Sunday, May 10, 2015

40 Năm Quốc Hận: Nhận Diện Kẻ Thù - Đào Nương

40 Năm Quốc Hận: Nhận Diện Kẻ Thù
Đào Nương
    Bài số 1 (Saigon Nhỏ số ra ngày 24 tháng 4, 2015)
Trước khi báo Người Việt khởi kiện báo The Little Saigon News Inc. và cá nhân tôi, Đào Nương Hoàng Dược Thảo về bài viết “Những bí ẩn của báo Người Việt” thì tôi cũng như đa số những người trong cộng đồng người Việt tỵ nạn không cộng sản tuy không đồng ý với những bài viết có lợi cho cộng sản của báo Người Việt, (Điển hình là thư của “độc giả” Sơn Hào ngày 8 tháng 7 2012 gọi ngày 30 tháng 4 là ngày chiến thắng của toàn dân; và quân, dân, cán chính VNCH là tay sai cho giặc Mỹ. Hay một lá thư độc giả khác ngày 9 tháng 7 năm 2012 nói rằng các Linh mục công giáo Việt Nam là do thực dân Pháp huấn luyện; sau 1954, phân nửa trở thành gián điệp cho CIA) phân nửa được giao cho Ngô Đình Nhu; những hình ảnh mạ lỵ lá cờ vàng ba sọc đỏ trong chậu nước rửa chân) (Giai phẩm Xuân người Việt năm 2007) nhưng tôi không nghĩ tôi là “kẻ thù” của báo Người Việt và ngược lại.

Bài viết “Những bí ẩn của báo Người Việt” được viết sau khi báo Người Việt đăng lá thư của “đọc giả” Sơn Hào ngày 8 tháng 7, 2012 cho rằng ngày 30 tháng 4 là ngày chiến thắng của toàn dân; và quân, dân, cán chính VNCH là tay sai cho giặc Mỹ. Ngày hôm sau, 9 tháng 7 năm 2012, báo Người Việt lại đăng một bức thư độc giả khác cho rằng các Linh mục Công Giáo Việt Nam là do Pháp huấn luyện. Sau khi đất nước phân hai vào năm 1954, phân nửa số linh mục trở thành gián điệp cho CIA, phân nửa phục vụ cho chính phủ miền Nam. Cả hai lá thư này đã khiến cộng đồng người Việt tỵ nạn khắp nơi phẫn nộ. Lần đầu tiên, các bác sĩ của Việt Nam Tự Do đã ký một bản lên tiếng kêu gọi tẩy chay báo Người Việt cùng lúc với bản Thông Cáo số 3 của 151 tổ chức hội đoàn và nhân sĩ trong cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản.

Ông luật sư Đỗ Phủ của đài SBTN đã có một nhận định rất đúng sau khi bản án 4 triệu rưỡi được ông chánh án Frederic Horn tặng cho báo Người Việt là Hoàng Dược Thảo thua vì quá “khinh địch” cũng như ông đã chê những luật sư biện hộ cho báo Saigon Nhỏ đã không có khả năng thích ứng khi tình huống thay đổi.
Nhưng ông đã làm Đào Nương thất vọng khi nghe ông “hội luận” với báo Người Việt và ông Tú Gàn, thổi phồng việc chánh án Horn bác đơn xin xử lại -Motion For A New Trial - là Saigon Nhỏ “bị bác đơn kháng án” khiến nhiều độc giả Saigon Nhỏ vì tin tưởng vào các “luật gia” này mà tưởng rằng Saigon Nhỏ đã thua khi kháng án trong khi đây chỉ là một thủ tục tư pháp trước khi nộp đơn xin kháng án - Notice to Appeal. Vì chỉ khi bị bác đơn xin xử lại (phán quyết bởi cùng một chánh án của phiên xử trước) thì mới có chuyện xin kháng án, chứ nếu được xử lại thì kháng án làm chi? Đào Nương nghĩ rằng cho đến nay, ông Đỗ Phủ chưa hề đọc bài viết “Những bí ẩn của báo Người Việt” khi ông cho rằng bà Hoàng Dược Thảo “nói báo Người Việt là cộng sản” . Là một luật sư “tài ba” ông phải biết nhận định thế nào là ý kiến (opinion) và thế nào là mạ lỵ (libel).

Khi đài SBTN có xe mang chữ SBTN đi khắp Nam Bắc Việt Nam làm phóng sự, (Do Thanh Toàn đảm trách); và khi vợ chồng ông Trúc Hồ đi ra, đi vào Việt Nam nhiều lần thì cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản có ý kiến rằng đài SBTN là cộng sản hay thiên cộng, luật sư Đỗ Phủ có đi kiện những người này không?

Như đã loan báo từ hai tháng trước đây, tổ hợp luật sư kháng án danh tiếng của Hoa Kỳ, Horritz và Levi, đang thụ lý hồ sơ xin kháng án của báo Saigon Nhỏ. Trong 3 tháng qua, nhiều tổ hợp luật sư Việt Nam danh tiếng đã tiếp xúc đề nghị kháng án miễn phí cho chúng tôi. Nhiều vị khác quen thuộc với ngành tư pháp Hoa Kỳ đã tiếp xúc để làm cố vấn cho báo Saigon Nhỏ trong phiên toà sắp tới. Riêng những tổ chức đã ký tên trong bảng thông cáo số 3 kêu gọi tẩy chay báo Người Việt vì nhận định báo người Việt là tay sai cho cộng sản đã sẵn sàng làm nhân chứng cho báo Saigon Nhỏ trong phiên toà kháng án để trả lời sự cáo buộc của báo Người Việt trong phiên toà trước rằng Đào Nương Hoàng Dược Thảo là tác giả của thông cáo này vì “cạnh tranh thương mại”.

Như đã nói ở trên, trước khi báo Người Việt khởi kiện Saigon Nhỏ, Đào Nương tôi nghĩ rằng chúng tôi không cùng chính kiến với báo Người Việt như nhiều người khác trong cộng đồng, nhưng tôi không phải là kẻ thù của báo Người Việt và ngược lại. Trong 2 năm của vụ kiện, tôi đã được nghe nhiều người nói về “tai họa” của công cuộc chống cộng khi hai tờ báo lớn nhất của cộng đồng người Việt hải ngoại kiện nhau ra toà. Khi có một vụ kiện thì sẽ một bên thắng, một bên thua và bên nào thua thì cũng không có lợi cho công cuộc chống cộng. Nhưng lời khai của ông Phan Huy Đạt trước toà cho thấy rằng điều nhận định trên là hoàn toàn sai lầm. Ông Phan Huy Đạt đã xác nhận trước toà là báo Người Việt không cần sự tín nhiệm của cộng đồng chống cộng - I don't need the trust of the anti - communist community. (đã được ghi rõ trong trial Transcript). Ông Phan Huy Đạt và bà Hoàng Vĩnh xác nhận họ đã đi về Việt Nam nhiều lần. Tại sao, trong 3 tháng qua, sau khi thắng lớn, báo Người Việt vẫn tiếp tục “lải nhải” những điều không cần thiết? Vì sợ Saigon Nhỏ? Hay vì nhu cầu cần thiết phải triệt hạ uy tín một cơ quan ngôn luận chống cộng lớn nhất ở hải ngoại.

Bà Dương Nguyệt Ánh đã nhìn ra vấn đề này khi lên tiếng bênh vực cho Saigon Nhỏ. Bà đã xác định rằng bà ủng hộ báo Saigon Nhỏ vì báo Saigon Nhỏ chống cộng và báo Người Việt thân cộng. Cô Lữ Anh Thư, nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh của tổ chức Nghệ sĩ Liên kết thành lập Quỹ Pháp Lý yểm trợ Saigon Nhỏ không ngoài mục đích trên. Những nhà báo Duyên Lãng Hà Tiên Nhất, Hoàng Lan Chi, luật sư Lê Duy San, bác sĩ Trần văn Tích đã lên tiếng bảo vệ Saigon Nhỏ.

Trong 3 tháng qua, từ khi “bên thua cuộc” là Saigon Nhỏ, nhà báo Đào Nương đã im lặng. Chúng tôi đã làm những thủ tục pháp lý cần thiết để bảo vệ báo Saigon Nhỏ đúng như nguyện vọng của cộng đồng người Việt chống cộng. Đất nước Hoa Kỳ khi làm ra luật là để thi hành chứ không phải để nhìn.

Có 3 điều báo Người Việt đã không làm được khi thắng kiện báo Saigon Nhỏ:

1. Mặc dù rêu rao trước toà là kiện Saigon Nhỏ để “lấy lại danh dự - clear our name” nhưng mục đích của báo Người Việt lại là sai áp tài sản của báo Saigon Nhỏ hay cá nhân của Hoàng Dược Thảo.

Báo Người Việt rêu rao rằng lần này sẽ làm cho Saigon Nhỏ tán gia, bại sản. Họ quên rằng “tài sản” của báo Saigon Nhỏ là lòng tin tưởng và uy tín của Saigon Nhỏ của cộng đồng người Việt tỵ nạn chống cộng chứ không phải là những đồng tiền dù chìm hay nổi. Ngày ra toà, luật sư Hart của báo Người Việt thất vọng khi nói với luật sư Charles Mạnh là She has no assetts. Luật sư Mạnh đã trả lời rằng: “Now you go after her money, not to clear your clients' name”.

Vũ khí mạnh nhất của “bên thua cuộc” ở đất nước này là “không tài sản; và sổ sách chi thu đàng hoàng” . Coi như huề!

2. Báo Saigon Nhỏ có sập tiệm không?

Như đã nói ở trên, báo Người Việt rêu rao là sẽ “tịch thu báo Saigon Nhỏ. Thật là buồn cười khi nghe điều này khi chủ nhiệm báo Người Việt là một luật sư. Luật phá sản của Hoa Kỳ là để bảo vệ “bên thua cuộc”. Ở xứ này, “bên thua cuộc” không phải đi học tập cải tạo mà chỉ cười chờ kháng án. Khi khai phá sản, báo Người Việt trở thành một “chủ nợ” như nhiều chủ nợ khác của công ty The Little Saigon News, Inc.

Báo Saigon Nhỏ sẽ hoạt động như bình thường nhưng sự chi thu sẽ được báo cáo với tòa qua luật sư thụ lý. Tiền lời sau chi phí sẽ do tòa quyết định phân chia cho các chủ nợ. Khi loan tin công ty The Little Saigon News Inc phá sản, báo Người Việt viết là “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”: đây có thể là do sự suy nghĩ khác biệt của báo Người Việt khi làm thương mại tại Hoa Kỳ. Khi làm ăn lương thiện, ngay thẳng thì có gì phải lo sợ khi phải báo cáo với cơ quan công quyền để nhờ bảo vệ công việc làm ăn của mình?. Người lo việc kế toán, sổ sách của báo Saigon Nhỏ từ 23 năm qua là ông Steve Holliday, người đã từng lo sổ sách kế toán cho thành phố Westminster. Ông vừa là CPA, vừa là một luật sư về thuế vụ. Khi ông Holliday tuyên bố: “công ty The Little Saigon News Inc là một trong những công ty “sạch” nhất Little Saigon” - The cleanest business in Little Saigon không phải là không có lý do. Nhưng như đã nói ở trên, thành công của báo Saigon Nhỏ không phải là những đồng tiền mà là lý tưởng và tinh thần chống cộng của mọi người có liên hệ. Do đó, không ai có thể diệt được tiếng nói của Saigon Nhỏ.

3. Báo Người Việt có gột rữa được “Dư luận Của Đồng Hương” là báo “thân cộng” vì thắng cuộc pháp lý không?

Hỏi tức là trả lời. Người Việt thắng ở tòa án (chỉ trong giai đoạn ở tòa dưới - the trial level), nhưng đã thua trận đánh của dư-luận và trận đánh để dành phần thắng trong hàng vạn con tim. They may win the battle, but they lose the war. (Xin xem Các Thông Cáo Về Ngày Quốc Hận 30 Tháng Tư Năm 2015.)

Trong 3 tháng qua, giai đoạn 1 của vụ kiện đã chấm dứt với phần thắng về phía Người Việt. Thay vì im lặng khi có cơ hội hàn gắn lại sự rạn nứt với cộng đồng người Việt chống cộng khi thắng báo Saigon Nhỏ, một cơ quan ngôn luận chống cộng về pháp lý, tìm cách hàn gắn để sinh họat trở lại với cộng đồng người Việt chống cộng thì báo Người Việt đã bằng mọi cách, mọi phương tiện tiếp tục tấn công nhằm mục đích triệt hạ uy tín của báo Saigon Nhỏ. Nhưng báo Người Việt đạt được muc đích này không? Chắc chắn là không! Báo Người Việt có gột rửa được hai chữ “thân cộng” ra khỏi cái tên “báo Người Việt” không sau khi thắng kiện? Chắc chắn là không! Có triệt hạ được Saigon Nhỏ không? Điều này được trả lời rất rõ ràng:

a. Bằng Dư Luận của Các Hội Đoàn và Tập Thể Người Việt ở Hải Ngoại qua Các Thông Cáo cho ngày 30 Tháng Tư Năm 2015.

b. Bằng lời tuyên bố của bà Dương Nguyệt Ánh: tôi yểm trợ báo Saigon Nhỏ vì báo Saigon Nhỏ chống cộng và báo Người Việt thân cộng.

c. Bằng sự yểm trợ không hề giảm sút của thân chủ quảng cáo trên báo Saigòn Nhỏ khắp nơi.

d. Bằng sự sợ hãi tiếng nói của cộng đồng người Việt chống cộng: Trong việc tuyển chọn Bồi Thẩm Đoàn trong phiên tòa vừa qua, luật sư của báo Người Việt đã loại bỏ tất cả những người gốc Việt trong số những người hiện diện để được tuyển chọn vào danh sách bồi thẩm đoàn. Với một cộng đồng đông người Việt nhất ngoài Việt Nam, đã không có một người Việt Nam nào được lọt vào Bồi Thẩm Đoàn. Ngay cả một người Mỹ có vợ cũ là người Việt cũng bị luật sư của báo Người Việt loại ra. Theo luật California, bên nguyên đơn có quyền loại trừ trước nên luật sư Saigon Nhỏ phải bó tay.

d. Việc chống án - appeal - không phải là một việc nhanh chóng nên Đào Nương tôi xin cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản kiên nhẫn và vững tin vào chính nghĩa quốc gia của chúng ta. Chúng ta nhất định sẽ thắng. Con đường xây nước và dựng nước của dân tộc Việt còn dài. Kẻ thù lớn của chúng ta là đảng cộng sản Việt Nam. Do đó, xin quý vị hãy xem vụ thua kiện vừa qua của báo Saigon Nhỏ chỉ là một hạt sạn lọt vào giày trên con đường chính nghĩa mà chúng ta đang đi mà thôi. Cá nhân Đào Nương Hoàng Dược Thảo không quan trọng. Từ 30 năm qua, báo Saigon Nhỏ trở thành một công cụ truyền thông chống cộng lớn nhất hải ngoại khiến một cơ sở báo chí như báo Người Việt xem như một kẻ thù cần phải triệt hạ không phải là nỗ lực duy nhất của một người đàn bà, một ngòi bút Đào Nương, mà là nỗ lực của một cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản chống cộng đã nuôi dưỡng nó. Khi Đào Nương liên lạc để cám ơn những người đã yểm trợ Saigon Nhỏ dù đó là những người tôi chưa một lần được hân hạnh quen biết như bác sĩ Trần Văn Tích, luật sư Lê Duy San, bà Hoàng lan Chi, bà Dương Nguyệt Ánh, cô Lữ Anh Thư và v.v... câu trả lời nghe được là: chúng tôi yểm trợ chính nghĩa quốc gia nên yểm trợ Saigon Nhỏ.

