hết, vừa rồi căng thẳng giữa các nước trên biển đông, trong khi Phi, người Mã khẳng khái tuyên bố chủ quyền của họ (dù chưa chắc là của họ) thì người ta lại thấy các bác trong bộ chính trị lục đục “đi tàu”! Cái sợ thứ hai của người cộng sản là họ sợ chính họ. Này nhé: Một Võ nguyên Giáp đang nắm binh quyền trong tay mà phải lui về làm “Kế hoạch sinh đẻ”. Một Võ Văn Kiệt khi bênh hoạn không dám nằm ở bệnh viện nhà nước mà phải nằm bệnh viện “đế quốc”. Một Lê khả Phiêu, tin vào Đức Phật, thờ Đức Phật mà sợ không dám công khai xác nhận niềm tin của mình.

Khi nào thì hết sợ?

Trong suốt một thời gian dài mà cả dân tộc đều sợ thì có một số ít các nhà yêu nước với đủ các thành phần, điển hình như: Trí thức có: Hà sĩ Phu, Nguyễn thanh Giang,… . Phía tôn giáo có Cố Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn văn Lý, Hòa thượng Thích Quảng Độ,… . Phía những người cộng sản có Hoàng minh Chính, Trần Độ,… họ đã vượt qua cái sợ để nói lên tiếng nói của lương tâm, của Công lý và Sự thật.

Từ những hạt giống đó đến năm 2006 thì lần đầu tiên tại Việt Nam xuất hiện một bản tuyên ngôn về Nhân quyền. Khởi đầu chỉ với vài người “không biết sợ”, sau vài tháng thì con số người “không biết sợ” đã lên đến vài ngàn người. Sau đó giới trí thức trẻ bắt đầu “hết sợ” mà điển hình là các gương mặt như Lê thị công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Lê Quốc Quân, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Tiến Trung,…

Đến cuối năm 2008 thì lãnh đạo Tôn giáo bắt đầu “không còn sợ nữa” mà điển hình là Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt và Hội đồng Giám mục Việt Nam đã lên tiếng bênh vực cho Công lý và Hòa Bình. Hưởng ứng cho phong trào đấu tranh vì Công lý và Hòa Bình đó là giáo dân Việt Nam trong và ngoài nước. Tiêu biểu cho thành phần “phó thường dân hết biết sợ” này là Giáo dân giáo xứ Thái Hà. Với những gì được thể hiện qua quá trình đấu tranh và đặc biệt là qua hai phiên tòa vừa qua, chúng ta có thể khẳng định rằng: Nổi sợ hải đã qua đi và tiếng của Công lý, của sự thật đã xuất hiện trong người dân Việt Nam.

Vậy khi nào thi người cộng sản hết sợ và hết hèn? Khi nào thi người cộng sản khẳng khái tuyên bố họ không còn tin vào chủ thuyết Mác-Lê nữa? Khi nào thì họ đồng hành cùng dân tộc, khẳng khái bảo vệ biên cương, bảo vệ Tổ quốc mà cha ông ta để lại? Những câu hỏi này xin dành cho những nhà lãnh đạo cộng sản.

Một ngày cuối tháng 3 năm 2009
Trương Văn Phú

http://giaoxuthaiha.org/Web/ContentDetail.aspx?distid=2006