Wednesday, September 3, 2008

Hũ tương thúi Phật giáo Úc châu


Trương Minh Hòa

Nhiều người cứ tin tưởng một cách máy móc, nhất là giới Phật tử, thì chùa là nơi thanh tịnh, tăng ni là những người đã thấy được kiếp nhân sinh phù du như bọt nước, cõi đời là tạm bợ, giác ngộ chân lý của đức Phật, tình nguyện quy y "Phật-Pháp-Tăng" để kiếp sau được giải thoát khỏi kiếp luân hồi.

Từ chiếc áo cà sa, đầu cạo trọc, nói năng toàn là những lời nói từ tốn đượm vẻ hiền đức chững chạc, âm lượng khoan thai với những từ ngữ của đạo Phật toàn là chuyện "làm lành lánh dữ, từ bi, nhân ái, yêu thương ...", gặp nhau là chấp tay xá dài với câu mở đầu "Nam Mô A Di Đà Phật", thật là "thiện tai! Thiện tai!" (ngoại trừ tông phái thiền Tiếp Hiện của Sư Ôm Thích Nhất Vẹm, giáo chủ Lang Môn, khi gặp nhau không chấp tay mà ÔM hôn theo kiểu Liên Sô, như tổng bí thư đảng Cộng Sản Liên Sô Breznev ôm hôn Hồ Chí Minh khi gặp nhau trong thời hai tên nầy còn sống; nhưng chuyện hai người khác phái ôm hôn kiểu nầy dễ bị hiểu làm là GAY lắm), rảnh rang thì lần chuỗi hạt Bồ Đề để cho tâm tính bình lặng như mặt nước, lại thường hay mở rộng tấm lòng từ bi, kêu gọi Phật Tử đóng góp để cứu tế khi có thiên tai ở bất cứ nơi nào trên thế giới; một điều dễ nhận ra là: dù tăng ni với tấm long "đại-bác" đến đâu, cũng ít vị nào ai dám bán chùa do mình làm chủ, bá tánh đóng góp, để dành tất cả tiền cứu giúp những người lâm nạn như câu người ta thường nói: "Cứu một người còn có phước lớn hơn cất năm, bảy ngôi chùa".

Cho nên chùa là nơi có thể tin tưởng, vì nơi nầy toàn là những người hiền đức, không tranh đua, bỏ qua hết cả lục dục thất tình, danh lợi để mai sao khi viên tịch, hy vọng về Niết Bàn, thoát khỏi kiếp luân hồi. Thầy, ni cô là những người được nhiều Phật Tử tin cậy là có đạo đức, có kiến thức về Phật pháp, lại là người ngày đêm công phu kinh mõ kề cận "tượng Phật", đi xa hơn, trong xã hội, thầy là những vị" lãnh đạo tinh thần", được các M.C giới thiệu trịnh trọng trong các buổi lễ, sinh hoạt cộng đồng .... chức lãnh đạo nầy không có nhiệm kỳ, không người bầu, nhưng được giữ suốt đời. Tuy nhiên, cái địa vị mang tính cách "lãnh đạo" ấy có dính dáng đến đời, nhất là trong lãnh vực chính trị, ấy thế mà một số thầy rất hãnh diện làm "lãnh đạo tinh thần" nhưng lại tuyên bố "PHI CHÍNH TRỊ" thế mới là "trật đường rầy xe lửa", nhưng đó là "cái khôn" của những kẻ "láu cá vặt": khi hưởng lợi thì nhào ra lãnh trước, lúc hữu sự thì lặn mất; nhất là các sư từ Việt Nam sang, lợi dụng lối "phi chánh trị" để từ chối không chịu thuyết pháp bất cứ nơi nào có lá cờ vàng ba sọc đỏ, hát quốc ca, một số chùa mà trong lúc còn cần bá tánh đóng góp hoàn thành, thì treo cờ, nhưng sau khi khi đã xây xong là "phi chính trị"; hoặc là một số ngôi chùa hải ngoại do đám sư "về nguồn" trụ trì, lúc khánh thành thì treo cờ vàng cả chùa, từ cổng đến chánh điện, nếu cần phô trương cũng mời cả những vị danh tiếng như "Đức Đa Lai Đa Ma" khi đi ngang qua, đến chùa để dựa vào uy tín hầu lừa đảo bá tánh và những người quốc gia, sau nầy thì lột cờ, phi chính trị, hết xôi rồi chuyện .... đây là mưu đồ thâm độc, lợi dụng tôn giáo để triệt hạ biểu tượng tự do, hồn thiêng sông núi của dân Việt Nam. Phi chính trị nhưng không bao giờ "PHI ĐÔ LA" thế mới là lối tu ngày nay.

Vì sự tin tưởng theo tập quán "trọng Phật kính tăng" ăn sâu vào truyền thống của Phật tử, nên một số tăng ni thuộc loại: "mượn đạo tạo đời" cụ thể là: "mượn đạo tạo TIỀN" mới có môi trường hoạt động, tiếp tục gây bao "nghiệp báo", làm hoen ố uy danh Đức Pht và cả tôn giáo, nên việc "cúng dường, vung bồi công quả" cho những ngôi chùa với các " gian tăng" là vô tình tiếp tay cho kẻ gây thêm nghiệp báo, chớ không phải là có phước; nhất là từ ngày có đảng Cộng Sản vô thần, cán bộ Cộng Sản xâm nhập vào Phật Giáo từ trước 1975 đến nay, ngay cả hải ngoại cũng không tránh khỏi "công an giả sư" xuất ngoại thuyết pháp, thu tiền, tuyên truyền, ru ngủ, gây phân hóa hàng ngũ Phật Tử , làm công tác tôn giáo vận, cũng có khả năng gây dựng" chi bộ đảng" dưới tàng lộng tôn giáo, đường dây tình báo, gián điệp ... có thể nói là giới "ni sư từ Việt Nam" sang rất là đa dạng, khó khám phá, chỉ trừ khi thấy giấy "Công Vụ Lịnh" như tên gián điệp đội lớp tu sĩ Phật Giáo Thích Thông Kỉnh. Người Việt tỵ nạn, bỏ hết tài sản, mồ mả ông bà, kể cả việc coi thường mạng sống, bỏ nước vượt biển, vượt biên đi tìm tự do, thường lo sợ công an, cán bộ phát giác trên đường đi; nhưng ngày nay, công an, cán bộ tôn giáo vận, mặc chiếc áo cà sa, được một số cơ sở Phật Giáo hải ngoại, nhất là sư và chùa "về nguồn" ủng hộ, sư từ trong nước được tôn kính, thuyết pháp dạy đạo, được coi là "lời vàng ngọc" nên có thu vào dĩa CD, DVD để phổ biến, đây là thực tế phủ phàng.

Những người tỵ nạn Cộng Sản ngày xưa bị công an, cán bộ bức hại đủ điều, thì ngày nay lại chấp tay chào cung kính "công an, cán bộ tôn giáo vận" mặc áo cà sa mà cứ ngỡ đây là sư, thì quả là đau lòng cho đạo Phật và vong linh của hàng triệu người chết oan vì đại họa Cộng Sản, trên đường đi tìm tự do. Nhờ nhiều Phật tử "thuần thành" kiểu Tam Tạng nên mà quái Cộng Sản tiếp tục mượn áo cà sa, thuyết pháp ca ma Cộng Sản ở ngay tại "thế giới Tây Phương Cực Lạc", tiếp tục ru ngủ, thu tiền và làm công tác tôn giáo vận một cách an toàn.

Tại Úc Châu cũng có Phật tử, dù dân số ở đây khoản 200 ngàn, nhưng nghe đâu có đến 65 ngôi chùa và ngày nay đang trên đà "tăng vọt" khi có nhiều chùa bảo lãnh sư, ni ở bên Việt Nam sang tu học, bành trướng Phật Giáo, tình hình xuất ngoại rần rộ nầy của các tu sĩ Phật Giáo cũng là nghịch lý, vì trong nước Phật Giáo đang bị trù dập, đàn áp, nên rất cần những tu sĩ để cứu nguy cho đạo; mặt khác hàng triệu Phật tử đang cần các thầy, ni cô hướng dẫn quần chúng để bảo vệ đạo pháp; nhưng ở hải ngoại không cần sư, ni sang để "tu" và hoằng pháp; như vậy, họ xuất ngoại để làm gì? Phật Giáo Úc Châu cũng có những xáo trộn như ngoài đời, với cảnh lừa lọc, đấu tố theo kiểu cải cách ruộng đất; tuy nhiên vì các sư, ni rất là "thanh tâm trường an lạc" nên những chuyện động trời ở hậu liêu thường được che dấu rất kỹ, nhờ vậy mà chùa mới thu được nhiều tiền, thầy trở thành "tư bản Phật giáo" sau thời gian tu hành, tài sản hàng triệu Mỹ kim là điều có thật tại hải ngoại. Thời gian chân ướt chân ráo mới định cư, Phật Giáo Úc Châu có danh xưng là "Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Tại Úc Đại Lợi" và sau nầy sát nhập thêm Tân Tây Lan, khi chưa có tài sản thì "đệ đệ, huynh huynh" tình đồng đạo khắt khít như "chuông với mõ, như tương với chao", nếu nói theo cái tình hữu nghị Việt-Trung thì: "tình đồng đạo đời đời bền vững như răng với môi"; thế nên sau khi có tài sản do Phật tử đóng góp thì: "không có Tình đồng đạo vĩnh viễn, mà chỉ có quyền lợi mà thôi".

Cuộc tranh chấp nổ ra nhiều nơi tại Úc Châu, điển hình như ở Tây Úc, một cư sĩ tên là Lê Tấn Kiết, tức là ông Mười Một, lấy pháp danh Đại Hỷ, dù không viết, đọc rành tiếng Việt (đương nhiên là kinh Phật cũng chưa chắc gì rành), nhưng cũng là người có tấm long "với Phật", là những người tỵ nạn đầu tiên đến vùng đất nầy, nên có cơ hội hơn nhiều người đến sau, qui tụ Phật tử, mướn căn nhà ở số 45 Money Street, lập ra "Niệm Phật Đường Chánh Giác", sau mua đứt căn nhà, đổi thành chùa Chánh Giác, ở ngay trung tâm phố Perth, nay có giá trị bạc triệu, có cả cư xá dành cho mướn. Vị cư sĩ nầy từng tuyên bố mục đích cất chùa với huê lợi hàng đầu với nhiều người rằng: "một ngôi chùa bằng ba cái SHOPS", dù nhiều người biết người xây chùa "không phải để tu" mà là THAY MƯỢN thiền môn làm THƯƠNG MẠI, nhưng vì kính Phật mà đi chùa, cúng dường, công quả, thế nên vị chủ chùa thu được nhiều lợi nhuận mà khỏi phải "lao động vinh quang", ai cũng biết vị chủ chùa nầy từ ngày qua Úc đến già, không đi làm gì cả, nhưng lại có nhiều tiền nhờ bá tánh "vung bồi công đức"; rồi dùng tiền đó chi, hiến tặng, đóng góp cho các hội đoàn, dần dần trở thành "ân nhân" hay "mạnh thường quân" của các hội đoàn địa phương, nên sớm trở thành "thân hào nhân sĩ"; thế nên, vị cư sĩ nầy từng có nhiều ảnh hưởng lớn đến Cộng Đồng Người Việt Tự Do Tây Úc trong suốt mấy thập niên qua, hầu như các buổi lễ cộng đồng, khi vị "lãnh đạo tinh thần" nầy có mặt, thì MC thường giới thiệu: "Bác Lê Tấn Kiết, đại diện chùa Chánh Giác"; ngay cả vị chủ tịch trẻ cộng đồng là luật sư Nguyễn Quốc Duy từng gọi ông Lê Tấn Kiết bằng câu: "NIÊN TRƯỞNG TỐI CAO CỦA CỘNG ĐỒNG" trên đài phát thanh SBS và đài phát thanh Tây Úc và trong các buổi lễ; giống như "chủ tịch Hồ Chí Minh VĨ ĐẠI" vậy.

Sự ảnh hưởng nầy được nhìn thấy qua các cuộc bầu cử cộng đồng, vị cư sĩ nầy thường là trưởng Ban Tổ Chức Bầu Cử, thời chủ tịch Nguyễn Quốc Duy, quỹ Lotto hiến tặng số tiền lên đến 320 ngàn cho cộng đồng, thay vì đại diện Lotto tới văn phòng cộng đồng trao tiền, thì lại kéo đến chùa Chánh Giác và ông Lê Tấn Kiết lên đài phát thanh SBS nói năng, khiến người dân tưởng đây là công lao do ông ta vận động vậy. Từ một người bình thường, không rành chữ nghĩa, dựa vào tượng Phật, uy tín Phật Giáo mà làm nên cơ nghiệp, uy danh là nhờ nhiều Phật tử thuần thành đóng góp.

"Nước lã mà quấy nên hồ.
Tay mơ, dựa Phật, tiền vô ào ào"

Tình hình nầy kéo dài đến năm 1982 khi có vị sư tên là đại đức Thích Phước Nhơn, được chùa bảo lãnh từ trại tỵ nạn, sang ở chùa Chánh Giác để tu; nào ngờ vị sư nầy muốn làm hội trưởng Phật Giáo Tây Úc, nên tranh chấp với cư sĩ Lê Tấn Kiết, thế là "mặt trận Phật giáo miền Tây không yên tỉnh" khai hỏa sau nhiều tháng ngày có lời qua tiếng lại, kình chống nhau quyết liệt ngay trong chùa. Vào lễ Vu Lan năm 1984, đại đức Thích Phước Nhơn vận động các "sư huynh" ở Tổng Hội Phật Giáo xuống dàn xếp, rồi cũng không xong, thế là một cuộc "đem Phật xuống đường" tại Tây Phương diễn ra, các chư tôn công đức mang tượng Phật, bàn thờ ra khỏi chùa Chánh Giác, có một số Phật tử ủng hộ, đau lòng thay, bàn thờ Phật lại đặt ngay trước ngả ba đường Money và Monger, đó là một "động chứa đĩ có licence" của người Úc; cũng như trước đây đám Thích Trí Quang đem cả tượng Phật đặt trên đống rác trong chiến dịch mang Phật xuống đường 1966 vậy. Rồi Đại đức Thích Phước Nhơn mang bàn thờ Phật đến "an vị" tại một căn nhà mướn ở đường Albert (North Perth) để tu tạm, sau đó dời lên vùng Wanneroo cất ngôi Phổ Quang rất lớn, xưng là viện chủ; nay thì thượng tọa Phước Nhơn tu hành thành đạt viên mãn, có trong tay 3 ngôi chùa, giao cho ba ni cô trụ trì, còn thượng tọa thì xưng là "phương trượng" như Thiếu Lâm Tự vậy; nên ngày nay Phật Tử không biết vị Phương Trượng đang ở đâu, vì có 3 chùa ở ba nơi khác nhau?. Một số Phật tử trước đây từng đóng góp công quả, khi đến chùa xưa, thì tự hỏi: "giờ nầy sư ở đâu?".

Tiếp theo là những thông báo khai trừ, trong một tờ QUYẾT ĐỊNH, do hòa thượng Thích Phước Huệ, là Viện Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Úc Đại Lợi, số 04/83/ VHC/QĐ, đề ngày 4 tháng 12 năm 1983, có đoạn như sau: "Những hành động của ông Lê Tấn Kiết, chứng tỏ đương sự là một con người không có tư cách của một Phật Tử, không giữ được các hạnh tốt của một CÁN BỘ PHẬT GIÁO theo giáo luật ...". Cuộc xung đột kéo dài đến khi huề thượng Thích Phước Huệ cần "thu phục" chùa để tách Phật Giáo Úc Châu ra làm 2 cánh như trước 1975 ở miền Nam, nên vào tháng 5 năm 1999, hòa thượng Phước Huệ sang Tây Úc, được ông chủ chùa Chánh Giác Lê Tấn Kiết tiếp đón nồng nhiệt, tổ chức ngay buổi thuyết pháp vào lúc 7 giờ tối ngày 15-5-1999, ông chủ chùa tuyên dương rằng: "Hòa thượng Thích Phước Huệ có công đức VĨ ĐẠI đối với Phật Giáo Úc Châu ...". Được biết cánh "Phước Huệ Công Đức Tòng Lâm" có hơn 30 ngôi chùa, nay xây thêm đạo tràng ở Sydney, xây mấy chục tượng Phật ở Tân Tây Lan; theo lời đại đức Thích Phước Tấn, người lo xây tượng cho biết là: các người làm tượng phải giữ thanh khiết trong lúc làm việc trong vòng 5 năm, có nghĩa là người xây tượng không được "chút chút" với vợ hay bất cứ người khác phái (được quảng bá những lời phỏng vấn và gây quỷ trên đài phát thanh SBS ở Sydney do Ngọc Hân đảm trách trước đây), không biết có vị nào làm công tác xây tượng Phật nầy dám hy sinh đến 5 năm chuyện "giã gạo ban đêm" như bài hát: "tiếng chày trên sóc Bam Bo".

Tuy nhiên gần đây thì chính "sư phụ vô vàng kính yêu" của vị đại đức nêu trên đã có mối quan hệ HỮU CƠ (đừng nói lái mà làm mất tôn kính nhé) với một phụ nữ có pháp danh Diệu Đ... trong suốt 15 năm mà "thanh tâm vẫn trường an lạc" vì không ai biết, nay đã được phổ biến khắp thế giới. Đây cũng có thể chỉ là "phần tảng băng nổi" trong cuộc đời và sự nghiệp "tu đạo" của vị "giáo hội chủ" Phật Giáo Úc Đại Lợi và Tân Tân Lan, vì trước đây, khi còn tu ở Việt Nam cũng có "Năm Thợ May"; do đó trong bốn thứ khoái của các vị thâm Nho thời xưa, có cái khoái: "hòa thượng động phòng hoa chúc dạ", thì vị hòa thượng Phước Huệ chắc là đã biết biến "đời là bể khổ" thành ra "đời là bể sướng" và cũng có thể có nhiều người nữa trên đường "hành đạo" và cùng "đưa nhau vào cõi mơ hồ nào đây", nên không có cái tâm trạng "bỡ ngỡ" khi vị hòa thượng tu gần hết cả đời, bổng cưới vợ và biết được "hang Pác Pó" lần đầu mà động não: "mặt trời chân lý rọi trong tim". Hòa Thượng Phước Huệ thể hiện tinh thần "tu đạo" lẫn "đạo tu" theo phái Tiếp Hiện, không biết Ngài và thiền sư Thích Nhất Vẹm, ai khai sáng trước?. Tuy nhiên, trong cùng một con người như ngài hòa thượng Thích Phước Huệ mà đóng hai vai mới là chuyện phi thường: lúc mặc áo cà sa thì là cao tăng, nhưng khi cỡi áo cà sa thì là "người phàm", thật là vẹn toàn "đạo và đời", cái ranh giới giữa đạo-đời rất mong manh, chỉ cởi lớp áo là xong, không cần "kinh qua thời kỳ quá độ".

