Monday, September 8, 2008

Công sản Việt Nam bày trò cảnh báo và áp lực chính phủ Pháp


Đinh Lâm Thanh

Theo thông cáo ngày 05.9.2008 của ban tổ chức xây dựng bia Trần Văn Bá, Cộng sản Việt Nam đã chính thức gởi công hàm đến chính quyền Pháp và làm áp lực trực tiếp trên quyết định của thành phố Paris cho phép dựng bia tưởng niệm Trần Văn Bá vào ngày 27 tháng 9 năm 2008 trong khu vực Á Châu thuộc quận 13. Ngoài ra thông cáo còn cho biết, trong mấy tuần qua, Hà Nội ra lệnh cho mạng lưới tình báo, phá hoại và kiều vận của chúng cũng như nhóm nằm vùng, cò mồi đón gió trong cộng đồng người Việt tại Paris phải bám sát và phá vỡ kế hoạch dựng bia Trần Văn Bá bằng các hình thức ly gián, gây hoang mang trong giới người Việt Tự Do. Ngoài ra Hà Nội đã lợi dụng đường lối ngoại giao kêu gọi các đồng minh cũng như các tổ chức thiên tả làm áp lực với Pháp, đồng thời bày trò cảnh báo chính phủ phải hủy bỏ chương trình dựng bia Trần Văn Bá tại thành phố Paris và bắn tin hăm dọa rằng chúng sẽ mua chuộc bọn biểu tình chuyên nghiệp và đảng cộng sản Pháp gây rối trong ngày khánh thành bia tưởng niệm. Tuy nhiên thành phố Paris đã xác nhận chương trình buổi lễ hoàn toàn không có gì thay đổi.

Theo thông cáo của ban tổ chức xây dựng bia Trần Văn Bá, Hà Nội đã cảnh báo chính phủ Pháp 3 điểm:
    1. Việt Nam có tất cả thẩm quyền để hành quyết Trần Văn Bá.
    2. Quyết định cho dựng bia Trần Văn Bá là một sự can thiệp vào nội bộ của Việt Nam.
    3. Dựng bia vinh danh Trần Văn Bá là hành động gây hấn với chính phủ Việt Nam.
Đây là những luận điệu hàm hồ, thiếu căn bản pháp lý khi lên tiếng "cảnh báo" chính phủ Pháp như thói quen của đảng cộng sản thường ra lệnh cho đàn em trong nội bộ. Chúng tôi có những nhận xét về ba "cảnh báo" của Hà Nội:

1. Bất chấp quy ước quốc tế về đình chiến cũng như tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của một quốc gia, Hà Nội đã xua quân từ Bắc vào chiếm miền Nam thì bất cứ một công dân nào của Việt Nam Cộng Hòa cũng phải có bổn phận đứng lên chống lại hành động cướp nước của kẻ thù. Trần Văn Bá, một thanh niên nhiệt tình, từ Pháp trở về lãnh đạo phong trào chống lại chế độ cộng sản là một hành động đương nhiên và đáng kính phục của một công dân của Việt Nam Cộng Hòa. Chẳng may Trần Văn Bá đã bị Hà Nội bắt sống rồi vội vàng đưa ra xử trước một tòa án rừng rú. Công sản bất chấp quy ước quốc tế về tổ chức pháp lý cũng như nguyên tắc xét xử tù binh chiến tranh cũng như phạm nhân chính trị. Chỉ sau một thời ngắn Hà Nội đã vội vã xử bắn Trần Văn Bá ngay trong khám Chí Hòa để phi tang hành động tội ác trước phản ứng căm phẫn của quốc tế. Trần Văn Bá là một người yêu chuộng tự do, xả thân hy sinh vì đại cuộc được quốc tế vinh danh. Ngày nay, Trần Văn Bá đã trở thành anh hùng của nhân loại, của quốc tế, của thế giới tự do. Nhưng đến giờ nầy Cộng sản Việt Nam vẫn còn nặc mùi căm thù Trần Văn Bá thì càng lộ rõ bộ mặt khát máu cố hữu của Hà Nội.

2. Trần Văn Bá được Pháp đào tạo trở thành một giảng viên đại học, tương lai và sự nghiệp đầy hứa hẹn trên vùng đất tự do, nhưng với tinh thần yêu nước, anh đã bỏ tất cả để dấn thân cho tổ quốc, hy sinh cho tự do dân chủ, là một gương sáng chẳng những cho thế hệ trẻ của Pháp mà chung cho cả nhân loại. Trần Văn Bá đã trở thành anh hùng của thế giới tự do thì xứng đáng được Pháp đứng ra tổ chức dựng bia vinh danh một người do đã Pháp đào tạo. Đó là điều tất nhiên không thể phủ nhận. Hà Nội không thể tráo trở cho rằng việc dưng bia Trần Văn Bá là một hành động can thiệp vào nội bộ Việt Nam vì Trần Văn Bá không còn là người hùng độc nhất của Việt Nam, không phải là kẻ thù riêng của Hà Nội mà anh đã trở nên một gương sáng của nhân loại. Vậy bất kỳ quốc gia nào, thề chế chính trị nào, thời đại nào dựng bia tưởng niệm Trần Văn Bá thì Hà Nội cũng không thể hàm hồ cho rằng can thiệp vào nội bộ Việt Nam.

3. Người Pháp là một dân tộc đứng hàng đầu trong việc tôn trọng tự do nhân quyền con người thì nước Pháp có quyền dựng tượng tôn vinh bất cứ anh hùng, danh nhân lịch sử của bất cứ quốc gia, thời đại lịch sử, khuynh hướng chính trị hay tôn giáo nào trên lãnh thổ của họ. Hôm nay chính phủ Pháp cho phép tổ chức đựng bia vinh danh Trần Văn Bá là đáp ứng nguyện vọng người Pháp gốc Việt đang định cư trên xứ sở của họ, đây là một vấn đề hợp lý, hợp pháp trong một xứ tự do. Chỉ những thành phần khát máu, ít học mới lên tiếng cảnh báo và hăm dọa nước Pháp (!) một cách nhớ ngẩn và buồn cười như vậy mà thôi !.

Paris, 07.09.2008
T.M. Hội Văn Hóa Người Việt Tự Do
Đinh Lâm Thanh

Sunday, September 7, 2008

Trần Văn Giàu, tên đồ tể chưa đền tội ác


Trương Minh Hòa

Cái gọi là ngày "quốc khánh" được đảng Cộng Sản luôn tự hào là: CƯỚP CHÍNH QUYỀN VÀ CHỚP THỜI CƠ TỔNG KHỞI NGHĨA, nhằm kỷ niệm lúc tên Việt gian Hồ Chí Minh lếu láo tại quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945; từ đó hàng năm, đảng siêu cướp Cộng Sản Việt Nam kỷ niệm, đương nhiên là câu huênh hoang đầy gian trá: "không có gì quý hơn độc lập tự do" được lập lại và người dân hiểu rằng: kể từ ngày ấy, nước Việt Nam không còn độc lập, người thì mất tự do; đảng thì "đập lột", còn dân thì "tự lo" quơ quào bằng mọi cách để sống. Như vậy cái gọi là ngày quốc khánh 2 tháng 9, rõ ràng là đảng cướp Cộng Sản Việt Nam đã thành thật khai báo "cướp chính quyền" chớ không phải là "giành lại chính quyền"; điều nầy cũng nói lên thực lực của đảng cướp Cộng Sản, với thiểu số, nhưng nhờ thủ đoạn, tàn ác mà cướp được chính quyền.

Kẻ cướp hãnh diện về thành quả ăn cướp, nên những thằng lâu la "ăn cướp già" cũng thường hay tự hào cái ngày còn "cỡi lưng heo nái bắn nạn dàn thung" phục vụ dưới trướng tên tướng cướp lãnh đạo Hồ Chí Minh, cứ vào mỗi độ 2 tháng 9 về; đó là trường hợp của tên ác ôn Trần Văn Giàu, là con chó già mù mắt, rụng răng, tai điếc, chân đi không vững, đã từng bị tên chủ của nó là Hồ Chí Minh đài đọa, xuýt vong mạng, thế mà ngày nay vẫn vẫy đuôi nhớ tên chủ khốn nạn ấy với niềm tự hào sau một đời "làm chó săn" cho tên chủ thích dùng chó để săn, giữ nhà và cũng thích ăn thịt chó. Loài chó trung thành, nhưng nó trung thành một cách mù quáng, không phân biệt chánh tà, tốt xấu; chó trung thành giữ nhà, dinh thự cho những tên bất lương, chó được chủ ban bố cơm thừa cá cặn, ngay cả lúc nó "đớp cứt chủ" mà vẫn cảm thấy ngon; kể cả khi chủ sắp giết mà nó vẫn vẫy đuôi, đó là con chó Trần Văn Giàu là tiêu biểu, hay có cả những con chó khác, phản tỉnh chạy ra nước ngoài như Bùi Tín, Nguyễn Ngọc Giao ... vẫn vẫy đuôi và coi chủ Hồ Chí Minh là "người yêu nước, nhà cách mạng lão thành" như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Kỳ Ngoại Hầu ... Loài người khác hơn chó ở chỗ là biết phân biệt minh quân và bạo chúa, chánh và tà, nên lòng trung thành thường đặt đúng chỗ; nếu trung thành với hôn quân, nhà độc tài, kẻ gian manh, thì cũng mù quáng không khác gì chó. Ngày xưa ở bên Trung Hoa, nhân vật tướng quân Hoàng Phi Hổ hành xử đúng theo tinh thần "con người" khi nhìn thấy Trụ Vương tàn ác, ham mê tửu sắc nên sang đầu Châu, tiêu diệt hôn quân; ngày nay một số người đã nhìn thấy vài tổ chức chống Cộng dỏm, từng lợi dụng lòng yêu nước của dân chúng để thu tiền trong Mặt Trận kháng chiến cuội...mà vẫn mù quáng đi theo, phục vụ, kể cả những "nhà khoa bảng chuyên gia" dù có bằng cấp cao, thì những kẻ nầy cũng không khác gì là loài chó.

Báo Lao Động trong nước, số 202, ngày 3 tháng 9 năm 2008 có đăng bài viết tựa là: "Gặp Người Diễn Thuyết Năm Xưa Tại Lễ Độc Lập 2 Tháng 9 Năm 1945 ở Saigon". Và có đăng cả tấm hình chụp của Ban Lãnh Đạo tỉnh Long An chụp chung với "con chó già năm xưa của Hồ Chủ Tịch" gọi là Giáo Sư Trần Văn Giàu, nhằm hồi tưởng lại cái ngày mà tên Hồ Chí Minh đọc diễn văn ở ngoài Bắc, thì trong Nam, đám chó Cộng Sản cũng phải "GÂU-GÂU" nịnh theo chủ; tuy nhiên vì kỹ thuật thời đó không cao, nên lời nói của tên chủ không được truyền vào Nam, thế là con chó Trần Văn Giàu đành phải nhảy lên diễn đàn, cương ẩu, phụ họa với chủ cho trọn lòng trung của loài chó. Thời gọi là "kháng chiến mùa thu" khắp nơi rộn ràng với:" Mùa thua rồi, ngày hai mươi ba, ta đi theo tiếng kêu san hà nguy biến ...". Nhưng không ai ngờ là những hy sinh, đóng góp xương máu, tài sản nầy vô ích nầy trong suốt thời gian 9 năm, lại vô tình giúp cho đảng Cộng Sản đi từ "không đến có", gieo tao họa cho đất nước cho đến ngày nay với hàng chục triệu người chết, cả nước đắm chìm trong lạc hậu, mất tự do, dân chủ, độc lập; những người hiểu biết cảm thấy có tội với đất nước vì đã lầm lẫn đi theo cái gọi là "kháng chiến mùa thu" làm lợi cho giặc, nhưng cũng có một số người mù quáng, tự hào cái khoản thời gian "đi theo đảng cướp Cộng Sản, giết người" ấy là "làm cách mạng" và họ cũng tự nhận là "đi làm cách mạng":

"MÙA THU kháng chiến của MÙ THUA.
MÙ THUA theo đảng Cộng MUA THÙ.
MUA THÙ cách mạng MÙ THUA ấy.
MÙ THUA di hại lắm MÙA THU".

Tên chó săn Trần Văn Giàu, thời "kháng chiến mua thù" là nhân vật nồng cốt, tay sai đắc lực và "năng nổ" của tên tướng cướp, sáng lập đảng cướp Cộng Sản Việt Nam là Hồ Chí Minh, Giàu được chủ nó giao cho những chức vụ như: Bí Thư Xứ Ủy Nam Kỳ, Chủ tịch Ủy Ban Khởi Nghĩa Nam Bộ và nhất là các chức "Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ" được dân miền Nam thời ấy biết rõ những hoạt động mờ ám, nhất là qua sự phân biệt đối xử giữa những người nào dại dột chịu đi theo làm tay sai, đóng tiền, vàng, lương thực cho tổ chức; còn những thành phần khác thì coi là "phó thường dân Nam Bộ", nhóm chữ nầy ngày nay vẫn còn nhiều người nhớ đến cái thời "khủng bố" khắp nơi. Trần Văn Giàu chính là tên "lừa thầy phản bạn" từng sang Pháp du học, được người thầy là Tạ Thu Thâu hết lòng giúp đở nơi xứ người, nhưng sau đó Giàu đi theo Cộng Sản Đệ Tam, còn Ta Thu Thâu là Đệ Tứ, nên khi về nước, Giàu đã sát hạ thầy, các "đồng chí đệ tứ" một cách tàn bạo. Đây là bài học mà những ai còn tin, nghe theo đảng Cộng Sản, chính những người cùng ý thức hệ Karl Marx, chỉ khác nhau "hệ phái" là làm thịt nhau thật dã man, huống chi là những người không theo Marx. Những ai ở hải ngoại còn mơ mộng "hòa hợp hòa giải, xóa bỏ hận thù, dị biệt chánh kiến, cùng nhau xây dựng đất nước và cùng nhau đoàn kết chống Trung Cộng" thì nên lấy bài học nầy để làm kinh nghiệm, và lấy câu châm ngôn: "hòa hợp hòa giải với Cộng Sản là tự sát".

Bản thân Trần Văn Giàu, thời thanh niên, nổi tiếng là người thông minh, nhưng cái trí thông minh ấy lại được xử dụng trong những mục tiêu bất chánh, là đem tài trí phục vụ cho đảng cướp Cộng Sản, trở thành đại họa cho dân tộc, chính hắn gây biết bao nợ máu với dân thời Việt Minh, với xác người trôi sông, bị chặt đầu, mổ bụng, xỏ xâu ... trên cánh đồng thì ngập xác người, mồ chôn tập thể và nhất là đám Cộng Sản nầy tàn sát biết bao tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, ngay cả đức thầy Huỳnh Phú Sổ, cũng từng bị mưu sát và sau cùng bị ám hại tại Đốc Vàng Hạ, làng Tân Phú, trong lần Việt Minh do đại diện là tên Bửu Vinh, đồng bọn của Trần Văn Giàu, dàn cảnh mời hợp lúc 7.30 tối ngày 16 tháng 4 năm 1947.

Cũng giống như hầu hết những tên ác ôn như Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong ... Trần Văn Giàu từng được thụ huấn phương cách tuyên truyền, khủng bố, gian manh tại trường Công-Nông Phương Đông tại Mạc Tư Khoa, hắn học sau Hồ vài năm, là người học giỏi, cuối khóa, các học viên phải làm luận án, trong số 3 luận án hay thì Trần Văn Giàu đứng nhất, người thứ nhì là Tito (sau làm tổng bí thư đảng Cộng Sản Nam Tư) và hạng ba là Thereze (sau là tổng bí thư đảng Cộng Sản Pháp). Để tưởng thưởng, nhà độc tài Staline tặng mỗi người một tấm ảnh, có chữ ký tên phía sau. Chính điều nầy mà Hồ Chí Minh ghét Trần Văn Giàu, cộng thêm cái tinh thần kỳ thị, nghi kỵ Bắc Nam của Hồ. Sau thời kỳ giết người như rạ, sợ uy tín của đám cán bộ gốc miền Nam lên cao, nên lần lượt Hồ triệt hạ hầu hết những: "mầm móng" nầy. Nổi bật là vụ giết trung tướng Nguyễn Bình (Nguyễn Phương Thảo), Trần Bạch Đằng khôn hơn, đôi ba lần được Hồ triệu về bắc mà không đi nên thoát chết. Trần Văn Giàu cùng với một tên đồng bọn sát thủ khác là Dương Bạch Mai, ra bắc và bị đì tối đa: Dương Bạch Mai bị Hồ ra lịnh cho Mai Chí Thọ cho người đầu độc bằng ly nước trà trong kỳ hội thảo đảng bộ; còn Trần Văn Giàu thì bị cho ngồi chơi xơi nước, quản chế, ngồi viết "tự kiểm" dài dài, giảng dạy những lý thuyết vể chủ nghĩa Marx Lenin trường đại học ở miền Bắc, thay vì hắn được làm những chức vụ tương xứng với khả năng (hầu hết những chức vụ nầy dành cho cán bộ gốc Bắc, nhất là cùng quê quán với Hồ Chí Minh). Ung Văn Khiêm ra Bắc, bị xài một thời gian, kể cả lúc làm thứ trưởng ngoại giao, vâng lịnh Hồ, cút cung tận tụy, với công hàm công nhận quần đảo Hoàng Sa thuộc Trung Cộng vào năm 1956, làm nền tảng cho bức công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng 1958; Tôn Đức Thắng cũng không được Hồ sử dụng, dù Thắng là một trong những người hiếm hoi nhận được huy chương Lenin, được coi là cao quý nhất của khối Cộng Sản. Sau 1954, nhiều người miền Nam đã lầm tập kết ra bắc, nên vụ trung đoàn 99 của trung đoàn trưởng Đồng Văn Cống (cai tổng Cống), vào năm 1955, từ huyện Lương Sơn, tỉnh Thanh Hóa, giả vờ tập trận, với phân nữa quân số, lấy quân xa thẳng vào Nam, Hồ cho Đồng Văn Cống rượt theo, hai bên đụng độ, mới chết, mớ vượt sông vào Nam, về quê sinh sống.

