Tuesday, September 16, 2008

Vì cầu nguyện cho công bằng. Dân Chúa tại Việt Nam đi tù CSVN


Hồng Linh

Của bất công phải trả lại cho công bằng

Như một nguyên tắc căn bản cho con người có thể sống chung với nhau trên cõi đời nầy. Cách đây hơn 2000 năm. Vị cứu tinh, từ trời tới giải phóng con người khỏi sự chết, đã nói lên nguyên tắc trên. Một nguyên tắc xem ra không đi bọc quanh đuợc. Những ai theo Ngài phải bảo vệ và sống theo nguyên tắc ấy. Một bất hạnh cho con nguời Việt Nam và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, như một định mệnh tàn khốc, là phải sống dưới gông cùm bọn CSVN. Chúng cồ di chuyển ngược chiều với nguyên tắc ấy để phục vụ cho đảng CSVN trong quá khứ và nay chuyển qua đảng viên. Tuy lý thuyết tạo ra đảng nầy nay đã đi vào sọt rác lịch sử. Các thể chế CS trên thế giới đã tạo ra hơn 100.000.000 nạn nhân cho tới nay và còn tiếp tục tại Việt Nam. Một ghê tởm của tội ác mà nhân loại sẽ không bao giờ quên.

Sau khi bức màn sắt phủ xuống trên toàn thể Việt Nam vào năm 1975. Tại giáo xứ Nguyệt Biều, như một tiếng chuông cho toàn thể dân Việt Nam, linh mục Nguyễn Văn Lý đã thắp lên ngọn đuốc khởi điểm cho cuộc hành trình đòi lại công bằng. Ngày nay đuợc thể hiện qua các vụ dân oan khiếu kiện và các buổi cầu nguyện của dân Chúa tại Hà Nội đòi lại toà Khấm Sứ và Thái Hà đòi lại đấtcủa nhà Dòng CCT đã bị CSVN cưỡng chiếm. Không kể những cầu nguyện trong thầm lặng của biết bao nguời đang sống duới chế độ hiện tại ở Viêt Nam. Cả một dân tộc đang cầu nguyện giống dân Do Thái của một thời xa xưa.

Ba đợt liên tiếp giết nguời và vi phạm công bằng của CSVN

Tại Bắc phần trên vĩ tuyến 17, trong cuộc phát động quần của những năm 1953-1954 và cuộc cải cách ruộng đất vào các năm 1955-1956, không những CSVN đã tạo ra cuộc sát hại tới 650.000 nạn nhân vô tội, cuớp đất đai nhà cữa của nạn nhân và của của các tôn giáo. Giết nguời và cướp của đi đôi với nhau.

Sau khi chiến tuyến chống cộng miền Nam bị tràn ngập do phản bội và tàn ác cấu kết với nhau. Trong mục tiêu tiến nhanh tới ảo mộng cụt lối XHCN, CSVN qua chiêu bài đánh đổ tư bản mại bản cuối thập niên 70, đã tich thu các xí nhiệp, cửa hàng doanh nghiệp tư nhân, cưỡng bách đày ải họ và gia đinh về vùng kinh tế mới..

Ngay chính năm 1975, CSVN đã tung chiến dịch kiểm soát các hoạt động của các tôn giáo, phân tán các đoàn thể tôn giáo, tịch thu đất đai trồng trọt hay không, các cơ sở giáo dục và y tế, cũng như các tu viện, tiểu và đại chủng viện. Nhất là vào năm 1978. CSVN giải tán các cộng đoàn Thiên Chúa Giáo tại Thủ Đức và tịch thu toàn diện các cơ sở tu hành.

Ánh đuốc Nguyệt Biều, linh mục tiên phong Nguyễn Văn Lý

Nguyệt Biều là một họ đạo nhỏ. Nằm về Tây Nam Huế và cách Huế khoảng 8 cây số với 200 giáo dân. Tất cả sống rất nghèo nàn và chuyên về đồng áng. Ở xa ngoài tầm mắt dòm ngó. Vì lý do ấy, Nguyệt Biều đã trờ thành nơi lý tuởng để giam cầm các thành phần mà chúng gọi là « chăn chiên phản động ». CSVN đã quản thúc linh mục Lý tại đây vào năm 1977. Và cũng tại đây «chăn chiên phản động » Nguyễn Văn Lý đã quyết đối đầu với bất công của bạo tàn CSVN. Nguyệt Biều nghèo nàn, nhưng CSVN không tha. Sau khi đã tịch thu 15.000 mét vuông đồng cỏ và ruộng vườn, chúng còn tịch thu thêm 2000 mét vuông nằm trong khuôn viên nhà thờ. Sau đó, CSVN lại thêm sáng kiến mới là đào con kênh dẫn nước qua ngang trước nhà thờ. Công phẫn trước hành động ăn cướp và mưu đổ phá hoại nơi thờ phượng. Ngày 13/11/2000, linh mục Lý và con chiên của Nguyệt Biều gửi một kiến nghị tới thẩm quyền, tại Huế, của nhà nước Cộng Sản Việt Nam, đòi trả lại đất đai bị tịch thu qua kiểu cướp cạn. Cũng vào dịp ấy, nhiều biểu ngữ « Chúng tôi cần tự do tôn giáo » được giáo dân và linh mục Lý dăng xung quanh nhà thờ Nguyệt Biều và trên các đất đai đa bị tịch thu vào năm 1975, linh mục « phản động » Nguyễn Văn Lý dẫn đầu các con chiên cùng nhau ra cày đất đai đã bị CSVN tịch thu vào năm 1975 và sau đó.

Cùng lúc linh mục Lý ra tuyên ngôn gồm 10 điểm, đã được soạn thảo vào năm 1994, đòi dân chủ, tự do, nhất là tự do tôn giáo. Xem như là bước đầu của cuôc hành trình đòi công lý khá cô đơn của một xóm đạo với một chủ chăn. Nhưng vừa qua tại Hà Nội và nay tại Thái Hà, các lãnh đạo của tổng giáo phận tại thủ đô cùng vô số con chiên, qua cầu nguyện, đã cùng nhau lên đường đòi công lý cho toà Khâm Sứ và Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà..

Con người và tôn giáo

Con người sinh ra bị đặt trước bao khắc khoải với nhiều câu hỏi cần được giải đáp. Nhất là câu hỏi liên quan tới cách phải hành xử ra sao để con nguời có thể chung sống với nhau trong hòa bình. Một cần thiết mà chỉ có tôn giáo, qua các niềm tin khởi thủy, giống như các ngyên tắc phải chấp nhận lúc ban đầu trong khoa học thực nghiệm, mới đáp ứng đuợc.

Sự chấp nhận các tín lý dẫn tới các cắt nghĩa và giải đáp. Chính các giải đáp ấy sẽ cho ý nghĩa và niềm tin của cuộc sống. Nhất là niềm an ủi lúc ra đi sau chuyến lữ hành trần gian. Trong tư thế sinh ký tử quy.

Một tôn giáo, theo đúng nghĩa, phải có ba cấu tạo liên kết với nhau và không thể thiếu một thành phần trong ba thành phần sau đây: tín lý, giáo lý và cách sống đạo. Bên cạnh tôn giáo luôn có vô thần và độc tài. Nhân loại đa biết đến nhiều loại độc tài. Độc tài hữu thần và độc tài vô thần. Tác hại nhất là độc tài vô thần. Loại độc tài vô thần tác hại con người từ tâm linh tới thể xác và CSVN là loại nầy. Hai cánh tay hủy hoại con người từ hai phía.

Việt Nam có tự do tôn giáo hay không?

Tôn giáo là sức mạnh tinh thần và động lực tạo hợp quần qua tổ chức cũng như liên đới. Vũ khí không thể nào tiêu diệt đuợc hai thành phần đầu của tôn giáo: tín lý và giáo lý. Nhưng để phá phách hai phạm trù nầy. CSVN dùng cánh tay vô thần đề bôi bác tín lý và khuếch trương các thú tinh con người qua tuyên truyền và giáo dục tạo hận thù với mồi nhử vật chất. Trong mục đích tiêu diệt thành phần thứ ba còn lại của tôn giáo: cách sống đạo, CSVN dùng mưu mô và vũ lực. Cách sống đạo của một tôn giáo gồm hai phần: phát triển và thờ phượng.

Một tôn giáo muốn được tồn tại lâu dài trên một địa bàn cần phải được phát triển. Giống như một cây. Không nhất thiết phải đốn cây ấy mới có thể nói rằng đã tiêu diệt được cây ấy. Chỉ cần tiêu diệt yếu tố phát triển của cây ấy. Thời cây sẽ héo tàn và cuối cùng chết. Trường hợp thuốc khai quang.

Về tôn giáo cũng thế thôi. Phát triển gồm đào tạo kẻ chăn chiên và giáo dục. CSVN tiêu diệt tôn giáo tại Việt Nam bằng cách chận yếu tố phát triển và giáo dục của GHCG. Chúng chỉ chấp nhận, với nhiều giới hạn, việc tự do đi lui tới nhà thờ để nói rắng Việt Nam có tự do tôn giáo. Bao kẻ chỉ đã căn cứ vào sự kiện thấy có kẻ lui tời nhà thờ và tuyên bố: « Việt Nam có cải thiện về tôn giáo» và Mỹ bỏ CSVN ra khỏi danh sách CPC. Một lấp liếm để biện hộ việc đã làm ăn với vô thần và độc tài.

CSVN chận phát triển tôn giáo tại Việt Nam qua nhiều chiêu thức: giới hạn việc đào tạo kẻ chăn chiên, làm khó dễ việc bổ nhiệm thành phần huớng dẫn GHCGVN, tịch thu các cơ sở đào tạo kẻ chăn chiên và giáo dục. Khi phạm trù nầy bị va chạm toàn diện tại Việt Nam. Không ai lương thiện có thể nói đuợc là tại Việt Nam có tự do tôn giáo.

TGM, Hồng Y giáo hội công giáo Việt Nam tạo hai cái chớp bảo vệ tự do tôn giáo tại Việt Nam

Bảo vệ tự do tôn giáo, về thực hành, truớc tiên là bảo vệ yếu tố phát triển và các nguyên tắc căn bản của tôn giáo ấy. Riêng về GHCGVN, công bằng, tiếp theo là bác ái, hai nguyên tắc căn bản phải bảo vệ.

Chính vì thế, vào ngày 15/04/1977, CSVN, qua con ngáo ộp Mặt Trận Yêu Nuớc, chi bộ Bình Trị Thiên, sau khi đã bắt bớ các chân tu Phật Giáo tại Sài Gòn (nay là Hồ Chí Minh City), đã tổ chức một buổi hội thảo, chiêu thức muôn thuở của đường mòn quen thuộc vừa đánh trống vừa ăn cuớp, để biện hộ về các vụ bắt bớ đen tối ấy. Ngay tại hội nghị, Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền, bất chấp nguy hiềm tới bản thân, đa dõng dạc tuyên bố: «Tôi lấy là buồn phiền về các bắt bớ ấy và không bằng lòng về tình trạng tự do tôn giáo tại Việt Nam. Con chiên Thiên Chúa giáo bị cư xử như những công dân hạng hai ».

Sau đó Ngài đã phải chịu bao cực hình, và theo dư luận, Ngài đã qua đời tại Sài Gòn do thuốc độc mà các tay sai bác sĩ đa chích cho Ngài tại nhà thương.

Câu chuyện do Giám Mục F.X Nguyễn Văn Sang kể lại: « Số là trong cuộc xáo động cách đây mấy chục năm về viễn tuợng Giáo Hội Công Giáo Rôma sẽ phong 117 Á Thánh Tử Đạo Việt Nam lên hàng Hiển Thánh, các cuộc hội họp diễn ra khắp nơi trong đất nước, lời qua tiếng lại khen chê đủ kiểu. Chúng tôi – Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (lúc đó tôi đang làm tổng thư ký) được triệu tập ra cơ quan để nghe một vị có trách nhiệm thuyết trình. Vị đó nói rất hùng hồn và lôi cuốn, nhưng đa số những lời đó là để chỉ trích bôi nhọ các Thánh Tử đạo Việt Nam là những nguời bán nước, đầu trộm, gian thương, xấu nết ...

Đột nhiên tôi thấy Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn quỳ xuống ôm mặt khóc ầm lên và lớn tiếng kêu: “Xin thôi, xin thôi! Ông không có quyền thoá mạ, bôi nhọ cha ông chúng tôi là những nguời chúng tôi yêu mến và kính trọng”. Nói đoạn, ngài lại lớn tiếng khóc hu hu...!

Các Giám Mục thấy sự việc như vậy, yên lặng rút lui ra khỏi căn phòng, và cuộc họp tự động được kết thúc không kèn không trống. Hôm sau, nghe tin nguời diễn thuyết hôm đó bị cấp trên “Chỉnh” rằng: “Nếu để cho Hồng Y Căn hôm qua ngã xuống mà chết thì không phải Toà Thánh Vatican chỉ phong chức cho 117 vị Thánh Tử đạo mà sẽ phong cho cả Hồng Y Căn vào số danh sách là 118 vị Tử Đạo Việt Nam”.

Ba hành động từ linh mục Nguyễn Văn Lý, TGM Nguyễn Kim Điền và Hồng Y Trịnh Văn Căn, tuy không có kết qủa thực tiễn, đã đánh động một phần nào dư luận về sự bất khuất của giáo dân và các kẻ chăn chiên của GHCGVN.

Những yếu tố nào đã dẫn tới vụ cầu nguyện Thái Hà?

Từ phía nhà cầm quyền CSVN

Giáo dân Thái Hà, sau 63 năm sống dưới chế độ CSVN, đã quá biết bộ mặt gian ác của bọn cai trị mà 4 tên nầy là đại diện. Chỉ có tiền và quyền với một hệ thống công an đàn áp.

Ăn cướp từ Trung ương tới địa phương theo các phương thức khác nhau. Ông lớn kiểu ông lớn. Ông bé kiểu ông bé. Không ai xét xử. Từ đó phải liều chết mới mong có một lối thoát.

Từ ngày VN đi vào kinh tế thị trường. Với đầu vốn vào Việt Nam của các hãng ngoại quốc. Các hãng nầy cần xây dựng cơ sở. Nên cần đất đai. Một dịp làm giàu đã tới. Nên đảng CSVN bắt đầu chuyển nhượng về tay các đảng viên các đất đai đã ăn cướp của cộng đồng Cộng Giáo và tư nhân. Trước các hành động ấy. Làm thinh là chấp nhận. Nên phải lên tiếng. Lên tiếng đây là cầu nguyện.

Khi sự đàn áp xem chừng sẽ có nguy cơ gây nhiều rắc rối truớc dư luận quốc tế, như vụ cầu nguyện đòi lại tòa Khâm Sứ truớc đây tại Hà Nội. CSVN đã dùng chiến thuật hứa cuội. Một hứa cuội trắng trợn lại liên quan tới một TGM và Vatican. Bây giờ CSVN sẽ ăn nói ra sao? Ai sẽ còn tin vào lời hứa của CSVN nữa đây? Chế độ chỉ sinh ra những người lãnh đoạ lừa lọc. Tham nhũng và lộng quyền. Bám víu vào quyền lực để vinh thân.

Từ phía HĐGMVN

Tuy mỗi GM có nỗi lo riêng tư. Nhưng tất cả điều nhận thấy rằng các đất đai bị tịch thu nay sẽ thuộc các đảng viên. Như lời của GM địa phận Vinh: « Việc của Thái Hà cũng là việc của Vinh, của Thánh Hoá … và của cả Giáo Hội Việt Nam. Do đó chúng tôi đến đây để cầu nguyện cùng anh chị em cho công lý và hoà bình». Một ấm ức cho các giáo phận và con chiên từ Bắc tới Nam. Tất cả cùng chung số phận: Bị cướp bởi đảng CSVN.

Hình ảnh linh mục Nguyễn Văn Lý tại chốn lao tù luôn là một đánh động lương tâm.

Ngoài ra các Giám Mục bị dư luận tố cáo, đúng hay sai chưa đặt vấn đề, là chỉ « tìm an thân » và không bảo vệ công bằng. Nhiệm vụ chính của GHCG và nhiệm vụ của các vị trong tư thế là kẻ đại diện của GHCGVN, và cũng là các kẻ chăn chiên. Khi con chiên liều mình, bị roi điện, bị đánh đập dã man, máu me đầy mình. Không lẽ các GM chỉ đứng nhìn thôi? Nay các GM bị đặt trước một lựa chọn và không thề thối thác đuợc nữa. Bảo vệ công bằng và con chiện hay không?

Khi các Ngài ra hải ngoại. Bao câu hỏi thuộc loại ấy không thiếu. Khi các đóng góp của con chiên tặng các ngài. Tuy giáo dân không đặt câu hỏi. Nhưng các Ngài GM phải tự vấn: « Đóng góp để các Ngài làm gì? ». Không lẽ chỉ để nghe các Ngài lặp lại hai tiếng « Hiệp Thông » trống rỗng! Các Ngài bị lương tâm thẩm vấn.

Từ phía các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế nói chung

Các cha Dòng Chúa Cứu Thế, môn đệ của Thánh An Phông Xô, là những chiến sĩ phúc âm. Nhiệm vụ truyền bá phúc âm cho dân nghèo. Tôn kính Đức Mẹ là một ấp ủ trong lòng với ca tụng. Hàng đêm trước khi đi ngủ. Họ luôn hát: « Salve Regina ... ».Một lòng con thảo với Mẹ Maria. Nếu vì danh Mẹ mà phải hy sinh. Họ nhất quyết hy sinh. Các linh mục ấy luôn phải phất cờ Công Bằng và Bác Ái. Họ được đào tạo một cách đặc biệt. Không giống các vị từ các chủng viện gọi là linh mục triều lo các giáo xứ. Nếu học giở, thời không đươc nhận. Nếu ăn nói lắp bắp cũng bị cáo dài và trả lại thế trần. Nên các linh mục nầy rất đa dạng và nhiều nhiệt huyết.