Tại Úc Châu, cánh Phước Huệ không có những hoạt động chống Cộng, nhưng từ thiện là "chủ yếu", lại thêm bảo lãnh sư từ Việt Nam sang tu, ngày nay nổi bật có sư Minh Hiếu, là người hoạt động mạnh, đi cổ động xây thêm chùa tại nhiều nơi ở Úc Châu. Không biết tiền đâu là làm rình rang như thế? Dựa theo tài liệu từ quyển Bạch Thư của hòa thượng Thích Tâm Châu, nhân chuyến đi thăm Úc Châu, phát hành năm 1994 tại chùa Phật Quang, với những biến cố như sau:
Từ 1994, hủ tương thúi Phật Giáo Úc Châu đã có, nhưng hủ tương nầy được che kín bằng "tượng Phật", huề thượng Thích Tâm Châu, sang Úc Châu năm đó, tình cờ xem lại cuốn phim thu băng ghi lại cảnh "biểu tình đấu tố" của một số Phật tử do đám Phước Huệ giựt dây tại thị xã Footscray ở tiểu bang Victoria (Melbourne) vào chiều ngày 4 tháng 11 năm 1993. Mục đích tối hậu là giành chùa Quang Minh do hòa thượng Huyền Tôn bỏ công sức gầy dựng.Ngày 7-6-1993, Hòa Thượng Thích Phước Huệ đã vận động chữ ký của các sư, ni theo ông, gồm 13 người, yêu cầu:

- Thu hồi các chúc vụ Giáo Hội của thầy Huyền Tôn.
- Thuyên chuyển thầy Huyền Tôn ra khỏi tiểu bang victoria.
- Cấm thầy Huyền Tôn không được tham dự các đại lễ.
Qua 3 yêu sách trên, đủ thấy là hòa thượng Thích Phước Huệ đúng là "công đức tùm lum, tà la". Lấy quyền và tư cách gì để đuổi một người ra khỏi tiểu bang, giáo hội? Trong khi nước Úc theo thể chế tự do, bất cứ công dân Úc nào cũng có quyền đi lại, lựa chọn nơi cư trú tự do. Cái "chế độ" hộ khẩu đâu có ở Úc, thế mà Phước Huệ muốn áp dụng.

Ngày 17 tháng 9 năm 1993, huề thượng Thích Huyền Tôn viết bức tâm thư gởi cho huề thượng Thích Phước Huệ, 6 trang đánh máy, với các điểm chánh:

- Lập Hội Đồng Quản Trị Chùa Quang Minh (Melbourne).
- Cho biết chùa PHƯỚC HUỆ (Sydney) là ngôi chùa của giáo hội hay là chùa tư của riêng hòa thượng Phước Huệ?
- Giáo Hội công nhận ba thầy: Tâm Minh, Bổn Điền, Quảng Nghiêm vẫn là người trong giáo hội.
- Thu hồi thầy Minh Trí, trụ trì chùa Quang Minh về nơi cũ.

Hòa thượng Huyền Tôn nhận là đã lầm lổi khi tôn phong thượng tọa Thích Tắc Phước, tức là Thích Phước Huệ lên ngôi vị Huề thượng (sau nầy chính Thích Phước Huệ bảo các đệ tử trong cánh làm cái lễ gọi là SUY TÔN HÒA THƯỢNG, được đài phát thanh SBS, do Ngọc Hân đánh bóng, ca tụng công đức trên toàn quốc, nghe lễ suy tôn, thính giả tưởng đâu là Ngài Phước Huệ là Giáo Hoàng vậy). Sự vận động ngầm, tổ chức của cánh Phước Huệ, nên vào ngày 25 tháng 10 năm 1993, có 4 người trong chùa Quang Minh gồm toàn là nữ: Nguyễn Thị Phú, Bùi Thị Hồng Nhung, Thái Ngọc Bích, Đoàn thị Kim Hoa, đồng ký tên gởi lên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Úc Đại Lợi tố cáo huề thượng Thích Huyền Tôn có các tội như sau: chủ mưu bạo hành, hối mại quyền thế và hăm dọa ... họ yêu cầu:

- Khai trừ thầy Huyền Tôn ra khỏi giáo hội.
- Yêu cầu thầy Huyền Tôn bồi thường.
- Yêu cầu can thiệp với Bộ Di Trú đưa nội vụ ra tòa.

Chiều ngày 4 tháng 11 năm 1993, bà NGUYỄN THỊ PHÚ cùng với một số Phật Tử của chùa Quang Minh tổ chức một cuộc biểu tình nhỏ ngay tại trung tâm thành phố Footsray với biểu ngữ bô nhọ huề thượng Thích Huyền Tôn, bà Phú chấp tay lạy những người đi đường để xin chữ ký, hình ảnh nầy chẳng khác nào cảnh đấu tố "trí, phú, địa, hào ..." ở miền Bắc sau 1954. Đến ngày 5 tháng 11 năm 1993 (ngày hôm sau), bà Nguyễn Thị Phú với thỉnh nguyện thư và 200 chữ ký gởi lên huề thượng Thích Phước Huệ, yêu cầu trục xuất huề thượng Huyền Tôn ra khỏi chùa Quang Minh.

Vào ngày 6 tháng 11 năm 1993, có một lá thư của một người không tiện nêu tên, gởi đến các tăng ni, chư tôn trong giáo hội, phân tích rất kỷ và coi cuộc biểu tình của bà Phú là ÂM MƯU của Cộng Sản, cần phải đạp tan, nếu không có hại cho đạo pháp. Đến ngày 8 tháng 11 năm 1993, ni cô HẠNH THẮNG viết một bức tâm thư gởi đến chư huề thượng, thượng tọa, đại đức, thư nói rõ về cô Nguyễn Thị Phú và Bùi Thị Hồng Nhung là ân nhân của cô; nhưng hai cô nầy định kéo cô vào con đường "Đồng tình luyến ái", cô không chịu chiều theo, nên các cô kia ghen tức mà vu khống, đặt điều.

Sau này, sự thật phơi bày, ai tu thật, tu giả đều khó thoát khỏi "quả báo nhản tiền", sau đó cánh Phước Huệ phát triển mạnh, từ thiện với quỹ VABAT, tổ chức quyên góp tiền về Việt Nam cứu trợ, mổ mắt cườm thoải mái (có phổ biến và những cuộc điện đàm từ Việt Nam do các sư chùa Phước Huệ nói từ Việt Nam, đang làm việc từ tâm). Không cần dùng kiếng chiếu yêu, ma quái bị "kiếng thời gian" làm lộ nguyên hình, nên cái vụ Scandal của huề thượng Thích Phước Huệ là điều khó dấu, dưới ánh mặt trời không có gì bí mật, nhất là "cái cục cưng của anh ...." tiết lộ trước công luận về: "con đường tình ta đi..." từ lâu và dĩ nhiên là huề thượng Thích Phước Huệ nay đã thấm thía câu ca: "Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần sầu ...". Tuy nhiên, từ vụ nầy mới lòi ra vài tờ báo ở Úc Châu vẫn còn "kính tăng Phước Huệ" như là người CÔNG ĐỨC đầy mình nay thành CỨT-ĐÔNG bay mùi thúi khắp nơi, dù các vị nầy được coi là những nhà báo nổi tiếng, kỳ cựu ở Úc Châu trước đây, nhưng bây giờ thì đã "Đổi Mới" theo thời cuộc "đón gió và hơi đồng" mà làm ra của cải vật chất và từng ra vào Việt Nam. Những người làm trong các ban chấp hành cộng đồng mà về Việt Nam làm ăn, có cơ sở, thì không thể tin được; những người làm chủ báo mà về Việt Nam thường xuyên, được thoải mái đi đây đi đó, thì đây không phải là những cơ quan truyền thông chống Cộng, có lập trường rõ ràng, toàn là thứ "xanh vỏ đỏ lòng" nên đế cao cảnh giác, không nên mua báo là ủng hộ cho chúng có tài chánh hoạt động ngầm cho Việt Cộng qua nghị quyết 36.

Vài tờ báo nầy được đồng hương Úc Châu biết rõ cái mục đích làm truyền thong "thương mại" nên có thể quảng cáo cho bất cứ dịch vụ, thương nghiệp nào để có tiền, như quảng cáo các dịch vụ cho Vietnam Airline, các đoàn văn công, đánh bóng cả con gái của tên Việt gian Nguyễn Cao Kỳ là Nguyễn Cao Kỳ Duyên (có lần đang hình ả tươi cười khi về Việt Nam, có ý định đóng phim), họ "núp bóng văn nghệ" để làm lợi cho giặc Cộng. Từ đó, người ta đặt câu hỏi là: tại sao vài tờ báo nầy lại muốn nhận chìm xuồng vụ "Phước Huệ công đức tùm lum"? Nhưng đây cũng là "ngưu tầm ngưu, mã tầm mã", họ binh vực nhau dù biết sai trái cũng đều có cái NHÂN thầm kính bên trong, chớ không phải tự nhiên mà có, bên trong ắt hẳn có sự quan hệ chằn chịt quyền lợi, làm ăn, nhất là có cơ sở tại Việt Nam. Hy vọng sẽ có nhiều chuyện" tùm lum khác" cũng lần lượt phơi bày trước công luận như chuyện giải mật văn khố của các nước dân chủ trên thế giới vậy.

PHẦN ĐỀ NGHỊ:

Nhân đây, xin "gợi ý" cho những tiến sĩ, giáo sư, học giả, học thiệt, học chơi, học giỡn học dỏm, học nhiều mà không hiểu, có học mà đếch có hạnh ... của nhóm GIAO ĐIỂM có thêm những đề tài để đưa lên trang web, xin đề nghị sau đây:

- Nhiều tác giả có viết đề tài: ĐỐI THOẠI VỚI GIÁO HOÀNG JOHN PAUL ĐỆ NHỊ, nhưng có lẽ viết bằng tiếng Việt, mà đăng trên Giao Điểm là trớt quớt, ngay cả những người Việt cũng ít ai vào đây để tìm hiểu vì biết trang báo điện tử nầy rất rõ lập trường; mặt khác khi còn sống, đức Giáo Hoàng cũng không quỡn đọc, nhất là viết bằng tiếng Việt; chắc chắn là mục đích của Giao Điểm là nhằm "khiêu khích" những tín đồ Thiên Chúa và kích động chia rẻ giữa các tôn giáo. Ai cũng biết Đức Giáo Hoàng John Paul Đệ Nhị là người làm tan cả khối Cộng Sản Quốc Tế qua mắc xích Ba Lan, nên những tác giả nầy "oán đức Giáo Hoàng" lắm, làm sụp đổ cả "chỗ dựa vững chắc như thành đồng vách sắt" của "đỉnh cao trí tệ loài người" tại Bắc Bộ Phủ. Cho nên xin đề nghị những cây viết "có lắm bằng cấp cao của Giao Điểm" nên viết đề tài thực tế, bằng tiếng Việt, thì có nhiều người đọc như: ĐỐI THOẠI VỚI THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH hay là ĐỐI THOẠI VỚI HUỀ THƯỢNG THÍCH PHƯỚC HUỆ. (sau vụ scandal nầy)

- Cũng nhiều tác giả Giao Điểm viết đề tài: TẠI SAO KHÔNG THEO ĐẠO CHÚA?, nay đề nghị viết đề tài: TẠI SAO PHẬT TỬ KHÔNG THÈM ĐI CHÙA?

- Đề tài CÔNG GIÁO TRÊN BỜ VỰC THẨM của Charlie Nguyễn, xin đề nghị viết đề tài: PHẬT GIÁO TRONG THỜI MẠT PHÁP.

- Đề tài CÔNG GIÁO HUYỀN THOẠI VÀ TỘI ÁC cũa Charlie Nguyễn, xin đề nghị viết để tài: PHẬT GIÁO VÀ SƯ HỔ MANG, DÂM ÁC TĂNG ....

Chúc những cây viết Giao Điểm viết một cách trung thực, có luận lý của "người có học, có trình độ" văn hóa, để có thể tạm thuyết phục người đọc; chớ lối viết từ xưa đến nay theo kiểu "ngụy chứng, ngụy biện" theo tinh thần của các báo chí trong nước, là coi như thất bại, lòi ra cái dỏm trong đó. Nếu không cải thiện lối viết thì đề nghị nên mang bằng cấp về Việt Nam để "thân tặng" cho chủ nhân các Ao Cá Bác Hồ, cũng là góp một bàn tay phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trương Minh Hòa

Con đi học, cha mẹ lao đao

Trương Minh Hòa

Tuổi đẹp nhất của một người là thời học trò với đầy mơ mộng, đây là đề tài được giới văn nghệ sĩ cảm hứng qua văn thơ, nhạc ... như nhạc sĩ Thanh Sơn với " Nỗi Buồn Hoa Phượng", nhà văn Pháp Anatole France lưu danh thiên thu qua một bài viết nói về cái tuổi học trò trong ngày đâu tiên được đi học, cũng vào mùa thu, lá vàng rơi man mác, với tâm trạng bở ngở của cậu bé khi đi ngang qua khu vườn Lục Xâm Bảo. Nhà văn Thanh Tịnh của Việt Nam có những lời văn thật cảm động, xúc tích về cái ngày khai trường: " Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những áng mây bàng bạc ...".

Tuy nhiên cái tuổi học trò Việt Nam không còn thơ mộng như ngày nào, kể từ khi có tên Việt gian Hồ Chí Minh, đảng siêu cướp Cộng Sản, ngay cả chốn học đường cũng biến thành nơi "đấu tranh giai cấp" quyết liệt như ngoài đời, với các quan chức từ ban giám hiệu đến thầy cô là "công an học đường" sẵn sàng đưa các em nào có những lời nói "phản cách mạng", hay những bài viết luận văn "tiêu cực", là "phản ánh" tư tưởng của gia đình, thế là cha mẹ bị mang lụy, bị gọi lên trình diện công an địa phương sau khi nhà trường "phát hiện" ra mầm non chống đảng có mối "quan hệ hữu cơ" từ gia đình, nhất là thành phần có vấn đề, nằm trong diện "trí, phú, địa, hào". Học đường cũng là một "cơ sở tình báo nhân dân" qua các em học trò muốn có điểm cao, cần phải "lập công dâng đảng, Bác" bằng cách báo cáo những lời nói, việc làm của bất cứ người nào, không phân biệt gia tộc, cha mẹ; nhà trường là nơi lao động vinh quang, với các kế hoạch nhỏ trồng trọt, lượm đồ phế thải, thi đua đủ thứ, còn việc học là thứ yếu.

Trong khuôn viên nhà trường, vấn đề phân biệt "giai cấp" rõ ràng với thành phần ưu tiên là gia đình đảng viên Cộng Sản được gọi là "gia đình cách mạng" và những học trò, học sinh thuộc các gia đình không Cộng Sản, tệ hơn là thành phần xấu do chính sách của đảng qui định .... ở miền Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, thì có thêm "thành phần ngụy quân, ngụy quyền" con em của họ sớm bị cho nghỉ học, vì lý lịch gia đình và em nào đến tuổi thi hành nghĩa vụ quân sự, thì được đảng đày sang chiến trường Campuchea để đánh với quan Khmer Đỏ, giữ vững biên giới Tây Nam để bảo vệ thành trì của quan thầy Liên Sô ở Đông Nam Á, phần khác bị đảng lùa vào đoàn ngũ Thanh Niên Xung Phong, đưa đi nông trường nơi những vùng hoang vu, làm lao động, bỏ cả học hành, những đối xử tàn tê nầy lại được "nhạc sĩ quốc gia thờ ma Cộng Sản" là Trịnh Công Sơn cho là: "Em ở nông trường, anh ra biến giới". Trong khi đó con cháu cán bộ được ở lại học hành đến nơi đến chốn, sau nầy trở thành giai cấp lãnh đạo hậu duệ Cộng Sản; chốn học đường, khả năng, trình độ không quan trọng, nên các cô cậu ấm gốc đảng không có "chế độ thi rớt" hay là" ở lại", cứ lên lớp nếu lý lịch gia đình tốt, nhất là có thế lực trong đảng và nhà nước.

Trong hệ thống giáo dục "xã hội chủ nghĩa" với chủ trương chỉ nhằm đào tạo nhân tài cho tương lai đất nước, được lựa chọn từ các hạt giống đỏ, hệ thống nhà trường dành ưu tiên cho gia đình cán bộ, đảng viên và gia đình có quan hệ với đảng, đó là lối đào tạo: " Hồng hơn chuyên", làm mai một nhiều tài năng đất nước trong suốt từ 1954 đến nay, dù các thành phần khác có giỏi, thông minh hơn, nhưng không nằm trong thành phần "giai cấp" của đảng qui định, cũng coi như là không đủ điều kiện để tiếp tục con đường học vấn, sớm xếp bút nghiên theo lao động vinh quang, làm việc quần quật để nuôi thân, lập gia đình, cứ thế mà phát huy thân phận làm lao nô thời đại cho chế độ độc tài Cộng Sản từ đời nầy sang đời khác.

Biện pháp áp dụng thanh lọc học đường được biết với chính sách: "học tài thi lý lịch", áp dụng bằng nhiều hình thức, uyển chuyển tùy theo "tình huống", cho nên sau thời gian dài cai trị, chế độ Cộng Sản bị khiếm khuyết nhân tài trầm trọng, ngay cả những "hạt giống đỏ được tuyển chọn" từ đống hạt giống trong "gia đình đỉnh cao trí tệ loài người", khi xuất ngoại du học, không thể sánh bằng con cháu của "bọn đĩ điếm du côn, phản động, chạy theo đế quốc tư bản phản động "như lời mạt sát" rất là văn hóa cao "của tên thủ tướng có cái môi đẹp nhất nước Phạm Văn Đồng trước đây. Túi tiền của người Việt bỏ nước ra đi tìm tự do rất lớn, nhân tài nhiều, thế nên đảng cướp Cộng Sản mới có "ý đồ" với tay ra chụp, nhưng không thành công, dù đã đổi giọng: "khúc ruột nghìn dặm nôi liền" để vừa có tiền và vừa chiêu dụ được "chất xám" lên đến hàng trăm ngàn ở hải ngoại.

Một sự thật là các khoa bảng xuất phát từ những gia đình tỵ nạn, ít ai ngu ngốc trở về làm đầy tớ cho những thằng dốt chỉ huy, nên đảng và nhà nước đã thất bại hoàn toàn sau nhiều năm mời gọi; tuy nhiên, trong hàng ngũ tỵ nạn, không tránh khỏi bọn gián điệp, nằm vùng trà trộn, chúng mang theo "hạt giống đỏ" âm thầm nẩy mầm, khi vươn lên thì người ta biết ngay, như hạt giống đỏ là thằng nhóc họ TRẦN, đậu bằng luật sư ở nước tự do, định cư ở texas, học luật tự do mà muốn "áp dụng luật rừng" theo kiểu ăn cướp, lòi mặt ngay sau khi khen "những tên khủng bố Việt Cộng là yêu nước" và mạt sát quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong việc "bảo quốc an dân", vì không chịu "đầu hàng đảng siêu cướp Cộng Sản" qua cái hình thức "hòa hợp hòa giải theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Tên luật sư nhóc tì, chó chết đó, là hạt giống đỏ nầy không rành tiếng Việt, nên sau đó nhờ ai đó viết dùm bản văn để biện minh sau khi bị phản ứng mạnh từ tập thể tỵ nạn, quân nhân. Đây là một trong những bằng chứng điển hình để người Việt tỵ nạn hãy nhổ hết những hạt giống đỏ vừa nẩy mầm để ngăn chận sự lây lan của chúng trong cộng đồng nếu phát giác ra. Những tổ chức, đoàn thể nào dung dưỡng cho "những hạt giống đỏ" nẩy mầm đều bị đồng bào cảnh báo, cá nhân dù có danh tiếng, thành tích tốt, nhưng khi dính vô hạt giống đỏ cũng dễ bị "thân bại danh liệt" nếu không nhìn thấy, hoặc là cố tình quan hệ.

