Tuesday, April 15, 2008

Đại tá cộng sản Bùi Tín

  • ĐẠI TÁ CS BÙI TÍN, TÊN" THỢ HÓT NGHIỆP CHUYÊN", ĐẶC CÔNG ĐỎ MẶC ÁO PHẢN TỈNH.
TRƯƠNG MINH HÒA.

Bùi Tín, tên thật là Bùi Bằng Tìn, nguyên là đại tá bộ đội Cộng Sản Việt Nam, một nhân vật không còn xa lạ gì đối với đảng Cộng Sản từ trung ương đến cơ sở, du kích; kể cả giới nhà văn, nhà báo hai phía. Kinh qua thời gian dài phục vụ tận tụy, lập được nhiều công lao để đưa đảng cướp từ đám thổ phỉ thiểu số, cướp được chính quyền; hắn đi đến đâu là gây ồn ào đến đó, do hành vi mờ ám, gian manh là bản chất không bao giờ thay đổi trong một con người Cộng Sản có quá trình phục vụ lâu dài trong đảng Cộng Sản, dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh; nên luôn tự hào về thành tích" đánh Tây giành độc lập và đánh Mỹ cứu nước", lếu láo, luôn trung thành với đảng, hiếu với Bác, dù ở bất cứ" tình huống" nào.

Xuất thân từ một gia đình làm tay sai đắc lực cho thực dân Pháp, thân sinh là Bùi Bằng Đoàn, gốc là một thông ngôn cho Tây, nhờ nịnh hót, luồn lách giỏi v1ơi quan Tây mà được thăng quan tiến chức; khởi đầu là từ chức Tri Huyện Xuân Trường, một huyện trù phú nhất tỉnh Nam Định, một nơi được dành ưu tiên cho các quan lại có thế lực, nhờ cút cung tận tụy cho chính quyền thuộc địa, thi hành chính sách cai trị hà khắt với dân, nên ông ta được quan công sứ Nam Định là René Bobin đỡ đầu. Được biết Robin là một trong số những tay thực dân gian ác khét tiếng nhất Đông Dương, nên khi hắn lên làm Thống Sứ Bắc Kỳ, thì Bùi Bằng Đoàn được thăng quan lên chức Tuần Phủ. Trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái bất thành do Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng dân chúng đứng lên vào tháng 2 năm 1930, hai tên Bùi Bằng Đoàn và Cung Đình Vận lập công to trong vụ đàn áp các cuộc đứng dậy của sĩ phu yêu nước chống thực dân, gây nợ máu với đồng bào. Đoàn được Pháp ân thưởng huân chương đệ nhất hạng" Ordre De Mérite". Nhờ Robin tiến cử nên vào năm 1933, được đưa vào triều đình Huế là chức Thượng Thơ Bộ Hình; tức là trong khoản thời gian chưa đến 8 năm, từ một thông ngôn tầm thường, thăng quan đến thượng thơ, lên chức nhanh như diều gặp gió lớn, uy quyền của Đoàn lớn hơn cả Phạm Quỳnh với chức Thượng Thơ Bộ Lại. Đến 1945 thì toàn quyền De Cour ân thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh (Légion d' honneur).

Bùi Tín cũng không khác gì cha, hắn cút cung tận tụy cho tập đoàn" Thái Thú Cộng Sản Việt Nam", gia nhập đảng bất lương, nhúng tay vào máu, với công tác chuyên thủ tiêu, giết hại những người Việt yêu nước, các đảng phái Quốc Gia. Từ lúc Tín mới 19 tuổi là đã trở thành" sát thủ" giết người không gớm tay, bằng chứng do ông Võ Tử Đản ở San Jose, trong lá thư gởi các cơ quan truyền thông, đề ngày 28-4-1999, kể lại tội ác của Tín vào năm 1947-1948 tại làng Nại Cửu, xã Phong La, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một đêm mưa u ám, Bùi Tín với khẩu tiểu liên Sten do Pháp chế tạo, cùng với 6 tên Cộng Sản ác ôn mang gươm đến đạp cửa nhà ông Đản tại xóm Chùa và bắt thân phụ là Võ Bào ( vì ông nầy là đảng Viên Việt Nam Quốc Dân Đảng) nhưng không có ở nhà; Bùi Tín bắt ông Đản và người anh chú Bác tên Võ Di băng đồng dẫn đến nơi ông Đản ở, Bùi Tín dặn phải nói:" chú ơi! mệ đau năng, chú phải về gấp". Khi cánh cửa vừa mở thì Bùi Tìn lên đạn, hai tên cận vệ nhào tới bắt trói, dẫn ra đến bến đò gần đó để giết rất dã man: hai tên cận vệ chém vào mặt làm toét mũi, hai tên khác chém vào cổ và hai tên còn lại chém sau lưng và Bùi Tín là người cuối cùng dùng báng súng đập vào ngực nạn nhân trước khi đá văng xác xuống sông, rồi hung thủ bắn 5 phát súng thị oai, đoạn cùng toán người vào xóm trong bắt ông Lê Ngô, hạt trưởng Thủy Lâm, cách nhà ông Đản chừng nửa cây số để sát hại. Gia tộc ông Đản còn có 2 người chú họ là Võ Sơ, Võ Liêu cũng bị Bùi Tín giết. Theo ông Đản, thì Bùi Tín đã giết người bằng nhiều cách dã man, trong đó có cả chôn sống nạn nhân ở bải cát Chợ Cạn, làng Phương Sơn cũng vào năm ấy. Nay sau khi Bùi Tín phản tỉnh, chỉ kể sơ tội của đồng đảng để cho người Việt hải ngoại tin, nhưng không thành thật khai báo, hối cải những tội ác giết người từ Cambot đến Việt Nam trong thời kỳ phục vụ đảng cướp Cộng Sản; do đó trong thời gian ở Quảng Trị, Tín làm đại đội trưởng Cộng Sản, giết hại nhiều người, nên dân gọi đơn vị nầy là" Đại Đội ÁM SÁT". Bùi Tín lập được nhiều thành tích giết người trong thời Việt Minh đội lớp kháng chiến đánh Tây giành độc lập, được đảng tin dùng; sau nầy làm phó chủ nhiệm cơ quan truyền thông hàng đầu của đảng là tờ Nhân Dân nhật báo, ngày 30-4-1975 chính hắn là người vào Dinh Độc Lập đầu tiên, treo cờ đỏ sao vàng, huênh hoang" đại thắng mùa xuân". Thành tích khủng bố, ám sát, giết người đã tạo nên 4 ngôi sao vàng, có 2 gạch bên dưới trên cổ áo, hắn nổi tiếng là tay nịnh bợ," hít địt" tên đại Việt gian, lãnh chúa Hồ Chí Minh và nịnh đảng, nhà nước... được dân chúng gọi là THỢ HÓT. Bùi Tín giết người dã man như đồng bọn trong vụ thảm sát tết Mậu Thân 1968 ở Huế, nên có những lý luận chạy tội, bọn ác binh nhau cả, có gì lạ như câu:" phủ binh phủ, huyện binh huyện".

Tên Thợ Hót Bùi Tín lại được đảng áp dụng" khổ nhục kế" dàn cảnh đi tỵ nạn chính trị ở Pháp. Ban đầu, một số tổ chức, cá nhân ngây thơ, hay cũng có cả những kẻ cùng một mạng lưới nằm vùng đánh bóng, nhằm tạo cho Bùi Tín một thế đứng vững chắc trong cộng đồng tỵ nạn, hầu dùng bàn đạp, thành lập" mật khu Việt Cộng" một cách hợp pháp tại Tây Phương và từ đó khai tiến công tác tiến chiếm nhuộm đỏ cộng đồng người Việt tỵ nạn hải ngoại bằng những thủ đoạn gian manh của người Cộng Sản. Tuy nhiên, bàn tay không thể che nổi mặt trời, sau thời gian múa máy quay cuồng chống đảng bằng lời, phát biểu, mạnh mẻ nhất là tố cáo tham nhũng (điều nầy ai cũng biết, kể cả thế giới, khỏi cần nói cho mất thời giờ); nhưng Bùi Tín coi đó là mục tiêu chánh, ông dùng ngụy biện để binh vực cho tên Việt gian Hồ Chí Minh là người yêu nước, sau khi đưa ra vài sai lầm, như chuyện" nhân vô thập toàn" nhằm binh vực một cách khéo léo, nếu những người lười biếng suy luận, chưa có nhiều kinh nghiệm về Cộng Sản, dễ tin những lời nói phản tỉnh" nửa thật, nửa giả" lập lờ đánh lận con đen, như tay chơi bài ba lá điếm đàng chuyên nghiệp, làm hoa mắt những người khù khờ trong canh bạc gian lận. Bùi Tín là một con người" thất tín", lời nói" khi trồi, khi sụt, khi có, khi không", cho việc giết người, lừa đảo của đảng Cộng Sản là làm cách mạng, yêu nước và Hồ Chí Minh cũng là người yêu nước. Lời nói của Bùi Tín được cho là" chưa trừ thuế" mà người đi làm ở các nước Tây Phương nói tiếng Anh gọi là Gross wage, nên người Việt hải ngoại, kể cả trong nước đều nhớ câu:" đừng nghe những gì Bùi Tín nói, hảy nhìn kỷ những gì Bùi Tín làm" để không trở thành nạn nhân của sự lừa đảo do đảng Cộng Sản thực hiện lần nữa sau khi thoát khỏi sự kiềm kẹp của chế độ độc tài tại Việt Nam. Thời còn nằm trong băng đảng Việt Cộng, khủng bố, giết hại dân, hắn cho cuộc thảm sát Mậu Thân là do lính quốc gia, máy bay Mỹ bắn....khi đi phản tỉnh, thì cho là: cấp dưới làm bậy, giết người, chớ đảng luôn thương dân, không bao giờ làm sai, có chính sách đàng hoàng... đó là những lý luận ngang bướng, nhằm chạy tội giết người hàng loạt bằng những phương cách dã man như" đập đầu, bắn, chôn sống.... điều nầy dễ hiểu là lúc đó Bùi Tín nằm trong cái gọi là Quân đội Nhân Dân và ngày nay hắn cũng vẫn một lòng" thờ Bác, yêu đảng". Đây là lối ngụy biện" cơ bản" của người Cộng Sản:" đảng không bao giờ sai, chỉ có cán bộ thừa hành làm sai mà thôi". Như vậy, Bùi Tín đang đóng vai" Ông Tám Khỏe" trong vở tuồng cải lương" Người Ven Đô" tại hải ngoại.

Bùi Tín là người nâng bi rất kỷ Hồ Chí Minh và đảng cướp cũng như tên văn nô Tố Hữu. Con người như thế thì không thể tin được, nhưng sự có mặt của tên đặc công đỏ ở hải ngoại làm khó chịu tập thể người Việt tỵ nạn, nạn nhân của Cộng Sản mà Bùi Tín từng là thủ phạm, từng gây bao nợ máu trong suốt thời kỳ nằm trong băng đảng cướp Cộng Sản. Trong sinh hoạt hàng ngày của đảng là họp tổ, hội thảo, học tập....cán bộ có lối" phê và tự phê", hình thức viết tự kiểm được coi là thướt đo sự giác ngộ, khắc phục sai lầm; nhưng từ khi Bùi Tín phản tỉnh, tỵ nạn, chưa lần nào nghe, thấy hắn nói, đăng báo để tạ lổi với đồng bào, nạn nhân qua quá trình theo đảng, gây biết bao tội ác. Người Việt quốc gia thấy hắn không thèm chào cờ vàng ba sọc đỏ trong các cuộc họp, có khi hắn được mời làm diễn giả; trong nhiều năm qua, có vài cá nhân, tổ chức hy sinh lá cờ vàng ba sọc đỏ, là biểu tượng hồn thiêng sông núi để cho Bùi Tín" thoải mái" giáo dục những người đến nghe hắn trút những lời vàng tiếng ngọc nói về" tình hình đất nước", nên thừa hiểu hắn thuộc loại phản tỉnh giả để tìm cách xâm nhập vào cộng đồng hải ngoại mà trong công tác Tình báo gọi là" Trèo cao, lặn sâu" để hoạt động, như các cụm tình báo chiến lược của Cộng Sản A 22, A 26, A 54...cài vào các cơ cấu đầu não miền nam trước 1975, từ Dinh Độc Lập, bộ tự lịnh quân đoàn 1, quốc hội....

Hết nịnh cha, rồi lại nịnh con, là bản chất tên" nô tì nòi", Bùi Tín có viết bài" không thể bất công kéo dài đến vậy!" vào đầu năm Mậu Tý 2008, mục đích nhằm tạo cho người đọc, nhân dân trong nước và người Việt hải ngoại thương cảm, xót xa của một con người " MỒ CÔI" cha lẫn mẹ từ thuở mới lọt lòng, với thân phận đứa con rơi bèo bọt, trôi dạt từ tay những" ông lớn" nầy trong bộ chính trị trung ương đảng, đến cán bộ cao cấp... mà ủng hộ, thông cảm, đừng chống người từng trải qua bao cảnh ngộ thương tâm, đánh động lương tâm của toàn dân Việt Nam trong, ngoài nước mà chấp nhận cho đứa con côi cúc đó được" cai trị đất nước đến mãn đời như cha hắn", và nếu có thương" người cùng khổ ấy" thì sau khi chết cũng ráng góp tiền ướp xác, xây lăng thờ cạnh lăng cha hắn cho được ấm cúng.... Người đáng thương dưới ngòi bút" hót" Bùi Tín là NÔNG “ĐỨT” MẠNH, đương kiêm tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, ông vua không ngai 2 nhiệm kỳ liên tiếp, có can dự vào việc hoàn tất việc cấm cọc móc biên giới, cắt đứt hàng ngàn cây số vuông dâng cho quan thầy Trung Cộng; thiệt là tội nghiệp cho kẻ mồ côi cha lẫn mẹ từ thuở nhỏ, phải qua tay nhiều cha mẹ nuôi, lang thang, lếch thếch từ nhà nầy sang nhà khác, có mẹ đã chết yểu và có cha cũng như không, dù cha là người được toàn đảng gọi là" cha già dân tộc", có nhiều hình tượng, xác ướp đặt trong Lăng thật lộng lẫy, có bộ đội, công an canh coi ngày đêm. Nông Đức Mạnh, được dân gọi là NANH ĐỨT MỘNG, hay là NÔNG ĐÚT MẠNH ( nếu hành lạc với nữ hộ lý), tức là NGUYỄN TẤT TRUNG, đứa con rơi giữa mối tình" hộ lý vĩ đại và cảm động" của Hồ Chí Minh và nàng sơn nữ gốc người Tày, quê ở làng Nà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng là Nông Thị Xuân. Thời Hồ còn trốn chui trốn nhủi trong rừng Việt Bắc, nhưng tánh dâm dật, quen chơi bời trong suốt thời kỳ hoạt động, làm tay sai cho Cộng Sản Quốc Tế từ Nga, Tàu....nên bọn đàn em phải kiếm gái" dâng Bác" như là" lập công dâng đảng" để Bác xã sút bắp, cho tinh thần minh mẫn để tiếp tục lãnh đạo toàn đảng đi đến thắng lợi và làm tay sai cho ngoại bang Nga-Tàu.