Nay nhà Dòng cần chỗ để mở mang. Và khi thấy đất đai của nhà Dòng bị chuyển về tay các đảng viên đảng CSVN. Các cha phải ấm ức không nguôi. Vì đã theo Chúa. Nếu có chết cũng vui lòng. Vì đó là nhiệm vụ của chiến sĩ phúc âm. Một nhiệm vụ huy hoàng và đầy hy sinh.

Từ phía giáo dân Thái Hà

Dân tình nghèo lắm. Họ bị CSVN xem là thứ dân «hạng hai ». Họ biết đất giáo xứ đang bị chuyển về tay các đảng viên. Đất ấy là đất của Mẹ Maria. Các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế và giáo dân Thái Hà đã gặp nhau trong tâm tư « Các con là lính của Mẹ. Mẹ sẽ ghi dấu trên trên trán các con của Mẹ. Đề Mẹ nhận diện, thông điệp Fatima! » . Nên cùng nhau lên tuyến đầu cầu nguyện. Chết hay đi tù vì danh Mẹ và công bằng có sao đâu! Một niềm tin và một niềm hy vọng chứa chan. Họ biết NVHN và giáo dân NVHN luôn ủng hộ! Nên không lẻ loi! Khâm Sứ và Thái Hà là bước ngoặc mang tính quần chúng vì lý do ấy.

Vũ lực CSVN chống niềm tin và ý chí hy sinh của Thái Hà và GHCGVN

CSVN đang dùng gươm đao đề chống lại ý chí và niềm tin của quần chúng. Nhưng trong thánh kinh, Thuợng Đế đã nhắn nhủ nhân loại: «Hãy bỏ gươm vào vỏ! Vì tất cả những ai dùng gươm sẽ chiết vì gươm! ».

Tòa Khâm Sừ và Thái Hà là hai điểm hẹn của công bằng. Điểm hẹn của Giáo Hội miền Bắc. Thái Hà! Cũng là hành trình của tội ác CSVN. Đã sai còn hàm hồ. Đã sai lại làm càn. Đã độc tài lại dan dối. Tạo « linh mục dỏm » vời giáo dân « cốt cán » từ CS. Đã sai trái còn lớn tiếng qua báo chí độc quyền. Chận xe của của các giáo dân từ khắp nơi về bên cạnh giáo dân Thái Hà. Gươm đao và dan dối! CSVN chỉ còn hai món nầy! Một bọn của « Táng tận lương tâm » theo lời của GM Sang.

Nay các chủ chiên Giám Mục của giáo phận HN đã về đông đủ tại Thái Hà để ở cạnh đàn chiên trươc giông tố và lang sói. Nều phải chết. Cha con cùng chết vì công bằng và Mẹ Maria.

Trối trăn và các chuẩn bị

TGM Hà Nội Ngô Quang Kiệt, linh hồn của các vụ cầu nguyện, gửi lời trăn trối:

«Xin mọi người cầu nguyện nhiều cho tôi. Tôi xin cám ơn tất cả và cám ơn Giáo Hội Hiệp nhất ». Thuợng Đế hỡi! Xin hãy che chở vị chăn chiên nầy cho GHCGVN!

Giám Mục F.X. Nguyễn Văn Sang, năm nay 78 tuổi, gửi gắm: «Xin chào tất cả mọi người, tôi sẽ đi tù. Đi tù cùng với đi tu một vần! ».

Một giáo dân Thái Hà, năm nay 60, tuổi xác định: «Cộng sản nhiều mưu sâu kế độc, tàn ác vô luân, bàn tay đã nhuốn máu của bao dân lành, chắc chắn nó không chịu thua dễ dàng … nó sẽ mở ra trang sử các chân phước tử đạoViệt Nam thế kỳ 21 ... Đối với người Công Giáo tử đạo là một phúc lớn, con cái Chúa phải tranh đấu, phải hy sinh liên tục mới được chọn. Chúa gọi rất nhiều, Chúa chọn thì ít! Lậy Chúa, vì Ngài đã chọn Thái Hà chúng con! Xin Ngài chọn chúng con! »

Tại Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà: «các tu sĩ đã dọn dẹp nhà cửa, sắp xếp ngăn nắp tài liệu, kinh sách … chuẩn bị cho việc công an tới bắt các cha và kèm theo khám xét nhà Dòng »

Các giáo dân Thái Hà loan báo: «Giáo dân Thái Hà chúng tôi cũng chuẩn bị cho việc công an sẽ bắt thêm những người « tích cực » tham gia, tình nguyện hướng dẫn anh em giáo dân khắp nơi về cầu nguyện. Những người nầy đang gói ghém đồ mang theo nếu phải vào tù. Họ cũng thu dọn nhà cửa, chuẩn bị người ở nhà để công an bắt, khám nhà có người ở lại trông nhà ».


THUỢNG ĐẾ HỠI! CÓ THẤU CHO DÂN CHA TẠI THÁI HÀ KHÔNG?

Việt Nam: Miền Đất Hứa Của Rửa Tiền Và Ma Túy


Mai Vĩnh Thăng
  • Bối cảnh

Mục đích của luật chống rửa tiền và ngăn chặn tài trợ tài chính cho khủng bố AML/CTF Act (Anti Money Laundering/Counter Terrorism Financing Act 1966) nhằm khám phá và ngăn chặn việc rửa tiền và tài trợ cho bọn khủng bố trên thế giới. Rửa tiền được trá hình, che đậy dưới nhiều hình thức tội phạm khác nhau như buôn ma túy, trốn thuế và tham nhũng, và làm cho số tiền nầy trở nên chính đáng và hợp pháp. Rửa tiền và tài trợ cho khủng bố đều là tội phạm, tuy nhiên nếu số tiền bất chính đó lọt vào tay bọn khủng bố thì hậu quả sẽ càng nguy hiểm hơn.

Thực ra việc kiểm soát đồng tiền bất chính đã có từ FTR Act (Financial Transaction Report Act 1988), nhưng vì lĩnh vực tài chành phát triển quá nhanh trong những năm qua, với kỹ thuật cải tiến và hoàn hảo hiện nay người ta có thể chuyển tiền trực tiếp qua Internet, các máy rút gởi tiền tự động mà không cần phải đến ngân hàng. Cho dù chuyển tiền qua Internet hay các máy tự động, các dữ kiện đó cũng lưu lại trong trung tâm lưu dữ kiện (Data bank) ngân hàng, và từ đó sẽ tự động chuyển qua hệ thống computer của Liên Hiệp Quốc. Đi vòng, tắc, ngang, dọc rồi cũng sẽ về lại một nơi.

  • Các hình thức rửa tiền tiêu biểu
  • 1. Trả nợ với một số tiền lớn do chính chủ nợ hay từ người khác (Third parties)
    2. Tiền chuyển từ ngoại quốc, có thể dưới hình thức trúng số hay của thừa kế
    3. Xin gia tăng tín dụng bất thường và rút một số tiền lớn nhanh chóng

Các chuyên viên bài trừ tội phạm quốc tế cho biết hệ thống luật pháp chống rửa tiền của Cộng Sản Việt Nam (CSVN) có rất nhiều sơ hở. Hầu như mọi việc giao dịch buôn bán đều dùng tiền mặt, vì thế Việt Nam có thể trở thành một miền đất rất thích hợp để những kẻ bất chính rửa tiền mà chính phạm là bọn lãnh đạo đảng.

Cố Vấn cho văn phòng Liên Hiệp Quốc về Ma Túy và Tội Phạm tại Việt Nam UNODOC (UN Office for Drugs and Crime) cho rằng những biện pháp chống rửa tiền lấy lệ sẽ không có hiệu quả ở Việt Nam. Ngỏ lời trong buổi hội thảo vừa qua tại Hà Nội, văn phòng Liên Hiệp Quốc Việt Nam cho rằng nếu việc rửa tiền không được kiểm soát nghiêm nhặt, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín và việc đầu tư ngoại quốc vào Việt Nam.

Nếu hệ thống chống rửa tiền không hữu hiệu sẽ khuyến khích đồng tiền bất hợp pháp đổ dồn về Việt Nam. Đồng tiền bất hơp pháp đó sẽ được chuyển đến các ngân hàng và công ty tín dụng, và sẽ nhanh chóng chuyển đi nơi khác. Chừng ấy Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia trung gian để chuyển tiền lậu đến các quốc gia trên thế giới. Trong nhiều trường hợp, những số tiền lớn chuyển đến và đi nhanh chóng, có thể làm cho cả hệ thống tiền tệ Việt Nam sụp đổ.

Trung tâm chống rửa tiền của ngân hàng Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam được thành lập vào tháng 3 năm 2007. Đến nay đã điều tra 20 trường hợp tình nghi rửa tiền, nhưng không tìm thấy bằng chứng hay dấu vết phạm tội trong các trường hợp nầy. Sắc Lệnh chống rửa tiền do nhà cầm quyền CSVN ký hôm tháng 6 năm 2005 buộc các ngân hàng phải báo cáo về trung tâm bất cứ vụ chuyển tiền mờ ám nào bằng tiền mặt, hoặc ngoại tệ và vàng trị giá trên 200 triệu đồng Việt Nam, và các trương mục tiết kiệm có trên 500 triệu đồng Việt Nam. Trung tâm chống rửa tiền ngân hàng Nhà Nước Việt Nam cũng cho biết là sẽ cố gắng thi hành nhiệm vụ hoàn hảo hơn trong tương lai với sự trợ giúp của Tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO.

Phê bình về các trường hợp chuyển tiền mờ ám mà trung tâm chống rửa tiền điều tra năm rồi, văn phòng Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam cho rằng con số 20 trường hợp đã được điều tra còn quá ít so với 6 triệu trường hợp tình nghi đã được báo cáo trong năm. Một son số quá lớn gây kinh ngạc cho giới ngân hàng và tài chính thế giới. Sở dĩ con số chuyển tiền quá giới hạn đến 6 triệu lần trong năm là vì Việt Nam là một xã hội với nền kinh tế tiền mặt, và vì hệ thống ngân hàng vẫn còn trong thời kỳ ấu trĩ và xa lạ với người dân. Việt Nam đã tích cực bài trừ các hoạt động rửa tiền và đã được các tổ chức quốc tế tài trợ về kỹ thuật và tài chính để gầy dựng một tổ chức chống rửa tiền với khả năng qui mô và hữu hiệu hơn.

  • Bằng cách nào LHQ có thể kiểm soát CSVN rửa tiền?

Liên Hiệp Quốc tài trợ kỹ thuật và tài chánh cho CSVN không chỉ đơn giản là trao tiền mặt và hỗ trợ về kỹ thuật mà thôi. Nhưng các chuyên viên kỹ thuật IT (Information Technology) thiết lập hệ thống computer và phương trình nối vào hệ thống ngân hàng CSVN để có thể kiểm soát và ghi nhận tất cả các dữ kiện chuyển tiền đến và đi từ các ngân hàng. Từ đó nếu một lần chuyển tiền (Transaction) trên 200 triệu đồng Việt Nam hoặc một trương mục tiết kiệm có trên $500 triệu đồng Việt Nam như CSVN đã ký kết, sẽ tư động chuyển những dữ kiện (Data) đó sang hệ thống computer của Liên Hiệp Quốc.

Việt Nam luôn chối tội là không hề liên quan đến các vụ rửa tiền, và đây là một số dẫn chứng về việc làm bất chính của họ:

  • 07/06 Việt Nam Airlines chuyên chở 10.5 triệu Úc kim về Việt Nam.
  • 09/10/06 Việt Nam Airlines chuyên chở 93 triệu Úc kim về Việt Nam.
  • 04/04/08 Phi công Việt Nam Airlines chuyên chở 3.7 triệu Úc kim về Việt Nam.
  • 21/07/08 Tòa án Hoa Kỳ xử một Văn phòng du lịch Houston, Taxas chuyển 500,000 Mỹ kim về Việt Nam
Nhà cầm quyền Việt Nam cho rằng họ rất quan tâm đến vấn đề rửa tiền như họ đã chấp nhận các quy định về việc bài trừ rửa tiền, đặc biệt là Điều Khoản 251 Luật Hình Sự 1999, Điều Khoản 19 Luật Tín Dụng 1997 của Tổ Chức Tín Dụng và Sắc Lệnh của nhà cầm quyền CSVN ban hành năm 2005. Tuy nhiên, các cơ quan hành pháp CSVN chưa được phép hợp tác, cho nên họ không thể làm việc hữu hiệu trong việc chống rửa tiền. Việc nầy dễ hiểu là đảng CSVN điều hành tất cả cơ chế nhà nước thì cơ quan hành pháp là bọn tay sai Công An không thể bắt giữ thượng cấp của chúng khi phạm pháp.

Văn phòng Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam cho rằng rất khó có thể tìm thấy những bằng chứng rửa tiền vì người chuyển tiền dùng nhiều hình thức khác nhau. Trước nhất là cần tìm ra bất cứ dấu hiệu bất thường nào của người rửa tiền. Ví dụ, các viên chức chính quyền có trương mục với ngân hàng và tiền lương được trả đều đặn vào đó. Nếu thấy chuyển bất thường một số tiền lớn vào trương mục, đó có thể là tiền tham nhũng hoặc tiền kiếm được từ những việc làm bất chánh. Tuy nhiên đảng Cộng sản Việt Nam kiểm soát tất cả ngân hàng, công ty tín dụng và nếu đảng viên là tội phạm, dĩ nhiên họ sẽ được bao che.

Giới chức của văn phòng Liên Hiệp Quốc về ma túy và tội phạm đề nghị áp dụng rộng rãi các biện pháp chống rửa tiền theo tiêu chuẩn quốc tế. Liên Hiệp Quốc cũng nêu ra sự cần thiết phải đưa việc chống rửa tiền vào khuôn khổ để có thể chống tham nhũng và tội phạm. Như vậy mới có thể bảo vệ an toàn cho các ngân hàng quốc tế có chi nhánh tại Việt Nam và củng cố niềm tin của giới đầu tư vào đất nước nầy.

Việt Nam đã gia nhập Tổ Chức chống rửa tiền Á Châu Thái Bình Dương và đang tổ chức một hệ thống chống rửa tiền theo tiêu chuẩn quốc tế. Các chuyên viên chống rửa tiền cũng đề nghị nhà cầm quyền CSVN nên thay đổi cách thanh toán các dịch vụ buôn bán bằng cách dùng ngân phiếu hay điện tử thay vì tiền mặt .

Mai Vĩnh Thăng
Viết theo tin tức đài ABC Úc và các nguồn tin tức khác

Coi Chừng Tổ Chức Giúp Thương Phế Binh VNCH “DỔM”


Trương Minh Hòa

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, toàn dân miền Nam Việt Nam đã thấm thía thế nào là câu tuyên bố của đại tướng Dương Văn Minh trong ngày nhậm chức tổng thống từ tay cụ Trần Văn Hương rằng: "... nhiệm vụ của tôi lên đây nhằm thực hiện mục tiêu hòa hợp hòa giải dân tộc" và sau đó là những tên du kích miền Nam, giặc từ niềm Bắc vô đây, được tên nhạc sĩ quốc gia, cầm ca cho Cộng Sản Trịnh Công Sơn đã "nối Còng tay lớn" để thực hiện cái gọi là: "cách mạng vùng để đổi đời" với cảnh: "thằng ngốc làm vua, thằng khôn đi học thằng ngu làm thầy ...".

Tất cả mọi người dân miền Nam đều khốn đốn với những đợt đánh tư sản, đổi tiền, chính sách ngăn sông cấm chợ qua mạng lưới các trạm kiểm soát khắp nơi như mạng nhện, hàng năm phải làm công tác thủy lợi với cái chiêu bài" xã hội chủ nghĩa", bị khủng bố tinh thần thường trực bởi hệ thống đảng ủy, công an từ phường khóm, ấp, xóm .... đến huyện, tỉnh. Riêng thành phần quân nhân trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa thì càng thê thảm:

- Người sống bị đưa đi tù đày, trả thù hnè hạ với mỹ từ "cải tạo" trong nhiều trại tù từ Nam chí Bắc; giặc đã sát hạ hàng chục ngàn người bằng hành quyết, tra tấn, bịnh tật không thuốc men, lao động khổ sai .....
- Người chết nằm ở các nghĩa trang quân đội thì bị khai quật, ủi, san bằng mồ mả, tượng đài bị đập phá.
- Các thương phế binh bị đuổi ra khỏi bịnh viện trong lúc đang điều trị; gia đình bị đuổi ra khỏi các khu gia binh, khu thương phế binh ... để cho đám cán binh, du kích, cán bộ chiếm nhà.

Đời sống của những thương phế binh quân lực Việt Nam Cộng Hòa thê thảm nhất, họ phải sống trong cảnh nghèo khổ, thân thể không toàn vẹn, mất hết tất cả tiền cấp dưỡng, lại là đối tượng trù dập của chế độ Cộng Sản, bị chúng gọi là "Ngụy quân". Do đó, sau khi vượt thoát khỏi ngục tù Cộng Sản, người Việt tỵ nạn, nhất là các quân nhân quân lực VNCH có lòng thương nhớ đến những người đã từng hy sinh một phần thân thể để bảo vệ quê hương, nên trong nhiều năm qua, tại nhiều nơi, có những tổ chức gây quỷ giúp cho thương phế binh còn kẹt ở quê nhà, đây là nghĩa cử cao quý, đáng ca ngợi và ủng hộ trong tinh thần "nhớ ơn".