Thời kháng chiến đánh Tây, đảng Cộng Sản không có thế lực, cũng không có quân số, chỉ lừa bịp lập ra các cơ chế "Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ" do Trần Văn Giàu làm chủ tịch, từ đó đưa người vào nắm những đơn vị quân dân tự võ trang miền Nam và dần dần dùng thủ đoạn khống chế, khuynh đảo, biến những đơn vị quân sự thành công cụ cho Cộng Sản. Những đơn vị kháng chiến tự phát dần dần rơi vào tay các tên Cộng Sản, trong ba trường hợp:

- Vì lầm tưởng chống ngoại xâm, đánh Tây giành độc lập nên chấp nhận sự chỉ huy của những tên Cộng Sản lồng vào qua sự tiến cử của Ủy Ban Khởi Nghĩa, Kháng Chiến Nam Bộ, nhưng sau đó cũng bị thanh toán, thủ tiêu để không ai có mưu đồ bất phục tùng, diệt trừ hậu hoạn.
- Những ai biết rỏ tâm địa gian ác, thì bị thủ tiêu, ám sát.
- Những ai âm thầm chịu đựng, rồi sau đó tìm cách bỏ trốn, bị chụp mũ là" phản bội" đầu hàng giặc.

Theo tài liệu của Hứa Hoành, thì lúc đó, thời " nam bộ kháng chiến", ở nhiều tỉnh miền Nam đã có tới 25 chi đội chiến đấu, mỗi chi đội có quân số từ vài trăm đến một ngàn quân, vũ khí tự lực, tinh thần chiến đấu rất cao, tiêu biểu:

- Chi đội do Huỳnh Kim Trương, tức là cò Trương chỉ huy-Chi đội do nhóm Bình Xuyên thành lập từ 1945 do Hai Soái, Ba Dương chỉ huy, cuối năm 1946, Việt Minh cho tên Từ Văn Ry (Henry Từ) vào, rồi ám sát Ba Dương trong trận độ với Tây, âm mưu bị lộ nên chúng giết tên Henry Từ để bịt đầu mối.-Chi đội cũng của Bình Xuyên, do Bảy Môn chỉ huy, theo cánh Bảy Viễn.

- Chi đội do Mười Trí tức là Huỳnh Minh Trí chỉ huy. Sau khi ám sát Ba Dương, rồi âm mưu thanh toán Bảy Viễn thất bại, Việt Minh mua chuộc được Mười Trí, đầu tiên tự phong là "sư thức Hòa Hảo" để lôi kéo tín đồ, sau đó bí mật ám sát đức thầy Huỳnh Phú Sổ nhưng bất thành; từ đó tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo biết rõ tên Mười Trí nên tẩy chay.

- Chi đội Tư Đức, do Phạm Hữu Đức chỉ huy-Chi đội cũng do Bình Xuyên, do Huỳnh Văn Thảo (Giáo Thảo), thuộc Cao Đài chỉ huy

- Chi đội Bảy Viễn ..v...v....

Tóm lại, ở miền Nam, cái gọi là "kháng chiến mùa thu" chỉ là trò bịp, vì Việt Minh không có quân, chỉ dùng cái vỏ bọc "Ủy Ban Khởi Nghĩa Nam Bộ" với một số tên cán bộ nòng cốt, lòn người, xâm nhập, khuynh đảo; đây là cuộc kháng chiến "ốc mượn hồn". Với những thủ đoạn có bài bản mà Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai và đồng bọn áp dụng, nên tất cả 25 chi đội võ trang miền Nam lần lượt lọt vào tay của Cộng Sản, họ chiếm các chức chính trị viên nên trở thành công cụ cho đảng Cộng Sản Việt Nam. Biết bao xương máu của người dân miền Nam bị lợi dụng qua tay trung gian Trần Văn Giàu cho tên chủ Hồ Chí Minh, tội ác của hắn dẫy đầy, chỉ riêng thành phần "có học" cũng lên đến hàng ngàn người bị thủ tiêu, giết hại, ném xác trôi sông, vất trên cánh đồng. Chính bọn Trần Văn Giàu đã hạ lịnh tàn sát hàng ngàn tín đồ Phật giáo Hòa Hảo.

Theo tài liệu của Hoàng Quốc Kỳ, trong quyển "Ma Đầu Hồ Chí Minh" cho biết: số là đầu tháng 9 năm 1945, đồng bào Phật Giáo Hòa Hảo với tay không, kéo về Cần Thơ biểu tình, bị Việt Minh chụp mũ vào tội "chống đối", nên ra lịnh cho Vệ Quốc Đoàn bắn vào đám đông, tàn sát không gớm tay; tên sát thủ Nguyễn Văn Nghệ, là tay súng tiểu liên trong đội quân nầy đã thuật là: "tụi Hòa Hảo gan cùng mình, lớp nầy ngã xuống, lớp khác tiến lên, cả đàn bà, con nít cũng vậy. Bóp cò đền run cả tay, máu loang đỏ cả mặt đường mà chúng vẫn nhào vô họng súng. Chiến sĩ ta đã tản thần, nhưng lịnh bắt là phải bắn tiếp ...". So với các lực lượng kháng chiến khác, thì Hòa Hảo là đáng quan ngại nyất, nên Hồ Chí Minh tìm đủ mọi cách để triệt hạ Phật Giáo Hòa Hảo, cái Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ của Trần Văn Giàu lãnh đạo, chỉ là vỏ bọc, bên trong là nơi quy tụ thành phần "đầu trộm đuôi cướp, du thủ du thực" được tuyển chọn và phong chức, sẵn sàng ra tay giết người theo lịnh đám đầu lãnh, chúng từng giết ông Huỳnh Thạnh Mậu là anh ruột của Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, bắt cóc Hai Ngoán (tức là thiếu tướng Lâm Thành Nguyên) bỏ vào bao bố, quăng xuống sông cho đi "mò tôm" (đây cũng là một trong nhiều cách giết người man rợ của đám Việt Minh do Trần Văn Giàu chỉ huy), nhờ võ nghệ cao, nên Hai Ngoán tự giải thoát.

Cuộc kháng chiến "mù thua" coi như tạm thời lắng đọng khi miền Bắc là chiến trường chánh, với sự chuẩn bị cho Điện Biên Phủ, nên vào cuối năm 1953, nhiều trung đoàn chủ lực bị giải thể và miền Bắc thành lập các sư đoàn 304, 308, 416, 320 ... đó cũng là lý do mà Hồ Chí Minh và đồng đảng lo ngại miền Nam có khả tăng tách rời, tự trị theo kiểu Nam Kỳ Quốc, nên giải tán các đơn vị miền Nam, chia thành hai phân khu "miền Đông và miền Tây, mỗi nơi chỉ còn một tiểu đoàn chủ lực; giai đoạn Lê Duẫn thay Hà Huy Giáp chức bí thư thứ nhất miền Bắc, ở miền Nam thì Phạm Hùng thay Ba Diệp chức gián đốc công An nam bộ ...

Ngày 2 tháng 9 gọi là "quốc khánh" được hâm nóng như loại "microwave" và con chó già mờ mắt, rụng răng Trần Văn Giàu lại như sống lại chuỗi ngày theo đảng cướp, nhớ lại cái thời quyền hành sanh sát trong tay như vua chúa, bàn tay hắn nhuốm máu biết bao người dân oan vô tội, bị giết một cách dã man, chụp mũ là "Việt gian" nhưng do chính những tên Việt gian đội lớp kháng chiến dưới sự chỉ huy của Trần Văn Giàu. Một tên gây quá nhiều nợ máu với đồng bào, thế mà vẫn nằm ngoài vòng pháp luật, tòa án quốc tế, nhi nhô nói về cái ngày mà tên chủ của hắn lếu láo tại Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945, như muốn "tìm lại chút mặt trời trong ly nước lạnh".

Trương Minh Hòa

Những kỹ sư thổi ống đu đủ


Trần Thanh

Nếu có người nào nêu thắc mắc: - Ai là ông tổ của nghề "thổi ống đu đủ và thổi kèn" thì tôi sẽ trả lời ngay không một chút suy nghĩ: - "bác Hồ" tức Hồ-Chó-Minh! (Xin xem hình A)
Hình A.
Khi nghe tôi trả lời như vậy, chắc bạn ấy sẽ kêu lên kinh ngạc:

- Lại bác Hồ! Sao bác Hồ biết nhiều nghề quá vậy? Hồi trước, ông Trần Thanh đã viết một bài cho rằng bác Hồ là ông tổ của nghề làm đĩ, tức bác là thần bạch mi, bây giờ lại thêm những tiết lộ mới về những "nghề" của bác!!!

Nếu bạn đòi tôi phải chứng minh thì tôi rất sẵn sàng. Tuy nhiên, trước khi chứng minh thì tôi cần giải thích rõ về hai cái "nghề" này:

- Nghề thổi ống đu đủ là nghề dùng ống đu đủ, cắm vào đít của người mình muốn thổi, rồi thổi thật mạnh và liên tục cho đến khi nào đối tượng được phình lớn lên như ý họ muốn. Ví dụ, một con nhái muốn to bằng con bò thì ta phải thổi như thế nào cho nó "to lớn" bằng con bò thật, còn sau đó nếu nó có bị nổ tung thì lại là chuyện khác!

- Nghề thổi kèn là nghề ngậm con .... cu của đối tượng rồi thổi liên tục cho đến khi nào "kèn" bị .... xẹp! Tiếng Việt bình dân người ta gọi là .... "bú cu"!

Đó là phần giải thích về nghĩa đen, còn về nghĩa bóng thì đây là "nghề" của hạng người chuyên luồn cúi, nịnh bợ rất hèn hạ, sẵn sàng bán rẻ lương tâm, nhân cách của mình để đổi lấy những ân huệ hoặc những quyền lợi về vật chất. Nói là "bán rẻ lương tâm, nhân cách" chớ thật ra bọn này làm gì có lương tâm, nhân cách mà bán! Bọn này còn hèn hơn những con chó, vì loài chó do trời sinh vốn trung thành với chủ, ăn cây nào rào cây nấy. Còn bọn này tuy cũng đi bằng hai chân nhưng bản chất của chúng là loài thú với tâm địa phản trắc!

NHỮNG BẰNG CHỨNG VỀ "BÁC" HỒ LÀ ÔNG TỔ CỦA NGHỀ THỔI ỐNG ĐU ĐỦ VÀ THỔI KÈN:
Hình B

1. "Bác" Hồ đã thổi kèn cho "bác" ..... Trần Dân Tiên! (Xin xem hình B) Chưa hết, "bác" Hồ còn thổi ống đu đủ cho bác T. Lan nữa! Nếu có ai thắc mắc hai "bác" Trần Dân Tiên hoặc T. Lan là ai thì xin đọc lại bài cũ "Nguyễn Chí Thiện, "đuốc sống" Lê Văn Tám và "Đóa Hồng Gai" Nguyễn Thị Nga" đã đăng trên Tin Paris.

2. "Bác" Hồ đã thổi kèn cho "bác" Xít-Ta-Lin và "bác" Mao qua câu nói "nổi tiếng": - Ai sai thì sai chớ hai ông Xít-Ta-Lin với ông Mao thì không thể sai!
Mỗi khi cần thề thốt điều gì thì người ta thường hay chỉ tay lên trời mà thề: - Tôi thề có trời cao chứng kiến ..... Còn cái kiểu "thề" của "bác" Hồ thì lạ lắm: bác chỉ tay xuống dưới đất! Chẳng hạn như hồi thập niên 1950, lúc sang Trung Quốc gặp Mao Trạch Đông, "bác" Hồ đã chỉ tay xuống dưới đất mà thề rằng:
Hình C.
- Dạ, em xin thề với ngài Mao rằng cho tới khi chết xuống dưới địa ngục A Tỳ, em sẽ mãi mãi trung thành với ngài, ăn cứt cho ngài đời đời kiếp kiếp! (Xin xem hình C)

Trong suốt thời gian cầm quyền, Hồ đã truyền lại nghề "thổi kèn" và "thổi ống đu đủ" cho tên đệ tử Tố Hữu. Không phụ lòng thương của chủ, tên khuyển tặc Tố Hữu đã thổi Lê Nin, Xít-Ta-Lin và Hồ Chí Minh lên tới trời xanh! (nhưng sau đó đã bị nổ đánh bốp rồi lao thẳng xuống dưới địa ngục!) Sinh nghề tử nghiệp, kẻ nào đùa giỡn với ống đu đủ thì sẽ chết vì ống đu đủ, câu châm ngôn này thật là chí lý: tên Tố Hữu đã bị chết thê thảm vì bệnh ung thư cuống họng!!!

Kể từ sau năm 1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã có đại học mang tên là Trần Dân Tiên, chuyên đào tạo các văn nô, nhạc nô, thi nô để thổi kèn và thổi ống đu đủ cho "boác" Hồ! Tố hữu đã được Hồ Chó Minh bổ nhiệm làm tên chủ trường (hiệu trưởng) đầu tiên. Nói chung, toàn bộ nền giáo dục của bọn việt gian cộng sản là nền giáo dục "trần dân tiên", tức là đào tạo ra những con người để làm .... nô lệ! Toàn bộ đầu óc của người dân đều bị mã hóa "trần dân tiên", tức là thường xuyên bị nhồi nhét cái tư tưởng sau đây vào tâm thức:

- Tôi là nô lệ cho đảng và bác Hồ. Tôi sinh ra là để làm nô lệ và sẵn sàng chết cho bác và đảng!

Cái tư tưởng này đã được nhồi nhét vào đầu một đứa bé khi nó còn nằm trong bụng mẹ, và khi ra đời, lớn lên, tư tưởng đó liên tục được nhồi nhét 24 trên 24 cho đến khi người nô lệ đó chết! Sở dĩ tôi nói nhồi nhét 24 trên 24 vì trong mọi mối quan hệ và sinh hoạt trong xã hội, cái tư tưởng đó luôn luôn hiện hữu để chui sâu vào đầu, thấm thêm sâu vào máu, bám chặt vào từng tế bào của từng con người. Khi một người về nhà thì cái tư tưởng "trần dân tiên" nó đi theo người đó vào trong nhà qua ngã truyền thanh, truyền hình, điện thoại, e-mail, internet, sách báo, truyện!!! ..v..v... Thật là dễ sợ và kinh khủng!

Đó là một trong những biện pháp mà bọn việt gian cộng sản đã áp dụng để củng cố ách cai trị của bọn chúng trong suốt 60 năm qua!

Người ta ước lượng rằng ngân sách quốc gia của bọn việt gian cộng sản thường chi:

- 50% cho công tác tuyên truyền, nhồi sọ, áp dụng trong nước lẫn ngoài nước (trong đó có nghị quyết 36)
- 40% cho việc củng cố đảng, phát triển đảng, nuôi âm binh công an và bộ đội, xây thêm nhà tù, mua thêm roi điện, còng số tám và lựu đạn cay.
- 10% trả lương cho giới công nhân viên chức

Bọn chúng sẵn sàng bắt toàn dân phải hy sinh ăn đói, mặc rách, bụng đói cồn cào vì thiếu cháo cầm hơi nhưng cái "món ăn" .... cứt bác Hồ thì không thể thiếu, không muốn ăn cũng phải bị ăn, bị cạy miệng ra mà nhét vào! Tất cả các lãnh vực khác đều phải bị hy sinh, ví dụ như mở mang đường xá, xây dựng bến cảng, phi trường, phát triển khoa học kỹ thuật ..v..v..