Chính sách thanh lọc học đường không có trong thời thực dân, dù đây là thế lực ngoại bang cai trị, nên thời Pháp có nhiều học trò nghèo, học giỏi đổ đạt, thành danh. Cho nên chế độ Cộng Sản rất thâm độc, làm cho "nước nghèo dân ngu" là hai mục tiêu "chủ yếu" giúp đảng kéo dài thêm thời gian. Sau khi khối Cộng Sản Quốc Tế tan ra thành từng mảnh lớn qua sự sụp đổ của Nga, Đông Âu, thế giới còn các nước tàn dư, trong đó có Việt Nam, đảng cướp đành phải mở cửa, tạm thời thảo hiệp với "bọn tư bản phản động", ngay cả không từ chối liếm gót "kẻ thù số một" Hoa Kỳ để sống; nên chuyện đào tạo nhân tài được mở rộng, con cháu đảng lại được ưu tiên du học và bọn "đế quốc" ban cấp nhiều học bổng, đào tạo dùm nhân tài. Tuy nhiên, thành phần du học sinh đỏ vẫn có bản chất y như ông cha, hạt giống nào thì mọc ra cây ấy; từ lâu thế giới lầm to, họ đặt hy vọng là nhờ những sinh viên du học trở về, sau nầy biến đất nước độc tài thành dân chủ, nhưng những hạt giống đỏ du học, họ chỉ học những kiến thức khoa học, kỹ thuật, đồng thời "điều nghiên" những sơ hở, khuyết điểm của các nước dân chủ để tìm cách chống lại, biến luật di trú thành luật: buôn bán nô lệ, phụ nữ hợp pháp ... nên nhờ sinh viên du học mà đảng và nhà nước "xuất khẩu" người càng đông, thu vào hàng tỷ Mỹ Kim hàng năm, đó là bọn: "ngày xưa du học, ngày nay hại đời".

Trong tình hình mới, nhất là từ ngày mở cửa, người ngoại quốc đổ tiền vào, các cơ chế tài chánh, cấp viện quốc tế trợ giúp, nên học đường với chính sách "hồng hơn chuyên" trước đây không còn là hợp với thời cuộc nữa, nhưng vẫn là "chủ trương trước sau như một, dù sông có cạn, núi có thể mòn"; thế là đảng chuyển sang lối: "Tiên học phí, hậu học văn", đây là cái lọc học đường rất tinh vi và "hiện đại" hơn "học tài thi lý lịch" thời trước, lý do là đảng Cộng Sản ngày nay suy yếu, không thể áp dụng lối thanh lọc học đường bằng cách đuổi những học sinh thuộc các gia đình "phản động", chỉ cần "đánh vào túi tiền" của những gia đình nghèo, mà đa số là thành phần không nằm trong đảng, là thành phần phản động, có nhiều mầm mống chống đảng, là coi như cái lọc tốt, ngăn chận được những thành phần ngoài đảng có được cơ hội học hành, tiến thân, nâng cao dân trí và sau nầy có khả năng đưa đất nước đến dân chủ, tự do.

Chính vì cái chủ trương "Hồng hơn chuyên" được chuyển qua mục tiêu "đánh thủng túi tiền"của những gia đình "phản động" nên đảng và nhà nước phớt lờ để cho đám "cán bộ giáo dục" từ các trường từ tiểu, trung đến đại học, tha hồ mà vẽ vời ra nhiều thứ tiền thu khác, khiến phụ khuynh rất khó khăn; mặt khác thì tiền học phí gia tăng "không người lái", ban giám hiệu, thầy cô rất ư là "sáng tạo lẫn tối tạo" đẻ ra những thứ tiền khác, không nằm trong văn bản, chính sách của bộ giáo dục; những "kỹ sư tâm hồn" nầy cũng rất hồ hởi phấn khởi thu tiền, được đảng và nhà nước bật đèn xanh từ lâu, nhằm bù đắp tiền lương chết đói thế là chỉ có phụ huynh là người gánh chịu bao "vòi đỉa" hút máu từ nhiều phía qua đối tượng là "con em mình". Bọn cường hào ác bá trong ngành giáo dục từng gây bao khốn đốn cho nhiều gia đình nghèo từ nhiều thập niên, trong khi con chán cán bộ "cơ sở địa phương" có đủ tiền để đóng hay được đặc miễn; con cán lớn du học, phung phí tiền như nước; bọn cô chiêu cậu ấm nầy được cha mẹ cho đi du học, nhưng: "ăn chơi thì nhiều mà học chẳng bao nhiêu"; điển hình là câu ấm Hoàng Ty, chỉ một đêm vui chơi ở sòng bạc Hồng Kông, thua hơn 35 ngàn Mỹ Kim, như "mèo rụng lông"; tại hải ngoại, nhiều cô cậu con cháu công bà lớn thường hay mượn các sòng bạc quốc tế Casino làm nơi "trao dồi kinh sử".

Chương trình học chủ yếu là nhồi sọ, chú trọng vào môn "chính trị" với chủ nghĩa Marx Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, văn thi nô Tố Hữu, Nguyễn Tuân nên những bài học lịch sử bị phớt lờ; trái lại những bài nào nói về Hồ Chí Minh, lịch sử đảng, thì được học kỹ, thường làm đề thi, thế là học sinh nào tinh ý, chỉ cần học những thứ ấy là dễ "trúng tủ". Ngay cả những nhân vật từng được đảng dùng để tuyên truyền như Lê Văn Tám, Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi được đánh bóng, đề cao hơn là những anh hùng dân tộc như Ngô Quyền, Hai Bà Trưng, Lê Lợi, Quang Trung, Trần Hưng Đạo ... nhất là ngày nay tập đoàn đảng Cộng Sản trở thành: "Thái Thú Trung Quốc gốc Việt", thì những trang sử hào hùng chống quân xâm lược từ phương Bắc được giảm nhẹ, vì đảng không muốn làm phật long "thiên triều, mẫu quốc", làm phương hại đến "tình hữu nghị Việt Trung đời đời bền vững, như răng với môi". Sự kiện quyển sách "Tổ Quốc Ăn Năn" của Nguyễn Gia Kiểng cũng nhằm "lên án những anh hùng dân tộc chống Tàu" là bạo động, vua Quang Trung bị lôi ra hành hạ để làm gương cho các vị anh hùng khác, ắt là thiên triều Bắc Kinh vừa lòng; hình như ngài kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng cũng muốn gởi một thông điệp cho dân hải ngoại và trong nước: "chớ nên dùng bạo động để lật đổ Cộng Sản, mà hãy cùng nhau" đối thoại, đối lập ..." là lối đấu tranh "lộn địa chỉ" khi mà cái đảng cướp Cộng Sản luôn ngoan cố, không bao giờ chịu "đối thoại" đúng nghĩa, lối nầy được coi là: "hòa hợp hòa giải theo định hướng xã hội chủ nghĩa".

Những chương trình giáo dục về tinh thần yêu nước bị lái sang "gắn liền với xã hội chủ nghĩa", nên trường học dưới chế độ Cộng Sản chỉ với mục đích tối hậu là làm ngu dân, tuy nhiên đây cũng là lò "đào tạo ra những con vẹt" giỏi về việc dùng từ ngữ lạ tai, xuất phát từ chế độ, với chủ yếu là đấu tố, gây hận thù lẫn nhau. Khi nghe bất cứ người dân Việt Nam nào, từ già, trẻ, nông dân, công nhân ... nói chuyện, người ta có cảm tưởng họ là những "nhà chính trị cao cấp" nói toàn là những từ ngữ rặc mùi "chính trị Marx Lenin" nghe qua như "tham luận" của các lãnh tụ Cộng Sản, đói cơm nhưng "NO TỪ NGỮ" là bản chất của chế độ. Trong chế độ Cộng Sản, no cơm ấm áo thì không có, nhưng: NO TỪ NGỮ và ẤM CỜ ĐỎ là mặt mạn.

Học trò, sinh viên bị quàng khăn đỏ từ thuở nhỏ đến khi ra trường, không học được kiến thức, văn hóa hữu ích, nhưng chỉ toàn là chính trị Marx Lenin "lỗi thời", chủ yếu là xài từ ngữ, ngay nay còn có nạn "GHÉP CHỮ" nghe qua thật khó hiểu như: Động thái, Trang cụ, Điều kinh, giao hợp, cách tân ... hiện tượng nầy đang lan ra hải ngoại qua một số đài phát thanh đang sử dụng, là một báo động khác trong vấn đề chống văn hóa vận. Do thầy cô "thu tiền nhiều mà dạy chẳng bao nhiêu" nên học trò, học sinh, sinh viên không tin tưởng vào khả năng của mình, thế là các cô cậu, cha mẹ thường đến các chùa, miếu để cầu xin thần linh phò hộ cho thi đỗ, các thầy bói làm ăn khắm khá nhờ lối đào tạo nầy. Ngoài ra thì bằng cấp bị lạm phát qua lối: "học như chuyên tu, ngu như tại chức" với đội ngũ "tiến sĩ Cầu Muối" đang hùng cứ tại các trường đại học đào tạo, ngành nghề, cơ quan nhà nước; nạn mua bằng giả, thi dùm, bằng dổm, thì bùa đã và đang lan tràn hơn cả "dịch cúm gia cầm". Nhất là trong giới quan chức cầm quyền từ địa phương đến trung ương, họ muốn bao nhiêu bằng cấp cũng được, như tên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trình độ lớp 7 mà ngay nay có vài bằng cử nhân treo văn phòng. Giáo dục phá sản, cũng nằm trong chính sách ngu dân để dễ cai trị, dân có học cao mà bị đám dốt cai trị thì có ngày những người có học sẽ đứng lên. Lối đào tạo nhân tài phục vụ cho đất nước theo chủ trương cố hữu "hồng hơn chuyên" đã giết chết nhiều thế hệ như nhà tư tưởng Trung Hoa thời xưa cảnh báo: "làm thầy thuốc sai lầm chỉ giết một người, làm chính trị sai làm giết một thế hệ và làm thầy giáo mà sai lầm, sẽ giết nhiều thế hệ"; do đó chế độ Cộng Sản không đào tạo được những tài năng cần thiết để phát triển, xây dựng đất nước; nhưng họ có khả năng đào tạo những "con vẹt chính trị", khoa bảng thiếu khả năng, trở thành thứ "gà già quanh quẩn cối xoay" với cái "nghiệp chuyên làm láo báo cáo hay".

Hàng năm, cứ vào mùa khai trường, học trò ngày nay không còn cái thuở nhìn "những áng mây bàng bạc ..." như Thanh Tịnh, trái lại thì "áng mây đen, mây mùa thế kỷ" đang vần vũ trên đầu phụ huynh và các cô cậu học trò cũng cảm thấy cái khó khăn của cha mẹ, phải chi trả đủ các món tiền phải đóng cho các "kỹ sư tâm hồn" chính là bọn "cường hào ác bá giáo dục", như những con cá mập luôn há miệng chờ:

"Gom bao học phí, lòng chưa phỉ.
Lệ phí phụ thu, túi chửa đầy."

Số tiền học phí tăng dần "không người lái" theo đà lạm phát của nền kinh tế "thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" trong khi lương hướng vẫn "bám trụ", công việc làm ăn khó khăn, may ít, rủi nhiều. Khi người dân khó khăn, thì các thầy cô cũng phải có nhu cầu "khó khăn" để đi theo vật giá, thế là các thứ tiền lỉnh kỉnh gia tăng theo, đẻ ra những phụ thu mới. Năm nay, dụng cụ và đồ dùng học sinh gia tăng đến 20% hơn năm rồi, sách vở thì phải mua sách khác vì hàng năm các "kỹ sư tâm hồn" đổi "giáo án" để kiếm thêm tiền, khác hơn cái "chế độ tư bản phản động" với các sách giáo khoa ít thay đổi, nên đứa lớn học xong, có thể giao lại cho các em, đỡ tốn tiền. Trung bình một học trò phải tốn ít nhất là 600 ngàn đồng Hồ mỗi năm, chưa kể ăn uống, đồng phục còn ở đại học thì phải tốn ít nhất là 3 triệu tiền học phí, chưa kể đến các thứ ăn ở, quần áo … tình hình nầy đè nặng trên vai các bậc phụ khuynh ở Việt Nam, liệu là các tổ chứ từ thiện hải ngoại hoạt động từ lâu nay nhằm giúp học sinh nghèo ở Việt Nam có còn đủ khả năng để giúp đỡ hàng triệu "học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau" đang "neo đơn" chờ những "tấm lòng vàng, nhiều khi bị bàn tay đỏ" bợ những mòn tiền tình nghĩa từ phương xa; nhưng nhiều khi ở nước ngoài chắt chiêu quyên góp từ đồng để giúp cho các học sinh nầy, thì trong lớp, thầy cô dạy về lịch sử Việt Nam, bài học chính trị chủ yếu chỉ đánh bóng đảng, gọi Hồ Chí Minh là yêu nước ... và những người đóng góp nuôi dưỡng, giúp đỡ cũng được các em gọi một cách "thân thương" là: "bọn phản động, ngụy quân, ngụy quyền", được thầy cô nhồi nhét trong các bài học.

Việc giúp đỡ các học sinh nghèo cũng không có gì là xấu, nhưng đây là việc làm "ruồi bu" khi mà nhu cầu trong nước quá lớn, trong khi đó, muốn chấm dứt cái "chế độ giáo dục Hồng hơn Chuyên, học tài thi lý lịch, tiên học phí hậu học chính trị", thì cái gốc chính là đảng Cộng Sản Việt Nam. Dồn mọi nổ lực đánh vào thành trì của đảng cướp, trường kỳ, cương quyết thì trước sau gì chúng phải sụp đổ; trong khi nhiều người cương quyết nhổ, diệt cỏ dại, thì cũng có người "mang phân bón, nước tưới" cho cỏ dại tốt, thì bao giờ mới diệt hết cỏ? Những người có tấm lòng nhân ái, bồ tác ... hãy nhìn thành quả của mình sau bao năm "làm việc thiện" có thay đổi được gì, ngoại trừ làm dùm một số công việc cho đảng cướp: xoa dịu lòng bất mãn của dân, sửa dùm mái trường, đào dùm cái giếng, làm dùm cái cầu nhỏ bắt ngang qua con kinh ... thế là cán bộ dùng số tiền nầy để xây nhà riêng, du lịch, ăn xài, cho con du học.

Trương Minh Hòa

Monday, September 1, 2008

Đánh Địch Phải Biết Địch

Nam Nhân
(Quân nhân QLVNCH)

Điều mà hiện nay, tuyệt đại đa số nhân dân VN, ở cả trong và ngoài VN đều phải thừa nhận, rằng tập đoàn việt-gian-cộng-sản là nguyên nhân gây ra mọi tai ương, bất hạnh cho nhân dân và Tổ-quốc VN, kể từ khi chúng xuất hiện cho đến ngày nào chúng còn tồn tại.

Những người VN chân chính đã đưa ra nhiều phương án, đường lối, hoặc với tính cách cá nhân, hoặc với tính cách của một đảng chính trị, hay hội đoàn, đoàn thể để loại bỏ tập đoàn việt-gian-cộng-sản ra khỏi bộ máy quyền lực, chiêu hồi, giáo dục chúng trở lại làm người VN yêu nước, hoàn toàn đoạn tuyệt với quá khứ việt-gian, cả tư tưởng lẫn hành động.

Sự sụp đổ của thực- dân-đỏ Nga-xô và chư hầu Đông-Âu cũng như sự hình thành và lớn mạnh về phương diện của Cộng đồng người Việt tỵ nạn việt-gian-cộng-sản là hai yếu tố cực kỳ quan trọng cho việc phục quốc của toàn dân VN, chống các thế lực xâm lược, trước mắt là giặc Tàu-bành-trướng, thông qua lũ bán nước cầu vinh, là truyền thống của toàn thể đảng gọi là "cộng sản VN".

Cho đến lúc này, nếu chú ý, chúng ta sẽ thấy rằng, có nhiều phương án, lộ trình nói là nhằm đưa đất nước VN ra khỏi đói nghèo, lạc hậu; người dân VN trong và ngoài nước được thực sự là CHỦ NHÂN ÔNG của VN, nhưng nội dung cũng như các bước tiến hành của những phương án, lộ trình đó lại MÂU THUẪN VỚI MỤC TIÊU.

Loại trừ các sản phẩm của các tổ chức, đảng phái ma trơi, cuội, một số trí thức ngựa hay chính khách kiểu "nhà quàn", "nòng nọc trong lỗ chân trâu", đã bị vạch mặt chỉ trán, cũng như những các cá nhân, thực sự là con rối chính trị của việt-gian-cộng-sản cho ra, múa may để lèo lái các phong trào chống việt-gian-cộng-sản, hoặc đi vào ngõ cụt hoặc đi vòng vòng để rồi cuối cùng "hòa hợp" trong tay việt-gian-cộng-sản, như các "tác phẩm" của mấy anh du sinh phản chiến, thành phần thứ ba của VNCH xưa kia: nghĩa là loại "xanh vỏ, đỏ lòng" như Bs Nguyễn đan Quế, Ts quản trị Đoàn viết Hoạt (anh rể của việt-gian Trần đại Sĩ) … Chỉ xin nêu ra một chi tiết: Đối với quân việt-gian-bán-nước mà chỉ xin "nhân bản" thì có khác gì công nhân đấu tranh với giới chủ bóc lột hà khắc, chỉ để đòi bữa ăn giữa hai ca làm việc, từ "bánh bao không người lái" cho thành "bánh bao nhân đậu đen, hành lá"!!! Chưa có "phong trào" mà đã tưởng tượng ra "cao trào" như kiểu con cóc phình bụng. Chỉ đòi hỏi chút nhân bánh bao thì có nghĩa vẫn chấp nhận thân phận "công nhân bị bóc lột". Vẫn thừa nhận "tính hợp pháp" của lũ việt-gian bán nước cầu vinh. Cái NGU và cái LƯU MANH, GIẢ CHỐNG ĐỐI ĐỂ HỢP TÁC, của lộ trình 9 điểm (hòa bình và ổn định), của cựu du sinh phản chiến Nguyễn đan Quế, là như thế.

Xưa kia Nguyễn Đan Quế còn vận động và a dua phản đối cuộc chiến của những người chống việt-gian-cộng-sản, thế mà nay, chưa CÔNG KHAI nhìn nhận tác hại của QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ PHẢN BỘI đó, lại có can đảm và liêm sỉ thực lòng chống việt-gian-cộng-sản? Vì thế hai vợ chồng mới ngu xuẩn, rơi vào "bẫy của Mỹ" lộ mặt CUỘI, để toe toét cười, cùng đeo cờ máu (cạnh cờ Mỹ) đến Tổng lãnh sự Mỹ ở Sài-gòn, hớn hở gặp vợ chồng CUỘI Trần Khuê, tác giả "chủ nghĩa Hồ chí Minh). Đúng là TRÂU CHÓ gặp nhau! Ấy thế mà vẫn có kẻ đầu bạc, lưng còng, giọng run run, ra rả tôn thờ, chắc hy vọng lỡ có ngày nước lụt, Đan Quế lên hương, phận khom lưng uốn gối sẽ được thơm nhờ!!! (Xin quý bạn đọc xem kỹ "lộ trình 9 điểm" của Nguyễn đan Quế, sẽ thấy rõ tính chất HÀNG HAI của Quế, tương tự vai trò "phản chiến" khi xưa, nghĩa là lưu dụng tất cả nhân sự là việt-gian-cộng-sản và tay sai thân tín của chúng để làm cái việc CHUYỂN GIAO QUYỀN LỰC CỦA CHÚNG cho … các thứ CUỘI, chắc gồm CUỘI "nhân bánh bao" là anh em Nguyễn đan Quế, Nguyễn quốc Quân và anh thợ già thổi kèn nâng bi!!!)

Nên nhớ rằng, tập đoàn việt-gian-cộng-sản suy nghĩ và hành động theo sự chỉ đạo của hai động cơ đặc thù: một là VIỆT-GIAN BÁN NƯỚC CẦU VINH; hai là LƯU MANH LỪA ĐẢO.

Kẻ nào vẫn còn là một thành viên cộng sản, trong hoàn cảnh hiện nay, đảng của chúng đang nắm quyền thống trị tuyệt đối trên mọi mặt, thì chúng ta không thể và không nên HỢP TÁC với chúng để LOẠI TRỪ đảng của chúng. Và, càng ngây thơ quá sức tưởng tượng, khi kỳ vọng vào việc ĐI TÌM NGƯỜI YÊU NƯỚC TRONG BỌN VIỆT-GIAN ĐẦU SỎ (đúng là tìm cơm trong đống cứt để … ăn)!?

Chúng ta cũng không thể phó thác việc đuổi việt-gian đương quyền cho lũ việt-gian vì giành ăn mà bị đồng bọn đá đít, bợp tai. Có thể cho chúng đi theo chứ không thể để chúng chỉ huy, và càng NGU hơn nữa khi đội chúng lên đầu mà thờ, như lũ NGU đã thờ thằng Trần Độ, hoặc gần đây đã khóc thương và quỳ lạy thằng việt-gian già Hoàng minh Chính hay quảng bá quan điểm "quên quá khứ, xóa bỏ hận thù; gây quỹ từ thiện gửi về giúp nước và không chấp nhận Quốc kỳ VNCH …" của các đặc công đỏ như Bùi Tín, Vũ thư Hiên, Nguyễn minh Cần, Nguyễn gia Kiểng, Đoàn viết Hoạt, Nguyễn đan Quế … Qua lịch sử, các thế hệ sau còn phỉ nhổ lên tên tuổi của lũ NGU và HÈN HẠ đã khóc thương, chia buồn về cái chết của Trần Độ, Hoàng minh Chính … Tội nghiệp cho con cháu của chúng.

Cũng thế, không thể CẢ TIN đến mức chẳng cần biết ất giáp gì, hễ một tên CUỘI CÒ MỒI nào của việt-gian-cộng-sản được "giới thiệu khéo ra hải ngoại", vẫn theo bổn cũ (mà vẫn mắc bẫy) nào là bị bắt về công an hỏi cung rồi tha vì lý luận đanh thép đến nỗi mấy con chó vàng cũng cụp đuôi; nào là bị đụng xe, bị khám nhà tịch thu cái này cái nọ; nào là đặt chốt canh cửa và gắn camera theo rõi 24/24 giờ (như kiểu Nguyễn đan Quế, thế mà Đỗ nam Hải rủ cả bọn Trần Khuê, Nguyễn chính Kết đến chụp ảnh, để giới thiệu những bộ mặt CHUỘT đi tìm dân chủ cho VN ra hải ngoại, mà không gặp trở ngại gì, thế mà cũng có kẻ ngây thơ hơn con nít, để tin cái trò tào lao đó!?). Thậm chí, như Hoàng cơ Định (Việt Tân), còn xin mỗi người "ngây thơ" 1USD cho đủ 1,500USD, tặng cho cuội Đỗ nam Hải vì lý do "dũng cảm". Đến khi lấy cớ vì chữ HIẾU, Hải xin ngưng hoạt động, nhưng không thấy Định đòi lại tiền, mà cuội Hải cũng lờ luôn. Nằm im một thời gian, cuội Đỗ nam Hải lại múa lại võ cũ, và cò mồi đồng bọn là Nguyễn chính Kết, bày trò phỏng vấn, thế mà vẫn có kẻ "ngây thơ cụ", tiếp tay cho lũ cuội lên các diễn đàn! Để làm gì vậy ? Để moi tiền ở hải ngoại nữa ư ? Nên giành thì giờ mà lo cho thương binh VNCH, đã có người khổ quá, phải tự thiêu rồi đó, sao không tìm hiểu xem thân nhân của vị thương binh đó cần được giúp đỡ và an ủi như thế nào. Vị đó chính là một trong những người hy sinh cả thân thể và chữ HIẾU để bảo vệ tự do, dân chủ và toàn vẹn lãnh thổ cho nhân dân và Tổ-quốc VN đấy! Có đâu làm như CUỘI Đỗ nam Hải, Nguyễn chính Kết và đồng bọn, cùng công an việt-gian-cộng-sản đóng trò MOI TIỀN của người Việt yêu nước ở hải ngoại, hệt như lũ phở bò và v.v…

Cũng cần nhắc nhở nhau KHÔNG THỂ LIÊN MINH với bọn có quá khứ là "du sinh, du ca phản chiến, thành phần thứ ba, tụi đội lốt tôn giáo hoạt động có lợi cho việt-gian-cộng-sản từ trước 4-1975". Dù nằm ở thành phần nào, thì chúng cũng ĐÃ hoặc ĐANG LÀ ĐỒNG MINH CỦA VIỆT-GIAN-CỘNG-SẢN, góp phần hiệu quả cho việc CẢ NƯỚC VN BỊ VIỆT-GIAN-CỘNG-SẢN ĐÔ HỘ, bởi chúng ĐÃ TRÓI TAY các lực lượng chống xâm-lược-đỏ từ trước 1975. Việt-gian-cộng-sản không cho chúng phần xương thừa nên CHÚNG MỚI GẦM GỪ mà thôi. Đó là lũ như Đoàn viết Hoạt, Nguyễn đan Quế, Nguyễn gia Kiểng, Lm Chân Tín, Thích trí Quang và đồng bọn, cũng như các thứ gọi là trí thức nằm ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức … từ trước 1975, nhưng ngậm mỏ không dám hé răng tối thiểu nói được một lời công đạo cho cuộc chiến chống xâm-lược-đỏ của Quân, Dân, Cán, Chính VNCH. Đối với thành phần này, chỉ nên ủng hộ việc làm nào của họ có lợi chung cho công cuộc giải trừ việt-gian-cộng-sản, chứ KHÔNG THỂ đề cao họ như anh hùng cứu nước hay trao cho trọng trách lãnh tụ. Cụ thể nhất mà chỉ người nào có mưu đồ gì đó hoặc thực sự "mù chính trị" mới không thấy cái TÁC HẠI KHÔNG GÌ BÙ ĐẮP ĐƯỢC VÀ CÀNG LỚN THEO THỜI GIAN việc đặt Toàn phong Nguyễn xuân Vinh vào cái vị trí hiện nay. Cái sai lầm này, rồi đây cả nước VN sẽ phải trả một giá đắt đấy!!!

Một điều RẤT ĐÁNG MỪNG là nhiều người đã nhìn ra tổ chức gọi là đảng cộng sản VN thực chất là một TẬP ĐOÀN VIỆT-GIAN. Đã nêu đúng tội, gọi đúng tên của chúng: việt-gian-cộng-sản, ngụy quân cộng sản, ngụy quyền cộng sản. Đã gọi đúng những tên tự xưng hoặc được đồng bọn suy tôn "lão thành cách mạng" là "việt-gian già".

Cái còn cần lo lắng là, chúng ta đang ĐÁNH việt-gian-cộng-sản nhưng việc HIỂU BIẾT VỀ TỔ CHỨC VÀ NHỮNG ÂM MƯU CỦA VIỆT-GIAN-CỘNG-SẢN còn HỜI HỢT.

KHÔNG THỂ tìm hiểu việt-gian-cộng-sản như một người ngoài cuộc, một người đứng ở góc độ quyền lợi kinh tế, quan điểm chính trị, trên cơ sở LỢI và THẾ của nước họ.

Chúng ta phải đứng trên LẬP TRƯỜNG của NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA ĐANG MƯU CẦU PHỤC QUỐC. Nghĩa là chúng ta là những người ĐANG ĐI TIẾP CON ĐƯỜNG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VN của Quân, Dân, Cán, Chính VNCH, mà biểu trưng cho chính nghĩa và sự đoàn kết đấu tranh loại bỏ sự đô hộ của tập đoàn việt-gian-cộng-sản buôn dân bán nước, tay sai cho các tập đoàn tài phiệt nước ngoài và đặc biệt là mấy nước lớn, vẫn ôm mộng nô dịch toàn thế giới, trước mắt là Tàu-bành-trướng và phải cảnh giác sự quay lại của Nga-thực-dân-mới trên đất nước VN thân yêu mà tổ tiên Lạc Hồng đã đổ bao xương máu để truyền lại cho chúng ta, đó là Quốc kỳ VNCH.

Phải nhớ MỘT SỰ THỰC LỊCH SỬ là Quốc kỳ Vàng đã cùng tiền thân của QLVNCH, và sau này cùng QLVNCH, lực lượng trụ cột chống mọi thế lực xâm lược, bảo vệ Tổ quốc và Toàn Dân VN, từ Nam chí Bắc. Cho đến hiện nay vẫn là như vậy. Chưa từng có lực lượng nào, ngoài QLVNCH đã đem sinh mạng, tuổi trẻ và hạnh phúc gia đình để tập hợp dưới Quốc kỳ Vàng, chiến đấu hào hùng và lâu dài chống mọi thế lực xâm lược, có thành quả lớn lao và phải chịu nhiều hy sinh cả vật chất lẫn tinh thần lâu dài như vậy. Ngoài kẻ địch ra, đặc biệt phải chịu sự . PHẢN BỘI và BÔI NHỌ của chính một số không nhỏ những kẻ ĐÃ và ĐANG CHỊU ƠN BẢO VỆ!!!

Cho nên, dù là cá nhân hay hội đoàn, đảng phái chính trị … dù có LỚN TIẾNG CHỐNG CỘNG đến đâu, mà chưa nhận ra chân tướng VIỆT-GIAN của tập đoàn gọi là đảng cộng sản; chưa thấy được tính chất KHAI MỞ, BẤT KHẢ THAY THẾ và TIÊU BIỂU của Quốc kỳ Vàng trong chiến đấu chống xâm lược các loại; chưa thấy cả trong quá khứ cho đến hiện nay và trong tương lai, thì QLVNCH và hậu duệ đã, đang và vẫn sẽ là lượng trụ cột chống các thế lực xâm lược, bảo vệ và giữ được ổn định chính trị, an toàn xã hội cho Tổ quốc và Toàn Dân VN, khi việt-gian-cộng-sản bị loại bỏ, tránh tình trạng vô chính phủ, cướp bóc, trả thù …, đặc biệt ngăn chặn các tổ chức, hội đoàn, đảng phái, các tổ chức tôn giáo, có căn cốt chủ nghĩa thời cơ, tham vọng bẩn thỉu, nhân có lỗ hổng quyền lực mà ôm nhau nhảy vào lấp chỗ trống để rồi công sức toàn dân lại bị chiếm đoạt. Rồi khi củng cố được quyền lực, chúng lại đẩy Nhân dân xuống thân phận nô lệ của thế quyền hoặc thần quyền hoặc cả hai loại đó liên minh với nhau.

Chỉ sau khi có sự ổn định chính trị, an toàn xã hội một thời gian, đủ cho người dân bị việt-gian-cộng-sản đô hộ bình tĩnh lại, tự tin trong thân phận mới, có sự giúp đỡ của quốc tế trong một số lãnh vực cần thiết, bấy giờ Người Dân mới đủ sáng suốt để làm cái việc "Chọn Mặt Gửi Vàng". Chỉ trong hoàn cảnh như vậy, mới có thể thuyết phục các lực lượng vũ trang, các đảng viên cộng sản trung và sơ cấp của việt-gian-cộng-sản thức tỉnh tinh thần DÂN VIỆT, cùng nhau "hòa giải, hòa hợp", "xóa bỏ hận thù", chung tay xây dựng và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, tự do và hạnh phúc cho mọi tầng lớp Nhân Dân. Nhưng KHÔNG ĐƯỢC QUÊN QUÁ KHỨ, nếu không muốn vấp ngã trở lại những sai lầm của QUÁ KHỨ!

Từ khi việt-gian-cộng-sản được Nga-xô, Tàu-bành-trướng tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện và trợ giúp để giành quyền đô hộ VN, vì quyền lợi Nga-Tàu, thì chỉ có những người Việt trung thành với lý tưởng Quốc gia, Dân tộc, đã tập hợp dưới Cờ Vàng (sau này là Quốc kỳ VNCH) để chống xâm-lược-đỏ Nga-Tàu, mà tay sai của chúng là tập đoàn việt-gian-cộng-sản bán nước cầu vinh. Từ đó ra đời nước VNCH, căn cứ địa của toàn dân VN chống xâm lược đỏ và Quân lực VNCH là lực lượng trụ cột trong nhiệm vụ lịch sử VN là chống xâm-lược-đỏ. Trước cũng là như vậy mà nay vẫn thế, có thêm chút độc đáo là từ hơn 33 năm nay, người quân nhân QLVNCH, móc tiền túi của mình để TỰ TRẢ LƯƠNG CHO MÌNH.

Cho nên KHÔNG THỂ TIN vào lũ miệng nói "chống cộng", nhưng lại nói hoặc viết sách, báo BÔI NHỌ QLVNCH và tầm thường hóa hoặc phủ nhận Quốc kỳ VNCH, hoặc lưu manh là đòi hải ngoại treo chung Cờ Vàng và cờ MÁU! Đó là loại người, nói cho dễ hiểu: trộn chung CƠM với CỨT và cho vào mồm ăn ngon lành!!! Đấy là CHÓ hai chân rồi, nên đuổi chúng đi với chó bốn chân mà chạy, nhảy là ĐÚNG NHẤT!

Bây giờ xin phép đưa một thí dụ, còn nóng hổi, để chia sẻ với bạn đọc, về sự mơ hồ của không ít người, về việt-gian-cộng-sản, ưng dựa vào thông tin và bình luận của truyền thông nước ngoài, đặc biệt là các Ban tiếng Việt của đài nước ngoài như RFA, BBC (mà trong nước có người đọc thành "Bọn Bú C..".)

Đó là dựa vào tin thằng việt-gian Nguyễn tấn Dũng, "sau khi đi Mỹ về", đã ký lệnh thay đổi nhân sự chóp bu của ngụy quân việt-gian-cộng-sản ở quân khu thủ đô. Sự thay đổi nhân sự được mấy anh chị thiếu cả thông tin lẫn lương tâm nghề nghiệp, chế biến thành "Cách Chức"!? Và, còn thêm hành ngò là Dũng là "cấp tiến" QUYẾT nhảy vào lòng Mỹ để … CHỐNG CHỦ CỦA TOÀN THỂ BỌN CHÚNG LÀ TÀU-BÀNH-TRƯỚNG. Cho nên Dũng phải bất thần cách chức cả lũ đầu nậu ở Hà-nội, vì chúng "Thân Tàu", và đưa "Tay Chân" của mình vào, vì sợ bị "đảo chánh".

"Chống cộng" mà chẳng hiểu nghiên cứu về CỘNG ra sao, đến nỗi không hiểu sự vận hành bộ máy đô hộ của việt-gian-cộng-sản là: "đảng LÃNH ĐẠO, nhà nước QUẢN LÝ" cụ thể là như thế nào ? Có thể họ hiểu, nhưng vì chúng ta có bệnh "Bụt Chùa nhà không thiêng", mang tâm lý vọng ngoại, nên thấy mấy tên "LÀM CÔNG" cho nước ngoài là tưởng cái gì họ cũng đúng, cái gì họ CŨNG VÌ LỢI ÍCH của chúng ta.

Nên nhớ, với thân phận "LÀM CÔNG, Ở ĐỢ", họ bị BẮT BUỘC phải làm vì QUYỀN LỢI CỦA CHỦ, nghĩa là những kẻ thuê mướn họ. Nếu làm khác tý chút là bị đuổi tắp lự, về nhà giặt quần cho vợ! Chính vì chúng ta quên điều đó, nên gần như toàn thể cái bọn làm công cho nước khác trong lĩnh vực truyền thông cũng quên thân phận ở đợ, để tưởng cầy cáo đã là chó sói rồi đây, mà dựng lông, nhe nanh với đồng bào.

Về tổ chức, nhân sự, bộ máy của việt-gian-cộng-sản vận hành như sau: trong lực lượng vũ trang (tức lính ngụy và công an ngụy) cũng có bộ phận phụ trách về tổ chức nhân sự, theo hai hệ: bộ phận tổ chức nhân sự của đảng (việt-gian) đưa ra ý kiến có tính QUYẾT ĐỊNH về mở rộng hay thu hẹp tổ chức; về đề bạt, thuyên chuyển, cử đi học, định mức kỷ luật, khen thưởng, giới thiệu sinh hoạt đảng (việt-gian) nơi khác, nhận giấy giới thiệu sinh hoạt đảng (việt-gian) cùng hồ sơ đảng tịch (việt-gian) ở cơ sở đảng (việt-gian) nơi khác chuyển tới và v.v… Còn hệ thứ hai là thuộc cái gọi là "cơ quan chức năng", tức là một bộ phận của cơ quan hành chánh sự nghiệp, do nhà nước quản lý. Trong lính ngụy thì tổ chức nhân sự theo hệ đảng (việt-gian) nằm trong cái gọi là "đảng ủy quân sự trung ương" (hiện nay Nông đức Mạnh là bí thư và Phùng quang Thanh, bộ trưởng quốc phòng ngụy quyền việt-gian là phó bí thư và Lê văn Dũng, chủ nhiệm tổng cục chính trị, cũng là phó bí thư). Còn hệ hành chánh sự nghiệp thì nằm trong tổng cục chính trị của Lê văn Dũng, có tên là cục tổ chức cán bộ.

Bên công an ngụy thì hệ đảng (việt-gian) nằm trong cái gọi là "đảng ủy công an trung ương", do Lê hồng Anh là bí thư và Nguyễn khánh Toàn là phó bí thư thường trực. Hệ hành chánh sự nghiệp nằm trong cái gọi là "tổng cục xây dựng lực lượng", và có tên là cục tổ chức và cán bộ. Tổng cục xây dựng lực lượng của công an ngụy có nhiệm vụ giống tổng cục chính trị của ngụy quân vậy.

Nếu hiểu được khái niệm "đảng (việt-gian) lãnh đạo, nhà nước (ngụy quyền) quản lý" thì sẽ không hưởng ứng võ nói láo của mấy anh, chị "làm công, ở đợ" cho nước ngoài (không được phép suy nghĩ bằng não của mình, nói theo ý mình căn cứ trên sự kiểu biết của mình, tóm lại: là một thứ nô lệ truyền thông, có "đếch gì" mà đòi vênh váo!). Mục đích của sự GIAN LẬN TRUYỀN THÔNG này là muốn giúp sức cho lũ chính khứa cơ hội về quan điểm có 2 phe trong chóp bu việt-gian-cộng-sản: "phe bảo thủ thờ Tàu phù đại hán là Nông đức Mạnh, Nguyễn phú Trọng, Đỗ Mười … tức phe Bắc", còn lại là "phe cấp tiến, muốn đổi mới, mở cửa với phương Tây, đặc biệt là Mỹ, gồm Nguyễn minh Triết, Nguyễn tấn Dũng và cánh miền Nam".

Để làm gì ? Xin thưa, để sau khi nuốt viên thuốc ỉa chảy đó, chúng sẽ đưa ra luận điệu rằng, hãy nhìn xem sự sụp đổ của Nga-xô và chư hầu Đông Âu, là nhờ "phe cấp tiến trong đảng (cộng sản)",
như Gorbachev và Yeltsin ở Nga-xô. Về việc này, nhà báo Việt Thường đã có trả lời phỏng vấn nhiều lần với web VietnamExodus, xin miễn phải nhắc lại, vì khá dài.

Chúng tôi xin trở lại việc Nguyễn tấn Dũng được vinh danh là "cấp tiến", như vậy khác gì bịa chuyện ở VN có con chó "cấp tiến" lắm, ngửi mùi cứt là nó bỏ chạy, lại còn biết nói tiếng người và đi hai chân, mặc đồ bộ.

Chưa nói đến nguyên nhân, mà chỉ nói thể thức thì những tên ngụy quân đầu não của Hà-nội không phải bị "cách chức hết" như tin bịa đặt.

Thứ nhất là tên trung tướng tư lệnh, Nguyễn như Hoạt được THĂNG lên để giữ nhiệm vụ của một tên cũng lon trung tướng, nhưng lại là ủy viên trung ương chính thức của đảng việt-gian. Đó là Phạm xuân Hùng, giám đốc học viện quốc phòng, vì tên này qua giữ ghế tổng tham mưu phó.