Xin thay mặt Ban Chủ Biên, xin thay mặt toàn thể nhân viên của Saigon Nhỏ, tôi xin cam kết sẽ không phụ lòng tin tưởng của quí vị. Trước mặt bồi thẩm đoàn, luật sư của báo Người Việt đưa hình ảnh của đồng bào Việt Nam biểu tình chống báo Người Việt để nói rằng chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt. Điều này đúng với người Mỹ, với thế giới nhưng không đúng với người Việt Nam. Đó cũng là quan điểm khác biệt giữa chúng ta và kẻ thù cộng sản. Đảng cộng sản Việt Nam muốn bỏ đi hai chữ “Việt cộng” để có thể bước vào cộng đồng thế giới ở bên ngoài Việt Nam nhưng bên trong đất nước thì lại đối xử với dân chúng một cách man rợ tàn độc như thời trung cổ. Đó là lý do tại sao chúng ta không thể chùng bước trước kẻ thù.

Bài số 2 (Saigon Nhỏ ra ngày 1 tháng 5, 2015)

Saigon Nhỏ vừa nhận được một thông cáo của LIÊN ỦY BAN CHỐNG CỘNG SẢN VÀ TAY SAI về việc họ tiếp tục tẩy chay, không đồng ý sinh hoạt chung với báo Người Việt trong ngày Quốc hận 30 tháng 4 năm 2015, tưởng niệm 40 năm miền Nam Việt Nam mất vào tay cộng sản tại miền Nam California. Thông cáo này nguyên văn như sau:
    LIÊN ỦY BAN CHỐNG CỘNG SẢN VÀ TAY SAI
    (COALITION OF VIETNAMESE AMERICAN AGAINST COMMUNISM)
    9078 Bolsa Ave Westminster CA 92683
    Westminster, ngày 27 tháng 4 năm 2015
    THƯ PHẢN ĐỐI
     
    Kính gởi:
    - Các cơ quan Truyền Thông & Báo Chí
    - Các Hội Đoàn, Đoàn Thể và Hội Đồng Hương
    - Toàn thể Đồng Hương Tỵ nạn tại hải ngoại
    Thông báo: Ban Tổ Chức “Đêm Tưởng Niệm 30-4-2015:
    - Ls Nguyễn XuânNghĩa, Chủ Tịch CĐNVQG/ Nam Cali
    - Ks Trương Ngãi Vinh, Chủ Tịch CĐNV/ Nam Cali
    Kính thưa quý vị,
    Theo thông lệ từ những năm trước đây, việc treo cờ Việt Mỹ trên đường phố trong những ngày Lễ Tết hay Tưởng Niệm 30 tháng 4 hàng năm, các Hội Đoàn trong Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam Cali đã ủy thác cho ông Phan Văn Chính và nhóm của ông thực hiện. Từ lúc đầu, việc mua cờ và vật liệu đều do các Hội Đoàn đóng góp. Đến những năm sau này, đã có ý kiến kêu gọi các cơ sở thương mại hoặc các nhà hảo tâm ủng hộ, dưới hình thức thực hiện những tấm phướn quảng cáo có ghi tên của các cơ sở đã đóng góp đó. Đây là việc làm có ý nghĩa và đáng trân trọng trong chuỗi sinh hoạt hàng năm.
    Đến năm nay, năm 2015, không biết do tổ chức nào chiêu dụ hoặc do áp lực từ đâu, nhóm treo cờ của ông Phan Văn Chính đã thực hiện và treo những tấm phướn có ghi rõ do sự yểm trợ của “báo Người Việt”.
    Trong cộng đồng Người Việt Quốc Gia tại Nam Cali, nhất các Hội Đoàn các Quân Binh Chủng, các Quân Trường, Cảnh Sát Quốc Gia ... trong Liên Hội Cựu Chiến Sĩ cùng với các Hội Đoàn khác tại hải ngoại đã tẩy chay báo Người Việt:
    - Lời Kêu Gọi của 80 Đơn vị Quân Y, Nha- Dược Sĩ thuộc QL/VNCH, ngày 23 tháng 7 - 2012.
    - Bản Lên Tiếng của 151 Hội Đoàn, Hội Đồng Hương, ngày 24 tháng 8 - 2012
    Vì sự thiêng liêng của việc Tưởng Niệm năm thứ 40, ngày đại tang của Dân Tộc (1975- 2015), Liên Ủy Ban Chống Cộng Sản và Tay Sai cực lực phản đối hành động tiếp tay cho kẻ phản bội báo Người Việt của phe nhóm ông Phan Văn Chính. Yêu cầu ông Phan Văn Chính phải gỡ xuống những tấm phướn có đề tên báo Người Việt, hầu tránh làm bất mãn biết bao người khi phải nhìn thấy nó. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta phải giữ cho rõ ràng lằn ranh Quốc - Cộng hiện nay.
    Vì lợi ích chung, chúng tôi mong được sự đáp ứng kịp thời của quý vị có trách nhiệm trong việc tổ chức “Đêm Tưởng Niệm 30-4” vào chiều ngày 30 tháng 4 năm 2015 này.
    Trân trọng.
    TM-LIÊN ỦY BAN CHỐNG CỘNG SẢN VÀ TAY SAI
    PHAN KỲ NHƠN
*
Đã 4 tháng trôi qua, kể từ khi báo Người Việt thắng kiện báo Saigon Nhỏ, đây là một trong những nỗ lực của báo Người Việt nhằm “xin” cái cộng đồng mà báo Người Việt qua bức thư của độc giả Sơn Hào gọi là “Tay sai cho giặc Mỹ” cho sinh hoạt cùng và thương thay, báo Người Việt lại tiếp tục bị tẩy chay. Ông Phan Kỳ Nhơn, ông Trần Vệ đều đã lên tiếng trên đài phát thanh, trên Net về vấn đề báo Người Việt “xin cho” sinh hoạt chung này. Nên nhớ, những kỳ, phướn giao cho ông Phan văn Chính đều là tài sản của cộng đồng Người Việt Quốc Gia chống cộng giao cho ông Chính để làm công tác treo cờ chứ không phải tài sản riêng của ông Chính nên ông Chính không thể quyết định về việc cho treo những cái phướn trên đó có ghi do sự yểm trợ của “báo Người Việt” mà không thông qua quyết định của các Hội Đoàn đã giao cho ông nhiệm vụ này.

Sự kiện này lại khiến Đào Nương nhớ lại vụ báo Người Việt bị đuổi ra khỏi buổi họp của Tập Thể CSVNCHHN tháng 10 năm 2013. Hai nhân viên của báo Người Việt được Trưởng Ban Báo Chí của Ban Tổ Chức mời với tư cách cá nhân vì họ đều là cựu quân nhân QLVNCH là ông Nguyễn Văn Linh và ông Nguyên Huy. Khi Thiệp mời cá nhân biến thành thiệp mời báo Người Việt, ông Trần Vệ, Trưởng Ban Tổ Chức đã nhận trách nhiệm là sơ sót của Ban Tổ Chức khi yêu cầu báo Người Việt rời khỏi buổi dạ tiệc vì đây là “một buổi họp dành cho các chiến hữu cuả chúng tôi và bằng hữu”. (Trích nguyên văn.)

Cho đến khi Đào Nương ngồi viết những giòng chữ này thì chưa nghe câu trả lời của ông Phan Văn Chính để biết do “sai lầm” nào mà nhóm treo cờ của ông Phan Văn Chính đã thực hiện và treo những tấm phướn có ghi rõ do sự yểm trợ của “báo Người Việt” khiến cộng đồng Người Việt tại Nam Cali phản đối. Ông Phan Kỳ Nhơn cho biết nếu ông Phan Văn Chính không tự ý thức và gỡ những cái phướn này xuống thì Ủy Ban Chống Cộng Sản và Tay Sai sẽ có những biện pháp thích ứng. Một trong những biện pháp được đặt ra là những tổ chức có liên hệ hay đằng sau vụ này sẽ bị khai trừ ra khỏi “Đêm Tưởng Niệm 30-4” vào chiều ngày 30 tháng 4 năm 2015 này.

Như đã viết trong số báo tuần trước (Bài 1) về việc “Nhận Diện Kẻ Thù”, trước khi báo Người Việt kiện báo Saigon Nhỏ về một bài viết mà theo nhận định của nhiều luật sư thì đó chỉ là một bài viết “nhận định – opinion” hoàn toàn không có tính cách mạ lỵ về “Những bí ẩn cuả báo Người Việt”, tuy không cùng chính kiến với báo Người Việt nhưng không nghĩ rằng báo Người Việt là kẻ thù của báo Saigon Nhỏ và cá nhân tôi, Đào Nương Hoàng Dược Thảo.

Trước khi ra một phiên toà vô cùng thiên vị của chánh án Frederick P. Horn, Đào Nương và Ban Chủ Biên của báo Saigon Nhỏ đã có một quyết định là nếu thắng kiện, chúng tôi sẽ không làm ầm ĩ vụ này vì sự kiện tụng giữa hai tờ báo lớn ở hải ngoại đem nhau ra toà chỉ làm trò cười cho người Mỹ coi thường cộng đồng người VIỆT và người thủ lợi là Việt cộng. Là những người quốc gia chân chính, chúng tôi không hề muốn điều này xảy ra. Nhưng rất tiếc làSaigon Nhỏ thất kiện và trong 4 tháng qua, những hành động kế tiếp của báo Người Việt khi tiếp tục tấn công báo Saigon Nhỏ về mặt công luận. Chúng tôi đã quyết định im lặng, cho báo Người Việt có đủ thời gian để “nhận diện” ra kẻ thù của họ. Nhưng nay, vì sự đánh phá không ngừng của Người Việt, chúng tôi đành phải phổ biến cho đồng bào biết những gì đã xảy ra tại phiên tòa sơ thẩm trong Tháng 12 vừa qua.

1. Trong Phiên Tòa thiên vị của Chánh án Frederick P. Horn, dù Người Việt thắng kiện, nhưng như chúng tôi đã trình bày với quý vị, họ đã thua một trận Chiến Tranh rất lớn – Báo Người Việt không bao giờ gột rửa được hai chữ “thân cộng” dù thắng cuộc pháp lý. Chính nhân viên của tờ báo này cũng đã thú nhận như vậy trong phiên tòa.

Chúng tôi sẽ lần lượt nêu lên những lời khai ở phiên tòa từ chính miệng của cộng sự viên của Báo Người Việt. Trả lời câu hỏi của Luật Sư về Bức Hình Ông Đỗ Ngọc Yến Đi Đêm Với Nguyễn Tấn Dũng, tại phiên tòa ngày 11 thang 12, nam 2014, Ông Đinh Quang Anh Thái đã thú nhận rằng bức hình ấy khiến cho Báo Người Việt bị đồng bào cho là “thân cộng”.

Q. And was Nguoi Viet News then also labeled as pro-communist as a result of that photograph?

A. Yes. (Bản Ghi Chép Lại Phiên Tòa Ngày 11 Tháng 12, trang 38, dòng 21-23).

2. Về Việc Báo Người Việt Đăng Bài Viết của “độc giả” Sơn Hào

Cũng trong phiên tòa Ngày 11 Tháng 12, Năm 2014, khi Luật Sư của Saigon Nho hỏi Ông Đinh Quang Anh Thái về Bài Viết của Ông Sơn Hào “có phải Ông đã thú nhận rằng Lá Thư [của Ông Sơn Hào] có thể [lam Nguoi Viet] bị cho rằng là thân Cộng-Sản”. Ông Đinh Quang Anh Thái đã trả lời: “Đúng vậy, và tôi đã nói như thế.”

R. And then eventually Nguoi Viet News published a letter writeen by Someone identified as Son Hao. And do you admit that this letter can be seen as pro-communist?

B. Yes. I already said that. Yes.

(Bản Ghi Chép Lại Phiên Tòa Ngày 11 Tháng 12, trang 39, dòng 21-23; trang 40, dòng 1-2).