Thời kỳ trốn trong rừng, nhà ái quốc Huỳnh Thúc Kháng làm bộ trưởng nội vụ trong chính phủ liên hiệp, tình cờ sang nơi Hồ Chí Minh để bàn việc nước, bất thần nhìn thấy qua khe vách, cảnh Hồ Chí Minh đang cùng với một sơn nữ, cả hai đều biến thành" vô sản chuyên chính", không có tấm vải che thân, cười đùa, động cỡn như cuốn phim Sex ở Holliwood vậy. Thấy vậy, buồn bả bỏ về, sau đó làm một bài thơ, nhờ người đưa sang, ý bóng gió. Hồ biết nên để bụng, nhân trong vụ máy bay Pháp dội bom gần đó, Hồ ra lịnh cho đàn em giết Huỳnh Thúc Kháng để bịt miệng, sau đó còn giả vờ than khóc, làm quốc táng, cho người mang quang tài từ Việt Bắc về tận Quảng Ngải. Cho nên sau khi làm chủ phân nữa giang sơn, Hồ còn chơi bời đến mức nào, vì thế mà Chủ Nhiệm hậu cần là Trần Đăng Ninh, rất thông suốt nhu cầu" nắng cực" thường trực, cao trào cách mạng của Bác, nên đã tiến cử Nông thị Xuân về Hà Nội để phục vụ sinh lý cho Bác. Cô và người em gái Nông Thị Vàng được Trần Quốc Hoàng cho ở căn nhà số 66, phố hàng Bông-Thợ Nhuộm để hàng tuần dẫn vào dinh cho Hồ" làm việc" từ 1 đến 2 lần, tùy theo" nhu cầu đòi hỏi bức thiết". Theo bùi Tín thì:" mối quan hệ ấy đưa đến kết quả là cô Xuân cho chào đời đứa con trai vào năm 1956, do Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung, theo họ cũ của mình..".Bùi Tín cho biết Trần Quốc Hoàn là tay dâm tặc, hãm hiếp nhiều lần" người vợ không bao giờ cưới" của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, rồi dọa bắn cả 2 chị em, coi thường Hồ Chí Minh.... đều không có thể tin được. Tên Trần Quốc Hoàn ác độc, là đàn em thân tín, chịu ơn Hồ nâng đỡ, hắn sợ Hồ như sợ cọp, nếu không có lịnh của Hồ giết Nông Thị Xuân, luôn cả vợ chồng cô Vàng, thì Hoàn không bao giờ dám. Vụ nầy có quan hệ đế thanh danh" Bác Hồ suốt đời lo cho dân, cho nước, không bao giờ nghĩ đến gia đình". Hồ là tên đạo đức giả, trong buổi nói chuyện với sinh viên trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội và cuối năm 1957, hắn nói là:" Bác có 2 tật xấu, các cháu không nên bắt chước. Một là hút thuốc, Hai là không lấy vợ". Như vậy, nếu Nông Thị Xuân la lớn:" có con với Hồ Chủ Tịch, thì còn gì là" vị lãnh tụ vĩ đại, sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta". Cho nên hắn sai đàn em giết vợ và đem con lén nuôi dưỡng để sau nầy nối ngôi vua Cộng Sản, chớ Hoàn nào dám rớ tới món đồ giải trí" chất lượng" của Bác. Chuyện nầy được Vũ Thư Hiên viết trong" Đêm giữa ban ngày" và một nhân chứng khác là ông Lê Hồng Hà, nguyên là CỐM trong ngành Công An, quân hàm đại tá, làm gì ông nầy không biết rõ vụ Nông Thị Xuân? Lê Hồng Hà phản tỉnh ( chưa biết thiệt hay giả), tại sao ông không nói ra? Hay là cũng sợ làm mất uy tín của Bác?

Bùi Tín đưa ra Hoa Quốc Phong là con trai cả của Mao Trạch Đông, nhưng là đứa con ngoại hôn, có vài chi tiết về gia phả Mao, nhằm để tung hỏa mù: đưa ra một số chuyện giả, xem lẫn chuyện thiệt, là thủ đoạn tuyên truyền của bất cứ cán bộ Cộng Sản nào, từ trung ương đến địa phương. Bùi Tín lấy tài liệu của một nhà văn trong nước là Hồ Sĩ Sênh, bút danh Trường Lam, hội viên Hội Văn Nghệ tỉnh Nghệ An, vào đầu năm 2007 có đưa ra gia phả Hồ. Thật ra thì đâu cũng chỉ là" cán bộ viết, đảng viên ca" mèo khen mèo dài đuôi hay con hát mẹ khen, chớ nào kiểm chứng được, có ai vào Lăng lấy vài miếng thịt" ướp khô" của Hồ Chí Minh, tới gặp Nông Đức Mạnh xin chút nước bọt và thử DNA để minh xác chuyện nầy. Theo bài viết nầy, Bùi Tín cho Hồ Sĩ Tạo là ông nội của Hồ Chí Minh, vì bà nội của Hồ là Hà Thị Hy trước khi về làm vợ ông Nguyễn Sinh Nhậm ( làng Kim Liên) đã có bầu với Hồ Sĩ Tạo, một tay chơi, bay bướm. Nguyễn Sinh Sắc, là con ông Tạo, Ông Sắc là cha của cậu NGUYỄN SINH CONG, tức là Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh....phần nầy, nhà văn trong nước gọi là Nguyễn Sinh Côn ( chắc là ông ta không muốn cho Bác cái tên cúng cơm thiệt, khó nghe, CONG, tức là KHÔNG NGAY THẲNG). Đó cũng là chuyện bí sử, vì ông Sắc có 4 người con, nhưng người sau cùng là Nguyễn Sinh Xin qua đời khi còn nhỏ; cậu Cong lúc nhỏ thường bị cha mắng là:" thằng láo cá", nên từ năm 1945, trở thành Cha gia dân tộc, hắn ra lịnh cho tỉnh ủy Nghệ An quản thúc anh là Nguyễn Sinh Khiêm, chị là Nguyễn Thị Thanh cho đến chết để không ai biết cậu Cong láo cá, mất dạy từ thuở nhỏ. Khi ông Khiêm qua đời, Hồ không thèm về để lo tang chế; nhưng trong những ngày còn ở Việt Bắc, khi nghe tin vợ của bác sĩ Tôn Thất Tùng ( sau nầy thế thế Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch bị giết, làm bộ trưởng y tế) hạ sinh ra đứa con trai, Hồ mò tới; theo nguồn tin đồn là: vợ của Tùng rất đẹp, nên Hồ mê nhìn vú, lúc bà ngồi vạch vú cho con bú mà tới đúng lúc?, Hồ đặt tên đứa con đó là Tôn Thất Bách, sau nối nghiệp cha làm bác sỉ, giám đốc bịnh viện hữu nghị Việt-Đức. Hình như Tôn Thất Tùng cũng biết Bác khoái vợ mình, nên ghen ngầm, cho nên dịp may là Bác yếu sức, thừa mật lịnh của Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, đầu độc Bác để trả thù?.

Bùi Tín tả oán về cuộc đời của Nguyễn Tất Trung như một trẻ mồ côi đáng thương, hơn 52 năm sống lây lất, về mặt pháp lý là không có cha mẹ chính thức ( pháp lý Cộng Sản như thùng rác chớ hay ho gì), tức là không có căn cước thật, Nông Đức Mạnh cũng có" sơ yếu LÝ LỊCH CHUI" như giới bán chui, trốn chui, bán nước chui cho Trung Cộng.... Từ tay ông Sao Đỏ Nguyễn Lương Bằng vài tháng, đến 1957, bé Trung về làm con nuôi cho tướng Chu Văn Tấn ở Thái Nguyên, sau đó được Hội Phụ Nữ Cứu Quốc Trung Ương đưa vào trại Mồ Côi, rồi vào trường Nguyễn Văn Trổi, dành cho liệt sĩ...như vây là Trung được cha hắn nhờ các đồng chí thuộc hạ thân tính nuôi dùm, chớ có bỏ bê đâu. Chuyện Trần Quốc Hoàn cho Trung liếm, chích các loại thuốc độc, nên lú lẫn, tinh thần bấn loạn, đến 1969 mới đỡ ( cũng là chuyện phịa, có ai làm chứng, ai là người đến đầu độc?). Khi Hồ Chí Minh qua đời, Trung được ông Vũ Ký, là thư ký riêng, uy tín của Hồ Chí Minh nuôi, cho đi học chung với 2 con mình là Vũ Vinh, Vũ Quang ở trường phổ thông Chu văn An; nhưng Trung bị ốm, đau đầu mà không vào đại học được. Vũ Ký cưới vợ cho Trung là cô Lưu Thị Duyên lúc 32 tuổi...thật là chu đáo! Bùi Tín tiết lộ là bạn thân của Vũ Ký, nên biết rất rõ, theo bài viết đó, mức độ khả tín bao nhiêu? Trong bài viết, tác giả nhằm đưa ra bộ mặt thật đáng thương của đương kiêm tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, đắc cử 2 nhiệm kỳ, nay có thể hy sinh thêm một nhiệm kỳ 5 năm làm vua không ngay nữa hay làm chức nầy đến mãn đời càng đạt mục đích yêu cầu; cũng như Dương Thu Hương, khi Nông Đức Mạnh mới lên làm tổng bí thư, thì khen là có bộ mặt dể mến....Nguyễn Tất Trung, tức Nông Đức Mạnh có cuộc đời" bi đát, đáng thương như thế!" mà còn phấn đấu lên đến tổng bí thư, thay thế cha Hồ Chí Minh lãnh đạo đảng và nhà nước, sớm trở thành tỷ phú Đô La Mỹ trong thời gian ngắn, dù bị Trần Quốc Hoàn cho liếm, chích thuốc độc, đầu óc bị lụn bại, thế mà còn biết cách làm thế nào để lên làm chức lãnh đạo cao cấp nhất nước, nếu Trung tỉnh táo như người thường, thì hắn làm tới cái gì nữa. Như vậy nếu có đầy đủ tình thương gia đình, biết cội nguồn, tỉnh táo...thì chắc có lẽ Nguyễn Tất Trung dám cạnh tranh giàu có với nhà tỷ phú Bill Gate lắm! Người Cộng Sản như Bùi Tín, viết hay nói đều" chưa trừ thuế".

Từ ngày Bùi Tín có mặt ở hải ngoại với bình phong" phản tỉnh" làm cho tập thể người Việt thêm lộn xộn, phân hóa: có người ngây thơ tin, kẻ đón gió qui phục để kiếm chút quyền lợi, bọn nằm vùng tìm đến để tái phối trí lực lượng, tập hợp thành một thế lực giống như Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ trước 1975. Đám sinh viên du học con cháu cán bộ, cán bộ gián điệp nằm vùng, thành phần được đào tạo dưới lá cờ đỏ sao vàng và" chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại" có mặt tại hải ngoại, có khả năng trở thành" lực lượng nồng cốt" để đối đầu với tập thể người Việt tỵ nạn Cộng Sản, mà Bùi Tín là người có khả năng tập hợp chúng lại dưới danh nghĩa" dân chủ đa nguyên cụi". Bùi Tín là con vi trùng Cộng Sản được cấy ra hải ngoại, nằm mai phục, chờ thời cơ bùng phát, gây dịch bịnh khi có điều kiện thuận lợi. Hắn phản tỉnh nhưng luôn coi lá cờ máu, sao vàng, rập khuôn ngoại bang Nga, Tàu là cờ của nước Việt Nam, lòi ra cái đuôi phản tỉnh giả, có nhiều người còn nghi ngờ hắn được đảng cài sang nằm vùng, thật là nguy hiểm. Ngoài sự đánh phá bằng tuyền thông qua những bài viết" lập lờ đánh lận con đen" mỗi khi có biến động chính trị, tin tức sôi động...thì Bùi Tín được một số cơ quan truyền thông mời phỏng vấn, viết báo.... để biện minh cho đảng ( như vụ tết Mậu Thân). Bên trong là những hoạt động giúp đảng Cộng Sản nhuộm đỏ cộng đồng tỵ nạn hải ngoại, tức là hắn vẫn" ăn cơm tự do, đội mo Cộng Sản", cút cung tận tụy đảng như ngày nào.