Ngày nay, bọn việt cộng có "văn minh" hơn, cho cải biến món "cứt bác Hồ" (hay còn gọi là món ăn "trần dân tiên") thành các món như "hoa hậu", "người mẫu chân dài" nhưng tất cả cũng chỉ là bịp bợm. Thằng dân đen đói vẫn hoàn đói. Một anh cu li xe ba gác ngồi húp một tô cháo độn khoai mì trong khi đó cái truyền hình thì đang chiếu cảnh thi hoa hậu thế giới tại Nha Trang. Vừa ăn vừa nhìn mấy con đĩ ngựa bước đi uốn éo trên sàn diễn, bụng anh ta càng thêm đói chớ không no thêm được chút nào, tâm trạng của anh ta càng thêm tủi thân!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRẦN DÂN TIÊN TẠI QUẬN CAM, TIỂU BANG CA LI PHOÓC NI A, NƯỚC MỸ:

Đọc đến đây chắc có bạn sẽ ngạc nhiên, kêu lên:

- Ủa, đại học "Trần Dân Tiên" cũng có chi nhánh ở nước Mẽo? Nhà lước ta sao mà tài thế, xuất khẩu "boác" Hồ đi khắp nơi!

Có gì lạ đâu mà ủa với à! Hết 50 phần trăm ngân sách quốc gia của việt cộng được dùng vào việc tuyên truyền mà! Bọn chúng còn dự trù xây dựng tượng đài của "boác" ở tại Mễ Tây Cơ nữa đấy!

- Thế thì cái trường đại học đó nó nằm ở chỗ nào, số mấy, đường gì, thành phố nào? Chúng tôi phải đến xem tận mắt mới được. Ai là hiệu trưởng của trường này?

- À, trường này ở số ..... đường ..... thành phố Garden Grove. Trường này do đồng chấy Đỗ Éng làm hiệu trưởng với sự cộng tác của hai nhà cách mạng lão thành là đồng chấy Ngu Như Rận và đồng chấy Buồi Pín!

Từ khi được thành lập cho đến nay, trường đã đào tạo được khoảng 100 kỹ sư thổi ống đu đủ và thổi kèn. Một số sau khi tốt nghiệp đã được gởi về Việt Nam để phục vụ cho bộ chính trị và trung ương đảng. Một số khác đang tiếp tục theo học chương trình cao học và tiến sĩ tại trường đại học gốc Trần Dân Tiên tại Hà Nội.

Thu nhập của các kỹ sư thổi ống đu đủ và thổi kèn rất cao, có thể nói cao gấp ba lần thu nhập của các bác sĩ gia đình! Nếu các đồng chí nào may mắn được phục vụ cho bộ chính trị hoặc trung ương đảng của việt gian cộng sản thì có thể kiếm được một năm trên một triệu đô la! Tuy nhiên, sinh nghề thì tử nghiệp: một số đồng chí, sau một vài năm công tác, đã bị ung thư miệng lưỡi và cuống họng rồi chết rất thê thảm, tiền bạc kiếm được cũng không thể đem theo xuống âm phủ để xài! Những tên đầu gấu trong bộ chính trị chuyên ăn thai nhi và uống rượu "thập tam mạc xử nữ" (13 cái màng trinh của con gái) cho nên .... cứt và tinh khí của bọn chúng hôi thúi và độc vô cùng. Đó là lý do vì sao nhiều "kỹ sư" đã toi mạng!!!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRẦN DÂN TIÊN TẠI PHÁP

Lại có người thắc mắc, ngạc nhiên:

- Ủa, cũng có chi nhánh tại Pháp nữa sao? Bác Hồ sao mà tài quá, ở chỗ nào trên trái đất này cũng có mặt bác! Địa chỉ của trường này ở đâu?

Xin thưa, cái trường này có tên là "Đại học nhân văn hải ngoại" hay còn gọi là Trung tâm văn hóa Nguyễn Trường Tộ. Tên tiếng Tây là Association Convergence (giao điểm)

Ai cũng biết nhóm Giao Điểm là cái ổ rắn độc của việt cộng, cũng tựa như cái diễn đàn Đàn Chim Việt. Cứ nhìn vào danh sách các cây viết "gạo cội" như: Hà Giang, Bùi Kha, Phan Thích Nhật Từ, Trần Chung Ngọc là ta có thể biết họ thuộc dòng họ cây đu đủ hay cây kèn! Những người này là trí thức, có sự hiểu biết vững vàng nhưng họ không có cái gan đứng thẳng lên để làm người mà cam phận đi làm nô lệ cho giặc cộng, luồn trôn, bợ đít, dùng cây kèn và ống đu đủ để kiếm ăn, vinh thân phì gia!

Đại học "nhân văn" chủ trương "giao lưu" văn hóa, hợp tác văn hóa giữa người Việt trong và ngoài nước. Người Việt ở hải ngoại thì có văn hóa. Đồng ý.

Còn ở trong nước?

Ở trong nước làm gì có văn hóa mà trao đổi? Muốn trao đổi một cái gì thì hai bên phải có thực lực. Ông mất chân giò, bà thò chai rượu. Cái gọi là "văn hóa" ở trong nước thật ra chỉ là .... cứt của "bác" Hồ! Toàn là những thứ rác rến, lếu láo do đám bồi bút thổi ống đu đủ viết theo mệnh lệnh của chủ nhân ông việt gian cộng sản!

Bây giờ bọn việt gian cộng sản đem nhuộm màu cứt của bác Hồ, pha chế thêm gia vị, biến nó thành nhiều loại đặc sản "đậm đà hương dzị quê hương", mang nhiều "bản sắc dân tộc" (như giọng đọc của Tú Trinh trong những CD quảng cáo du lịch), đem xuất khẩu hoặc "trao đổi" (giao lưu) với các cộng đồng người Việt ở hải ngoại! Sách truyện ở Việt Nam ồ ạt tràn vào các thư viện cộng đồng ở Mỹ và Canada. Sách cho không biếu không mà! Tuy nhiên, ảnh hưởng của nó không đáng kể vì hầu như thế hệ trẻ không có ai đọc. (có biết tiếng Việt đâu mà đọc!) Còn thế hệ già thì đọc cho vui chớ khả năng để "cải tạo" tư tưởng của họ thì còn khuya! Đấy, bọn đầu gấu hãy căng mắt ra mà nhìn, đã trên 20 năm tuyên truyền, tiêu phí hàng tỷ đô la mà có bao nhiêu việt kiều đem tiền về đầu tư ở Việt Nam? Có bao nhiêu chất xám của việt kiều tình nguyện về Việt Nam giúp dân, giúp nước? Hay chỉ có Thập-bát-đại-lòn-háng việt kiều, 18 cái khuôn mặt khỉ, mặt mốc, mặt trơ trán bóng mà nhà lước ta năm nào cũng vinh danh và ca ngợi?

Đại học nhân văn ai là hiệu trưởng hay chỉ có một anh kỹ sư quèn, chuyên viên thổi ống đu đủ đứng ra làm ông từ quét dọn đền miếu? Các giáo sư giảng dạy có những bằng cấp như thế nào? Phải chăng là bằng "tiến sĩ" chợ Đồng Xuân hay "tiến sĩ" chợ trời Huỳnh Thúc Kháng ở Sài Gòn, xìa ra 200 đô là lấy cái "bằng" tiến sĩ le lói, in màu sáng chói, đem về nhà treo trên tường coi chơi cho dzui và dợt le với bà con lối xóm?

Như trên đã nói, "nghề" thổi ống đu đủ và thổi kèn có thể kiếm được nhiều tiền nhưng không bền. Sau vài năm hành nghề, một "kỹ sư" có thể kiếm được bạc triệu đô la nhưng nguy cơ tử vong rất cao. Đã có nhiều người bị chết vì bị ung thư cuống họng, ung thư miệng, môi và lưỡi! Lý do vì tinh khí của bọn đầu gấu rất độc vì bọn chúng thường xuyên ăn thai nhi. Người "thổi kèn" bắt buộc phải nuốt những chất độc đó vào người chớ không được nhả ra! Còn nghề thổi ống đu đủ cũng phải thường xuyên nuốt những "chất bổ" phun ra từ những hậu môn! Cứt của những kẻ thường xuyên uống máu của đồng bào qua loại rượu "Thập tam mạc xử nữ" chắc chắn phải là rất độc!

Vì vậy nên xin can:

- Những ai đã lỡ tay trót nhúng chàm thì nên từ bỏ "nghề" đi ngay lập tức. Đừng có vì ham tiền mà chết không kịp hối. Khi chết, quý vị có đem theo được bạc triệu đô la xuống dưới âm phủ không?
- Những ai đang ngấp nghé muốn làm thử nghề này thì nên coi tấm gương của tên Hồ Chó Minh và Tố Hữu. Hắn đã chết khô xác rồi mà toàn dân vẫn nguyền rủa hắn mãi mãi không thôi. Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ!

Trần Thanh
Ngày 6 tháng 9 năm 2008

Saturday, September 6, 2008

Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Úc châu hỗ trợ và hiệp thông cung Giao Xứ Thái Hòa

TUYÊN UÝ ĐOÀN CỘNG ĐỒNG CÔNG GIÁO VIÊT NAM ÚC CHÂU
VÀ NGUYỆT SAN DÂN CHÚA ÚC CHÂU
XIN HIỆP THÔNG, CẦU NGUYỆN, VÀ ĐỒNG HÀNH
VỚI GIÁO XỨ THÁI HÀ, TỔNG GIÁO PHẬN HÀ NỘI, VIỆT NAM.

Australia, ngày 1 tháng 9 năm 2008

Kính thưa: Cha Matthêu Vũ Khởi Phụng, Bề Trên, Chính Xứ Thái Hà,
Kính thưa Quý Cha, Quý Tu Sĩ, và Cộng Đồng Dân Chúa Giáo Xứ Thái Hà,
Tổng Giáo Phận Hà Nội, Việt Nam.

Từ tháng 12 năm 2007và nhất là từ tháng 1 năm 2008, khi được biết những khó khăn, phức tạp, với những thách đố và những đàn áp cưỡng bức của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam áp đặt lên toàn thể Cộng Đồng Dân Chúa tại Hà Nội qua sự kiện Toà Khâm Sứ, và nhất là qua sự trấn áp kinh hoàng của công an và nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đối với Giáo Xứ Thái Hà, qua các cơ quan truyền thông Công Giáo nói riêng và các cơ quan truyền thông Quốc Tế nói chung, Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Úc Châu chúng con đã liên tục theo dõi, đồng hành, và cầu nguyện hiệp thông với Quý Cha, Quý Tu Sĩ Nam Nữ, và toàn thể Cộng Đồng Dân Chúa tại Giáo Xứ Thái Hà.

Đặc biệt khi chúng con biết được sự kiện xảy ra việc bạo hành của nhân viên an ninh trấn áp đánh đập đối với những giáo dân Thái Hà vô tội trong buổi chiều ngày 28.8.2008, nhất là sự kiện công an xịt hơi cay vào Linh Mục, giáo dân Thái Hà và đồng bào Việt Nam đang có mặt nơi Linh Địa Đức Bà vào lúc 8.45 tối Chúa Nhật ngày 31.8.2008. Nhìn thấy những giáo dân Giáo Xứ Thái Hà bị thương tích đầy máu me trong đêm đàn áp và khi thấy quý bà và các em thiếu nhi nhỏ bé nhiễm độc hơi cay, lòng chúng con xót xa và thương cảm. Những sự kiện này đang gây nên những phẫn uất và bất bình nơi những người dân Úc Châu nói chung, và đặc biệt nơi những người Úc gốc Việt nói riêng.

Trong tâm tình hiệp thông, cầu nguyện, đồng hành, và hỗ trợ cho Quý Cha, Quý Tu Sĩ, và anh chị em thương mến của Giáo Xứ Thái Hà, Tuyên Uý Đoàn chúng con đã thông tin cho nhau qua các Cộng Đồng và Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Úc Châu, qua các cơ quan truyền thông báo chí, những tin tức, và khuyến khích các Cộng Đồng và Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam hiệp ý cầu nguyện và hiệp thông với Quý Cha, Quý Tu Sĩ, và anh chị em thương mến của Cộng Đồng Dân Chúa Giáo Xứ Thái Hà, Tổng Giáo Phận Hà Nội trong hoàn cảnh khó khăn đặc biệt này. Trong các Thánh Lễ cuối tuần vào Chúa Nhật 31.8 vừa qua, chúng con cũng đã hiệp thông và cầu nguyện nhiều cho Quý Cha, Quý Tu Sĩ, và anh chị em thương mến của Giáo Xứ Thái Hà.

Tuyên Uý Đoàn và Nguyệt San Dân Chúa của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Úc Châu chúng con qua lá thư này, khẳng định sự Hiệp Thông và Đồng Hành hoàn toàn với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam nói chung, đặc biệt với Quý Cha, Quý Tu Sĩ, và anh chị em thương mến của Giáo Xứ Thái Hà nói riêng, trong hoàn cảnh khó khăn, phức tạp, và nhiều thách đố của giai đoạn hiện tại.

Chúng con hoàn toàn tán thành và ủng hộ đường lối đối thoại ôn hòa, trong sự tôn trọng Hiến Pháp và Quyền Tự Do Tôn Giáo, cũng như tôn trọng sự thật và công bằng do Quý Cha, Quý Tu Sĩ, và anh chị em thương mến của Giáo Xứ Thái Hà, dựa vào đường lối chung của Giáo Hội với chủ trương theo đúng Tin Mừng.

Đồng thời, Tuyên Uý Đoàn và Nguyệt San Dân Chúa Úc Châu chúng con cũng tha thiết kêu gọi Quý Cộng Đồng Người Việt Tự Do, Quý Cộng Đồng, Quý Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam, Quý Phong Trào Đoàn Thể, Quý Cơ Quan Nhân Quyền, Quý cơ quan truyền thông báo chí, và toàn thể Quý Đồng Hương Việt Nam tại Úc Châu và trên toàn thế giới, cùng hiệp thông với chúng con, cầu nguyện, đồng hành, và hiệp thông đặc biệt với Giáo Xứ Thái Hà trong lúc khó khăn và đầy thách đố gian nan này. Chúng con mong mỏi và ủng hộ các buổi tổ chức Cầu Nguyện và Thắp Sáng trong các Giáo Xứ, các Cộng Đồng, các Cộng Đoàn địa phương, để cầu nguyện cho Quê Hương Việt Nam chấm dứt những hành vi đàn áp và nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam luôn biết tôn trọng Nhân Quyền cũng như Quyền Tự Do Tôn Giáo.

Trong tâm tình hiệp thông và đồng hành, chúng con cầu nguyện cho tất cả những tranh chấp và những bất hòa, được giải quyết trong công lý hoà bình và yêu thương. Nguyện xin Chúa của Hoà Bình và Mẹ La Vang, Mẹ Quê Hương Việt Nam, ban hoà bình, hạnh phúc, yêu thương trong công lý trên mọi người Dân Việt Nam nói chung, và đặc biệt cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam nói riêng, nhất là cho Quý Cha, Quý Tu Sĩ, và anh chị em của Giáo Xứ Thái Hà thương mến.

Trong Chúa Kitô.

Trân trọng,

LM. Phêrô Nguyễn Minh Thuý, Đại Diện Tuyên Uý Đoàn, CĐCGVN Úc Châu.
LM. Phêrô Bùi Xuân Mỹ, Phó Đại Diện Tuyên Uý Đoàn, CĐCGVN Úc Châu.
LM. Phaolô Chu Văn Chi, Tổng Thư Ký Tuyên Uý Đoàn, CĐCGVN Úc Châu.
LM. Anthony Nguyễn Hữu Quảng, Chủ Nhiệm Nguyệt San Dân Chúa Úc Châu.

BẢN LÊN TIẾNG CỦA PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀI GÒN HỖ TRỢ GIÁO XỨ THÁI HÀ


PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀIGÒN
P.O Box 17-516, Greenlane.
Auckland – NEW ZEALAND
P.O Box 660935, Arcadia, CA 91066 – USA
Website: http://www.saigonforsaigon.org/
Email: s4s@saigonforsaigon.org


Với ý chí cương quyết đòi lại sự công bằng, hàng ngàn tín hữu Công Giáo Giáo xứ Thái Hà thuộc Tổng Giáo Phận Hà Nội thắp nến cầu nguyện để đòi lại phần đất đai cơ sở của Giáo Hội đã bị bạo quyền Cộng sản ngang nhiên cưỡng chiếm dùng vào những việc bất chính từ nhiều năm nay. Làn sóng cầu nguyện trong tinh thần bất bạo động khởi sự từ ngày 18-12-2007 cho đến nay, từ Hà nội tràn vào Sàigòn có lúc số giáo dân lên tới 4, 5 ngàn người và hàng trăm linh mục, tu sĩ, đã cho thấy rõ rệt: tình trạng công lý không có, đời sống tâm linh bị suy thoái, nhân phẩm và nhân quyền của người dân bị chà đạp.