3. Dù Báo Người Việt đã cố gắng giải thích là họ đã xin lỗi cộng đồng chống cộng bao nhiêu lần, nhưng cũng tại Phiên Tòa, Ông Phan Huy Đạt đã xác nhận là Báo Người Việt không cần sự tín nhiệm của cộng đồng chống cộng. Cô Lữ Anh Thư đã nói: Họ xin lỗi rồi vẫn lập đi lập lại những lỗi lầm cũ. (trích Ký Giả Hồng Phúc phỏng vấn Lữ Anh Thư trên đài)

Ngoài hành động ra vào Việt Nam nhiều lần cuả ông Phan Huy Đạt và bà Hoàng Vĩnh (hai nguyên cáo của vụ kiện đã xác nhận là họ đã ra vào Việt Nam nhiều lần), ông Phan Huy Đạt cũng đã xác nhận báo Người Việt là một cơ quan ngôn luận độc lập; chúng tôi không cần sự tín nhiệm của cộng đồng chống cộng – “We don't need the trust of the Anti- communist community.”

Sau phiên tòa, chúng tôi vẫn muốn dành một cơ hội “sau chiến thắng” để báo Người Việt có thể trở lại sinh hoạt cùng cộng đồng với một tinh thần chống cộng mà những nhân chứng của báo Người Việt đã cố gắng làm cho Quan Tòa và Bồi Thẩm Đoàn tin như vậy suốt phiên toà. Chỉ tiếc là trong 4 tháng qua, báo Người Việt đã không “nhận diện” được kẻ thù đích thực của họ. Đó không phải là báo Saigon Nhỏ và cá nhân tôi, Đào Nương, mà chính là những người tung ra những bài viết, những hình ảnh làm lợi cho cộng sản trên mặt báo cuả họ mà thôi.

Khi tiếp tục tấn công báo Saigon Nhỏ, một cơ quan ngôn luận mà chủ trương chống cộng, lý tưởng quốc gia đã được cộng đồng Người Việt tỵ nạn cộng sản công nhận từ 30 năm qua, khi tự đặt mình vào vị trí một kẻ thù “bất cộng đái thiên” với Saigon Nhỏ sau khi “thắng cuộc” trong suốt 4 tháng qua, báo Người Việt đã tự chận đứng con đường trở lại với cộng đồng người Việt chống cộng tại miền Nam California và trên toàn thế giới. Chúng tôi, báo Saigon Nhỏ sau khi tự bảo vệ mình về phương diện pháp lý theo đúng luật lệ của đất nước này, sẽ tiếp tục con đường bảo vệ chính nghĩa quốc gia của mình, song hành với các tổ chức chống cộng hải ngoại để tranh đấu cho dân chủ và tự do. Hiện nay, song song với những bài viết tấn công Saigon Nhỏ, báo Người Việt đã đăng tải nhiều bài viết ca tụng người và việc cuả những người mà họ đã gọi là “tay sai cho giặc Mỹ”. Nhưng họ đã không gột rửa được hai chữ “thân cộng”. Họ đã không biết nắm bắt cơ hội hàn gắn lại sự rạn nứt với cộng đồng người Việt chống cộng sau khi thắng kiện báo Saigon Nhỏ, một cơ quan ngôn luận chống cộng khi bằng mọi cách, mọi phương tiện để tiếp tục tấn công nhằm mục đích triệt hạ Saigon Nhỏ. Nhưng báo Saigon Nhỏ vẫn tiếp tục vững mạnh vì sự yểm trợ của mọi người, mọi giới trong cộng đồng người Việt chống cộng, của thân chủ quảng cáo như lời bà Dương Nguyệt Ánh: “Tôi yểm trợ báo Saigon Nhỏ vì báo Saigon Nhỏ chống cộng và báo Người Việt thân cộng”

Cuối tuần qua, khi tham dự “Chiều 40 năm Quốc Hận: Tuổi Trẻ Hải Ngoại Dấn Thân Chuyển Lửa Về Quê Hương” tại Houston, Đào Nương tôi có dịp ngồi cạnh dân biểu Sylvester Turner, người sẽ ra tranh cử chức vụ Thị Trưởng thành phố Houston vào tháng 11 sắp tới. Trong phần phát biểu, Dân Biểu Turner đã nói rằng: Khắp nơi trên thế giới và ngay tại Hoa Kỳ, chiến tranh Việt Nam thường được nhắc đến như một trang sử đã lật qua, một thời của quá khứ. Nhưng khi ông hiện diện trong buổi lễ đó, ông mới thấy là chiến tranh Việt Nam vẫn còn sống trong tim, trong tâm của mỗi người Mỹ gốc Việt. Nếu đắc cử, ông hứa sẽ nêu cao tiếng nói của cộng đồng người Mỹ gốc Việt về nhân quyền, về tự do, về dân chủ, những nguyện vọng mà cộng đồng người Mỹ gốc Việt tha thiết tranh đấu cho Việt Nam.

Khi không nhận diện được “kẻ thù” của mình là chính mình thì báo Người Việt sẽ tiếp tục đi từ sai lầm này sang sai lầm khác khi tự biến mình thành một đối tượng “bị tẩy chay” không được cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản cho đi chung trên con đường đấu tranh chống cộng. Nó không phải là những “tiểu xảo” vặt vãnh để được tham dự dạ tiệc của Tập Thể CSVNCHHN dù không được mời, không phải là “chạy án” thân cộng với một cá nhân ông “treo cờ” Phan Văn Chính mà là cái tâm, cái tinh thần yêu nước, yêu dân tộc thể hiện qua sự cẩn thận trong việc chọn lựa những bài viết, những bản tin, những hình ảnh xuất hiện trên mặt báo của mình. Cái tinh thần yêu nước, yêu dân tộc ấy cũng phải được thể hiện qua hành động quang minh chính đại của những người chủ trương là: không đi đêm với lãnh tụ cộng sản, làm sao để có được lòng tin tưởng của “cộng đồng chống cộng”, không xuất bản sách của cán bộ cộng sản, không tuyên bố những lời có lợi cho cộng sản, va cẩn thận loại bỏ những bài viết làm lợi cho cộng sản.

Đào Nương tôi xin nhắc lại: kẻ thù của báo Saigon Nhỏ là đảng cộng sản Việt Nam CHỨ KHÔNG PHẢI BÁO Người Việt. Chúng tôi không cùng chính kiến với báo Người Việt như đa số những người mang chung căn cước “tỵ nạn”. Việc báo Người Việt thắng kiện báo Saigon Nhỏ trong phiên toà sơ thẩm chỉ là một trục trặc nhỏ trên con đường chống cộng của chúng tôi. Do đó, báo Saigon Nhỏ đã không trả lời những bài vụn vặt, lải nhải của báo Người Việt từ 4 tháng qua. Hành động của báo Người Việt đã chứng minh một điều: họ không làm tròn tư cách của một cơ quan ngôn luận tôn trọng đệ tứ quyền. Việc bảo vệ Saigon Nhỏ về công lý xin dành cho các luật sư của Saigon Nhỏ. Về mặt công luận, Saigon Nhỏ sẽ không phí phạm những trang giấy quý báu của mình để lải nhải “những điều không cần thiết cho công cuộc chống cộng”. Thất bại vừa qua sẽ khiến cho Saigon Nhỏ mạnh mẽ hơn, vững tin hơn vào chính nghĩa quốc gia (vì bỗng nhiên, nhận thức được là có những người bạn đồng hành, xưa nay chưa từng quen biết, nay bỗng nhiên xuất hiện như những Thiên Sứ từ trời đến để chia xẻ với mình). Nhưng để chúng tôi được tiếp tục vững tin và phục vụ chính nghĩa quốc gia, chúng tôi rất cần sự tin tưởng và hợp tác của cộng đồng người Việt chống cộng khắp nơi, một điều mà ông Phan Huy Đạt, chủ nhiệm kiêm Tổng Giám Đốc báo Người Việt long trọng xác nhận trước toà là ông ta không cần. Do đó, trong một pha “giác đấu”, điều nguy hại nhất là vẫn là không nhận diện được “kẻ thù” của mình.

Đáng thương thay là vì vậy!

Đào Nương



Saturday, May 9, 2015

DƯƠNG THU HƯƠNG và Hai Chữ QUỐC HẬN - Lê Tuấn

DƯƠNG THU HƯƠNG và Hai Chữ QUỐC HẬN

Lê Tuấn

Nhà văn Dương Thu Hương (DTH) sinh quán tại Bắc Việt, sống ở miền Bắc, gia nhập quân đội, viết văn từ năm 1985.

Bà là một trong số những người lớn lên và sống trong chế độ Cộng Sản, sau này thất vọng về tình trạng trong nước sau khi chiến tranh chấm dứt. Bà tạo được một tiếng tăm lớn ở cả trong nước lẫn ngoài nước về văn chương. Bà viết rất nhiều sách, nhiều thể loại. Sách của bà được dịch sang nhiều thứ tiếng và đoạt nhiều giải thưởng văn chương quốc tế.

Sau ngày “Giải Phóng” miền Nam, cũng giống một số trí thức trong nước, bà nhận ra bộ mặt thật của Cộng Sản và cay đắng vì đã bị lừa. Bà trở thành một người chống đối chế độ, bị ngược đãi, giam cầm, cấm đoán và sau cùng được cho phép sang Pháp sống từ năm 2006.

Bà là một trong những người có tiếng tăm được (hay bị) chính quyền Cộng Sản cho đi sống ở nước ngoài có những bài viết, những phát biểu về Việt Nam.

Tôi bỏ quê hương, chạy Cộng Sản, sống lưu vong ở Mỹ từ năm 1975. Tôi có đọc một hai cuốn sách và một số bài viết ngắn phổ biến trên mạng của bà DTH trong mấy năm gần đây. Rất phục văn tài và văn phong cũng như tri thức, lập luận sắc bén của bà, nhất là những gì bà nói và viết về đảng Cộng Sản Việt Nam (có một người bạn rất trí thức còn nói với tôi là văn chương của bà xứng đáng để được đề cử tranh giải Nobel).

Trong một bài tôi viết về ngày 30.4.1975 năm ngoái tên là “39 Năm Nhìn Lại Cuộc Đời” trên web site của tôi có một đoạn như sau:

“Nhà văn Dương Thu Hương đã đề cập tới hiện tượng ‘hối tiếc’ phát nguồn từ dân miền Bắc vì đã nghe lời đường mật của Cộng Sản trong bài nhận định tuyệt vời ‘Giải Ảo’:

(Trích) Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi thuộc số những người vỡ mộng sớm nhất. Nhưng chỉ vài năm sau, con số những kẻ vỡ mộng tăng lên một cách không ngừng. Đầu những năm 80 sự đói khổ về vật chất là con quỷ hiện hình cả ngày lẫn đêm trên toàn cõi. Đói khổ là món quà chia đều cho toàn dân, trừ một số người nắm quyền. Sự giàu có và xa hoa của một thiểu số cộng sản giống như vòi nước lạnh hắt vào mặt dân chúng. Hiển nhiên là trong dân chúng, có vô số kẻ từ chiến trường cởi áo lính trở về (Ngưng trích)”.

Phải nói là khi đọc những giòng này tôi rất xúc động và thầm cảm ơn/phục bà đã nói ra được những gì cần phải được nói ra và sự chân thành của bà bộc lộ trong những lời nói đó.

Năm nay, 2015, tôi đang dự tính viết lại bài này, cập nhật hóa, và đổi tên là “40 Năm Nhìn Lại Cuộc Đời” thì tình cờ được đọc trên mạng cuộc nói chuyện của bà với một ký giả trên đài phát thanh Á Châu Tự Do. Trả lời câu hỏi về biến cố 30-4 sau 40 năm, bà DTH nói về chữ “Quốc Hận” mà chúng ta dùng để chỉ ngày này.

(Trích): Dương Thu Hương: Về mặt những người miền Nam mà gọi là « Quốc hận » thì họ cũng phải nhìn lại. Tại sao? Tại sao lại là « Quốc hận » Trước khi hận những người khác họ phải hận chính họ. Tại sao cùng một thời điểm, người Mỹ tạo ra những điều kiện để tạo ra chính sách dân chủ của 2 nơi: miền nam Việt Nam và miền Nam Hàn Quốc. Tại sao Hàn Quốc chiến thắng mà Việt Nam chiến bại? Tại sao cùng một cơ hội lịch sử như thế, người Nam Triều Tiên họ đã chớp lấy cơ hội để biến đất nước của họ thành một xứ sở văn minh phồn thịnh, còn miền Nam thì không? Cái đó phải xét lại. (Ngưng trích)

Đọc đến đây thì tôi thấy có bổn phận phải có đôi điều nói chuyện với bà DTH.

Thưa bà,

Có lẽ trong cả cuộc đời bà, bà chưa bao giờ phải xót xa cho quê hương. Từ lúc bà sinh ra ở miền Bắc, quê hương của bà lần lượt thắng Tây, thắng Mỹ, chiếm được miền Nam thì có gì mà bà phải xót xa cho quê hương.

Và có lẽ bà không biết là chữ “Quốc Hận” đã được dùng một lần rồi. Đó là chữ miền Nam Việt Nam dùng cho ngày 20 tháng 7 năm 1954. Tôi không biết những người sống ở miền Bắc gọi cái ngày đó là ngày gì (có thể là “Ngày Chiếm Được Miền Bắc”), nhưng những người sống ở miền Nam như tôi gọi nó là “Ngày Quốc Hận” vì chúng tôi đau lòng, xót xa khi thấy đất nước bị các cường quốc họp lại, chia đôi. Vì đau lòng thấy đất nước chia đôi nên chúng tôi đặt tên cái đại lộ rộng nhất miền Nam là Đại Lộ Thống Nhất. Nhưng chính quyền miền nam chúng tôi cố gắng củng cố cho dân tình miền Nam được ổn định từ thành thị đến thôn quê, lo nơi ăn chốn ở cho gần 1 triệu người di cư từ Bắc vào Nam lánh nạn CS, lo cho học sinh – sinh viên có một nền giáo dục học đường miễn phí (tôi là một trong những người được hưởng ân huệ này). Miền Nam đặt tên con đường lớn nhất Sài Gòn là Thống Nhất nhưng những người cùng tuổi với bà ở lại miền Bắc và các thế hệ sau này chắc chắn chưa hề thấy miền Nam chúng tôi thực hiện kế hoạch nào để “Thống Nhất” quê hương về tất cả mọi lãnh vực, chính trị, kinh tế, văn hóa, và nhất là về quân sự. Sau này có những toán biệt kích nhẩy dù ra bắc hay những hải vụ hay phi vụ là nhằm phục đích “phá hoại” khi miền Bắc đem quân tấn công xâm chiếm miền Nam.