Tuy nhiên, thời đại ngày nay, cảnh "vàng thau lẫn lộn", là "thời đại đồ giả", từ con người, xã hội, hội đoàn, tổ chức, kháng chiến, phục quốc .... đến tôn giáo với các linh mọp quốc doanh, mượn danh Thiên Chúa và cây Thánh Giá, từ trong nước xuất ngoại lạc quyên; các sư quốc doanh lợi dụng "chùa và tượng Phật" để làm công tác tôn giáo vận, thu tiền, phát triển cơ sở, từ thiện, xây, sửa chùa, dịch kinh Đại Tạng, ru ngủ qua chiêu bài "phi chính trị"... tất cả đã và đang "rút rỉa túi tiền" của người Việt hải ngoại một cách "sáng tạp lẫn tối tạo" bằng nhiều chiêu bài hình thức, biến biến hóa hóa khôn lường, chẳng khác nào những "con bài trong canh bạc"; cho nên việc đóng góp giúp cho thương phế binh cũng nên thận trọng, chọn tổ chức gởi tiền, nhiều khi gặp tổ chức dỏm, do kẻ gian thực hiện, thì tiền đóng góp không đến tay những "ân nhân, anh hùng dân tộc" đang chịu nhiều gian khổ nhất trong cuộc chiến bảo vệ lý tưởng tự do. Nhân đây xin được đưa ra một trường hợp điển hình về tổ chức quyên góp tiền, với danh nghĩa giúp cho thương phế binh quân lực VNCH tại Úc Châu, do chính những người làm cựu quân nhân, cấp bậc cao đứng ra tổ chức, thì ban đầu được nhiều người hưởng ứng là điều không cần giải thích, do họ là những người có uy tín, được dân, quân tin cậy.

Tiểu bang Tây Úc (West Australia) với hơn 10 ngàn dân Việt Nam, cũng có nhiều tổ chức như: Cộng Đồng Người Việt Tự Do, Hội Cựu Quân Nhân, tôn giáo .... Từ đầu thập niên 1990, đại tá Vũ Ngọc Hướng, khóa 1 Nam Định, từ Na Uy sang trong diện đoàn tụ gia đình, ông nầy là người có cấp bậc lớn nhất, dùng uy tín cũ để gom hai hội quân nhân thành một, là điều đáng khen, lúc đầu làm hồi sinh lại không khí sinh hoạt, đoàn kết giữa các cựu quân nhân địa phương, sau thời gian dài bị phân hóa. Và cũng năm nầy, một người tên là Nguyễn Dân Cường, xưng là "đại úy" quân lực VNCH, sang Úc theo diện bảo lãnh của con, mới sang đã hành nghề "bói toán, tử vi" và khoe là đã từng coi chữ ký Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải (sau nầy đều làm thủ tướng), có mang theo trong một quyển sổ, để quảng cáo tài bói toán của mình, làm ăn khắm khá lúc đầu; ông nầy vào hội quân nhân ngay khi vừa mới qua, làm chức "phó chủ tịch nội vụ" nhiều nhiệm kỳ và cũng về thăm quê hương rất thường.

Là người được dịp về Việt Nam thoải mái, thường ghé "làng phế binh Thủ Đức" để thăm viếng những "thương phế binh quân lực VNCH" và lấy nhu cầu cần giúp đỡ. Ông đại úy nầy được đại tá Hướng tin cậy, trong lá thư, đại tá viết:

"... Đường lối ĐỐI THOẠI không ĐỐI ĐẦU mà tôi đã trình bày trên Nguyệt San Thông Luận tháng 11/1989 và trong bản Tuyên Cáo của Phong Trào Dân Chủ Xã Hội VN công bố ngày 12/12/1990 tại Hoa Kỳ. vì nhắm vào đối tượng quốc nội và các cơ sở Ngoại Giao đoàn, không phổ biến ở hải ngoại, nhưng cuối năm 1991 anh NGUYỄN DÂN CƯỜNG dự Đại Hội Cựu Quân Nhân liên bang, tôi gởi biếu 25 cuốn. Bản Tuyên Cáo cũng được dịch sang Anh ngữ, được phổ biến trong giới chính quyền liên bang, tiểu bang và địa phương ở Úc khoản 150 cuốn.." ( ngưng trích lá thư tháng 7 năm 1997).

Từ dạo đó, hội cựu quân nhân Tây Úc do đại tá Vũ Ngọc Hướng làm chủ tịch, Nguyễn Dân Cường làm phó chủ tịch nội vụ, Lê Quang Vinh làm phó ngoại vụ, hàng năm phát động gây quỷ, giúp cho thương phế binh, khá rần rộ lúc đầu, tổ chức thành công, sau nhiều lần quyên góp bằng hình thức "ăn cơm nhà hàng", vận động mạnh thường quân, dân chúng .... trong một "thiệp mời" đề ngày 22 tháng 5 năm 1997, do đại tá Vũ Ngọc Hướng mời tham dự buổi tiệc gây quỹ được tổ chức tại nhà hàng Golden Swan lúc 18 giờ 30 ngày 22 tháng 6 năm 1997. Mặt sau là "TÂM THƯ" của ban tổ chức gây quỹ cho thương phế binh QL/VNCH do trưởng ban tổ chức là đại úy Trần Văn Tuyền, đề ngày 1-6-1997 có đoạn ghi:

"Ngay cả Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và các tướng lãnh như Nguyễn Cao Kỳ, Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Văn Toàn, Ngô Quang Trưởng, Ngô Du ..v..v. .Những người nầy đã hèn nhát đào ngũ trước thời chiến để bỏ lại trên một triệu quân tàn hàng, rả đám để rồi hàng trăm ngàn quân nhân và công chức đi tù, từ đó đến nay họ sống ung dung tự tại với đồng tiền xương máu mà họ bòn rút tham nhũng, những kẻ tội đồ đó lại làm ngơ trước nổi thống khổ của đồng bào và nhứt là tập thể thương phế binh QL/VNCH.." (ngưng trích).

Qua vài dòng đó, khiến nhiều quân nhân và đồng bào thắc mắc về "tướng Ngô Quang Trưởng" chẳng lẽ là "sống ung dung tự tại với đồng tiền xương máu mà họ bòn rút tham nhũng"? Trung tướng Ngô Quang Trưởng, nổi tiếng là thanh liêm, tài ba, ngay cả trong quyển sách bôi nhọ của Cộng Sản, phát hành năm 1976 có tựa đề là: "Bộ Mặt Thật Tướng Ngụy", họ chỉ dùng câu "Tướng gà chọi", chứ không thấy nói tham nhũng. Như vậy có lẽ là ông đại úy Quân Tiếp Vụ mải mê "đánh giặc đêm ngày trên chiến trường Đường, sữa, bột ngọt, thuốc hút, dầu ăn ..." mà không biết tướng Ngô Quang Trưởng đánh giặc, tác phong ra sao?. Trong Quân lực VNCH, trên 4 vùng chiến thuật, ngay cả anh nghĩa quân đóng đồn ở rừng U Minh (Cà Mau) cũng biết tướng Trưởng. Có thể nói là trong tổ chức gây quỷ giúp thương phế binh, có một số người thiện chí, tinh thần rất đáng ca ngợi, như anh Nguyễn Văn Minh, tức là Minh-Què, một thương phế binh, anh rất tích cực, hoạt động vô vị lợi, nhưng anh và một số người khác có lẽ không biết đàng sau cái tổ chức nầy thế nào. Hy vọng anh và những người có tấm lòng, sau khi đọc xong bài nầy, sẽ hiểu rõ hơn.

Đến thời ông Trần Văn Tuyền làm chủtịch hội cựu quân nhân Tây Úc, thì ông quyết định thành lập ra tổ chức mang tên: " Hội Gia Đình Cựu Quân Nhân QL/ VNCH Tây Úc" qui tụ những "phu nhân" trong hội và một số vị nổi tiếng địa phương. Hội nầy nhằm giúp đở thương phế binh, vì hình như các ông tổ chức không được nhiều người hưởng ứng như mới phát động?.

Trong một thông cáo gây quỹ năm 1998, phổ biến trên một số cơ quan truyền thông như tuần báo Úc Châu như Nhân Quyền (số 654), đài phát thanh SBS, do bà Trần Văn Tuyền, là chủ tịch Hội Gia đình cựu quân nhân quân lực VNCH cùng với các bà: nha sĩ Dương Quỳnh Giao*, Nguyễn Phụng Loan, tổ chức buổi ca nhạc Tình Thương, ngày 18 tháng 10 năm 1998, lúc 11 giờ sáng tại nhà hàng Golden Swan ... thông cáo với nội dung:

- Duyệt xét thêm 2200 hồ sơ phế binh ở quê nhà.
- Từ năm 1991 đến 1998, đã giúp được 3200 phế binh.
- Mỗi người phế binh được tặng 100 Úc Kim.

Như vậy, thì chỉ cái hội cựu quân nhân quân lực VNCH Tây Úc, nhỏ bé, vậy mà đã tìm được con số thương phế binh để giúp là: 2200+3200= 5400 thương phế binh (cũng gần một trung đoàn chớ bộ), dù hội nầy không có cơ sở tại Việt Nam và cũng không được các tờ báo "nhà nước" giúp đăng thông báo để cho các phế binh quân lực VNCH liên lạc để được giúp đỡ. Theo lời "đại úy" Nguyễn Dân Cường, đại tá Vũ Ngọc Hướng thì: bây giờ Việt Nam cỡi mở lắm, cho thương phế binh ta được Việt Cộng cho ở làng phế binh Thủ Đức, lập ra nơi liên lạc, đặt cơ sở; nên đồng bào, các chiến hữu cứ đóng tiền và hội sẽ gởi tiền về giúp đến tận tay, rất là "giản đơn" và đầy tình người, chiến hữu.

Được biết đại tá Vũ Ngọc Hướng là người từng về Việt Nam như đi chợ từ năm 1996, ông hay "động viên" các quân nhân và đồng bào rằng: "Việt Nam bây giờ cởi mở lắm, hãy về nước du lịch, thăm quê hương, làm ăn ...", nên ông được gọi là "đại tá Cởi Mở" và ông hô hào phương cách lật đổ bạo quyền Cộng Sản rất là "sáng tạo", chắc chắn là nằm ngoài "cương lĩnh, phương cách hành động của các đảng phái, tổ chức" giải thể Cộng Sản, được ông khoe nhiều lần trước đám đông như sau: "bản thân ông bỏ tiền ra ủng hộ những tay đua xe gắng máy cao tốc, chính những tay đua nầy là lực lượng tiên tiến, lật đổ Cộng Sản".

Mỗi lần có cuộc tập hợp như ngày quốc hận 30-4, lợi dụng cấp bậc "đại tá" lon lớn nhất, ông nhảy lên bụt giành máy Micro (dù có lúc ban tổ chức không mời), phát biểu dài, nói về những chuyến về thăm quê hương thật là thú vị, rất là tâm đắc khoe là:" khi về tới Việt Nam là có NGƯỜI TA (Việt Cộng) ra đón rất long trọng". Ngay cả lúc thiếu tướng Lê Minh Đảo sang vào năm 2005 lần đầu tiên, trong khi mọi người nói về cách chống Cộng, thì đại tá Hướng nhảy lên, cũng là lối cũ, ông cho biết là: mới về Việt Nam, cổ động mọi người cùng về, hòa hợp hòa giải .... làm cho phái đoàn tướng Đảo và cả những người tham dự bực mình. Tháng 8 năm 1996, lúc đoàn Văn Công Việt Cộng Dạ Lý Hương 2 sang Tây Úc, trong lúc cộng đồng, các tổ chức chống, thì tờ Phổ Thông do Bùi Tấn Chức, khóa 27 Võ Bị Đà Lạt ủng hộ (nghe đâu tay nầy đang sinh sống ở Queensland?) và đại tá Hướng chủ trương: cứ cho họ hát ở sòng bạc Casino, tôi sẽ mời tham vụ ngoại giao Việt Nam đến, họ đặt lá cờ đỏ; còn tôi đặt lá cờ vàng trên bàn chủ tọa, họ hát cho dân ta xem; và sau đó truất một số tiền lời để ủng hộ cho các thương phế binh VNCH, là cách "dùng súng địch để bắn địch". Ông đại tá thường khuyên các quân nhân là: "chống Cộng tế nhị", điển hình là vụ cơn bão Linda, trong lá thư ông viết: "Tại sao Cộng Đồng Người Việt hải ngoại không gửi văn thư cho tòa đại sứ của Hà Nội đề nghị gởi một phái đoàn gồm các đại diện tôn giáo về VN ủy lạo, vừa có tình có nghĩa"

Đại tá Vũ Ngọc Hướng còn có chương trình thành lập tại Việt Nam cái tổ chức gọi là: "Hội Những Người Tàn phế Vì Chiến Tranh" từ Việt Nam, để nhận tiền từ hải ngoại gởi về, chính phủ Hoa Kỳ. Ông cho là: "Hoa kỳ là một trong những kẻ chủ chốt gây ra chiến tranh Việt Nam, còn chúng ta bị tai họa đẫy vào cuộc chiến tương tàn thảm khốc" (ngưng trích từ lá thư gởi anh em thương phế binh ở Việt Nam năm 1997).

Trong lá thư gởi "các chiến hữu" ngày 19 tháng 4 năm 1999, đại tá Hướng có nói đến trường hợp của thiếu tá Nguyễn Văn Thà (Sáu Thà), nguyên quận trưởng Giáo Đức, sang Úc tỵ nạn (ông vừa mới qua đời năm 2007); nói về ông Sáu Thà nhân dịp về Việt Nam thăm quê hương, tìm được vài nghĩa quân phế binh, cần được giúp đỡ. Tuy nhiên đám công an địa phương đến hỏi thăm, khiến ông Sáu Thà hoảng sợ, bèn trở về Úc. Gặp đại tá Vũ Ngọc Hướng để thông báo tình hình, thế là ông bèn liên lạc với Mặt Trận Tổ Quốc ở Hà Nội, với nguyên văn: "Tôi muốn biết rõ sự việc nên nhờ điện thoại về Hà Nội thì ông già Mặt Trận Tổ Quốc trả lời: Nhà nước đang cần ngoại tệ, dân thì nghèo, gởi về giúp là quí là tốt lắm ..... rồi bảo hỏi phòng chánh sở Công An Tiền Giang; sau khi liên lạc về địa phương, trả lời là không có vần đề gì?"

Như vậy, thì cái vụ gởi tiền giúp phế binh quân lực VNCH do hội cựu quân nhân Tây Úc, muốn gởi tiền đến tay các thương phế binh VNCH, thì nên qua tay Mặt Trận Tổ Quốc và Công An ... do đó, sau vụ gây quỹ năm 1998 với thông báo nêu trên, thì đồng hương Tây Úc đã hiểu rõ nên không thiết ta đóng góp. Sau thời gian dài từ 1998 đến năm 2008 ở Tây Úc không có tổ chức gây quỹ nữa; vào tháng 8 năm 2008, mới đây hội cựu quân nhân Tây Úc cũng vừa tái tổ chức gây quỷ giúp phế binh, nghe đâu cũng thu được mớ tiền, đáng hoan nghinh, chúc mừng những người "ăn cơm nhà vác ngà voi" và hy vọng đừng theo vét mòn và sự chỉ đạo của đại tá Vũ Ngọc Hướng và những người khác nằm trong hội, có nhiều ảnh hưởng, hiện là cố vấn của hội.

Việc quyên tiền gởi về giúp cho thương phế binh VNCH còn kẹt ở quê nhà là điều tối cần thiết, vì thời gian làm cho họ kiệt lực, nhiều người đã "trở về với đất mẹ" trong sự nghèo khổ, bạc đãi, trù dập của bạo quyền Việt Cộng, do đó các chiến hữu còn sống thường nhớ đến: "những ngày xưa thân ái" cũng là điều đáng khen ngợi, trong tình người, cũng vừa là "huynh đệ chi binh". Tuy nhiên làm cách nào để gởi tiền đúng và đến tận tay các thương phế binh? Đây là câu hỏi mà nhiều người quan tâm, lý do là thời buổi ngày nay là "THỜI ĐẠI ĐỒ GIẢ", từ bằng cấp giả, tiến sĩ giả, mục sư giả, thầy chùa giả, linh mục giả, đồ giả, lý lịch giả, vú giả, mũi giả, đít giả .... khắp nơi đồ thiệt, giả, dỏm lẫn lộn, thì những hình ảnh, giấy tờ của các phê binh cũng dễ làm giả lắm.

Cách đây không lâu, tại nước Úc, ông bộ trưởng bộ Cựu Chiến Binh liên bang là ông Bruce Scott đã ra thông cáo kêu gọi người Việt Nam tỵ nạn tại Úc hãy tố cáo "những tên Việt Cộng, lấy giấy tờ của quân nhân VNCH để lòn vào, giả mạo, lãnh tiền cấp dưỡng ...". Do đó, các tổ chức quyên góp có chắc chắn là không giúp lầm những tên phế binh Việt Cộng, được đảng và nhà nước giúp đỡ với bộ xã hội, thương binh liệt sĩ và có nhà cửa do chiếm đoạt từ các làng phế binh, trại gia binh sau 1975?. Đây là vấn đề tế nhị và khó khăn, nên các ban cứu xét cũng có thể lầm, ngoài ra còn có thể có một số tổ chức giúp phế binh cuội, lợi dụng danh nghĩa phế binh để làm những chuyện bất chánh. Ở hải ngoại lâu nay, nhiều người từng lầm cái Mặt Trận kháng chiến Hoàng Cơ Minh, thì cái hình thức giúp thương phế binh cũng dễ "ăn khách" lắm.