Trong tinh thần hiệp thông:

PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀIGÒN hỗ trợ tinh thần tranh đấu cho sự Công Bằng của quý Giáo Sĩ và Giáo Dân tại Giáo xứ Thái Hà. Một mặt đòi lại cơ sở vật chất của Giáo Hội, nhưng mặt khác còn nhân danh Tin Mừng, nhân danh Tình Thương, nhân danh những thành phần thấp cổ bé miệng trong xã hội trước vấn nạn nhân phẩm và những quyền căn bản của con người bị tước đoạt.

PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀIGÒN hỗ trợ tinh thần dấn thân của quý Giáo Sĩ và Giáo Dân tại Giáo xứ Thái Hà đã mạnh dạn lên tiếng đòi lại sự Công Bằng cho Dân Tộc trước hành vi bạo ngược của một tập đoàn Cộng Sản đã đặt quyền lợi của đảng lên trên Dân Tộc và ngang nhiên cướp đoạt tài sản, chà đạp giá trị tinh thần của Dân Tộc.

Kính thưa Cha Matthêu Vũ Khởi Phụng Bề Trên Chính Xứ Thái Hà và Cộng Đồng Dân Chúa Giáo Xứ Thái Hà thân mến,

Lịch sử Giáo Hội Công Giáo Ba Lan đã chứng minh sức mạnh và ý chí của những buổi cầu nguyện đã trở thành một trong những yếu tố hàng đầu giúp Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan xóa tan tâm trạng sợ hãi trong lòng người dân sau nhiều thập niên bị chủ nghĩa vô thần Cộng sản khống chế, nhờ đó kết quả đã đưa đến sự sụp đổ của chế độ Công sản Liên Sô và hàng loạt các chế độ Cộng sản Đông Âu. Trong bối cảnh hiện nay với ý chí kiên cường của người dân, những buổi cầu nguyện ở Dòng Chúa Cứu Thế, tại Giáo xứ Thái Hà và lan rộng tới các Giáo Phận, cùng với sự phối hợp trong các Cộng đồng tín hữu thuộc các tôn giáo bạn dẫn đến niềm hy vọng biểu chứng hùng hồn cho câu nói “Ý Dân là Ý Trời”.

Nguyện xin Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, ban cho quý Cha và Cộng Đồng Dân Chúa Giáo Xứ Thái Hà nhiều ơn khôn ngoan can đảm và kiên trì.

Ngày 5 tháng 9 năm 2008.
Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ.
Đại Diện PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀIGÒN.

Chuyện dài CA SĨ HẢI NGOẠI về Việt Nam hát hò


Phạm Phong Dinh


Gần đây có nhiều thân hữu và độc giả đề nghị chúng tôi viết một vài bài về hiện tượng ca sĩ Việt Nam ở hải ngoại về nước và ca sĩ từ Việt Nam ra hải ngoại trình diễn. Ðây là một vấn đề khá nhạy cảm, vì nó động chạm đến nỗi niềm ấp ủ riêng trong lòng của từng người.

Hầu như bất cứ một người nào trở về Việt Nam đều trang bị sẵn cho mình 1001 lý do chính đáng nhất không chê vào đâu được, để khi có người nào chạm vào thì có cái để mà trưng ra làm bằng cớ và phản ... pháo. Nào là “quê hương là chùm khế ngọt, quê hương là con diều biếc”, “ta” về Việt Nam ăn khế ngọt (bởi khế Mỹ chua thấy bà) và thả diều thì có gì sai? “Ta” về Việt Nam là “ta” thực hiện cái nhân quyền thiêng liêng của nước Mỹ ban bố cho ta, còn ai bẻ vào đâu được. Chính những kẻ nói này nói nọ, phê bình “ta” chuyện về Việt Nam để hoàn thành những hoài bão và tâm nguyện, những kẻ ấy mới là những kẻ không chịu “thực thi” nhân quyền. Ðất nước này, tức ở hải ngoại, là nơi tự do, là những free countries, “ta” muốn làm gì thì ta làm, ai làm gì được nhau thì cứ bảo.

Vấn đề đi đi về về giữa hải ngoại và Việt Nam của ca sĩ xoành xoạch như đi chợ, đã trở thành một cuốn truyện dài với nhiều tình tiết hấp dẫn, đại khái giống như cái mục Xe Cán Chó - Chó Cán Xe, tuy tầm phào bá láp nhưng độc giả rất thích tìm hiểu. Người ta muốn biết những khuôn mặt nào đã xé rào nhảy về Việt Nam kiếm ăn, những người ca sĩ nào vẫn còn nuôi trong tim lý tưởng quốc gia chân chính. Trong thời gian qua chúng tôi có nhặt nhạnh được chút ít tin tức về chuyện dài ca sĩ, xin được viết ra đây mấy hàng cho quý độc giả thân mến, coi như mua vui cũng được một vài trống canh. Nhưng càng viết thì càng thấy buồn, vì những nhân vật trong bài viết này đa số đều là những tai to mặt lớn trong vườn hoa văn nghệ Việt Nam hải ngoại, với những cái tên từ lâu nhận được rất nhiều sự thương mến của người Việt tị nạn lưu vong.

Sự đời nghĩ cũng có nhiều chuyện buồn cười. Ngày xưa, cũng chính rất nhiều trong số này, trong lúc chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa còn đang đổ máu xương chống ngăn làn sóng cộng sản xâm lược cho đến giờ thứ hai lăm, thậm chí sang đến giờ thứ bốn mươi tám, tức vài ngày sau ngày 30.4.1975, chính những con người vô loại này đã xách đít chạy trước rất sớm. Lúc ấy thê thảm lắm, quý độc giả cứ xem lại những cuốn phim tài liệu về di tản thì rõ, nước mắt nước mũi cứ là chàm ngoàm, đu bám trên những sợi dây thừng bên hông tàu trông rất rùng rợn, hay tranh nhau leo lên những bức tường vào tòa đại sứ Mỹ với những hàng dây thép gai nhìn vô cùng lạnh gáy. Ôi, cái tình yêu nước của những con người ấy sao mà nó cao cả và thiêng liêng lắm vậy. Thà chết ở xứ người, thà chịu không có cà pháo mắm tôm ăn, chứ không chịu đội chung bầu trời với vẹm cộng. Giờ đây, sau ba ba năm, những con người này xênh xang áo gấm về làng cũng trước nhất hơn ai hết, sẵn lòng quỵ lụy nâng bi vẹm với bất cứ giá nào để được về chúng ban cho mấy trái khế ngọt mà xơi. Ô là là, bây giờ thì tha hồ xơi cà pháo với mắm tôm chính gốc Việt Nam bằng thích nhé.

Hai trong số những ca sĩ quốc gia hải ngoại về đầu quân cho vẹm cộng sớm nhất là Hương Lan và Elvis Phương hơn một thập niên qua thì ai cũng đã biết hết rồi. Công cuộc làm ăn của Hương Lan và Elvis Phương ở “quê hương” coi bộ rất khấm khá, nên cô cậu phải giữ rịt lấy, như những con thú nhà ôm chặt lấy khúc xương của chủ quẳng cho. Theo Elvis Phương, thì nếu những ca sĩ về Việt Nam chịu chăm chỉ đi hát ở các phòng trà thì sẽ có cuộc sống dư dả. Nguồn tin quốc nội cho biết rằng cứ mỗi một phùa hát ở phòng trà, mỗi ca sĩ bợ nhẹ một ngàn đô la. Nếu hát trên live show, thì cứ hai bản cũng được một nghìn. Bản thân Elvis Phương luôn có một lịch trình đi hát đầy kín, đến nỗi bà vợ của Phương cũng kêu trời, có lẽ sợ chồng đi hát nhiều quá có ngày ngã lăn đùng ra bất đắc kỳ tử chăng, bởi anh ta đã một lần đi mổ tim rồi. Lần này tim vỡ như xác hoa tigone là chết chắc. Elvis Phương đang cư ngụ trong một ngôi biệt thự ở làng “Việt Kiều” trong khu vực An Phú Ðông, thuộc tỉnh Gia Ðịnh ngày trước thì phải. Hàng xóm của Phương có ca sĩ Anh Quý, Hương Lan và Ái Vân.

Hương Lan vừa đi hát vừa trông coi một nhà hàng ở quận Bình Thạnh. Ngoài ra nàng còn mở thêm trại nuôi cá, vườn cây ăn trái ở tỉnh Bình Phước (tức Bình Long và Phước Long). Có tin cho rằng, khi về già, Hương Lan sẽ về sống ở đấy. Trường hợp Ái Vân, ngày xưa, năm 1989 khi bức tường Bá Linh sụp đổ, nàng đang là cán bộ văn nghệ thuộc tầm cỡ nghệ sĩ nhân dân của Hà Nội ở Ðông Ðức, đã chạy sang xin tị nạn chính trị bên Tây Ðức. Ðối với vẹm, đó là cái tội phản đảng, có lẽ sẽ bị tru di tam tộc. Nhưng giờ đây nàng vẫn cứ ung dung sinh sống tại Việt Nam, thế là thế nào. Câu trả lời thì đến một đứa bé cũng biết.

Những ca sĩ hải ngoại chạy về Việt Nam đa số thuộc về thế hệ “già”, cái thế hệ bôn tẩu ra nước ngoài trong những ngày lửa loạn cuối cùng ở Sài Gòn, hay trong những lần vượt biển sóng gió đi tìm tự do. Thời gian trôi qua, những nếp nhăn dần hằn đậm trên mặt, giọng hát đã dần tàn tạ, không nhanh chân về nước kiếm chác chút ít trước khi vĩnh viễn lùi vào bóng tối của sự lãng quên, thì còn đợi lúc nào nữa. Những giọng ca gọi là hàng đầu, những gì gọi là vượt không gian và thời gian như Lệ Thu, Khánh Hà, Tuấn Ngọc, Duy Quang, Lê Uyên, Thái Châu, Julie, Giao Linh, v.v... đều đã có mặt ở quê nhà. Ðó là chưa nói đến ông cụ Phạm Duy, bởi nhiều người đã nói nhiều về cụ rồi. Một trong vài danh ngôn xanh dờn mà cụ để lại cho đời là “Tôi có chống cộng đâu, tôi chỉ chống gậy”. Có lẽ đó là lá bùa hộ mệnh giúp cụ được thung dung về lại Việt Nam và khiến cho Hà Nội hài lòng. Ngoài ra cụ còn cấm những người chống cộng hải ngoại không được hát nhạc của cụ nữa, chắc không muốn vẹm nghe lại những điệu nhạc hùng tráng và những lời lẽ “chống gậy” rất đanh thép của cụ dành cho chúng, làm chúng ngứa ngáy, không khéo chúng tống xuất cha con cụ trở ra ngoại quốc thì khốn cả lũ. Cụ Phạm Duy đi về đã đành, cụ còn kéo theo cả một lô một lốc con cái nhà cụ theo. Nào là Duy Quang, Duy Cường, rồi Duy Minh. Nào Thái Thảo, Thái Hiền. Thậm chí cô cựu dâu nhà họ Phạm là Julie cũng xách gói về. Ôi, người người cùng về, nhà nhà cùng về. Duy Quang đã tìm thấy hạnh phúc với một người vợ trẻ ở quê nhà. Trông tấm hình Duy Quang đứng bên cô dâu, làm gợi nhớ đến kép lão Michael Douglas bên nàng Catherine Zeta-Jones, còn nước nôi gì nữa.

Một nhân vật thuộc dạng quái chiêu không thể không nhắc đến là Chế Linh. Anh ta đã về Việt Nam cùng phái đoàn văn hóa UNICEF trong chương trình văn hóa thế giới và trình diễn ở Hà Nội. Danh chính ngôn thuận như thế, Chế Linh sợ đếch gì vẹm cộng. Thế mà anh ta đã xun xoe nói những lời bợ đỡ chúng, khiến cho những tên nói láo nhất cũng phải đỏ mặt xấu hổ. Lúc mới sang định cư ở Toronto, Gia Nã Ðại, trong dạng tị nạn cộng sản được mấy năm, tình yêu nước còn bồng bột, Chế Linh đã tình nguyện đóng vai một người tù của chế độ nằm trong một cái cũi giam diễn hành trên đường phố Toronto, để tố cáo chế độ tàn bạo của Hà Nội vẹm. Theo phái đoàn UNICEF vào Việt Nam, Chế Linh cứ hát hò cho người dân Hà Nội nghe trong tư cách một sứ giả của Liên Hiệp Quốc, anh không có điều gì phải sợ cộng sản hết. Anh không cần phải nịnh bợ chúng, để chúng quên đi cái cũi tù của anh. Cùng lắm, nếu vẹm có nhốt anh trở vào cũi, thì anh sẽ trở thành anh hùng dân tộc. Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ và cộng đồng người Việt toàn thế giới sẽ tích cực tranh đấu đòi vẹm thả anh ra. Lúc đó, Chế Linh sẽ trở về hải ngoại trong ánh vinh quang. Thật đáng tiếc, Chế Linh không có được tầm vóc đó.

Lê Uyên, cái tên gợi đến cuộc tình thơ mộng và lãng mạn của đôi tài danh Lê Uyên-Phương cũng đã về hát trong chương trình Duyên Dáng Việt Nam. Ngày xưa đôi uyên ương này rất thích trầm mình trong những cõi tình ái rong rêu. Lê Uyên đã cho biết rằng nàng sẽ về nước sinh sống luôn, sẽ mua nhà ở Ðà Lạt, một nơi chốn gợi nhiều kỷ niệm êm đềm của một thời vang bóng. Lê Uyên cũng dự định mở một nhà hàng, là sở trường làm ăn của nàng.

Nói đến nhà hàng ăn với uống thì không thể nhắc đến “nữ hoàng sầu muộn” Giao Linh. Nàng vốn là dân Gia Nã Ðại cư ngụ ở thành phố Toronto, như trường hợp Chế Linh. Chẳng rõ ngày xưa, Giao Linh đã mang cái biệt hiệu kỳ dị này là từ cái chuyện gì, quý độc giả kính mến có biết thì xin nói cho, thật cảm tạ. Nó cũng tương đương với cái danh hiệu “sầu nữ” của bà Út Bạch Lan, bởi giọng ca thê thiết nức nở và cuộc đời tình ái đầy tan vỡ của nàng. Về Việt Nam, Giao Linh thường theo các đoàn lưu diễn hát ở những tỉnh, và cũng có góp mặt trong những chương trình Bước Chân Hoàn Vũ. Hiện nay thì Giao Linh đang làm chủ nhân của một quán cơm tấm kiêm luôn quán phở ở đường Lê Văn Duyệt cũ, công việc làm ăn cũng phát đạt. Có lẽ nên cải danh cho nàng thành “nữ hoàng hớn hở” chăng. Cũng chuyện ăn uống, Duy Quang đang trông coi quán Phở 24, chẳng rõ 24 tượng trưng cho cái gì và hách xì xằng mở luôn phòng trà Tình Ca. Ngoài ra, Duy Quang cũng là một trong những cột trụ của những buổi nhạc hội Duyên Dáng Việt Nam.

Lệ Thu, tiếng hát cùng thời với những Giao Linh, Thanh Thúy, một giọng hát quý còn hơn cả vàng, thường làm chúng ta ngất ngây với những bài nhạc nhắc nhớ về Hà Nội và Miền Bắc thời tiền chiến, thời gian qua nàng đã có mặt trong những nhạc hội Bước Chân Hoàn Vũ ở Việt Nam. Ðức Huy có một phòng thu âm và hài lòng với những show trình diễn người ta mời. Nhạc sĩ kiêm diễn viên điện ảnh Tùng Giang năm, bảy năm trước đây di tản về Việt Nam, anh đã tìm thấy được một tình yêu đích thực với một cô gái rất trẻ. Nàng từng hứa sẽ trọn đời chăm sóc người chồng già nay đau mai ốm. Nhưng gần đây, tình yêu ấy đã vỗ cánh bay xa, Tùng Giang ngậm ngùi trở qua Mỹ với đứa con thơ và căn bệnh ngặt nghèo đang hành hạ thân thể anh. Lúc tình đời đi xuống như thế thì Tùng Giang mới nhận thấy cái tấm lòng của tình người hải ngoại trong một sự ấp ủ và bao dung. Nhiều bạn bè, thân hữu, khán giả ái mộ anh đã tìm đến ân cần giúp đỡ anh, Tùng Giang lại lên tinh thần và nuôi dưỡng một hy vọng để sống.