Chúng tôi gọi cái tình cảm đó là Quốc hận vì quê hương bị cưỡng chiếm. Quốc Hận là vì phải bỏ quê hương xứ sở mà đi. Quốc Hận là vì xót xa cho dân tình trong nước khốn nạn quá, đồng bào mình khốn khổ quá. Quốc Hận là vì thấy quốc gia điêu linh quá. Quốc Hận là vì bị đồng minh toa rập với Trung Hoa, Liên Sô lừa cả một dân tộc yêu hòa bình, chống ngoại xâm. Bà chỉ biết chửi Cộng Sản và cái chế độ đã lừa bà chứ bà không biết đến cái tình quê hương để có thể đưa đến sự hiểu biết của bà về hai chữ Quốc Hận.

Chưa hết. Bà còn thắc mắc: (Trích) Tại sao cùng một thời điểm, người Mỹ tạo ra những điều kiện để tạo ra chính sách dân chủ của 2 nơi: miền nam Việt Nam và miền Nam Hàn Quốc. Tại sao Hàn Quốc chiến thắng mà Việt Nam chiến bại?Cái đó phải xét lại (Ngưng trích – chữ đậm do người viết).

Bà đòi chúng tôi phải xét lại. Tại sao phải xét lại? Nhất là lời yêu cầu này thốt ra từ miệng một người (trước đây – và không còn dám nhận như thế nữa) trong đám gọi là “Bên Thắng Cuộc” tuy bà DTH đã “phản tỉnh” và bây giờ – có lẽ vì “đau” quá – nên có thái độ chống Cộng Sản VN có lẽ còn hơn chúng tôi, những người đã phải bỏ nước ra đi vì không thể chung sống với CS. Những khám phá mới của bà về sự tồi tệ của Cộng sản chúng tôi nghe từ miệng bà thốt ra cũng khoái tai, nhưng thật sự những chuyện đó quân dân miền Nam biết lâu rồi, từ năm 1954. Bà nghĩ là bà có công với dân tộc vì cái “Eureka” muộn màng lột trần mặt nạ của CS của bà nên bà mới hay lên tiếng nói những câu dậy đời như thế này.

Nhưng dậy bảo chúng tôi là phải xét lại việc dùng chữ “Quốc Hận” này thì tôi e là bà DTH với tay quá trán. Nhất là những viện dẫn của bà trong câu nói trên cho thấy bà, một là thiên lệch (chẳng thương xót gì cái gọi là VNCH, tuy thầm mơ rằng giá mà mình được di cư vào Nam hồi 54), mà còn ngây thơ (tôi không muốn dùng chữ dốt) và mù tịt về lịch sử cận đại.

Thứ nhất là Bắc Hàn chỉ “đe dọa” đòi thống nhất hai niềm Nam-Bắc. Các sự kiện xẩy ra giữa hai miền được coi là những cuộc “xung đột nhỏ” nhằm mục đích khiêu khích chứ không phải một cuộc chiến. Rất có thể là Nam Hàn, cũng như Nam Việt Nam cũng đã có những toán đặc công gửi ra Bắc với nhiệm vụ phá rối chứ không phải muốn gây chiến tranh để chiếm lại miền Bắc. Đằng này, không những Bắc Việt để một số quân nằm vùng, du kích ở lại miền Nam mà còn chính thức tấn công bằng vũ lực với cái chiêu bài giả tạo “Chống Mỹ, Cứu Nước” nhưng lại “lừa” được cả bà DTH và đám gọi là trí thức miền Bắc. Chuyện thứ hai là Mỹ không hề “đi đêm” với Tầu, với Liên Bang Sô Viết để bán đứng Nam Hàn như Nixon, Kissinger và tập đoàn tài phiệt thiên Do Thái đối xử với miền Nam Việt Nam.

Bà DTH còn nói: (Trích) Tại sao cùng một cơ hội lịch sử như thế, người Nam Triều Tiên họ đã chớp lấy cơ hội để biến đất nước của họ thành một xứ sở văn minh phồn thịnh, còn miền Nam thì không? (Hết Trích)

Xem đến câu này thì tôi chỉ còn biết cười nhạt và nghĩ rằng ở cái tuổi 68, chắc trí óc của bà không còn minh mẫn như những lời nói, bài viết của bà cách đây vài năm. Xin thưa với bà, lý do miền Nam chúng tôi không làm được như Nam Hàn là vì trong suốt hai mươi năm (54-75) chúng tôi ở miền Nam phải đối phó với một đồng minh tráo trở, và vì phải chiến đấu trường kỳ chống ngoại xâm là những người Đảng và Nhà Nước của bà đưa vào miền Nam. Một chuyện nữa là nếu đọc lại sách sử, bà sẽ thấy là, trước những năm 80, Nam Hàn thực ra chưa có gì đáng phải cho chúng ta khâm phục. Chỉ trong hơn ba thập niên sau này Nam Hàn mới thực sự tiến bộ để trở thành một “xứ sở văn minh phồn thịnh.”

Và “… còn miền Nam thì không”. Thưa bà, “Bên Thắng Cuộc” của bà đã “giải phóng” cho miền Nam Việt Nam bốn thập niên, từ ngày 30-4-75. Một phía là “Bên Bại Trận” có 20 năm để dựng nước trong một hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc; và một phía là “Bên Thắng Cuộc” với 40 năm cầm quyền trong cái gọi là Thống Nhất. Thử đặt chuyện đó lên bàn cân thì ai thắng ai thua, ai giỏi hơn ai? Cách đây trên 40 năm, miền Nam Việt Nam đã vừa phải chiến đấu chống xâm lăng, vừa phát triển đất nước, mà vẫn thành công ngang với một Nam Hàn không chiến tranh!

Có lẽ bà thù ghét cái chế độ đã lừa bà đến nỗi không thèm đọc báo Tuổi Trẻ ở trong nước. Nếu bà đọc thì chắc bà không dám mạnh miệng chê miền Nam chúng tôi vì trên tờ này, đã được tác giả Nguyễn Hoa Lư trích dẫn lại trong bài “Tuyên truyền theo phong cách ngậm ngùi rơi lệ” chỉ đạo rất kỹ cho bà về sự “khác biệt” giữa Nam Hàn và Việt Nam hiện nay: “Một quan chức cao cấp của Ban Tuyên giáo T.Ư, ông Vũ Ngọc Hoàng, đã có một phát biểu gây ấn tượng mạnh: ‘Cách đây bốn, năm mươi năm, VN và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm, tôi rà lại tư liệu thì thấy Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại VN và VN cũng có 90.000 người sống ở Hàn Quốc. Chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc tại VN làm ông chủ, làm quản lý, còn người VN ở Hàn Quốc thì chủ yếu làm ôsin. Nghe mà xót lòng”.

Thưa bà DTH, nếu bà “nghe mà xót lòng” thì cái tình cảm dấy lên trong bà gọi là Quốc Hận.

Lê Tuấn



CHUYỆN NHỎ - VIỆC KHÔNG NHỎ

CHUYỆN NHỎ - VIỆC KHÔNG NHỎ

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Chữ VIỆC ở đây ý nói là VẤN ĐỀ. Mấy bữa trước đi công chuyện về, thấy có anh bạn gọi để lại lời nhắn trong máy "Làm sao Ba Cây Trúc nó đập ông dữ thế? Vào đọc gấp đi kẻo hết". Tôi tìm vô để xem ông già Lê Hùng đập tôi ra sao. Sau đó tôi gọi qua Âu Châu để thăm dò một người bạn khác. Anh bạn giải tỏa cái ngu của tôi bằng một câu chửi bới rất dễ thương: "Mày không biết Lê Hùng và Ngô Thanh Hải là đôi bạn nối khố hay sao? Thiên hạ chửi mày ngu, đáng lắm!". Tôi hiểu ra và than thầm trong bụng: "Thì ra là thế. Thù cá nhân và trả thù. Tính quân tử của một ông già sắp xuống lỗ, nhưng lại mơ một chỗ đứng trong cái nghề làm truyền thông bựa để chống cộng cuội!"

Sau khi phổ biến bài viết "TRÒ ĐẠI BỊP" phê phán chuyện đổi chữ QUỐC HẬN thành JOURNEY to FREEDOM của Ngô Thanh Hải, tôi nhận được nhiều ý kiến phản hồi. Số lượng phản hồi nhiều có lẽ chỉ thua bài "Thánh Nữ, Đứa Con Của Thằng Cuội" trước đây của tôi. Cám ơn Ông Trời, ý tưởng trong bài của tôi đa số đều tán thành và đồng thuận. Phản hồi gay gắt và thô bạo nhất là bài viết của tác giả JB Trường Sơn với tựa đề "Bình luận về bài viết 'Trò Đại Bịp' của Duyên Lãng Hà Tiến Nhất" đăng trên trang Web Ba Cây Trúc và được một ngưòi bỏ lên internet.

Tác giả JB Trường Sơn - theo một số người - là nick của ông già Lê Hùng, chủ nhân trang mạng Ba Cây Trúc, lý do là vì cả hai đều là công giáo, có tên thánh là Jean Baptiste (JB.) Cũng có người nói là hai nhân vật này khác nhau. Dù sao, theo chỗ tôi biết thì tác giả JB Trường Sơn là một cây bút chủ lực, có quyền quyết đoán về bài vở và đường lối của Ba Cây Trúc. Theo nguyên tắc pháp lý "Tội qui vu trưởng", bài bình luận chửi bới tôi do JB Trường Sơn viết, hay Lê Hùng viết cũng thế thôi. Người chịu trách nhiệm vẫn là Lê Hùng. Trong bài bình luận, tác giả JB Trường Sơn từ đầu chí cuối chửi bới tôi ngu, và cuối cùng kết án tôi như là một quan tòa nghiêm khắc: "Đến đây chắc cũng đủ để tác giả Duyên Lãng Hà Tiến Nhất nhận biết rằng mình cần giác ngộ, kẻo càng ăn bả, càng chưởi người khác vì viết theo đơn đặt hàng… thì lời chưởi đó sẽ quật ngược vào mặt mình. Cũng xin nhắc lại lần nữa là chúng tôi không chụp mũ ông mà chúng tôi phân tích rõ ràng vết nhơ trên miệng của ông để mọi độc giả của Ba Cây Trúc thấy được sự ngu dốt của một tên bồi bút cho VC, chỉ biết nhận tiền để viết chứ chẳng hề dùng trí tuệ để phân rõ đúng sai". Điều cần nhấn mạnh là, bài gọi là bình luận của JB Trưòng Sơn không phải là một bài văn nghị luận và phê bình như thường thấy trên các diễn đàn văn học, mà là một mớ hiểu biết ấu trĩ và phản động đối với lịch sử của Dân Tộc. Tác giả viết bài này ngụy biện và xuyên tạc những luận chứng lịch sử trong bài Trò Đại Bịp của chúng tôi với mục đích bôi bẩn và triệt hạ.

JB Trường Sơn và Lê Hùng khinh miệt và chửi bới tôi ngu dốt. Chuyện này là chuyện nhỏ, tôi không care, bởi vì, ngu hay khôn, hay thông minh chẳng qua là khả năng nhận thức hơn kém giữa người này với người nọ. Cái khả năng này không phải tự mình có, mà là do Trời phú. Thượng Đế ban cho tôi có bấy nhiêu, tôi cám ơn Ngài. Thế thôi. Còn như JB Trường Sơn và Lê Hùng chửi tôi là bồi bút cho VC, nhận tiền của VC để viết, tôi coi đó là một sự nhục mạ, đồng thời là một lời vu cáo ác độc, vô liêm sỉ, và vô luân để hại tôi. Việc này làm tổn thương trầm trọng đến danh dự của tôi. Tôi không mấy tin vào luật pháp của bất cứ quốc gia nào, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào luật Trời: vu cáo làm mất danh dự của người nào phải công khai xin lỗi và đền bù thiệt hại cho người đó, nếu không là mang tội. JB Trường Sơn và Lê Hùng đều là người công giáo. Vậy tôi thách thức hai người một lời lề trước Thánh Giá Chúa. Nếu hai người vu cáo tôi, nguợc lại, nếu tôi có ăn tiền của VC mà chối, ai sai thì đời sau kẻ đó sẽ không bao giờ được nhìn thấy Chúa. Một lời thề đơn giản thôi, ông Lê Hùng và JB Trường Sơn có dám thề không?. Vấn đề tố giác tôi ăn tiền của VC để viết lách không phải là việc bầy tỏ quan điểm chính trị, càng không phải là sự thể hiện tinh thần chống cộng đứng đắn, mà là sự vu khống trắng trợn, một tội ác.

Dù sao thì cả lời chửi bới "ngu si" và việc vu cáo làm "bồi bút" đối với tôi cũng chỉ là chuyện nhỏ. Nhưng chuyện nhỏ này đưa đến một vấn đề lớn và quan trọng mà tôi bất đắc dĩ phải nói ra. Đó là việc tôi bắt buộc phải kết thúc một chuỗi dài những nghi ngờ để đi đến kết luận rằng: "Trang web BA CÂY TRÚC do các ông Lê Hùng làm chủ và ông JB Trường Sơn trợ tá là một cơ quan tuyên truyền hòa hợp hoà giải với Việt gian cộng sản". Bài bình luận của JB Trường Sơn là sự kiện cuối cùng khiến tôi đi đến kết luận này. Nó chẳng khác gì người ta nói "giọt nước làm tràn ly" vậy. Để minh chứng nhận định của tôi không phải vô căn cứ, trong bài này, tôi sẽ đưa ra hai luận chứng. Thứ nhất, vạch ra những điểm quan trọng trong bài nghị luận của JB Trường Sơn để thấy ông ta xuyên tạc và ngụy biện như thế nào, và để hiểu tại sao ông ta lại xuyên tạc và vu cáo tôi. Thứ hai, trình bầy những sự việc và khuynh hướng hòa hợp hòa giải, cùng là sự man trá trong nghề làm truyền thông thân cộng của website Ba Cây Trúc như thế nào. Dĩ nhiên để tránh dài dòng, chúng tôi chỉ xin chú trọng vào những điểm quan trọng mà thôi.