Đề nghị là các tổ chức quyên góp, sau khi thu được một số tiền, nên tìm đến các nơi đáng tin cậy như sau: binh chủng, gia đình quân đội, các quân trường .... chính các nơi nầy có nhiều người biết rõ những chiến hữu phế binh của họ còn kẹt ở Việt Nam và biết rất rõ: "GIỜ NẦY ANH Ở ĐÂU?". Sau đó hỏi họ có bao nhiêu nhu cầu vì nắm vững danh sách và đưa cho họ gởi dùm, là coi chắc ăn; chớ ban cứu xét, dựa vào hình ảnh, giấy tờ mà gởi, thì e là không chính xác. Từ lâu, nhiều quân trường, binh chủng, đơn vị quân đội đã âm thầm giúp đỡ các bạn đồng ngũ, cùng đơn vị, biết nhau từ trước; chứ không đợi đến những tổ chức đứng lên gây quỷ, như vài hội cựu quân nhân, tổ chức Hội Bạn Thương Phế Binh .... người viết bài nầy cũng là một quân nhân, nên rất mong muốn tiền quyên góp đến tận tay những chiến hữu thương phế binh còn kẹt ở Việt Nam, nên bài viết nầy chỉ nhằm đề cao cảnh giác mà thôi. Đồng tiền làm ra ở nước ngoài cũng "châm lắm" chứ không phải như người "ngồi trên đống vàng", do đó những đồng tiền tình nghĩa cần được gởi đến đúng người. Có ai cảm thấy thoải mái khi biết tiền của mình đóng góp lại lọt vào tay những tên khủng bố Việt Cộng, sau thời gian pháo kích vào khu đông dân cư, bắn sẻ, giựt mìn ... đã bị thương, và những kẻ chiến thắng, từng mạt sát mình sau ngày 30 tháng 4 năm 1975?.

GHI CHÚ: * Nha Sĩ DƯƠNG QUỲNH GIAO, có phòng mạch ở Tây Úc, định cư khá sớm, hình như thập niên 1980? Là người nổi tiếng có tấm long "đại-bác" (tức là lòng bác ái lớn, không phải là súng cành-nông nhé). Bà thường tham gia những cuộc lạc quyên, từ thiện như: giúp thương phế binh, mổ mắt cườm (do cánh của Phước Huệ), giúp người cùi, cám ơn nước Úc .... dù là nha sĩ, nhưng cũng từng tháp tùng phái đoàn "mổ mắt cườm" về tận Việt Nam nhiều lần, chắc là "mắt với răng" có mối "quan hệ hữu cơ" với nhau, như tình hữu nghị Việt-Trung như răng với môi? Bà từng được đài phát thanh SBS đưa lên phỏng vấn nhiều lần. Bà nha sĩ Dương Quỳnh Giao được đại tá Vũ Ngọc Hướng khen ngợi và tặng danh hiệu: "CÔNG NƯƠNG DIANA QUỲNH GIAO".

Những người nào về nước làm từ thiện thường hay sợ Việt Cộng làm khó dễ nếu muốn về tiếp tục công tác giúp người, và họ tự nhận "phi chính trị", nên ít thấy hoặc không thấy những người có tấm lòng "đại bác" đi biểu tình, ngay cả ký tên đòi lại tên Saigon, dù thỉnh nguyện thư nầy gởi cho La Mã, thế mà họ cũng sợ, không dám ký.

Do đó: khi một người làm từ thiện là tập thể người Việt tỵ nạn mất đi một người đấu tranh cho dân chủ, tự do trong nước. Việt Cộng rất "ái mộ" những người làm từ thiện, họ vừa được tiền và vừa làm giảm quân số chống Cộng, thật là thâm độc.

Trương Minh Hòa



Những Lá Bài Bị Cháy !

Lão Móc

Bà Đoan Trang là người ít học nhưng rất "chảnh" thích khoe khoang, tự cao tự đại. Khi còn cộng tác với đài phát thanh Quê Hương, nghe bà ta khoe là bà ta là học trò của Giáo sư Nguyễn Văn Canh, Lão Móc đã phải quay mặt nhìn đi nơi khác. Khả năng về chính trị của bà ta, trước năm 1975 chỉ quanh quẩn trại gia binh Hoàng Hoa Thám và hiện nay, chỉ khoanh vùng từ tư gia của bà ta đến đài phát thanh Quê Hương (mà ông nhà thơ TANG PHÁP SƯ gọi là HANG BẠCH LỘ, xin xem bài thơ của ông này trong mục Đàn Ngang Cung).

Trong quyển tự truyện THẾ LỰC ĐEN, bà Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đã có nhận xét rất chính xác về bà Đoan Trang như sau: "Cái khuyết điểm của Đoan Trang là tự coi mình trên thiên hạ, coi truyền thông là Cha Mẹ đẻ ra Anh Hùng, nặn ra Chiến Sĩ. Chị cũng tự cho mình có quyền năng quyết định sinh mệnh Chính trị của từng cá nhân theo cái kiểu "THUẬN TA THÌ SỐNG, CHỐNG TA THÌ CHẾT." ( Trích Thế Lực Đen, trang 48).

Như mọi người đều biết, bà Đoan Trang là người đã từng tranh luận công khai với ông Tô Văn Lai về vụ băng nhạc Thuý Nga Paris By Night số 40 mà mọi người còn gọi là băng B.40 là một thứ vũ khí công phá xe tăng. Bà ĐT cũng đã từng thách thức tranh luận với các ông Vũ Bình Nghi, Đỗ Vẫn Trọn, Cao Sơn, Lê Văn Hải, Hùng Sơn về chuyện mấy ông này vu cáo xướng ngôn viên Lê Hùng của đài phát thanh Quê Hương đem tiền qua Phi Luật Tân giúp Làng Việt Nam đã quen biết và "chơi chạy" với một nữ thuyền nhân tên Thúy tại Bataan. Bà ĐT đã thách thức rất hùng hổ, hung hăng khiến mấy ông này sợ quá, khiến ông nào ông nấy đều bị bệnh phải ngậm… NGẢI DỐNG! Theo tiết lộ của đồng nghiệp Ký Còm (ông này có dặn Lão Móc là nghe rồi đừng có nói lại cho ai nghe) là cho tới bây giờ nghe tới tên bà ĐT là bệnh cũ lại tái phát!

Và, như mọi người đều biết, bà ĐT đã tổ chức "Diễn Đàn Công Luận" cho Hoàng Duy Hùng và Phạm Văn Thành thách thức Mặt Trận Hoàng Cơ Minh (MT) tranh luận, nhưng các ông Mặt Trận (tức đảng Việt Tân hiện nay) đã không dám tới.

Và trên đài phát thanh Quê Hương, trong khi thách thức MT, chính Hoàng Duy Hùng đã xấc xược tuyên bố một câu xanh dờn: "AI DÁM ĐẾN DIỄN ĐÀN CÔNG LUẬN, NGƯỜI ĐÓ LÀ PHƯỢNG HOÀNG VỖ CÁNH. AI KHÔNG DÁM ĐẾN THÌ LÀ LOÀI CHÓ GHẺ SỦA TRĂNG, LÀ CHÓ SỦA TRONG HÀNG RÀO."

Câu nói định mệnh này bây giờ đã vận vào Hoàng Duy Hùng và ông bà Đoan Trang, Nguyên Khôi.

Tội nghiệp bà ĐT, bà Ngọc Hạnh không có viết một chữ nào nói là ĐT là Việt Cộng nhưng bà Đoan Trang lại "vơ vào" bảo bà Ngọc Hạnh tố cáo bà là "tình báo Việt Cộng". Bà Ngọc Hạnh chỉ có viết: "Theo tôi, Đoan Trang không thể nào là Việt Cộng như nhận xét của một số người. Có thể nói Đoan Trang là người đàn bà nhiều tham vọng, rất cao ngạo - một nàng Mỵ Châu bên cạnh chàng Trọng Thủy, và An Dương Vương có kẻ thù đàng sau lưng!" (TLĐ, TRANG 48).

Không ai ưa "nhà thơ nô dịch" Tố Hữu của "nền văn chương cũi sắt" với những câu thơ khóc Xít-Tả-Lìn "thương cha, thương mẹ, thương chồng/Thương mình thương một, thương ông thương mười", nhưng, chắc không ai "ghét" những câu thơ:

"Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm lỡ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nổi cơ đồ lắm bể dâu!"

Không biết nàng "Mỵ Châu" Đoan Trang có trao lầm "nỏ thần" cho "Trọng Thủy" Nguyên Khôi hay không, nhưng coi bộ qua những lời tố cáo của NTNH trong quyển tự truyện Thế Lực Đen thì quả tình cộng đồng người Việt tỵ nạn tại Bắc California cũng đã "LẮM BỂ DÂU" vì chuyện cặp vợ chồng "rổ rá cạp lại" này ra sức đánh phá cộng đồng rất cật lực để bằng mọi cách bênh vực cho bà NV "ăn cháo đái bát" Madison Nguyễn.

Quả tình những lời tuyên bố xấc xược năm nào của HDH đã vận vào chính ông ta và nhất là ông bà Đoan Trang, Nguyên Khôi.

Ông bà ta có câu: "Sông có khúc, người có lúc". Cái thời đài Quê Hương là Cha Mẹ "đẻ" ra Anh Hùng, "nặn" ra Chiến Sĩ" – nói theo cách nói của bà Ngọc Hạnh - đã hết! Bà Ngọc Hạnh, đã viết trong quyển tự truyện Thế Lực Đen là các ông Hoàng Duy Hùng, Nguyên Khôi và bà Đoan Trang coi bà (NH) như là "một người nhà quê", là "dân chăn trâu, cắt cỏ" nhưng với NHỮNG SỰ THẬT mà bà "chăn trâu cắt cỏ" Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đã viết trong quyển Thế Lực Đen đã vạch rõ bộ mặt trần trụi của Hoàng Duy Hùng và cặp vợ chồng Đoan Trang, Nguyên Khôi khiến ông bà này đã "có miệng ăn mà KHÔNG CÒN MIỆNG NÓI!"

Bởi vì không phải chỉ một mình bà NTNH tố cáo mà chính một người trong cuộc là ông Phạm Văn Thành, người mà trước kia bà Đoan Trang "hết lòng bảo vệ" đầu năm 2007 đã tung lên Net tố cáo Hoàng Duy Hùng nhận tiền của Cộng sản Việt Nam như sau:
"… Tôi nói rõ ràng rằng NGƯỜI ĐƯA TẤM CHEQUE 100 ngàn là NGƯỜI LÀM VIỆC CHO HỆ THỐNG AN NINH CỘNG SẢN. Qua trung gian người này, ông Hùng không chỉ nhận 100 ngàn – mà còn dai dẳng mãi cho đến nay. Tháng Tám họ chuyển 100 ngàn, ông Hùng bỏ vào công băng của ông Hùng, ngay sau đó chưa đầy một tháng, ông Hùng lại nhận thêm trên 200 ngàn. Sau này tôi không rõ chi tiết là bao nhiêu, NHƯNG CHÍNH BÀ ĐOAN TRANG CÒN XÁC NHẬN VỚI TÔI (2004) là mỗi tháng, nguồn tài trợ này vẫn chi cho ông Hùng khoảng 4 ngàn hàng tháng."

Không biết bà Đoan Trang có ý kiến như thế nào về lời lên tiếng của ông Phạm Văn Thành, là người đã được bà mở "Diễn Đàn Công Luận" để cùng với Hoàng Duy Hùng LỘT MẶT NẠ MẶT TRẬN? Hay cũng lại là chuyện hoang tưởng, vô ơn, bạc nghĩa của một kẻ tự "nặn tượng, đúc bệ" cho chính mình – như bà Đoan Trang đã đọc bằng cái giọng gầm gừ thâm hiểm khi nói về bà Nguyễn Thị Ngọc Hạnh?!

Bà Ngọc Hạnh này cũng kỳ thiệt! Ỷ mình là dân "chân trâu cắt cỏ" đã NHÈ "PHƯỢNG HOÀNG CHỐNG CỘNG" Đoan Trang mà VẶT LÔNG, báo hại BÀ NÀY ĐÃ HIỆN NGUYÊN HÌNH là "CON CHIM LE LE CHỐNG CỘNG ĐỒNG"… BỊ BỆNH CÚM GÀ H5N1!

Trong lúc đó thì Tổng-Thống-to-be Hoàng Duy Hùng cũng đã là một LÁ BÀI BỊ CHÁY THÊ THẢM! Nhiều người đã VẠCH MẶT HOÀNG DUY HÙNG trên các diễn đàn điện tử.

Ông Nguyễn Phước Đáng ở San Jose lên tiếng tố cáo Hoàng Duy Hùng và Phạm Văn Thành nhận 130.000 đô-la từ ông "Big Boss" Kelvin Khánh và đã ĐỔ THỪA là đã chuyển cho khối Phật Giáo Hòa Hảo để làm một Thiên An Môn ở Việt Nam [sic!] với mục đích vu cáo cho tôn giáo này.

Ông Vũ Trọng Khải thì đã vạch trần thủ đoạn của báo Công An Nhân Dân phổ biến bài "Kẻ phá hoại cuộc sống của người Việt trên đất Mỹ" VỚI MỤC ĐÍCH ĐÁNH BÓNG và GỠ TỘI ĐẦU HÀNG VIỆT CỘNG vì CON BÀI HOÀNG DUY HÙNG ĐANG BỊ CHÁY tại hải ngoại.

Trong quyển tự truyện Thế Lực Đen, bà NTNH đã viết là "ông Khánh muốn đẩy HDH lên vị trí LÃNH ĐẠO CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TẠI HẢI NGOẠI ĐỂ SAU NÀY VỀ LÀM TỔNG THỐNG VIỆT NAM.."

Bước đầu, Hoàng Duy Hùng đã nắm chức Chủ Tịch Ban Đại Diện Cộng Đồng Người Việt Houston và vùng phụ cận. Đây là "thánh địa" của đảng Việt Tân. Ông Vũ Trọng Khải đã đặt ra một câu hỏi rất đáng quan tâm: Vì sao Ban Đại Diện CĐNV Houston đã rút lui để Hoàng Duy Hùng ra ứng cử độc diễn? Hoàng Duy Hùng đã đánh phá MT (trước kia) tức đảng Việt Tân (hiện nay), THẾ LỰC NÀO ĐÃ BẮT BUỘC đảng Việt Tân phải NUỐT NHỤC NGÀY XƯA để cho Hoàng Duy Hùng làm chuyện LIẾM LẠI?!
Tại San Jose, Bắc California cũng thế, THẾ LỰC NÀO đã khiến ông bà Đoan Trang, Nguyên Khôi đã phải xum xoe, bợ đỡ, phỏng vấn "anh hề chính trị" Hoàng Thế Dân của đảng Việt Tân, là đảng phái mà trước kia bà Đoan Trang coi như là kẻ thù không đội trời chung? Và đảng này cũng đã đánh phá bà Đoan Trang rất là cật lực khi bà doctor-to-be Trần Diệu Chân (lúc đó) phải "dận chiêu" triệu hồi hương linh cố Đề Đốc Hoàng Cơ Minh về để cùng đứng đơn kiện bà Đoan Trang lên chủ nhân Tổng đài AM-120 và cơ quan FCC.

Vì sao đảng Việt Tân ở Houston cũng như đảng Việt Tân ở San Jose đã phải nuốt nhục để cho Hoàng Duy Hùng, Đoan Trang, Nguyên Khôi làm chuyện NHỔ RỒI LẠI LIẾM?!
Phải chăng tất cả những con bài Hoàng Duy Hùng, Đoan Trang, Nguyên Khôi và các đảng phái xôi thịt đang bốc cháy trước sức mạnh của LẼ PHẢI và SỰ THẬT của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại.

*

Chuyện làm nhiều người ở San Jose ngạc nhiên, vô cùng ngạc nhiên là vì sao ngay sau khi bà NV "ăn cháo đái bát" Madison Nguyễn làm những chuyện "bất trung, bất nghĩa, bất lễ, bất trí, bất tín" là đã phản bội lại nguyện vọng của đa số cử tri người Mỹ gốc Việt trong vụ Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng, rồi đến vụ đặt tên cho khu thương mại trên đường Story nói là để vinh danh cộng đồng người Mỹ gốc Việt, thì đài phát thanh Quê Hương đã đánh phá một cách khốc liệt những người mà trước kia đài phát thanh Quê Hương đã lợi dụng uy tín của họ như nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, các nhà tranh đấu dân chủ Lý Tống, Nguyễn Thị Ngọc Hạnh mà trước kia đài Quê Hương đã coi như những biểu tượng?

Nguyên nhân nào mà bà Đoan Trang đã tìm mọi cách vu vạ, bịa đặt để đánh phá Ủy Ban Vận Động Chọn Tên Little Saigon, Phòng Trào Cử Tri San Jose Đòi Dân Chủ và hiện nay là Ủy Ban Bãi Nhiệm? Nguyên nhân nào mà ông bà Đoan Trang, Nguyên Khôi đã tìm mọi cách vu vạ, bịa đặt để đánh phá ông Chủ Tịch Cộng Đồng VN/BC Nguyễn Ngọc Tiên, ông Kiêm Ái, cá nhân chúng tôi (Nguyễn Thiếu Nhẫn) và tuần báo Tiếng Dân còn khốc liệt hơn khi đánh Việt Cộng?

Nguyên nhân nào đã khiến bà Đoan Trang ngoảnh mặt, quay lưng lại với những thính giả của đài là những người lớn tuổi đã xin tiền của con cháu, tiền già, những người đã đáp hai, ba chuyến xe buýt để đến đài "đóng tiền cho cô Đoan Trang chống Cộng"?

Xin thưa, bà Đoan Trang đã trả lời một cách thẳng thừng với nhà thơ Nguyễn Chí Thiện là bà ta "không cần những người cũ" vì bà ta ĐÃ CÓ NHỮNG NGƯỜI MỚI!