Theo một bài viết của Tân Phong trong tờ Văn Nghệ Tiền Phong, số 384 có nói về âm mưu bán đứng cộng đồng hải ngoại của nguyên tổng thống đệ nhị Cộng Hòa NGUYỄN VĂN THIỆU và BÙI TÍN: do sự sắp xếp, tổ chức của một thuộc cấp thân tín và trung thành với ông Thiệu là đại tá Mai Viết Triết, nên tại Paris có một cuộc họp kín, được cho là" HÒA ĐÀM PARIS 2". Tuy nhiên cuộc họp kín nầy lại bị ai đó thâu băng, lọt vào tay đại tướng Nguyễn Khánh, được gởi sang Hoa Kỳ, nên nhiều giới chức quan trọng Mỹ biết hết những toan tính bán đứng hải ngoại cho giặc Cộng qua chiêu bài" hòa hợp hòa giải", trong đó vai trò của Nguyễn Văn Thiệu như một thái tử Sihanouk của Miên, áp dụng tại Việt Nam.

Ông Thiệu là người thầm lặng, có công rất lớn giúp cho trung tướng Dương Văn Minh đánh bật quân phòng vệ tổng thống Phủ, ông Thiệu chỉ huy đánh giặc không hay bằng cầm quân đánh quân ta thì xuất sắc, đến nổi tổng thống Ngô Đình Diệm phải bỏ chạy và sau đó bị giết cùng bào đệ Ngô Đình Nhu. Nhờ vậy mà thăng quan tiến chức, thời cơ, lên là tổng thống. Sau khi ra lịnh rút bỏ quân khu 1, quân khu 2 một cách phi lý, lịnh lạc bất nhất, khó hiểu, miền Nam đang hấp hối do ông gây ra, thì ông và gia đình, thuộc cấp thân tín nỡ lòng" trở thành chiến sĩ ra khơi". Miền Nam và quân lực Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu anh dũng, nhưng tiếc thay gặp phải người lãnh đạo hèn, không quyết tâm, tham sinh quí tử nên bị mất một cách tức tưởi. Nếu để cho những vị lãnh đạo như tướng Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, thì đất nước khó lọt vào tay giặc Cộng.

Trong cuộc chiến tranh lạnh, miền Nam là đồng minh hiếm hoi bị Hoa Kỳ tháo chạy, trong khi Đài Loan, Nam Hàn, Tây Đức...vẫn đứng vững và ngày nay trở thành hùng mạnh; do đó trước khi trách Hoa Kỳ, hảy coi lại những người lãnh đạo như ông Thiệu, Kỳ..chớ đừng đổi thừa tại" đồng minh tháo chạy", những người lãnh đạo chưa tận nhân lực, chạy trước nên miền nam bị mất, trong khi hơn 1 triệu chiến sĩ vẫn kiên cường chiến đấu. Trong suốt thời gian" trở thành chiến sĩ ra khơi", ông Thiệu đóng vai luôn" chiến sĩ thầm lặng" nên ông không lên tiếng gì, có lần, hình như vào năm 1980, trước cao trào thuyền nhân đi tìm tự do, một nhà báo phỏng vấn, ông tỉnh bơ cho là:" mấy người tỵ nạn không mắc mớ gì đến tôi".

Bằng chứng là trong suốt thời gian dài, ông Thiệu chưa hề đến thăm những nạn nhân do ông và Cộng Sản gây ra tại các trại tỵ nạn. Nhưng bỗng nhiên vào năm 1997, ông Thiệu cho thành lập tổ chức gọi là:" PHONG TRÀO TÁI THIẾT VÀ XÂY DỰNG DÂN CHỦ TẠI VIỆT NAM".Đó là cái bước chuẩn bị sau khi ông thỏa hiệp qua hội đàm Paris 2 với Bùi Tín. Sau khi ra thanh lập tổ chức, ông Thiệu bò sang Hoa Kỳ định cư, chắc là để huy động những thuộc cấp trung thành để hợp cùng Bùi Tín" mưu bá đồ vương", may mắn là ông Thiệu lăn ra chết bất ngờ. Từ đó, câu nói:" đừng nghe những gì Cộng Sản nói, hảy nhìn kỷ những gì Cộng Sản làm", người ta tin là của ông Thiệu; nhưng thật ra nếu ông Thiệu nghĩ ra câu nầy thì không bỏ chạy trước.

Câu đó có người cho là của thượng tá Tám Hà, ( ???) người trong chăn biết chăn có rận nên nói ra sau khi ra hồi chánh. Ông Thiệu nghe hay hay nên nói trên đài phát thanh quốc gia và từ đó trở thành tục ngữ dành cho người Cộng Sản. Ông Thiệu thật thâm độc, đón gió trở cờ từ lâu mà người Việt hải ngoại không biết, ông Nguyễn Cao Kỳ đón gió ồn ào, nhưng không nguy hiểm bằng thứ" đón gió thầm lặng". Những kẻ ra mặt theo Việt Cộng ít nguy hiểm hơn kẻ thù dấu mặt, như các tờ báo đón gió, lâu lâu đâm sau lưng bằng những bài viết, hình ảnh như vụ chậu rửa chân bằng lá cớ vàng ba sọc đỏ vừa qua trong số báo xuân 2008 ở Little Saigon (Hoa Kỳ), nay lộ mặt thì nên có thái độ. Từ ngày nhận báo Người Việt bị đồng bào biểu tình phản đối vô thời hạn, thì ở Úc Châu, bỗng nhiên hai đài phát thanh tiếng Việt SBS ở Sydney lẫn Melbourne thường hay có lối đánh bóng, họ lất tin tức và đọc là" theo tin báo Người Việt tại Hoa Kỳ..." khiến những thính giả nghe đài bực mình và nghĩ là họ có quan hệ bí mật, liên kết với nhau?. Trên mạng lưới truyền thông, có rất nhiều tờ báo, tại sao SBS lại lấy tin từ báo Người Việt?

Bàn tay lông lá của Bùi Tín thò nhiều nơi, nhưng nó núp đằng sau bình phong" phản tỉnh" mà nhiều người ngây thơ, lười biếng suy luận không để ý. Ở tận bên tiểu bang xa xôi miền viễn Tây nước Úc ( Western Australia) có một người tên là LÊ QUANG VINH, xưng là đại úy không quân Việt Nam Cộng Hòa, nhưng đi tỵ nạn rất sớm, không biết có ở tù cải tạo hay không? Ông được coi là những người Việt tỵ nạn đến Úc đầu tiên, nên có điều kiện học hành. Lê Quang Vinh cũng không lạ gì với hội liên trường Nguyễn Đình Chiểu-Lê Ngọc Hân, là người từng được cô Ngọc Hân, trưởng đài phát thanh SBS ở Sydney đánh bóng, giới thiệu tận tình như là: người Việt xuất sắc, dù chưa được chính phủ Úc gắng huy chương.

Trong một bài báo của tờ The West Australia ( có chừng 1 triệu đọc giả) tiếng Anh, có bài của Cyril Ayris tựa là" the coup that failed" phát hành ngày thứ bảy, 20-4-2000, nói về đại úy không quân Lê Quang Vinh vào ngày 30-4-1975, ông dẫn một trung đội cố vượt qua bao chướng ngại để tới Dinh Độc Lập với ý định bắt sống Dương Văn Minh để ngăn chận đầu hàng. Người ngoại quốc nào rành về cuộc chiến Việt Nam, nghe ông Vinh biết nói tiếng Anh khá rành, xưng là đại úy kể là viết ra để nhận tiền nhuận bút hay làm hết công việc cho chủ báo. Trong bài đó, ông Vinh cố đưa lên hình ảnh" bệ rạt" của quân lực VNCH là đói khát, quần áo dơ bẩn, phải tìm nhà xin cơm; khi trung đội ông đi đến cầu Bình Lợi, thì bị chận lại bởi các đơn vị khác như thiết giáp, thế là ông phải ra lịnh cho lính làm chiếc Cầu tre để vượt sông vì không thể qua cầu. Chính vì thế mà đi trễ, nên kế hoạch bất thành. Nhưng đây là chuyện bịa, ở trên sông Saigon có sẵn tre đâu? Lính chẳng lẽ không biết vượt sông mà phải làm cầu tre cho mất thời giờ vô ích? Câu chuyện nầy như bác Ba Phi, người nói láo nổi tiếng ở vùng quê miền Nam, đến nổi Việt Cộng còn phải nể, do đó ông Lê Quang Vinh được người dân ở đây đặt tên là " Đại úy Cầu Tre".

Năm 1994, Ông Vinh có sang Âu Châu, lúc đó là phó chủ tịch ngoại vụ hội cựu quân nhân Tây Úc, có lên một đài phát thanh phỏng vấn. Ông bí mật" yết kiến" với đại tá Bùí Tín, được tặng quyển" Hoa Xuyên Tuyết" mang về khoe nhiều người. Không biết hai bên móc nối bí mật thế nào mà sau đó không lâu, ông Vinh xuất tiền cá nhân cho ra đời quyển sách bằng tiếng Anh, tựa là" DEFY THE DEATH SPIRIT" ra mắt tại thư viện Alexander, lớn nhất ở thủ phủ Tây Úc là Perth, do ông Peter Fox, bộ trưởng đa văn hóa tiểu bang chủ tọa với nhiều quan khách Úc, chính trị gia, một số người Việt, cựu quân nhân tham dự; sách nầy được phổ biến rộng rải ở Úc châu, có đăng quảng cáo trên tờ báo của hội cựu chiến binh Úc R.S.L là tờ Listening Post...sách viết theo thể loại hư cấu" fiction" nhưng bên trong lồng vào những sự kiện lịch sử trong cuộc chiến tranh Việt Nam; cho nên quyển sách nầy vô cùng tai hại, ông Vinh chỉ nói sơ sơ về tội ác của Việt Cộng thôi như là người viết khách quan nhằm thuyết phục người ngoại quốc, trong khi ông đưa ra những sự kiện làm người ngoại quốc hiểu lầm cuộc chiến chính nghĩa của quân lực VNCH và những quân nhân từng đem máu xương chiến đấu vì lý tưởng tự do đau lòng, uất hận:

- Dã man: có lần chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, dùng trực thăng ra tận chiến trường để mổ bụng lấy mật một tên Việt Cộng để chửa trị bịnh suyển cho con là Nguyễn Hữu Tài. Chuyện nầy phi lý, ông chuẩn tướng tham mưu trưởng quân đoàn 4 mà lại bay trực thăng ra chiến trường chỉ để lấy mật người? Vụ nầy nhằm trét cứt vào mặt tướng lãnh quân lực Việt Nam Cộng Hòa, là tướng ác ôn...

- Sau năm 1975, vợ sĩ quan đi làm đĩ cả đám.

Sự xúc phạm nầy khiến nhiều người phẩn nộ, trung úy không quân Nguyễn Tư, nhà văn ở Úc Châu, sau khi đọc xong quyển sách nầy, có viết một bài dài, trọn trang A 4 trong số báo Việt Luận 1055, ngày 12-1-1996. Sau đó ông Vinh về Việt Nam như đi chợ, khiến nhiều quân nhân, đồng bào nghi ngờ, và từ những năm 1995, ông đã làm công tác" DU SINH VẬN" đưa rước con cháu cán bộ du học, giúp đỡ ăn ở, đi chơi trong thời gian" trao dồi kinh sử" ở Úc. Ngày nay, theo một nguồn tin, thì ông Vinh có lập văn phòng lo thủ tục di dân, du học tại Việt Nam, tiếp tục đưa hạt giống đỏ cấy vào cộng đồng hải ngoại.

Như vậy, sự kiện nguyên tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đại úy cầu tre Lê Quang Vinh...trong vụ quan hệ tới Bùi Tín, là điều cảnh giác, không biết trong bóng tối, Bùi Tín đã tổ chức bao nhiêu" cơ sở" mạng lưới hoạt động có lợi cho đảng Cộng Sản ở hải ngoại? Bàn tay lông lá của hắn có thể đã vói khắp các nơi có người Việt tỵ nạn cư ngụ, bằng chứng là khi đi đến đâu, hắn cũng có người đón rước như một nhân vật quan trọng. Mặt nổi thì dễ nhận ra như tổ chức Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, tên mới của Nhóm Thông Luận do kỷ sư Nguyễn Gia Kiểng chủ xướng, trong đó có cả những người Cộng Sản như Nguyễn Ngọc Giao, nguyên phát ngôn viên của Mặt Trận Giải Phóng của luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Cho nên tổ chức nầy công nhận cả cờ vàng lẫn cờ đỏ, treo cờ Việt Cộng công khai tại hải ngoại.

Bùi Tín có những hoạt động bí mật, vụ bác sĩ Bùi Duy Tâm về Hà Nội với bên ngoài là" nhận tiền, hàng của Bùi Tín gởi về gia đình ở Việt Nam", nhưng thật ra là chuyện móc nối thành lập đại học Dân Lập Thăng Long, do giáo sư Hoàng Xuân Xính, tiến sĩ Sorbone làm hiệu trưởng. Đại học nầy do Pháp tài trợ từ A đến Z. Bà nầy là cháu của Hoàng Xuân Hãn, có chồng miền Nam, bà mê Bác đảng nên từ chối chức giáo sư ở đại học Paris. Không rõ chuyện này đi đến đâu, tuy nhiên, đây cũng là một trong những hoạt động bên trong của Bùi Tín.

Nhận dạng ra một tên đặc công đỏ mặc áo phản tỉnh trà trộn, người Việt hải ngoại chẳng lẽ lặng yên, để mặc cho hắn tự tung tự tác, tiếp tục phun nọc độc, tổ chức bí mật, để chờ bị tiếp thu như ngày 30-4-1975 hay sao? Xin đề nghị vài điều để hành động:

1- Đối với người tỵ nạn: tẩy chay, không đi nghe những buổi nói chuyện của Bùi Tín, dù bất cứ cá nhân, tổ chức nào mời. Các tổ chức quốc gia, đảng phái... đừng nên mời Bùi Tín tham dự bất cứ sinh hoạt nào, không nên mời hắn làm diễn giả, vì đây là tên đặc công đỏ, chứ không phải là" thượng khách" của quí vị đâu. Chẳng lẽ trong số 3 triệu người Việt hải ngoại, không có ai có đủ bản lãnh, tài năng, sáng suốt để nhận định tình hình đất nước bằng" thiên tài Bùi Tín"?

2- Các cơ quan truyền thông như đài phát thanh, truyền hình, đừng mời Bùi Tín phỏng vấn mỗi khi có biến động trong và ngoài nước. Không nên hỏi ý kiến của một tên đặc công đỏ, tức là tạo cho hắn uy tín đối với quần chúng, hắn cũng nhân dịp đó mượn diễn đàn để tuyên truyền, bóp méo sự thật một cách tinh vi trong lớp áo" phản tỉnh" Những đài nào mời hắn phỏng vấn là lộ mặt" cùng phe", tức là tự họ khai báo với đồng bào, từ đó tránh xa, không nghe, không ủng hộ quảng cáo, là đài bị mất nguồn tài chánh.

3- Các tờ báo tiếng Việt nên cẩn thận khi đăng những bài của Bùi Tín, hắn viết rất khéo, nhằm tuyên truyền cho chế độ, tung hỏa mù, dể tạo ra sự hiểu lầm. Các cơ quan truyền thông nên vạch trần những bài viết tuyên truyền, tung hỏa mùa của hắn để cho những người ngây thơ sáng mắt, tránh bị mắc lừa lần nữa.

4- Những gia đình nào từng bị Bùi Tín sát hại, họ là nhân chứng sống như ông Võ Tự Đản, hảy nhờ luật sư nộp đơn truy tố trước tòa án các nước dân chủ, đó là tội phạm hình sự như những tên sát nhân, diệt chủng Hitler, Pol Pot...nếu phát động thì đồng bào sẽ không làm ngơ, yểm trợ tài chánh để lôi ra ánh sáng những tên sát nhân, nay lợi dụng dân chủ, mặc chiếc áo phản tỉnh để tiếp tục lếu láo, đâm sau lưng nạn nhân lần nữa.

5- Riêng với Bùi Tín, tất cả đều tùy thuộc vào thái độ ăn năn hối cải thật sự, để được đồng bào khoan hồng; trước tiên hắn phải làm" tờ tự kiểm" với nhân dân, ghi ra hết những tội ác từ khi gia nhập đảng Cộng Sản đến nay. Yêu cầu phổ biến rộng rải trên các cơ quan truyền thông, đây là thướt đo lòng thành thật biết ăn năn, phản tỉnh thật. Nếu hắn vẫn ngoan cố thì nạn nhân đưa ra tòa, pháp luật các nước thường thi hành công lý công bằng, không dung tha những tên sát nhân hàng loạt như Melosevic, Nong Chia..việc đưa Bùi Tín ra trước vành móng ngựa nên thực hiện càng sớm càng tốt để cho vong linh nạn nhân được ngậm cười nơi chín suối và cộng đồng người tỵ nạn triệt hạ được một tên đặc công đỏ nguy hiểm.

Tóm lại, sự có mặt của Bùi Tín ở hải ngoại ví như" bải cứt chó" được con chó Cộng Sản phóng uế trên lề đường của một thành phố khang trang, sạch sẽ ở Tây Phương. Nên người đi bộ phải cẩn thận, kẻo đạp phải cứt chó là thúi cả chân và còn bị nhiều người khác tránh xa. Nhất là những người" mặc veston cà vạt" sang trọng, lãnh đạo hội đoàn, đoàn thể...hảy cẩn thận, đạp phải cứt chó Bùi Tín mà vào nơi sang trọng, thì mùi thúi tác hại cả môi trường đấy./.

Trương Minh Hòa


Việt Tân







Không thiêu đi, chôn đi… còn để làm gì ?



Ta vào thăm Bác, gặp Lê Nin
Người đến cùng ta ngồi với Bác
Như hình với bóng một anh linh

( thơ Tố Hữu)


Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Như một vầng trăng sáng soi muôn đời

(Viếng lăng Bác: nhạc và thơ: Hoàng Hiệp - Viễn Phương)


Tôi đi thăm Bác đúng một lần, nói chính xác là bị bắt phải đi. Lần ấy tôi không thấy Lê Nin đâu. Bây giờ mới trông thấy vị lãnh tụ đặt nền móng của CNXH theo bản thiết kế của ông Mac qua những tấm hình này
(xem dưới).


Lênin, khi có quần áo nghiêm chỉnh, đã khiến tôi, các bạn và mọi người phải chiêm ngưỡng, kính trọng, tin cẩn.

Không biết bác Hồ của ta thế nào, nhưng bác Lê Ninh trông qua những tấm ảnh dưới đây thì ghê quá. Có lẽ đem thiêu là nhân đạo nhất. Chứ nếu cứ mổ xẻ, phanh bụng, tẩm thuốc thế này… thì khiếp quá. Theo Nhà Phật duy tâm thì ông này khi sống đã làm nhiều điều thất đức quá, đâm ra khi chết không được mồ yên, mả đẹp. Nhìn cảnh này liên tưởng Ngũ Tử Tư đào mộ, quật xác vua nước Ngô để báo thù cha. Khiếp quá!


Bỏ quần áo, để “xử lý” (bảo dưỡng định kỳ)


XHCN đã có các vị thánh (như hình trên): Cụ Lê Nin, cụ Mao, cụ Kim Nhật Thành, cụ Hồ. Sắp tới, liệu cụ Fidel Castro sẽ có lăng chăng?

Trông thảm hại ghê, không hiểu còn để làm gì nữa. Tôn vinh thiếu gì cách mà mù quáng như bọn chủ nô Ai Cập. Chủ nghĩa xã hội thế này thì tư duy khác gì Ai Cập cổ đại.

Nhìn cái bụng bị phanh kìa, bị moi hết cả lòng gan, tim, phổi… giống kẻ thù bị bắt sống mổ bụng, phanh thây cho hả giận quá. Chả còn tính người gì nữa. Lãnh tụ mà chúng mày đối xử dã man thế. Chúng mày chỉ dựng cái xác này lên, khoác huyền thoại vào để lừa bịp dân, kiếm quyền lực và tài sản. Nếu vậy chúng mày khác gì bon buôn thần, bán thánh dựng đền,miếu tạc tượng rồi phao tin là thiêng lắm, linh lắm để mê muội, dọa nạt nhân dân.






Các bác sĩ không chữa người sống mà chữa người chết. Làm sao họ có thể “kính trọng, tin tưởng” cái xác này? Hãy nhìn thái độ ghê tởm của các bác sĩ đang phải làm công việc của đồ tể




Vị BS tỏ ra kinh tởm cực độ…


Nào, lại mắc quần áo chỉnh tề để cho toàn dân đến “chiêm ngưỡng, kính lạy”. Xin mời các bạn: Ta vào thăm lăng để thêm tin tưởng “chọn con đường XHCN”

Đáng thương cho ông Lê Nin. Nếu ở địa vị các bạn, có muốn khi chết được người ta ướp xác, hàng năm mổ xẻ, tắm rửa thế này không. Tai rụng ra khỏi đầu phải dùng keo gắn lại đấy.

Tốn kém bao nhiêu tiền bạc của nhân dân. Duy trì cả đội ngũ bảo vệ, máy móc, thiết bị… mỗi năm tốn hàng chục triệu đô la để làm cái gì cơ chứ. Bố mình còn chả thắp hương. Năm thì mười họa mới có việc về quê. Nay ra tận thủ đô xem cái thây này để tỏ lòng biết ơn à. Hay xem để thỏa trí tò mò xem có giống phim xác ướp Ai Cập không?

Nói thêm: Việt Nam có cả một “Bộ tư lệnh lăng” do một thiếu tướng đứng đầu.
mangykien.wordpress.com/2008/04/09/khong-thieu-di-chon-di%e2%80%a6-con-d%e1%bb%83-lam-gi/

Monday, April 14, 2008

Đau lòng nhưng phải nói

Tập thể Người Việt Tị Nạn Cộng Sản hải ngoại gọi tháng 4 Dương Lịch là Tháng Tư Đen,

Lý do: chính trong khoảng thời gian nghiệt ngã nầy quân cộng sản xâm lăng Bắc Việt theo lệnh quan thầy Liên Xô và Trung Cộng dốc toàn lực tấn công cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa, gây bao cảnh đau thương tan nát cho đất nước nói chung, và toàn thể đồng bào Miền Nam nói riêng.

Trong Tháng 4 Đen năm 2005, ở khắp nơi tại Hoa Kỳ và trên thế giới, chỉ có đảng Việt Tân (VT) muốn xóa đi ý nghĩa của ngày Quốc Hận 30-4, vì theo họ, nếu còn cho đó là ngày đau thương, tức còn hận thù và chống cộng thì không lợi cho việc làm ăn của họ với bạo quyền cộng sản trong nước, do đó nên đảng VT đã đổi lại thành ngày Đấu Tranh ChoTự Do VN; riêng toàn thể Người Việt Tị Nạn CSVN hải ngoại đều đồng loạt chuẩn bị cử hành ngày 30-4 là lễ Tưởng Niệm 30 năm Quốc Hận.

Trong khí thế đấu tranh chung đòi giải thể bạo quyền CSVN, Cộng Đồng Người Việt vùng Washington-Virginia-Maryland dưới sự điều hợp của ông Chủ Tịch Cộng Đồng Nguyễn Văn Tần, nguyên một sĩ quan Hải quân QLVNCH đã vận động thành công với Hội Đồng Thành Phố tại Vùng thủ đô Washington D.C chấp thuận cho cộng đồng Việt Nam đưa tên 5 vị tướng VNCH là: Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú và Lê Nguyên Vỹ đã tuẫn tiết vì quốc nạn ngày 30-4-75 để đặt tên cho 5 con đường tại Thương Xá Eden, một trung tâm thương mãi sầm uất tại vùng thủ đô Washington D.C.

Theo thông báo chính thức của ông Chủ tịch cộng đồng Nguyễn Văn Tần, ngoài cuộc tập trung của nhiều cộng đồng VN biểu tình phản đối trước sứ quán CSVN tại Washington D.C, còn có một buổi lễ truy điệu các Chiến Sĩ VNCH sẽ được long trọng tổ chức vào tối thứ Bảy 30-4-05 tại Thương xá Eden, đặc biệt để vinh danh các vị tướng lãnh được lấy tên đặt cho các đường tại đây. Quả thật đây là một tin vui đầy phấn khởi cho cộng đồng người Việt hải ngoại nói chung và cho các cựu quân nhân QLVNCH nói riêng.Tuy nhiên, bên cạnh niềm vui và lòng tự hào đó, chúng tôi vì danh dự quân đội buộc phải lên tiếng thông báo cho đồng bào biết về một số hành vi bất xứng của một thiểu số quân nhân dưới đây đã làm tổn thương danh dự của quân đội:

  • 1-/ Tên đào ngũ với lập trường bất nhất.

Chúng tôi muốn nhắc đến Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Xuân Vinh, một nhân vật mà đa số cựu quân nhân QLVNCH gọi là một tên lính đào ngũ, lý do: Là Tư Lệnh Không Quân, bị thất sủng nhưng may mắn được chế độ Đệ I Cộng Hòa ưu đãi, thay vì bị kết tội lại được cho du học; thành công lại không về trình diện phục vụ Quân Đội vẫn tiếp tục trốn ở ngoại quốc kiếm sống. Do háo danh và xa rời đất nước quá lâu nên mù tịt về chính trị, vì thế đã chui vào giữ chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Đại Diện của Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Hải Ngoại, một tổ chức do đảng Việt Tân (VT) tài trợ. Gần đây, vì bất bình đã loan báo là rời chức vụ Chủ Tịch nhưng lại giao toàn quyền cho Đoàn Hữu Định, nguyên là một sĩ quan cấp nhỏ của Lực Lượng Đặc Biệt, hiện là một cán bộ cao cấp của đảng VT.

Điều đáng nói, và nhiều người do thế đã nặng nề chỉ trích ông Vinh là một tên háo danh, một kẻ không có lập trường, tiền hậu bất nhất.

Lý do: cả 2 phía chính tà đều có mặt ông.

Số là trong bản Tuyên Bố của Khối Lập Trường Chung, tiếng nói của 334 nhân vật đủ mọi giới thuộc Làn Ranh Quốc/Cộng mà trong đó có Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, một trong 8 nhân vật đại diện nổi tiếng của Khối ký tên, và được phổ biến rộng rãi ngày15-02-05 có nội dung: ngoài việc nặng nề lên án ông Thích Nhất Hạnh là một ngụy tăng, một gian tăng, khoác áo nhà tu mà có nhiều hành động và ngôn ngữ phục vụ cho những ý đồ đen tối của bọn độc tài khát máu cộng sản; bản Tuyên Bố còn kết tội đảng CSVN vì bán nước cầu vinh nên 9 ngư dân VN mới bị bọn Trung Cộng giết, một số bị thương và bị bắt đi; đồng thời Bản Tuyên Bố đã nặng nề kết án đảng VT trong vụ đổi ngày Quốc Hận 30-4 thành Ngày Tự Do Cho VN, nhưng khi bị đồng bào phê phán lại đổi thành Ngày Đấu Tranh cho Tự Do VN dự trù được tổ chức vào ngày 30-4-05 tại thủ đô Washington; Bản Tuyên Bố cũng triệt để tán dương những đoàn thể, cộng đồng và cá nhân có thái độ dứt khoát, quyết liệt lên tiếng vạch trần chống đối lại âm mưu đen tối của đảng Việt Tân nói trên.

Tất cả những ai công nhận lẽ phải, và có lập trường quốc gia đều hoan hỉ khi biết ông Vinh dứt khoát rời bỏ chức vụ Chủ tịch Tập Thể và ký tên trong Bản Tuyên Bố; nhưng lại có một điều quái đản xảy ra: một mặt thì ông ký tên trong Bản Tuyên Bố lên án hành động của đảng VT trong việc đổi ngày Quốc Hận thành Ngày Đấu Tranh cho Tự Do VN, mặt khác, ông lại tới Washington D.C để chủ tọa buổi lễ truy điệu các chiến sĩ VNCH do Tập Thể Chiến Sĩ (mà nhiều người nói là một cơ quan ngoại vi của đảng VT) tổ chức tại Bức Tường Đá Đen, nơi vinh danh 58,000 vị anh hùng Hoa Kỳ vì chiến đấu cho Tự Do đã bỏ mình trên chiến địa VN.

Tổ chức lễ truy điệu để vinh danh các chiến sĩ VNCH và Hoa Kỳ tại Bức Tường Đá Đen là một việc làm đáng hoan nghênh, nhưng hành động đó không đúng thời và đúng lúc.

Lý do: Trong lúc toàn thể cộng đồng Người Việt hải ngoại tập họp nhau tại Thương Xá Eden để long trọng vinh danh những vị anh hùng QLVNCH đã Vị Quốc Vong Thân, được chính quyền Hoa Kỳ chấp thuận đặt tên cho những con đường trên đất nước của họ, một vinh dự lớn lao như thế cớ sao Tập Thể Chiến Sĩ lại không cùng chung tham dự với cộng đồng, mà lại riêng rẽ đến một nơi do những người đang tình nguyện xin làm tay sai cho cộng sản tổ chức để tham dự.

Kính mong quý vị xét lại, hành động riêng rẽ như thế liệu có hợp tình và hợp lý không? Tại sao Tập Thể Chiến Sĩ không cùng với Cộng Đồng cùng nhau tập trung tại Thương Xá Eden để vinh danh các chiến sĩ VNCH, rồi sau đó cử một phái đoàn đại diện đến Bức Tường viếng thăm các vị anh hùng Hoa Kỳ thì đẹp biết bao, đó không những là một nghĩa cử cụ thể để nhớ công ơn các chiến sĩ đồng minh, đồng thời biểu lộ tinh thần đoàn kết thân ái giữa quân và dân, giữa Tập Thể Chiến Sĩ VNCH với toàn thể Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại. Phải chăng các vị bị một ai đó kềm kẹp khống chế, hay thấy mình không xứng đáng, từng có nhiều hành động gian manh, bịp bợm và đào ngũ nên sợ Thánh vật (Mấy tướng tuẫn tiết linh hiển lắm) nên không dám chường mặt tới Thương Xá Eden. Chắc không phải quý vị không biết, lại không phải sợ, nhưng vì phải thi hành Nghị Quyết 36 của CSVN, là tìm cách gây rối, xé nát cộng đồng Người Việt thành nhiều mảnh nên mới có hành động gây chia rẽ như vậy.

  • 2-/ Tướng Quản Lạc và Tướng hề

Thật sự chúng tôi không nên lạm bàn đến những vị anh hùng sa cơ lỡ vận như các tướng lãnh VNCH, nhứt là giới quân nhân như chúng tôi, dù sao trước đây những vị đó vốn là các cấp lãnh đạo quân đội, rường cột của quốc gia. Tiếc thay một số ít lại quá kém và thiếu nhân cách, không hiểu được cái đạo làm tướng, buộc lòng chúng tôi phải nói lên sự thật, kính mong quý độc giả hỉ xả và xin đừng bao giờ nhắc đến những việc làm sai trái của họ, đặc biệt là thời gian họ bị đày đọa trong gông cùm CSVN.

Ai cũng rõ, là sau khi tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho quân đội đầu hàng, bọn CSVN đã thẳng tay trả thù và trắng trợn chà đạp gia đình các cấp Quân-Cán-Chính VNCH một cách tàn nhẩn, đặc biệt là cấp tướng lãnh. Tại trại giam Suối Máu, nơi bọn cộng sản nhốt hàng ngàn sĩ quan các cấp, chúng tôi vô cùng đau xót khi lần đầu thấy 2 vị tướng bị bọn cai tù trong trại giam bắt đi hốt phân người, mối thù truyền kiếp đó tưởng là không thể bao giờ quên được. Không ngờ, thoát khỏi ngục tù cộng sản, đến bờ tự do, thì một vài người trong hàng ngũ nầy lại muối mặt nhận đi làm tay sai cho CSVN.

Nhiều chiến hữu trẻ trong lúc mạn đàm đã than: Trong 30 năm qua, chưa thấy có một ông tướng nào làm được một điều gì có lợi cho đất nước; toàn là đóng cổng rút cầu, mũ ni che tai, họa chăng có một ai đó nhào ra mần công chiện thì chẳng qua để bịp như tổ chức kháng chiến ma, chiến khu giả mà kiếm ăn; hoặc để đóng những vai hề trên sân khấu chính trị nhiễu nhương tại hải ngoại, tỉ như tưởng thật lại nhận mang sao giả, hoặc đóng vai tổng, bộ trưởng trong các chính phủ lưu vong cuội.

Chúng tôi thắc mắc tự hỏi tại sao 2 tướng Lê Minh Đảo và Lý Tòng Bá lại có mặt trong buổi ra mắt đảng Việt Tân tại Berlin? Biết rõ dù họ là đảng viên VT, nhưng ít ra họ còn đôi chút liêm sỉ, ngoài ra phải giữ thể diện cho Quân Đội.

Lý do: ai cũng biết, MTHCM rồi đổi thành đảng VT, trước sau là một tổ chức từng gây nhiều tai tiếng trong quá khứ, và trong hiện tại thì đang vận động để trở thành đối lập cuội cho CSVN, vì thế họ phải chọn Berlin, nơi có cảm tình viên của CSVN yểm trợ mới dám ra mắt, thế mà mấy ông tướng nầy là đại diện Tập Thể Chiến VNCH chường mặt đến tham dự quả thật là một hành động đáng trách.

Trong buổi gặp mặt tại Paris ngày 29-3-05 do cựu đại tá Mai Viết Triết, một người từng đề cao CSVN có công thống nhứt đất nước tổ chức; tướng Lê Minh Đảo khi bị chất vấn đã cương ẩu rằng: Vì bọn chúng nó quá sợ tôi nên mới chống đối tôi. Xin ông tướng xét lại thái độ và cẩn thận lời nói. Ai sợ ông? Ông là cái gì mà người ta phải sợ? Phải chăng người ta sợ cái tài nịnh bợ của ông? Ông nên sờ gáy và tự vấn là tại sao người ta tặng cho ông cái mỹ danh là tướng quạt. Vì danh dự quân đội chúng tôi đành phải nín lặng không dám nói thẳng. Mong ông cố giữ liêm sỉ cho chúng tôi nhờ.

Cũng trong dịp nầy, tướng Đảo lại khua môi tuyên bố: Không bao giờ có chuyện hòa hợp và hòa giải với CSVN. Phát biểu mới nghe thấy rất chí lý, được cử tọa trong đó có bác sĩ Hoàng Cơ Lân, một vị thầy thuốc nổi tiếng có mặt, tin tưởng và cho rằng tướng Đảo có lập trường. Khốn thay, tướng Đảo cũng như một số đông chính khách và trí ngủ ở hải ngoại tỉ như Lê Xuân Khoa v.v đã mấy ai hiểu rõ được từ ngữ Hòa Giải&Hòa Hợp theo thâm ý của cộng sản.

Theo xuất xứ thì từ ngữ Hòa Giải&Hòa Hợp xuất phát từ Hiệp Định Paris trong đó nói rõ, nhiệm vụ hòa giải là các bên tham chiến sẽ cùng nhau giải quyết mọi tranh chấp, mọi mâu thuẫn sẵn có, và sau khi đã san bằng tất cả những hố dị biệt, bất đồng, các bên sẽ cùng nhau thỏa thuận và hòa hợp với nhau để tìm một con đường chính trị thích hợp cho Miền Nam Việt Nam. Ý nghĩa là như thế, nhưng CSVN lại diễn dịch theo ý chúng: Hòa Hợp là nhập chung vào hàng ngũ cộng sản. Còn Hòa Giải thì còn khuya, mấy anh lấy gì mà đòi hòa giải. Chủ trương của CSVN hiện nay là: Thắt chặt bên trong, nới lỏng bên ngoài, tức là chỉ Hòa Hợp&Hòa Giải với hải ngoại để kiếm chất xám,(trí thức) chất xanh (đô la), còn trong nước thì sẵn sàng vặn họng bất cứ ai đi ngược đường lối.

Trước 1975, có câu Vừa đánh vừa đàm, có nghĩa là cả 2 bên phải có sức mạnh, đánh nhau ngang ngửa và trầy vi tróc vảy mà không thắng được đành phải họp bàn để chia chác. Trong hiện tại, thử hỏi đã mấy ai có thực lực, được mấy tổ chức đã kết tụ để có sức mạnh, nếu có chăng là để bịp thì lấy đâu đủ Lực để nói chuyện với CSVN. Hơn nữa, tầm cỡ và hiểu biết như tướng Đảo, một kẻ quá mù tịt về chính trị thì không nên nói những gì mà mình không biết để cộng sản nó cười chê.

Là một người từng là cấp lãnh đạo quân đội mà không chịu nghiên cứu học hỏi căn bản chính trị sơ đẳng; vì thế lúc còn bị nhốt trong trại ông ta từng phát biểu: Sao tôi bị giam giữ lâu như thế nầy, tôi đâu có làm chính trị như mấy ông đảng phái.

Khi được bọn mánh mung vận động cho đứng đầu Tập Thể Chiến Sĩ, ông lại vung vít : Tập Thể Chiến Sĩ không làm chính trị. Xin hỏi ông tướng, không làm chính trị thì tập họp để làm gì?

Phải chăng lại tình nguyện đi làm lính đánh thuê hay trở thành băng đảng? Chọn một thế đứng, lựa một lằn ranh, tỉ như chọn vị trí đứng vào Lằn Ranh Quốc/Cộng đã là một thái độ chính trị; huống hồ là một tập thể lớn như Cựu Quân Nhân QLVNCH cũ, tuy vì yếu tố thời gian, vì tuổi tác hơn nữa do hoàn cảnh chính trị mà chưa kết họp được, nhưng đây là thành phần cốt cán của đội quân đã một thời vang bóng; nếu được cấp lãnh đạo có khả năng, đủ tầm vóc hướng dẫn, đồng thời được quản trị giỏi, Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Hải Ngoại sẽ là nơi giữ lửa cho thế cứu nước và giải trừ nạn CSVN trong nay mai. Chúng tôi ủng hộ Tập Thể Chiến Sĩ, vì đâu có tập họp, thì ở đó sẽ tạo được sức mạnh; chỉ cần 1/3 chiến hữu của Tập Thể còn nghĩ đến vận nước tự nguyện đóng góp, giúp công giúp của là đủ giữ cho tổ chức vững mạnh mà chẳng cần một ai tài trợ để bị họ giựt dây, vì Ai chi tiền thì người đó chỉ huy. Chúng tôi không thể chấp nhận những cấp lãnh đạo bất tài, vô liêm sỉ và quá ấu trĩ chính trị, hơn nữa bị lệ thuộc vào bất kỳ một đảng phái chính trị nào, ở vị trí đứng đầu Tập Thể Chiến Sĩ.

Ước mong rằng, trong lúc toàn thể cộng đồng Việt Nam hải ngoại đang chuẩn bị tập họp tại thủ đô Washington D.C để truy điệu các chiến sĩ VNCH, đặc biệt là vinh danh các vị tướng lãnh được chính quyền Hoa Kỳ chấp nhận cho đặt tên đường trên đất nước họ, thì cầu mong những vị tướng lãnh có thực tài, thực đức, còn đủ sức lực hãy lên tiếng hoan nghênh và ủng hộ cuộc tập họp nầy, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng, can đảm hy sinh đứng ra gánh vác trọng trách hướng dẫn các chiến sĩ VNCH, tránh đi cảnh mấy viên tướng Quản Lạc đóng vai hề trên sân khấu chính trị rẻ tiền, làm trò cười cho đồng bào và người địa phương.

Phùng Ngọc Sa
.

Saturday, April 12, 2008

Nạn Đói Năm Ất Dậu 1945

Hương Vinh

Bối Cảnh Lịch Sử


Năm Ất Dậu 2005 đánh dấu 60 năm chẵn, kể từ khi nạn đói khủng khiếp xảy ra vào đầu năm Ất Dậu 1945. Vì nạn đói khủng khiếp đó xảy ra trong khung cảnh thế chiến II nên không một tài liệu nào được lưu lại. Ngay cả số người chết đói cũng không để lại một dấu vết thống kê nào. Những ý kiến của các học giả ghi nhận dưới đây phần lớn phát xuất từ ký ức hay nghe những người đáng tin cậy kể lại. Tất cả những vị nầy lúc thiếu thời đã kinh qua nạn đói đó. Và những điều họ trích dẫn - nhất là tổng số người chết đói - mức độ chính xác đến đâu cũng không thể kiểm chứng được.

Cả miền Bắc Việt-Nam lúc bấy giờ - khoảng cuối năm 1944 đến giữa tháng 5 năm 1945 - đã phải gánh chịu quốc nạn nầy. Số người chết đói ước độ trên dưới hai triệu người, so với khoảng gần hai mươi lăm triệu đồng bào lúc bấy giờ, tức gần một phần mười dân số. Riêng đối với Bắc kỳ vào thời điểm đó có trên sáu triệu dân: như vậy tỷ lệ số người chết đói lên đến một phần ba. Ai là người chịu trách nhiệm về tội ác ghê gớm nầy?

Thi sĩ Bàng Bá Lân (1) đã ghi lại cảnh chết đói kinh hoàng đó như sau:

"Năm Ất Dậu tháng ba còn nhớ mãi
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường,
Rồi ngã gục không đứng lên vì…đói!"

Trong thiên hồi ký ngày 12-11-2004 (2) viết tại Dayton, Ohio, giáo sư Đỗ Hữu Nghiêm đã ghi nhận:

Kỷ niệm 60 năm nạn đói khủng khiếp 1945 mà dân chúng Việt-Nam ở đồng bằng Bắc kỳ phải gánh chịu, chúng ta cũng nên ôn lại sự kiện đau thương đó đối với số phận đất nước trong bối cảnh Thế Chiến II (1939-1945). Ngoài nạn đói, cộng đồng Việt-Nam còn phải chịu biết bao tai ương khác như một cổ đôi tròng (Pháp-Nhật), các lực lượng phe phái kháng chiến tranh giành ảnh hưởng, bom đạn khắp nơi của các bên lâm chiến (quân đội Đồng Minh và Phe Trục), mối đe dọa hằng năm của cảnh lụt lội và vỡ đê ở hệ thống sông Hồng. Có lẽ trong lịch sử, chưa bao giờ dân Việt lại chịu một tai nạn thảm khốc như thế về số người tử nạn và qui mô của vùng bị tai nạn.

Nếu nói trận đói năm Ất Dậu là một tai nạn nhân văn, chết người tập thể vô tiền khoáng hậu cũng không ngoa, vì có lẽ chỉ thua kém những thiệt hại về nhân mạng và tài sản của cuộc chiến hai phe Quốc-Công từ năm 1945-1975, trải dài 30 năm. Nhưng về số người bị nạn xảy ra trong một thời gian kỷ lục thì sự kiện Nạn Đói năm Ất Dậu vẫn độc nhất vô nhị cho đến nay.

Diễn Tiến Quy Mô Nạn Đói

Tình hình chung ở miền Bắc Việt-Nam

GS Lưu Công Thành cho biết những tháng đầu năm 1945, trên các nẻo đường chính ở những đô thị lớn tại miền Bắc, hằng đoàn người già trẻ, lớn bé thất thểu dắt díu nhau đi cầu thực, tất cả chỉ còn da bọc xương…Ở một vài nơi có Hội từ thiện tổ chức phát cháo cứu trợ, nhưng có người nhận cháo rồi vẫn lăn ra chết vì quá kiệt sức! Thật là một cảnh tượng thương tâm…

Thời điểm xảy ra nạn đói nhằm vào mùa đông nên cứ mỗi đêm sáng ra lại có thêm rất nhiều người là nạn nhân của tử thần. Người chết nhiều đến nỗi Sở Vệ Sinh và Bệnh Viện thành phố phải thuê xe bò đi hốt xác và cho nhiều đơn vị tư nhân đấu thầu việc nầy. Hậu quả là dân chúng một số nơi đó gần như giảm đi quá nửa, một phần chết đói tại sinh quán, một phần bỏ làng ra đi rồi không bao giờ trở về nữa.

Tất cả dẫn đến tình trạng thiếu hụt sức lao động và ruộng canh tác bỏ hoang rất nhiều. Chăn nuôi cũng bị ảnh hưởng nặng, gia súc (kể cả chó) không còn bao nhiêu do bị giết chết để lấy thịt! Thậm chí có một số câu chuyện kể lại đã có hiện tượng bắt cóc trẻ con để lấy thịt. Một nhân viên tại Sở Cảnh Sát Hải Phòng thừa nhận như vậy, tuy nhiên chính quyền không xét xử công khai vì sợ lòng dân hoang mang.

Những người đói rách đi nhan nhản kiếm ăn vì thiếu đồng ruộng canh tác, thiếu lúa gạo, rồi dần dần chết lả vì đói ở các cánh đồng và đường làng khắp nơi trong các tỉnh phường xã làng xóm ở nông thôn và thành phố. Có nơi, người đói còn vào cướp phá kho chứa lúa gạo của người giàu trong làng. Ngoài người cư ngụ sinh sống từ trước tại vùng đồng bằng miền Bắc, còn có nhiều người từ miền Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đi ra ăn xin.

Nạn đói ở Hà Nội

Theo GS Đỗ Hữu Nghiêm thì tại Hà Nội, nhiều xác người chết đói nằm ngổn ngang trên các đường phố. Mỗi sáng sớm người ta phải đem xe bò chở những xác chết đó đi chôn. Có người đi ăn xin, đói lả giữa phố, đêm đến, nằm dựa lối cửa ra vào hay bờ tường các căn phố. Nhiều người sáng sớm vừa mở cửa thì xác chết đổ kềnh sang một bên, có khi ngã lăn vào phía bên trong nhà, khiến người nhà kinh hồn khiếp vía!

Ở Tràng Tập Hà Nội có khoảng 120 chú chủng sinh, các chú được nhà trường cho ăn mỗi ngày chỉ có một bữa tạm no với môt chén cơm đầy, còn hai bữa kia, ăn cháo với cám xay. Có chú tuy đói, nhưng cũng không chịu ăn cám, vì khó nuốt, đã đổ đi hết. Thực ra Ban Giám Đốc Tràng Tập cho các chú ăn cháo với cám, vì muốn cho có đủ chất bổ do cám mang lại.

Tình hình đói ở Hà Nam

Tại quê quán của GS Đỗ Hữu Nghiêm là làng Hòa Khê, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, khu vực giáp ranh với huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Đông, cách Hà Nội 45 cây số, bày ra cảnh thương tâm của những người đói ăn, thiếu ruộng cày, phải đi lang thang xin ăn. Khi không thể xin ăn được, người đói lả nằm ngã lăn bừa bãi khắp nơi ở giữa hay bên đường, trên đồng ruộng, trước cửa nhà, đủ kiểu mòn mỏi, rồi chết tất tưởi trong tình cảnh tứ cố vô thân, rách rướị Số người chết đông đảo đến nỗi chôn không xuể, khiến bị nhiễm trùng và có nơi đã bị ôn dịch.

Ở bên kia con sông đào đầu làng Hòa Khê, nối sang đồng ruộng là Tè Mũ, Mai Trang, Thần Nữ có một cây cầu trẹ Rất nhiều người chết la liệt ở cả hai bên sông. Những người còn khỏe mạnh rủ nhau đi sang bên đó thu lượm những xác chết còn lại, đào vội một hố lớn không sâu lắm ở cạnh cầu và đem chôn vùi như ma đuổi trong chiếc hố tập thể. Trong số đó có cả những người còn ngắc ngoải, chưa chết hẳn, còn rên lên: "Đừng chôn sống chúng tôi, để chúng tôi chết hẳn đã". Bất chấp những lời than vãn đó, những người còn khỏe mạnh cứ lấp đất vội vàng trên những thân thể còn chút hơi sống đó và tiếng kêu chỉ tắt hẳn cho đến khi những tảng đất định mệnh bên bờ sông được lấp đầy!

Hình ảnh đó ám ảnh đám trẻ con nhiều tháng trời và mùi hôi trong nấm mồ tập thể xông lên…đến tận giấc mơ hãi hùng trên giường ngủ, trong những câu chuyện rùng rợn hù dọa nhau trên cửa miệng mọi người hằng ngàỵ Những người giàu tưởng tượng còn đe dọa nhau, kể chuyện nghe thấy những tiếng khóc nỉ non rưng rức của oan hồn những người bị chôn sống mỗi lần đi qua cây cầu tre vắt ngang qua con sông đào cô quạnh đó.

Cũng đầu cầu tre bên làng, có một thanh niên gần chết nằm im lìm đầu xóm ngay giữa ngã ba đường vì không còn hơi sức cử động. Đám trẻ tinh nghịch trong làng chạy đến xúm xít bu quanh xem người nằm đói đang hấp hối. Đó là một thanh niên còn trẻ nhưng trông như một ông già, quần áo tả tơi, rách nát, nhăn nheo, chỉ còn da bọc xương, để lộ cả phần thân mình phía dưới. Một đứa trẻ tinh quái, nghịch độc, bẻ một cành tre rồi đâm thọc. Thân thể đáng thương kia chỉ giật giật nhè nhẹ, chắc có vẻ đau đớn mà không phản ứng gì được. Một chú bé đứng gần đó bịt mặt, với đôi mắt đỏ hoe sợ hãi vội quay đi, chạy trốn về nhà.

Cảnh đói ăn ở Thái Bình

Giám Mục Bùi Tuần kể lại (3): chiều hôm ấy, đi bộ từ Thái Bình về Thượng Phúc. Đường vắng, thỉnh thoảng gặp những thân người tuy ốm o, lê bước, ngẩn ngơ, mệt mỏi, đi kiếm ăn. Họ đi một mình hay đi chung gia đình, tìm bới kiếm ăn ở những đám cỏ hay những đống rác bụi cây.

Đến gần một bờ sông, Giám Mục Bùi Tuần thấy ba người gầy guộc nằm bất động. Một phụ nữ trẻ tuổi tuy đã chết, tay vẫn còn ôm đứa con nhỏ cũng đã chết, nhưng miệng vẫn còn ngậm vú mẹ. Một người đàn ông trẻ tuổi nằm sát bên đứa nhỏ đã chết, nhưng tay anh như đang cố với tìm chiếc chiếu rách cạnh bên, để đắp cho vợ con. Anh ngấp ngoái chết!

Theo GS Lê Văn Lăng, vào thời điểm đó Thái Bình được mệnh danh là "vựa lúa" của miền Bắc với những cánh đồng "cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi". Nhưng trớ trêu thay, chính ở trên mảnh đất phì nhiêu đó, cái đói đến với tầng lớp "lê dân" mới thật dữ dội kinh khiếp nhất, vượt quá sức chịu đựng bình thường của con ngườị Tất cả những gì ăn được người ta đã ăn hết rồi, đến lượt gia súc chó mèo cũng phải "hy sinh" cho bao tử của chủ.

Sau khi không còn gì bỏ vào bụng nữa, người dân lam lũ bắt đầu ùn ùn kéo nhau vào trung tâm thị xã với áo quần rách rưới. Có người gần như trần truồng, vì đã bán những bộ áo quần lành lặn để đổi lấy gạo ăn. Cái đói cái rét như cắt thịt thúc giục họ tiến bước về phía trước. Những người đói quá lả gục xuống để rồi không bao giờ trỗi dậy nữa. Hai bên đường, thây người chết đói ngã ra như rạ. Dù vậy, họ vẫn đổ xô về thị xã Thái Bình bất chấp một vòng đai linh tráng bao quanh khu vực thị xã ngăn cản.

Thời điểm đó, GS Lê Văn Lăng dạy học ở trường tư thục Pascal. Hôm nào đến trường, giáo sư cũng nhặt được hai ba xác trẻ em đã chết cóng từ đêm trước và cùng với học sinh, mang đi chôn sau trường.

Nạn đói ở Kiến Xương

Một hôm, GS Lê Văn Lăng đi qua Kiến Xưong, bắt gặp một người đàn ông có dáng dấp lực điền đang gánh một gánh khá nặng, phía trên đậy một chiếc nón lá rách. Bỗng nghe có tiếng như âm thanh của trẻ sơ sinh. Thì ra trong thúng có khoảng chục em bé mới sinh còn đỏ hỏm mà vài đứa đã chết. Người đó gánh chúng từ một vùng làng xa xôi định đến Duyên Hà gởi cho các bà phước từ thiện chuyên nuôi trẻ em mồ côi ở cách đó ba mươi cây số. Nhưng nhà nuôi trẻ đã đóng cửa từ lâu!

Tại chợ Kiến Xương lúc bấy giờ, rất nhiều xác chết nằm la liệt, trong số đó có một phụ nữ đã chết không biết từ bao giờ, nhưng đứa con vẫn còn sống, đang bám vào ngực mẹ mà bươi bươi đôi vú một cách cuống quýt rồi nhai lấy nhai để không thôi. Sau đó vài giờ em bé cũng chết, để theo kịp mẹ về nơi chín suối hầu thoát khỏi cuộc đời khổ đau nầy!

Một bữa nọ GS Lê Văn Lăng có dịp đi ngang qua Cầu Bo thấy có vẻ khác lạ ở đầu cầu, người ta tò mò đến xem. Thì ra có khoảng ba bốn gia đình đang luộc thịt những người hàng xóm để ăn, xương tay xương chân vứt ngang bên cạnh!

Ban đêm mùa đông rét mướt lạnh lẽo, thỉnh thoảng nghe tiếng ré lên của trẻ con. GS Lê Văn Lăng phóng vội ra ngõ với cây đèn bão trên tay, bắt gặp xác đứa trẻ bị người lớn hút máu nóng với que tre cắm trong cuống họng.

Cảnh phát bánh chưng ở Thái Bình

Một ông phú hộ trong vùng giúp cho nhóm từ thiện của GS Lê Văn Lăng mười tạ gạo nếp để gói bánh chưng phát cho những người đói ăn, nhân dịp Tết nguyên đán 1945 gần kề. Rồi có nhiều người tham gia, kẻ góp của, người giúp công… để làm việc lợi ích cho cộng đồng. Chiến dịch "làm và nấu bánh chưng" thu hút hơn 500 người tự nguyện gói bánh chưng và đã "sản xuất" được hơn 6.500 bánh mà mỗi bánh nặng khoảng một kilô.

Sau khi công việc nấu bánh chưng hoàn tất thì chuyện nhỏ "phân phát bánh" cho những người thực sự đói ăn đã trở nên một vấn đề nghiêm trọng. Người ta nghĩ cách đem bánh chưng ra khu nghĩa địa rồi chỉ mở hé cổng cho từng người vào thôi. Người nào được phân phát bánh chưng sẽ đánh dấu + trên tay. Ban đầu công việc có vẻ suông sẻ và trật tự, vì chưa có nhiều người biết.

Nhưng độ nửa giờ sau, thật quá đỗi kinh hoàng khi nghe thấy tiếng chạy của hàng ngàn người từ các làng lân cận kéo đến, vừa chạy vừa la: "Phát bánh chưng chưa! Phát bánh chưng chưa!" với âm thanh ồn ào và náo nhiệt chưa từng thấy. Họ leo tường vào nghĩa địa một cách chóng vánh. Rồi hàng nghìn người chen chúc dẫm đạp lên nhau và dẫm lên cả bánh chưng. Tiếng người gọi nhau ơi ới lẫn tiếng khóc thét của trẻ con trong khu vực nghĩa địa mênh mông đó.

Khi đám đông rút đi, dưới mặt đất nào là bánh chưng bị dẫm đạp nát nhoẹt, có vài ba xác trẻ em bị chèn đè dẫm đạp đến chết. Khi còn lại vài bánh chưng người ta phát cho các em quá đói, gầy gò trần trụi đứng ngoài giơ tay xin. Chúng vồ lấy ăn ngấu nghiến cả lá gói.

Lúc bấy giờ các nhà giáo phải nhờ đến ông Đốc Quýnh là một viên quan trông coi về giáo dục toàn tỉnh Thái Bình. Sáng hôm sau, ông Đốc Quýnh đóng bộ veston cà vát cẩn thận có batoong bên cạnh, còn bà vợ thì mặc áo dài. Hai người đi trên hai chiếc xe kéo rất sang trọng và chất lên mỗi xe độ 50 bánh chưng rồi lên đường trực chỉ các làng xa xôi ở ngoại thành. Khi chỉ đi ra ngoại thành được non nửa cây số, xe của quan Đốc và phu nhân bị đám đông níu kéo lại.

Khi nghe tiếng la réo: "Phát bánh chưng! Phát banh chưng!" vang lừng từ đầu thôn đến cuối xóm, quan Đốc điên tiết lên, dùng batoong phất lia lịa vào đám đông để mở đường. Nhưng xe vẫn không thể nào tiến đi được vì bị bao vây bởi hàng trăm con người rách rưới đói khát đã lâu ngày. Họ dẫm đạp, chen lấn, dày xéo lên nhau để cướp giật bánh chưng.

Khi tàn cuộc "phát bánh chưng bất đắc dĩ", hai chiếc xe kéo sang trọng đã bị gãy nát thảm thương. Hai ông bà quan Đốc thì quần áo rách bươm, măt mày bùn đất bê bết ngao ngán lắc đầu. Bánh chưng thì rơi nhão nhoẹt lẫn với bùn đất. Anh đánh xe thì mặt mũi bầm tím, cộng thêm xác vài ba đứa trẻ kiệt sức vì bị dẫm đạp trong cơn hỗn loạn. Kể từ hôm đó không ai thấy tăm dạng ngài Đốc Quýnh đâu nữa.

Tình hình nạn đói ở Ninh Cường

Ninh Cường cách Trung Linh, Bùi Chu khoảng hai mươi cây số đường bộ, nằm ở giữa vùng Đồng Bằng Bắc Việt. GS Đỗ Hữu Nghiêm cho biết, theo lời kể lại của linh mục Vũ Minh Thái: ở Nhà Chung Ninh Cường lúc đó mọi người chỉ được ăn một bữạ Trên nhiều đường trong bờ ruộng làng, Nhà Chung cùng với dân làng đựng lên nhiều lều tranh tạm trú cho những người từ các làng quê kéo đến xin ăn. Lúc đó quân đội Nhật, dưới áp lực súng ống lưỡi lê, ra lệnh cho tất cả các nông gia phải đóng thuế bằng hiện vật, tức phải gánh hết thóc trong nhà đổ vào các kho chứa của nhà nước.

Có cả trăm người lết đến khu vực Nhà Chung Ninh Cường tạm trú trong các lều tranh bên vệ đường có dựng lều. Nhà Chung cho nhà bếp nấu cháo, phân phát cho những người đói ăn. Có người ăn được bát cháo hôm trước thì hôm sau lăn đùng ra chết. Người chết xếp chồng lên nhau cả hàng chục hàng trăm không đếm cho xiết.

Người trong làng, ai còn khỏe mạnh thì thường rủ nhau ra cánh đồng đào những hố lớn rồi ném chôn vùi xác chết xuống vội, lấp đất sơ sài, vì số người chết quá đông chôn không kịp. Mùi hôi thối của xác chết bốc lên nồng nặc mấy tháng trời.

Một kịch bản thảm thương, nghịch lý, nhưng lại rất khoa học xảy đến trước sự chứng kiến của những người còn cơ may sống sót, nhất là các nông dân: các vụ trồng lúa năm sau lại tươi tốt và thu hoạch nhiều vô số kể hơn bao giờ hết, chắc nhờ nhiều xác chết đã thối rữa thành phân bón hảo hạng cho đồng ruộng ngập nước!

Nếu người Nhật Bản còn thống trị châu Á Thái Bình Dương sau ngày 15/8/1945, thì chính họ phải trở thành những kẻ khai thác xác người tinh vi tàn bạo chẳng khác nào quân phát xít Đức khai thác các mạng người trong thế chiến thứ II ở các trại giam và lò thiêu người bên châu Âu!. Ngày 28/01/2005 vừa qua đánh dấu 60 năm chẵn kể từ ngày 28/01/1945 là ngày mà quân đội Đồng Minh đổ bộ lên Âu châu để giải phóng dân chúng nói chung và nhất là người Do-Thái nói riêng khỏi nạn diệt chủng do bọn quân phiệt Đức chủ xướng.

NGUYÊN NHÂN XẢY RA NẠN ĐÓI NĂM ẤT DẬU 1945

Theo nhiều tài liệu nghiên cứu và phân tích về các nguyên nhân dẫn đến nạn đói năm 1945, người ta thấy có nhiều tình tiết phức tạp.

GS Đỗ Hữu Nghiêm cho biết trong bối cảnh thế chiến II, nạn đói xảy đến với Bắc Kỳ vào đúng lúc cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra quyết liệt, nhất là khi quân đội Nhật chiếm đóng Đông Dương từ năm 1941 với những toán quân tuần tiễu từ Trung quốc xung đột với quân Việt Pháp ở đồn Tà Lùng, cửa ngõ vào Lạng Sơn, từ năm 1940. Nếu chiếm đóng Lạng Sơn, con đường vào sâu trong đồng bằng miền Bắc Việt kể như bỏ ngỏ. Từ Lạng Sơn, người ta chỉ cần di chuyển 120 cây số là đến Hà Nội, trung tâm điểm vùng Đồng Bằng Bắc Việt.

Ngoài ra Quân Phiệt Nhật buộc nông dân phải nộp hết thóc lúa theo lệnh "Thiên Hoàng" rồi lại cưỡng ép phá hoại trồng lúa trong vụ Đông Xuân năm ấy để dành đất đai trồng đay làm công sự chiến đấu chống lại quân Đồng Minh. Lại thêm hạn hán hoành hành khắp nơi, đất đai thiếu nước khô nức nẻ ra từng mảng, cây trái xơ xác, ruộng vườn hoang vắng tiêu điều.

Chính các diễn biến chiến tranh tích lũy từ những năm đầu thập niên 1940 cùng với những thiên tai đã đưa đến nạn đói khủng khiếp giết chết ít nhất hai triệu người vào năm 1945, từ phía Bắc miền Trung ra tới Đồng Bằng Bắc Kỳ.

Về phía người Nhật

Đối với GS Trần Gia Phụng, có nhiều nguyên nhân gây ra nạn đói năm 1945 tại Bắc Việt, trong đó nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ chính sách Nhật Bản áp dụng tại Việt Nam trong thế chiến II (1939-1945).

Trong tập tài liệu "Chiến tranh châu Á trong tiềm thức của chúng ta", ông Yoshizawa Minami một người Nhật Bản đã viết:

"...Tình hình khu vực Việt Nam thật đặc biệt do sự có mặt thường xuyên của 80 ngàn quân ta và 200 ngàn lực lượng hậu cần đã khiến tình trạng kinh tế ở đây hỗn loạn đến cực độ..."

...Đông Dương có vị trí then chốt đối với Nhật Bản về lương thực. Ngoài lượng gạo nhập khẩu vào Nhật, quân đội Nhật còn rất cần một trữ lượng gạo lớn lao để tiếp tế cho các mặt trận đang lan rộng khắp Á Châu và khu vực Thái Bình Dương. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp gây nạn chết đói cho hai triệu người Việt năm 1945..."(4)

Theo các GS Đỗ Hữu Nghiêm và Lê Văn Lăng, khi chiếm đóng Đông Dương, quân đội Nhật muốn chọn Việt-Nam, đặc biệt Nam Kỳ, như một bàn đạp hậu cần để tiến xuống vùng hải đảo. Do đó, quân đội Nhật không những tận thu các sản phẩm lúa gạo, cao su và nhiều tài nguyên kỹ nghệ nông nghiệp khác, mà còn bắt nông dân Việt-Nam phải phá bỏ các ruộng lúa mà trồng đay lấy sợi làm bao chứa gạo vận chuyển tiếp tế cho các hải đảo vùng Đông Nam Á như Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Thái Lan và cả Úc châu nữa.

Còn GS Trần Gia Phụng cho biết vào thời điểm đó, quân đội Nhật hiện diện tại Việt Nam và Đông Nam Á càng ngày càng đông. Do đòi hỏi của Nhật Bản, nhà cầm quyền Pháp ra lệnh một cách độc đoán buộc nông dân phải thay đổi cách thức canh tác, từ độc canh cây thực phẩm, qua đa canh vừa cây thực phẩm, vừa cây kỹ nghệ. Nói cách khác, người Pháp buộc giới nông gia Việt phải bỏ bớt các cánh đồng lúa để trồng bông vải, đay, gai, cây có dầu.

Những cây kỹ nghệ nầy vừa để đáp ứng nhu cầu nguyên vật liệu của Đông Dương vì đường nhập cảng từ Pháp gặp khó khăn, vừa để cung ứng cho thị trường Nhật Bản do áp lực của quân phiệt Nhật. Ngày 04-08-1943, báo Lục Tỉnh Tân Văn loan tin rằng Nhật Bản yêu cầu trồng cây gai ở Bắc Kỳ và dự tính tăng diện tích trồng gai lên tới 10.000 mẫu để có thể sản xuất 2.600.000 chiếc bao gai.

Trong vòng ba năm, diện tích trồng cây kỹ nghệ gia tăng gấp hai trên toàn cõi Đông Dương, từ 88.200 mẫu năm 1942 lên đến 154.517 mẫu năm 1944. Riêng tại Bắc Việt, diện tích nầy tăng hơn gấp hai, từ 18.850 mẫu năm 1942 lên đến 42.546 mẫu năm 1944.

Những hoa màu chính giảm xuống nhiều, vì đất đai phì nhiêu đều dành cho việc trồng các loại cây kỹ nghệ. Dân chúng nông thôn đói khổ đành nhờ vào vài loại thực phẩm phụ để sống qua ngày.

GS Lưu Công Thành cũng cho biết chính phủ Đông Dương bắt các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định, Thái Bình nhổ thóc trồng các cây công nghiệp để cung cấp cho Nhật. Tờ trình của thống sứ Bắc kỳ Chauvet năm 1944 cho biết diện tích trồng các loại cây trên đã lên dến 45.000 mẫu. Làm một phép tính nhỏ thì với diện tích đó người dân có thể khai thác 585.000 tạ thóc (năng suất 13 tạ/mẫu). Nếu trồng thêm khoai, khoai mì thì được thêm 110.000 tạ, tính theo dinh dưỡng thì tương đương 72.000 tạ thóc. Như vậy, 45.000 mẫu ruộng có thể cung ứng 657.000 tạ thóc, đủ nuôi sống 547.000 nhân mạng! Một con số lạnh lùng và tàn nhẫn.

Như vậy, do điều kiện địa lý, ngay chính quốc Nhật Bản đã từng thiếu diện tích trồng lúa gạo. Ở vùng lãnh thổ miền Bắc và Bắc Trung, đồng lúa vốn đã hiếm, phương chi phải chuyển ruộng lúa thành đất trồng đay thì việc thiếu lúa gạo là lẽ tất nhiên. Trong lúc đó, miền Nam Việt-Nam không xảy ra nạn đói. Vì thế, trong khi miền Bắc chết đói thì ở miền có lúc tại Saigon, người ta lấy thóc đốt thay than để chạy máy xe lửa!

Nạn đói bùng nổ từ mùa thu năm 1944 trở đi khi thời tiết xấu làm cho vụ mùa năm nầy tiếp tục bị hư hại. Trong khi dân chúng đói kém, kho gạo của Pháp và Nhật luôn luôn đầy đủ. Kawai, một người Nhật, quản lý kho gạo ở Nam Định, nơi nạn đói nặng nề nhất, đã kể lại:

"Tại một khu nhà thờ Thiên Chúa giáo (Nhật dùng làm kho), gạo chứa đầy ắp trong kho, lại thấy người chết đói ngã lăng dọc đường suốt từ Nam Định lên tới Hà Nội, tôi đã cố thuyết phục tùy viên kinh tế của đại sứ quán Nhật mở các kho gạo đó nhưng họ không nghe..."(5)

GS Trần Gia Phụng còn cho biết thêm: đến tháng 5-1945, người Nhật đã tích lũy một số gạo đủ dùng trong sáu tháng cho Quân đoàn thứ 38 của họ ở Đông Dương. (6)

Về phía người Pháp

GS Đỗ Hữu Nghiêm cho biết người Pháp cũng cần thu quén lúa gạo để nuôi quân và đề phòng bị cô lập với mọi nguồn tiếp tế ở chính quốc bên ngoài. Họ vừa phải thu lúa gạo cho Nhật dưới áp lực của chính quân phiệt Nhật, vừa phải dành lúa gạo cho quân dân chính khu vực mình kiểm soát. Chẳng bao lâu tất cả các nguồn lợi mà Pháp vẫn nhận từ chính quốc ở châu Âu và các nước khác đều bị cắt đứt. Tất cả kho dự trữ lương thực đều không chủ động được dưới sự chiếm đóng kiểm soát của quân đội Nhật.

Theo GS Trần Gia Phụng, thỏa hiệp ngày 19-08-1942 buộc nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương phải xuất cảng sang Nhật trên 1.000.000 tấn gạo hạng tốt nhất trong các vụ mùa 1942-1943.

Để bảo đảm việc thi hành thỏa hiệp nầy, người Pháp lập ra những kho gạo an toàn. Viên thống sứ Pháp ở Bắc Kỳ còn buộc các làng xã phải lập những kho dự trữ tương ứng với sản lượng lúa gạo của làng đó, để có thể đáp ứng yêu cầu của nhà cầm quyền. Trong khi lúa gạo khan hiếm, người Pháp lại mua gạo để trữ trong các kho quân lương.

GS Lưu Công Thành cho biết thêm: do chính sách thu thóc của Pháp: trung bình mỗi năm Bắc kỳ thu hoạch được 1.275.000 tấn thóc (1927-1931) (đã trừ ra 325.000 tấn dùng vào xuất khẩu, nấu rượu và làm giống). Tuy nhiên số thóc này phải nuôi đến 6.500.000 người dân, chưa kể đến năm 1944 lại có thêm 100.000 quân Nhật; bọn chúng lại còn lấy thêm để vận chuyển viện trợ cho lực lượng tại Quảng Tây.

Tháng 7.1945, giá chính thức do Nhật ấn định là 55$ một tạ (giá mua vào của nhà nước), trong khi giá thị trường lên đến 800$ một tạ. Kết quả là nông dân Bắc kỳ nghèo xác xơ, phải bán cả nhà cửa con cái để có tiền nuôi gia đình. Năm 1944, Pháp còn bí mật thu thêm 186.180 tấn để trữ vào kho, làm lương thực khi có chiến tranh Pháp - Nhật.

Ngoài ra GS Lưu Công Thành còn cho biết Pháp cố ý thủ tiêu tinh thần khởi nghĩa của nhân dân bằng kế hoạch thuê nhân công với giá thành rẻ, một khi tại các nông thôn đã không còn đủ ăn.

Desrousseaux đã viết như sau: "Người nhà quê Việt Nam chỉ chịu rời bỏ làng xóm để làm việc khi hắn chết đói nên phải đi tới kết luận lạ lùng này là phương thuốc để chữa sự quẫn bách hiện tại (việc thiếu nhân công ở các đồn điền cao su và mỏ) là phải bần cùng hóa nông thôn, rút bỏ những sự cấp phát, hạ giá nông nghiệp."

Bulletin économique de l'Indochine năm 1944 cho biết: "Người ta vẫn thấy gạo Nam kỳ chở ra tới Vinh, nhưng người Pháp cho tích trữ lại trong các kho ở đó và chỉ cho ra tới Bắc kỳ một số rất ít." Năm đó tại Nam kỳ giá gạo rẻ đến nỗi nhà đèn Chợ Quán phải đốt thóc thay thế cho than đá.

Về phía quân dân kháng chiến Việt-nam

Theo GS Đỗ Hữu Nghiêm, tất cả các lực lượng có xu hướng chính trị kháng chiến - quốc gia và không quốc gia - cũng đều lo tích trữ lương thực hiếm hoi trong tình thế nguy ngập đó, nhất là những lực lượng kháng chiến do phong trào Việt Minh kiểm soát.

Đối với GS Trần Gia Phụng: năm 1945, Việt Minh không phải chỉ khai thác lòng căm thù của người dân Việt để đi theo họ, mà Việt Minh còn là tòng phạm với Pháp và Nhật trong nạn đói nầy làm cho hai triệu đồng bào bị chết. Trong bài "Nạn đói năm 1945", GS Phụng đã trưng dẫn tài liệu để chứng minh điều nầy.

GS Trần gia Phụng cho biết thêm: nạn đói năm 1945 làm cho dân chúng Việt Nam nghèo đói, khổ cực, đã tạo môi trường thuận tiện và thích hợp cho mặt trận Việt Minh vì đã lợi dụng nạn đói do Nhật Bản gây ra bằng hai cách:

Thứ nhất, Việt Minh xúi dân chúng chống đối việc trưng mua lúa gạo, xúi dân đánh phá các kho lúạ Trong cơn nghèo đói túng quẫn, có người bày cho phương cách kiếm gạo để ăn, nên dân chúng hưởng ứng khá đông.

Thứ nhì, lợi dụng việc chính phủ tiếp tế để cứu đói ở miền Bắc, Việt Minh âm thầm chận bắt những chuyến xe hay những chuyến ghe chở gạo từ miền Nam ra, rồi Việt Minh đem tiếp tế cho những mật khu của họ (7).

Trong cơn đói, có người đành phải lên mật khu gia nhập Việt Minh để được chia phần gạo cướp được cho qua nạn đóị Hành động của Việt Minh làm cho việc tiếp tế gạo từ Nam ra Bắc càng trở nên khó khăn. Từ đó, nạn đói càng trầm trọng và Việt Minh càng dễ hoạt động tuyên truyền, kích động quần chúng.

Đặc biệt hơn nữa, sau ngày 02-09-1945, Việt Minh tịch thu toàn bộ tiền bạc của các quỹ cứu đói trên toàn quốc (8), nghĩa là cướp lấy tài sản của những người đang đói, do những người hằng tâm khắp nước giúp đỡ.

Về những trận oanh tạc của Đồng Minh

Theo nhận định của các GS Đỗ Hữu Nghiêm và Lưu Công Thành, người ta không quên được những trận oanh tạc khủng khiếp của Đồng Minh, mà đứng đầu là Mỹ, ngày đêm oanh tạc xuống những địa điểm chiến lược nông công nghiệp trọng yếu để ngăn chặn và phá tan hệ thống giao thông đường sắt và đường bộ, những đường tiến quân của quân đội Thiên Hoàng Nhật Bản ở Việt Nam, nhất là ở miền Bắc.

Chiến tranh dưới hình thức không lực đã góp phần quan trọng làm đình trệ tất cả sinh hoạt vốn hạn chế ở khu công nghiệp, đồng ruộng và công nông dân đang làm việc tại đó, nhất là những vùng Nhật Bản bắt buộc nông dân canh tác đay và vùng mỏ khai thác than đá, nhằm mục đích tiêu diệt khả năng tiếp viện và cơ sở hậu cần của đối phương.

Thay Lời Kết

Công cuộc nghiên cứu nạn đói năm Ất Dậu 1945

GS Đỗ Hữu Nghiêm cho biết đã có nhiều công trình nghiên cứu hay nhiều tài liệu của nhiều tác giả phản ảnh đó đây về tình cảnh nạn đói năm Ất Dậu này ở nhiều địa phương khác nhau.

Tại Sài gòn, Tập San Sử Địa trong một số báo trước 1975 có phổ biến bài viết về "Nạn Đói Năm Ất Dậu (1945)" của Bà GS Tăng Xuân An, phụ trách giảng dậy môn Sử Địa.

Mới đây Viện Sử Học Hà Nội, thuộc Trung Tâm Nhân Văn và Khoa Học Xã Hội Quốc Gia, do Nhóm giáo sư Văn Tạo làm chủ biên, với sự tài trợ của một tổ chức văn hóa Nhật, đã tiến hành một cuộc nghiên cứu hậu kiểm về nạn đói năm Ất Dậu bằng ký ức và phỏng vấn các nhân chứng còn sống ở Hà Nội và những nơi khác ở VN.

Họ đã đưa ra con số người chết đói ở Đồng Bằng Bắc Việt Nam là hơn hai triệu người, mà nguyên nhân chủ yếu là sự chiếm đóng của quân đội Nhật và chính sách sử dụng lương thực cùng ruộng đất của Nhật trong thế chiến II, mặt trận Thái Bình Dương. Dụng ý thực tế của nghiên cứu này là gián tiếp hay trực tiếp, đòi hỏi chính quyền Nhật Bản hiện nay phải hồi tưởng và ăn năn về sự tàn ác của quân dân mình đã làm cho người Việt, mà rộng tay đền bù lại!

Trách nhiệm của người Nhật Bản

Nếu không có những cuộc xâm lược của Phát Xít Nhật và sự thống trị của người Pháp thì đã không có những cuộc oanh tạc, phong tỏa của phe Đồng Minh và có thể chắc chắn nạn đói khủng khiếp đã không bao trùm lên thân phận người Việt sinh sống ở miền Bắc thời đó, tạo thành ký ức tàn khốc qua bao nhiêu thế hệ con cháu Lạc Hồng!

GS Trần Gia Phụng nhận định: Tại Nhật Bản, Hoa Kỳ thả quả bom nguyên tử đầu tiên xuống thành phố Hiroshima ngày 06-08-1945 đã giết chết 130.000 người, và quả bom thứ nhì xuống Nagasaki ngày 09-08-1945, giết chết 75.000 người. Số tử vong của cả hai vụ ném bom nầy cộng lại khoảng trên 200.000 người. Thế mà người Nhật ghi nhớ mãi mãi và cho đến nay vẫn còn có người oán hận. So với số người chết trong nạn đói 1945 ở Việt Nam, con số đó mới chỉ bằng một phần mười mà thôi.

Trong bài viết nhan đề "Nhật Bản và chiến tranh Việt Nam" (trong sách Những câu chuyện Việt sử, tập 3, 2002), nhân dịp Tokyo University of Foreign Studies [Đại Học Đông Kinh Nghiên Cứu Ngoại Vụ] tổ chức hội luận ngày 14-01-2002, về đề tài "The Memory of the War: The Vietnam War, which is not a Hollywood Movie" [Hồi ký chiến tranh: Chiến tranh Việt Nam không phải là một phim Hollywood], GS Trần Gia Phụng đã nhận xét:

Dưới thời Đệ nhất Cộng Hòa, Nhật Bản ký kết thỏa ước với Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ngày 13-05-1959 trả 39 triệu Mỹ kim để bồi thường thiệt hại trong thế chiến thứ nhì, chứ không phải về vấn đề nạn đói, và giúp VNCH vay 7,5 triệu Mỹ kim để tái thiết đất nước. Nhật Bản còn viện trợ cho VNCH xây dựng đập Đa Nhim. Sau năm 1975, theo tin các báo, Nhật Bản giúp Nhà Nước Việt-Nam hiện nay xây dựng cầu Cần Thơ qua sông Hậu, thi hành từ 2001.

Khi kết luận bài đó, GS Trần Gia Phụng đặt câu hỏi: Nhật Bản đã xin lỗi Cao Ly về những bạo hành trong thời gian chiếm đóng và về vấn đề bắt phụ nữ làm nô lệ tình dục trong thế chiến II. Nhật Bản cũng đã xin lỗi Trung Hoa về biến cố Nam Kinh tháng 11-1937 giết hại khoảng 300.000 người.

Tại sao Nhật Bản chưa xin lỗi Việt Nam về nạn đói năm 1945 với hai triệu người chết đói?. Tại sao các nhà cầm quyền Việt-Nam - trước cũng như sau 1975 - đã không đòi hỏi Nhật Bản phải xin lỗi Việt Nam như Trung Hoa và Cao Ly đã làm?". Có phải vì món tiền viện trợ quá lớn lao từ phía Nhật Bản mà chính quyền Việt-Nam qua các chính thể khác nhau đã im hơi lặng tiếng đối với vấn đề đau thương nầy!

Hãy đốt một nén hương lòng yêu thương, từ bi để khóc than những oan hồn lịch sử này, nhất là trong khi bên trời Âu, người ta đã nhắc mãi đến nhiều trại tù giết người tàn bạo của Đức Quốc xã ở Dachau, Auchwitz, … Ai bồi thường chiến tranh cho cái oan khiên này của dân tộc Việt thấp cổ bé họng!

Nhân dịp Xuân Ất Dậu 2005 trở về, GS Trần Gia Phụng đề nghị các tổ chức người Việt hải ngoại hãy cùng nhau tổ chức lễ tưởng niệm hai triệu người Việt đã từ trần oan uổng trong nạn đói năm Ất Dậu 1945 mà nguyên nhân chính là do con người đã gây ra cho con người, trong đó ba tác nhân chính là Phát Xít Nhật, thực dân Pháp và phong trào kháng chiến Việt Minh.

"Ta nhớ mãi cái thời kỳ đen tối!
Quên làm sao tội lỗi kẻ xâm lăng!<
Quên làm sao mối thù hận khôn cùng!
Quên sao được hai triệu người chết đói!"
(Bàng Bá Lân).

Hương Vinh
Ghi chú:
1. Bài thơ "ĐÓI' của thi sĩ Bàng Bá Lân (Tháng năm 1957). ("Thi Nhân Việt-Nam Hiện Đại, quyển thượng, trang 284-288)<BR><BR>
2. Hồi ký Đỗ Hữu Nghiêm viết tại Dayton Ohio, ngày 12.11.2004, được bổ sung ngày 05/12/2004.
3. "Một Gặp Gỡ Buồn" của Giám Mục Bùi tuần, đang trên VietCatholic ngày 05/12/2004.
4. Ngô Thế Vinh dịch và trích dẫn trong bài "Từ Ất Dậu - 1945 sáu mươi năm đi tới cây cầu Cần Thơ - 2005", đăng trên tạp chí Hợp Lưu, California, số 51, tháng 2 & 3 năm 2000, tt. 170-171.
5. Ngô Thế Vinh, dịch và trích dẫn, bđd. tr. 171.
6. David G. Marr, Vietnam 1945, The Quest for Power [Việt Nam 1945, đi tìm quyền lực], University of California Press, Berkeley, 1995, tt. 97-98.
7. David G. Marr, sđd. tr. 102-103.
8. Ngô Thế Vinh, bđd. tr. 173.