Thứ hai là, trong bộ tư lệnh cũ của ngụy quân ở Hà-nội, tên đại tá chính ủy Phùng đình Thảo, được lên lon thiếu tướng, và nay còn là phó bí thư đảng bộ (việt-gian) bộ tư lệnh thủ đô Hà-nội, mà bí thư là tên Phạm quang Nghị, ủy viên bộ chính trị đảng việt-gian, kiêm bí thư thứ nhất thành ủy việt-gian ở Hà-nội. Chắc bạn đọc còn nhớ, thằng Phạm quang Nghị này lên như diều vì nó từng là trợ lý của thằng Nông đức Mạnh (được xếp là thân Tàu đấy), nó còn là đệ tử ruột của Đỗ Mười (hệt thằng Tô huy Rứa vậy) và cũng là đàn em thân tín của thằng Nguyễn khoa Điềm!!!

Tư lệnh ngụy quân ở Hà-nội hiện nay là thằng Phí quốc Tuấn, đeo lon đại tá, từ Hà Tây về.

Như thế, có nghĩa việc thuyên chuyển, đề bạt được làm từ trong đảng việt-gian trước, tức sự đề xuất và chuẩn y từ đảng ủy (việt-gian) quân sự trung ương với ban tổ chức trung ương (do Hồ đức Việt, một thân tín của Mạnh từ Thái nguyên về phụ trách) và ban bí thư trung ương (việt-gian) thực hiện (do Trương tấn Sang thường trực ban bí thư thông qua). Như thế có nghĩa là đảng (việt-gian) lãnh đạo, bấy giờ mới chuyển qua cho Dũng ký lệnh mà thôi, nhà nước quản lý là như vậy!

Hãy tìm đọc thông báo của ban bí thư trung ương việt gian, có đăng trên báo điện tử "đảng cộng sản" đấy. Và, thử hỏi, với cơ chế tổ chức và nhân sự hiện nay của thành phố Hà-nội, kể cả của bộ tư lệnh ngụy quân của Hà-nội, với Phạm quang Nghị (phe bảo thủ đấy) giữ cả bí thư thứ nhất thành ủy việt-gian, kiêm luôn bí thư đảng bộ việt-gian của bộ tư lệnh ngụy quân thì AI LÀ CHỦ CỦA HÀ NỘI, "phe cấp tiến thân Mỹ" hay "phe thân Tàu phù đại hán" ???

Kết luận khách quan, đúng với sự việc đang tồn tại thì phải thấy rằng: Tụi chóp bu việt-gian-cộng-sản hiện nay là những CON CHÓ của Tàu phù đại hán. Trong đó có con nào liếm tay hoặc vẫy đuôi với Mỹ cũng chỉ vì chúng ngửi thấy hơi USD không chỉ của Mỹ mà rất quan trọng là USD của Cộng đồng người Việt tị nạn việt-gian-cộng-sản đấy (năm 2007 kiều hối chúng nhận được là 5,5 tỷ USD, năm 2008 này chúng đang hí hửng là có thể lên tới hơn 8 tỷ USD). Vui chút chút vậy thôi, rồi chó nào vẫn về với chủ đó, cho dù chủ có đánh hay làm thịt.

Cho nên phải nhắc nhau rằng dù tên nào đóng vai cấp tiến thì cũng chỉ là phấn son của vai tuồng mà thôi. Toàn thể đảng của chúng là VIỆT GIAN. Và TOÀN THỂ CHÓP BU CÁI tổ chức việt-gian đó là ĐÀN CHÓ của Tàu-phù-đại-hán-bành-trướng mà thôi.

Cần thấy như vậy thì mới hiểu, nhiệm vụ của những người Việt Nam yêu nước cả trong và ngoài VN, cần phải vạch mặt những cá nhân, tổ chức, đảng phái, phong trào là tay sai của việt-gian-cộng-sản, mà đặc biệt là tay sai của cả Nga và Tàu-phù-đại-hán nữa. Lũ nằm vùng tay sai cho Tàu trong cộng đồng tị nạn việt-gian-cộng-sản ở Pháp và nhất là ở Mỹ, nơi có đông người Việt cư ngụ. Đừng thấy chúng năng nổ "chống cộng" mà lơ là cảnh giác, vì chúng là lá bài của Tàu-phù-bành-trướng chi tiền và phương tiện cũng như hỗ trợ thanh thế để "có uy tín" nhằm lèo lái và thôn tính cộng đồng chúng ta vào âm mưu bành trướng đại hán ở cả trong và ngoài VN!!!

Anh quốc, ngày 30 tháng 8 năm 2008
Nam Nhân
(Quân nhân QLVNCH)


Sunday, August 31, 2008

Nguyễn Chí Thiện, "đuốc sống" Lê Văn Tám và "Đóa Hồng Gai" Nguyễn Thị Nga


Trần Thanh

Trong cuộc chiến với bọn việt gian cộng sản, người quốc gia chúng ta đã bị bọn chúng lừa gạt rất nhiều lần. Tên Hồ Chí Minh đã lừa gạt những đảng phái quốc gia rồi sau đó tiêu diệt họ gần hết. Điệp viên Phạm Xuân Ẩn (1927-2006) của việt cộng đã hoạt động ngay trong các cơ quan truyền thông báo chí của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa trong gần 20 năm, đến sau năm 1975 hắn mới xuất đầu lộ diện. Hắn có người con trai lớn là Phạm Xuân Hoàng Ẩn làm thông dịch viên cho tên Nguyễn Minh Triết, đại ca của băng cướp việt gian cộng sản. Ngoài ra còn một số những tên điệp viên gộc khác như Mười Hương, Huỳnh Văn Trọng, Lê Văn thúy, Nguyễn Xuân Hòe, Vũ Ngọc Nhạ ..v..v.. đã từng gây mưa gió, thiệt hại rất lớn cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Đặc biệt, tên Vũ Ngọc Nhạ (1928-2002) đã từng trèo cao, luồn sâu, được tin tưởng tới mức được đề bạt làm .... cố vấn chính trị cho tổng thống Diệm và tổng thống Thiệu!

Đầu năm 1980, tổ chức phục quốc "Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước" do Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá, Hồ Tấn Khoa lãnh đạo, từ Pháp trở về nước để hoạt động nhưng đã bị thất bại, 119 phục quốc quân bị bắt, 5 người bị tử hình, trong số đó có Trần Văn Bá. Thực ra tổ chức này đã bị việt cộng cài điệp viên vào ngay từ lúc còn đang hoạt động trên đất Pháp. Các chuyến tàu đổ bộ, đưa người và vũ khí vào vùng Cà Mau đều bị việt cộng giăng lưới bắt gần hết. Chính tên Nguyễn Tấn Dũng là một trong những nhân vật chủ chốt trong vụ vây bắt các lực lượng phục quốc này và sau khi thành công, hắn đã được thăng quan tiến chức vùn vụt, hiện nay đang giữ chức thủ tướng! Hắn đã sống trên xương máu của những chiến sĩ phục quốc, vậy mà bây giờ có một số tên chó săn ở Mỹ ca ngợi hắn là "Yeltsin Việt Nam", là người "thanh liêm", đang đi sâu vào quỹ đạo của Mỹ, xứng đáng là tổng thống của nước Việt Nam trong tương lai!!!

Chính vì đã bị việt cộng lừa cho nhiều vố đau như vậy cho nên chúng ta cần phải cảnh giác. Khi gặp những trường hợp nào đáng ngờ, chúng ta phải nêu nghi vấn và tìm hiểu cho kỹ. Trong phạm vi bài viết này, tôi nêu ra một vài trường hợp để quý độc giả suy xét:

1. Nghi vấn về Nguyễn Chí Thiện:

Ai cũng biết Nguyễn Chí Thiện (thật) là tác giả của tập thơ Hoa Địa Ngục, một tập thơ rất có giá trị, được rất nhiều độc giả hâm mộ. Đó là lý do vì sao khi ông Nguyễn Chí Thiện, sau 28 năm ở tù, được việt cộng cho sang Mỹ định cư thì ông ta đã được đồng bào hoan nghênh, chào đón vô cùng nồng nhiệt. Nhưng sau đó, có dư luận cho rằng ông Thiện này là giả mạo, rằng ông Thiện THẬT ĐÃ BỊ VIỆT CỘNG GIẾT CHẾT, SAU ĐÓ BỌN CHÚNG LỰA MỘT NGƯỜI CÓ DUNG MẠO GẦN GIỐNG ĐỂ THAY THẾ VÀO VÀ "XUẤT CẢNG" SANG MỸ!!!

Đã có nhiều bài viết của nhiều tác giả khác nhau chứng minh rằng ông Thiện hiện đang sống tại Mỹ chính là ông Thiện DỎM. Các dữ kiện mà các tác giả nêu ra là:

1.1: Nghi vấn về ngày, tháng, năm sinh (không phù hợp, không ăn khớp)

1.2: Nghi vấn về gia đình (cha mẹ, anh em, khác với như mô tả trong thơ)

1.3: Nghi vấn về sức khỏe (ông Thiện dỏm rất khỏe mạnh chớ không bị ho lao và bị đủ thứ bệnh như trong tập thơ Hoa Địa ngục mô tả)

1.4: Nghi vấn về dạy học (ở tù ra, vào trường trung học dạy môn lịch sử thay cho người bạn bị bệnh)

1.5: Nghi vấn về chép BỐN TRĂM BÀI THƠ trong ba ngày (tối thiểu phải mất khoảng mười ngày bởi vì phải VỪA CHÉP VỪA LỤC TRÍ NHỚ ĐỂ NHỚ LẠI! Cứ cho là mỗi bài thơ trung bình có mười câu thơ, mỗi câu thơ có mười chữ thì 400 bài thơ sẽ là 40.000 chữ, bằng một quyển tự điển loại trung bình! Nội chỉ NHỚ lại thôi, chưa chắc có thể nhớ lại hết trong BA ngày, đừng có nói đến ghi chép!)

1.6: Nghi vấn về TRÍ NHỚ (ở tù 20 năm mà có đủ trí nhớ, chép được 400 bài thơ trong BA ngày?)

1.7: Nghi vấn về tài làm thơ (những bài thơ trong Hoa Địa Ngục rất hay nhưng những bài thơ mà ông Thiện sáng tác kể từ khi sang Mỹ thì dở ẹc, y như những bài vè!)

1.8: Nghi vấn về sự tuyên bố "không làm thơ nữa, chuyển sang viết văn" (thơ và văn là hai khả năng thiên phú và đó cũng là cái NGHIỆP, không bao giờ bỏ được. Đã là một thi sĩ và là một NHÀ CÁCH MẠNG thì chỉ có khi nào tim ngừng đập mới ngưng sáng tác thơ tranh đấu!)

1.9: Nghi vấn về tập truyện Hỏa Lò của ông Thiện (có lẽ do người khác viết giùm)

1.10: Nghi vấn về các tấm hình chụp (so sánh các tấm hình thấy có sự khác biệt)

1.11: Nghi vấn về những giọt máu trong thơ (mỗi một chữ, một câu thơ trong Hoa Địa Ngục đều toát ra một sự bi thiết, hùng tráng, phẫn nộ của một anh hùng bị sa cơ thất thế, mỗi một giọt thơ là một giọt máu; trong khi đó, những bài thơ mà ông Thiện sáng tác ở hải ngoại, giống như những bài vè, gọi Hồ Chí Minh bằng "bác"!)

1.12: Nghi vấn cho rằng nhà cách mạng Lý Đông A mới chính là tác giả của tập thơ Hoa Địa Ngục

Một vài ví dụ, trích trong những bài thơ của Nguyễn Chí Thiện THẬT:

Không có gì quý hơn độc lập tự do
Tôi biết NÓ, THẰNG nói câu nói đó
Tôi biết NÓ, đồng bào miền Bắc này biết NÓ
Việc NÓ làm, tội NÓ phạm ra sao
............................

Thơ của tôi là những gì KINH KHỦNG
Như ĐẢNG, ĐOÀN, như LÃNH TỤ như TRUNG ƯƠNG!
..............................

Hang Bắc Pó hóa thành hang ác thú
Bác Hồ già hóa dạng bác Hồ Ly
Đôi dép lốp nặng bằng trăm đôi dép sắt
Bộ ka ki vàng, vàng như mắt dân đen!
.................................

Từ buổi Quỷ Vương hớn hở mặt mày
Đứng trước đảng kỳ trịnh trọng
Đọc lời khai mạc thuở hoang sơ

Đọc tập thơ Hoa Địa Ngục, chúng ta thấy tác giả thường xuyên gọi Hồ Chí Minh bằng "NÓ", bằng "THẰNG", bằng "Hồ Ly" hay "QUỶ VƯƠNG", chớ không bao giờ gọi hắn là "bác Hồ". Ngoài ra, tác giả đã bày tỏ sự thù ghét và khinh miệt đến cực độ khi đề cập đến băng đảng việt gian cộng sản và cái chế độ cộng sản hung tàn bạo ngược. Trong nhiều bài thơ, mỗi một chữ dùng của tác giả là một giọt máu, mỗi một câu thơ đều hàm chứa những ý tưởng rất bi hùng, thống thiết, phẫn nộ của một anh hùng đang bị sa cơ thất thế, và khát vọng chặt phá xiềng xích nô lệ, để con đại bàng lại được tung cánh trong bầu trời tự do. Đọc thơ của Nguyễn Chí Thiện, chúng ta có những xúc cảm liền tại chỗ, đôi khi nổi da gà vì những cái thần khí trong thơ như đi thẳng từ những bài thơ vào máu của chúng ta.

Trong khi đó, khi ông Thiện "dỏm" qua Mỹ, ông đã đi diễn thuyết ở nhiều nơi. Ông cũng chỉ trích, lên án chế độ cộng sản nhưng giọng điệu của ông nhẹ hơn rất nhiều so với những gì được mô tả trong tập thơ Hoa Địa Ngục. Thỉnh thoảng ông có sáng tác vài bài thơ nhưng hầu như chỉ là những bài vè, thậm chí có bài ông gọi Hồ Chí Minh là "bác Hồ"! Dù rằng hai chữ "bác Hồ" ông bỏ trong ngoặc kép nhưng so với những lời thơ đầy hùng khí và sự phẫn nộ trong Hoa Địa Ngục thì khác xa lắm! Ông còn cổ động cho việc toàn dân Việt Nam nên kiên nhẫn chờ một vị minh quân của thời đại xuất hiện để cứu nước, đó là một cuộc cách mạng nhung, không đổ máu, với sự xuất hiện của một ông Goóc Ba Chớp Việt Nam, chui ra từ hang Bắc Pó!

Tôi nhớ trước đây có đọc một bài viết của ông Thiện trên internet, trong đó ông đã thách đố những ai dám "vu cáo" ông là đồ giả mạo thì ông sẵn sàng đi thử DNA (để so sánh với ai? với cái gì?) với điều kiện: - sau khi thử xong nếu ông ta thắng thì người vu cáo phải chịu chi trả một số tiền là một trăm ngàn đô la. Ông ta sẽ dùng số tiền đó vào việc từ thiện.

Trong thời gian gần đây, đã có hai tác giả là luật sư Nguyễn Văn Chức và Việt Thường nêu lên những nghi vấn về ông Nguyễn Chí Thiện nhưng không thấy ông Thiện lên tiếng trả lời.

2. Nghi vấn về "ngọn đuốc sống" Lê Văn Tám

Lê Văn Tám là một cậu bé mười tuổi, đã tự tẩm xăng vào người của mình rồi đốt cháy phừng phừng như cây đuốc, lao vào kho xăng (có tài liệu nói là kho đạn) của Pháp ở Thị Nghè, làm cả kho xăng bị phá hủy tan tành. Chiến công "lừng lẫy" này xảy ra năm 1946. Sau năm 1975, nhiều trường học, tên đường, công viên, bệnh viện trong miền Nam bị mang cái tên của con ma Lê Văn Tám. Hàng triệu triệu thế hệ sinh viên học sinh đã phải nhét vào đầu mình cái tên Lê Văn Tám cho qua các kỳ thi, và nhiều người sau này cũng bắt chước Lê Văn Tám tự đốt cháy cuộc đời của mình qua những điếu thuốc xì ke và những ván cờ bạc thua cháy túi!

Sau năm 1975, người dân Sài gòn bắt đầu théc méc: - chắc có lẽ em Lê Văn Tám giống như Tề Thiên Đại Thánh ở trong cục đá chui ra, hoàn toàn không có cha mẹ, anh em hay bà con cô bác gì? Bởi lẽ, sau năm 1975, không thấy bất cứ một người nào tự xưng là anh chị em của Lê Văn Tám, hay một người nào tự nhận là cha mẹ của Lê Văn Tám, đến xin với chính quyền cách mạng giấy chứng nhận "gia đình vẻ vang" hay "gia đình liệt sĩ"! Theo nghi vấn, ông Nguyễn Chí Thiện thật chết đi thì ngay lập tức có ông dỏm lên thay thế liền, huống chi em Lê Văn Tám là một "anh hùng" cách mạng thì phải có nhiều người tình nguyện nhận làm bà con, họ hàng liền chớ! Gia đình liệt sĩ được cấp sổ đỏ, được nhiều quyền ưu tiên trong xã hội, vậy tại sao không có một ai đến nhận họ, nhận hàng?

Đến năm 2005, khi cảm thấy không thể nào che dấu toàn dân được nữa, việt cộng mới cho phép được bật mí: giáo sư sử học Phan Huy Lê tiết lộ rằng Lê Văn Tám chỉ là nhân vật .... tề thiên! Ông kể rằng Lê Văn Tám chính là sản phẩm tưởng tượng của Trần Huy Liệu, bộ trưởng bộ tuyên truyền của việt cộng năm 1945. Và để tự bào chữa cho sự lừa bịp của bọn chúng, băng đảng việt gian cộng sản còn vẽ thêm ra sự "lương thiện" của tên bịp Trần Huy Liệu: hắn đã dặn dò đàn em, sau khi đất nước được hoàn toàn "giải phóng", nếu hắn có chết thì nhớ kể lại sự thật cho toàn dân biết! Viện trưởng viện sử học mà còn bịa đặt, nói láo như vậy thì những tên trí thức, "giáo sư", "nhà khoa học" khác của việt cộng cũng chỉ cùng một loại như nhau mà thôi!

Ngay cả tên đầu sỏ Hồ Chí Minh mà còn chơi những màn bịp, thủ dâm chính trị "Trần Dân Tiên", "T. Lan" thì có gì đáng ngạc nhiên khi sau này người ta thấy xuất hiện những:

- Phan Đình Giót (lấy thân mình lấp lỗ châu mai khi đánh trận Điện Biên Phủ)
- Bế Văn Đàn (lấy thân mình làm giá súng)
- Tô Vĩnh Diện (lấy thân chèn khẩu đại bác cho khỏi tuột xuống dốc núi, bị đè chết liền tại chỗ)
- La Văn Cầu ( tấn công đồn của Pháp, bị thương ở cánh tay, anh ta lấy mã tấu tự chặt đứt luôn cánh tay của mình để khỏi vướng víu, rồi dùng tay trái ôm bộc phá lao vào phá sập đồn!)

Cho đến nay, ở trong nước người dân bắt đầu théc méc về nhân vật Phan Đình Giót, không biết đó có phải là nhân vật có thật hay không? Họ hỏi thẳng "giáo sư" sử học Phan Huy Lê nhưng "giáo sư" rét quá, không dám trả lời, đành phải nói quanh co: - Hiện nay chúng tôi chưa thể nói gì trước công luận!

Như vậy chúng ta có thể hiểu rằng: đảng chưa cho phép bật mí, nếu cãi lệnh thì đầu lìa khỏi cổ! Ngoài ra, có một số các sinh viên cũng thắc mắc:

- Trần Dân Tiên là phóng viên kiêm nhà văn mà tại sao chỉ viết độc nhất có một tác phẩm "Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch" rồi sau đó biệt tăm, biệt tích? Sống chết ra sao? Nếu còn sống thì chắc chắn bây giờ tối thiểu ông ta phải hơn 85 tuổi!

- Tác giả T. Lan cũng là nhà văn viết quyển "Vừa đi đường vừa kể chuyện", xuất bản năm 1950, kể chuyện về những hoạt động cách mạng của "bác" Hồ. Tác giả này cũng chỉ viết duy nhất có một tác phẩm rồi biến mất!!!