Phải chăng vì bà "nhà quê chăn trâu cắt cỏ" Nguyễn Thị Ngọc Hạnh qua quyển tự truyện Thế Lực Đen, đã VẶT LÔNG, BẼ GIÒ nên "PHƯỢNG HOÀNG CHỐNG CỘNG" ĐOAN TRANG đã hiện nguyên hình là "CON LE LE CHỐNG CỘNG ĐỒNG" BỊ CÚM GÀ H5N1?!

Và, mọi người đã thấy rõ Hoàng Duy Hùng, Đoan Trang, Nguyên Khôi và cả bà NV "ăn cháo đái bát" Madison và bọn người mà sử gia Tư Mã Thiên gọi là "bồi thần" (là bọn tay sai của lũ tay sai) là NHỮNG LÁ BÀI ĐANG BỊ CHÁY!

Lão Móc

Nhìn Lại 50 Năm Công Hàm Phạm Văn Đồng

Lê Vĩnh

Ngày 4 tháng 9 năm l958 Chính Phủ Trung Quốc ra tuyên cáo mở rộng lãnh hải của họ từ 3 hải lý thành 12 hải lý, áp dụng cho tất cả các lãnh thổ và hải đảo của Trung Quốc, trong đó họ bao gồm cả Tây Sa và Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt nam). Mười ngày sau, ông Phạm Văn Đồng, thủ tướng cộng sản Việt Nam, gửi công hàm cho thủ tướng Chu Ân Lai của Trung Quốc, tán thành tuyên cáo nói trên, mà không hề có lời phản bác nào trước việc Trung Quốc ngang nhiên xem Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ của họ. Hơn một tuần sau, báo Nhân dân ra ngày 22 tháng 9 đăng toàn văn công hàm vừa kể, để toàn đảng, toàn dân và thế giới biết hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ nay không còn là của Việt Nam nữa.

Bức công hàm tuy chỉ dài 121 chữ, nhưng nói rất rõ là chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà, tức Cộng sản Việt nam, chẳng những "ghi nhận", "tán thành" mà còn chỉ thị cho các cấp "triệt để tôn trọng" hải phận của Trung Quốc bao gồm cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa. Như vậy, ngay trên văn bản này, ông Phạm Văn Đồng đã không nhân danh cá nhân ông, mà thay mặt cho chính phủ cộng sản Việt Nam ký kết. Trên thực tế, trong cương vị Thủ tướng, ông Phạm văn Đồng phải là người ký công hàm. Nhưng người ta đều biết, ông ta không phải là người tự quyết định, mà chỉ thừa hành quyết định chung của 11 người trong Bộ Chính trị hồi đó, mà người đứng đầu là ông Hồ Chí Minh. Sau 32 năm ngồi ghế thủ tướng, khi về vườn, ông Phạm Văn Đồng đã gián tiếp xác nhận điều này qua lời than thở rằng, ông chẳng có quyền hành gì cả.

Sau này, vào những năm cuối đời, ông Phạm Văn Đồng biện bạch cho việc ông phải ký công hàm bán nước năm 1958 là vì lúc đó đang thời chiến. Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm cũng đã đưa ra những lời biện bạch tương tự, và được Thông tấn xã Việt Nam loan ngày 3 tháng 12 năm 1992. Ông Nguyễn Mạnh Cầm cho rằng, việc Cộng Sản Việt Nam ủng hộ Trung Quốc công bố chủ quyền của họ trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là cần thiết, vì nó phục vụ cho cuộc chiến bảo vệ tổ quốc. Cả hai lời biện bạch này vừa là những lời nói dối, vừa cho thấy sai lầm to lớn của đảng cộng sản Việt Nam, căn nguyên đưa đến sự bại liệt của nước ta hiện nay. Vào năm 1958 không có cuộc chiến tranh nào cả. Lúc đó miền Nam chỉ có một ít cố vấn Mỹ, không nhiều gì hơn số cố vấn Nga, Tàu ở miền bắc. Nhưng đảng cộng sản Việt Nam đã hoạch định cuộc xâm lăng miền Nam, gọi là cuộc chiến "chống Mỹ cứu nước" tại đại hội đảng lần thứ 3, năm 1959. Chính cuộc chiến mà ông Hồ Chí Minh và nhóm lãnh đạo cộng sản nhất định phải tiến hành cho bằng được, dù có phải "đốt cháy cả dãy Trường Sơn", đã tàn phá đất nước, làm kiệt quệ sinh lực dân tộc. Rồi sau đó, với những sai lầm liên tiếp khác, đảng cộng sản Việt nam đã đưa đất nước xuống hố sâu của sự khánh kiệt mọi mặt; đành phải thúc thủ trước sự hung hăng của Trung Quốc. Ngày nay người ta đều phải thừa nhận là, miền nam trước kia, dù phải chịu đựng chiến tranh, nhưng cũng đã phát triển ngang hàng hoặc hơn các nước trong vùng. Nếu Hà Nội đừng gây ra cuộc chiến (*), thì đến nay chắc chắn miền Nam đã phát triển, hùng cường không thua kém gì Đại Hàn. Trong tình hình đó, liệu Trung Quốc có dám khinh thường Việt Nam như hiện nay không?

Trở lại bức công hàm bán nước năm 1958; 20 năm sau; bộ ngoại giao của Hà Nội ra tuyên bố cho rằng, công hàm đó chỉ mang tính chất ngoại giao. Cùng năm đó, báo chí đăng tin ông Lý Tiên Niệm, phó thủ tướng Trung Quốc nói rằng: "80 năm sau Trung Quốc mới nói chuyện Hoàng sa, Trường Sa với Việt Nam". Lời tuyên bố này khiến người ta phải tự hỏi, liệu còn những mật ước dâng nhượng đất đai khác của Hà Nội mà Bắc Kinh chưa tiết lộ không? Nhìn vào sự thậm thụt của cộng sản Việt Nam trong các hiệp định trên bộ năm 1999 và trên biển năm 2000, thì nghi vấn vừa kể không phải là vô căn cứ. Thỉnh thoảng, khi không bằng lòng đàn em ở Hà Nội, Bắc Kinh lại xì ra thêm một vài dữ kiện, mà Hà Nội phải ngậm bổ hòn làm ngọt.

Thực ra, công hàm năm 1958 không phải là dữ kiện duy nhất về sự bán nước của cộng sản Việt Nam. Tháng 02 năm 1972, cục Đo Đạc và Bản Đồ thuộc phủ thủ tướng Cộng Sản Việt nam, khi ấn hành bản đồ thế giới đã xóa tên Hoàng Sa và Trường Sa, thay vào đó là tên Tây Sa và Nam Sa. Trong khi đó, thư viện của trung Hoa Dân Quốc (tức Đài Loan) vẽ bản đồ Việt Nam từ năm 1947, có cả Hoàng sa và Trường Sa. Tháng 5 năm 1976 báo Saigon Giải Phóng, trong bài bình luận việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng võ lực hồi tháng giêng năm 1974, đã viết rằng: "Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí, mà còn là người thầy tin cẩn đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy chủ quyền Hoàng Sa thuộc Việt Nam hay thuộc Trung Quốc cũng vậy thôi!". Sách địa lý xuất bản năm 1974; trong bài "Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa" có viết rằng "chuỗi hải đảo từ Nam Sa (Trường Sa) và Tây Sa (Hoàng Sa) tới Hải Nam và Đài Loan là bức tường thành bảo vệ lục địa Trung Quốc".

Nhìn lại 50 năm, khởi đi từ bức công hàm bán nước năm 1958, và các hành vi bán nước khác của đảng cộng sản Việt Nam sau đó, cùng với những sai lầm nghiêm trọng, đã làm cho đất nước suy vong, dân tộc mất sức đề kháng ngoại xâm, điều người ta khẳng định được là, không ai khác, chính Đảng Cộng Sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử về tình trạng này. Trong đó, dù muốn dù không, công hàm năm 1958 tự nó đã vô hiệu hoá chủ quyền chính đáng của Việt nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Kéo theo những thiệt hại khác của dân tộc. Do đó, văn bản này cần phải được huỷ bỏ. Đây là điều cộng sản Việt Nam phải thực hiện, hầu phần nào chuộc tội bán nước mà đảng đã làm từ nửa thế kỷ qua.

Lê Vĩnh

(*) Vào năm 1970, hai năm sau biến cố tết Mậu Thân, lực lượng cộng sản tại miền nam gần như bị tiêu diệt. Hạ tầng cơ sở của việt cộng cài cắm tại miền Nam hoàn toàn bị bị bật gốc. Chương trình bình định phát triển của Việt Nam Cộng Hoà tiến triển tốt đẹp. Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Văn Thiệu lúc đó đã đưa ra lời kêu gọi miền bắc hãy ngưng chiến tranh. Hai miền nam bắc thi đua phát triển đất nước, thi đua đem lại phúc lợi cho người dân. Nhưng cộng sản Việt Nam đã đáp ứng lời kêu gọi này bằng việc tăng cường xâm nhập người và vũ khí vào miền Nam, gia tăng cường độ chiến tranh vào những năm sau đó.

Monday, September 15, 2008

Joseph Biden: Kẻ Quyết Tâm Không Cho Người Việt Vào Mỹ Tháng 4-1975


TẠI SAO CHÚNG TA PHẢI BẦU CHO ĐƯƠNG SỰ TRONG THÁNG 11-2008?

Từ vài năm trở lại đây, báo chí Mỹ đã không ngớt phanh phui những bê bối của nhiều chính khách Hoa Kỳ, trong số này đáng kể có cố Tổng Thống Franklin Roosevelt, John F.Kennedy, Lyndon Johnson ... nhưng nặng lời nhất vẫn là Bill Clinton đã bất chấp tư cách, đạo đức, làm rất nhiều chuyện bê bối, liên quan tới tình dục, tiền bạc và còn dám nói dối trước luật pháp và quốc dân để chạy tội.

Xưa nay bất kỳ quốc gia nào cũng vậy (ngoại trừ các nước độc tài đảng trị cộng sản), vị nguyên thủ luôn được xem là tấm gương phản chiếu của mọi người. Nhưng qua các sự kiện đã xẩy ra gần đây trên chính trường Mỹ nhất là dưới triều đại Tổng Thống Bill Clinton, làm các nhà lãnh đạo tinh thần ngao ngán. Riêng các sử gia thì cho rằng, xu hướng chính trị ngày nay của Hoa Kỳ, thật sự đã suy đồi về đạo đức nên không còn mấy ai tin vào lời nói của các chính trị gia. Bởi vậy tổng thống hay gì gì chăng nửa, đối với người Mỹ đã mất đi sự tôn kính của một lãnh tụ đạo đức như thuở nào. Cho nên việc thượng nghị sĩ Barack Obama ứng viên của đảng Dân Chủ, tuy chưa đắc cử tổng thống nhưng đã hứa hẹn quá nhiều chuyện không hợp với thực tế, xét cho cùng cũng là chuyện bình thường tại quốc gia này.

Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ lần thứ 44 vào tháng 11-2004 giữa đương kim Tổng Thống G. W. Bush của đảng Cộng Hòa và Thượng Nghị sĩ John Kerry đại diện Ðảng Dân Chủ. Nhưng Kerry lại có quá nhiều nợ nần với cộng đồng Người Việt Tỵ Nan Cộng Sản tại Hoa Kỳ, mà quan trọng nhất là việc y đã lợi dụng chức vụ, công khai ém nhẹm ”DỰ LUẬT NHÂN QUYỀN VN” được Hạ Viện thông qua với số phiếu thuận gần như tuyệt đối.

Dù hầu hết người Việt vì sinh kế cũng như hoàn cảnh, ít muốn quan tâm tới chính trị, nhưng lần đó nghe tin Kerry ra tranh ghế Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ 2004-2008. Lập tức một luồng sóng chống đối đã nổi lên, không riêng gì người Việt mà cả giới cựu chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến tại VN cũng nhập cuộc. Tất cả cũng vì hành động phản bội của Kerry dù hắn là một Trung Úy Hải Quân Mỹ, đã phục vụ ba năm tại Kiến Hòa, sau đó bị thương nên được giải ngũ năm 1970. Thời gian này, sinh viên Mỹ qua sự xúi giục của Cộng Sản quốc tế, đã biểu tình phản chiến khắp nơi mà đầu não chỉ huy tại Ðại Học Kent State, thuộc tiểu bang Ohio. Người đứng trong hậu trường giựt dây là Giáo sư Tiến sĩ Sidney Jackson, một đảng viên cộng sản Mỹ. Lúc đó Kerry là một lãnh tụ phản chiến, hô hào mọi người chống chiến tranh VN, đồng thời công khai thóa mạ và làm nhục quân đội Hoa Kỳ trước đám đông để lấy điểm và nổi tiếng, mặc kệ cho thảm kịch xảy ra nước Mỹ rút quân, miền nam VN bị Cộng sản quốc tế cưỡng chiếm bằng bạo lực vào trưa ngày 30-4-1975.

Tháng 11 năm 1980 Ronald Reagan (đảng Cộng Hòa), đánh bại đương kim tổng thống Jimmy Carter (Ðảng Dân Chủ). Sự kiện trên làm nức lòng nhiều người tị nạn, vì trong thâm tâm họ vẫn còn mang ảo tưởng, là tổng thống của Ðảng Cộng Hòa sẽ đưa quân Mỹ trở lại VN, để tiêu diệt Việt Cộng. Nhưng rồi thời gian nước chảy qua cầu, tổng thống dân chủ hay cộng hòa, vẫn phải để quyền lợi của nước Mỹ lên trên hết. Rồi thì lo đền ơn đáp nghĩa cho các nguồn tài trợ lúc vận động bầu cử, để còn có lần sau. Nói rõ hơn, vì quyền lợi nước Mỹ có thể buôn bán với kẻ thù của nhân loại để kiếm lời. Ðó là một nguyên lý, một thứ chính trị con buôn của nước Mỹ.

Người Việt tỵ nạn VC tại Hoa Kỳ hiện nay rất đông đảo. Nhiều người đã có quốc tịch. Ngoài ra chúng ta đã có nhiều người chen được vào guồng máy chính quyền. Thế đứng của người Việt tuy ít so với nhiều cộng đồng sắc tộc khác, nhưng ngược lại rất được nể trọng vì tư cách và trách nhiệm của hầu hết người Việt tại Hoa Kỳ. Do trên chúng ta đã đạt được nhiều thắng lợi chính trị, như vụ hạ cờ máu và hình Hồ quốc tặc do Trần Trường chủ xướng tai Nam CA. Ðồng thời đã được nhiều tiểu bang Mỹ vinh danh lá cờ vàng ba sọc đỏ, các lần biểu tình đả đảo những tên chóp bu VC như Phan Văn Khải, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng tới Hoa Kỳ rất thành công và mang đầy ý nghĩa .

Tóm lại cử tri Mỹ nhìn sự việc như thế nào, để chọn mặt gửi vàng là quyền của họ. Riêng chúng ta phải DÙNG LÁ PHIẾU CỦA MÌNH sao cho xứng đáng và hợp lý, để không ray rứt và hối hận như vụ Madison Nguyễn tại San José.

Phương chi lần này ông Obama, ứng viên tổng thống của đảng Dân Chủ lại chọn Joseph Biden là thượng nghị sĩ thuộc tiểu bang Delaware làm ứng viên phó tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 2008-2012. Vậy trước khi dùng lá phiếu của mình để chọn mặt gửi vàng, người Việt tỵ nạn cộng sản, nhất là những thế hệ đầu tiên tới Mỹ sau khi Miền Nam VN sụp đổ vào đầu tháng 5-1975, nên nhận diện rõ ràng về nhân vật Joseph Biden: Kẻ quyết tâm không cho bất cứ một người Việt nào được nhập cảnh Hoa Kỳ vào thời điểm đó.

1. SÀI GÒN, NHỮNG PHÚT GIỜ HẤP HỐI:

Hai mươi năm chinh chiến bao giờ cũng vậy, tới lúc cuối cùng chờ chết vẫn là người lính trận và đồng bào nghèo, không có phương tiện để vượt thoát khỏi cảnh bom đạn. Lính chết thật oan khiên vì chiến đấu trong đơn độc, không có đồng minh cũng như đồng đội yểm trợ, vì vào giờ thứ 25, đâu có ai ngu như người lính VNCH, ở lại chết để không có tiền tử tuất, kể cả chiếc quan tài vùi thây đời lính. Biết nghĩ như vậy, những ai còn sống sót tới ngày hôm nay, phải nhỏ một giọt nước mắt, dù muộn màng để cảm ơn họ.

Người lính Miền Nam bi hùng là thế đó, như vậy làm sao bảo họ phải chiến thắng khối cộng sản đệ tam quốc tế, trong đó có Liên-Xô và Trung Cộng? Người lính đã ở lại tới giờ phút cuối cùng vào trưa ngày 30-4-1975, đã là anh hùng. Thử hỏi có quân đội nào anh hùng hơn, kể cả quân Pháp, Ðức, Anh trong Thế chiến 2.

Sau khi Hoa Kỳ cùng Bắc Việt đồng thuận ngụy tạo cuộc ngưng bắn bịp vào tháng 2-1973, chấm dứt sự hiện hữu của Mỹ tại chiến trường. Cũng từ đó, QLVNCH bị đem con bỏ chợ, chiến đấu trong thiếu thốn, thiếu cấp chỉ huy trên thượng tầng, thiếu đạn dược, thuốc men, xăng nhớt, các quân dụng khiến cho nhiều phi cơ, chiến xa phải nằm ụ vì không có cơ phận sửa chữa hay thay thế. Tóm lại mọi sự đều do người bạn đồng minh Hoa Kỳ tạo ra, như cắt quân viện, bội ước lời thề “một đổi một” được chính siêu cường ký nói hứa hẹn bằng giấy trắng mực đen.

Sài Gòn đã bắt đầu xáo trộn từ tháng 3-1975, ngay lúc miền Trung bị mất qua quyết định sai lầm rút bỏ quân đoàn I và II của TT.Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tứớng Trần Thiện Khiêm và Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu trưởng QLVNCH lúc đó. Ngày 21-4-1975 Tổng Thiệu qua áp lực của Mỹ, muốn thay ngựa theo ý của cộng sản Bắc Việt, để hòa hợp hòa giải, nên ông phải tuyên bố từ chức tổng thống trong lúc đất nước nguy ngập, ngàn cân treo chỉ mành và đã cùng Thủ tướng Khiêm, được Tòa Ðại Sứ Mỹ đưa ra khỏi Sài Gòn, tới Ðài Bắc trong đêm tối bằng máy bay quân sự.

VNCH đang lúc lâm nguy vì thù trong giặc ngoài. Cả triệu quân, công, cán, cảnh … lúc đó đang xả thân dùng xác người thay súng đạn Mỹ, làm công sự cản xe tăng hứng đạn pháo của cộng sản khắp mọi nẻo đường dẫn vào thủ đô. Nhưng dù gặp khó khăn nguy hiểm, các lộ quân còn lại của VNCH vẫn cản nổi quân xâm lăng Bắc Việt, trên khắp các tuyến đường dẫn vào Sài Gòn. Chính hành động phi thường này, nên dù VNCH không còn nữa, vẫn được thế giới ngợi khen và kính phục, như Peter Kohn đã viết trên tờ the Wall Street Journal: “Quân đội VNCH là một quân đội can đảm và chiến đấu lão luyện. Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi trên nhiều địa danh, mà người Mỹ hoặc thế giới biết hay chưa biết tới. Quân đội ấy đã hào hùng ngạo nghễ với địch, qua hàng ngàn chiến trận, tiền đồn hẻo lánh hiu hắt. Quân đội ấy không được trang bị như quân Mỹ hay bộ đội cộng sản Hà Nội. Thế nhưng từ khi Hoa Kỳ rút quân về nước hay lúc đầu quân Mỹ chưa vào VN, vẫn hiên ngang chiến đấu trong suốt 20 năm khói lửa, gần như bảo toàn trọn lãnh thổ của cha ông, từ phía bên này vỹ tuyến 17 cho tới Cà Mâu, đến khi bị Việt gian đâm sau lưng, VC bắn trước mặt, mới đành để mất non sông vào tay đệ tam cộng sản quốc tế.”

Cũng vì phải chiến đấu khắp các mặt trận, nên đã có hằng trăm ngàn người lính phải chết, hằng triệu thương phế binh, cô nhi quả phụ. Tới giờ phút cuối cùng, đã biết nước sắp mất, chết chỉ thêm uổng mạng nhưng họ vẫn hiên ngang chiến đấu tại Khánh Dương, Phan Rang, Phan Thiết, Xuân Lộc, Long An, Tây Ninh, Củ Chi, Biên Hòa và Sài Gòn. Tất cả đều là những chiến tích để đời và lưu danh thiên cổ trong dòng sử Việt

Cuối cùng trong giờ thứ 25, QLVNCH đã xử sự một cách mã thượng anh hùng. Thay vì dùng vũ lực bắt trọn Toà Ðại Sứ và Cơ Quan DAO làm con tin như Iran đã từng làm, để gây áp lực bắt Hoa Kỳ phải giữ lời hứa, dùng B52 đuổi bộ đội cộng sản rúr về phía bên kia vỹ tuyến 17 như Hiệp định Geneve năm 1954 và 1973 quy định. Nhưng họ vẫn không làm như vậy, vẫn tôn trọng kỷ luật quân đội, biểu lộ nét hào hùng văn hiến ngàn đời của một dân tộc có văn minh văn hóa Hồng-Lạc, khi cố gắng phòng thủ và tiếp tục chiến đấu khắp nơi, giúp cho Mỹ và những đồng đội, cấp chỉ huy hèn nhát, bỏ chạy khỏi nước một cách an toàn, trước khi giặc Hồ vào Sài Gòn trưa 30-4-1975. Họ đáng được ca tụng và kính phục.

Sài Gòn đã chết từ đó, dân chúng thành đô dửng dưng trước chủ mới. Cùng lúc, có nhiều con khỉ trong sở thú, vừa được sổ chuồng, cổ quàng khăn đỏ, tay phất cờ máu, trang bị súng đạn lượm được của lính bõ bên vệ đường, chễm chệ trên các xe quân đội, tung tăng múa rối khắp đường phố, cổ võ, làm oai, hoan hô, đã đảo một cách lố bịch.

Trưa đó 125 nhà báo ngoại quốc còn nán lại, đổ xô tới chiêm ngưỡng những anh hùng cách mạng, mà từ năm 1960-1975, họ đã không ngớt xưng tụng và tô son đánh phấn khắp thế giới không tiếc lời. Nhưng sự thật đã làm té ngửa các trái tim thú vật, khi biết được tất cả chỉ là sự tuyên truyền lừa bịp của miệng lưỡi cộng sản, mục đích để cho thế giới có thành kiến không tốt và ghét bỏ VNCH. Có như vậy họ mới bỉ ổi ca tụng một chiều cuộc xâm lăng miền Nam của Bắc Việt, mà không cần phải tìm hiểu sự thật. Từ đó, thế giới mới bắt đầu tỉnh ngộ và chịu viết về một sự thật mà họ 1ã cố tình dấu diếm: “Không có ai là người miền nam, tất cả đều là bộ đội miền bắc, trong tập đoàn đệ tam cọng sản quốc tế, do Liên Xô-Trung Cộng cầm đầu.”

Ba mươi ba năm qua, hầu hết đồng bào VN trong cũng như ngoài nước tan nát cửa nhà sau cuộc đổi đời không bao giờ dám nghĩ là sẽ có. Nên cứ mỗi lần tháng tư quốc hận tới, cho dù ai chăng nữa, đại đa số người dân sống thầm lặng bên vệ đường thời gian hay thiểu số dấn thân trên con đường đấu tranh quang phục đất nước, đều mang chung tâm trang bi thương, tức tưởi, ngậm ngùi.

Ba mươi ba năm trước hay bây giờ, người Mỹ cũng chỉ nghĩ đến quyền lợi của quốc gia mình mà thôi. Bởi vậy muốn đem quân vào VN, người Mỹ phải giết một tổng thống dân cử của bản xứ. Rồi để rút quân an toàn về nước, khi đã đạt xong mục đích chiến lược kinh tế của mình, Mỹ lại dùng áp lực quân viện, để bắt buộc đồng minh của mình, ký vào một hiệp ước giả mạo phi luân. Cuối cùng dùng nó để bán đứng quốc gia VN, chôn vùi tương lai của dân tộc anh hùng trong vòng nô lệ của cộng sản đệ tam quốc tế, suốt thời gian từ đó tới bây giờ.

Tất cả đúng như lời Sir R.Thompson đã viết năm 1989 trong tác phẩm "Make for the hill", đại ý ông nói rằng, sự sống của miền nam VN đã bị bán đứng, vì cảnh cấu xé của nước Mỹ. Riêng Nixon, nhân vật chính đã cùng Kissiger đạo diễn tấn thảm kịch VN hôm nay, cũng đã viết những lời sám hối trong "No More VietNam". Ông viết rằng, tôi đã nhìn thấy những vấn đề nan giải của hiệp định Ba Lê, nhất là sự thỏa hiệp, cho phép bộ đội Bắc Việt công khai ở lại và xâm lăng miền Nam.

Ngày nay, lịch sử đã ngừng lại và quay tròn đúng vào thời điểm cũ trên đất nước tội nghiệp VN. Cả hai: Tài phiệt Hoa Kỳ và tư bản đỏ cộng sản vì quyền lợi riêng tư của mình, nên muối mặt đổi thù thành bạn. Lần này không còn có chiêu bài VN là tiền đồn chống cộng mà là Hoa Kỳ sẽ giúp VN bảo toàn lãnh thổ (?), nói trắng trợn là Mỹ sẽ hợp tác với tư bản đỏ VC cùng chia chác tài nguyên của VN tại thềm lục địa và lãnh hải thuộc chủ quyền trong biển Ðông.

Ðọc và viết lịch sử, không phải để khóc hận than thân hay vạch lá tìm sâu hoặc đâm sau lưng người khác, mà là lấy đó làm một kinh nghiệm để hành động cứu nước trong thực tại và tương lai. Năm 1954 khi cộng sản đệ tam chiếm được miền bắc, một số ít trí thức khoa bảng chạy vào làm trùm tại VNCH, nên họ chẳng hề biết gì về kinh nghiệm sống chung với VC. Ngày 30-4-1975 khi VC chưa vào Sài Gòn, số trí thức khoa bảng trên lại ù trốn chạy sang Mỹ hay ngoại quốc. Họ không hề biết thế nào là sự đổi đời của phận người xuống hàng súc vật.

Ở ngoại quốc vì quá tự do nên vẫn chứng nào tật đó, coi sự hiểu biết của mình ngang hàng với lãnh tụ, muốn ai cũng phải theo ý và đứng sau lưng mình. Họ vì không sống thật với lịch sử nên chẳng bao giờ có kinh nghiệm lịch sử, vẫn ảo tưởng xây lâu đài và chức phận trên cát biển, vẫn ngây thơ muốn hòa hợp hòa giải với một đảng cướp tàn bạo bất lương, qua bẩy mươi lăm năm hiện hữu trên đất Việt, chỉ lừa bịp lường giết đồng bào và bạn nước mình mà thôi. Tệ nhất là giới này và gia đình lúc nào cũng thích sang giàu hạnh phúc nơi thiên đường Âu Mỹ, mà mồm thì luôn xúi người khác, nếu đi hết biển, thì phải trở về nguồn để làm nô lệ cho cộng sản.

Ba mươi ba năm trước vào những ngày cuối tháng 4-1975, một số quân công cán cảnh VNCH và đồng bào may mắn thoát được địa ngục đỏ di tản sang Mỹ. Nhưng Họ đã phải trải qua muôn ngàn tủi nhục vì sự đối đãi tàn nhẫn vô nhân đạo của quốc hội Mỹ lúc đó đang do đảng dân chủ nắm giữ thực quyền. Trong nhiều cuộc họp để quyết định chuẩn chi thêm quân viện cho VNCH cũng như kế hoạch di tản người Việt ra khỏi nước, thượng nghị sĩ của đảng dân chủ lúc đó là Joseph Biden của bang Delaware là một trong những người Mỹ tàn nhẫn, kỳ thị chủng tộc và khinh khi người Việt nhất tại Quốc Hội. Các tài liệu dẫn chứng về hành động bất lương của Biden, đã được tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng ghi lại qua hai tác phẩm "Bí Mật Dinh Ðộc Lập và Khi Ðồng Minh Tháo Chạy".

2. THÁI ĐỘ CỦA TNS BIDEN ÐỐI VỚI NGƯỜI VIỆT DI TẢN:

Ngày 9-4-1975 toà đại sứ Mỹ tại Sài Gòn đã trả lời thẳng với chính phủ VNCH về việc quốc hội Hoa Kỳ lúc đó do đảng dân chủ nắm quyền, quyết định cắt đứt số tiền quân viện đã hứa cho miền nam là 722 triệu mỹ kim. Trong cơn tuyệt vọng, tổng thống Thiệu đã đề nghị với Mỹ là nếu không muốn quân viện thì xin giúp Nam VN được vay nợ số ngân khoản trên để mua súng đạn và VN sẽ trả bằng số dầu hỏa sắp khai thác được tại biển Ðông. Thế nhưng người Mỹ vẫn từ chối với lời nguyền rủa "sao họ không chết lẹ cho rồi".

Tại Washington ngày 14-4-1975, Tổng Thống Ford họp với ban Ngoại giao Thượng viện về tình hình Ðông Nam Á. Phía hành pháp có TT Ford, Kissinger và cố vấn an ninh Scowcrost. Theo Ford trong “A time to heal page 255” thì mục đích thượng viện họp lần này là dứt khoát cắt viện trợ dành cho Nam VN và chuẩn bị ngân khoản di tản.

Trong cuộc họp, nghị sĩ Frank Church nói: "Hoa Kỳ sẽ bị rắc rối lớn nếu định di tản tất cả người Việt thân Mỹ sang Hoa Kỳ". Còn nghị sĩ Joseph Biden (đang là ứng viên PTT của đảng dân chủ trong kỳ bầu cử tháng 11-2008 sắp tới) thì tuyên bố: "Tôi sẽ bỏ phiếu thuận để cấp bất cứ ngân khoản nào cho việc di tản người Mỹ ra khỏi VN Nhưng tôi không muốn số tiền đó dính líu tới việc di tản người Việt." (Trích từ tác phẩm Bí Mật Dinh Ðộc Lập của Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L.Schecter trang 542).

Cũng trong phiên họp trên, qua các tài liệu còn lưu trữ dẫn chứng cho thấy Joseph Biden là nhân vật to miệng và tàn nhẫn nhất đối với người Việt lúc đó. Biden còn nói toặc móng heo “Tôi không muốn trả bất cứ món nào để đưa người VN đi, trừ khi ta không thể mang được người Mỹ nào ra mà KHÔNG PHẢI MUA 174.000 người VN. Trong trường hợp đó tôi sẳn sàng MUA 174.000 người VN.” (Trích từ tác phẩm Khi Ðồng Minh Tháo Chạy của Nguyễn Tiến Hưng nơi trang 355).

Về việc giúp đỡ những người Việt di tản vào đất Mỹ, nhiều nghị sĩ đã tìm đủ mọi cách ngăn cản khi trưng ra đạo luật giúp người di cư đang được Quốc Hội xem xét đã có điều khoản rõ ràng cấm chỉ không được giúp một nước cộng sản (?).VN giờ đây đã nằm dưới sự kiểm soát của cộng sản thì số người Việt di tản trên phải được giúp đỡ từ các nước CS như Liên Xô, Trung Cộng (nghị sĩ Bennett Johnson bang Louisiana).

Cuối cùng nhờ sự tiết lộ những lá thư bí mật được ký kết của các Tổng Thống Nixon, Ford gửi cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, cũng như sự giúp đỡ tận tình của mục sư Elson, nên Quốc Hội Mỹ đã thay đổi thái độ vào ngày 23-5-1975 chấp thuận ngân khoản 327 triệu đô la quân viện của VNCH để tài trợ cho người Việt di tản. Sau đó biểu quyết đạo luật về Di trú và Tị Nạn Ðông Dương, đồng thời trợ cấp thêm 455 triệu USD dành cho người tị nạn VN và Kampuchia.

Bao nhiêu bi kịch não lòng đến với những người di tản VN lúc ban đầu vào những ngày Nam VN bị sụp đổ tháng 5-1975, nào là bị Phi Luật Tân và Thái Lan xua đuổi ra khỏi nước. Kế tiếp khi đồng bào từ đảo Guam đưa vào đất liền cũng bị chống đối, nhất là tại tiểu bang California. Nghị sĩ Mc.Govern người ra tranh cử với TT Nixon bị rớt đài đã không tiếc lời mai mỉa “tôi nghĩ rằng người VN sẽ được sung sướng hơn nếu ở lại VN, kể cả lũ trẻ mồ côi kia”.

Tóm lại những ngày đầu tháng 5-1975, số phận người Việt di tản rất khổ sở vì Hạ Viện không chấp thuận đề nghị của TT Ford xin 327 triệu USD dành cho người tị nạn. Cũng may lúc đó ngân khoản cũ dành cho VNCH còn chút ít, nên hai bộ Ngoại Giao và Quốc Phòng vơ vét để nuôi ăn và chi phí chuyên chở cho họ lúc ban đầu, tính theo nhu cầu mỗi người phải cần tối thiểu là 15 đô/1 ngày. Ðó là số tiền 182 triệu viện trợ kinh tế cho Miền Nam tính tới ngày 30-4-1975 chưa được tháo khóan. Nhờ vậy mới nuôi được 130.000 di tản lúc đầu.

Ngày nay chúng ta may mắn sống an vui trên đất Mỹ, trong số này có nhiều con cháu của những người VN di tản lúc trước. Vậy chúng ta phải làm sao sử dụng lá phiếu đang có trong tay để bầu cho ai theo ý mình nhưng không làm tủi những kẻ đi trước đầy gian nan và tủi cực trong thân phận mất nước tan nhà.

Nhưng cũng đừng quên sự tàn nhẫn và láo xược của nghị sĩ Joseph Biden đối với người Việt tị nạn, cho dù thời gian đã qua hơn 33 năm. Khi còn là một thượng nghị sĩ mà Biden đã có thái độ khinh ghét và kỳ thị người Việt tận tuyệt. Thử hỏi nếu mai này đương sự đắc cử và trở thành phó Tổng Thống Mỹ, chắc chắc sinh hoạt đấu tranh của Cộng Ðồng Người Việt Quốc Gia tại Hoa Kỳ sẽ bị hạn chế và trắc trở, nhất là xu thế của đảng Dân Chủ lúc nào cũng thiên về VC như thời TT Bill Clinton mà ai cũng thấy.

Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 9-2008
Mường Giang

Tuyên cáo của Hội đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, về Công hàm 14.09.1958 chống Tổ tiên nước Việt

BUREAU INTERNATIONAL D'INFORMATION BOUDDHISTE l INTERNATIONAL BUDDHIST INFORMATION BUREAU
PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo,
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất

B.P. 63 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France)
Tel.: (331) 45 98 30 85
Fax: (331) 45 98 32 61
E-mail: mailto:mubcv.ibib@buddhist.comWeb
Web: http://www.queme.net/


THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 15.09.2008

Tuyên cáo của Hội đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất,
về Công hàm 14.9.1958 chống Tổ tiên nước Việt

Viện Hóa Đạo vừa gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến Tuyên cáo của Hội đồng Lưỡng Viện (tức Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo) về Công hàm 14.9.1958 chống tổ tiên nước Việt.

Tuyên cáo được Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, nhân danh Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, ký vào đúng ngày 14.9.2008 tại Saigon nói lên lập trường của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đối với Công hàm của cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho ông Chu Ân Lai, Tổng lý Quốc vụ Viện Trung quốc, cách đây đúng 50 năm. Đây là lập trường mà Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang từng minh xác trong Thông điệp Phật Đản năm nay, 2008: « Người Phật tử bối đắp tâm linh bao nhiêu cho tiến trình giải thoát giác ngộ, thì càng bảo vệ lãnh thổ bấy nhiêu cho chủ quyền của nòi giống tự do thoát ly nô lệ ».

Thực vậy, người Phật tử không thể sống trên không trung, mà cư trú nơi lãnh thổ quốc gia sinh dưỡng mình. Lãnh thổ bị uy hiếp, cuộc sống và tu hành của người Phật tử đồng thời là người công dân cũng bị uy hiếp. Vì vậy không thể làm ngơ.

Hội đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) đưa ra 4 nhận định trên mặt dân tộc và pháp lý để xác quyết « Công hàm ngày 14.9.1958 của ông Phạm Văn Đồng vô giá trị trên mặt pháp lý quốc tế, pháp lý quốc gia và ý chí dân tộc. Công hàm chỉ là dự tính chia chác phi pháp giữa hai đảng Cộng sản Việt-Trung ». Sau phần nhận định, Tuyên cáo yêu sách nhà cầm quyền Hà Nội có văn kiện phủ nhận Công hàm ngày 14.9.1958, trả tự do cho những thanh niên, sinh viên bị bắt trong mấy ngày vừa qua vì biểu dương ý thức dân tộc về sự bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải. Mặt khác, Tuyên cáo cũng yêu sách nhà cầm quyền Hà Nội « tôn trọng và bảo đảm quyền tự do biểu tỏ và biểu tình » làm « bài học và động thủ nhằm giáo dục công dân phát huy lòng yêu tổ quốc và bảo vệ nền công lý nhân loại ». Đặc biệt là yêu sách bỏ điều 4 trên Hiến pháp nhằm « tạo điều kiện cho sự tham gia cứu quốc của toàn dân, của mọi thành phần dân tộc, mọi gia đình tôn giáo và chính trị ».

Dưới đây là toàn văn Tuyên cáo về Công hàm ngày 14.9.1958 chống Tổ tiên nước Việt:

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN HÓA ÐẠO
Thanh Minh Thiền viện,
90 Trần Huy Liệu, Phường 15, Quận Phú Nhuận, TP. Saigon

Phật lịch 2552
Số 32 /VHÐ/VT

TUYÊN CÁO
của Hội đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất,
về Công hàm 14.9.1958 chống Tổ tiên nước Việt

Hôm nay, ngày đánh dấu 50 năm cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết Công hàm gửi ông Chu Ân Lai, Tổng lý Quốc vụ Viện Trung quốc, minh xác bằng văn bản chủ quyền Trung quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là hệ quả của một ý thức hệ ngoại nhập phản chống nền tư tưởng và văn hiến lâu đời của dân tộc Việt Nam: Chủ nghĩa đại đồng phiến diện Cộng sản dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã từ khước sự toàn vẹn lãnh thổ, xóa nhòa biên cương tổ quốc trên biển, đem lãnh hải dâng hiến cho Bắc phương.

Hội đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, nhận định rằng:

- Công hàm ngày 14.9.1958 của ông Phạm Văn Đồng chống lại Tổ tiên nước Việt đổ bao xương máu suốt hai mươi thế kỷ qua để gìn giữ và mở mang bờ cõi dân tộc;

- Công hàm ngày 14.9.1958 của ông Phạm Văn Đồng chỉ đại diện cho thiểu số đảng viên Đảng Cộng sản mà không đại biểu cho toàn dân miền Bắc Việt Nam, vì nội dung bán nước của công hàm không được trưng cầu dân ý, cũng không được thông qua trước Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dù nhân dân không cộng sản chẳng có đại biểu tại Quốc hội này y hệt như tại Quốc hội hiện nay;

- Công hàm ngày 14.9.1958 của ông Phạm Văn Đồng chiếu theo công pháp quốc tế đã vi phạm chủ quyền Việt Nam Cộng hòa tại miền Nam nước Việt. Bởi lẽ Hoàng Sa đặt dưới quyền quản lý hành chính tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Trường Sa đặt dưới quyền quản lý hành chính tỉnh Khánh Hòa. Cả hai tỉnh thuộc chủ quyền lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa là quốc gia được Hiệp định Genève năm 1954 và hầu hết các quốc gia trên thế giới công nhận;

- Chiếu điều 17 trên Hiến Pháp hiện hành (1992), quy định « Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời (...) đều thuộc sở hữu toàn dân »;

- Xem như thế Công hàm ngày 14.9.1958 của ông Phạm Văn Đồng vô giá trị trên mặt pháp lý quốc tế, pháp lý quốc gia và ý chí dân tộc. Công hàm chỉ là dự tính chia chác phi pháp giữa hai đảng Cộng sản Việt-Trung.

NAY HỘI ĐỒNG LƯỠNG VIỆN, GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT,
TUYÊN CÁO CÁC YÊU SÁCH SAU ĐÂY:

    1. Nhà cầm quyền Hà Nội cần có văn thư chính thức gửi Cộng hòa Nhân dân Trung quốc phủ nhận Công hàm ngày 14.9.1958 của ông Phạm Văn Đồng, đồng thời minh định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa được khám phá ít nhất từ thế kỷ XV và sử dụng chủ quyền từ thế kỷ XVII. Trong khi ấy hai quần đảo này chỉ được đề cập như những hải đảo nhìn thấy trên lộ trình thám hiểm xuyên qua Biển Đông trong sách sử Trung quốc ;

    2. Trả tự do tức khắc cho những cá nhân, đặc biệt giới thanh niên, sinh viên bị bắt giữ trong mấy ngày qua, vì đã lên tiếng phản đối Công hàm Chống Tổ Tiên Nước Việt ký ngày 14.9.1958, hoặc tham gia tập họp biểu dương ý chí bảo vệ lãnh thổ để ghi nhớ 50 năm ngày quốc nhục nhượng địa phi pháp cho ngoại bang;

    3. Tôn trọng và bảo đảm cho nhân dân tự do biểu tỏ và biểu tình, chiếu theo điều 69 trên Hiến pháp, để nói lên ý chí của Tổ tiên và toàn dân quyết tâm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ trước mọi âm mưu ngoại bang xâm lược hay lấn chiếm lãnh thổ và lãnh hãi, mà tiền nhân đã đổ biết bao xương máu gìn giữ suốt hai nghìn năm qua. Sự tôn trọng và bảo đảm tự do biểu tỏ và biểu tình này còn là bài học và động thủ nhằm giáo dục công dân phát huy lòng yêu tổ quốc và bảo vệ nền công lý nhân loại;

    4. Loại bỏ điều 4 trên Hiến pháp tạo điều kiện cho sự tham gia cứu quốc của toàn dân, của mọi thành phần dân tộc, mọi gia đình tôn giáo và chính trị; vì

    4.1. Ba triệu đảng viên Cộng sản và nửa triệu bộ đội hiện tại chưa đủ thế và lực bảo vệ tổ quốc trên mặt quốc phòng, chưa đủ uy và dũng mở rộng mặt trận chính trị và ngoại giao quốc tế, mà cần tới sự tham gia toàn diện của 85 triệu dân và 3 triệu Người Việt hải ngoại;

    4.2. Lịch sử Việt Nam qua bao đời từng khẳng định như chân lý rằng : Dựa vào sức mạnh toàn dân làm nòng cốt để giữ nước. Kẻ nào cứ nay chạy theo nước này mai chạy theo nước khác cầu viện để bảo vệ quyền bính riêng tư của một nhóm người, thì hậu quả sẽ là mất nước và biến mình thành công cụ tay sai cho ngoại nhân mà thôi.
Thanh Minh Thiền viện, Saigon ngày 14.9.2008
Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống
kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN
(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ
*
* *

Công hàm bán nước của tập đoàn CSVN



Hết đường chối cãi


Lê Văn Ấn

Mấy tuần nay ở quốc nội, văn kiện bán nước của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng chấp nhận một phần lớn lãnh hải Việt Nam thuộc về Trung Cộng, đã được “hé” ra cho toàn dân Việt Nam biết. Chính tòa Đại Sứ Trung Cộng ở Hà Nội cho biết sẽ họp báo phổ biến văn kiện bán nước nhân dịp tròn 50 năm chúng nhận được quà này từ Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Hồ Chí Minh lúc đó là Chủ tịch Nước kiêm Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, Phạm Văn Đồng lúc đó là Thủ Tướng Việt Cộng tức là 2 tên chóp bu của đảng Cộng Sản. Sự kiện văn bản bán nước của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đã cho toàn dân thấy đảng Cộng Sản chỉ làm hại đất nước, những tuyên truyền xách động đồng bào “yêu nước” của đảng Cộng Sản chỉ là một trò bịp. Cộng Sản Việt Nam ngày nay có muốn “khai trừ” 2 tên phản Đảng, phản dân tộc Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng như chúng thường làm cũng không được, không còn kịp. Hồ Chí Minh lâu nay được Việt Cộng thần thánh hóa, nào là cha già dân tộc, nào là có công đánh thắng 3 đế quốc, nào là nhà ái quốc, nào là nhà văn hóa thế giới nào là được ngồi chung bàn thờ với Phật do bọn sư quốc doanh “ái mộ”, v.v… nay tan thành mây khói.

Đảng Cộng Sản Việt Nam đang phải đứng trước một sự lựa chọn hết sức khó khăn, nếu không nói là nan giải: nếu tiếp tục bắt dân chúng tôn thờ Hồ Chí Minh, tiếp tục “kể công ơn của Bác” thì hóa ra Việt Cộng đang tôn thờ một tên phản quốc? Nếu Việt Cộng tôn thờ tên phản quốc thì dân chúng Việt Nam sẽ có kết luận đây là đảng phản quốc, làm tay sai cho ngoai bang. Nếu vứt bỏ những gì liên quan đến Hồ Chí Minh như họ thường làm đối với những kẻ mà họ cho là “phản đảng, hại dân tộc” thì đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ sup đổ cùng với thần tượng bịp bợm Hồ Chí Minh. Đây là bằng chứng do Trung Cộng đưa ra tại Hà Nội, làm sao mà chối cãi được? Hằng ngày,Việt Cộng bắt dân chúng đến “thăm lăng Bác”, bây giờ Bác đã lộ nguyên hình là một tên phản bội dân tộc, không lẽ vẫn cứ tiếp tục bắt dân chúng “thăm lăng tên phản động”? Một sư đoàn ngày đêm túc trực, canh gác lăng tên phản động tốn biết bao nhiêu tiền của của dân, bây giờ vẫn tiếp tục như vậy coi sao được? Những người lính có nhiệm vụ “đánh đuổi thực dân, bảo vệ giang sơn, tổ quốc”, nay phục vụ một tên phản động, bán nước, họ cũng phải hổ thẹn với lương tâm, với anh em đồng đội, nhất là những người đã hy sinh ngoài chiến trường! Câu “ngạn ngữ” Nói láo như VẸM tưởng chỉ là câu tuyên truyền, nay đã trở thành sự thực.

Cả 2 cuộc chiến, 1945-1954 và 1960-1975, khi thì Hồ Chí Minh kêu gọi thanh niên tham gia kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp, bảo vệ giang sơn tổ quốc. Khi thì Hồ Chí Minh kêu gọi “đánh Mỹ cứu nước” làm cho bao thanh niên phải hy sinh một cách oan uổng. Nay bộ mặt Việt gian bán nước của Hồ Chí Minh đã bị Trung Cộng đem ra biêu riếu, không có bằng chứng nào xác thực hơn. Cũng không thể cho rằng vì nhu cầu “đánh Mỹ cứu nước” mà “Bác” phải đem lãnh hải dâng cho Trung Cộng. Vì nói như vậy thì hoặc là “Bác” điên hay toàn dân Việt Nam điên.

Tin tức mới ghi nhận được cho biết sinh vien học sinh và các tầng lớp dân chúng khác đã có nhiều phản ứng chống Trung Cộng, từ việc rải truyền đơn, treo biểu ngữ đến việc dự định biểu tình vào ngày 14.9.2008 để phản đối Trung Cộng lấn chiếm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam . Ðể trả đũa, Trung Cộng sẽ cho công bố văn kiện CSVN đã bán nước, bán lãnh hải Việt Nam cho Trung Cộng vào ngày 14.9.1958. Phản ứng của đồng bào quốc nội cũng đưa Ðảng và Nhà Nước bạo quyền Cộng Sản trước một sự kiện khó xử, còn miệng ăn mà hết miệng nói, dù cho những cái miệng này nói láo như máy, nhưng nay thì mở miệng mắc quai.

Tin tức ngày 10.9.2008 từ trong nước cho hay đã có 25 nhà đấu tranh cho dân chủ ở trong nước yêu cầu Cộng Sản phủ nhận văn kiện bán nước do Phạm Văn Ðồng ký gởi Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Cộng ngày 14.9.1958. Chưa biết Việt Cộng sẽ đối phó với lời yêu cầu này ra sao, nhưng sự kiện này ít ra cũng có một cái lợi là các nhà dân chủ này đã - một cách khéo léo - phổ biến hành động phản quốc của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản để cho mọi người cùng biết.

Có nhiều người “mách nước” cho Việt Cộng rằng hãy qua lạy lục Trung Cộng để chúng công bố “không có văn kiện bán nước đó”, nhưng chắc chắn là Trung Cộng không chấp nhận. Và nếu làm như vậy, chẳng khác gì Việt Cộng “chuộc” lại văn kiện bán nước, và dĩ nhiên phải có tiền “chuộc”. Và một lần nữa, chắc Việt Cộng lại phải bán thêm lãnh thổ và lãnh hải cho Trung Cộng.

Thực ra, dưới ánh mặt trời không có gì dấu được lâu. Người Việt hải ngoại đã biết những chuyện “thâm cung bí sử” của Hồ Chí Minh một cách tường tận, từ việc xin học trường thuộc địa của Pháp để khi ra trường làm tôi mọi cho Tây thực dân không được chấp nhận, đến việc cưới Tăng Tuyết Minh, đến việc ăn cắp cuốn thơ Ngục Trung Nhựt Ký của một người Tàu họ Lý. Việc “Bác” đã thương cháu gái Nguyễn Thị Ngát ở trong hang Pak Pok cho đến lúc cháu có thai đẻ ra Nông Đức Mạnh, đến việc ăn ở với Nguyễn Thị Xuân, một cô gái hơ hớ tuổi Xuân, đáng con cháu “Bác” đã có con rồi giết cô Xuân một cách tàn nhẫn, đến chuyện lấy ngày 19 tháng 5 làm ngày “Sinh Nhật Bác” chứ thật ra là để có cớ buộc dân chúng Hà Nội treo cờ để đón đại tướng của thực dân Pháp v.v… Người dân trong nước bị bưng bít nên đa số không biết, hoặc những người biết mà không dám nói. Nhưng nay thì:

“Màu hồ đã mất đi rồi,
Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma”
(Kiều)

Vốn liếng của Hồ Chí Minh là một cuộc đời bịp bợm, nay cái sự bịp đã bày ra trước mắt mọi người, không còn chối cãi được. Câu châm ngôn “sống, học tập và làm việc theo gương Bác Hồ” bây giờ làm sao cải sửa? Không lẽ bắt thanh niên sinh viên phải “sống phản động, làm việc tôi mọi cho Nga Tàu theo gương Bác Hồ bán nước?”.

Trước đây, hầu hết người dân miền Nam đều được nhiều tin tức về đời tư cũng như đời công của Hồ Chí Minh, tuy vậy, một số đồng bào còn nghi kỵ, ngờ vực miền Nam tuyên truyền. Sau năm 1975 chạy ra hải ngoại, người Việt có đầy đủ tài liệu về hành động bán nước, dâm ô, nói láo, gian ác… của Hồ Chí Minh. Bây giờ Trung Cộng đã phơi bày sự thật, không còn cách chối cãi.

Khi không còn cách nào chối cãi thì nên thú thật với quốc dân đồng bào những sai lầm từ căn bản của Đảng là điều phải làm. Không gì hay cho bằng can đảm nói lên sự thật, có như vậy mới mong được dân thương hại, vì không thể lấy thúng úp miệng voi, nhất là chuyện cả nước đã biết. Sau đó, gấp rút trả lại quyền tự quyết cho dân tộc để Việt Nam sớm có một nền dân chủ chân chính. Có như vậy Việt Nam mới có cơ hội lấy lại tất cả những gì mà đảng Cộng Sản đã dâng cho Trung Cộng.

Ðã hơn một lần, Việt Cộng chịu nhục nhã vứt bỏ kinh tế Cộng Sản để theo kinh tế thị trường, nay đứng trước kẻ thù độc ác, thâm hiểm như Trung Cộng, chúng vạch tội ác bán nước của Hồ Chí Minh và “đảng ta”, chắc chắn Việt Cộng phải có đủ sáng suốt, bình tĩnh để có quyết định dứt khoát, tạo nên một khúc quanh lịch sử, đưa nước nhà đến chỗ vững mạnh để đối phó với những hiểm họa do kẻ thù truyền kiếp của dân tộc tạo nên. Tướng lãnh, sĩ quan cũng như binh sĩ trong quân đội đã thấy sự gian xảo, sự nguy hiểm của Ðất nước, hãy mạnh dạn đứng lên làm lịch sử. Ðừng để xương máu của bao nhiêu triệu đồng bào 2 miền Nam Bắc ra vô ích.