Những giọng ca hàng đầu vượt vũ trụ như Khánh Hà và Tuấn Ngọc cũng tìm thấy những cơ hội làm ăn ở Việt Nam, nên cũng nhanh chân xách gói chạy hộc tốc về. Kẻo thôi bọn đi trước chúng nó cười vào mũi, rằng trâu chậm uống nước đục. Hai con người thuộc một gia đình dòng dõi văn nghệ gộc này năm 2007 đã xuất hiện trong một đại nhạc hội, mẹ ơi, mang cái tên chỉ nghe thôi đã ớn lạnh, là Nối Vòng Tay Lớn. Những tay ký giả kịch tràng quốc nội đã viết những hàng bốc thơm Khánh Hà như sau: “Không ai nghĩ, sau ngần ấy năm Khánh Hà vẫn còn có nhiều khán giả, đặc biệt là những khán giả trẻ. Sức hút giọng ca đã thực sự chinh phục khán giả bỏ tiền ra mua vé xem cô diễn”.

Trông thấy những con trâu về trước đang nhai cỏ non và húp nước béo tưng bừng, nhộn nhịp không thể tả nổi, những con trâu còn chưa về Việt Nam nôn nao xốn xang quá đi. Có nguồn tin cho rằng, giọng ca vàng Ý Lan cũng có ý định về nước trình diễn, nhưng khổ nỗi lịch trình diễn ở hải ngoại cũng đã bận tối tăm mặt mũi lắm rồi, nên nàng “đành” hoãn việc ấy lại một thời gian. Hiện Ý Lan đang rất tích cực hoạt động trong lĩnh vực giúp phụ nữ phòng căn bệnh ung thư vú, mà nó rất phổ biến trong hạn tuổi từ 50 trở lên. Ðây là một căn bệnh gây khủng khiếp cho toàn thế giới, nó chiếm đến 10% số phụ nữ trong hạn tuổi đó. Có nghĩa là cứ một trong mười người phụ nữ sẽ vướng chứng bệnh này. Ý Lan cũng đã từng trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần và đã vượt thoát được căn bệnh. Nàng hiểu rõ tâm trạng lo sợ của người đứng bên bờ vực thẳm, nên muốn san sẻ những thông tin hữu ích giúp người phụ nữ Việt Nam sớm biết trước để thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Hiện nay, có những chương trình giúp người phụ nữ theo dõi được tình trạng sức khỏe của mình. Tại Canada, cứ hai năm một lần, phụ nữ trên 50 tuổi được chụp mammogram miễn phí. Chẳng những thế mà các cơ quan y tế nhiều tỉnh bang còn ân cần gởi thơ đến tận nhà mời đi chụp nữa.

Nguyễn Hưng, một khuôn mặt thuộc thế hệ trước 1975 được bà Thu Dung, giám đốc trung tâm băng nhạc Rạng Ðông ở Việt Nam thực hiện một chương trình live show trong tháng 12.2007 vừa qua. Nguyễn Hưng, một nghệ sĩ thuộc lò Thúy Nga, chỉ chuyên nhảy nhót và hát những bản tình ca vô thưởng vô phạt, nên vẹm cộng chẳng làm khó dễ gì anh, sẵn lòng cho anh về nước nhảy nhót cho công chúng xem. Thuộc dạng nhảy nhót, đôi vợ chồng Linda Trang Ðài-Tommy Ngô đã về nước từ khuya. Nhạc nhảy và gào ở trong nước hiện nay khá nhiều, nên Trang Ðài và Tommy Ngô tha hồ mà nhảy và gào.

Dường như để cảnh cáo những nghệ sĩ xuất hiện trong những chương trình nhạc hội chống cộng, mà những người viết trong nước gọi là “nhạy cảm về chính trị”, bà Rạng Ðộng đã nhắn nhe với những ai đang ôm mộng về ăn khế, thả diều và hát hò, rằng những ca sĩ muốn về Việt Nam, rất đơn giản, là đừng tham gia đến những nhạc hội chống đối lại vẹm cộng. Có phải chăng vẹm cộng muốn dần tách rời nghệ sĩ với những chương trình nhạc hội có tinh thần quốc gia dân tộc và chống cộng cương quyết như của Trung Tâm Asia chẳng hạn. Người nghệ sĩ hải ngoại nên xem đó là những lời đe dọa và khủng bố tinh thần, nó nằm trong chính sách trấn áp tư tưởng của chúng.

Hà Nội, thông qua bọn nô bút và cai thầu văn nghệ đã coi thường trình độ chính trị của nghệ sĩ hải ngoại quá đi. Chỉ mới có hơn một tá lớp nghệ sĩ già xun xoe về nước, mà chúng cứ tưởng giới nghệ sĩ hải ngoại sẽ sẵn sàng chạy theo và chịu quy hàng. Tình hình hoạt động nghệ thuật ở hải ngoại đang có chiều hướng khả quan, các nghệ sĩ bận rộn đi trình diễn ở khắp tiểu bang, sang đến Canada, Úc, Nhật, châu Âu, thậm chí có trường hợp “xù show” vì nhiều lý do. Nhiều phòng trà lớn vẫn là nơi đón nhận những tài năng ca nhạc. Ca sĩ hải ngoại muốn hát nhạc gì thì hát, phần nhiều là những bài nhạc tình, nhạc lính cũ của ngày xưa. Sự thắng thế của nhạc Miền Nam ở toàn cõi Việt Nam ngày nay đang là một vấn đề xốn nhức của ngành văn hóa cộng sản. Công chúng thích nghe nhạc Miền Nam, thường được biết là Nhạc Vàng, thậm chí thế hệ trẻ ở Miền Bắc cũng nghe và nghêu ngao hát Nhạc Vàng. Những người về nước cho biết, hiện nay ở bất cứ đâu, ở những nơi công cộng, hàng quán, tiệm cà phê, trên xe đò liên tỉnh, người ta mở nhạc Miền Nam công khai, luôn cả nhạc lính của Trần Thiện Thanh. Thời gian là một sàng lọc và là một bằng chứng hùng hồn nhất trả lời cho câu hỏi Ai Thắng Ai trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật và cả trong nhiều lĩnh vực khác nữa. Anh khoe anh giỏi anh tài, thì anh cứ bảo bọn nhạc nô đặt nhạc cho nó hay hay lên, âm điệu bổng trầm du dương nhiều vào, lời nhạc trau chuốt lên như những vầng thơ, như những áng văn thêu hoa dệt gấm đi, thì công chúng sẽ lắng nghe nhạc của các anh. Anh mà làm được như thế thì chúng tôi xin tình nguyện đi bằng hai tay cho anh coi.

Trong chiều hướng gọi là phi chính trị đó, những nghệ sĩ không hay ít có những hoạt động ca hát chống cộng như Kim Anh, Carol Kim được cho về nước. Kim Anh đi vào lòng khán giả hải ngoại với những bản tình ca lãng mạn Trung Hoa, đặc biệt tên nàng gắn liền với Mùa Thu Lá Bay. Carol Kim, một ca sĩ nhạc tình cảm kiêm nhạc kích động quen thuộc của thập niên 1960, 1970, một cái tên cùng thời với những Phương Tâm, Mai Lệ Huyền trong thể loại nhạc vui và kích động. Liệu nàng có sánh nổi với những ca sĩ trẻ hơ hớ trong cùng dạng nhạc này ở trong nước hay không, hoặc nàng sẽ chỉ tìm về với những bài tình ca nhẹ nhàng? Những cái tên quen thuộc như Phương Dung, Trang Thanh Lan, Phương Hồng Ngọc và cả nhạc sĩ Từ Công Phụng đang chờ đợi sự “duyệt xét” của những tòa đại sứ Việt cộng ở Hoa Kỳ và đang xin giấy phép hoạt động từ Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn ở Việt Nam. Ðây là một nguồn tin do các thợ viết vẹm tung ra trên các diễn đàn internet trong bản tin nhạc Việt, mức độ khả tín còn đang trong vòng được nghiên cứu và phối... kiểm. Tuy nhiên, đối với Phương Dung nếu quả đúng như thế thì có phiền phức đấy, vì nàng chuyên hát nhạc lính Việt Nam Cộng Hòa, nàng rất hãnh diện khoe cái thành tích ấy mỗi lần lên sân khấu. Cho về bên nớ, có lẽ vẹm nên buộc nàng hát những nhạc “bộ đội”, đại khái như Cô Gái Sài Gòn Ði Tải Ðạn, Tiếng Chày Trên Sóc Bombo bụp bùm bum, ô hô, nên chăng. Các ông bà bầu show ở Việt Nam đang khuyên những nghệ sĩ lỡ vướng vào chuyện chính trị hãy sớm làm đơn giải trình cho ngành văn hóa, thì vẫn được vẹm cứu xét cho về Việt Nam theo nguyện vọng. Nói giải trình cho nhẹ một chút, chứ tình thực nó ở dạng những tờ tự thú trước bình minh, rằng chúng em lỡ dại, mong quý anh tha cho, chúng em xin cắn cỏ ngậm vành.

Thế hệ nghệ sĩ sau thời điểm 1975 mà đã thành danh ở hải ngoại nhờ vào lòng thương mến của công chúng như Hoài Linh, Mạnh Ðình, Gia Huy, Phi Nhung, Thành Lễ, Nhật Hạ cũng đã về Việt Nam trong nhiều năm qua. Rồi đây, có lẽ cái danh sách những con vẹt về nước hót sẽ được bổ sung thêm, tuy không nhiều. Với những người nghệ sĩ đã quay lưng lại với chính cái nhãn hiệu tị nạn chính trị của mình để khoác lên chiếc mặt nạ che giấu cảm xúc thật của họ trước cặp mắt cú diều của vẹm cộng, từ giây phút ấy tiếng hát của họ đã trở nên những âm thanh vô hồn. Cứ mỗi lần nhìn tất cả những con người đó hát trên sân khấu, dẫu là loại nhạc gì, tình ca hay tình lính, hẳn công chúng sẽ không còn tìm thấy được cảm xúc thật của mình hòa theo cùng được nữa. Bởi những tiếng hát ấy không xuất phát từ con tim thổn thức của mình mà chỉ là những chiếc máy hát, những chiếc máy có những cái khe để người ta bỏ những đồng tiền vào.

Ðối với những người nghệ sĩ Việt Nam chân chính ở hải ngoại mà cho đến thời điểm này vẫn còn khẳng khái ấp ủ tấm lòng son với chính nghĩa quốc gia, gìn giữ những giá trị nhân bản và truyền thống văn hóa của dân tộc, vẫn giữ lòng cương cường không chịu khuất phục trước bạo quyền Hà Nội, chúng ta xin được nghiêng mình cúi đầu giở nón trân trọng bày tỏ sự kính phục và yêu mến. Những tiếng hát này mới là những sợi dây tơ rung lên những cảm xúc thực sự, và chính là những giọng hát vượt không gian và thời gian.

Phạm Phong Dinh

Nhân Quyền Và Độc Tài Toàn Trị Không Thể Cùng Tồn Tại


Lý Đại Nguyên

Giáo dân cầu nguyện tại Thái Hà
Cuộc tranh đòi lại nhà đất thuộc Dòng Chúa Cứu Thế của Giáo Dân xứ Thái Hà với nhà cầm quyền Hà nội mỗi lúc một thêm trầm trọng, mà không lối thoát. Bên giáo dân thì căn cứ vào số nhà đất của Dòng Chúa Cứu Thế vốn thuộc quyền Tư Hữu hợp pháp, mà mình đã thủ đắc trước khi có cái chế độ Việt cộng độc tài tham nhũng hiện nay. Nên việc đòi lại đất bị mất là hợp tình, hợp lý. Còn Việt cộng thì nhân danh chế độ Công Hữu, do đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, dân làm chủ (hờ) để tịch thu nhà đất của nhà thờ, nhà chùa, hay bất cứ của công dân nào, rồi tùy tiện phân phối cho những đối tượng mà đảng cho là được quyền xử dụng, hay bán cho ngoại nhân, hoặc chia nhau hưởng lợi thì cũng là hợp pháp đối với họ. Vì đảng quyết định là luật rồi. Cũng giống như thời Phong Kiến "ý Vua là ý Trời". Lệnh Vua là công lý. Chính vì vậy, mới có cảnh Dân Oan đi khiếu kiện suốt cả đời mà không được giải quyết. Trường hợp của giáo xứ Thái Hà cũng không ngoại lệ.

Thế nhưng với cuộc đấu tranh quyết liệt đòi công lý hiện nay của Giáo Dân Thiên Chúa trong Giáo Phận ở ngay Thủ Đô Hà nội, trước sự chứng kiến của con mắt quốc tế, nhất là dư luận Hoa kỳ và thế giới đang đòi Việt cộng phải Tôn Trọng Nhân Quyền, Tự Do Tôn Giáo, Dân Chủ Hoá chế độ để đưa kinh tế Việt Nam thoát khỏi cảnh suy thoái trầm trọng, do di lụy của thứ kinh tế Thị Trường theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa chết tiệt hiện nay tạo ra. Đây không còn là cảnh Dân Oan khiếu kiện bình thường nữa, mà là một tập thể Tôn Giáo có tổ chức, quyết liệt đấu tranh, chỉ cần Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, tự thắng được chính mình, nhận trách nhiệm, cùng với Dân Oan, cùng với các Giáo Hội đòi thay đổi Chế Độ Công Hữu thành Chế Độ Tư Hữu, thì mới mở được lối thoát cho Việt Nam. Như Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã theo đuổi suốt 33 năm nay.

Sau ngày chính thức tiếp nhận quyền lãnh đạo tối cao Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống, kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN đã công bố Bản Tuyên Cáo của Hội Đồng Lưỡng Viện về Nhân Quyền cho Người Sống, Linh Quyền cho Người Chết và Dân Chủ cho Xã Hội. Với nhận định:

"Ngày nay, tổ quốc đang lâm nguy vì nạn xâm lấn đất và biển cùa ngoại bang, mà 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là nỗi đau nhức nhối. Trong khi ấy chính quyền tại vị nhu nhược nếu không nói là đồng lõa. Nên GHPGVNTN kêu gọi toàn dân trong và ngoài nước mau chóng kết thành một khối để bảo vệ non sông và nòi giống ...".

Đòi nhà nước Việt cộng phải:

"1. Thay đổi chính sách thù nghịch tôn giáo đối với các tôn giáo tại Việt Nam, thể hiện bằng sự công nhận sinh hoạt độc lập và phi chính trị của các tôn giáo, phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo Hôi Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và các tôn giáo chưa được thừa nhận...";

"2. Áp dụng triệt để Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị, mà Việt Nam tham gia ký kết tại LHQ năm 1982, và tiêu chuẩn hóa pháp luật Việt Nam theo Công Ước Quốc Tế về Nhân Quyên, Tự Do, Dân Chủ của LHQ";

"3. Loại bỏ điều 4 Hiến Pháp tạo điều kiện cho sự tham gia cứu quốc và kiến quốc của toàn dân, của mọi thành phần dân tộc, mọi gia đình, tôn giáo và chính trị";

"4. Triệu tập Hội Nghị Toàn Dân, bao gồm các tôn giáo và đảng phái dân tộc ra đời từ đầu thế kỷ XX cho đến nay, khai mở cuộc hóa giải các tranh chấp, hận thù nẩy sinh từ những ý thức hệ ngoại lai gây nên tấm thảm kịch bản địa suốt sáu mươi năm chưa dứt, hầu đặt cơ sở cho việc trao quyền lãnh đạo cho toàn dân trong một thể chế dân chủ tam quyền phân lập và đa đảng ..."

Bản Tuyên Cáo của Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN nói lên ý nguyện thiết tha của toàn dân Việt Nam, ở trong và ngoài nước. Đúng với nhu cầu Dân Chủ Hóa chế độ, đòi Cộng đảng phải trả lại quyền tự chủ xây dựng, phát triền xã hội, kinh tế, và tham gia chính trị cho toàn dân. Nhằm giành lại chủ quyền cho Dân Tộc trên trường quốc tế, để Quốc Dân Việt Nam chủ động hội nhập với tiến trình Toàn Cầu Hóa, mà vẫn duy trì được bản sắc Văn Hóa Dân Tộc trong thời đại Nhân Chủ Nhân Văn Toàn Thế Giới. Cụ thể bước đầu là Việt Nam phải bỏ điều 4 Hiến Pháp của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, mà Cộng đảng đã ngang nhiên cướp quyền lãnh đạo của toàn dân, để đứng trên Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp, mà tùy tiện điều hành quốc gia. Từ đó đại biểu chính thức của toàn dân viết ra bản Hiến Pháp Dân Chủ thực sự làm "mẹ" cho luật pháp quốc gia để đưa ra Trưng Cầu Dân Ý. Thay cho bản Hiến Pháp lạc hậu phi dân chủ hiện hành, cho phép dùng luật tùy tiện của Cộng đảng, để giới hạn quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do lập hội hiến định của người dân. Cộng đảng đã biến hiến pháp và luật pháp của chúng thành công cụ thiết lập chế độ độc đảng, độc tài, toàn trị tại Việt Nam. Thế nên trong chế độ độc đảng, độc tài toàn trị này không có chỗ đứng của Nhân Quyền, cho dù toàn dân, cả thế giới và người bạn lớn mới của Việt cộng là chính phủ Hoa kỳ có đòi hỏi cách mấy thì Việt cộng vẫn cứ ì ra đó.