1. Xuyên tạc và ngụy biện

1.1 Thực dân Pháp không cướp nước ta và Nhà Nguyễn nhường quyền cai trị đất nước cho Pháp.

Đấy là luận điểm của JB Trường Sơn. Ông JB Trường Sơn cho rằng nước Việt Nam dưới triều Nguyễn chưa từng bị cướp mất vào tay ngoại bang mà chỉ bị ép chia quyền cai trị với Pháp. JB Trường Sơn còn viết: "… nước Việt và người dân không hề bị ai cướp đi tự do hoặc cướp nước cả. Nhà Nguyễn có nhường một phần quyền cai trị ở Nam Bộ cho Pháp."

- Nhận định - JB Trường Sơn đã tỏ ra thiển cận, chẳng biết mô tê gì về sự phân chia lãnh thổ và nền hành chánh VN dưới thời Pháp đô hộ cả. Nước Pháp đô hộ VN, đất nước ta chia làm 3 Kỳ là Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Bắc Kỳ và Trung Kỳ là đất bảo hộ (protectorate.) Quy chế bảo hộ tại Bắc và Trung Kỳ khác nhau. Đứng đầu quan lại bảo hộ tại Bắc Kỳ là Thống Sứ, tại Trung Kỳ là Khâm Sứ. Các thành phố Đànẵng, Hànội, và Hải Phòng là vùng nhượng địa cho Pháp. Nam Kỳ là thuộc địa (Colony) của Pháp do một Thống Đốc người Pháp cai trị. Nói cách khác, Nam Kỳ là lãnh thổ hải ngoại của Pháp chứ không còn phải của Triều đình nhà Nguyễn như JB Trường Sơn viết: " miền Nam Bộ (cochinchine) vẫn thuộc về một đất nước thuần tuý Việt Nam và được mọi người dân Việt Nam xử dụng coi như đất nước của dân tộc mình". Chữ Thống Đốc (governor) tiếng Việt là một chức quan thay mặt chính phủ trung ương (ở Paris) để cai trị. JB Trường Sơn nói rằng Nhà Nguyễn nhường một phần quyền cai trị ở Nam Bộ cho Pháp thì thật là lố bịch. Sự hiểu biết quá ấu trĩ và kém cỏi. Tất cả mọi sử sách đề viết, dù dưới chế độ bảo hộ (kể cả Miên Lào) hay thuộc địa, viên Toàn Quyền Pháp tại Đông Dương nắm giữ mọi quyền hành về nội trị, ngoại giao và an ninh quốc phòng. Các vua Việt Miên Lào chỉ còn đứng làm vì, có tính cách nghi lễ hơn là nắm thực quyền. Muốn biết vua Nhà Nguyễn có nhường quyền cai trị cho Pháp hay không thì xin hãy nghe vua Hàm Nghi trả lời Pháp khi Ngài bị bắt và bị Pháp dụ hàng: "Tôi, thân đã tù, nưóc đã mất, còn dám nghĩ chi đến cha mẹ, anh chị em nữa". Chúng ta thấy, nước đã mất, vua còn không tự do thì dân được tự do sao? Nếu đất nước không bị Pháp cướp mất, thì hà tất các vua Hàm Nghi và Duy Tân lại chống Pháp?

1.2 Thực dân Pháp cướp VN. Đó chỉ là luận điêu tuyên truyền của CS. Hà Tiến Nhất ủng hộ luận điệu tuyên truyền này của CS.

JB Trường Sơn viết: "Rõ ràng luận điệu cho rằng VN đã bị Pháp cướp là luận điệu của Đảng CSVN mà tác giả Duyên Lãng đang tung hô ủng hộ".

- Nhận định - Câu viết trên của JB Trường Sơn có 3 ý, cần phân tách như sau:

1. Thực dân Pháp không cướp nước ta
2. Việc Pháp cướp VN chỉ là luận điệu tuyên truyền của đảng CSVN
3. Tác giả Duyên-Lãng phụ họa tuyên truyền theo đảng CSVN.

Chúng tôi xin trả lời cho từng ý một:

1. Pháp có cướp nước ta hay không đã là chuyện đi vào lịch sử rồi. Mọi người VN đều đã biết. Chúng tôi khỏi cần phải trình bầy. Phủ nhận vấn đề lịch sử này nếu là người VN, họ đáng được coi là kẻ theo Tây và phản quốc.

2. Cho rằng Pháp không cướp nước ta, mà đó chỉ là luận điệu tuyên truyền của CS thì rõ ràng là phủ nhận công lao chống thực dân Pháp của cả Dân Tộc VN. Theo lịch sử nước nhà, trong suốt gần một thế kỷ nước Pháp xâm chiếm nước ta, nhân dân VN luôn có những cuộc nổi lên chống Pháp. Cuộc chiến trường kỳ chống thực dân Pháp này đã sản sinh ra biết bao nhiêu anh hùng Dân Tộc mà người VN tôn kính như Nguyễn Thái Học, Đinh Công Tráng, Phan Bội Châu, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thật, Hoàng Hoa Thám v.v... Xưa nay VGCS luôn dành công chống Pháp, nhưng sự thực lịch sử là, Việt Minh chống pháp chỉ là một chiêu bài lừa bịp. Hồ Chí Minh ký Hiệp Định Sơ Bộ 6-3-1946 cho phép quân đội Pháp trở lại VN. Đó là cái tội rước voi về giầy mả tổ. Hiệp Ước Genève 1954 Việt Minh ký chia đôi VN, giao miền Nam cho Pháp. Đó là tội VC bán nước cho Pháp. Thủ Tướng Ngô Đình Diệm mới là người đuổi những lên lính Pháp cuối cùng ra khỏi VN. Lịch sử đã viết rõ như thế. Tại sao JB Trường Sơn lại xuyên tạc để chạy tôi cho thực dân Pháp. Một nghi vấn cần phải làm sáng tỏ.

3. Giải quyết vấn đề Hà Tiến Nhất có phụ họa tuyên truyền theo đảng CSVN hay không thì dễ lắm. Trên đây chúng tôi đã đưa ra một lời thề và thách đố hai ông Lê Hùng và JB Trường Sơn. Nếu hai người dám thề thì tôi xin bẻ bút, từ nay về sau không viết bình luận nữa. Nếu hai người không dám thề thì hiển nhiên là họ xuyên tạc và vu khống. Mục đích là để triệt hạ Hà mỗ này?

1.3 Hà Tiến Nhất tuyên truyền cho NQ 36

JB Trường Sơn viết, DL Hà Tiến Nhất tuyên truyền cho NQ 36, kêu gọi người Việt hải ngoại nên quay về với quê hương, khuyên người Việt tỵ nạn nên chấp nhận sự mất tự do của chế độ CS hiện tại.

- Nhận định - Trong bài viết "Trò Đại Bịp", chúng tôi nêu lên sự kiện thời Pháp thuộc, có những du học sinh VN sang Pháp học, sau khi đỗ đạt, họ từ bỏ cuộc sống tự do ở bên Pháp, trở về quê hương để sống một cuộc sống không được tự do như ở nước Pháp. Sự kiện này chứng minh cho luận điểm chúng tôi đặt ra là, Tổ Quốc, Quê Hương, và những lên hệ tình cảm còn đáng quý và giá trị hơn là tư do cá nhân của con người. Tổ Quốc và những liên hệ tình cảm quý giá như thế mà người VN tỵ nạn còn phải dứt bỏ mà ra đi thì đâu phải họ đi tìm tự do cá nhân. Kết luận, người tỵ nạn trốn chạy khỏi nước vì sợ CS chứ không phải journey to Freedom như Ngô Thanh Hải bịp bợm.

Tạm cho rằng Hà mỗ tôi tuyên truyền cho NQ 36 đi, nhưng xin hỏi người Việt tỵ nạn trở về, liệu họ có còn Tổ Quốc không mà về?. Đất nước thì còn đấy, nhưng Tổ Quốc đâu còn nữa!. Sau khi vô Saigon, VGCS đã xóa bỏ khái niệm Tổ Quốc của người dân miền Nam. Chúng đồng hóa Đất Nước (hay Tổ Quốc) với chủ nghĩa xã hội qua khẩu hiệu: Yêu Nước là yêu chủ nghĩa xã hội. Cho nên, nếu người tỵ nạn có trở về thăm lại nơi xưa chốn cũ thì không phải họ trở về Tổ Quốc của họ, mà là tới đất nước xã hội chủ nghĩa của bọn VGCS. Phải ý thức rõ ràng như thế để không bị CS và tay sai lừa bịp. Vấn đề quan trọng như thế mà JB Trường Sơn không hiểu nổi, lại xuyên tạc cho rằng Hà tiến Nhất tôi kêu gọi người tỵ nạn trở về sống trên quê hương mất tự do với VGCS thì thật là ngụy biện. Giả sử bây giờ VN không còn là Xã Hội Chủ Nghĩa nữa, người viết tin chắc rằng đại đa số dân tỵ nạn, nhất là những ông bà già hay đã về hưu, sẽ ùn ùn từ bỏ Mỹ, Úc Canada v.v... kéo nhau trở về VN sinh sống. Điều này chứng minh rằng người tỵ nạn VN bỏ nước ra đi vì không chấp nhận chế độ xã hội chủ nghĩa chứ không phải nhất thiết để đi tìm tự do.

1.4 Một chuyện khá ngạc nhiên là cho đến bây giờ JB Trường Sơn còn đem vấn đề DVD của cha Lễ ra để mạt sát Hà Tiến Nhất tôi. JB rường Sơn viết: "Tuy nhiên lập trường chính trị của tác giả Duyên Lãng cũng đáng nghi ngờ thật, vì trước đây, chắc quý vị độc giả còn nhớ, khi linh Mục Nguyễn Hữu Lễ xuất bản DVD ‘SỰ THẬT VỀ HỒ CHÍ MINH” vạch trần lý lịch lươn lẹo và tội ác của tên tay sai của CS quốc tế này thì cả thế giới đều khen tác phẩm DVD này là hay và hữu ích, ngoại trừ bọn VC. Nhưng bổng nhiên ông Duyên Lãng lại nhảy vào viết bài đả kích Linh Mục Lễ một cách cay cú như thể là muốn bênh vực cho tên giặc già HCM mà chẳng thấy đưa ra được cái sai trái cụ thể nào trong DVD mà LM này đã xuất bản. Hồi đó chúng tôi tự hỏi tại sao tác giả Duyên Lãng HTN lại có hứng thú đả kích một thành quả chống Cộng tốt đẹp như vậy thì có người đã giải thích rằng: chỉ vì quá ganh tỵ trước thành quả của người khác nên Duyên Lãng HTN đã phun ra những lời độc địa chanh chua."

- Nhận định - Vấn đề này thì khỏi cần phải dài dòng. Cuốn DVD "Sự Thật Về Hồ Chí Minh" của cha Lễ còn đấy, và bài viết "Sự Thật Về HCM: Không Biết Hay Biết Mà Không Dám Nói" của chúng tôi cũng vẫn còn đấy. Bất cứ ai cũng có thể tham khảo. Hà Tiến Nhất tôi đả kích Lm Lễ ở chỗ nào, và ganh tỵ với cha Lễ ở điểm nào. Nhất tôi là một giáo dân, đi ganh tỵ với một ông linh mục là điều hết sức nhảm nhí. Tiếu lâm thật. Chúng tôi ngày trước rất kính phục và ủng hộ Lm Nguyễn Hữu Lễ, đã ba lần ngồi ăn uống vỗ vai cha Lễ một cách xuề xòa thắm tình cha con. Nhưng từ khi cha Lễ đi theo Trần Quốc Bảo và bọn Việt Tân để bị bọn này sử dụng như cái cần câu câu dollar cho chúng thì Hà Tiến Nhất tôi chê ngài.

Cái DVD của Lm Lễ, mục đích là tố cáo các tội ác của Hồ Chí Minh. Việc này rất đúng và rất kháng khen. Tuy nhiên trong số các tội ác của Hồ, còn thiếu một tội nặng nhất không thể tha thứ được"tội bán nước". Tội này không thấy ai nói đến. Vì thế chúng tôi viết bài "Sự Thật về HCM: không biết hay biết mà không dám nói" để đánh thức dư luận. Chúng tôi tự hào đã đặt vấn đề này ra trước công luận để toàn dân VN ý thức đúng tội ác tầy trời của Hồ Chí Minh là tội bán nước của hắn. Trước khi DVD của cha Lễ ra đời thì số người nói HCM bán nước chỉ là thiểu số. Chúng tôi vui mừng vì từ sau bài viết của chúng tôi, tội ác bán nước của HCM đã được mọi người biết tới và lên tiếng tố cáo. Như vậy thì việc làm của chúng tôi đúng hay sai, và sai ở chỗ nào. Chúng tôi rất thận trọng khi viết tiểu luận này, bởi biết rằng cha Lễ đã mời nhiều vị thức giả, có bằng cấp cao, xã hội biết tiếng, lại có cả người ngoại quốc lên tiếng tố cáo tội ác của Hồ Chí Minh. Chúng tôi dùng lời lẽ lễ độ, văn phong trang nhã để đặt vấn đề thì tại sao JB Trường Sơn lại cho đó là đả kích Lm Lễ một cách cay cú để bênh vực cho HCM. Rõ ràng đây là chuyện xuyên tạc bỉ ổi và vô luân.