Lê Văn Ấn

Đài Truyền hình Hong Kong nói về các cuộc biểu tình ở Hà Nội chống Trung Cộng về vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa và lãnh hải ở Hà Nội


Đài Truyền hình Hong Kong nói về các cuộc biểu tình ở Hà Nội chống Trung Cộng về vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa và lãnh hải ở Hà Nội








Thông báo của Tổng Hội Tù Nhân Chính Trị Việt Nam về việc bà Khúc Minh Thơ tổ chức “Ngày Tù Nhân Chính Trị”

Sunday, September 14, 2008

Cờ vàng bị đổi màu trên báo Hiệp thông của Hội đồng Giám mục Việt Nam


Kính thưa quý vị,

Số báo Hiệp thông mới nhất của Hội đồng Giám mục Việt Nam (số 48, tháng 7&8 năm 2008) nói về Ngày Quốc tế Giới trẻ tại Sydney. Nơi trang bìa sau (ảnh Greg Wood/AFP/Getty Images, xem attachment), nền vàng của lá cờ vàng ba sọc đỏ đã bị đổi thành màu hồng. Trong khi đó thì cờ Trung Cộng ở rìa phải (chỉ thấy một ngôi sao lớn, vì 4 ngôi sau nhỏ nằm ở gáy sách) vẫn y nguyên. Chúng tôi còn nhận thấy ở rìa trái, dưới lá cờ Anh, có một lá cờ rất lạ mắt, nền trắng và những chấm đen. Có thể đấy là cờ vàng ba sọc nhưng đã bị xóa đi để thay bằng lá cờ nền trắng chấm đen lạ lùng đó (xin Quý Anh Em kiểm chứng và so sánh với nguyên bản của Greg Wood/AFP/Getty Images).


Xin lưu ý: chủ nhiệm báo Hiệp Thông là TGM Ngô Quang Kiệt, Tổng thư ký HĐGMVN, nguyên thư ký của GM Bùi Tuần, còn người chịu trách nhiệm thực hiện là GM Vũ Duy Thống, Chủ tịch UB Văn hóa HĐGMVN, con bảo trợ của GM Bùi Tuần.

Email của Văn phòng báo Hiệp thông:
ubttxh@hdgmvietnam.org
vpubttxh@gmail.com

http://us.mc509.mail.yahoo.com/mc/compose?to=bt.

hiepthong@gmail.com

Đt: 9307.256

Người đưa tin
P.PVL

Toàn Dân Việt Nam Hãy Đứng Lên Đạp Đổ Bạo Quyền Cộng Sản Việt Nam


Trương Minh Hòa

"NHẤC ĐƯỜNG ranh giới lui, NHƯỜNG ĐẤT.
HẢO ĐÃI quan thầy, HẢI ĐẢO dâng".


Trong số những tên Việt gian thuộc đảng Cộng Sản Việt Nam, thì cái tên thủ tướng "không người lái" hay "tưởng thú" Phạm Văn Đồng, là người có nhiều điểm đáng ghi nhớ từ hình dáng với cặp mọi đẹp nhất nước; lời nói thì "cực kỳ chất lượng, phản ánh trung thực" của thứ "đạo đức cách mạng" và "nền văn hóa ưu việt xã hội chủ nghĩa, đỉnh cao trí tệ nòi người", hắn cho những người bỏ nước ra đi tìm tự do là: "bọn đĩ điếm du côn", còn hành động thì ngàn năm lịch sử vẫn nguyền rủa là ký văn bản dâng đất cho ngoại bang. Cái ngày 14 tháng 9 năm 1958, làm cho nước Việt Nam mất đi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, dù hai nơi nầy nằm trong tay của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, từng đem máu xương bảo vệ qua trận hải chiến lịch sử năm 1974 với quân xâm lược Trung Cộng.

Trên đời nầy, có tên nào gian manh bằng thằng Phạm Văn Đồng và thầy hắn là thằng Hồ Chí Minh, cùng đồng bọn là đảng Cộng Sản Việt Nam. Luật pháp của bất cứ quốc gia nào trên thế giới về "hộ, hình" đều coi những gian manh, đem bán nhà, đất hay bất cứ thứ gì do người khác làm chủ là có tội lừa đảo, tùy theo nặng nhẹ mà tòa tuyên án. Những người làm trong ngành địa ốc là biết rất rõ chuyện buôn bán bất động sản của từng căn nhà, chỉ khi nào chủ nhân đồng ý và ký tên mới hợp pháp; huống cho đây là chuyện bán cả hai quần đảo của hơn 83 triệu người cùng làm chủ.

Tục ngữ có câu "bán trời không mời thiên lôi" để chỉ những tên gian manh, có "nghiệp chuyên" lừa đảo, lương lẹo, bán cầm những thứ không do chúng sở hữu cho kẻ khác; ngày nay trong các tôn giáo dưới chế độ vô thần Cộng Sản, một số tu sĩ Phật Giáo, Công Giáo, cam tâm làm "đầy tớ trung thành" của lũ vô thần Cộng Sản, lập ra các giáo hội quốc doanh, đó là lũ người: "Bán Phật không cần thị thực của Bồ Tát-Bán Chúa khỏi cần mời thiên sứ làm chứng". Hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa, thế mà tên Hồ Chí Minh dám chỉ đạo cho đàn em là thằng Phạm Văn Đồng ký bán, trên bình diện pháp lý, thì kẻ bán là bất hảo và người mua là Trung Cộng cũng là đồng lõa mua đồ gian. Thế mà kẻ bán, người mua vẫn "thanh tâm trường an lạc" coi việc buôn bán là bình thường trong suốt thời gian dài.

Tập đoàn đảng Cướp Cộng Sản Việt Nam không có tư cách pháp nhân, quyền hạn để đụng tới bất cứ cái gì thuộc tài sản quốc gia, con người .... Đây là một đảng băng bất lương, được sự hậu thuẫn, viện trợ vũ khí của hai băng đảng lớn là Nga, Tàu, lợi dụng thời cơ để "cướp chính quyền" từ tay nhân dân. Bọn cướp nầy tự biên tự diễn, nặn ra một cơ cấu Nhà Nước, rồi đặt ra những chức vụ thủ tướng, chủ tịch nhà nước, đẻ ra thêm cơ chế "đảng cử dân bầu", là thứ "xưởng gật" qua cái gọi là quốc hội ... tất cả những dàn dựng nầy không thể lừa được ai, khi mà toàn bộ hệ thống nhà nước đều do đảng chỉ huy qua câu đầy mâu thuẫn, tự nó vạch trần cái phi lý, gian trá: "nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý, đảng lãnh đạo", tất cả quyền hành đều nằm trong tay một thiểu số, dưới sự chỉ đạo của tên Tổng Bí Thư, là chức vụ "đầu lãnh" đảng cướp.

Cái cơ cấu nhà nước Cộng Sản ấy cũng không có quyền đại diện cho nước Việt Nam để bang giao, hay ký kết bất cứ hiệp định nào với các nước; vì nhà nước và đảng Cộng Sản đều không do dân bầu ra, theo đúng nguyên tắc dân chủ và quyền dân tộc tự quyết mà thế giới và tổ chức Liên Hiệp Quốc công nhận. Do đó các nước dân chủ cũng cần nên biết điều nầy hầu không bị hố, nhất là các ký kết lâu dài; những doanh nhân ngoại quốc vào Việt Nam đầu tư, kể cả những Việt kiều về làm ăn, xây nhà ... cũng nên cẩn thận, vì sau nầy khi chế độ Cộng Sản sụp đổ, thì những hiệp ước, ký kết giữa đảng cướp và các chính phủ tự do, cá nhân, công ty đều không mang giá trị, vì tự nó xây dựng trên nền tảng "phi pháp", giống như hình thức mua đồ, làm ăn với băng đảng cướp vậy. Từ đó, cái văn bản dâng đảo Hoàng Sa và Trường Sa của tên thủ tướng Phạm Văn Đồng là không có giá trị về mặt pháp lý, đó chỉ là sự "mặc cả, trao đổi" bất chính giữa hai băng đảng cướp Trung Cộng và Việt Cộng mà thôi.

Đất nước Việt Nam đã và đang bị ký bán, dâng hiến đất đai, hải đảo cho quan thầy Trung Cộng từ lâu, ngay trong thời băng đảng Cộng Sản Việt Nam còn suy yếu, cần phải dựa vào Trung Cộng để phát triển lực lượng, lợi dụng xương máu của dân Việt để chỉ phục vụ quyền lợi ngoại bang. Trong thời kỳ chiến tranh với chiêu bài "đánh Tây giành độc lập", là độc chiêu của Hồ Chí Minh, sau khi hắn mời Pháp sang cai trị lần thứ hai sau đệ nhị thế chiến và cũng chính hắn kêu gọi toàn quốc kháng chiến, gian manh vô cùng. Lúc đó, Trung Cộng làm chủ Hoa Lục từ 1949, lợi dụng thời cơ, âm thầm dời một số cọc biên giới từ Mường Tè đến Mống Cái, khiến Việt Nam bị mất đất từ đó. Sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ, lợi dụng lúc đảng Cộng Sản không có hải quân, vì Pháp rút về hết, thế là Trung Cộng chiếm một số hòn đảo của Việt Nam mà Hồ Chí Minh làm thinh để làm vừa lòng quan thầy. Sau 1954, tình hữu nghị Việt-Trung có lúc mặn nồng như "răng với môi", nên Hồ Chí Minh thường cỡi chiếc phi cơ bản số BH-195 bay sang Bắc Kinh để cùng với Mao Trạch Đông ăn nhậu những cao lương mỹ vị, trong đó có món chân vịt chiên, uống rượu Mai Quế Lộ, Mao Đài, cùng nhau hút Á Phiện thả cửa và hành lạc với các "nhi đồng của Mao Chủ Chí" cung cấp; theo một số người từng sống ở ngoài Bắc, thì tên Việt gian, dâm tặc Hồ Chí Minh từng sống lâu năm trên đất Tàu, là người "ghiền vú Xẩm và món ăn Tàu" nên thích sang để hưởng lạc. Tụ điểm ăn chơi, tiếp nối truyền thống "vua Tàu" được hai tên cầm đầu hai băng đảng cướp nầy thường thực hiện ở Điếu Ngư Đài (nơi mà ngày xưa vua chúa đến giải trí, câu cá ...) và vài địa điểm sang trọng khác, do "tàn dư chế độ phong kiến để lại". Mao biết rất rõ cái" cuộc đời và sự nghiệp trác táng, dâm ô" của tên đàn em Hồ Chí Minh, nên sau nầy, khi muốn gây áp lực để trục lợi, Mao thường dọa đem công bố cuộc đời tư của vị cha già dân Vẹm, được tô son trét phấn là: "không bao giờ nghĩ đến vợ con, gia đình, suốt đời lo cho dân cho nước", do đó, Hồ Chí Minh phải tuân theo lịnh quan thầy triệt để, ngoài áp lực nước lớn, còn áp lực cá nhân qua đời tư. Cho nên chuyện tên thủ tướng Phạm Văn Đồng vâng lịnh tên thầy Hồ Chí Minh làm liều, làm bậy, công nhân hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam Cộng Hòa làm chủ là điều ngang ngược, nhưng làm vừa lòng quan thầy Trung Cộng. Hồ Chí Minh từng biện minh cho hành vi bán nước của hắn và đồng đảng, hắn cho là chuyện "hiến tặng" vài hòn đảo nhỏ cho Trung Cộng không quan trọng, vì đảo toàn là "phân chim", trong khi Trung Công cho Việt Nam rất nhiều, nhất là vũ khí để "đánh Tây, Mỹ", miệng lưỡi của kẻ bán nước là như thế.

Trong nước, sau khi nhà nước thiết lập xong cơ cấu, chính quyền từ trung ương đến địa phương, thì đảng Cộng Sản ra tay cướp đất, nhà, tài sản của dân qua cuộc cải cách ruộng đất miền Bắc sau 1954, đánh tư sản miền Nam sau 1975, chúng không từ chối tài sản của tay sai là những gia đình "có công với cách mạng" trong hai cuộc chiến dài từ 1945 đến 1975, nên từ hàng chục năm qua, hàng ngũ "dân oan khiếu kiện gia tăng", thế mà đảng cướp vẫn bình chân như vại. Gần đây, Công Giáo đứng lên đòi lại "đất đai, tài sản" từ tay bọn cướp Cộng Sản tại Tòa Khâm Sứ, Thái Hà, không còn lẽ tẻ như dân oan khiếu kiện từng "hộ" và người dân trong nước hảy đứng lên đòi là đất, đảo đã bị đảng Cộng Sản dâng cho quan thầy Trung Cộng, là điều cần phải thực hiện càng sớm càng tốt, đã 50 năm rồi, còn gì nữa. Lấy lại chính quyền là ưu tiên hàng đầu, vì "có chính quyền là có tất cả", cũng như câu: "còn tự do là còn cơm no" của chính phủ miền Nam trước 1975.

Muốn đòi lại đất đai do Trung Cộng chiếm, thì việc đầu tiên là đánh vào "bọn bán đất" chính là tập đoàn đảng Cộng Sản Việt Nam; sau khi lấy được chủ quyền, thì mới tính đến chuyện truy tố tên mua đồ gian là Trung Cộng trước quốc tế. Điều kiện dành lại đất đai, hải đảo rõ ràng như luật pháp hình sự: trước hết phải khống chế kẻ trộm, cướp ... và sau là lấy đồ gian từ tay kẻ mua bất hợp pháp, là hai giai đoạn cần thiết. Ngày nay kẻ bán nước xuất chiêu, giả vờ kêu gọi tất cả người Việt trong và ngoài nước cùng nhau "chống Bắc Kinh" bằng mồm, nhưng thực ra thì đảng và nhà nước Cộng Sản luôn "bảo vệ tình hữu nghị Việt-Trung đời đời bền vững"; điều nầy được chứng minh qua các vụ biểu tình của sinh viên tại sứ quán Hà Nội, lãnh sứ quán Trung Cộng ở Saigon trước đây, bọn công an Việt Cộng luôn tìm cách bảo vệ cơ sỡ của "quan thầy" một cách triệt để, nên ngăn chận, vô hiệu hóa tất cả các cuộc phản đối; hình ảnh mật vụ và Hoa Kiều được tự do trương cờ đỏ năm sao vàng, dưới sự bảo vệ của công an Việt Cộng, trong kỳ rước đuốc thế vận ngày 28 tháng 4 năm 2008 tại Việt Nam, những người phản đối Trung Cộng đều bị bất bớ, tù đày, như nhà báo Điếu Cầy Nguyễn Hoàng Hải mới đây bị tù 30 tháng với cái tội danh trốn thuế mơ hồ, mà dân trong và ngoài nước đều biết vụ án nầy nhằm dập tất những tiếng nói đòi chủ quyền lãnh thổ đã bị đảng cướp Việt Cộng dâng bán cho Trung Cộng. Người Việt hải ngoại không lầm lẫn trước những biến chiêu của bè lũ bán nước Việt Cộng, tức là không bao giờ đứng chung hàng ngũ "hòa hợp hòa giải" đến chống quân xâm lược Trung Cộng, chiêu bài "bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ" trở thành lố bịt trước tinh thần đề cao cảnh giác, những kinh nghiệm xương máu:" đừng nghe những gì Cộng Sản nói, hảy nhìn kỷ những gì Cộng Sản làm". Tuy nhiên, qua sự kiện trên, ở hải ngoại mới lòi ra một số tổ chức, những tên" ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản" mưu toan đứng ra làm" trung gian" với Việt Cộng để tiếp tục lừa đảo lần nữa. Những ai kêu gọi "đoàn kết, xóa bỏ làn ranh Quốc-Cộng, cùng nhau chống Trung Cộng, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ ..." chỉ là đám cò mồi mà thôi.

Ngày 14 tháng 9 năm 2008 năm nay, đúng 50 năm từ ngày hai kẻ gian cấu kết bán và mua đứng hai quần đảo mà họ không làm chủ, nay thì chủ nhân là nhân dân Việt Nam cần phải đứng lên đồng lòng đòi lại, đó là điều cần phải làm để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, công bằng, hợp với công lý, công pháp quốc tế và lòng người, phù hợp với truyền thống dựng và giữ nước của tiền nhân. Ngày xưa, những người từng đi sai đường, tham gia vào hai cuộc chiến vô ích do đảng Cộng Sản và tên ma đầu Hồ Chí Minh, lợi dụng lòng yêu nước, xương máu để phục vụ quyền lợi của hai quan thầy Nga Tàu, nay họ phải biết có lổi với đất nước, tiền nhân, khi hai quần đảo bị bán đứng do người đại diện là Phạm Văn Đồng. Sinh viên, học sinh, công nhân, nông dân ... và nhất là "các nhà dân chủ", giờ nầy đang ở đâu? Hảy đồng lòng cùng toàn dân Việt Nam trong nước đứng lên lật đổ bạo quyền bán nước, mới hy vọng lấy lại được những gì đã mất, nếu các cuộc biểu tình xảy ra, thì ngoài những biểu ngữ (đề nghị lấy nền vàng, chữ đỏ), không nên mang lá cờ đỏ sao vàng, là biểu tượng của kẻ bán nước; để biểu tình chống lại cờ đỏ 5 sao của kẻ mua; làm như vậy là coi như mất đi chính nghĩa, nhất là đừng nên mang theo hình của tên bán nước Hồ Chí Minh, càng làm mất hết ý nghĩa đấu tranh. Các lực lượng công an, bộ đội, nếu muốn được toàn dân khoan hồng, hảy gia nhập vào hàng ngũ, tốt nhất là bắt, quản thúc những tên Việt gian chỉ huy nào ra lịnh đàn áp đoàn biểu tình đòi đất đai bị bán cho ngoại bang.

Trương Minh Hòa