Nhưng cũng may, Hoa kỳ là nước Dân Chủ trọng pháp. Để cụ thể hóa vấn đề Nhân Quyền, nhất là đối với những nước hậu Cộng sản vô tôn giáo. Quốc Hội Hoa kỳ 1998 đã biểu quyết thành Đạo Luật Tự Do Tôn Giáo Thế Giới. Từ đó chính phủ Mỹ lấy vấn đề Tự Do Tôn Giáo làm chính sách ngoại giao của mình. Quốc Hội Mỹ cho thành lập Ủy Ban Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế, để theo rõi chính sách ngoại giao tôn giáo của chính phủ. Việc chính phủ Mỹ đã đặt Việt Nam vào trong danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt - CPC - theo các khoản đề ra trong đạo luật về tự do tôn giáo quốc tế. Nhưng vì nhu cầu nhập nội Việt Nam, năm 2006, Chính quyền Bush đã rút tên Việt Nam ra khỏi danh sách "phong ác thần" đó, để Mỹ giúp cho Việt Nam được gia nhập WTO, với hy vọng Việt cộng biết điều hơn về Tự Do Tôn Giáo ở Việt Nam. Nhưng chứng nào tật ấy. Sau khi được vào WTO, và tiếp TT Bush tại Hà nội, Việt cộng lại thẳng tay đàn áp tôn giáo và tiêu diệt nhân quyền. Nên "Ủy Ban Hoa Kỳ đặc trách vấn đề Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế - USCIRF - hôm thứ Hai, 25-08-2008 đã công bố một phúc trình có tựa đề "Trọng Điểm Chính Sách về Việt Nam", ghi nhận những sự kiện Ủy Ban tìm hiểu được trong chuyến đi thăm Việt Nam năm 2007, đồng thời nêu rõ những hành động gây phiền nhiễu, bắt giữ và tù đầy được chính phủ (VN) bảo trợ, nhằm vào cá nhân và lãnh tụ các cộng đồng tôn giáo khác biệt trong nước". Nên, "Ủy Ban kêu gọi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đặt Việt Nam trở lại vào danh sách các quốc gia đáng quan tâm đặt biệt" - CPC - Trong khi đó Dự Luật Nhân Quyền cho Việt Nam hy vọng sẽ được Thượng Viện Hoa Kỳ thông qua thành Luật vào đầu tháng 09-2008 này. Đạo luật này là một áp lực mạnh đối với Việt cộng. Theo ông Đại Sứ Mỹ tại Hà nội, Michael Michalak thì:"Hoa kỳ cũng sẵn sàng giúp đỡ kỹ thuật cho Quốc Hội Việt Nam, và sẽ tiếp tục các cuộc đối thoại và tham khảo ý kiến công khai với Việt Nam để bảo đảm quyền tự do phát biểu tư tưởng, tự do tôn giáo và tự do báo chí, đồng thời cải thiện tình trạng trong sáng, để có thể chống tệ nạn tham nhũng trong nước một cách tốt đẹp hơn". Xem thế Hoa kỳ cả Lập Pháp lẫn Hành Pháp cũng nhìn rõ chế độ độc tài tham nhũng toàn trị của Việt cộng không thể cùng tồn tại trước nhu cầu nhân quyền của toàn dân và toàn cầu.

Lý Đại Nguyên

Friday, September 5, 2008

Đóm lửa quê hương


Phan Thiết Phạm Đình Thừa

Nửa đời trước, tôi là lính - một mẫu lính đúng nghĩa gian lao và khổ hạnh. Hầu như suốt hành trình 13 năm, đôi chân bé nhỏ chỉ xử dụng để đo từng tấc đất quê hương. Cũng chính ân sủng này đã cho tôi cơ hội thấy rõ quê hương mình. Hoàng hôn khuất bóng, rút quân về muộn, giữa cánh đồng ngập nước bao la vùng đồng bằng sông Cửu Long, ánh đèn lưa thưa nhạt nhòa trong màn mưa trên Quốc lộ 4 đã trở thành tín hiệu của niềm hạnh phúc hồi sinh -qua hết một ngày chưa ngã xuống. Nửa khuya di quân, sâu trong thôn bản dọc đường 14, giữa núi rừng Cao Nguyên, đóm lửa mờ tỏ của căn nhà sàn tít mù thăm thẳm phía trước như mục tiêu của sự sống giữa trùng trùng nỗi chết không rời. Trên dãy Trường Sơn bạt ngàn cây rừng Lâm Đồng, hàng đèn Sông Mao phía Đông, nơi có biển xanh và chốn chào đời, đã trở thành động lực tự tồn Đóm lửa quê hương, một nhiệm mầu trong niềm hạnh phúc nhỏ nhoi.

Nửa đời sau, lái xe xuyên bang nước Mỹ, đêm vượt đèo, dãy núi hùng vĩ đen thẩm, sừng sửng nổi bật giữa bầu trời trong vắt đầy ánh sao và thấp thoáng ánh đèn xa xa, tưởng như đang đi vào vùng giông bão quê hương ngày cũ. Nghe như có tiếng quân reo, có tiếng đạn bay và trong một thoáng, ánh đèn khuya đất khách bỗng trở thành trìu mến như đóm lửa quê nhà!

Đã hơn 31 năm biệt xứ, chưa một lần thấy lại đóm lửa quê xưa! Đây là bi kịch của đời sống (cá nhân tôi) và trên phương diện «luật người», đó là bản án do chính tòa án lương tâm tôi phán quyết. Bởi vì, không tòa án nào của bất kỳ một thể chế cai trị nào áp đặt được nó lên thân phận người lính còn cố giữ lại điểm liêm sỉ cuối đời. Thời gian với khả năng bồi đắp và đào thải cao độ đã nung nấu ý chí bao người nhưng cùng lúc, cũng thiêu rụi hết nhiệt tình nóng bỏng thuở ra đi -đóm lửa quê hương tắt lịm tự bao giờ, chỉ hằn đọng trong mắt «đóm lửa quê người»!

«Đèn nhà ai hay đóm lửa quê người»

Câu hát này, tôi bất chợt đọc được từ bài viết của nhà văn Giao Chỉ, quan sáu Vũ Văn Lộc: «Này em, anh sẽ về bên kia biên giới. Đèn nhà ai hay đóm lửa quê người.» Bài viết với tựa «Đóm Lửa Quê Người» (ĐLQN) giới thiệu quyển hồi ký «Hành Trình Người Đi Cứu Nước» (HTNĐCN) của tác giả, kháng chiến quân Phạm Hoàng Tùng trong đoàn quân Đông Tiến của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh (MT). Tôi cũng đã có mặt ở cuối gian phòng ra mắt sách tại San José ngày 30 tháng 9 năm 2006 để nhận ra có cái gì đó thiêu thiếu trong lời giới thiệu người và sách của nhà văn Giao Chỉ, trước con số khoảng hai trăm người tham dự. Lời giới thiệu quá ngắn (và có vẻ như hết dầu, thiếu lửa?) so với bài viết được phổ biến trước đó:

«Với tấm lòng chân thành muốn tìm hiểu lịch sử trong đời sống hiện tại, tôi xin giới thiệu tác phẩm giá trị này đến qúy độc giả.»

Và:

«Anh đã dâng hiến tất cả tương lai, hy vọng và tuổi thanh niên cho lý tưởng. Anh đã tìm thấy ở Kháng Chiến cả mộng lẫn thực. Bình tĩnh và công bình, tác giả ghi lại những đau thương dằn vặt của từng chiến binh và người lãnh đạo không phải bằng lời nói mà bằng các hành động.» (trích từ bài viết ĐLQN của Giao Chỉ)

Những câu tán tụng vừa nêu đã mất dấu trong lời phát biểu trước người tham dự. Chỉ có lời cảnh báo cử tọa, đại khái: «Tác phẩm là một loại dầu thô chưa gạn lọc, độc gỉả phải đóng vai chiếc máy lọc dầu». Nếu đã bình tĩnh viết lại (như ông Vũ Văn Lộc trong bài viết) và trung thực (theo ông Đỗ Thông Minh trong buổi ra mắt sách) thì người đọc không phải vất vả -hao dầu, tốn xăng- làm công việc của một «máy lọc». Tôi đã đọc HTNĐCN và đã là lính đánh giặc, tôi xin được nói lên lời cảm thông sâu xa với tác giả. Tuy nhiên, bài viết này không mang tính chất phê bình tác phẩm, cũng không mang tham vọng thêm vào mớ nhận định về Mặt Trận vốn đã quá dài và cũng quá lâu từ phía đồng bào ta tại hải ngoại. Đối với một số quý vị mà tâm tình còn trĩu nặng với nước non, Mặt Trận đã trở thành vết thương lòng lâu lâu rỉ máu. Người viết xin được nghiêng mình chia xẻ và chỉ muốn nói lên đôi điều suy nghĩ với người «lính» Vũ Văn Lộc và nhà văn Giao Chỉ.

Qua bài viết ĐLQN, với những đoạn tổng kết về các chiến dịch Đông Tiến của Mặt Trận, người đọc thấy được điều ông Vũ Văn Lộc muốn nêu lên: Thất Bại! -"Một lần Đông Tiến là một lần thương vong.", cùng với nhận định hành quân của một sĩ quan cao cấp thuộc QLVNCH:

«Trận chiến hoàn toàn không cân xứng. Đi vào đất địch với quân số ít ỏi. Không có phương tiện liên lạc. Địch không đánh quân ta cũng chết đói, chết khát. Địch tấn công với quân số gấp 10 lần. Quân ta chết là may mắn, bị thương là không có phương tiện cứu chữa.»

Và:

«Đi như thế không bị địch đánh thì cũng chết. Dù về đến đất Kontum thì cũng không thể mở được đầu cầu. Cho dù mở được đầu cầu thì làm gì có đại binh theo sau.»

Kết quả thất bại của những lần Đông Tiến nói lên một điều nghịch lý trong suy luận chiến thuật và đã đặt ra câu hỏi không những cho quan sáu Lộc mà còn cho nhiều người từ nhiều năm nay. Câu hỏi đã được trả lời theo lập luận và góc nhìn khác nhau. Riêng ông Vũ Văn Lộc đã tự vấn rồi đưa ra câu trả lời: «Những cuộc hành quân gian khổ, điên cuồng như thế mang ý nghĩa gì? Ông Minh rõ ràng chỉ muốn tìm về chết tại quê hương.»

Trên phương diện «người lính», đây là điều người viết muốn đề cập. Ông Hoàng Cơ Minh có thể «chỉ muốn tìm về chết tại quê hương» như ông Vũ Văn Lộc cho là vậy; thế nhưng, ngoài ông Hoàng Cơ Minh, trong đoàn quân Động Tiến, còn có những cấp chỉ huy dạn dày chiến trận, những người không chỉ cúi đầu nhận lệnh và dĩ nhiên họ không bao giờ mang ước vọng của Bàng Hồng (đời Tam Quốc mang hòm ra trận) để chỉ được chết trên quê hương. Vả chăng, bảng hiệu của phong trào Hoàng Cơ Minh là «Mặt Trận Giải Phóng Quốc Gia» chứ không phải «Mặt Trận Tìm Chết Trên Quê Hương». Vậy thì, phải chăng đã có một thỏa ước, một đầu cầu bảo đảm khả dĩ an toàn cho một quân số ít ỏi kia?

Sự bảo đảm cho các hoạt động trên đất Thái nhằm vào mục tiêu giải phóng quê hương của cá nhân, tổ chức người Việt vào thập niên 80, tất cả đều đặt vào các thỏa ước bằng mồm với những lãnh chúa Thái (tư lệnh quân khu) thời bấy giờ. Các thỏa ước này chỉ được thực hiện sau khi một khoản tiền thuê đất hằng năm đã nạp đủ. Lãnh cứ to, nhỏ tùy theo mức độ dày mỏng của đô la. Trong các căn cứ «phục quốc» tại biên thùy Thái-Lào-Miên, căn cứ của Mặt Trận được xem là bề thế và to rộng hơn tất cả các căn cứ khác. Điều này không lạ vì quỹ của Mặt Trận trong thời gian này đã rất dồi dào. Sứ mệnh thiêng liêng và cao cả, «quang phục quê hương» (nếu may mắn được quan niệm như vậy), rõ ràng đã đặt căn bản trên những thỏa ước thuê muớn không bảo chứng và vào tay bọn tướng tá đầy tham vọng tiền bạc của vương quốc Thái! Sinh mệnh của những người trẻ muốn quay về nhìn thấy lại đóm lửa quê hương tự do bùng cháy trong an bình như ông Phạm Hoàng Tùng (thời ấy) dĩ nhiên như ngọn đèn trước gió, được đặt vào canh phé tẩy xấc sắp tàn. Vào những năm của thập niên 80, lo sợ trước thực tế bị xâm lăng như Kampuchia, Thái Lan đã cố gắng bằng mọi phương cách ngăn chận bước Tây tiến của đoàn quân viễn chinh cộng sản Việt Nam. Chính vì vậy, chính quyền Thái đã làm ngơ trước thủ đoạn hối lộ của các tư lệnh vùng, bởi vì các căn cứ biên thùy của người Việt đã trở thành những con chốt, những tiền đồn, điểm báo động, một loại «nhất kiếm trấn ải» mà Thái lan không phải tốn tiền bạc và công sức xây dựng! Trên phương diện ngoại giao, sự hiện diện của các tổ chức «phục quốc» người Việt đã trở thành món hàng mặc cả đáng giá. Trong cuộc mặc cả, ai ngã giá cao hơn, kẻ ấy sẽ mua được món hàng. Dù tiền bạc của người hải ngoại đổ vào công cuộc «giải phóng» của Mặt Trận dồi dào đến đâu, chắc chắn cũng không qua được số ngân lượng mà cộng sản Việt nam chi ra, Thêm vào đó, cũng không thể bỏ qua yếu tố về một cam kết tôn trọng chủ quyền lãnh thổ giữaThái Lan và Việt cộng. Hậu quả bi thảm đã đến qua các cuộc «tế thần» bằng xương máu của người mang ước vọng giải phóng quê hương khỏi xiềng xích đỏ. Việc gì phải đến đã đến cho những cuộc hành quân Động Tiến. Khi sự an toàn củaThái Lan được bảo đảm thì những tiền đồn «phục quốc» không còn lý do tồn tại. Giữa thập niên 90, các căn cứ lớn nhỏ của người Việt trên đất Thái đã biến dạng trong âm thầm, không kèn, không trống, không truyền thanh, truyền hình như lúc khai trương!

Ngoài tác động ngoại tại cũng phải kể đến những chuyển biến nội tại (trên phương diện điều hành, quản trị, và quan niệm) trong tổ chức của Mặt Trận. Hiện tại, chiến trường khét lẹt mùi thuốc súng của các năm Đông Tiến đã được thay bằng «khẩu» trường đầy tranh cãi sôi sục nước bọt với một tên mới: Việt Tân.

Đưa ra những nhận xét thô thiển vừa nêu, người viết muốn nói đến sự bào chữa tiêu cực của một sĩ quan đã từng đảm trách những vai trò quan trọng cỡ «pathfinder»:

«Hơn 20 năm trước, Giao Chỉ đã bày tỏ sự ngưỡng mộ với Võ Đại Tôn, Trân Văn Bá và Hoàng Cơ Minh. Thân hữu nói rằng, ông quá cả tin nên dễ bị lừa. Đã xin thưa rằng, tôi muốn ngày nào cũng có người đến lừa tôi về chuyện xây dựng lại non sông.

Hai mươi năm sau, thân hữu lại nói rằng, ông đã yêu lầm tướng cướp. Bèn trả lời rằng: Tình yêu vốn mù quáng. Bây giờ đã già rồi, không thể thay đổi được nữa. Đành xin chịu mù loà để giữ lấy tình yêu.»
(ĐLQN)

Tôi không nghĩ rằng khả năng và suy luận quân sự của quan sáu Vũ Văn Lộc đã cạn láng sau cuộc đổi đời bi thảm. Cũng không tin, kiến thức và chữ nghĩa ông Vũ Văn Lộc đã trả lại cho thầy, cho những lớp Tham mưu Trung cấp và Cao cấp để không còn có thể gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh thân hữu mình, đồng đội và đồng bào mình về thủ đoạn bịp bợm của đám con buôn trên mồ hôi, nước mắt và máu xương, thậm chí ngay cả ước vọng thiêng liêng của người khác?

Nếu không đúng vậy, trên phương diện là người lính cấp cao, ông Vũ Văn Lộc đã phạm vào tội đồng lõa (vô tình hay cố ý) qua mớ ngôn từ kêu-gọi-nước-mắt xót thương nêu trên. Niềm tin (rất) mãnh liệt của đồng bào hải ngoại về một ngày quang phục quê hương, sau khi bỏ nước ra đi vào tháng 4 năm 75, đã bị phá sản vì tổ chức của ông Hoàng Cơ Minh - một hệ lụy thê thảm mà bất cứ ai cũng nhận rõ. Nhóm từ «giải phóng đất nước», «quang phục quê hương» có lúc được người ta đem ra chế diễu, nguyền rủa - bởi vì đâu?! Đành rằng, bất cứ hy sinh nào trên lối về quê hương để mưu tìm sự giải thoát dân tộc khỏi móng vuốt bầy quỷ đỏ cũng đều phải được tôn kính và ngưỡng mộ như trường hợp của vị tướng can đảm, ông Hoàng Cơ Minh. Thế nhưng điều cần nói lên là nguyên nhân sâu xa dẫn đến cái chết này vẫn là sự sai lầm nghiêm trọng về chiến lược từ tổ chức do chính ông tạo ra. Đây là sự kiện cần được những người lính có tầm cỡ như ông Vũ Văn Lộc phân tích để cảnh báo cùng đồng bào hải ngoại. Chẳng những đã không làm vậy, ông Lộc lại bước xuống, đóng vai người lính đa đoan, đóng đồn xa «nếu mai không nở, anh không biết Xuân về hay chưa» qua mớ mỵ ngữ tình cảm! «Non sông dễ đổi, bản tính khó chừa», 20 năm trước hay 20 năm sau, người lính Vũ Văn Lộc vẫn không bao giờ thay đổi trong niềm hãnh diện mãnh liệt về công tác hiếm hoi «pathfinder» vào những ngày gần cuối cuộc chiến.

Điểm quan trọng nhất của toàn bài viết nằm trong quan niệm về đấu tranh của ông Vũ Văn Lộc:

«Trong công cuộc đấu tranh cho Việt nam bây giờ và sau này. Dù bằng chính trị hay bằng những phương thức khác. Dù giải phóng rồi canh tân hay dù canh tân rồi giải phóng. Dù đúng hướng chính thống hay chệch hướng hòa giải thì điều quan trọng là phải tồn tại. Bất cứ với giải pháp nào ta không thể cứu nước nếu ta không tồn tại và tiếp tục hoạt động.» (ĐLQN)

Đoạn văn vừa trích gợi cho người viết nhớ lại câu nói của cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: Làm chính trị là phải lì. Qua chủ từ «ta», ông Vũ Văn Lộc nêu lên lời nhắn nhủ và dạy dỗ những phong trào, tổ chức đấu tranh với cộng sản Việt Nam: phải lì, phải bất chấp mọi thủ đoạn, gạt qua một bên ước nguyện của những người mà mình vỗ ngực đại diện -phải tồn tại dù bị nguyền rủa, tẩy chay! Phải chăng để giải phóng cái giải rút, mớ gia sản cuối cùng còn sót lại của người đàn bà cùng đinh đói lạnh nằm co ro qua đêm Đông miền Bắc, trong công viên Mai Xuân Thưởng? Một tổ chức gọi là đấu tranh chống cộng lại đi ngược chủ trương khởi xướng ban đầu, bất chấp nguyện vọng của bao người thì sự tồn tại có còn cần thiết không và phải được hình dung như thế nào đây? Đó chẳng qua chỉ là tập họp một đám sơn đông mãi võ, trưng đầu Dê bán thịt Chó. Một tổ chức đấu tranh, với trường hợp Việt Nam hiện tại, lại đi bắt tay với cộng sản để canh tân, rồi giải phóng thì giải phóng kí gì đây Đại tá Vũ Văn Lộc?«Chệch hướng hòa giải» -đã mặc nhiên thừa nhận việc hòa giải với khỉ là chệch hướng thì tại sao không điều chỉnh để đi vào «hướng chính thống» trước khi nghĩ đến việc cố bám để tồn tại? Đây lại là một điểm nghịch lý mà chỉ có những kẻ muối mặt, khư khư với quyền lợi và tham vọng cá nhân mới đủ can đảm thực hiện. Bài học hòa giải với cộng sản dẫy đầy trong lịch sử đấu tranh Quốc, Cộng và hiển hiện trước mắt là hậu quả thê thảm đến với một số người, vì tham lam mà trở thành cô bé choàng khăn đỏ, ngây thơ đi vào miệng sói, trong những năm qua. Phải chăng Đại tá Vũ Văn Lộc đã đánh giá quá thấp trình độ hiểu biết của người Việt hải ngoại khi lên giọng «quân sư» kêu gọi kéo dài sự lường gạt?

Trong lãnh vực báo chí, truyền thông Mỹ có câu: We Report, You Decide - Chúng tôi tường trình, Quý vị quyết định (kết luận). Đây cũng là câu nói cần được xét lại. Bởi vì, chúng tôi «report» nhưng chỉ «report» những điều chúng tôi muốn «report». Những điều chúng tôi không muốn «report» dầu là sự thật sờ sờ trước mắt đi nữa, chúng tôi vẫn không «report». Trường hợp này đã xảy ra trong chiến tranh Việt Nam với đạo quân báo chí hùng hậu của thế giới. Điển hình nhất là bức ảnh Tướng Nguyễn Ngọc Loan xử quyết thằng du kích sát nhân. Tướng Loan nửa đời, nửa đoạn vì bức hình này. Tên nhiếp ảnh viên Adams, đến phút cuối đời, mới thốt lên lời xám hối muộn màng: hình ảnh chỉ là một phần của sự thật. Một phần sự thật không phải là sự thật!

Trên phương diện văn học, xã hội Việt Nam, từ rất lâu, đã dành cho người cầm viết một vị trí thật tôn quý vì họ được quan niệm như lớp người góp phần vào sứ nhiệm khai phóng trí tuệ quần chúng - (Văn Dĩ Tải Đạo). Đáp lại, người cầm viết phải có dũng khí để nói lên sự thật và cùng lúc hướng dẫn dư luận bước đi trong dòng «chính thống» về nẻo Chân, Thiện, Mỹ - cứu cánh của văn chương và nghệ thuật. Dĩ nhiên đòi hỏi này trở thành quá khó khăn đối với kẻ dùng chữ nghĩa để đat ïtham vọng bất chính hay chỉ để thỏa mãn cái hứng khởi nhất thời của chính mình.

Hai điểm vừa nêu, người viết chỉ muốn ghi lại như một nhắc nhở cho nhà văn Giao Chỉ trong buổi hoàng hôn của cuộc đời như ông đã tự thán: «Bây giờ đã già rồi, không thể thay đổi được nữa.»

Không biết nhà văn có thành thật khi đặt bút viết: «Đã xin thưa rằng, tôi muốn ngày nào cũng có người đến lừa tôi về chuyện xây dựng lại non sông.» Bởi vì, mong ngày nào cũng có người đến nhà lừa gạt thì còn làm ăn được gì? Đọc giữa mớ chữ, câu hỏi dấy lên, tại sao không là «tôi muốn ngày nào cũng bị lừa về chuyện xây dựng lại non sông» mà phải là «cũng có người đến lừa tôi về chuyện xây dựng lại non sông»? Tôi lại lan man nhớ đến câu chuyện cá nhân gần hai thập niên trước. Tôi đến gõ cửa nhà người bạn để xin yểm trợ cho các hoạt động tại một quốc gia ngoài Hoa Kỳ (và cũng trong ước vọng quang phục quê hương) của một tổ chức mà tôi và bạn đã xuất thân đi vào cuộc chiến. Bạn đưa tôi 5 tì, trong một bữa nhậu có rượu ngon và đồ nhắm tốt. Hôm sau gặp người bạn khác, ông này cho hay người bạn «bị» quyên góp đã dùng Đức Mã để than phiền rằng, bỏ ra 5 tì cho lương tâm khỏi cắn rứt! Không biết trường hợp này có gần xa trùng hợp với câu văn của nhà văn Giao Chỉ không nhỉ?

Cũng xin được lưu ý, ông Giao Chỉ chỉ muốn bị lừa hằng ngày «về việc xây dựng lại non sông» chứ không phải để đánh bật 3 thằng Việt cộng thổi ống đu đủ ra khỏi quê hương. Trộm chưa bị rượt khỏi nhà, giặc chưa bị đuổi khỏi nước thì việc «xây dựng lại non sông» là hành động đầu hàng nhục nhã mà bất kỳ người nào đã từng cầm súng và còn liêm sĩ không bao giờ có thể chấp nhận. Phải chăng vì vậy mà Chú Nguyễn Hữu Chánh không «lừa» được Đại tá Vũ Văn Lộc? Chú Chánh -ghê bỏ mẹ- cứ ồn ào loa những vụ đặt chất nổ tùm lum tại Việt Nam, không cách chi chiếm được tình yêu (dầu mù lòa) của nhà văn Giao Chỉ: Đành chịu mù lòa để giữ lấy tình yêu.

Với cách nhìn và lối suy luận như vậy của một nhà văn, một cựu sĩ quan cao cấp của quân lực miền Nam, ước vọng nhìn lại đóm lửa quê hương thân yêu của tôi chắc còn khá lâu mới trở thành hiện thực. Vậy thì, chỉ còn nhìn đèn nhà ai để thi vị hóa thành đóm lửa quê mình.

Phan Thiết Phạm Đình Thừa

"Độc Hại" của Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại


Trương Minh Hòa

"LỜ-LẬP trung tâm, chuyện LẬP LỜ.
ĐẠI HỌC Nhân Văn ĐỘC HẠI cơ!
HỌC ĐÀNG cảnh giác do HÀNG ĐỘC.
DẠNG Ứ bao năm, DỰ ÁN chờ.
HOA VẮNG trong vườn VĂN HÓA tạp.
VƯƠNG CHĂNG đối thoại, VĂN CHƯƠNG mơ.
AN BÀY giáo án, AI BÀI lập?
DẠO THỬ thăm dò DỰ THẢO sơ ..."

Đảng Cộng Sản Việt Nam do Hồ Chí Minh thành lập, lãnh đạo, lúc đầu những tên nầy chỉ có khả năng qui tụ toàn là đám chăn trâu, du thủ du thực, đầu trộm đuôi cướp thành một băng đảng bất lương với "nghiệp chuyên" ám sát, bắt cóc, khủng bố, gây kinh sợ trong dân chúng, nhưng không thể nào "tâm phục" được nhiều người dân đi theo để làm nên chuyện lớn; vì tuyệt đại đa số thành phần nồng cốt toàn là ít hay không học hành gì cả, nên chúng nói ra những mục tiêu cơm áo, mị dân, giải thực bài phong thì chắc chắn là không ai nghe cả. Nhưng với thủ đoạn gian manh, lợi dụng uy tín của giới có học, nhất là giới trí thức được Pháp đào tạo để làm bình phong kêu gọi dân chúng đứng lên "đánh Tây", được nhiều người dân tin tưởng, hưởng ứng, đứng chung trong hàng ngũ Việt Minh; nhưng họ không ngờ là bị lừa, vì đàng sau những người có học, là đám dốt điều khiển, quyết định tất cả. Sau khi thành công thì đám dốt trở mặt, họ không muốn những người có học cao, đáng bậc thầy đứng chung và có thể thay thế điều hành đất nước, đó là chánh sách "vắt chanh bỏ vỏ" nên đảng và Hồ Chí Minh phát động chiến dịch cải cách ruộng đất, tận diệt thành phần "trí, phú, địa, hào", nhiều người từng đóng góp công, của với Cộng Sản cũng bị thanh toán một cách dã man.Nhiều người trí thức khi biết được sự thật thì coi như đã quá trễ.

Sau năm 1954, màn "kịch" cũ lập lại, tại miền Nam Việt Nam, ngoài thành phần đảng viên Cộng Sản dốt cài lại sau hiệp định Geneve, đám chăn trâu, dốt nát ở nông thôn ... dù có đủ "thể lực" để khủng bố, chịu đựng gian khổ trong rừng, nhưng không thể thu phục được nhiều người khác thuộc các giới khoa bảng miền Nam, nên đảng Cộng Sản Bắc Việt dùng những "con hạc gỗ" là đám Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam với luật sư Nguyễn Hữu Thọ, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, luật sư Trương Như Tảng, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa ... sau khi chiếm miền Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, đám tay sai bị giải thể và những kẻ có học lại một lần nữa ôn hận cho đến mãn đời; những bài học xương máu nầy vẫn chưa làm sáng mắt một số khoa bảng hải ngoại, nên có vài kẻ trở về hợp tác theo lời mời gọi của đảng siêu cướp Cộng Sản khi chúng đang lâm vào "thoái trào".

Một điều buồn khôi hài khác là cũng có vài tên trí thức, dù bị gạt, sau đó bỏ cái thiên đàng sang sống ở hải ngoại, nhưng vẫn còn u mê ám chướng cho là: "Hồ Chí Minh yêu nước, làm cách mạng ...", điều nầy chẳng khác nào cho đảng cướp là tàn ác nhưng tên tướng cướp thành lập và lãnh đạo là người tốt vậy. Do đó, ở mọi thời đại, những thằng dốt nát, ít học Cộng Sản thường lợi dụng thành phần "khoa bảng" để trang trí và thu phục nhân tâm, sau khi xong là thanh toán không thương tiếc. Trong một quyển sách có tên là "Thế Nào Là Thi Đua" dịch từ tiếng Nga, do nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, phát hành trước 1975 ở miền Bắc và đem vào phổ biến rộng rải ở miền nam sau 1975, sách ghi những lời nói, hoạt động của Lenin sau cái gọi là "cuộc cách mạng tháng 10 năm 1917" tại nước Nga, trong đó có một câu nói của hắn: "đối với bọn trí thức như bác sĩ, cho chúng đi lau cầu xí, nếu cần bắn bỏ một vài tên làm gương". Đây là bài học mà những người có bằng cấp cao, tốt nghiệp ở hải ngoại, vì nhẹ dạ, ngây thơ, nghe lời đảng Cộng Sản lúc suy yếu, cần lợi dụng uy tín để thu hút tập thể người Việt hải ngoại nhằm giúp đảng giải quyết tình trạng thiếu hụt tài năng, thu thêm tiền và thôn tín luôn một thế lực luôn gây khó khăn cho đảng và nhà nước trên bình diện ngoại giao.

Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam do phó đề đốc Hoàng Cơ Minh phát động, kháng chiến cuội chiến khu dỏm, mục đích tối hậu chỉ thu tiền và lừa đảo lòng yêu nước mọi người dân. Tổ chức nầy đẻ ra một số hội đoàn tay chân như Liên Minh Việt Nam Tự Do, Hội Chuyên Gia … sau nầy giải tán Mặt Trận, thu gọn thành đảng Việt Tân, một số tổ chức giải thể, nhưng cái Hội Chuyên Gia Việt Nam thì vẫn giữ và phát triển, vì đây là một tổ chức nồng cốt, qui tụ những thành phần "khoa bảng" uy tín, đầu tiên thuộc lớp lớn, rồi thu phục trung niên và ngày nay đang " dắt đám khoa bảng trẻ, hậu duệ đi theo tấm bản chỉ đường của Việt Tân"; người Việt hay có thói quen coi những lời nói của những tiến sĩ, bác sĩ, kỷ sư, dược sĩ, nha sĩ ... là có giá trị, có khả năng thu phục, hướng dẫn quần chúng; ngay cả những sư Phật Giáo, khi đậu bằng cấp cao ở Ấn Độ, cũng hay đề học vị như Đại Đức Tiến Sĩ Thích Nhật Từ, nhằm thu hút giới Phật tử hải ngoại qua những bài thuyết pháp, mở đường cho sách lược tôn giáo vận. Chính lý do tâm lý ấy, nên ngày nay đảng Cộng Sản Việt Nam "trí thức hóa" hàng ngũ đảng viên, cán bộ để thu phục lòng tin nhân dân, nên nhiều thằng gốc chăn trâu, du kích, du thủ du thực ... có bằng cử nhân, phó tiến sĩ, tiến sĩ, treo đầy cả nơi làm việc, bằng cấp lạm phát" không người lái" như đồng tiền Hồ, với hàng chục ngàn "tiến sĩ Cầu Muối".