Chúng tôi xin kết thúc PHẦN 1 của bài viết ở đây. Xin hẹn trở lại với bạn đọc ở PHẦN 2: Website Ba Cây Trúc chủ trương hòa hợp hòa giải với VGCS

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất



KHÔNG THỂ SO SÁNH NAM VIỆT NAM VỚI NAM HÀN - Lê Duy San

    KHÔNG THỂ SO SÁNH NAM VIỆT NAM VỚI NAM HÀN
    Ngày 30-4-1975 là ngày “Quốc Hận”: Bà Dương Thu Hương phát biểu: “Về mặt những người miền Nam mà gọi là “Quốc hận” thì họ cũng phải nhìn lại. Tại sao? Tại sao lại là “Quốc hận” Trước khi hận những người khác họ phải hận chính họ.”(trích từ bài phỏng vấn).
     So sánh Nam Việt Nam với Nam Hàn là phiến diện và khập khiễng: Bà DTH phát biểu: Tại sao cùng một thời điểm, người Mỹ tạo ra những điều kiện để tạo ra chính sách dân chủ của 2 nơi: miền nam Việt Nam và miền Nam Hàn Quốc. Tại sao Hàn Quốc chiến thắng mà Việt Nam chiến bại ? Tại sao cùng một cơ hội lịch sử như thế, người Nam Triều Tiên họ đã chớp lấy cơ hội để biến đất nước của họ thành một xứ sở văn minh phồn thịnh, còn miền Nam thì không ? (trích từ bài phỏng vấn)
Lê Duy San

Vào ngày 11 tháng 3 năm 2015, thông tín viên Tường An của đài RFA hỏi bà Dương Thu Hương là “Tại sao bà cho là phải xét lại chữ “QUỐC HẬN” của những người miền Nam, những người đã thua trong cuộc chiến này?”, bà Dương Thu Hương đã trả lời: “ …Trước khi hận những người khác họ phải hận chính họ. Tại sao cùng một thời điểm, người Mỹ tạo ra những điều kiện để tạo ra chính sách dân chủ của 2 nơi: miền nam Việt Nam và miền Nam Hàn Quốc. Tại sao Hàn Quốc chiến thắng mà Việt Nam chiến bại ? Tại sao cùng một cơ hội lịch sử như thế, người Nam Triều Tiên họ đã chớp lấy cơ hội để biến đất nước của họ thành một xứ sở văn minh phồn thịnh, còn miền Nam thì không?“

Nếu là một người không có trình độ và thiếu hiểu biết thì câu hỏi trên cũng là bình thường. Nhưng bà Dương Thu Hương cũng là một người đã bước vào ngưỡng cửa đại học, bà lại là một nhà văn có tiếng, một nhà bất đồng chính kiến nổi danh. Vậy mà bà lại hỏi một câu hỏi thiếu hiểu biết, nếu không muốn nói là ngớ ngẩn như vậy.

* Tuy Việt Nam và Triều Tiên bị chia đôi, nhưng hoàn cảnh khác nhau.
* Tuy cùng được Hoa Kỳ hỗ trợ, nhưng chính sách của Hoa Kỳ cũng khác nhau.

I. Tuy Việt Nam và Triều Tiên bị chia đôi, nhưng hoàn cảnh khác nhau.

Năm 1945, sau khi Thế Chiến thứ hai chấm dứt, Triều Tiên cũng bị chia hai. Nhưng vì Nhật là nước thua trận nên không còn một tí quyền hành gì để ảnh hưởng tới người Triều Tiên. Năm 1950, khi biết Tổng Thống Mỹ Truman không coi Nam Triều Tiên và Đài Loan là vành đai an toàn của Mỹ, thì Liên Sô đã coi đây là điều kiện thuận lợi để thống nhất Triều Tiên. Liên Sô đã tăng nguồn viện trợ quân sự và vũ khí cho Triều Tiên lên tới 870 triệu rúp và cử hơn 3,000 cố vấn quân sự sang giúp Bắc Triều Tiên, chuẩn bị tiến hành thống nhất lãnh thổ. Ngày 25/6/1950. Bắc Hàn (Bắc Triều Tiên) tấn công Nam Hàn (Nam Triều Tiên), có lúc Bắc Hàn đã tiến sát Seoul, thủ đô của Nam Hàn, khiến Tổng Thống Hoa Kỳ lúc bấy giờ là Truman phải xin Liên Hiệp Quốc để đưa quân vào can thiệp và đã đẩy lùi quân Bắc Hàn về phía bắc tới tận sông Áp Lục, giáp ranh với biên giới Trung Quốc. Nếu tướng Mac Arthur không bị cách chức, chắc chắn ông đã đẩy quân Bắc Hàn tới tận biên giới Trung Cộng và có thể đã thống nhất Triều Tiên dưới quyền của chính phủ Nam Hàn. Cuộc chiến kéo dài 3 năm, kết thúc bằng thoả hiệp ngừng bắn vào ngày 27/7/1953 và lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới chia đôi hai miền Nam Bắc.

Cuộc chiến Triều Tiên đã để lại hai hệ quả quan trọng sau:

1. Người dân Nam Hàn đã hiểu rõ Cộng Sản Bắc Hàn là gì. Do đó quân đội Nam Hàn nói riêng, người dân Nam Hàn nói chung, có lập trường chống Cộng Sản dứt khoát, không khoan nhượng.

2. Khi bị đẩy lui về phiá bắc, chính quyền Bắc Hàn, không có thì giờ và cũng không có cơ hội để chôn dấu vũ khí và cũng không có cán bộ để mà cài người ở lại nằm vùng phá hoại miền Nam. Do đó chính phủ và người dân Nam Hàn có thì giờ để kiến thiết đất nước, canh tân xứ sở.

Trái lại, sau năm 1945, Việt Nam tuy không bị chia đôi, nhưng Pháp thuộc phe đồng minh là phe thắng trận nên đã tìm cách trở lại Việt Nam. Việt Minh tức Việt Cộng vì muốn tiêu diệt phe quốc gia nên đã tìm cách đón nhận người Pháp trở lại rồi gây nên cuộc chiến Việt Pháp vào 18/12/1946 để giành chính nghĩa với người quốc gia. Người quốc gia ở thế kẹt, không thể nào vừa chống Việt Minh (Việt Cộng) vừa chống Pháp nên tạm thời phải chấp nhận nằm trong khối Liên Hiệp Pháp tức phải dựa vào người Pháp để chống lại Cộng Sản Bắc Việt.

Cuộc chiến Việt Pháp kéo dài 8 năm (1946-1954) và kết thúc bằng Hiệp Định Geneve, chia đôi đất nước Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới hai miền. Theo điều 10 của Bản tuyên bố cuối cùng ngày 21/7/1954 thì “chính phủ Pháp sẵn sàng rút quân khỏi lãnh thổ Việt Nam, Lào và Campuchia theo yêu cầu của chính phủ những nước liên quan trong thời gian do các bên lựa chọn”. Trên thực tế thì quân đội Pháp đã rút khỏi Việt Nam từ 1955 theo lời yêu cầu của chính phủ miền Nam Việt Nam tức chính phủ Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên nó đã để lại những hậu quả khác hẳn những hậu quả cuộc chiến Triều Tiên như sau:

1. Hầu hết người dân Việt Nam không hiểu rõ Cộng Sản Việt Nam là gì lại thêm sự tuyên truyền bịp bợm của Việt Cộng nên đều nghĩ là Việt Cộng có chính nghĩa. Do đó người dân Việt Nam nói chung, người miền Nam nói riêng, không có lập trường chống cộng dứt khoát. Phần lớn người dân quê miền Nam, ban ngày thì theo quốc gia, nhưng ban đêm lại hoạt động cho Cộng Sản Việt Nam. Ngay cả một số trí thức miền Nam cũng vậy, tuy sống dưới chính thể quốc gia, nhưng lòng họ vẫn hướng về miền Bắc. Họ tìm cách đả phá, chỉ trích chính quyền và đòi hỏi những điều chính quyền miền Nam không thể thỏa mãn họ được. Họ không cần biết là Việt Cộng luôn luôn tìm cách lợi dụng những sự bất an và xáo trộn của xã hội để phá họai miền Nam Việt Nam.

2. Theo Hiệp Định Geneve thì “Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập trung về miền Bắc; Chính quyền và quân đội khối Liên hiệp Pháp tập trung về miền Nam”. Nhưng trên thực tế, bọn Việt Cộng đã chôn dấu vũ khí và cài lại rất nhiều những cán bộ nồng cốt ở lại miền Nam để hoạt động trước khi chúng rút về Bắc.

Chính vì vậy, ngay sau khi chính quyền miền Nam không đồng ý thực hiện tổng tuyển cử vào năm 1956, bọn cộng sản Bắc Việt đã ra lệnh cho những cán bộ nằm vùng của chúng hoạt động trở lại. Nào là đáp mô, phá hoại cầu cống, gây cản trở lưu thông. Nào là đặt mìn khủng bố, pháo kích sát hại dân lành, gây bất ổn cho cuộc sống của người dân. Rồi tới cuối năm 1960 (20/12/60), chúng lại cho thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để chính thức gây chiến với Việt Nam Cộng Hoà.

II. Tuy cùng được Hoa Kỳ hỗ trợ, nhưng chính sách của Hoa Kỳ cũng khác nhau.

Mặc dầu Tổng Thống Truman tuyên bố vành đai an toàn của Mỹ không bao gồm Nam Triều Tiên và Đài Loan và Mỹ sẽ không dùng hành động quân sự trực tiếp bảo vệ khu vực này, nhưng khi thấy Liên Sô giúp Bắc Hàn tấn công Nam Hàn, Tổng Thống Truman đã khẩn cấp đưa vấn đề ra trước Liên Hiệp Quốc và xin Liên Hiệp Quốc đưa quân vào can thiệp. Và khi cuộc chiến kết thúc bằng thoả hiệp ngừng bắn vào ngày 27/7/1953 và lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới chia đôi hai miền Nam Bắc, chính phủ Mỹ vẫn để lại hơn mấy chục ngàn binh sĩ để bảo đảm an ninh cho Nam Hàn.

Năm 1961, tướng Park Chung Hee cầm đầu một cuộc đảo chính quân sự vào ngày 16 tháng 5 lên làm lãnh đạo của Ủy ban Cách mạng (tiền thân của Hội đồng Tối cao Tái thiết quốc gia sau này). Ông trở thành vị Tổng thống độc tài của Đại Hàn Dân Quốc vào năm 1963, tại nhiệm trong bốn nhiệm kỳ, tổng cộng 18 năm nếu tính từ năm 1961

Trái lại, Nam Việt Nam được Hoa Kỳ và thế giới coi như tiền đồn chống Cộng ở Đông Nam Á, Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tuy cũng độc tài, nhưng so với Tổng Thống Park Chung Hee của Nam Hàn thì còn thua xa. Vậy mà ông lại bị Hoa Kỳ tìm cách lật đổ chỉ vì ông muốn bảo vệ chủ quyền quốc gia, không cho Hoa Kỳ đem quân vào Việt Nam. Điều đó chứng tỏ rằng khi cần thì Hoa Kỳ tìm mọi cách vào Nam Việt Nam cho bằng được. Nhưng khi thấy không cần vì đã bắt tay được với Trung Cộng, thì Hoa Kỳ sẵn sàng ký cho bằng được Hiệp Định Paris năm 1973 và bỏ Nam Việt Nam bằng mọi giá để rút quân khỏi Việt Nam. Thực vậy, năm 1975, khi thấy Việt Cộng vi phạm Hiệp Đinh Paris, xua quân xâm chiếm miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ không những không đem quân ngăn chặn như Hoa Kỳ đã hành động trong chiến tranh Triều Tiên vào năm 1950 mà còn cắt luôn cả viện trợ cho Nam Việt Nam sớm lọt vào tay Cộng Sản.

Tóm lại, không thể so sánh Nam Việt Nam với Nam Hàn mà vội kết luận rằng những nhà lãnh đạo Nam Việt Nam quá kém cỏi, đã để mất miền Nam trong khi Nam Hàn, không những vẫn giữ vững được chính quyền mà còn phát triển được đất nước và biến đất nước của họ thành một xứ sở văn minh phồn thịnh.

Thử hỏi, trước năm 1963, tức trong thời kỳ của nền Đệ Nhất Cộng Hoà Việt Nam, trong vùng Đông Nam Á, đã có nước nào bằng Việt Nam Cộng Hoà? Quân đội thì hùng mạnh, giáo dục tốt đẹp, có chất lượng cao và đầy tính cách nhân bản, kinh tế thì tự túc, nhiều nhà máy như nhà máy giấy, nhà máy dệt, nhà mày đường, nhà máy xi măng, nhà máy bột giặt v.v… được xây dựng, xã hội thì lành mạnh và có kỷ cương v.v… Người dân miền Nam đã được đã được sống một cuộc sống thanh bình và no ấm.

Chính bà Dương Thu Hương đã phải bật khóc khi vừa từ Bắc vào Nam năm 1975 khi th ấy Saigon hoa lệ và sự sung túc của người dân miền Nam. Sao nay bà lại quên mà hỏi rằng: Tại sao cùng một thời điểm, người Mỹ tạo ra những điều kiện để tạo ra chính sách dân chủ của 2 nơi: miền nam Việt Nam và miền Nam Hàn Quốc. Tại sao Hàn Quốc chiến thắng mà Việt Nam chiến bại ? Tại sao cùng một cơ hội lịch sử như thế, người Nam Triều Tiên họ đã chớp lấy cơ hội để biến đất nước của họ thành một xứ sở văn minh phồn thịnh, còn miền Nam thì không?

Nếu Việt Cộng miền Bắc không nghe theo quan thày Liên Sô, Trung Cộng, để tấn công miền Nam hầu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á, nếu Hoa Kỳ vẫn ủng hộ và viện trợ cho miền Nam thì miền Nam để chống lại Cộng Sản miền Bắc, thì miền Nam Việt Nam đâu có mất và ngày nay đâu có thua kém gì Nam Hàn?

Lê Duy San



Friday, May 8, 2015

Khoa Học Gia Dương Nguyệt Ánh phát biểu về ngày 30-4-75

Khoa Học Gia Dương Nguyệt Ánh phát biểu về ngày 30-4-75





Thursday, May 7, 2015

Road to a human head transplant

Russian surgeon Vladimir Demikhov grafted the head and forepaws of one dog on to another in 1959. Picture: Sovfoto/UIG 

AN ITALIAN surgeon’s macabre plan for the world’s first head transplant has sparked controversy in the medical community.