3. Nghi vấn về "Đóa Hồng Gai" Nguyễn Thị Nga

Trước đây trung tâm Thúy Nga Paris đã giới thiệu chị Nguyễn Thị Nga đến các khán giả. Chị Nga đã được mời lên sân khấu để kể chuyện về cuộc đời hoạt động phục quốc của mình. Đó là người đàn bà yếu đuối, những bước đi không vững mà sau này mỗi lần đi ra mắt sách ở những nơi khác, bà ta phải ngồi xe lăn. Bà ta cho biết vì bị việt cộng đánh đập nên đã bị tàn phế và vì bận hoạt động phục quốc, bị ở tù nên không có cơ hội lập gia đình. Kể xong câu chuyện bà ta có vẻ rất xúc động, nhiều khán giả rơm rớm nước mắt, thương cho một con người đã hết lòng hy sinh vì dân vì nước! Cũng theo câu chuyện của chị Nga thì trước năm 1975, chị đã gia nhập biệt đội Thiên Nga của quân lực VNCH. (Chú thích: muốn gia nhập biệt đội Thiên Nga, ứng viên tối thiểu phải có bằng trung học đệ nhất cấp)

Mới đây trên báo điện tử Tin Paris, có đăng một bài viết của tác giả Ngô Đông Cường, với tựa đề "Tôi vượt biển với tác giả Đóa Hồng Gai". Theo ông Cường thì câu chuyện của bà Nga kể trong quyển "Đóa Hồng Gai" cũng như trên sân khấu Thúy Nga Paris có nhiều chi tiết không đúng với sự thật. Ví dụ:

- Tên thật của bà ta là Nguyễn Thị Sáu, tức Nguyễn Thị Liên chớ không phải là Nguyễn Thị Nga
- Bà Nga đã từng làm vợ bé chớ không phải sống độc thân
- Bà Nga bị việt cộng bắt đi ở tù vì tội vượt biên năm 1977 chớ không phải là bị bắt vì tội hoạt động phục quốc cùng với cha Hiệu ở Hố Nai năm 1976!
- Khi ở trong tù bà Nga khai là bà đã có cái "bèng tú từa hưa" (bằng tú tài hai) nhưng theo ông Cường thì trình độ học vấn của bà chỉ khoảng lớp 5, lớp 6 vì viết chữ sai lỗi chánh tả quá nhiều.
- Bà Nga là dân Quảng Nam, nói giọng Quảng Nam đặc sệt nhưng những chữ và câu văn trong quyển "Đóa Hồng Gai" thì dùng toàn những chữ của người Bắc.

Từ những nghi vấn này, người ta cho rằng "Đóa Hồng Gai" và bà Nguyễn Thị Nga chỉ là một con bài do băng đảng lưu manh Việt Tân, cấu kết với Thúy Nga Paris dựng lên để lừa bịp đồng bào. Sự lừa bịp này cũng giống như những sự lừa bịp của bọn việt gian cộng sản đã từng làm, thông qua những huyền thoại:

- Cuộc đời của "bác" Hồ và các "phóng viên" Trần Dân Tiên, T. Lan
- Lê Văn Tám, Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện, La Văn Cầu ..v..v..

Và đã có vô khối người đã CHẾT NGU cho những sự lừa bịp này! Cho tới bây giờ, hơn 60 năm sau, vẫn còn vô khối người Việt trong và ngoài nước vẫn còn tin là Lê Văn Tám là nhân vật có thật! Và theo sự suy luận thông thường: hễ Lê Văn Tám mà "có thật" thì "Đóa Hồng Gai" cũng phải có thật! Nếu "Đóa Hồng Gai" có thật thì sự kiện "linh thiêng" của tướng Hoàng Cơ Minh cũng phải có thật: - sau khi đã tự bắn vào đầu mình bể sọ rồi mà ông ta vẫn CÒN TIẾP TỤC SỐNG THÊM 14 NĂM NỮA MỚI CHẾT!!! Xin mời quý vị theo dõi tiếp câu chuyện:

Trong chúng ta ai cũng biết tướng Hoàng Cơ Minh trong trận đụng độ với việt cộng tại biên giới Lào Việt, bị thương, ông ta đã tự sát. Các kháng chiến quân lần lượt bị bắt, Mặt Trận hoàn toàn tan rã. Lúc đó là thời điểm tháng 8 năm 1987. Sau khi Mặt Trận bị tan rã, các kháng chiến quân bị việt cộng đưa ra tòa. Lúc bấy giờ những ai đang ở Việt Nam hầu như đều biết tin này vì các báo của việt cộng đều đăng tin và hình ảnh rất rõ, nhất là tờ báo công an. Người ta thấy rõ hình của tướng Hoàng Cơ Minh mặc bộ đồ bà ba đen nằm chết, thấy những tấm hình chụp các buổi sinh hoạt của các đoàn viên của Mặt Trận trong chiến khu, thấy những tấm giấy có ghi dòng chữ "Lệnh Tử Hình", lý do "bất tuân thượng lệnh". Sau đo,ù những gì mà các kháng chiến quân khai ra đều được các báo của việt cộng đăng tải đầy đủ, chẳng hạn như:

- Số kháng chiến quân thực sự chỉ khoảng 200 người, đa số được tuyển mộ trong trại tỵ nạn Thái Lan
- Mặt Trận đã mướn những người Lào mặc quân phục, cầm súng cùng đứng chụp hình chung với các kháng chiến quân cho có vẻ đông đúc
- Mặt Trận tuyên bố với cộng đồng người Việt tại hải ngoại là đã tuyển được MƯỜI NGÀN QUÂN!

Thế nhưng sau năm 1987, khi một số người Việt có cơ hội được đi định cư theo diện H.O hoặc ODP, sang Mỹ thì họ vô cùng kinh ngạc khi đi dự những buổi tiệc tất niên vào dịp tết. Trong những buổi tiệc này, họ thấy các đoàn viên của Mặt Trận, thắt cà vạt màu vàng có ba sọc đỏ, lên đọc LÁ THƠ CHÚC TẾT CỦA CHỦ TỊCH HOÀNG CƠ MINH!!! Một số người kinh ngạc kêu lên:

- Ủa chủ tịch Hoàng Cơ Minh còn sống à? Hồi còn ở trong nước, tụi tôi thấy báo công an đăng hình ông ta chết rồi mà?

Đoàn viên Mặt Trận giải thích:

- Chủ tịch Hoàng Cơ Minh vẫn còn sống! Việt cộng nó bịp mấy ông đó! Nó đăng tin như vậy là để làm cho tinh thần của người quốc gia tụi mình bị hoang mang!

Mọi người bán tín bán nghi nhưng không ai dám có thái độ gì. Cũng vào thời điểm năm 1984 - 1989, vợ chồng ký giả Lê Triết bị bắn chết, sau đó có thêm một vài người nữa cũng bị bắn chết. Có tin đồn là Mặt Trận mướn sát thủ bên Canada qua thủ tiêu những người này để dằn mặt những ai chống đối. Những người còn lại cảm thấy lạnh cẳng, không ai dám thắc mắc về những lá thơ chúc tết của chủ tịch Hoàng Cơ Minh nữa. Rồi trong những cái tết tiếp theo, Mặt Trận lại tiếp tục đọc thơ chúc tết của chủ tịch mà chẳng thấy chủ tịch đâu hết! Họ vẫn TIẾP TỤC QUYÊN TIỀN để nuôi kháng chiến quân MA giải phóng Việt Nam! Nhiều người sốt ruột, bắt đầu nóng nảy:

- Chủ tịch Hoàng Cơ Minh bây giờ đang ở đâu, yêu cầu ban lãnh đạo phải cho chúng tôi biết!

Mặt Trận:

- Chủ tịch đang đi công tác tại Nhật Bản/ Pháp/ Ấn Độ/ Thụy sĩ để quyên tiền và vận động quốc tế ủng hộ kháng chiến quân .... Chủ tịch thân mến gởi lời thăm các đồng bào trong và ngoài nước! Yên chí đi, chủ tịch sẽ về lại Mỹ trong nay mai, đồng bào sẽ gặp lại chủ tịch Hoàng Cơ Minh kính mến!

Thế rồi, 14 năm sau khi Hoàng Cơ Minh chết, sau khi thấy cái món vỏ "quyên tiền" đã hết khấm khá, thấy niềm tin của đồng bào vào Mặt Trận ngày càng tuột dốc, thấy không thể nào che dấu được nữa, Mặt Trận mới quyết định công bố sự thật:

- Chủ tịch Hoàng Cơ Minh đang đi công tác tại .... âm phủ!!! Ai muốn gặp chủ tịch thì cứ xuống đó mà gặp!!!

VÌ SAO CHÚNG TA PHẢI LÊN TIẾNG VỀ "ĐÓA HỒNG GAI"?

Qua những điều trình bày nêu trên, chúng ta thấy rằng: - từ Lê Văn Tám đến Nguyễn Chí Thiện, đến "Đóa Hồng Gai", tất cả đều là những sản phẩm lừa bịp của những băng đảng cướp bịp bợm, gian ác. Bọn chúng đều có một mẫu số chung là lưu manh, điếm đàng, chỉ khác nhau ở chỗ thể hiện hình thức lừa gạt. Từ cái thằng mặc áo vét ngồi ở bắc bộ phủ đến cái thằng mặc áo vét cầm micro đứng trên sân khấu, đến thằng mặc bộ quần áo bà ba đen, quấn khăn rằn ở cổ đều giống nhau về bản chất, chỉ khác có bộ quần áo.

Chúng ta đã bị lừa bịp quá nhiều rồi, hết bị việt cộng lừa, đến bị Mặt Trận lừa, rồi đến đảng Việt Tân lừa. Con cắc kè Mặt Trận đổi màu để biến thành đảng Việt Tân và bây giờ nó đã trở thành cái vòi bạch tuộc của bọn việt gian cộng sản. Nếu chúng ta không tố cáo "đóa hồng gai", bọn chúng thấy cái chiêu "phục quốc dỏm" này có thể làm ăn được, sẽ cho ra đời thêm vài chục trường hợp tương tự như vậy! Bọn chúng lại đưa những "chiến sĩ phục quốc" lên sân khấu Thúy Nga Paris để phỏng vấn, sau đó sẽ đi ra mắt sách và quyên tiền! Chúng ta lại nai lưng ra để nuôi béo những thằng việt gian cộng sản. Vừa mất tiền mà còn bị bọn chúng chê cười là những thằng quốc gia quá ngu dốt, quá dễ tin, dễ bị lường gạt còn hơn con nít!!!

Còn gì đau sót hơn, bẽ bàng hơn khi chúng ta khám phá ra chúng ta - vì ngu dốt, vì thờ ơ, u tối - đã đi cày hộc máu để nuôi kẻ thù suốt mấy chục năm nay, cũng tựa như một người đàn ông lo đi cày trong hãng hộc gạch để con vợ ở nhà nó đi ngoại tình với người khác!

Nhưng chúng ta phải có can đảm đối đầu với sự thật. Không dám nhìn thẳng vào sự thật thì không bao giờ thắng được kẻ thù, 83 triệu dân trong và ngoài nước sẽ mãi mãi phải làm nô lệ cho bọn việt gian cộng sản và bọn tay sai chó săn tại Mỹ!

Trần Thanh
Ngày 1 tháng 9 năm 2008

Phần tin nhanh:

CHÚNG TA MẠNH MẼ ỦNG HỘ CUỘC ĐẤU TRANH CỦA GIÁO DÂN HÀ NỘI TẠI GIÁO XỨ THÁI HÀ!

Máu đã đổ tại giáo xứ Thái Hà. Bọn công an gian ác đã dùng bạo lực để đàn áp, đánh những người dân lớn tuổi, là phụ nữ chân yếu tay mềm đến đổ máu. Nhưng các giáo dân nhất quyết không sợ và lần này chúng ta tin rằng những giáo dân Hà Nội sẽ dạy cho bọn cầm quyền lưu manh gian ác một bài học đích đáng!

Năm ngoái, trong cuộc đấu tranh đòi lại tòa Khâm sứ, các giáo dân Hà Nội đã bị bọn việt gian cộng sản lừa gạt. Lần này bọn chúng không thể bổn cũ soạn lại nữa đâu. Trời cao có mắt, các đấng linh thiêng sẽ trừng phạt bầy quỷ đỏ. Chúng ta cầu nguyện ơn trên ban cho những giáo dân dồi dào nghị lực, sự sáng suốt, lòng can đảm và sức khỏe để họ kiên nhẫn đấu tranh cho đến cùng!

Hỡi những tên cướp công an! Nếu bọn bay biết nghĩ đến "nhân quả" thì hãy biết điều. Hôm nay làm điều ác thì ngày mai phải đền tội! Đó là quy luật rất chắc chắn, áp dụng cho tất cả những tên công an đang cầm dùi cui, roi điện cho đến những tên đầu gấu trong bộ chính trị. Hung bạo như bạo chúa Sadam Hussein mà còn bị treo cổ, bọn chúng bay cũng sẽ không thoát khỏi lưới trời lồng lộng!

Trần Thanh
Ngày 1 tháng 9 năm 2008

Tài liệu tình báo về vụ CSVN bá nước

Tài Liệu
19/11/2007
(Vài sự kiện dẫn đến bán nước của csvn)

Sau vụ CSVN bán nước cho Trung Cộng, theo lời ông Hoàng Minh Chính cho biết thì không ai biết được ai trong bộ chính trị đã ký tên trong vụ bán nước nầy . Bộ chính trị CSVN đã dấu nhẹm chuyện nầy và BÍ MẬT ĐÃ được BẬT MÍ và sau đây là những diễn biến về cuộc BÁN NƯỚC NHƯ SAU:

1) Lê Khả Phiêu bị Trung Quốc gài Mỹ Nhân Kế lấy cô Trương Mỹ Vân (Cheng Mei Wang) lúc Lê Khả Phiêu sang thăm Trung Quốc năm 1988 và sanh được một bé gái. LKP không đem con về vì sợ tai tiếng đưa đến nhiều lần Trung Cộng gửi văn thư đòi lấn vùng biển vào tháng 1 năm 1999. Đồng thời đòi đưa ra ánh sáng vụ nầy nếu LKP không hợp tác. Và buộc Lê Khả Phiêu phải hạ bút ký bản hiến biển ngày 30 tháng 12 năm 1999.

2) Ngày 31 tháng 12 năm 1999 phái đoàn Trung Quốc cầm đầu do ông Tang Jiaxuan và tình báo TQ sang Việt Nam, họ gặp kín ông Lê Khả Phiêu bàn thêm về vấn đề hiến đất .

3) Ngày 25 tháng 2 năm 2000, Lê Khả Phiêu phái Nguyễn Duy Niên sang Trung Quốc, ông Nguyễn Duy Niên cho biết Lê Khả Phiêu đã đồng ý việc hiến thêm đất.

Trung Quốc nghe tin rất hoan hỉ mở tiệc chiêu đãi Nguyễn Duy Niên một cách nồng nhiệt với nhiều Cung Tầng Mỹ Nữ ở nhà khách Diao-yu-tai ăn nhậu cùng ông Ngoại Trưởng Tang Jiaxuan .

4) Bộ Trưởng Trung Quốc Tang Jiaxuan gửi thư kín nhắn tin muốn gặp Bô. Trưởng CSVN tại ThaiLand khi ông viến thăm nước nầy. Ngày 26 tháng 7 năm 2000. Ông Nguyễn Duy Niên đáp chiếc Air Bus bay từ phi trường Nội Bài vào lúc 6 giờ 47 sáng sang ThaiLand gặp Bộ Trưởng Ngoại giao Trung Quốc tại khách sạn Shangri-La Hotel Bankok phía sau phòng Ballroom 2. Cuộc gặp rất ngắn ngủi. Tang giao cho Niên một chồng hồ sơ đòi CSVN hiến thêm đất, biển trong hồ sơ ghi rõ TQ đòi luôn 50/50 lãnh hải vùng Vịnh Bắc Việt, đòi VietNam cắt 24,000 sp Km vùng biển cho TQ. Ngày 28 tháng 7 bộ chính trị nhóm chóp bu họp kín.

5) Sau hai tháng họp kín và bàn bạc. Bộ chính trị CSVN cử Phan Văn Khải qua gặp mặt Lý Bằng. Phan Văn Khải bay chuyến máy bay sớm nhất rời Việt Nam ngày 26 tháng 9 năm 2000 qua Bắc Kinh và được xe Limo chở từ phi trường Bắc Kinh về Quảng Trường Nhân Dân vào trưa hôm đó. Nhìn thấy mặt Khải tỏ vẻ không hài lòng và hoan mang về vụ hiến đất (Điều nầy chứng tỏ Khải không rõ chuyện nầy). Lý Bằng cho Khải biết là hai tay Lê Khả Phiêu và Giang Trạch Dân đã gặp nhau 2 lần cho vụ hiến đất rồi. Lý Bằng ôm chặc PVK và khen ĐCSVN làm việc rất tốt và ông cho biết là đã có Nông Đức Mạnh (lúc đó là chủ tịch Quốc Hội ĐCSVN) đã đi đêm sang Trung Quốc vào tháng 4 năm 2000 và Lý Bằng đã gặp lại Nông Đức Mạnh, vào tháng 8 năm 2000 ở New York Hoa Kỳ. Lý Bằng cho biết Nông Đức Mạnh phải được cử làm Bí Thư ĐCSVN sau khi Lê Khả Phiêu xuống, nếu không thì sẽ bị Trung Quốc "đòi nợ cũ" . Khải trước khi về vẫn khước từ vụ hiến vùng biển VN và nói với LB là sẽ xem lại sự việc. Lý Bằng nhăn mặt bắt Khải ngồi chờ, vào gọi điện thoại, nói gì trong đó và trở lại nói là Chủ Tịch Giang Trạch Dân muốn gặp Khải tại Zhong-nai-hai và sau đó Khải được đưa đi gặp GTD và cho ông Zhu Rongji hù dọa Khải nói: Trung Quốc đã nắm trong tay Lê Khả Phiêu, Nồng Đức Mạnh ... nếu không nghe lời TQ Khải sẽ bị tẩy chay và coi chừng bị "chích thuốc". Khải cúi đầu và run sợ, sau đó đòi về. Trước khi Khải về, một lần nữa Giang Trạch Dân nhắn Khải gửi lời thăm Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh chứ không nhắc tới tên người khác trong Quốc Hội CSVN. Khải không được khoản đãi như một vị quốc khách vì tính tình bướn bỉnh vì không nghe lời đàn anh ...

6) Vào ngày 24 tháng 12 năm 2000, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao VN Lê Công Phụng được Trần Đức Lương phái âm thầm đến Trung Quốc gặp ông tình báo của Trung Quốc là ông Hoàng Di, ông nầy là cánh tay phải của Bộ Trưởng Ngoại Giao Trung Quốc. Ông ta nói tiếng Việt rất rành. Hai bên đã gặp nhau ở một địa điểm X gần biên giới Việt, (Tỉnh Móng Cái Việt Nam). Theo bản báo cáo cho bộ chính trị CSVN, ông Lê Công Phụng Cho biết lúc đầu ông Hoàng Di vẫn khăn khăn đòi chia 50/50 với Việt Nam về vùng biển Vịnh Bắc Việt "Beibu Bay" đòi lấy luôn đảo Bạch Long Vĩ sau đó ông Phụng, được bộ chính trị dặn trước là xin lại 6% của Vùng biển gần khu vực Bạch Long Vĩ vì đã được lâu đời là của Việt Nam . Kết Qủa cuộc đi đêm Việt Nam còn lại 56% Vịnh Bắc Việt và mất đi 16,000 sq Km vùng vịnh cho Trung Quốc.

7) Ngày 25 tháng 12 năm 2000, ông Trần Đức Lương rời Hà Nội qua Bắc Kinh gặp Giang Trạch Dân và được đưa về Thành Bắc của Quảng Trường Nhân Dân, theo tài liệu lấy được của tình báo Trung Quốc. Trần Đức Lương và Lê Khả Phiêu chính thức quyết định thông qua bản hiệp ước hiến đất bất chấp lời phản đối của Khải và nhiều người trong quốc hội. Phe thân Nga và Phe Miền Nam đã không đủ sức đấu với Lê Khả Phiêu và Trần Đức Lương. Bản hiến chương hiến đất cho Trung Quốc được chính Giang Trạch Dân và đảng CSTQ trả cho số tiền là 2 tỉ US Dollar được chuyển cho Việt Nam qua hình thức Đầu Tư. ĐCSTQ chỉ thị cho ĐCSVN sẽ phải làm gì trong kỳ đại hội đảng thứ 9 vào tháng 3 năm 2001 sắp tới. Trần Đức Lương được khoảng đãi ở Thành Bắc QTNN.

8) Ngày 26 tháng 12 năm 2000 vào lúc 2 giờ trưa, Lý Bằng được cận vệ đưa tới gặp Trần Đức Lương ở Quảng Trường Nhân Dân. Lý Bằng cho Lương biết là số tiền 2 tỉ dollar để mua 16,000 sq km vùng vịnh Beibu của Việt Nam là hợp lý. Trần Đức Lương cám ơn DCSTQ về số tiền nầy. Số tiền 2 tỉ đồng nầy được Lương đem về để làm bớt sự phẩn nộ của Khải, Kiệt và những nhân vật khác trong quốc hội CSVN. Ông Lý Bằng nhắc lại chuyện Trung Quốc đã bán vũ khí và hỗ trợ cho đảng CSVN trong thời gian chiến tranh và số nợ trên Trung Quốc dùng để trao đổi mua lại vùng đất Bắc Sapa của Việt Nam, Ải Nam Quan, Bản Dốc, Cao Bằng .... Thêm lần nữa Lý Bằng chỉ gửi lời thăm Lê Khả Phiêu và Nồng Đức Mạnh !. Sau đó Lương được mời lên xe Limo và đưa về Zhong-nan-hai để gặp Zhu Rongji . Zhu Rongji không nói gì khác hơn là nhắc lại số tiền 2 tỉ đồng sẽ được giao cho Việt Nam sau khi Lương trở về nước.

9) Ngày 26 tháng 2 năm 2001 Nguyễn Mạnh Cầm bay sang Trung Quốc để gặp ông Qian Qichen tại đảo Hải Nam. Nguyễn Mạnh Cầm cám ơn Trung Quốc đã mua vùng Vịnh Bắc Việt của Việt Nam (Beibu Bay) với giá 2 tỉ US Dollar.

Yahoo search:
http://www3.fmprc.gov.cn/eng/3808.html

General Secretary Le Kha Phieu Met with Foreign Minister Tang Jiaxuan 31/12/1999)

On December 31, 1999, General Secretary of the Communist Party of Vietnam Le Kha Phieu met with Chinese Foreign Minister Tang Jiaxuan in Hanoi, during which Foreign Minster Tang conveyed the cordial greetings from President Jiang Zemin. He indicated that we had just experienced an important moment in the history of the Sino-Vietnamese relations.. The Treaty of Land Border between China and Vietnam had been officially signed at long last after 20-plus years of negotiations. This was a major event that merited celebration in the bilateral relations. He attributed the settlement of land border disputes, first and foremost, to the foresight and able guidance of the leaders of the two countries, the General Secretaries of the Communist Parties of the two countries in particular who pointed out the direction for and gave impetus to the negotiations. Your contributions were irreplaceable. The official signing of the Treaty of Land Border symbolized that we would bring peace, amity and stability along the land border between the two countries into the 21st century. This would not only benefit the two peoples and the coming generations, but also contribute to the advancement of the relations between the two countries and two parties, the bilateral cooperation in all dimensions and peace and stability of the region at large. The achievements of the land border negotiations had been hard-won. This would provide an example for the settlement of the questions left over from history between the two countries. At the same time, it also demonstrated to the world that China and Vietnam were capable of resolving all the outstanding questions left over from history through friendly consultations.

General Secretary Le Kha Phieu said that the signing of the Treaty of Land Border was of great significance to the friendly relations and cooperation of the two countries built on the basis of mutual-trust and was the result of the painstaking efforts of both sides. It marked a step forward in the good-neighborly, friendly relations of solidarity of the two countries and would exert positive impact to peace and stability of the region.

Foreign Minister Tang Jiaxuan said that the relations between the two countries and the two parties were enjoying sound momentum of development. Mutual trust was enhanced and solidarity stepped up through the frequent contacts of state and party leaders, which played a guiding role in the furtherance of the relations between the two countries and two parties. He went on to say that mankind would embark on a new millennium in some 10 hours' time. We should value all the more the peaceful environment, which did not come easily and treasure the traditional friendship between the two countries, the two parties and the two peoples. We had every confidence that the 21st century would see even better Sino-Vietnamese relations.

General Secretary Le Kha Phieu indicated that one of the highlights of Vietnam-China relations was that the leaders of the two countries reached an agreement on putting a complete end to the past and building a future featuring friendship and mutual trust. It was the consistent policy of Vietnam to develop good-neighborly and friendly cooperation with China. The friendship between Vietnam and China would enjoy further development and would be carried on generation after generation. The spirit of cooperation manifested during the land border negotiations was bound to give impetus to the development of bilateral relations in all the fields. Meanwhile, we would move up the settlement of other outstanding questions left over from history between the two countries by drawing on the experience of this round of negotiations.

The two sides also exchanged views on the current regional and international situations. General Secretary Le Kha Phieu thought highly of the independent foreign policy of peace pursued by China and expressed appreciation to China that attached importance to the development of good-neighborly and friendly relations with its surrounding countries. He maintained that Vietnam was not in favor of a uni-polar world, and the world should be characterized by variety.

General Secretary Le Kha Phieu asked Foreign Minister Tang Jiaxuan to convey his best wishes to General Secretary Jiang Zemin and other Chinese state and party leaders.

Prior to this, Foreign Minister Tang Jiaxuan met with President Tran Duc Luong of Vietnam. Tang conveyed the warm regards from President Jiang Zemin, to which President Tran Duc Luong expressed his gratitude. He also expressed his belief that the Chinese people would achieve greater success in the new century under the leadership of President Jiang Zemin.

Google:
http://www.fmprc.gov.cn/eng/wjb/zzjg/tyfls/tyfl/2631/t15493.htm

MSN.com:
http://www3.fmprc.gov.cn/eng/4470.html

http://www.chinaembassy-canada.org/eng/wjb/zzjg/tyfls/tyfl/2631/t15493.htm

http://community.vietfun.com/showthread.php?s=2721afa3c031c944e7e041a9067fb88e&p=2749175#post2749175

http://thangtien.de/index.php?option=com_content&task=view&id=987&Itemid=323


Chùa là cửa ngõ xâm nhập an toàn của việt cộng


Trương Minh Hòa

Tác giả Phạm Xuân Đài, thuộc dòng dõi Phạm Phú Thứ, trong một bài viết với tựa đề: "chùa là cái thiện" được phổ biến khá rộng trên hệ thống truyền thông hải ngoại; chùa là cái thiện cũng có phần đúng về hình thức trong triết lý Phật Giáo, vì cảnh chùa từ trong ra ngoài thường được trang trí cho có vẻ thanh tịnh và đượm phần thoát tục, phù hợp với những ai "coi cõi đời là cõi tạm" muốn tìm con đường giải thoát khỏi kiếp trầm luân khổ ải mà đời người thường hay TRÀN DÂNG nhân quả chốn TRẦN GIAN; chùa mà buồn, cô quạnh quá như "chùa Bà Đanh" cũng không hấp dẫn đối với những người có cái tâm "hàng hai" như đám đón gió trở cờ, vừa tự nhận là người tỵ nạn chính trị, nhưng cũng vừa muốn bắt tay với Việt Cộng để làm ăn, du lịch, du hý, du dâm .... đó là những người "bắt cá hai tay", vừa muốn tu thành chánh quả và cũng vừa muốn nhìn thấy cuộc đời đẹp lắm trước khi tìm đến cõi Niết Bàn.

Tuy nhiên ngày nay, có nhiều chùa không còn thiện nữa, như ngôi Đại Nam Quốc Tự ở Bình Dương, do "cư sĩ gốc công an" Dũng Lò Vôi xây dựng tại Bình Dương với diện tích hơn 500 mẩu tây, có cả những nơi "du hý" giống các tụ điểm du lịch nổi tiếng như Disney Land ở Mỹ; nổi bật là nơi chánh điện có thờ tượng vàng của đại giáo chủ ma đầu "vô thần" kiêm "quỷ vương" Hồ Chí Minh chung với đức Phật và vua Hùng (có công dựng nước); chùa Quán Sứ ở Hà Nội là nơi mà Phật Tử tìm đến nơi thờ Phật, cúng bái, công quả, công đức và đủ thứ "công khác" cũng phải "tịnh khẩu" nếu lỡ lời là bị "sư, tăng ni mắt khóm tai bèo" báo cáo với các "đồng chí công an" về tư tưởng tiêu cực, phản động, có âm mưu lật đổ chế độ, thì con đường cải tạo chập chờ trước mắt, trong khi chưa thấy Niết Bàn đâu; nhưng cái hệ thống nhà tù cải tạo cũng là cửa ngỏ đưa vào "thiên đàng Cộng Sản" đấy.

Chùa là cái thiện cũng ở Việt Nam ngày nay, như ở Thanh Minh Thiền Viện hay các tự viện không nằm trong cái giáo hội Phật Giáo với công thức: "chùa do Phật tử vung bồi công quả, công an giả sư quản lý, đảng Cộng Sản vô thần lãnh đạo". Những tự viện nằm ngoài vòng cương tỏa của Mặt Trận Tổ Quốc, nơi mà các vị cao tăng, tu sĩ muốn thanh tịnh, được tự do tu hành theo truyền thống Phật Giáo đã có từ hàng ngàn năm qua, nhưng cũng không được, vì chùa luôn luôn đặt trong cái "tình huống" cực kỳ khẩn trương, kiểm soát ra vào, ngay cả con kiến, con rận, rệp và loài có cánh như con ong chúa 63 cũng không thể nào lọt vô được, ngoại trừ con mối chúa là có thể "độn thổ" chui vào thôi:

"Người hiền đức như tù trong khám.
Có công an bao bọc bên ngoài".

Chùa chỉ là nơi thờ Phật và người đi tu có nơi nương tựa, được coi là những người quy y, tình nguyện suốt đời làm con của Phật, nên ai đi tu cũng mang họ Thích. Không phải ai họ Thích cũng đều Thích tu hành đâu, cái tâm mới là quan trọng:

"Dò sông dò biển dễ dò.
Nào ai lấy thước mà đo lòng người".

Đại thi hào Nguyễn Du cũng đồng ý:

"Thiện căn bởi tại lòng ta.
chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài".

Chùa với thầy chùa, nhưng không phải thầy chùa nào cũng "đạo hạnh cao dầy", để hết tâm trí tu hành, chắc chắn khi "viên tịch" cũng phải lên Niết Bàn, đứng ngồi gần tòa sen. Nên người đời có danh hiệu "Thầy chùa lửa, sư hổ mang, ác tăng".... ngày nay thêm "dâm tăng" sau khi "phát hiện" ra một số tăng có nhiều hạ lạp, lên đến Hòa thượng đã từng biết thế nào là: "con đường tình ta đi", vừa tu vừa tìm cách hưởng cái lạc thú thế gian để "thanh tâm trường khoái lạc", đạt cả hai mặt "đạo và đời", biến "đời là bể khổ" thành "đời là bể sướng". Như thượng tọa Thích Trí Quang, dù là người tu hành lâu năm, kỵ sát sanh hại vật, nhưng vào thời trung tướng Nguyễn Khánh làm quốc trưởng, sư nầy dùng áp lực với khối Phật Giáo sau lưng mà buộc tướng Khánh phải "giết" ông Ngô Đình Cẩn, đứa em út của tổng thống Ngô Đình Diệm, hành vi nầy cũng như Việt Cộng hay bất cứ kẻ bất lương nào, thế mà có người chấp tay vái lạy, tôn kính hơn cả cha mẹ. Tu khó lắm, nên Đức thầy Huỳnh Phú Sổ, vị sáng lập Phật Giáo Hòa Hảo có câu: "Thứ nhứt là tu tại gia, thứ hai tu chợ, thư ba tu chùa" và để khuyến tu, Ngài có câu:

"Tu không cần lạy cần quỳ.
Ngồi đâu sửa đó, vậy thì mới nên".

Chùa, ở chùa, mặc áo cà sa, cạo đầu, ăn cơm bá tánh, biết đọc kinh cầu siêu, tứ thời, thuyết pháp và cũng biết cách làm Business qua dịch vụ tụng kinh cho các đám tang để cầu nguyện cho các Phật tử quá cố được "lên Niết Bàn" với số tiền "chặt đẹp" (Charge-đẹp), và thân nhân người chết cũng phải "tiêu diêu nơi miền hãng xưởng" để có đủ tiền trả cho sư tụng kinh, làm tiền rất nhẹ nhàng và sáng tạo nhờ những kinh sách của đạo Phật. Những người THAY MƯỢN thiền môn làm THƯƠNG MẠI cũng chưa chắc gì là người tu. Vì ở mọi thời đại, đều có những kẻ "mượn đạo tạo đời". Do người đời còn quá nhiều tội lổi, đam mê, mà trong những đứa con Phật, có thứ tu sĩ THÍCH ĐỦ THỨ và tệ hơn là công an giả dạng là tu sĩ THÍCH VIỆT CỘNG, từng gây bao hệ lụy cho uy danh đức Phật và đạo Phật mà vẫn "an nhiên tự tại" trong cái "thanh tâm trường an lạc", chỉ bị tiếng đời dị nghị và sau đó, thời gian là thuốc xóa sạch những điều xấu xa; trong khi đó bên Công Giáo, các linh mục lạm dụng tình dục thì bị giáo dân, nạn nhân truy tố, thưa kiện và chính đức giáo Hoàng cũng phải xin lỗi, giáo hội phải bồi thường. Nhưng với những tu sĩ Phật Giáo, lén lút quan hệ tình dục, có cả "nghiệp báo" là có con đùm đề, làm nhiều chuyện trái với đạo lý, phạm giới có ai đưa ra tòa đòi bồi thường, sư vẫn "thoải mái hành đạo" tiếp tục lừa đảo thế gian, Phật Tử cho đến mãn phần được gọi là "viên tịch" và các chùa khác, đệ tử đọc kinh cầu siêu, ghi công đức "cao dày", nên trong bài ca Tôn Tẩn Giả Điên, Út Trà Ôn ca rằng: "biết đâu những kẻ lừa thầy phản bạn, thường hay giả dạng kẻ nhân từ".

Luật Nhân-Quả và Luân-Hồi của Phật Giáo rất thâm sâu, uyển chuyển, nếu áp dụng đúng thì là cách răn đời "làm lành lánh dữ" như quyển "Hồi Dương Nhân Quả". Tuy nhiên, ở đời nầy có nhiều kẻ áp dụng và giải thích lệch lạc nên sinh ra nhiều nghiệp báo, hệ lụy:

- Nhiều người sanh lòng bỏ vợ già thì cho là "duyên nợ đã hết", và về Việt Nam bảo lãnh vợ nhí, đáng tuổi con cháu mình thì cho là: "kiếp trước có nợ duyên", mình không thương người ta thì: "mang tội với Trời Phật". Có kẻ lấy vợ nhỏ mà vẫn "an nhiên tự tại" bảo với vợ là "do ông trời đặt để", nếu vợ là người Phật tử thuần thành, cũng đành chấp nhận cái luật nhân quả, luân hồi, không phản ứng, ly dị, chia của, dù trong lòng tức tối, phải chịu đựng để "trả quả" cho kiếp trước.

- Các sư cũng áp dụng luật nầy để thoải mái "quan hệ tình dục" với người khác phái, lòng vẫn "thanh tâm trường an lạc" cho là: kiếp trước có duyên nợ, có vay nợ với nhau, cho nên người phụ nữ có quan hệ với "sư" cũng đành chấp nhận nếu có "con" với nhau. Để bảo vệ cái căn quả nầy, người phụ nữ cũng phải ráng chịu "nuôi con" để trả quả do kiếp trước có vay mượn với nhau. Thế là các phụ nữ nín thinh, không lên tiếng tố cáo với cảnh sát (kể cả bị xâm phạm tình dục), nên các sư Phật Giáo thường được an toàn cho đến khi "viên tịch", rồi sau đó mới lòi ra "thầy chùa con" là coi như "trả quả" cho kiếp trước.

Trước năm 1975 ở miền Nam, lợi dụng thể chế chính trị tự do, quỷ đỏ Cộng Sản xâm nhập và cửa chùa, là cứ địa an toàn, dễ nhất; lý do là ai muốn đi tu, chỉ cạo đầu, mặc áo cà sa là được danh hiệu "THẦY", dù người đó ít học, dốt, cũng được các Phật Tử có bằng cấp cao, bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, tiến sĩ .... phải chấp tay cung kính là "Thầy" mà không cần đắn đo.

Ngay cả những ông tướng trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, đi đâu cũng có quân cảnh hộ tống, trước phòng làm việc có lính gác, thế mà vẫn cung kính với các thầy; thế nên thời đó có câu tục ngữ: "NHẤT ĐĨ, NHÌ SƯ, TAM CHA, TỨ TƯỚNG". Đó là cái tập quán "trọng Phật kính tăng" một cách máy móc, nên Cộng Sản dễ lợi dụng, hoạt động từ khi miền Nam chưa mất cho đến nay. Điển hình là vụ biến động Phật Giáo miền Trung 1966 do thượng tọa Thích Trí Quang cùng với một số tên Việt Cộng nằm vùng như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Ngọc kha, Võ Đắc Xuân ... phát động; nhờ các tướng Phật Tử như trung tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lịnh quân đoàn 1, chuẩn tướng Nguyễn Xuân Nhuận, tư lịnh sư đoàn 1 "kính tăng" và nghe lời tăng hơn cả cấp trên của mình..

Chùa là cái thiện về hình thức, nhưng người trong chùa không thiện, hòa thượng Thích Tâm Châu ghi lại trong quyển Bạch Thu phát hành ngày 1 tháng 1 năm 1994 tại chùa Phật Quang, Úc Châu:

vào tháng 7 năm 1966, sau chuyến đi từ Tích Lan, Mã Lai, Singapore trở về Saigon, đến Việt Nam Quốc Tự, vừa bước chân vào văn phòng Việu Hóa Đạo thì thấy biểu ngữ nền vàng chữ đỏ căng với hàng chữ: "Muốn quần chúng tuân theo kỷ luật thì phải tuân theo quần chúng". Bước chân vào bàn làm việc, nơi nầy đã có sẵn một chén máu và con dao với tấm giấy đe dọa: "yêu cầu các thượng tọa trong Viện Hóa Đạo không được theo thượng tọa Tâm Châu" (* phần ghi chú về cái chết của Thích Quảng Đức ở cuối bài). Sau 1975 thì chùa càng ít thiện hơn khi đảng Cộng Sản gom thành phần tu sĩ gốc đảng, tu giả, tu trốn lính, vào năm 1981 thành cái giáo hội Phật Giáo Việt Nam, bản doanh là chùa Quán Sứ, Hà Nội với huề thượng Thích Trí Thủ, nghe đâu, vị nầy đã "đắc quả là triệu phú" với số tiền lên đến 250 triệu Mỹ kim.

Từ đó cái ác lan tràn, khống chế các vị tu sĩ chân chính trong giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do hòa thượng Huyền Quang, Quảng Độ lãnh đạo. Vụ án Già Lam cũng là "khổ nhục kế" tinh vi, được dàn dựng khá công phu, một thời làm chấn động lương tri, do bọn ma quái "Cộng Sản" dựng lên để đưa những "con quỷ dữ" vào phá giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong nước; được biết cái vụ án Già Lam làm chấn động trong nước và thế giới, nhất là tại các cộng đồng người Việt tỵ nạn, lúc đó người ta lầm tưởng là các tu sĩ Tuệ Sĩ, Trí Siêu ... là những người chân chính, dám can đảm đứng lên chống lại đảng Cộng Sản vô thần để bảo vệ đạo pháp. Tuy nhiên, hai ông nầy đã "báo trước" mà nhiều người không hay, lúc kêu án tử hình, thì Tuệ Sĩ cười và với với Trí Siêu: "mình không chết đâu thầy ơi!". Có một số người tin là Tuệ Sĩ giỏi về khoa tử vi nên quả quyết như vậy. Thế là ở hải ngoại, các cơ quan truyền thông, tha hồ mà đánh bóng và những đảng phái, tổ chức tích cực vận động ... rồi Việt Cộng phải nhượng bộ tha (SIC), nếu không ai vận động thì Việt Cộng cũng đâu giết những "con gà của họ", kế nầy thật nhịp nhàng và có bài bản. Nhờ thế mà Trí Siêu, Tuệ Sĩ trở thành "biể tượng đấu tranh" là tù nhân lương tâm, nhất là tay Thích Trí Siêu là người ngạo mạn, với cái gọi là "Giấc Mơ Trường Sơn", hắn còn lếu láo: "ai không biết chữ Hán, không phải là người Việt Nam", bị công tử Hà Đông vạch mặt vào thời đó, nên không ai lưu ý, cũng dám có người bực bội vì dám phê phán cả thần tượng của họ.

Chùa không còn là cái thiện khi mà công an, cán bộ đảng vô thần xâm nhập đánh phá, trong nước thì chùa biến thành nơi "quan trường" ai muốn tu phải có giấy phép, tu sĩ muốn có chỗ tu "tốt" cũng phải lo tiền, những người có quan hệ với đảng, công an, cán bộ được ưu tiên tụ hành ở những ngôi chùa lớn, còn không phải là "đỉnh cao trí tệ tăng ni" thì bị bức hại, đuổi đi, tù đày. Ngày nay quí thầy dùng bia, rượu thay trà, ăn thịt ca thay đồ chay và cũng trở thành tông phái TU ÔM theo Thiền TIẾP HIỆN của sư ông, sáng lập THÍCH NHẤT VẸM, nên tu sĩ biến "cõi đời thành cõi sướng". Hải ngoại, thì những tu sĩ thuộc Mặt Trận Tổ Quốc mới được xuất ngoại làm công tác tông giáo vận từ hàng chục năm qua như Thích Thanh Từ, Thích Thông Kinh ... và gần đây là "trí thức Phật Giáo" đại đức, tiến sĩ Thích Nhật Từ. Hắn tên thật là Trần Ngọc Thảo, sinh ngày 1 tháng 4 năm 1969 tại Saigon, cha là cán bộ Cộng Sản, biên chế sang Mặt Trận Tổ Quốc, năm mới 23 tuổi mà đã tu hành tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trở thành "sư trụ trì chùa quốc doanh" hiệu là chùa GIÁC NGỘ, số 92 đường Nguyễn Chí Thanh, phường 3, quận 10 thành Hồ. Hắn xâm nhập vào đất Mỹ từ lâu qua "con đường chùa ta đi" do một số Phật tử "tỵ nạn quốc gia, rước ma sư Cộng Sản", chứ không phải mới đây.

Dựa vào "phương án" dịch Kinh Đại Tạng, "tên Thích Nhật Từ cung thỉnh hai tên" Tuệ Sĩ và Trí Siêu làm "chủ trì", từ đó ở hải ngoại có một tổ chức mang tên: "Hỗ Trợ Dịch Đại Tạng Kinh" được một tu sĩ tên là Thích Nguyên Siêu, trụ trì chùa Phật Đà ở San Diego (nam Cali), cùng với cư sĩ Huỳnh Tấn Lê (Tổng Hội Cư Sĩ Orange County) về tài chánh và hai vị "chán tu" bỏ chùa hoàn tục khác có pháp danh là Nguyên Lương và Đức Hạnh; tổ chức nầy gây quỹ liên tục suốt 3 năm nên bè nhóm Tuệ Sĩ, Trí Siêu, Nhật Từ tha hồ mà tiêu pha "tiền chùa" được quyên góp từ mồ hôi của các Phật Tử "thuần thành" đóng góp. Kinh Phật, nhất là kinh Đại Tạng rất nhiều bộ, nhưng người ta tự hỏi: "dịch kinh để làm gì?" với công trình ròng rã cả hàng chục năm, có khi phải dịch cả đời mà vẫn không xong, hao tốn công, tiền; mặt khác, liệu các tay dịch thuật nầy có đủ trình độ để hiểu và dịch đúng theo tinh thần của tác giả các "đại tạng kinh" không?... với hàng chục ngàn trang giấy dịch bí hiểm văn tự; dịch kinh chỉ để trong kệ "tàng kinh các" cho bụi đóng và thỉnh thoảng lau chùi, làm cảnh, chứ Phật Tử ít khi nào đọc; họa hoằng lắm, mới có vài vị "thâm kinh" tới tìm vài câu để viết sách cho mình, hay tra cứu vài tài liệu. Tuy nhiên cái hiện tượng các sư muốn "phô trương" cái sở học uyên thâm "Hán, Phạn" với các học vị "tiến sĩ" tốt nghiệp ở Ấn Độ, Nhật Bản, nên mới bày ra trò "dịch kinh" để lòe thiên hạ mà thôi. Thật ra muốn áp dụng tư tưởng Phật, chỉ cần đọc và hiểu rõ quyển Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân là tạm đủ trong "đại hùng, đại lực, đại từ bi" hầu đối phó với ma quái, xử thế, tu học, chớ cần chi những bộ Tạng Kinh nầy. Con nít ngày nay chỉ cần mua DVD bộ phim nầy cũng thấm nhuần triết lý Phật Giáo:

"Phô trương bằng cấp, dịch Tạng Kinh.
Chứng tỏ ta đây, chữ đầy mình.
Ngàn năm lưu trữ, pho sách quí.
Vạn trang khai mở trí thông minh.
Sư qua Ấn Độ làu tiếng Phạn.
Thầy thuần Hán học, rộng tầm nhìn.
Hao tiền, lại bỏ nhiều công sức.
Có ích lợi gì cho chúng sinh?"

Tên sư Việt Cộng Thích Nhật Từ kết thân với sư Thích Chân Thành, trụ trì chùa Liên Hoa, đường Bixby, Garden Grove (Nam Cali) nhân chuyến sư nầy hành hương ở Ấn Độ, từ đó móc nối, nên sư Chân Thành trở thành người ủng hộ đắc lực cho tên "sư công an Tôn Giáo là Thích Nhật Từ" từ dạo ấy. Từ năm 2004 Sư Chân Thành lợi dụng cơ sở tôn giáo để bảo lãnh Thích Nhật Từ đến Hoa Kỳ lần đầu, cư ngụ tại chùa Liên Hoa và sau đó được giới thiệu với sư Chơn Lễ tại Texas nhằm thuyết pháp và cư ngụ, gây uy thế để mở rộng tầm hoạt động tôn giáo vận trên đất Mỹ qua cửa Phật. Nhắc lại lúc cụ Nghiêm Xuân Hồng còn sống, nhóm Liên Hoa không mời Thích Nhật Từ thuyết pháp; nhưng sau khi cụ Hồng qua đời, cựu trung tá pháo binh quân đoàn 2 thuộc quân lực VNCH, pháp danh là Mật Nghiêm, tục danh Đăng Nguyên Phả, với tư cách hướng dẫn đạo tràng, tiếp tay với sư Chân Thành tổ chức thuyết pháp hàng tuần. Sau nầy chính trung tá Phả hợp lực cùng với Huỳnh Tấn Lê thành lập nhóm Phật Học lấy tên là Đuốc Tuệ, chuyên dành cho Thích Nhật Từ thuyết pháp tại trường Mc Gavin, đường Bishop, gần khu Phước Lộc Thọ một cách công khai; các buổi "hoằng pháp chất lượng cao" nầy được phát thanh trên đài Tiếng Nói Hương Sen, ngoài ta còn ấn hành cả CD, DVD do Thích Nhật Từ thuyết pháp, phát không cho Phật tử nhằm tuyên truyền và tạo thế đứng của hắn tại Hoa Kỳ. (tài liệu trên Nam Úc Tuần Báo, số 658, phát hành 22-8-2008).

Đây là một vài thí dụ điển hình về con đường xâm nhập an toàn của Cộng Sản qua cửa ngõ Phật Giáo, với "cửa chùa rộng mở" thu nhận cả ma quái vào; chính nhờ những Phật Tử thuần thành, không phân biệt chánh tà, thấy ai mặc áo cà sa, nói năng như phật "nhưng không phải Phật", nhất là sư nào có bằng TIẾN SĨ PHẬT GIÁO tốt nghiệp từ Ấn Độ (nơi Đức Phật sinh ra) thì là cao siêu, là lời nói rất "chất lượng" để giúp mình giác ngộ sớm, về bến giác mau. Trọng Phật là đương nhiên, nhưng "kính tăng" thì nên coi lại, hãy cẩn thận: "đừng nghe những gì thầy chùa thuyết pháp, mà hãy nhìn kỷ những gì thầy chùa làm". Cái gương của Tam Tạng trong Tây Du Ký, nhiều lần quỳ lạy ma quái giả Phật, xuýt bị xơi tái; cũng có nhiều lần Tam Tạng mù quáng, không nghe lời Tôn Hành Giả, trái lại còn niệm chú xiết vòng kim cô không phân biệt chánh tà.

Nhờ có quá nhiều Tam Tạng thời đại, nên Việt Cộng mới xâm nhập vào chùa an toàn từ thời trước 1975 ở miền Nam, nay lan ra hải ngoại, bài học cũ, thế mà nhiều người vẫn chưa thấm, cứ nhắm mắt đi theo "sư Việt Cộng dẫn Phật Tử mù quáng, đi theo tấm bản chỉ đường của đảng" qua các "tên công an mặc áo cà sa". Một tập quán khác cũng rất nguy hiểm là: Phật tử có lối suy tư "mặc kệ nó", tức là: "ai làm bậy thì có trời Phật biết", mình không làm điều sai là không sợ; nên mình đi chùa để lạy Phật, cúng dường, dù biết chùa là của Việt Cộng lãnh đạo bên trong, sư là công an trá hình .... đó là những nguyên do tạo điều kiện cho các sư xấu, kể cả công an đội lớp tu sĩ có nơi hoạt động, nuôi dưỡng ma quái mà tưởng là làm việc thiện.

Trong nước Phật Giáo đã bị cơn đại pháp nạn, khốn đốn hàng mấy thập niên qua kể từ khi có mặt đảng Cộng Sản vô thần do tên đại quốc tặc Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ở hải ngoại, bàn tay quỷ đỏ đang vương ra, núp bóng Phật Đà, lợi dụng Phật tử, phát triển rộng khắp nơi, nên hiện tượng CHÙA MỌC LÊN NHƯ NẤM ở các cộng đồng tỵ nạn, con số chùa của người Việt tỵ nạn lên đến con số hơn 300, nghe qua chóng mặt và ngày nay đang có thêm nhiều ngôi chùa mới nữa, với sư mới, trẻ măng, nói năng dịu dàng, toàn là lời trong kinh, hàng tuần hay tổ chức nấu ăn đồ chay miễn phí để chiêu dụ, chùa giàu có cả xe bus để chở những người già, bịnh tật không lái xe đến chùa, ràng buộc hụi hè, giúp đỡ những Phật tử nào có vốn muốn về Việt Nam kinh doanh qua các sư từ trong nước quen biết với chính quyền, thỉnh thoảng mời sư ở Việt Nam sang thuyết pháp và "hoằng hóa" chúng sanh, chùa cũng có thể là nơi "chuyển tiền" về Việt Nam với huê hồng thật rẻ, là nơi giới thiệu hôn nhân "thiệt-giả", móc nối đủ thứ; có thể nói là; cửa chùa ngày nay sinh hoạt "đa hệ" chớ không thuần túy chỉ tu học, giải thoát; một số Phật tử còn có tấm lòng từ bi, bảo trợ một số sư từ Việt Nam sang, trở thành tam cùng "cùng ăn, cùng ở, cùng tu"; nhưng sư nào đi xuất ngoại dễ dàng là điều ai cũng nhìn thấy, khỏi cần dùng kiếng chiếu yêu, hay là có trình độ văn hóa cao mới nhận biết.

Việt Cộng vẫn dùng cửa thiền môn xâm nhập, nên các sư nào xuất ngoại như đi chợ, được đi dân sang các nước để "tu học" đều là người của Việt Cộng cả, là thứ "công an, gián điệp tôn giáo" rất nguy hiểm. Việt Cộng thất bại nhiều mặt trận hải ngoại: trí vận, kiều vận, kinh tài vận .... nhất là cái nghị quyết 36 càng lộ mặt nhiều cơ sở nằm vùng, do đó mặt trận tôn giáo, được coi là cửa ngõ an toàn xâm nhập và đánh phá qua vụ Hồng y Phạm Minh Mẫn, đại đức Thích Nhật Từ. Do đó, con đường xâm nhập từ chùa là an toàn, nên có thể là Việt Cộng dùng hình thức RỬA TIỀN bằng cách lập ra nhiều ngôi chùa, dùng một số Phật Tử địa phương làm cơ sở để che mắt; khi cất chùa xong là lấy tư cách để bảo lãnh sư từ Việt Nam sang qua diện tôn giáo, các tu sĩ tạm thời "núp bóng từ bi" để hoạt động, học hành, sau khi lấy bằng tiến sĩ, KỸ SƯ thì để tóc dài và trở thành CƯ SĨ, âm thầm biến mất trong dân chúng, cứ thế mà phát huy, tăng nhân số, hoạt động cho đảng, sau cùng là con số nằm vùng gia tăng, hợp với du học sinh, khuynh tả, có làm ăn với Việt Nam vận động "hòa hợp hòa giải", công khai treo cờ đỏ khi họ đông dân, lập ra cộng đồng mới với các Phật tử mù quáng yểm trợ, mở rộng các tổ chức từ thiện với nhiều mục đích: giúp dân nghèo trong nước, sửa chửa chùa, xây chùa.

Hiện tượng chùa mọc "không người lái" tại nhiều nơi ở hải ngoại là điều cần cảnh báo, nếu không thì bài học cũ trước 1975 ở miền Nam được lập lại. Cho nên, trước mắt là Phật tử nên cẩn trọng, nhất là các sư ở Việt Nam sang dễ dàng, chiếc áo không thành nhà tu là thế. Để đối phó, khi nhìn thấy chùa có những điểm khả nghi như có nhiều sư ở Việt Nam sang thuyết pháp, sinh hoạt thì tránh đi chùa đó, kế đến báo với sở thuế để họ xem xét những món tiền lớn ở đâu mà có để mua đất, xây chùa hàng triệu đồng nên nhớ là luật thuế vụ các nước dân chủ rất minh bạch, bất cứ ai đi làm cũng khai thuế và đóng thuế; ngay cả các cơ sở cộng đồng người Việt Tự Do ở Úc Châu, dù được chính phủ tài trợ hàng năm, nhưng vẫn phải khai thuế. Chùa cũng là cơ sở thu-nhập tiền, có quan hệ đến nhiều người, thì cũng phải đóng thuế mới công bằng; hy vọng sở thuế các nước dân chủ sẽ tìm ra được những "triệu phú đầu trọc" ở hải ngoại, là những người "tu nhất kiếp giàu nhất thời", không làm mà giàu xụ, kể cả những số tiền bất chánh từ đảng và nhà nước muốn dùng chùa để đầu tư và rửa tiền. Khi sở thuế khám phá ra những điều bất thường về tài chánh, với số tiền lớn xây chùa, tức nhiên là chính phủ sẽ mở cuộc điều tra về nguồn gốc số tiền ấy, có khả năng tìm ra được "bọn gián điệp" rửa tiền bằng cách lập ra các chùa và từ đó tạo thành cơ sở an toàn, hoạt động có lợi cho đảng và nhà nước Việt Cộng.

Người Việt tỵ nạn chân chính nào cũng không ưa bọn công an, cán ngố ... ngay từ trong nước. Tuy nhiên đã bỏ nước ra đi, mà vẫn chấp tay "vái chào cung kính" công an, cán bộ tôn giáo vận mặc áo cà sa, thì quả là chuyện nghịch lý. Chẳng lẽ tượng của tên quốc tặc Hồ Chí Minh được Dũng Lò Vôi khoác áo cà sa, hay ngồi chung với Phật, Hùng Vương, thì người Phật tử thuần thành cũng quỳ lạy hay sao?.

(*) Ghi Chú:

Vụ tu sĩ Phật Giáo Thích Quảng Đức tự thiêu vào ngày 11 tháng 6 năm 1963 tại ngả tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt vẫn còn nhiều nghi vấn. Chính cái vụ tự thiêu nầy, làm cho Phật Tử càng ghét chính phủ Ngô Đình Diệm thêm, nên 5 tháng sau thì trung tướng Dương Văn Minhhợp với tướng Phật giáo Đỗ Mậu, mới gom các tướng tá đón gió đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, giết tổng thống và bào đệ Ngô Đình Nhu.

Vụ Thích Quảng Đức tự thiêu được báo chí miền Nam ca tụng là "trái tim bất diệt" vì toàn thân xác thành tro, chỉ còn trái tim và được giới tu sĩ coi là đắc quả, ngày nay có một số ngôi chùa lấy pháp danh vị sư tự thiêu. Người Viết tình cờ được biết một số chi tiết trong vụ nầy, xin được nêu lên với tinh thần đóng góp, không có ý đã phá tôn giáo, nhằm tìm ra sự thật.

Số là năm 1977 bị giải từ trại tù Khám Lớn Bạc Liêu lên trại tù quân khu 9 là Chi Lăng, ở liên đội 3, thuộc Liên Trại 3, ở nhà số 4. Kế bên là nhà số 2, gồm một số sĩ quan cấp đại úy, trong đó có đại úy LÊ VĂN LÂM, là sĩ quan tuyên úy Phật Giáo sư đoàn Dù, nên chúng tôi gọi là "Thầy Chùa Lâm". Trong một lần hợp tổ, anh Lâm có nói về vụ Thích Quảng Đức tự thiêu, được một số anh em bên nhà 2 kể, sau đó tôi có hỏi khi anh Trịnh Tiến Bình (đại úy ở cùng nhà với anh Lâm), sau đó tôi có gặp thầy chùa Lâm, được xác nhận là sự thật, xin được nêu lên như sau:

Tụ thiêu là do bốc thăm, chớ không phải tình nguyện, người trúng thăm tự thiêu là thượng tọa Thích Nhật Thường (tục danh là Lê Văn Sua), là thân phụ của đại úy Lê Văn Lâm. Nhưng ông Lê Văn Sua nầy có vợ, cái đêm cuối cùng, nghe lời vợ, trốn khỏi chùa, sáng hôm sau, tới giờ "hành động", không tìm đâu ra người tự thiêu, nên Thích Quảng Đức là người hy sinh. Không rõ là do tình nguyện hay là trong ban tổ chức dùng thuốc mê cho uống và bắt ra đốt? Vì thời đó khối Phật Giáo Ấn Quang có Việt Cộng nằm bên trong, hù dọa cả thượng tọa Thích Tâm Châu bằng chén máu, con dao trên bàn làm việc, thì mới biết tình hình đàng sau chánh điện tệ hại như thế nào ... đó là câu nghi vấn cần được giải tỏa. Có thể Thích Quảng Đức bị chết oan do những người Cộng Sản gây ra trong chùa, nên sự oan ức nầy khiến trái tim không cháy? Xin được đưa ra cho rộng đường dư luận, vì nghe viết chỉ nghe từ một tu sĩ Phật Giáo.

Trương Minh Hòa