Đảng Cộng Sản thù ghét trí thức, nhưng lại lợi dụng trí thức để xây dựng, phát triển, là điều mà những người có học nên lưu ý, nếu không muốn thân bại danh liệt sau nầy, khi lỡ dại đi theo tập đoàn ăn cướp. Tên quốc tặc Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản hiểu rất rõ tầm vóc quan trọng của sự GIÁO DỤC, nên họ biết cách dùng giáo dục để bảo vệ đảng qua câu nói của Hồ: "Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người" được học ở trường lớp huấn luyện ở Nga từ năm 1923; tuy nhiên lối giáo dục của đảng Cộng Sản khác xa với nền giáo dục các nước dân chủ, kể cả miền Nam Việt Nam trước 1975 nhằm đào tạo nhân tài với mục đích rõ ràng: "ngày nay học tập, ngày mai giúp đời"; trong khi đó, chủ yếu nền giáo dục của người Cộng Sản là nhồi sọ, chớ không phải nâng cao trình độ, mục đích đào tạo ra" thế hệ con vẹt", nói như lãnh tụ, hành động như người máy, đó là những cái loa tuyên truyền cho đảng từ ngoài xã hội đến trong gia đình.

Trong đảng, từ chi bộ đến trung ương, có lối sinh học gọi là "học tập chính trị" được tổ chức thường xuyên với các bài học do trung ương đưa xuống, nghị quyết, học tập những bài tham luận của các tay lãnh đạo đề ra. Những bài học nầy được "thảo luận" và góp ý theo "định hướng xã hội chủ nghĩa" từng nhóm, tổ chức, dưới sự giám sát và "chủ trì" của các tay cán bộ lãnh đạo cấp ủy; đó là con đường một chiều, ai có ý kiến khác thì bị lưu ý và bị trù dập, nên cán bộ từ cấp cơ sơ đến trung ương đều "nói năng như nhau, dùng cùng thứ ngôn ngữ"; cho nên cán bộ Cộng Sản từ Mường Tè đến Mũi Cà Mau đều nói năng như khuôn đút: "đồng thanh tương ứng, đồng khi tương cầu-đồng minh tương ý, đồng chí tương ngôn".

Dùng giáo dục như phương tiện, làm công cụ phục vụ đảng, nên trên đường trốn chui trốn nhủi, Hồ Chí Minh cũng lợi dụng để hoạt động, câu chuyện Hồ trốn sang Thái Lan vào năm 1929, nhờ Hoàng Văn Hoan (tức là HOẠN), lúc đó Hồ lấy tên là Nam Sơn, vì sợ Hồ vớt luôn vợ mình nên Hoan tìm cách đưa Hồ ở nhà một người góa phụ là bà Ky, rồi vớt luôn bà nầy; để che mắt mật thám Pháp và cảnh sát Thái, Hồ Chí Minh bèn bày ra cái chuyện" dạy tiếng Việt" cho dân nhằm bảo tồn văn hóa dân tộc. Nhờ uy tín của người đàn bà có nhan sắc là bà Tình, Hồ mở lớp học tiếng Việt lén ở sau vườn và thừa thời cơ hiếp dâm con gái bà Tình mới 15 tuổi đến mang bầu; sau đó bà biết được, đánh Hồ, hắn đành phải chạy, nhưng vẫn còn mê người con gái Việt lai chà và đẹp, sau nầy hắn lấy bút hiệu là Tuyết Lan hay T.Lan trong quyển "vừa đi vừa kể chuyện". Thái Lan là nơi mà người Cộng Sản từng đặt chân tới sớm, gieo mầm đỏ, nên Việt kiều ở nơi nầy thường có đầu óc khuynh tả, thân Cộng, có thời gian đảng cử đại tá Hà Văn Lâu sang cấy mầm. Cho nên trong thời đánh Tây cũng như thời "ánh Mỹ" một số kiều dân Việt nghe lời đường mật trở về mang theo tài sản, vừa đến Việt Nam là bị cướp sạch, rồi họ bị gởi đến các nông trường sản xuất, các cô gái đẹp bị buộc làm vợ nhỏ cho những tên cán ngố.

Ở hải ngoại, sau nhiều lần thất bại trong mũi giáp công văn hóa vận; các đoàn văn công, sách báo, tài liệu, nhạc ... không thu hút được những người từng bỏ nước ra đi tìm tự do, có quá nhiều kinh nghiệm với Cộng Sản; ngay cả cái tổ chức Hội Chuyên Gia Việt Nam của đảng Việt Tân cũng không thu hút được dân tỵ nạn, ngày nay dân trí tiến bộ, không phải bất cứ ai có bằng cấp cao như: bác sĩ, tiến sĩ, kỹ sư, dược sĩ, luật sư... nói là nhiều người nghe như trước đây; bằng cấp cao ở các trường đại học danh tiếng, sĩ quan, công chức Việt Nam Cộng Hòa cũng chưa đủ để thuyết phục quần chúng tin, vì ngày nay, cái chuẩn để tin là "lập trường chính trị và những hoạt động tại hại ngoại". Do đó Khoa bảng không còn là cái "chuẩn" để cho mọi người theo, nên Cộng Sản, những tổ chức dỏm khó lợi dụng được.

Từ năm 1975 đến nay, ở hải ngoại rất cần "phát huy và bảo vệ tiếng Việt" nên các tờ báo tiếng Việt, trường dạy Việt ngữ xuất hiện khá sớm, tiếng Việt được duy trì, dù bị ảnh hưởng của thứ từ ngữ "nghiệp chuyên" Cộng Sản, do chính những người tỵ nạn mang theo hành trang, do bọn nằm vùng chủ trương; đáng lẽ ra thì trường hay trung tâm tiếng Việt "qui mô" được lập ra từ lâu, nhưng ngày nay bỗng nhiên có trung tâm gọi "Viện Nhân Văn Và Nghệ Thuật Việt Nam Hải Ngoại" với "Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại" manh nha thành lập là dư thừa, vì tiếng Việt đã được bảo tồn một cách chu đáo do nhiều người Việt tha hương, có tấm lòng thực hiện từ lâu.

Cái tổ chức mang tính cách hiền từ "văn hóa, nghệ thuật" nầy xuất hiện vào thời điểm sau nghị quyết 36, không cần thiết, cũng có những lý do thầm kín bên trong, có thể bị nghi ngờ là nào có "thực tâm về bảo tồn văn hóa, nghệ thuật"; đảng Cộng Sản nhắm mục tiêu vào văn hóa, nên thành phần khoa bảng được chú ý đặc biệt và cần lợi dụng, thời điểm mà đảng Cộng Sản rất cần để "gom chất xám" vào một tổ chức, như Mặt Trận gom hội chuyên gia vậy. Sự thất bại của nền giáo dục "Hồng hơn chuyên, học tài thi lý lịch" và ngày nay là "tiên học phí, hậu học văn" làm mai một nhiều mầm non, nhân tài đất nước; do đó, đảng Cộng Sản lại muốn "ăn cướp chất xám" lần nữa, ăn cướp ngay tại hải ngoại, chúng là những kẻ không bao giờ trồng cây, tưới nước mà muốn dùng thủ đoạn để hưởng quả. Mục đích yêu cầu là khối lượng chất xám đủ các ngành nghề, nhưng làm cách nào để lừa, gom vào bẩy sập, thì coi như đại thắng lợi. Cho nên cái bẩy gom chất xám dưới nhãn hiệu "văn hóa" cũng nên đề cao cảnh giác, nhất là cái trung tâm nầy ra đời vào lúc đang kịch chiến trong mặt trận văn hóa vận.

Theo những tin tức phổ biến xa gần, Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại được thai nghén, vận động từ tháng 8 năm 2000 đến tháng 10 năm 2003. Ban vận động thành hình từ tháng 11 năm 2003 đến tháng 1 năm 2004 và sang hè xuân 2004 thì tiến hành thành lập. Dự án phổ biến vào tháng 1 năm 2008 và tháng 8 năm 2008 sẽ tiến hành dự án; nếu thành công thì tiến hành ra trung tâm và thu nhận "sinh viên ghi danh". Cũng giống như hầu hết các tổ chức, khi mới còn nằm trong dự án, thì cũng có dành nhiều mục hấp dẫn như: góp phần phát triển, sinh hoạt văn hóa cộng đồng dân tộc Việt Nam cũng như ngoài nước ... (các trường Việt ngữ đã làm từ lâu rồi, khỏi cần đợi đến cái tổ chức nầy làm). Rồi nào là gặp gở, đối thoại ( không loại trừ giới văn hóa trong nước?). Phần nghiên cứu cũng không có gì mới mẻ như: văn minh, tôn giáo, triết, tư tưởng Việt Nam, sử ký, địa lý, ngôn ngữ, văn minh ... với những dự án, mục đích có nhiều mơ hồ, hình như những người chủ trương lập lờ, núp bóng dưới "bình phong văn hóa nghệ thuật" với những mục tiêu "giao lưu văn hóa" sẽ xuất hiện trong tương lai; như các nhà sư Phật Giáo, tu hành tự do ở hải ngoại mà lòng luôn "về nguồn" luồn trôn hang Pác Pó vậy.

Cái gọi là Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại thuộc trung tâm văn hóa Nguyễn Trường Tộ đang có dự án với các ý nghĩa, mục đích nêu trên được coi là "vụ lúa Hè-Thu" ở Việt Nam dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, không biết cái trung tâm văn hóa nầy có những điểm mà bất cứ người tỵ nạn, học viên hàm thụ trên internet luôn đặt lên hàng đầu "tiên lập trường, hậu ghi danh" là:

- Trường có treo cờ vàng ba sọc đỏ, hay cờ đỏ sao vàng hoặc là hai thứ cờ hầm bà lằn, lập lờ đánh lận con đen như nhóm Tập Nhạp Dân Chủ Điên-Ngoa. Chơi bài ba lá, đánh lừa mọi người qua chiêu bài văn hóa, văn chương ... ở hải ngoại, thỉnh thoảng có vài trường có con em tỵ nạn học, thế mà Cộng Sản tìm cách treo cờ đỏ, mang sách vở vào đầu độc, nên việc xác nhận màu cờ là điểm tối quan trọng, như là những "điều khoản lập qui" trong bất cứ bản hiến pháp một quốc gia, cương lĩnh chính trị của một tổ chức.

- Chương trình giảng dạy có "hòa hợp hòa giải" trong "giao lưu văn hóa, dùng nhiều từ ngữ của khủng bố, đấu tố ... hay những từ ngữ "nghiệp chuyên" trong nước. Sách vở, tài liệu từ đâu? Do ai cung cấp? Nhất là việc "đối thoại" thì liệu cái Đại Học Nhân Văn nầy có mời những nhà văn, nhà báo, kinh tế gia, học giả ... thuộc "các đỉnh cao trí tệ loài người", nhất là các "đại trí thức" tốt nghiệp bằng phó hay tiến sĩ trường Nguyễn Ái Quốc làm "quản giáo văn hóa" để giáo dục những "sinh viên" hải ngoại muốn trau dồi, tìm hiểu "trong sáng trong tiếng Việt.?

- Thành phần giáo sư, hướng dẫn gồm những ai? Nếu từ trong nước, Hội Chuyên Gia của băng đảng Việt Tân, hay mời các tiến sĩ, giáo sư thuộc nhóm Giao Điểm thì coi như là trung tâm văn hóa của đảng thành lập nhằm thu hút hết chất xám, đánh lừa người quốc gia, cũng là cá mè một lứa. Được biết tại hải ngoại, đã có mặt của Hội Chuyên Gia Việt Nam, nên thành phần giảng dạy, cũng không tránh khỏi thành phần nầy được Viện Đại Học Nhân Văn mời. Đây là điểm mà những "sinh viên" nào muốn hàm thụ cũng cần lưu ý.

- Chương trình học ra sao? sử học thì phải khách quan, ghi công những anh hùng dân tộc như Hai bà Trưng Lê Lợi, Quang Trung ... còn Hồ Chí Minh là tên Việt gian bán nước, hại dân, đảng Cộng Sản là tay sai ngoại bang; nếu chương trình giảng dạy đề cao tên Hồ Chí Minh, đảng Cộng Sản, văn hóa thì dùng văn thơ của Tố Hữu, Nguyễn Tuân, Trần Huy Liệu ... thì cũng ghi nhận là trung tâm văn hóa "xanh vỏ đỏ lòng".

- Học để làm gì, khi mà khắp nơi đều có trường Việt ngữ, báo, đài, truyền hình tiếng Việt?

- Viện Nhân Văn Và Nghệ Thuật Việt Nam Hải Ngoại và Đại Học Nhân Văn có đủ tư cách để cấp văn bằng cho học viên sau khi tốt nghiệp bằng hàm thụ trên internet? Hay là những mãnh giấy lộn nầy có giá trị với giai cấp "tiến sĩ Cầu Muối" ở Việt Nam, mà ngày nay thì: "học trên Computer, thi bằng điện thư" không khác nào lối học ở Việt Nam: "dốt như chuyên tu, ngu như tại chức".

Người ta có câu: "ở đời không thể tránh khỏi hai cái: chết và đóng thuế". Nhưng chính trị là bao trùm tất cả, không ai thoát khỏi CHÍNH TRỊ, cho nên những ai tuyên bố phi chính trị là có hai con đường: một là nằm trong quan tài, hai là lên rừng sống một mình như anh chàng Tarzan. Chứ sống ở bất cứ xã hội nào, ngay cả thời bộ lạc cũng bị ảnh hưởng chính trị. Tôn giáo, văn hóa, xã hội ... cái gì cũng có chính trị cả; thí dụ cụ thể như một người đi cầu tiêu, nhấn cái nút dội cầu, đó cũng là "làm chính trị" cụ thể, vì số nước dội ra ống cống có quan hệ đến những công nhân sở nước, tài chánh, chính sách bảo vệ nguồn nước, thuế má ... ngay cả người không nhà (homeless) ở các nước Tây phương, cũng là đề tài chính trị mà các chính khách bàn cãi để giúp đỡ, giải quyết vấn nạn, là đề tài cho các ứng cử viên hứa hẹn. Văn hóa cũng không thoát khỏi vòng "chính trị", ai cho văn hóa phi chính trị thì họ chính là kẻ "phi văn hóa". Trong nước các cơ quan truyền thông làm văn hóa, không bao giờ phi chính trị, dung "văn hóa tải đảng", công cụ cho chế độ độc tài Cộng Sản. Tại các quốc gia dân chủ, văn hóa cũng phải làm chính trị, nhưng là thứ chính trị nhân bản, cổ động nhân quyền, tự do. Ai cho văn hóa là phi chính trị, thì thử viết sách ca tụng Hitler, Polpot ... mở trường dạy học với những sách giáo khoa, lập đài phát thanh, truyền hình cổ động cho Al Qaeda, bảo Osama Bin Laden là vĩ nhân ... là không thể tiếp tục làm văn hóa.

Cho nên cái gọi là Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại có coi Văn Hóa là phi chính trị không? Nếu có chủ trương chính trị, thì nên xác định rõ lập trường "Cộng Sản hay Quốc Gia" còn lập lờ "nửa vàng nửa đỏ" để đánh lừa quần chúng, người ghi danh là không thể nhận được sự hưởng ứng, dù thành phần giảng viên toàn là các tay "khoa bảng gạo cội". Mặt khác thì liệu cái trường đại học nầy có thành tâm như nhiều người Việt tình nguyện, vô vụ lợi duy trì văn hóa dân tộc mà không giao lưu, không chấp nhận chế độ Cộng Sản bất cứ hình thúc nào; họ đã âm thầm làm nhữn "chiến sĩ văn hóa thầm lặng", không vỗ ngực xưng tên, phô trương danh hiệu "đại học".

Tuy nhiên nếu cái ĐẠI HỌC Nhân Văn Hải Ngoại ra đời, không phải vì thiện chí mà vì những mưu đồ thầm kín, phù hợp với giao lưu văn hóa, để làm những cái bật cho sách lược hòa hợp hòa giải, đầu cầu giao liên, nhằm dọn đường cho giặc vào, thì đây là ĐỘC HẠI văn hóa, cần phải đề cao cảnh giác, tẩy chay ngay từ trong trứng nước, mới trừ được cái họa lâu dài. Người Việt hải ngoại đã lầm cái họa Mặt Trận kháng chiến cuội và nay cái nọc đọc vẫn làm nhức nhói cả cộng đồng từ năm 1980 đến nay, bài học nầy cần nên ôn lại để không bị lầm nữa.

Ngày nay, kỹ thuật thông tin cao, nên các nguồn thông tin dồi dào trên các trang web trung thực của người Việt tự do thực hiện nhằm bảo tồn văn hóa, thì việc thành lập tủ sách đại học là thừa. Việc thành lập trang website cũng dễ dàng như "mở một hộp thơ" ở ty bưu điện, nên bất cứ ai cũng có thể mở một "Viện Đại Học Nhân Văn và Nghệ Thuật Việt Nam Hải Ngoại", vẽ vời ra những "dự án" thoải mái. Trên mạng lưới thông tin điện tử toàn cầu, là thứ "ta bà thế giới" có nhiều thứ thật, giả lẫn lộn, nên việc tìm hiểu, lựa chọn nơi để đọc, nghiên cứu là điều cần thiết, để không bị lọt vào bẩy tuyên truyền, văn hóa vận của Cộng Sản hay những kẻ xấu khác.

Trương Minh Hòa