Scientists have called it impossible, stupid and even homicidal. But Dr Sergio Canavero is determined to make history by fusing the head of a 30-year-old with a terminal muscle-wasting disease on to a new body.

Despite its many detractors, the doctor’s grisly scheme has a strong precedent. But the litany of failures and ghastly successes should surely give our modern-day Frankenstein pause for thought.
Valery Spiridonov, left, will be the first human to have a head transplant. Source: australscope

DOG TRANSPLANT

In 1908, American physiologist Charles Guthrie sewed a second head onto a dog’s neck, linking the arteries so blood flowed first to the severed head, then to the other. The decapitated head was without oxygen for about 20 minutes, but regained small movements and reflexes, including twitching nostrils, lolling tongue and contracting pupils.

DOG TRANSPLANT II

Soviet transplant pioneer Vladimir Demikhov was the next to create two-headed dogs. In the 1950s, he transferred 20 puppy heads onto adult dogs using a “blood vessel sewing machine” to minimise time without oxygen. He took the whole head and forepaws, with the oesophagus trailing out over the dog’s side. His “experiments” survived between two and 29 days, with the new heads acting like puppies and drinking milk and water. But Dr Demikhov’s notes recorded some strange outcomes, including the new head biting the ear of the other, and “tugging as if trying to separate itself from the recipient’s body.” In 1959, China also announced two successful dog head transplants.
Dr Demikhov’s two-headed dogs survived up to 29 days. Source: Corbis

MONKEY TRANSPLANT

American neurosurgeon Dr Robert White successfully performed a head transplant on a monkey in 1970. It was paralysed from the neck down but was able to hear, smell, taste and move its eyes. However, Dr White was unable to fuse the spinal cord and the monkey died after nine days because its immune system rejected the “foreign” head. He later wrote: “The Frankenstein legend, in which an entire human being is constructed by sewing various body parts together ... will become a clinical reality early in the 21st century”. Dr Canavero told Live Science he had dreamed of performing a head transplant since he read about Dr White when he was 15.

HEADLESS BODIES

In 1996, William Shawlot and Richard Behringer from the University of Texas created 125 headless mice by removing a gene called Lim1 from the developing embryos, Discover Magazine reported. Only four embryos survived until birth, when they died of asphyxiation because they had neither nostrils nor mouths. A year later, headless tadpoles were created in an English laboratory, raising the possibility of using frogs to clone body parts for humans. Ethicists raised concerns over the idea of creating “grotesque” headless or brainless humans.
Dr Demikhov performing one of 20 experimental head transplants. Picture: Howard Sochurek/The LIFE Picture Collection  

RAT TRANSPLANT

In 2002, Japanese researchers experimented with grafting baby rat heads on to adults’ thighs. The team said that, if kept cool while the blood flow is stopped, a transplanted brain could develop as normal for at least three weeks, and the mouth of the head would move, as if it were trying to drink. They claimed the heads could be useful for testing brain function after a lack of blood flow, but the international community was sceptical about the benefits of the unpleasant technique, according to New Scientist.


FACE TRANSPLANT

The world’s most comprehensive face transplant was performed in 2012, on 37-year-old Richard Norris, who had been left disfigured by a gunshot wound 15 years earlier. Norris gained a new jawbone, teeth, a portion of the tongue, and soft facial tissue, and regained some function of his nerves and muscles, although doctors admitted the operation wasn’t perfect.
Richard Norris had the most extensive face transplant to date. Source: AP

MICE TRANSPLANT

In 2014, Xiao-Ping Ren and colleagues in China reported a head-swapping experiment in mice, resulting in a white mouse with a black head, and vice versa. The mice lived up to three hours after being removed from a ventilator. The body’s brain stem was kept intact, so the body could continue to control its own heartbeat and breathing.
Frankensteini's monster could be about to come to life. Source: News Limited

HUMAN TRANSPLANT

Now it’s Dr Canavero’s turn to try the shocking surgery on computer scientist Valery Spiridonov. The doctor plans to cool body and head so the cells do not die when deprived of oxygen. The neck of the patient will be severed and the crucial blood vessels hooked up to tubes while the spinal cord on the head and the body are severed. The head is then moved onto the body, the two ends of spinal cord fused together, and the muscles and blood supply stitched up.

The patient will then be put into a three or four-week coma to let the body heal itself while embedded electrodes stimulate the spinal cord to strengthen the new nerve connections.

Dr Canavero has already given a Ted Talk and will give a keynote address on head transplantation next month, ahead of the planned surgery in 2017.

Science-fiction has become reality, and the results could be monstrous.




Tuesday, May 5, 2015

TRÒ ĐẠI BỊP - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

    TRÒ ĐẠI BỊP
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Xin nói ngay để bạn đọc khỏi phải mất công đoán già đoán non. Màn đại bịp đây là vấn đề Hành Trình Tìm Tự Do (Journey to Freedom) của ông Ngô Thanh Hải (NTH) bên Cannada. Nó có tính quốc tế bởi vì có đến hơn một nước dính vào. Tại sao cho đó là chuyện bịp bợm thì chúng tôi sẽ trả lời và chứng minh. Xin nhấn mạnh, chứng minh dựa trên chứng cứ cụ thể đàng hoàng, chứ không phải bàn tán viễn vông. Sau đó chúng tôi sẽ giải thích việc bịp bợm này gây tác hại như thế nào đối với tiền đồ của Dân Tộc.

Đạo luật S-219 của NTH sau khi được Quốc Hội Canada biểu quyết thông qua thì lập tức đại đa số dư luận lên tiếng phê phán gắt gao. Chỉ có một số (một số thôi), nhất là bọn lính "xung kích" của Việt Tân và Liên Minh Dân Chủ, nhẩy choi choi, hít hà khen lấy khen để. Cũng có một vài cái đầu tôm hùa theo. Có tên còn đem GS Nguyễn Ngọc Huy ra để bảo đảm đạo luật S-219 là một kiệt tác chống cộng của Liên Minh Dân Chủ, vì bị VGCS "điên cuồng chống đối" (?!) Càng bịp bợm hơn ở chỗ đó. Đem cố GS Nguyễn Ngọc Huy ra làm bình phong cho chuyện bất chánh càng chứng tỏ bất chính hơn. Cho dù GS Huy còn sống, chúng tôi cũng sẽ không ngần ngại nói với ổng rằng Journey to Freedom là một trò đại bịp.

Để tố giác chuyện bịp bợm này, chúng tôi đã có trình bầy trong một buổi hội luận trên internet, nhưng cảm thấy chưa hài lòng vì con số tham dự thảo luận có giới hạn. Chúng tôi muốn lặp lại trong một bài viết như thế này, hy vọng vấn đề sẽ được biết đến rộng rãi hơn trong quảng đại dư luận.

Như mọi người đều thấy, trong dịp tưởng niệm ngày 30-4 năm nay [2015] đã xẩy ra ba sự kiện khiến dư luận quan tâm. Thứ nhất là chuyện ông TS Nguyễn đình Thắng tổ chức hội họp có bán vé thu tiền để vinh danh người lính VNCH nhân ngày Quân Lực 19-6. Thứ hai là chuyện đài Little Saigon TV ở nam California tổ chức mời gọi người tỵ nạn VN khắp nơi tụ tập về Camp Pendleton để tưởng niệm ngày 30-4. Và thứ ba là chuyện ông TNS Ngô Thanh Hải bên Canada đưa ra quốc hội nước này dự luật S-219, gọi là Hành Trình Tìm Tự Do để biểu quyết.

Chuyện thứ nhất ông NĐT vinh danh người lính VNCH. Ông NĐT là một người xưa nay sinh sống bằng phân (fund.) Ông bầy ra cái trò vinh danh này nọ để fund raising là chuyện bình thường, chứ vinh danh cái con mẹ gì, biết được cái gì mà vinh danh. Ông chìa ra chiếc bình bát trước chỗ ông đi qua bà đi lại là chuyện nhỏ. Xong việc, ông đút tiền vào túi, lái xe ra về thơ thới hân hoan. Thế là xong. Chuyện không hại ai, không để lại di lụy gì cho cộng đồng cũng như cho đất nước. Chỉ có điều NĐT bịp quá lố, không đủ tư cách mà dám làm chuyện trên trời dưới đất nên mới bị chống.

Thứ hai, chuyện đài Little Saigon TV tưởng niệm 30-4 tại Camp Pendleton, đề tài cũng là Jouney to Freedom, và còn thêm cái đuôi "and Beyond". Chữ "and Beyond" muốn nói, không những được tự do, mà hơn thế nữa là còn được ấm no hơn, đầy đủ hơn, nhà cao của rộng hơn, tiền bạc rủng rỉnh hơn, con cái thành đạt hơn, vân vân và vân vân. Cũng hợp lý thôi. Đời mà, ai chẳng có mơ ước. Journey to Freedom and Beyond của Little Saigon TV đáng kể là chuyện "chí lớn gặp nhau" với Journey to Freedom của ông NTH. Có điều đáng nói là vụ tụ tập tại Camp Pendleton bị nhà nước Mỹ cấm chào Cờ Vàng nên mới gây ra nông nỗi: chào cờ ở đâu bây giờ? Chuyện này cũng nên nói tới, nhưng xin đề cập đến sau.

Thứ ba là chuyện ông NTH Journey to Freedom. NTH Journey to Freedom khẳng định là chuyện bịp. Dưới đây, chúng tôi sẽ chứng minh NTH bịp và bịp bợm cái gì.

Xin đưa ra hai bối cảnh, đặt chính sự VN lúc đó vào trong từng bối cảnh để từ đó bạn đọc có thể tự tìm ra câu trả lời cho từng vấn đề muốn biết. Bối cảnh thứ nhất là tình trạng thực dân Pháp thôn tính nước ta. Triều đình nhà Nguyễn và Dân Tộc VN bị mất nước và mất luôn tự do trong tay thực dân Pháp. Bối cảnh thứ hai là chuyện đảng CSVN "giải phóng" miền Nam. Xin lưu ý chữ GIẢI PHÓNG. GIẢI PHÓNG mang ý nghĩa là miền Nam bị "Mỹ Ngụy" kìm kẹp đủ thứ và tự do của người dân bị mất luôn, nay được đảng CS giải phóng, tức là CS bẻ cùm, chặt xích cho dân chúng, đem lại tự do hạnh phúc cho mọi người, và còn nhiều, rất nhiều nữa. Câu hỏi đặt ra là tại sao khi thực dân Pháp cướp nước ta lại không có người VN nào bỏ đất nước mà đi? Ngược lại, khi "người anh em" CS miền Bắc "giải phóng" miền Nam thì người dân miền Nam ùn ùn trốn chạy khỏi nước? Lạ và nghịch lý quá có phải không? Tình trạng nghịch lý này đưa chúng ta đến kết luận là, cái chế độ "giải phóng" của người "anh em ruột thịt miền Bắc" phi dân tộc, phi huynh đệ, tồi tệ, tàn bạo, dã man, ác độc, và khốn nạn hơn chế độ "thực dân" Pháp gấp ngàn vạn lần. Đó là sự thực không thể chối cãi được.

Vẫn giữ nguyên cái bối cảnh đất nước ta bị thực dân Pháp xâm chiếm. Trong tình trạng đất nước bị đô hộ, không những đã không có người dân VN nào bỏ nước ra đi tìm tự do mặc dù họ bị mất tự do. Nhưng hơn thế, lại còn có rất nhiều thanh niên VN sang Pháp du học. Những du sinh này xin gọi chung một tiếng là "công tử Bặc Liêu" cho tiện, bởi vì phần lớn họ là cư dân đồng bằng Nam Bộ, có tiền, có của nên mới có khả năng đi Tây học. Đám công tử Bặc Liêu từ nơi quê hương mất tự do, sang Pháp dĩ nhiên là họ được hưởng không khí tự do của nước Pháp. Được tự do như thế mà cũng không thấy có ai bảo lãnh cho cha mẹ, anh chị em, và thân nhân sang Pháp sống. Trái lại, học xong, lấy được bằng cấp rồi, họ từ nước Pháp tự do trở về sống tại quê hương mất tự do của họ. Tại sao thì chỉ có thể giải thích là, đối với các công tử Bạc Liêu, cuộc sống tự do tại nước Pháp mà họ được hưởng không có giá trị bằng cuộc sống thiếu tự do trên quê hương, vì đó là Tổ Quốc của họ, ở đó có cha mẹ, vợ con, anh chị em, thân bằng quyến thuộc, bạn bè, mồ mả tổ tiên của họ. Giản dị là thế và nhất định là thế. Như vậy thì hiển nhiên là, mối liên hệ tình cảm của con người còn thiêng liêng, cao quí hơn tự do cá nhân nhiều, nhiều lắm. Người tỵ nạn chẳng ai ngu dại gì tự nhiên bỏ đi những cái thiết thân và đáng quý để đổi lấy cái mà giá trị còn thua kém.

Đến đây thì chúng tôi đã có đủ lý lẽ và chứng cứ để có thể kết luận về ông NTH rồi. Nếu ông Hải không phải là người VN tỵ nạn CS thì thôi. Còn như ông là người VN tỵ nạn CS thì kết luận của chúng tôi về ông tiên quyết phải đúng, bởi vì nó đúng cho hàng triệu người thì không lẽ lại sai đối với ông?

- Thứ nhất, ngày 30-4-1975, ông Hải trốn chạy khỏi Saigon vì CS chiếm Saigon chứ không phải ông chủ tâm ra đi tìm tự do. Nói khác đi, CS cái nguyên nhân chính yếu khiến ông Hải phải trốn chạy khỏi quê hương.

- Thứ hai, ông Hải phải từ bỏ những liên hệ thiêng liêng, cao quý nhất của ông vì bất đắc dĩ. Nghĩa là nếu CS không vô Saigon thì ông NTH không chạy và không bỏ lại cái gì hết. Điều này giải thích rằng, NTH sợ CS mà trốn chạy để thoát thân chứ không phải tự ý journey để tìm tự do theo ý muốn. Nếu CS không vô thì NTH sẽ không journey. Nếu NTH mê tự do Canada hơn Tổ Quốc, quê hương, người thân, bạn bè, mồ mả tổ tiên thì ông không còn phải là người VN nữa. Tư cách không xứng đáng làm đầy tớ cho các công tử Bạc Liêu.

Ngày 30-4-1975 NTH trốn chạy khỏi Saigon vì sợ CS, thì lúc đó tự do mới chỉ là một mơ ước trong đầu. Đã nói là Journey to Freedom thì Freedom phải là một mục tiêu định trước, biết nó thế nào, ở đâu, đạt tới nó bằng cách nào. Nếu tự do mới chỉ là mơ ước thì NTH làm sao biết nó ở đâu, làm cách nào mà đến với nó. Điều mơ ước này chỉ trở thành hiện thực khi NTH lênh đênh trên biển cả, may mắn được tầu Canada vớt (giả dụ). Nhưng nó trở thành nỗi tuyệt vọng nếu thuyền của NTH bị chìm ngoài biển, hoặc gặp tầu của Nga hay của Tầu cộng vớt, thì vô tù là cái cẳng, làm gì có tự do (vẫn là giả dụ thôi). Như vậy thì làm sao nói là Journey được? Không lẽ NTH dùng chữ mà không hiểu chữ!

- Thứ ba, ngày 30-4-75 là ngày tang tóc cho toàn dân vì chúng ta đã mất tất cả. Toàn thể nhân dân VN sợ CS quá đành phải bỏ tất cả mà trốn chạy. Như thế mà không hận sao!. Gọi 30-4-1975 là ngày Quốc Hận đúng quá rồi còn gì nữa? Cho đó là hành trình đến tự do (journey to Freedom) không là sai bét sao?. Năm nay, người VN, kể cả trong nước đều đau buồn tưởng niệm ngày 30-4-1975, gọi đó là ngày Quốc Hận. Coi số đông là chính đạo. Đó là biểu hiện của dân chủ. Sự thể đại đa số đồng bào rầm rộ tưởng niệm Quốc Hận năm nay là một lời phản kháng mạnh mẽ sự thiển cận hay cái dã tâm của NTH, là bằng chứng hùng hồn chứng minh cho NTH biết rằng ông ta sai, và sai lầm thê thảm.

Thế nhưng tại sao NTH vẫn ngang nhiên bảo thủ việc làm sai trái của mình, và đồng bọn của Hải vẫn reo hò trò bịp bợm của NTH?

Nếu ông NTH lấy khoảng thời gian nhiều năm trời có dòng người VN đi tìm đất dung thân mà gọi đó là Journey to Freedom thì nên cho là đúng. Chấp nhận được. Nhưng ông gọi ngày 30-4-1975 là Journey to Freedom thì hoàn toàn sai, sai từ hình thức đến nội dung. Không thể chấp nhận. Chẳng ai có thể tin một người có bằng cấp cao, lăn lộn trong chính trường lâu năm, giữ chức vụ cao trong chính quyền Canada như ông NTH mà dốt nát chữ nghĩa đến thế. Đây là điểm quan trọng. Vì thế, chỉ có thể kết luận rằng NTH dùng chữ Journey to Freedom là một dụng ý lừa bịp. Xem xét quyền lợi của các bên liên hệ: VGCS, ông Harper, và cá nhân Ngô Thanh Hải, người ta có thể dễ dàng đi vào chỗ đen tối và sâu thẳm nhất trong đầu của NTH.

- VGCS - VGCS cần xóa đi các vết tích tội ác của chúng và triệt hạ lá Cờ Vàng. Chắc chắn thế. Quốc Hận là một tội ác của đảng VGCS. Chữ Quốc Hận ghi dấu tội ác của CSVN trong lịch sử Dân Tộc. Do đó VGCS cần phải bôi xóa hai chữ Quốc Hận. VGCS không thể ra mặt làm. Chúng phải nhờ đến các chính phủ ngoại quốc nơi có đông người VN tỵ nạn làm dùm. Các chính phủ ngoại quốc cũng không thể ra mặt làm. Họ phải dùng đến bọn tay sai là người Việt tỵ nạn. Nên nhớ rằng trong lịch sử Dân Tộc, chưa bao giờ VGCS tự chúng thắng được người Quốc Gia bất cứ về phương diện nào, trừ khi chúng sai khiến được bọn Quốc Gia làm đầy tớ cho chúng. Nhìn vào tình hình đất nước trước ngày 30-4-75 thì thấy rõ. Để xóa chữ Quốc Hận, VGCS vài năm trước đã phải qua trung gian Mỹ, nhờ Mỹ sai bọn đầy tớ Việt Tân, cụ thể là Nguyễn Ngọc Bích, làm nhưng thất bại. Nay chúng chuyển vấn đề qua Canada nhờ Harper làm dùm. Ông Harper giao việc cho NTH. Công việc tại Canada thấy có đôi chút tiến triển. Xóa đi được hai chữ Quốc Hận trong lịch sử VN, thay thế bằng mấy chữ Journey to Freedom, kết quả sẽ là, sau này đảng VGCS có thể giải thích với các thế hệ con cháu tương lai rằng, sau chiến tranh thì nước nào cũng thế chứ không riêng gì VN, đảng phải giới hạn một số quyền tự do của nhân dân để giữ vững an ninh cho việc xây dựng và phát triển đất nước. Lúc đó, có một số người vì không tán thành đường lối của đảng nên họ ra đi. Cuộc ra đi đó được chính họ mệnh danh là Journey to Freedom. Con cháu chúng ta sau này nghe VGCS lấp liếm như thế, sẽ tin rằng đảng CS làm đúng, khôn ngoan và chính đáng. Bằng cớ để chứng minh là cái Đạo Luật S-219 của NTH bên Canada!!!

VGCS còn cần phải triệt hạ luôn lá Cờ Vàng 3 Sọc Đỏ. Chuyện này cũng rất quan trọng. Vì không còn lá Cờ Vàng biểu tượng đối kháng của người Quốc Gia, VGCS sẽ lẻo mép rằng: "Thấy không, cả đến những kẻ journey to Freedom ngày xưa, bây giờ cũng đã nhận ra lẽ phải và theo đảng rồi …". Cần nhớ lại, có một lần tên cố thủ tướng VGCS Võ Văn Kiệt sang Pháp để chiêu hồi người tỵ nạn quy thuận CS. Tên Kiệt dụ khị: "Miễn là đồng bào dẹp lá cờ đi thì muốn gì đảng cũng sẽ thỏa mãn". Lá Cờ là một biểu tượng người tỵ nạn dùng để phục quốc. Không có lá Cờ không được. Còn lá Cờ thì VGCS còn mất ăn mất ngủ. Xem ra không mấy người tỵ nạn hiểu, nhưng Võ Văn Kiệt hiểu rất rõ như thế, nên hắn mới múa mép lời đường mật với đồng bào tỵ nạn. Làm lễ tưởng niệm ngày 30-4 tại Camp Pendleton nhưng bị chính quyền trung ương Mỹ cấm chào cờ trong trại. Chúng ta có quyền nghi ngờ rằng đó là cách Mỹ tiếp tay với VGCS để giúp chúng tiêu diệt lá Cờ Vàng. Hàng mấy chục năm nay, năm nào mà người tỵ nạn không tưởng niệm 30-4 tại Camp Pendleton. Luật thì đã có từ lâu. Tại sao mấy chục năm trời nay người ta không áp dụng luật, mà bây giờ mới đem luật ra để làm khó dễ nhau?. Hành động của Mỹ cho thấy, Mỹ càng ngày càng o bế VGCS, và lúc này đây là lúc Mỹ cần phải ra mặt làm một cử chỉ nào có ý nghĩa để chứng minh cái tâm "đen như mõm chó" của chính phủ Hoa Kỳ?.

Chúng tôi thấy cần phải nói thêm đôi điều về vấn đề người Mỹ giúp VGCS triệt hạ tinh thần chống cộng của người tỵ nạn chúng ta như thế nào. Hẳn nhiều người cũng đã biết. Cách đây vài ba tuần có một quân hạm Mỹ do một hạm trưởng là một người tỵ nạn lái cập bến Đà Nẵng để thăm xã giao hải quân CSVN. Hạm trưởng này là ông Đại tá Lê Bá Hùng. Điều đáng nhấn mạnh là đại tá Hùng là người tỵ nạn, con trai của một vị Hải Quân Trung Tá QLVNCH. Hải Quân Mỹ có cả hàng ngàn, hàng vạn hạm trưởng, tại sao chính phủ Mỹ không giao công tác mà lại sai một người VN tỵ nạn đi thăm quân đội của ngụy quyền bán nước, kẻ thù không đội trời chung của cộng đồng tỵ nạn?. Người ta có thể dễ dàng nhìn thấy được ý đồ của chính quyền Hoa Kỳ trong sự phân công này. Một đàng, chính phủ Mỹ muốn chứng tỏ với VGCS rằng ngưòi tỵ nạn đã chấp nhận HHHG với VGCS rồi. Đàng khác, Mỹ muốn khuyên bảo chúng ta, hãy xem gương Lê Bá Hùng mà HHHG với CS đi. Đại Tá Hùng xuất thân từ một gia đình chống cộng nòi mà còn thân thiện với VGCS như thế, thì tại sao cộng đồng tỵ nạn cứ phải chống cộng miệt mài, chống cộng hoài hủy vậy?

- Ông Harper - Có nhà lãnh đạo nào của các quốc gia dân chủ mà không cố gắng làm cho dân giầu nước mạnh? Ông Harper cũng vậy thôi. Trách nhiệm của ông là làm sao cho dân Canada giầu, nưóc Canada mạnh. VN là một nơi, dưới con mắt ông Harper, có thể dễ đầu tư, dễ giao dịch thưong mại v.v... VGCS nhìn thấu suốt sự thèm khát của ông Harper nên chỉ cần đưa ra một lời hứa hẹn nào đó thì bảo sao chúng nói gì mà ông Harper không nghe. Lại nữa, Canada xưa nay vốn là một đồng minh thân thiết của Mỹ. Ông Parper giúp đỡ Mỹ một chút là điều phải đạo. Giúp Mỹ tức là giúp VGCS, có khác gì. Điểm khác nữa làm ông Harper có thể yên tâm là tính vô tội vạ của dự luật S-219 đối với đất nước Canada, cũng không làm sứt mẻ uy tín của ông Harper đối với dân chúng Canada. VGCS nói quấy quá vài câu phản đối Canada là có ý đóng kịch để che mắt thôi. Vấn đề miễn là Journey to Freedom chứ không Quốc Hận là đẹp rồi.

- Ngô Thanh Hải - Nên biết rằng, ông Thủ Tướng Harper bê NTH lên chức Thượng Nghị Sĩ Quốc Hội Canada. Đó là một ân huệ rất lớn đối với NTH. Người VN chúng ta vốn được cha ông dậy: "ăn cây nào, rào cây đó". Hay: "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Do đó, bảo vệ cái ghế thủ tướng của ông Harper phải là nhiệm vụ hàng đầu của NTH. Ông Harper sai bảo gì mà NTH không làm, thử bảo đâm đầu vào đống phân xem NTH có dám cãi không?. Đệ nạp dự luật S-219 lên Quốc Hội, NTH bị cộng đồng tỵ nạn khắp thế giới phản đối. Đó là lý do tại sao VGCS lại điên cuồng chống. Đóng kịch thôi. Sợ Harper chùn bước và cái ghế của NTH bị lung lay, VGCS phải vội vã lên tiếng cằn nhằn vài câu cho có lệ, thế mà nhiều cái ống loa đồng bọn của NTH và Việt Tân ở hải ngoại đã mừng húm, cho rằng VGCS đau như đỉa phải vôi nên mới lồng lộn phản đối. Rõ nỡm và ngu xuẩn. Thấy cái ghế của NTH bị long ốc, VGCS lấy kìm xiết lại mấy con vít cho chắc lại thôi chứ có gì đâu mà vui mừng.

Như trên chúng tôi đã trình bầy, thà như chuyện kiếm tiền của Nguyễn Đình Thắng mà còn có thể tha thứ, vì nó vô tội vạ. Còn như đạo Luật S-219 Journey to Freedom của NTH mới là chuyện vô cùng tai hại, không tha thứ được, vì nó gây ra không biết bao nhiêu di lụy cho Dân Tộc sau này. Mục tiêu của đạo luật S-219 bước đầu là xóa đi vết tích tội ác của đảng VGCS, và sau cùng là cung hiến cho VGCS chứng cứ để chúng tự biện rằng các tội ác của đảng là những biện pháp bắt buộc do tình thế đòi hỏi. Nó khôn ngoan, chính đáng, và phải chấp nhận. Đưa nhân dân VN đến quan điểm này là một phương pháp thực hiện HHHG tinh vi nhất và thâm độc nhất. Cá nhân NTH hòa với VGCS cũng chẳng có gì đáng nói, nhưng NTH bịp một chính phủ ngoại bang để thúc đẩy nhân dân VN hòa với VGCS là chuyện dứt khoát không thể để yên được.

Để cho việc đánh giá Journey to Freedom thật công minh, cũng cần phải biết ông NTH có chống cộng không kẻo oan cho ông ta. Điều này thì chính NTH tự ông đã làm sáng tỏ cho mọi người thấy. Trong một cuộc phỏng vấn của nhà báo Thanh Trúc, ông NTH phát biểu: "Chúng ta bỏ nước đi tìm tự do chứ đâu phải là hận thù gì cộng sản đâu". Rõ ràng nhá. NTH không hận thù CS thì ai bảo ông ta chống cộng?. Ngay khi dự luật S-219 được đưa ra biểu quyết thì một dân biểu trong Quốc Hội Canada, cũng là dân tỵ nạn, đã lên tiếng ủng hộ và nói huỵch toẹt ra là đạo luật này khuyến khích và dẫn đưa mọi thành phần dân tộc VN quay lưng lại với quá khứ, gác bỏ mọi tỵ hiềm, hòa hợp hòa giải với đảng CS để hợp tác chống Tầu và chung sức xây dựng đất nước. Như thế thì còn gì nữa đâu mà nói.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất