Friday, April 6, 2012

Yêu kẻ thù là yêu như thế nào ?? - Trường Sơn

Trường Sơn

Trước tiên xin khẳng định một câu “chắc nịch” cho bà con Công Giáo nghe như sau:
    - Yêu kẻ thù là phải chặt tay và móc mắt chúng đi để chúng không còn gây thêm tội lỗi, và cầu nguyện cho chúng để chúng mau hoán cải và lên thiên đàng. 
    - Yêu kẻ thù là không buông thả cho chúng phạm tội để chúng sa vào hỏa ngục.
Tiếp đến là lời giải thích tại sao phải nói lên câu như vậy !

Người Công Giáo thường đọc trong Thánh Kinh câu: "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5:43-44), và khi họ đọc xong câu này thì liền vội vã kết luận: Mình không được làm hại đến kẻ thù mà chỉ cầu nguyện cho họ mau ăn năn hối cải hoàn thiện, còn nếu họ vẫn tiếp tục giết người cướp của gieo rắc những lý thuyết khiến ngưòi nhẹ dạ mất linh hồn thì cứ mặc kệ, vì Chúa sẽ ra tay hành động và diệt chúng.

Trước đây đã có bài viết “Hãy đập vỡ bánh trớn” trên Ba Cây Trúc bàn về việc người Công Giáo khoái trò “bán cái” mọi trách nhiệm của mình cho Chúa để nhởn nhơ sống vô cảm vô vi như những kẻ ăn bám, nay xin bàn tiếp về thái độ cần có của họ trong việc đối xử “đúng mức” với kẻ thù ra sao.

Đứng trước thái độ “yêu kẻ thù” mù quáng hiện nay của người Công Giáo, những kẻ thù của chúng ta (đặc biệt là bọn Việt Cộng) cười rộ lên trong sung sướng và nghĩ rằng: “Cái bọn Công Giáo ngu 'hết biết !!!” (tức hết thuốc chữa), chúng mình sẽ sung sướng sống giữa đàn cừu ngu dại này để tận hưởng thú cướp bóc của mình.” Và rốt cuộc thì người ác càng ngày càng nhiều ra và người công giáo “yêu kẻ thù” càng ngày càng bị lụn bại và suy sụp khiến nước Chúa ngày càng bị bọn quỷ ma chiếm đoạt.

Rất nhiều người thấy cảnh bất công và vô trách nhiệm này đã đứng ra kêu gọi người Công Giáo hồi tỉnh, nhưng không thể nào lay chuyển lòng tin ngu muội của đám u mê này. Vì vậy thiết nghĩ cần phải giải độc cho họ, giúp họ hiểu được thế nào là “yêu kẻ thù” như trong lời dặn dò của Chúa Giêsu.

Trong cuộc đời ai mà không có tình yêu ? nào là yêu cha mẹ, yêu con cái, yêu bà con bạn bè, yêu thú vật cỏ cây, yêu nhà yêu cửa, yêu quê hương xóm làng, yêu trai yêu gái ... và yêu chính bản thân mình. Mỗi thứ tình yêu đều có một mức độ tình cảm nào đó, và khi yêu những "thứ đáng yêu" thì tình yêu này mang lại sự hài hòa và thăng tiến cho từng cá nhân và tập thể của xã hội loài người. Nhưng khi nói về việc yêu thiên tai, yêu bệnh hoạn, yêu chiến tranh hoặc yêu kẻ thù thì ai cũng ngạc nhiên vì đây là một nghịch lý, những thứ tai họa, những kẻ mà mình thù ghét thì làm sao thương nó được?. Ghét và thương là hai tình cảm tương khắc nhau, cũng như ánh sáng và bóng tối, nước và lửa, hễ có cái này thì không có cái kia. Không ai có thể nói được rằng Sự Thật phải yêu sự Dối Trá, hay Thánh Thiện thì phải yêu Tội Lỗi !!. Ấy thế mà người công giáo lại cứ luôn miệng luôn mồm nói là họ “yêu kẻ thù”… Nhưng trong thực tế, họ đã yêu kẻ thù được bao nhiêu ? hay là chỉ nói ra ngoài môi mép cho có vẻ ta đây là đạo đức, là theo lời dạy của Chúa Giêsu trong khi lòng họ thì rất ấm ức khó chịu ??. Vậy có ai đo lường được tình yêu dành cho kẻ thù nặng được bao nhiêu gà-ram để chứng minh rằng thứ tình yêu đó là một thực tế đang hiện hữu ?

Quả thật yêu thương kẻ thù là một điều không thể có được nếu không đi vào một khía cạnh đặc thù nào đó của kẻ thù để châm chước cho hành vi tội lỗi của họ.

Bởi vì chỉ có đạo Công Giáo mới đem khoe khoang cái thứ tình yêu này cho nên cần phải nghiên cứu giáo điều của đạo này để tìm hiểu thực hư ra sao.

Nếu chỉ nêu câu “Hãy thương yêu kẻ thù” của Chúa Giêsu dạy một cách gọn lỏn thì con người ắt phải loạn trí vì họ đang làm một việc ngược với bản năng để tự mang thiệt thòi vào thân vì không ai ngu dại khi thấy con cọp dữ đang nhe răng mà cứ xông vào đưa cái đầu cho nó cắn, họa chăng kẻ đó là thằng điên và trong thiên nhiên chẳng có loài tạo sinh nào mà không phản kháng chống trả trước kẻ thù của nó! Không lẽ chỉ có người Công Giáo là một giống đại ngu được Thiên Chúa tạo dựng ra với bản năng tự sát vì không có kháng thể trong người ??

Điều chắc chắn là Chúa Giêsu không phải là đấng “loạn trí”, nhưng vì chúng ta đã không tổng hợp được các lời dạy của Ngài cho nên chúng ta mới suy nghĩ và hành động theo kiểu loạn trí mà thôi. Vì vậy chúng ta cần phải đọc toàn bộ lời giảng dạy của Ngài thì mới hiểu được yêu kẻ thù là yêu theo kiểu nào. Hãy nghiên cứu các câu kinh sau đây:
    "Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình." (Mt 19:19)
Yêu chính mình là yêu theo kiểu nào ?. Đó là yêu bằng cách cho roi cho vọt, vì không có roi vọt thì con người dễ sa đọa và mất linh hồn. Yêu chính mình là phải tự tay cắt xẻ những mụt nhọt, hoặc đi bệnh viện giải phẫu cắt đi các tuyến ung thư để cứu lấy tính mạng của mình. Chúa có dạy như vậy không ?. Thưa có. Sau đây là câu Chúa Giêsu dạy: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục." (Mt 5:30)

Chúa đã dạy như vậy thì làm sao Chúa có thể nói ngược lại rằng mình phải yêu kẻ thù và để cho chúng tự do làm điều ác khiến mọi người đều sa hỏa ngục, đều chết, nhất là khi chúng cấm đoán những người tin Chúa không được thi hành lời Chúa hoặc trực tiếp phỉ báng Ngài, phá đi lòng tin kính của loài người đối với Ngài ??. Vậy chúng ta phải đối xử với kẻ thù như thế nào mới không nghịch lý ?

Bởi vì người tín hữu phải đối xử với tha nhân giống như đối với mình cho nên … nếu chính người tín hữu phải tự chặt tay móc mắt mình để tránh tội thì họ cũng phải chặt tay và móc mắt của kẻ thù tội lỗi của họ để giúp họ tránh tội và khỏi mất linh hồn. Tức là mình thương mình bằng cách chữa trị mình, loại bỏ những chi thể hư thối của mình ra sao thì mình cũng phải hành động như thế đối với kẻ thù. Vì vậy không thể nói rằng, vì tôi yêu thương kẻ thù nên tôi phải để cho chúng nó tự do phạm tội, và tự do xuống hỏa ngục. Nói như vậy là phản lại ý muốn của Chúa Giêsu, là phản đạo. Đối với Chúa Giêsu, những ai gây cớ cho người khác phạm tội thì cần buộc đá vào cổ chúng và xô xuống biển cho chết đi để khỏi tiếp tục gây họa cho xã hội. (Mt 18:6). Vì thế, người Công Giáo không thể làm ngơ đối với kẻ thù gây tội ác khiến chúng ta và ngay cả chúng nó đều chết mất xác và mất linh hồn, và nhất là đối với những kẻ phá đạo phỉ báng Thiên Chúa thì càng phải loại trừ ngay, chặt tay móc mắt chúng để chúng không còn khả năng gây họa cho linh hồn của chúng nó và cho mọi người.

Trong cuộc đời ai mà không có kẻ thù, những kẻ thù đó nên được chia làm 2 loại, loại chủ động có ý thức và loại thụ động không ý thức, để chúng ta xét xem loại nào có thể cải hóa được và loại nào là bất trị cần phải loại bỏ. Sự phân loại này cần phải hướng về mục đích cao xa, đó là sự cứu rỗi linh hồn của họ.

Có những thứ tội lỗi khiến linh hồn khó thoát khỏi vòng luận phạt, vì vậy đối với những loại người phạm tội lỗi này thì nên rút ngắn sự sống của chúng để chúng bị luận phạt ít hơn ở đời sau và mau được lên thiên đàng sau khi đã trả hết nợ. Chính Chúa Giêsu cũng phải thốt lên câu ta thán: “Thà nó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26:24) khi Judas phản bội Ngài và bán Ngài cho quân dữ. Vâng, nếu Judas không được sinh ra thì linh hồn của nó chắc sẽ không chịu luận phạt lâu dài trong hỏa ngục. Đối với Thiên Chúa, tội gì cũng được tha thứ sau khi đã ăn năn hối cải, ngoại trừ một tội, đó là tội kiêu ngạo, tội ngoan cố, tức là tội từ khước chân lý và hoán cải vì tự cao tự đại. Thiên Chúa luôn ném cho con người chiếc phao cứu rỗi khi họ rơi xuống biển tội lỗi, thế nhưng có nhiều người lại vì tự ái và ngoan cố không thèm ôm phao mà cứ để tự mình chìm chết với thái độ vênh váo khinh khỉnh. Vậy thì đối với những loại người này, thứ tình thương “yêu kẻ thù” có giá trị và mang lại lợi ích gì cho linh hồn của chúng không ???

Những kẻ khi dể chân lý của Chúa đều bị bỏ rơi.

Cộng sản là một giống người biết rõ mình đang làm điều tội lỗi sai trái mà vẫn cứ làm vì ngoan cố, không xem Sự Thật và Chân Lý ra trò trống gì, chúng phỉ báng ngay cả Đấng Tạo Dựng ra chúng thì thử hỏi chúng có đáng bị loại vào nhóm “thà đừng sinh ra thì hơn” không ?. Người Công Giáo có cầu nguyện cho chúng cũng uổng công vì những kẻ đã phủ nhận Đấng Tạo Dựng ra chúng thì khi chết đi chúng chẳng bao giờ trở về với đấng tạo dựng cả, chúng mất linh hồn là cái chắc !!!. Vì vậy Cộng Sản là thứ “kẻ thù không được phép yêu”“đừng đem lòng yêu thương và lời cầu nguyện ban cho loài heo chó” “kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em”. (Mt 7:6)

Hiện nay có những chức sắc lớn trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã cố tình nhồi sọ giáo dân với thứ tình “thương yêu kẻ thù” úp mở này để lừa đảo họ và tiếp tay cho Cộng Sản thôn tính lãnh thổ của Thiên Chúa. Ngày nào họ cũng giả vờ lâm râm đọc kinh “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” nhưng mọi hành vi của họ đều hướng về ý niệm “nước Cộng Sản trị đến, lý thuyết Cộng Sản được thể hiện trên toàn bộ trái đất áp đảo quyền thống trị của trời.” Điển hình là cái ông giám mục Nguyễn văn Khảm đã hô hào thuyết Cộng Sản của Karl Marx ngay trong nhà thờ của Chúa trong ngày lễ trọng đại Chúa Kitô Vua để làm sỉ nhục quyền thống trị của Chúa trên trái đất này. Thật là khốn nạn “hết thuốc chửa” !

Nhũng kẻ thù mà người Công Giáo phải yêu thương là những kẻ làm hại chúng ta vì ngu đần, không biết rõ việc họ đang làm mà thôi, riêng những kẻ đang ý thức rõ ràng việc ác chúng đang làm và cố tình chà đạp chân lý của Đấng Tạo Dựng, điển hình là bọn Việt Cộng cướp của giết người và đang đàn áp bóc lột hơn 86 triệu dân Việt, thì bọn này cần phải bị ghét bỏ vì toàn thể dân Việt đều thù hận chúng và chính Thiên Chúa cũng ghét bỏ chúng và muốn dùng bàn tay của người công chính loại bỏ chúng!

Trường Sơn
______________________
    Hãy đập vỡ bánh trớn
Trường Sơn

Người Công Giáo thường bị gài kẹt cứng trong cái bẫy mà vô tình giáo hội đã tự đặt ra để giáo dân hèn yếu mắc phải, cái bẫy đó là chính sách: Người Công Giáo không làm chính trị.

Lẽ dĩ nhiên khi Giáo Hội đưa ra các chính sách không làm chính trị và chính sách thỏa hiệp hòa giải với các thế lực chính trị và tôn giáo trên thế giới qua giáo huấn của Cộng Đồng Vatican 2, thì các vị giáo phụ đã thông suốt hết mọi cương lĩnh của chính trị và tôn giáo để giới hạn việc xâm lấn lẫn nhau giữa hai lĩnh vực này. Họ là những người thông hiểu giáo luật trọn vẹn cho nên một câu nói “Người Công Giáo không làm chính trị” cũng bao hàm nhiều ý niệm bổ túc cho phản đề là “người công giáo phải làm chính trị”, có nghĩa là không được làm chính trị ở điểm nào và phải làm chính trị ở điểm nào.

Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị thừa nhận mình làm chính trị thì hẳn câu “người công giáo không làm chính trị” đã cho phép họ được làm chính trị theo quan điểm tôn giáo và quyền công dân của mình. Nhưng tiếc rằng các giáo phụ không đủ nhạy cảm để gọi tên chính sách đó bằng một lời lẽ mềm dẻo hơn thay cho câu khẳng định cứng ngắt là “người công giáo KHÔNG LÀM CHÍNH TRỊ”.

Họ đâu biết rằng những tổ chức độc tài đang lợi dụng chủ đề “không làm chính trị” để nhồi sọ giáo dân là không được phép nhúng tay can thiệp vào những hoạt động bất lương và mất đạo đức của họ. Nếu các ngài biết rõ tính xỏ xiên xảo quyệt của lũ độc tài thì ắt các ngài cũng phổ biến thêm chủ trương “Người Công Giáo phải làm chính trị” với những giải thích minh bạch để chận đứng những tuyên truyền méo mó của một số ác quỷ đội lốt tu sĩ đang ôm chân bọn độc tài để hủy hoại nhân phẩm và giá trị của loài người.

Sự thiếu nhạy cảm này đã đưa lại một hậu quả tai hại khiến hầu hết giáo dân Công Giáo đều trở nên ù lì trước bất công và tội ác của các tổ chức chính trị, họ không có một hành động, một lời nói hay thái độ cụ thể nào để bênh vực cho công lý, chống lại những hành vi sinh oai tác quái của chính quyền độc tài vô đạo. Nói chi xa xôi, ngay cả những Đức Cha, những Linh mục mà còn ủng hộ tâng bốc bọn chính quyền vô lại và hàm hồ cấm đoán giáo dân không được phê bình việc chính trị hoặc có thái độ chính trị, thì làm sao giáo dân bình thường lại không mắc phải cái quai khóa hẳn cái miệng của họ, hoặc cái còng xiết hai tay họ lại không cho họ xua đuổi những thành phần cai trị bẩn thỉu, bất hảo hại dân ? Bọn giáo sĩ biến thái này, khi tiêu cực bắt tay với bạo quyền bất lương, thì họ mặc nhiên cũng đang “làm chính trị” chứ có phải là vô tư đâu !! Điển hình là một Đức Cha Nguyễn Mạnh Hiếu của Toronto Canada cũng huyênh hoang tuyên bố là “Công Giáo không làm chính trị” thì thử hỏi giáo dân làm sao mà không ngu muội nhắm mắt đưa chân, đưa cổ vào tròng nô lệ của bọn độc tài đảng trị ?

Có một Đức cha ở VN, trên đầu thì đội Chúa nhưng cái miệng ở dưới thì ca ngợi Karl Marx vô thần,
một ông mũ tím khác được ngồi vào ghế chủ tịch của Ủy Ban (bảo vệ) Công Lý và Hòa Bình thì lại chẳng hề nghe nói câu nào bênh vực cho kẻ bị đàn áp, hoặc an ủi những nạn nhân lương thiện đang bị bọn cường hào hiếu sát đánh đập uy hiếp, ông ấy chỉ bỏ thì giờ làm chuyện tào lao lãng nhách để tránh đụng chạm đến vấn đề chính trị. Cũng có một Đức Cha khác lại phê bình việc linh mục Nguyễn Văn Lý bị ở tù vì tranh đấu cho Tự Do tôn giáo là “đúng” vì đã phạm tội “làm chính trị”.

Nếu các vị lãnh tụ Công Giáo không chịu thi hành bổn phận của người công dân chân chính diệt tà trừ gian, nếu giáo dân công giáo không ra tay loại trừ kẻ gây tội ác tạo gương xấu cho loài người sa ngã, thì thử hỏi còn có ai chịu thi hành mệnh lệnh của Chúa Giêsu, chịu ra tay nâng cối đá buộc vào cổ chúng để ném chúng xuống biển hầu loại trừ mầm độc cho thế gian theo lời dạy của Ngài rằng: Những ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà treo cối đá lớn vào cổ nó mà xô cho chìm xuống đáy biển còn hơn. Khốn cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã.….” (Mt 18:6-7). Ai là kẻ có nhiệm vụ buộc cái cối đá này vào cổ những kẻ (đặc biệt là bọn quỷ VC) gây cớ cho con người sa ngã ? Không lẽ phải để cho Chúa Giêsu tự tay làm ? Xin thưa rằng : Chúa muốn những người bảo vệ chân lý, những người Công Giáo thuần túy như chúng ta phải ra tay buộc cái cối đá này vào cổ của những thằng ác ôn gây tội ác và xô chúng xuống biển. Đây là một hành động chính trị rất chính đáng để mang lại hạnh phúc cho xã hội loài người.

Xin hỏi: Ai có thể phản đối lời dạy này của Chúa Giêsu để từ chối việc “phải làm chính trị” của mình ? Nếu thừa nhận rằng người theo Chúa phải làm theo lời dạy của Chúa thì tại sao người Công Giáo lại không làm chính trị chân chính để loại trừ những thành phần mang tai họa cho xã hội ? Người Công Giáo nào không chịu làm chính trị chân chính mà lại đi làm nô bộc cho một chính quyền bán nước hại dân và phỉ báng Thiên Chúa thì người đó nên bỏ đạo thì hơn và đừng bao giờ đi rêu rao mình là môn đồ của Chúa.

Có nhiều người vì chẳng hiểu mô tê gì về chân lý của Chúa Giêsu cho nên cho rằng đạo Chúa cần phải dung hòa, phải thỏa hiệp với thế quyền gian ác. Một ông cựu chủng sinh tên là VL lại đặt tên cho tờ báo điện tử BCT là “Công Giáo Cực Hữu” thì chẳng biết ông ấy lấy cái chữ cực hữu này từ đâu ra !

Đạo Chúa Giêsu không hề có “cực hữu” mà chỉ có định nghĩa rằng bên hữu của Chúa là dành cho người lành và bên tả thì dành cho người dữ mà thôi. Đạo Chúa chỉ có Chân Lý (Sự Thật) để chống lại Tà Lý (dối trá), chỉ có Ánh sáng để dẹp bỏ bóng tối.

Đạo Chúa không hề có sự phân chia bên Hữu thành 3 phe Cực Hữu, Trung Hữu và Cận Hữu, và cũng không hề có sự hòa trộn giữa Ánh Sáng với Bóng Tối hoặc lẫn lộn Sự Thật với Dối Trá (là hiện tượng không thể có, vì ánh sáng đến thí bóng tối phải biến mất và sự thật đến thì dối trá sẽ tiêu tan), đạo Chúa không hề có sự dung hòa và thỏa hiệp giữa hai điều triệt tiêu lẫn nhau này !! Cũng vì tự ý phân chia Ánh sáng trắng tinh tuyền ra từng nhiều mảnh cho nên mới sinh ra muôn màu khác biệt nhau khiến cho loài người trở nên loạn sắc và sai lầm khi nhìn vào ánh sáng trắng tổng hợp.

Đạo Công giáo theo đúng Đức Tin (kinh tin kính) thì phải Duy Nhất, Thánh Thiện và Tông Truyền chứ chẳng hề có thỏa hiệp với tà thuyết để tự chia ra thành cực hữu hay cực tả, thần học giải phóng hay thần học nô lệ, ngã nghiêng theo thần quyền hay thế quyền (nôm na là quốc doanh) …vv. mà chỉ theo cái gì đúng với sự thật mà thôi, và có thể đạp đổ thần quyền nếu thần quyền này là dối trá.

Xin nhắc lại rằng đem chân lý đạo Chúa để thỏa hiệp với Dối Trá và Sự Ác chính là lạc đạo, là tự đánh mất ơn cứu chuộc, là tự giam cầm trong sự hư mất.

Rất nhiều vị thông hiểu giáo lý của Chúa đã trình bày rất rõ ràng minh bạch về thái độ trung trực cần có của mỗi giáo dân Công Giáo khi thi hành bổn phận làm con Chúa trên trần thế, tức phải làm chính trị chân chính để thanh khiết xã hội của mình.

Thế nhưng đa số giáo dân, sau khi đã đọc qua và hiểu được thế nào là bổn phận “chính trị” của người Công Giáo thì họ lại bị những con quỷ mặc áo tu sĩ (mà họ kính trọng một cách ngu muội) gây áp lực và cấm buộc khiến họ mất đi nhuệ khí và tự buông xuôi cho ma quỷ nuốt đi cái chân lý của mình. Họ bị nhồi sọ để nghĩ rằng việc bảo vệ chân lý phải để cho bàn tay Chúa làm chứ không phải là bổn phận của người Công Giáo phàm tục, họ được nhồi sọ là không cần phải ra tay làm bất cứ điều gì cho mệt mỏi xác hồn mà chỉ cần “cầu nguyện”chỉ biết “cầu nguyện” để xin xỏ … rồi Đấng Thiêng Liêng sẽ lắng nghe và thi triển phép thần thông, giải quyết mọi sự ổn thỏa để mang lại hạnh phúc cơm no áo ấm và sự công bình cho họ. Nếu quả thật Thiên Chúa lo hết mọi sự thì tại sao Ngài lại đuổi Adam và Eva ra khỏi vườn địa đàng và phán: “Các ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có của ăn” ?? (STK 3:19) và tại sao qua hàng ngàn năm nay con người cứ cầu xin mãi mà ơn huệ nhãn tiền trực tiếp ban xuống chẳng thấy được bao nhiêu ?

Khi đã được sinh ra trên thế gian này thì vốn liếng ơn huệ đã được ban sẳn trong bản chất của con người rồi nhưng họ chẳng nhận biết để khai thác đúng mức cái vốn liếng đó mà cứ lâm râm khấn vái khiến Thiên Chúa nhìn xuống cũng nhăn mặt mắng rằng: “bọn ngu muội ! Ta đã ban cho các người bàn tay và trí óc thì các ngươi phải dùng trí tuệ và bàn tay để tạo thành quả, sao lại còn đi xin ??”

Con người phải tự lo cho thân mình bằng những khả năng (ân huệ) bẩm sinh của mình, chứ không thể ỷ lại mọi cái vào Thiên Chúa mãi, Ngài chỉ giúp chúng ta ở những việc chúng ta không có khả năng làm được mà thôi, còn những việc nằm trong bổn phận và khả năng thì chúng ta phải toan tính tự làm lấy. Qua câu Chúa Giêsu dạy rằng: “Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay?” (Mt 6:27), chúng ta hiểu được là phải cầu xin và trông cậy vào Ngài ở những việc ngoài khả năng, còn những việc trong khả năng của chúng ta thì hãy xem đó là bổn phận phải chu toàn chứ không được nhờ cậy xin xỏ. Chỉ vì quá nhìn xa và lo lắng vô tích sự cho nên các đấng lãnh đạo trong HĐGMVN đã khựng người sợ hãi trước những khó khăn bình thường của cuộc sống cho nên họ chẳng dám làm bổn phận của mình mà hơn thế, họ còn kéo cả giáo hội đi vào cơn lụn bại để trở thành lủ ăn bám vào thành quả của dân tộc, vào ân huệ của Chúa.

Hãy xem gương gà mẹ và lũ gà con, khi đàn con còn nhỏ chiu chít bên mẹ thì mẹ chúng lo cho đủ thứ, bươi móc thức ăn trong lùm cây bụi cỏ để nuôi chúng và ra sức bảo vệ chúng mỗi khi có nguy hiểm, nhưng sau một thời gian bọn gà con đã đủ sức kiếm ăn thì gà mẹ “trở mặt” không giúp đỡ nữa mà trái lại còn xua đuổi đám con cái xa mình để chúng tự lập.

Thiên Chúa đã dùng hình ảnh của gà mẹ để dạy cho con người biết rằng, Thiên Chúa không phải bao giờ cũng lo lắng chăm sóc loài người mà chính họ phải tự chăm sóc lấy mình, phải tự tranh đấu để sinh tồn hầu làm rạng danh đấng đã tạo dựng nên họ với những tài năng tự sáng tạo để hoàn hảo cuộc sống vật chất lẫn tinh thần của mình. Sách Sáng Thế Ký có câu: ĐỨC CHÚA phán: "Thần khí của Ta sẽ không ở lại mãi mãi trong con người (STK 6:3) có nghĩa rằng Thiên Chúa có lúc phải rời bỏ tách xa con người để họ tự lo thân và bằng lòng với bổn phận của mình trên trần thế. Thiên Chúa cũng đã có lúc rời xa con một của mình là Chúa Giêsu khiến Ngài đã có lúc kêu lên: "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" (Mt 27:46). Con người, (kể cả Chúa Giêsu) phải tự dùng sức mạnh tinh thần của mình để chống chọi với hoàn cảnh chứ không được có thái độ buông xuôi và ỷ lại vào Thiên Chúa khiến Ngài nhìn vào chúng ta như những thành phẩm thất bại đáng xấu hổ của Ngài. Chính vì Chúa Giêsu sợ làm mất thể diện của Chúa Cha mà Ngài phải than và cam phận: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha." (Mt 26:39)

Giáo dân cần phải hiểu rõ bổn phận “làm chính trị” của mình để không buông xuôi sai đường lạc hướng, đồng thời cũng nên biết rằng câu “người Công Giáo tốt là người công dân tốt” không có nghĩa là người công dân làm nô bộc trung thành cho chế độ đang cầm quyền. Chữ tốt của người công dân ở đây là làm đúng bổn phận đóng góp vào việc xây dựng hạnh phúc cho xã hội về cả 3 mặt vật chất, luân lý và đạo đức. Nếu cứ sợ hãi chính quyền độc tài ăn cướp và bằng lòng làm tay sai gieo rắc bao gương xấu cho xã hội, thì người công dân này không thể được cho là người tốt mà là công dân rất xấu và gian ác cần phải loại bỏ.

Theo định nghĩa trên thì hiện đang có rất nhiều vị lãnh đạo công giáo là những công dân hạng bét, họ vừa há miệng ăn lộc của giáo dân, vừa lừa đảo giáo dân bằng cách ăn gian nói thừa cắt xén lời Chúa để giảng dạy điều sai quấy, vừa im lặng không dám lên tiếng sửa sai những điều gian ác của chế độ đang cầm quyền và gián tiếp phụ họa với chúng. Họ là những kẻ ngồi bát ăn bát vàng và ăn nói bậy bạ vô tích sự.

Có những kẻ hèn ngồi ca ngợi chủ thuyết Karl Marx vô thần trộm cướp, có những kẻ loạn trí ngồi trên ngai của Môisen để nghiền ngẩm và giảng dạy chuyện sex thì liệu những kẻ đó có xứng đáng được gọi là người công giáo tốt và công dân tốt không ? Cứ cho rằng họ là những người Công Giáo tốt (ở một khía cạnh nào đó) nhưng họ không phải là công dân tốt được vì họ tuy có quyền công dân nhưng đã bán cái quyền này cho tập đoàn cai trị lươn lẹo và đã trở thành tay sai cho gian ác và tội lỗi.

Ở đây không bàn đến tại sao phải làm và không làm chính trị vì đã có quá nhiều bài viết của những vị tri thức từng đưa ra rồi. Nhưng có một điều đáng than phiền là con người đã quá bôi trơn cái đầu khiến con ruồi đậu vào cũng trợt té gảy chân thì làm sao những tư tưởng đạo đức thanh cao lại không bị dội ngược ra khi chạm vào những cái đầu đó. Họ đọc họ hiểu nhưng họ quên ngay và miệng họ vẫn mãi lảm nhảm câu “Người Công Giáo không làm chính trị” và cái đầu trơn láng của họ cúi gầm xuống để con mắt và trí tuệ của họ tiếp tục đui mù. Họ giống như những chiếc bánh trớn, một khi đã bị quay vòng theo chiều ngu muội thì vẫn tiếp tục ngu muội cho đến chết mà không hề tỉnh thức để ngưng lại.

Những chiếc bánh trớn như vậy thì cần đập cho bể nát để con người được giải thoát khỏi cái khối nặng kéo linh hồn họ xuống đáy của sân si yếu nhược.

Trường Sơn


Saturday, March 31, 2012

Cố Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Hương




"Tôi nguyện nắm xương của Tôi sẽ nằm bên cạnh nắm xương của các anh em Binh sĩ"

    ”Nếu cộng sản đưa ra điều kiện của kẻ thắng cho người bại trận, thì không còn cách gì hơn là nếu được, chúng ta cứ việc chiến đấu đến cùng…

    Chừng đó dẫu Sài Gòn này có biến thành biển máu, tôi nghĩ rằng người Việt Nam vì thể diện mình không thể nào mà từ chối được, trừ một số người mới chấp nhận cái chuyện đó…

    Việt Nam Cộng Hòa có thể phải chịu một vài điều kiện khó khăn đau đớn, nhưng điều kiện đó không phải là những bước hoàn toàn để đầu hàng.

    Nếu thương thuyết để đầu hàng thì thương thuyết gì nữa, thà là chết, chiến đấu đến cùng…chớ không thể chấp nhận đầu hàng được”.


Quốc hận tháng Tư - Lâm Hoài Vũ


"Nhớ nước đau lòng con Quốc Quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái Gia Gia!
"
Bà Huyện Thanh Quan


Quốc hận tháng Tư

Tháng Tư đến mây trời xanh xao quá
Những giọt buồn hiu hắt chảy vào tim
Nhớ cố hương ruột đau thắt từng cơn
Bao năm tháng vẫn mù sương thiên lý

Ba mươi bảy năm dài như thế kỷ
Nỗi ưu tư trĩu nặng bước lưu vong
Thời gian phai bao mơ ước bên lòng
Vết thương cũ vẫn còn hoen rỉ máu.

Tháng Tư xưa triệu người trong giông bão
Vành khăn tang liệm chết tuổi hoa niên
Tháng Tư nay đất nước vẫn đảo điên
Dân vẫn sống trong gông cùm cộng đỏ.

Ta thề sẽ một mai về đất Tổ
Cùng toàn dân mở hội rước cờ Vàng
Hồn núi sông sáng rực ánh đăng quang
Như réo gọi tâm linh người ly xứ.




Chứng nhân lịch sử
Ta đang đi trên con thuyền tỵ nạn
Để làm người được nói tiếng Tự Do
Mỗi chúng ta là chứng nhân lịch sử
Dân tộc Việt Nam trong ngục đỏ khổng lồ.

Ta đang trôi trên dòng đời ly xứ
Thật lạc loài nơi đất khách tạm dung
Những tủi nhục hằn in trong cuộc sống
Theo tháng năm hờn vong quốc chất chồng

Ta nhớ ngày xưa vượt biên vượt sóng
Lênh đênh đi tìm thiên đường Tự Do
Chiếc tầu tình thương từ đâu hiện đến
Đã đưa ta về quê người bình an.

Ta không quên bao người còn đau khổ
Ở quê hương rên siết bởi lũ xâm lăng
Đem chủ thuyết ngoại lai phi nhân bản
Đày dân lành thành nô lệ lầm than.

Ta noi gương đấng tiền nhân anh dũng
Chí kiêu hùng truyền thống giống Tiên Long
Rồi sẽ có một mùa Xuân Nguyễn huệ
Phất Cờ Vàng rực rỡ khắp non sông.

Lâm Hoài Vũ


Quốc Hận! - Lão Ngoan Đồng

Lão Ngoan Đồng

Nước đã mất, nhà đã tan, gia đình ly tán! Ý nghĩ nầy in sâu vào trong trí não của những người đang lênh đênh trên biển cả, trong những chiếc thuyền nhỏ bé mong manh, phú thác mạng sống của mình cho vận mệnh rủi may, những mong thoát khỏi ngục tù của những người cộng sản từ miền Bắc, đang xây cất trên toàn cõi quê hương yêu dấu.

Trên đuờng trốn chạy, lìa bỏ quê cha đất tổ, đã có hàng trăm ngàn người vùi thây trong biển cả, trong bụng cá, trong bàn tay sát nhân của bọn hải tặc khát máu. Cũng có những người vuợt thoát bằng đuờng bộ, xuyên qua ngã Cambochia, Lào, và cũng không ít người đa chết đói vì lạc đuờng, hoặc bị giết bởi bọn Miên cộng, Lào cộng. Số còn lại, hơn 2 triệu người đã đến được bến bờ tự do với hai bàn tay trắng, và có rất nhiều người bỏ lại sau lưng những người thân yêu trong gia đinh, dòng họ. Hầu hết những thuyền nhân đó đã nói với các phái đoàn tiếp nhận định cư của các nước: “Thà chết trên biển cả còn hơn sống trong chế độ của Việt cộng”. (tạm dịch: Rather die on the high sea than live under the Vietnamese communist regime). Điều đó đã nói lên cái ý chí liều chết để đi tìm TỰ DO.

Thảm cảnh đó đã làm cho thế giới bàng hoàng, xúc động. Họ đã gọi những người trốn chạy khỏi quê hương nầy bằng một biệt danh, mà trong lịch sử loài người chưa từng có: “BOAT PEOPLE” (Thuyền Nhân).

Thảm cảnh đó khởi đầu vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày mà bọn cộng sản Việt Nam, từ miền Bắc, đã bất chấp hiệp định Paris 1973, với sự trợ giúp của khối cộng sản quốc tế, đã tấn công và chiếm lãnh miền Nam, nước Việt Nam Cộng Hòa, với sự hững-hờ của thế giới không cộng sản.

Cái hận đã mất nước và cái hận đã bị đồng minh phản bội, đưa đến cảnh nước mất nhà tan, gia đình phân cách, chia ly, đã tạo nên sự thống hận trong lòng người dân Việt kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Từ đấy, chúng ta, những người Việt hải ngoại và kể cả đồng bào quốc nội, gọi ngày 30 tháng tư hàng năm là NGÀY QUỐC HẬN.

Không có từ ngữ nào để diễn tả ngày đó chính xác hơn từ ngữ Ngày Quốc hận. Nó diễn tả không những đúng về mặt hiện thực mà còn đúng về mặt tâm linh. Ngày đó, đời sống của những con người Việt Nam trên toàn quốc đã bị thay đổi một cách toàn diện, từ tốt đẹp biến thành cùng khổ; từ tương lai trong sáng trở thành tăm tối, không có ngày mai. Trong lòng mỗi người đều bị đè nặng bởi nỗi niềm u uất, căm phẫn vì đang bị một lũ người vong bản, tay sai của ngoại bang, dốt nát, tàn ác cai trị bằng chánh sách vô nhân nhứt trần gian. Đời sống của người Việt Nam không hơn không kém gì với đời của một con vật: ngoan ngoãn thì được cho ăn, bằng không thì bị bỏ đói cho đến ngày tàn tạ.

Trong lòng mỗi con dân Việt, ai mà không nhớ đến ngày 30 tháng tư, ngày đổi đời đó? Tuy nhiên, mỗi người nhớ đến nó một cách khác nhau.

Cái nhớ sâu sắc nhất, không bao giờ quên là tuổi thanh niên đã bị hủy hoại trong các nhà tù gọi là trại “cải tạo”. Những rường cột của Quốc Gia đã bị kềm hãm trong ngục tù khổ sai, ăn không đủ no, bệnh không thuốc chữa. Bọn người ác độc lợi dụng sức người hom hem yếu đuối đó, bắt họ đi làm mướn, làm thuê, làm những việc khổ sai, chúng lấy tiền bỏ vào những cái túi tham không đáy. Những người tù “cải tạo” đó, bị hành hạ không những trên thể xác, mà cả tinh thần của họ cũng bị dày vò cả ngày lẫn đêm, bằng những lời chửi bới, hăm dọa, kể cả những đòn thù bằng đánh đập, biệt giam trong những thùng sắt ngột ngạt, nóng bỏng khi nắng lên, không cho nước uống, và còn nhiều trường hợp đem người chống đối bọn chúng ra xử bắn tại nơi đông người. Những hành động nầy, bọn cai tù tàn ác, gọi là những bài “học chính trị”, do “Bác” và Đảng chủ trương đối với những người sa cơ, thất thế.

Những người tù lương tâm đó là ai?

Họ là những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã xả thân mình để bảo vệ phần đất miền Nam của Tổ Quốc, giữ gìn an ninh cho người dân miền Nam được sống một đời sống thanh bình, an cư lạc nghiệp.

Họ là những công chức phục vụ cho chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa, để xây dựng một quốc gia hùng mạnh phú cuờng, có phần trội hơn so với các nước lân bang như Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Thái Lan, Đại Hàn, Đài Loan.

Họ là những nhà tư bản đã góp công xây dựng nền kinh tế phồn thịnh cho nước Việt Nam Cộng Hoà.

Họ là những người trong ngành giáo dục, đã tận tụy và miệt mài với trách nhiệm mở mang trí óc cho những thanh thiếu niên, mong xây dựng nên một thế hệ kế tiếp, văn minh, thông thái hữu dụng cho quốc gia.

Những người tù lương tâm nầy đã bị buộc tội là đã phục vụ cho chánh quyền trước, đã giúp đỡ cho “Ngụy Quân, Ngụy Quyền” chống phá lại “cách mạng của nhân dân” (sic).

Ngoài những người đã bị bắt đi làm tù “cải tạo”, những người dân thường sống tại các đô thị cũng bị đày đọa không kém. Họ đã bị ép buộc đi đến những nơi hoang dã, thâm sơn cùng cốc, mà bọn cầm quyền ác ôn là “nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” (hiện giờ là cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), gọi là “vùng kinh tế mới”. Nơi đây chỉ với hai bàn tay trắng, không thể nào tìm được cách sinh nhai. Sau khi đuổi họ đi vùng kinh tế mới, “nhà nước” đã tịch thu tất cả tài sản, cơ ngơi của họ để phân phát cho những cán ngáo (ngố), đã có công với “nhà nước” trong việc cưỡng chiếm miền Nam.

Ở nông thôn, không còn ai có quyền có ruộng đất, dù rằng những mảnh đất do ông cha từ nhiều đời trước để lại cho con cháu. Tất cả ruộng đất đều quy về “hợp tác xã”. Người nông dân canh tác trên những mảnh đất ruộng vườn đó, được thu hoạch do quyết định của bọn đầu sỏ xã ấp, bằng một chính sách gọi là “bảng chấm công”. Ai nịnh bợ hay theo phe chúng thì được chia nhiều hơn. Do vậy, đời sống của người ở nông thôn thiếu thốn rất trầm trọng, có nơi đã có người chết vì đói, mà điều nầy chưa hề xảy ra trong lịch sử của miền Nam Việt Nam.

Tóm lại, sau khi bọn cường bạo cộng sản Việt Nam nhờ súng đạn của Trung cộng, của Liên sô, đã cưỡng chiếm được nước Việt Nam Cộng Hòa, thì toàn thể trên 26 triệu người dân miền Nam, bị cướp giựt một cách trắng trợn, không khoan nhượng, bị nhốt trong một nhà tù vĩ đại, đó là quê hương của mình, bị đày đọa vô cùng tàn ác, sống như một con thú không hơn không kém.

Tình cảnh của người dân Việt Nam hiện nay, năm 2012, đã qua 37 năm, không khác gì ngày bắt đầu cuộc đổi đời 30 tháng 4 năm 1975. Có khác chăng là lối sống giàu sang, xa hoa, trụy lạc của những “cán bộ” Việt cộng và gia đình họ. Còn người dân ngày càng bị đàn áp mạnh mẽ hơn, bằng những thủ đoạn, bằng những xảo thuật nghề nghiệp, gian manh hơn, ác độc hơn.

Đã là người Việt Nam thì không ai có thể quên, trong lòng ai cũng đang âm ỉ một nỗi hận. Những kẻ nào quên đi là họ cố ý bị “bịnh quên” để đổi lấy những đồng tiền dơ bẩn, đẫm ướt máu của đồng bào quốc nội. Họ đã quên đi ơn nghĩa của quốc gia cưu mang họ như một người tỵ nạn. Họ đã quên đi lòng bao dung của cộng đồng tỵ nạn đã đùm bọc, giúp đỡ họ, đến khi họ thành tài, nổi tiếng, thì vì họ xem đồng tiền lớn hơn bánh xe trâu (câu nói khinh miệt của dân miền Nam), họ phủi hết đi ơn nghĩa, trở lại hợp tác với kẻ thù, tiếp tay với bọn Cộng Phỉ, đàn áp ngược lại đồng bào của mình.

Để kết luận, cầu mong tất cả đồng bào Việt Nam hãy ghi nhớ, ngày Quốc Hận 30 tháng 4, bởi vì ngày đó là ngày mang đến nỗi hận xót xa cho cả nước, chúng ta hãy tuởng niệm đến quê hương đã mất đi, tuởng nhớ và tri ơn đến những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã hy sinh mạng sống để bảo vệ tự do cho quê hương và đồng bào. Hãy tuởng nhớ đến những người tỵ nạn kém may mắn đã chết trên đuờng đi tìm tự do. Và quan trọng nhất là hãy làm một vài việc gì đó mà mình có thể, để góp bàn tay với đồng bào quốc nội, đập nát chế độ Việt cộng, để sớm gây dựng lại một Nước Việt Nam Tự Do Nhân Bản và Phồn Vinh, để cho ngày quốc hận trở thành không còn hận nữa, mà chỉ còn là ngày đen tối nhất được ghi lại trong lịch sử Việt Nam.

Lão Ngoan Đồng

Tuesday, March 27, 2012

Trận chiến cuối cùng của trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu



Nguyễn Anh Dũng & Lâm A Sáng
(Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu)

Từ bên bờ sông Bến Hải, vết xích chiến xa T54 và các sư đoàn Bắc quân đã xóa nát văn kiện hiệp định Ba Lê 1973, tiến dần về Nam. Như một thứ định mệnh oan nghiệt, cả nước bị ém chặc và bức tử theo ván bài chiến lược quốc tế được quyết định từ bên ngoài cương thổ Việt Nam. Từng tấc đất bị mất. Hoa Kỳ làm ngơ, thế giới cúi mặt. Mất Quảng Trị, Huế, Ðà Nẵng, Qui Nhơn, Cao Nguyên, Nha Trang, Phan Thiết... Và rồi đầu tháng Tư 75, Bắc quân bị Sư đoàn 18 BB của tướng Lê Minh Ðảo chận khựng tại Long Khánh 12 ngày đêm, sau đó địch tiếp tục tràn về ven biên ngoại ô Sài Gòn. Quân ta cứ rút, cứ rút.

Vũng Tàu, những ngày cuối tháng Tư năm 1975, một trong những phần thân thể còn lại của Tổ Quốc cũng đang lên cơn sốt hốt hoảng, náo động. Dòng người di tản, cả lính lẫn dân, đổ về Vũng Tàu từ cả hai mặt, đường bộ cũng như đường biển. Vũng Tàu chênh vênh bên bờ nước, tuyệt vọng, cùng đường.

Ngày 26 tháng 4, Bắc quân tấn chiếm Biên Hòa, Bà Rịa, sau đó, cầu Cỏ May nối liền Bà Rịa và vũng Tàu bị giật sập. Vũng Tàu co ro trong thế cô lập, chờ chết! Nhưng trường Thiếu Sinh Quân thì dường như không. Truờng tọa lạc ngay cửa ngõ của thị trấn, song lại bị ngăn cách bởi những vách tường vách đá kiên cố bao quanh, cái giao động âu lo, tuyệt vọng từ một Vũng Tàu hỗn loạn không lọt vào trường. Các Thiếu Sinh Quân vẫn sinh hoạt đều đặn như mọi ngày, Thiếu Sinh Quân liên lớp 12 (lớp người viết) đang trong thời gian học thi tốt nghiệp vẫn cúi đầu miệt mài với sách vở. Trong thời gian này, phần lớn các Thiếu Sinh Quân lớp nhỏ cư ngụ ở các vùng Sài Gòn, các tỉnh vùng 3 và vùng 4 được nhà trường cho về với gia đình, còn các Thiếu Sinh Quân ở vùng 1 và vùng 2 phải ở lại trường do tình hình chiến sự rối ren hay đã mất vào tay Bắc quân, vì thế không khí nhà trường càng ngày càng nặng nề, yên tĩnh.. Cái nặng nề và yên tĩnh đó trở nên ngột ngạt căng thẳng dần khi chúng tôi nhận ra nét âu lo, bức xúc trên những gương mặt của các cán bộ và nhân viên cơ hữu nhà trường.

Ngày 28 tháng Tư, chúng tôi được lệnh tập hợp sau bữa ăn chiều. Trung tá Ngô Văn Doanh, Chỉ huy trưởng, thông báo tình hình khẩn cấp, ban hành lệnh giới nghiêm và tuyên bố:

- Các em không có gì phải rối loạn, lo âu! Nhà trường đã có kế hoạch di tản!

Mặc dù còn trẻ, nhưng chúng tôi đã cảm thức cái nguy cơ, cái bất thường tuyệt vọng của tình hình đất nước trong những ngày qua, nên dù đã được Chỉ huy trưởng trấn an, chúng tôi cũng đã phải trải qua một đêm mất ngủ. Tổ quốc, tương lai, gia đình, bè bạn và ngôi trường thân yêu này ngày mai sẽ ra sao? Chúng tôi trằn trọc đến sáng, khi mặt trời lên, trên gương mặt của đám Thiếu Sinh Quân chúng tôi, ai cũng hiện lên những nét lo âu, sợ sệt của đám gà con đang bối rối rúc chui dưới lông cánh gà mẹ trong lúc diều hâu lờ lững lượn trên vòm trời xanh.

Khung trời rộng dường như nhỏ dần lại trên khoảng không gian trường Thiếu Sinh Quân sáng ngày 29 tháng Tư, cùng lúc những âu lo của anh em lại trương lớn dần và căng thẳng thêm. Bỗng chợt âm thanh của đạn trọng pháo chẳng biết từ đâu xé gió rít qua không gian ... và Ầm! Ầm!.. Tiếng nổ ù tai của những viên đạn rơi vào chân núi đài viba sát đàng sau lưng trường. Ðại úy Lê Viết Ðắc, cán bộ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Hùng Vương, liên lớp 12 rút súng ra khỏi vỏ, chạy ngược chạy xuôi lệnh cho các Thiếu Sinh Quân nằm sát xuống đất để tránh miểng đạn. Trong bối cảnh của tiếng những mảnh đất đá rơi xào xạc trộn lẫn âm thanh vang dội của đạn trọng pháo, ông như một con gà mẹ dáo dác bảo bọc đàn con. Không biết mục tiêu những viên đạn trọng pháo đó là ai, là trường Thiếu Sinh Quân hay đơn vị đồn trú tại đài viba gần trường, nhưng âm thanh của tiếng nổ và cảnh núp đạn lần đầu tiên kể từ ngày vào trường đã gieo trong đầu non nớt chỉ biết ăn học và chơi của chúng tôi cái cảm giác kỳ lạ, hoang mang, lo sợ về sự sống, sự chết. Chúng tôi vẫn nằm yên. Ðịch pháo thêm vài đợt, đạn rơi bên ngoài trường, sau đó rồi im. Tình hình yên tĩnh trở lại.

Khoảng 11 giờ trưa, trong cái cảm giác mang mang, tuyệt vọng, toàn trường như bất động lặng yên nghe tiếng Ðại úy Hoàng, cán bộ Liên đoàn trưởng, thông báo qua loa phóng thanh:

- Toàn trường chuẩn bị di tản! Các thiếu Sinh Quân cấp trưởng trang bị vũ khí và nhận nhiệm vụ hướng dẫn và bảo vệ đoàn quân. Tập hợp kiểm điểm quân số! Chuẩn bị lên đường khi có lệnh!

Thế là hết! Cơn bão lịch sử sắp tràn qua ngôi trường thân yêu đầy những kỷ niệm của tuổi thơ. Lệnh ra được tuân theo răm rắp. Khoảng xế 1 giờ trưa, toàn thể Thiếu Sinh Quân bắt đầu di chuyển khỏi nhà trường cùng với tất cả cán bộ nhân viên. Ðoàn di tản bắt đầu rời trường theo thứ tự từ nhỏ đến lớn. Là Thiếu Sinh Quân Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Hùng Vương, liên lớp 12, tôi đi hàng đầu cùng các em nhỏ. Ðội ngũ Thiếu Sinh Quân lặng lẽ di chuyển dưới ánh nắng Vũng Tàu chói chang.

Ða số anh em là những đứa trẻ mất cha, mất mẹ trong chiến tranh, ngôi trường Mẹ Thiếu Sinh Quân trở thành tổ ấm đầu đời và tương lai, nay phải doạn lìa, phải ra đi, những trái tim non đã bước đi những bước bùi ngùi, vương vấn. Ði về đâu? Với ai? Thông báo toàn trường được di tản bằng tàu không là câu trả lời trọn nghĩa cho những ý nghĩ mênh mang trong đầu những đứa trẻ chưa thành người lính. Ðột nhiên, nữa đường di chuyển, chúng tôi bị một số anh Thủy Quân Lục Chiến chận lại. Trung tá Dzoanh đến tiếp chuyện cùng người chỉ huy toán lính TQLC... Chúng tôi không rõ nội dung cuộc nói chuyện, song thấy không khí và sắc mặt cả hai bên đều lộ vẻ căng thẳng. Qua tiếng được, tiếng mất, chúng tôi đoán Thủy Quân Lục Chiến đã chiếm giữ bến cảng để họ di tản. Họ buộc chúng tôi phải quay trở lại trường. Cuối cùng, lệnh quay về trường được ban ra. Trên đường về, tâm hồn tất cả mọi người đều trĩu nặng. Bắc quân càng lúc càng sát nách, đường thoát bị tắc nghẽn, sinh lộ càng lúc càng hẹp dần. Không ai bảo ai, tất cả mọi người đều thấy cái cơ may được di tản rất là mong manh.

Về đến sân trường, chúng tôi được tập trung ở sân banh. Chỉ huy trưởng thông báo là kế hoạch di tản được thay đổi. Theo kế hoạch, chúng tôi sẽ được bốc tại trường bằng trực thăng để đưa ra Hạm Ðội 7 đang chờ ngoài khơi Vũng Tàu. Thời gian như chậm lại, nặng nề. Cả đám chúng tôi bật dậy như những chiếc lò so khi thấy một chiếc trực thăng đáp xuống sân trường, niềm hy vọng lại nhen nhúm bốc lên theo đám bụi mù tung cao theo cánh quạt. Hành khách chuyến không vận đầu tiên này gồm một cố vấn Mỹ mặc thường phục, Trung sĩ I Ngộ, cán bộ của trường và 7 em Thiếu Sinh Quân thuộc Tiểu đoàn Quang Trung là liên lớp nhỏ nhất trường. Chuyến bay cất cánh rời khỏi vận động trường. Chúng tôi thẫn thờ tìm chỗ ngồi chờ đợi. Thời gian kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ mà chúng tôi có cảm tưởng như một thế kỷ. Anh em nhìn lên bầu trời xanh chờ bóng dáng một chiếc trực thăng, chờ âm thanh cánh quạt, mỏi mòn, tuyệt vọng. Chiếc trực thăng cứu tinh ngày càng biền biệt tăm hơi khi bóng chiều ngả bóng dần trên sân trường. Nhìn lên cột cờ, lá cờ vàng ba sọc đỏ của Tổ Quốc vẫn còn tung bay. Nhìn xuống sân trường, đoạn trường, ngao ngán.

Khoảng 6 giờ chiều, chúng tôi sững sờ nhìn chiếc xe chở Trung tá Chỉ huy trưởng lăn bánh vội vàng rời cổng trường. Trái tim tôi nghẹn đắng một nỗi uất ức kèm theo một nỗi chới với, hoảng hốt của một đứa bé lạc mẹ giữa buổi chợ đông nghẹt những người. Rồi phóng thanh, một lần nữa, xác định một thực tế phũ phàng:

- Kể từ giờ phút này, chúng tôi không còn trách nhiệm với các em nữa! Các em hãy tự lo lấy bản thân!

Thế là đã quá rõ! Chúng tôi bị bỏ rơi! Ngôi trường này là nhà. Cán bộ là người thân. Giờ đây chúng tôi biết làm gì, và biết đi về đâu. Những trái tim non uất nghẹn, chới với, hoảng hốt. Và thế là như một bầy ong vỡ tổ, chúng tôi tản mát tung ra chạy khỏi trường. Nhưng chạy đi đâu? Chẳng biết! Tại sao chạy? Chẳng hiểu! Thấy bạn bè chạy thì mình cũng chạy. Thế thôi!

Tôi và Nguyễn Lương Thịnh, biệt hiệu Thịnh nhóc thường đánh bóng bàn với tôi, cùng tôi, tay cầm súng, tay gạt các nhánh sậy che phủ con đường mòn sau núi, chạy hộc tốc như bị cọp đuổi sau lưng. Chúng tôi ra tới Bãi Trước và nhận ra tình trạng náo loạn ngoài đường phố, tiếng đạn nổ tứ tung, dân chúng ai cũng đóng chặt cửa trốn trong nhà. Thật không khác một đám loạn kiêu binh. Tôi thấy ở phía trước mặt khoảng 200 thước, một Thiếu Sinh Quân cũng cầm súng như tôi, bị một người lính, không biết ta hay địch giả dạng, hành hung và giật lấy khẩu súng. Tôi không hiểu vì sao. Hoảng hốt, tôi và Thịnh vội vàng vứt súng và quay ngược chạy trở về trường, mệt và khô cổ đến đắng họng. Chẳng hiểu sao chúng tôi lại có thể chạy liên tục từ trường ra Bãi Trước rồi rồi từ Bãi Trước quay ngược trở lại trường. Về đến gần trường, tôi chợt nhớ ra gia đình người bạn cùng liên lớp là Tô Trích Long Vân. Cha của Vân là Thiếu úy Tô Trích Mầu, một cán bộ của trường và gia đình nằm trong khu gia binh gần trường. Thế là chúng tôi chạy đến gõ cửa xin tạm náu.

Bố mẹ Vân dọn cơm cho chúng tôi ăn. Mẹ Vân nhìn hai chúng tôi đang ngấu nghiến ngồi ăn với ánh mắt xót thương, trìu mến. Tôi không bao giờ quên ánh mắt của bà. Có lẽ bà đang nghĩ tội nghiệp cho hai đứa chúng tôi. Là những bạn học cùng lớp, Vân còn có gia đình, ruột thịt ở bên cạnh, còn hai đứa chúng tôi thì tứ cố vô thân, không biết sẽ trôi giạt về đâu trong cn biến loạn. Xong bữa cơm, nhìn ra ngoài trời, đêm đen đã trùm kín không gian tự lúc nào. Căn nhà như thu mình trong nỗi lo âu. Và mọi người cứ nhìn nhau, không ai nói một lời. Trong lúc mọi người chìm đắm trong những suy tư riêng, tôi bỗng nghe tiếng loa phóng thanh từ trường vọng lại:

- Các anh Thiếu Sinh Quân lớp lớn xin trở về trường! Chúng em cần các anh lắm!

Tiếng của em Thiếu Sinh Quân nhỏ vang vọng trong màn đêm, thúc bách não ruột như tiếng chim chíp của đàn gà con mất mẹ làm tôi vô cùng xốn xang, bất xúc. Các em chẳng có nơi nào dung thân, chỉ còn biết trông cậy vào các anh lớn đùm bọc. Là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Thiếu Sinh Quân lớp lớn nhất, tôi nhận ra trách nhiệm của mình. Tôi không thể ngồi yên khi nghĩ đến bạn bè và đàn em đang ở trong trường. Có thể lúc này Bắc quân đã có mặt đâu đó gần Vũng Tàu hay quanh trường, nhưng tiếng các em gọi loa đã giục tôi đứng lên và cương quyết trở lại truờng với các em. Bố Mẹ Vân lo lắng khuyên chúng tôi đổi ý. Tôi cám ơn Bố Mẹ Vân và nói trước khi phóng vào đêm tối:

- Tụi con không thể bỏ các em được!

Về đến trường, các bạn cùng liên lớp với tôi như Lâm A Sáng, Phạm Ngọc Trình, Nguyễn Văn Minh... cũng đã có mặt. Tôi nhận thấy các bạn đã phá kho vũ khí của trường và đang hì hục khuân vác súng đạn ra các ổ canh gác. Một toán Thiếu Sinh Quân khác thì đang xả thịt một con bò, lui cui nấu ăn và luộc thịt. Thế là tôi vớ lấy một cái nón sắt, chụp một khẩu Carbine, cùng với Thịnh, cũng trang bị y hệt, lúc nào cũng kè kè bên cạnh. Hai đứa chúng tôi tự xem trách nhiệm tổ chức canh gác như nhiệm vụ được anh em giao phó.

Nhìn lên bầu trời đen thẳm, nỗi cô đơn chợt đến, chợt đi, tôi suy nghĩ lan nan với một bài toán không đáp số. Vì trách nhiệm của anh lớn bảo bọc đàn em, chúng tôi sẳn sàng cho một cuộc chiến. Cuộc chiến đấu này sẽ về đâu? Chúng tôi không biết. Tương quan lực lượng nghiêng lệch ra sao? Chúng tôi chẳng cần bàn. Không ai trong chúng tôi tin là mình sẽ chiến thắng, nhưng chúng tôi vẫn sẽ chiến đấu, ít nhất chúng tôi cũng phải đánh trả đích đáng những ai muốn chiếm lấy ngôi trường này, nơi dung thên cuối cùng của chúng tôi.

Tôi và Thịnh vát súng đi một vòng toàn trường, thăm các chốt và các chòi canh. Các chốt canh gác những hướng xâm nhập chủ yếu đều được trang bị vũ khí cộng đồng với xạ thủ, phụ tá xạ thủ và nhân viên tiếp đạn. Nhìn những Thiếu Sinh Quân đàn em chững chạc, tự tin bên ổ súng, thành thạo nạp những băng đạn vào ổ súng, sẳn sàng khai hỏa... Tôi bỗng thấy các em chợt lớn lên như những anh hùng Phù Ðổng. Tôi đặt mật khẩu, dặn các chốt canh học thuộc lòng, nếu thấy bóng người di chuyển đến thì hỏi, trả lời không đúng mật khẩu là "quạng" liền lập tức. Toàn trường đặt trong tình trạng báo động và sẳn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào.

Sau khi dạo vài lần, nhận thấy các chốt canh đã được chuẩn bị đạn dược chu đáo, mật khẩu thông thuộc, tất cả mọi người đèu được phân phối khẩu phần đầy đủ... (Nhìn các bạn "chén" bữa cơn nửa khê nửa sống một cách ngon lành, tôi có cảm giác bữa cơm hôm nay có lẽ là bữa cơm ngon nhất kể từ ngày nhập trường của các bạn...) Xong công việc, tôi và Thịnh quay lên phòng làm việc của Chỉ Huy Trưởng nghỉ dưỡng sức. Lúc này Thịnh quá mệt, chẳng còn thiết tha gì nữa, cậu ta chui vào một góc phòng và mấy phút sau đã bắt đầu "kéo đờn cò". Ngoài trời, đêm đen thật thanh vắng, tôi ra ngoài đứng trên ban công, nhìn qua trại gia binh bên cạnh, tự hỏi không biết gia đình Vân đang làm gì, và nghĩ đến ánh mắt yêu thương của Mẹ Vân nhìn hai đứa tôi khi ăn cơm với linh cảm mình sẽ không bao giờ có lại bữa cơm đó. Nhìn qua lầu 2 phòng quân số, tất cả đều yên tỉnh. Tôi biết một số quá mệt, chắc cũng đã "hồn bướm mơ tiên", tuy nhiên hẳn cũng đã phân công thay nhau ngủ. Những con gà con rối loạn chỉ trong vài tiếng đồng hồ nay đã trở thành những con mãnh hổ đang nằm phục sẳn. Không ai có thể ngờ được sức mạnh của những con mãnh hổ này lợi hại đến nhường nào.

Tôi quay trở lại phòng Chỉ Huy Trưởng,và ngủ thiếp đi tự lúc nào không hay. Trong giấc mơ, tôi thấy mình đang ở nhà quây quần cùng với cha mẹ và anh em. Hai đứa em gái của tôi, bây giờ mới được 7 và 8 tuổi, đòi tôi dẫn đi chợ. Hàng năm, mỗi lần được về phép thăm nhà, anh em chúng tôi, như đã thành thông lệ, thường được cha mẹ cho tiền. Hai em gái tôi rất thích ăn yaourt. Ở chợ gần nhà có quán của bà Ba, yaourt của bà làm thật là ngon tuyệt. Thế là ba anh em chúng tọi lại đến vòi mẹ xin tiền, rồi mỗi đứa một bên, tôi dắt hai em đi chợ. Ði gần đến chợ thì... một em Thiếu Sinh Quân lay tôi dậy. Tôi mở mắt thấy trời hừng sáng. Em nói:

- Anh Dũng! Có lính đông lắm, đang đi về hướng mình!

Tôi bật dậy, nhảy ra ban công nhìn về hướng đại lộ độc đạo dẫn vào cổng trường. Trời đang mưa lâm râm, còn mờ mờ tối, cảnh vật rất yên tỉnh. Tôi chẳng nhìn thấy gì, và nghĩ cậu bé lay mình dậy vì hoảng sợ nên tưởng tượng, trông gà hóa cuốc... nên sắp sửa quay lưng trở về chỗ nằm. Bỗng nghe tiếng oang oang của hạ sĩ Hoành mà các anh em đặt biệt hiệu vui là Hoành heo, anh Hoành là hạ sĩ quan cán bộ hỏa đầu vụ. Tôi ngạc nhiên vì sự hiện diện của hạ sĩ Hoành, chẳng biết anh nhập cuộc tự bao giờ. Hạ sĩ Hoành bảo chúng tôi:

- Tụi bay ở đó đi! Chắc lính mình đó! Ðể tao ra coi thử!

Cùng đi với hạ sĩ Hoành là Nguyễn Văn Thành, liên lớp 12 và một Thiếu Sinh Quân nữa tôi không biết tên, vác súng hướng về phía cổng trường. Ðến lúc đó, tôi mới thấy có một nhóm người lố nhố ở tít đàng xa đang hướng dần về phía chúng tôi. Tôi đứng trên lầu căng mắt theo dõi và dặn anh em sẵn sàng cho mọi bất trắc. Ðột nhiên, tất cả anh em đều nghe tiếng hạ sĩ Hoành la lớn:

- Việt cộng!

Tiếng hô "Việt cộng!" của hạ sĩ Hoành vừa dứt thì lập tức, tất cả hỏa lực đặt sẵn ở lầu 1 phòng quân số, phòng chỉ huy, các khu vực tháp canh nhất tề đồng loạt khai hỏa yểm trợ cho đồng đội chạy trở vào trường. Bắc quân không thể nào ngờ họ "được đón tiếp nồng hậu" như vậy. Suốt khoảng thời gian gần 15 phút, hỏa lực từ trong trường dập ra thật dữ dội. Bắc quân bị tấn công bất ngờ, chui rúc tìm chỗ tránh đạn, chỉ nghe rời rạc vài tiếng AK bắn trả. Có lẽ là họ nghĩ trường Thiếu Sinh Quân đã di tản và bỏ trống. Những phút giây khai hỏa dữ dội ở cổng trường đã làm cho tất cả lực lượng chiến đấu còn lại của trường tỉnh táo và sẵn sàng ở vị trí ứng phó 5/5.

Bên ngoài trường, hẳn là đồng bào đã bừng thức giấc và ngạc nhiên, lo âu, nhìn vào trường Thiếu Sinh Quân. Một buổi sáng họ không bao giờ quên. Trong trường, anh em di chuyển nhộn nhịp hẳn lên. Tôi nhìn thấy Lâm A Sáng và Phạm Ngọc Trình chạy lúp xúp sang ban quân số, đứa vác súng, đứa vác đạn. Ðến ban quân số, tầng trên đã chật ních những xạ thủ, Sáng và Trình phải nằm thủ ở bậc cầu thang, thoắt một cái, khẩu trung liên Bar của Sáng và Trình đã sẵn sàng tham gia cuộc chiến. Súng vẫn còn nổ giòn giã thì Hoàng Văn Mạ đang thủ đại liên trên lầu gào:

- Ê tụi bay! Bắn cho chính xác và vừa thôi, coi chừng hết đạn nghe!

Sau tiếng gào lớn của Mạ, như thể một mệnh lệnh, khiến cho tất cả các khẩu súng đều ngừng khạc lửa. Khói súng mịt mù, mùi thuốc súng nồng nặc. Tai tôi lùng bùng vì tiếng đạn nổ tưởng rách màng nhĩ. Xa xa ngoài cổng trường, các bóng Bắc quân biến đi đâu mất. Bên trong sân trường và các ổ chiến đấu thì tĩnh mịch, cái yên tĩnh rùng rợn của một hứa hẹn đổ máu thật dễ sợ mà lần đầu tiên trong đời tôi mới cảm thấy. Tôi đoán Bắc quân thế nào cũng tấn công và chiếm trường. Tôi cũng biết quyết tâm của những tay súng Thiếu Sinh Quân quả cảm, liều lĩnh. Chúng tôi lúc này như đã ở vào thế cận chân tường, chiến đấu trong tâm trạng "điếc không sợ súng" và ý nghĩ "không còn gì để mất!".

Bên ngoài, trời đã bắt đầu rạng sáng. Trấn tĩnh đội hình, Bắc quân bắt đầu tấn công chiếm trường. Họ cho một toán quân tiến qua khách sạn đối diện trường ở phía bên kia đường, chiếm giữ các vị trí trên các tầng lầu nhằm giảm lợi thế của chúng tôi khai hỏa từ trên cao, một mặt, họ đưa hỏa lực mạnh như súng cối, súng phóng lựu, B40 để công phá chúng tôi ở mặt đất, vì với vị trí phòng thủ kiên cố, hỏa lực nhẹ của họ không có tác dụng uy hiếp được chúng tôi.

Cuộc chạm súng đợt hai khởi diễn với quả đạn pháo của Bắc quân rớt vào giữa sân banh sau lưng chúng tôi. Lần đầu tiên bị pháo giữa sân trường, lẽ ra phải nằm xuống tránh miểng đạn, một số các em hoảng sợ chạy tán loạn tìm chỗ che lưng, cũng may là không ai bị trúng thương. Tiếp theo là một phát B40 thổi tung cổng trường, một em Thiếu Sinh Quân, có lẽ thuộc liên lớp 9 hoặc 10, chạy ra kéo cánh cửa đóng lại. Vừa đóng xong, em chạy qua nấp bên bức tường đá phía phòng chỉ huy. Tất cả sự việc xẩy ra không đầy một phút, em vừa kịp lách mình vào thành đá là một quả B40 thứ hai nối tiếp một lần nữa, mở toang cổng trường. Giỡn mặt với tử thần như vậy cũng tạm đủ. Từ giờ phút đó chẳng ai thèm chạy ra đóng cửa nữa. Nhìn rõ mặt đánh nhau mới "sướng!"

Mặc dù có những lỗi lầm ngu ngơ của lần đầu tiên trong đời đối mặt với kẻ thù như vừa kể, cuộc chạm súng đợt hai đã diễn ra thật dữ dội. Ðối phó với địch quân trên các tầng lầu khách sạn, Phú Văn Ðại cầm khẩu M79 bắn trực xạ vào các ô cửa phòng khách sạn. Chẳng hiểu hắn luyện tập khi nào mà sử dụng vũ khí rất chuyên nghiệp. Bắc quân bị khốn đốn rất nhiều với anh chàng này.

Ðối phó với toán quân trên bình địa là các khẩu đại liên phí hợp với trung liên, tiểu liên thay phiên bọc lót nhau. Những tràng đạn giòn tan đủ âm độ được tô điểm bởi những phát nổ cầm chừng cũa các khẩu Garant nhịp nhàng, ăn ý, lâu lâu lại có tiếng dậm đậm đà của cây phóng lựu M2. Tất cả các âm thanh quyện lại như một dàn nhạc giao hưởng điêu luyện và biến thành một lưới đạn chằng chịt phủ xuống đầu đối phương.

Với quân số ước lượng hơn một tiểu đoàn quân chính quy Bắc Việt, đối phương dồn hỏa lực cố gắng tạo kẽ hở để vượt lên tiến gần chúng tôi, nhưng với vị trí thuận lợi và những tay súng gan lì không hề nao núng trước lằn đạn kẻ thù, các em nhỏ Thiếu Sinh Quân đã buộc Bắc quân phải bó tay, dậm chân tại chỗ suốt hơn một giờ chiến đấu.

Ðến khoảng 7 giờ sáng, từ bên phòng Chỉ Huy Trưởng, tôi chạy băng qua phòng quân số để theo dõi việc tiếp đạn cho các khẩu đại liên trên đó. Qua hai cánh cổng mở toang, tôi chợt thấy một bộ đội cộng sản đang đặt một khẩu phóng lựu trên vai nhắm thẳng ngay tôi, tôi bật ngay khẩu carbin trên tay hướng về hắn bóp cò. Cùng lúc viên đạn từ nòng súng của hắn cũng xẹt một ánh sáng xanh bay về phía tôi, chệch qua mặt tôi khoảng hai gang tay. Viên đạn trúng đài biểu tượng Nhân - Trí – Dũng, phá tan một mảnh đá lớn. Ngay lúc đó, tôi cảm thấy hoa mắt, chân và vai tê rần. Tôi khỵu xuống với chân phải bị trúng thương, liếc nhìn xuống áo sơ mi đang mặc loang lổ đầy máu tươi. Một thoáng tích tắc, tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao áo mình đầy những máu mà tôi không cảm thấy một chút gì đau đớn thì tôi ngả ra ngất xỉu. Trong lúc đó, Lâm A Sáng cũng bị một phát đạn vào chân, Lê Văn Tánh chạy lại băng bó cho Sáng, một lúc sau cũng lãnh một viên đạn vào đùi.

Thế là Phạm Ngọc Trình cõng Lâm A Sáng, Nguyễn Văn Minh cõng tôi chạy qua khu Văn Hóa. Nghe kể lại, hai Thiếu Sinh Quân đã dùng tấm drape giường làm võng khiêng tôi đang mê man ra đến bệnh viện Vũng Tàu cách trường vài cây số.

Các anh em Thiếu Sinh Quân ở lại vẫn tiếp tục chiến đấu mãi cho đến gần 10 giờ sáng. Khi ấy đạn dược đã gần cạn, các bạn mới quyết định gọi loa điều đình ngưng bắn và treo cờ trắng đầu hàng. Một sự đầu hàng trong danh dự, vì các em vẫn đường hoàng làm lễ hạ quốc kỳ và thay vào đó bằng tấm drape trắng dong lên cho phép Bắc quân đặt chân vào ngưỡng cửa ngôi trường yêu dấu. Bắc quân hẳn phải bàng hoàng khi thấy những đối thủ kiêu hùng của họ chỉ là các em Thiếu Sinh Quân tuổi trung bình 15, 16 mà thôi. Họ uất ức, nhưng chắc hẳn họ cũng phải thán phục các tác giả của 6 xác bộ đội đang nằm phơi nắng ngoài cổng trường.

Theo lời thuật lại của Lâm A Sáng, thì trong hơn 100 Thiếu Sinh Quân tham gia trận đánh, đa số đã leo rào sau trường trốn thoát trước khi Bắc quân xông vào cổng trường, còn lại chỉ có vài chục em nhỏ ở lại với các anh lớn bị thương không thể đào thoát. Tất cả bị Bắc quân bắt giữ đem nhốt qua trại gia binh Cô Giang bên cạnh trường. Trại gia binh Cô Giang vốn là ngõ ngách quen thuộc của các Thiếu Sinh Quân, nên tất cả đã chui rào biến mất, khiêng luôn cả Lê Văn Tánh bị thương nặng ở đùi theo. Nhốt Thiếu Sinh Quân ở trại Cô Giang chẳng khác nào thả hổ về rừng.

Trở lại phần tôi, tỉnh dậy trong bệnh viện Vũng Tàu thì trời đã tối. Chân và vai đau đớn vì miểng đạn , mặt thì sưng vù không há miệng được do vết thương ở bên má. Cho đến bây giờ, hơn 27 năm sau, ngồi viết đến đoạn này, tôi vẫn không ngăn được niềm xúc động và tự hào cho tình yêu thương nhau hiếm có của những con người Thiếu Sinh Quân. Bệnh viện đầy ngập những người bị thương, nhân viên y tế không đủ để chăm sóc. Tôi bị bỏ nằm trên nền đất lạnh cả đêm, chẳng có y tá nào ngó ngàng tới, chỉ có một em Thiếu Sinh Quân lớp 9 mà mãi đến 27 năm sau tôi mới được biết tên là Nguyễn Kim Hùng, đã ở lại chăm sóc cho tôi. Em thức suốt đêm cạy miệng đổ sữa cho tôi cầm sức và quanh quẩn bên tôi để giúp đỡ. Ðến sáng hôm sau, thì một đám bạn cùng lớp gồm Thịnh nhóc, Thành râu, Thiện huế và vài em nữa tôi không nhớ tên, đến bệnh viện đón tôi đi. Các bạn rất vất vả thay phiên nhau cõng tôi đi mãi đến khi trời chập choạng tối thì chúng tôi mới về đến Bà Rịa. Nghỉ ở Bà Rịa một đêm, sáng hôm sau, chúng tôi lại dìu dắt nhau tìm phương tiện để trở về thành phố.

Lịch sử đã sang trang. Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua. Truờng Thiếu Sinh Quân ngày nay đã trở thành trụ sở của một công ty dầu khí ở Vũng Tàu, tuy nhiên, trong lòng người dân xứ biển, hình ảnh hào hùng của những Thiếu Sinh Quân trong trận đánh giữ trường lịch sử mãi mãi sẽ không bao giờ phai nhạt. Tổ Quốc sẽ ghi danh trong quân sử những người con Thiếu Sinh Quân vũ dũng, kiêu hùng đã viết nên thiên anh hùng ca bất khuất cho quân đội...

Colorado 24/10/2002
Nguyễn Anh Dũng & Lâm A Sáng
(Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu)


Con Cá Sấu Khóc trên Nhát Kiếm Chém Gió - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Về khoa học kỹ thuật thì chưa dám nói, nhưng về văn chương phú lục thì phải thừa nhận rằng, tiếng Việt của chúng ta xúc tích và sâu sắc tuyệt vời. Để nói về cái thói đời giả nhân giả nghĩa thôi cũng đã có hàng lô thành ngữ nghe thú vị hết sẩy như là: nước mắt cá sấu, mèo khóc chuột, nhân nghĩa bà Tú Đễ v.v. Những câu này hàm ý mỉa mai cử chỉ hay hành động của những kẻ trong lòng ác độc, nhưng bề ngoài lại tỏ ra ta đây nhân nghĩa, đạo đức. Người với người khéo dư nước mắt vờ vịt thương khóc nhau khi người nọ thấy người kia gặp bất hạnh là chuyện nhỏ. Việc chính quyền nước này chạnh mối từ tâm lo chuyện mất nhân quyền cho một dân tộc khác mới là chuyện lớn. Chả nói ra thì quý bạn đọc cũng đã hiểu bần bút muốn nói gì và muốn nói về ai.

· Từ vấn đề bán vũ khí

Hiện nay đang có chuyện VGCS thương lượng mua vũ khí của Hoa Kỳ. Dĩ nhiên là loại vũ khí hiện đại có thể đương đầu với ngoại xâm (Trung cộng) chứ không phải là những thứ súng dỉ, máy bay tầu bò phế thải mà ông bạn Mỹ tốt bụng ngày xưa giúp cho QLVNCH để đánh VC. Thằng VGCS dám chơi thằng Trung cộng thì ông Mỹ khoái là cái chắc. Thằng khốn nạn bí lắm mới phải nhịn ăn nhịn mặc để mua sắm võ khí. Ông Mỹ đang lúc dân thiếu ăn hẳn cũng muốn bán để có tiền cứu đói, nhưng lại lồng vào việc mua bán này điều kiện là phải trả nhân quyền cho nhân dân VN trước cái đã rồi mới bán. Buôn bán người ta deal với nhau vấn đề giá cả, cò kè bớt một thêm hai, chứ có ai lại đem quyền lợi của người khác ra mà mặc cả? Chuyện lạ là chỗ đó. Về nhân quyền tại VN thì chẳng phải là ngày trước chính quyền Mỹ đã cố ý giao người dân miền Nam cho bọn VGCS để chúng tha hồ hành hạ và tước đoạt nhân quyền đó sao? Thế mà nay người Mỹ lại khi không đòi nhân quyền về cho người dân VN thì ai tin nổi? Có cái gì mờ ám trong đó không? Nước mắt khóc thương người dân VN của mấy ông chính khách Mỹ có gì khác nước mắt cá sấu?

Người Mỹ rao hàng với bọn VGCS đều là chính khách cỡ bự cả: ông Phụ tá Bộ Trưởng Ngoại Giao, Nghị sĩ John McCain, Joe Lieberman. McCain ngày xưa được bọn cai tù VC cho ăn cháo lú hơi nhiều nên ông là người đầu tiên kêu gọi Mỹ bãi bỏ cấm vận và thiết lập bang giao với VGCS, bây giờ đi lo chuyện nhân quyền! Còn ông Joe Lieberman đi VN phải chi rủ thêm Henry Kissinger cùng đi chung có phải vui vẻ cả làng không. Do Thái với nhau cả đấy mà. Ẩn ý của mấy ổng trong vấn đề bán buôn này là gì người ngoài chẳng ai biết, vì thế bần bút đành phải rờ mu rùa để bốc quẻ vậy.

Dân tỵ nạn mình là bầy chim phải ná nên thấy có người giương cung là sợ. Quốc gia sợ đã vậy, mà thằng VGCS cũng lạnh cẳng nữa. Khi ông Mỹ ra giá để bán võ khí là vấn đề nhân quyền thì nhất định thằng VGCS cũng thừa hiểu rằng, lòng từ tâm của mấy ông chính khứa Mỹ chẳng qua cũng là thứ nhân nghĩa bà Tú Đễ. Kẻ cướp bà già hiểu nhau quá mà. Thằng VGCS nghe ông Mỹ ra điều kiện sách nhất định sẽ tỉnh bơ trả lời: nguời VN chúng tôi vẫn có đầy đủ nhân quyền đấy chứ có ai lấy đi đâu mà mất. Dĩ nhiên mấy ông Mỹ vì muốn bán hàng nên quả quyết điều mình nói là thật, còn phải đưa ra bằng chứng nữa để chứng minh.

Có phải phong trào ký Petition ra đời trong cái bối cảnh như thế không? Nếu đúng thì bần bút sẽ lại rờ mu rùa tiếp.

· Đến hỏa mù điều kiện sách

Việc bán võ khí không biết đã đi đến đâu, nhưng phong trào ký Petition đã qua rồi. Diễn tiến của vấn đề đã được truyền thông phổ biến đầy đủ. Bần bút xin được miễn nhắc lại, chỉ xin nhấn mạnh đến hai điểm quan trọng trong nhiều sự việc đã xẩy ra. Thứ nhất là sự hứa hẹn TT Obama sẽ tiếp kiến phái đoàn trình Petition. Và thứ hai là cuộc tiếp kiến đáng lẽ để trình bầy về vấn đề nhân quyền tại VN, đã biến thành buổi thực tập cho sinh viên của chương trình Community Leadership của TS Nguyễn Đình Thắng.

1. Obama tiếp kiến - Trong cái chiêu mị dân của ông Obama “We the People”, người ta chỉ thấy nói, nếu có 25.000 chữ ký thì Petition sẽ được tòa Bạch Ốc cứu xét và trả lời. Thế nhưng trong cuộc cuộc vận động ký Petition, vấn đề đã biến dạng đi rất nhiều. Ngay từ khởi đầu, ông Nam Lộc (phát ngôn viên của ban vận động?) đã khoa trương thành TT Obama xin được gặp gỡ phái đoàn người Việt tỵ nạn, và còn muốn được nghe mấy bài hát NS Việt Khang đã sáng tác. Sự thể “được Tổng Thống tiếp kiến” đã làm nức lòng nhiều người trong cộng đồng tỵ nạn VN. Rất nhiều người háo hức mong có dịp vô tòa Bạch Ốc, gặp mặt, bắt tay, và nói chuyện với ông Tổng Thống vài ba câu. Có tấm hình chụp với ông Tổng Thống để khoe bà con là điều đáng hãnh diện lắm chứ. Nhất là (xin nhấn mạnh) khi được nghe mấy ông giáo sư, tiến sĩ, sĩ quan bự ca cải lương đề cao phong trào, họ tin tưởng mãnh liệt rằng thời cơ giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của bạo quyền VGCS, được Obama giúp đỡ, đã đến trong tầm tay. Sự mơ tưởng này đã trở thành động lực có sức quyến rũ mãnh liệt khiến phong trào ký Petition bùng lên cao và lan rất nhanh là vì vậy. Các chiến lược gia của tòa Bạch Ốc nhất định rất bằng lòng với kết quả này. Nếu đúng như bần bút đoán mò thì tòa Bạch Ốc đã dùng con số người ký Petition để chứng minh với bọn VGCS rằng quả thật vấn đề nhân quyền là vấn đề quan trọng lắm. Người dân Mỹ gốc Việt rất quan tâm về vấn đề này và họ đang quyết liệt đòi hỏi cho bằng được. Xem ra chính phủ Mỹ khó lòng mà thoái thác. Một mặt người Mỹ vẫn neo giá. Nhưng mặt khác họ lại trấn an VGCS rằng, tuy nhiên vấn đề này còn có thể giải quyết được. Mấy ông Mỹ biết đâu chẳng nói nhỏ vào tai bọn VGCS rằng thì là, các anh đừng có lo, chúng tôi sẽ có cách biến chuyện CÓ thành KHÔNG dễ dàng thôi, cứ yên chí đi. Vì thế người ta mới được thấy xẩy ra chuyện treo đầu dê (đòi nhân quyền) bán thịt chó (thực tập Leadership) ngày 5-3 vừa qua tại tòa Bạch Ốc.

2. Buổi thực tập chương trình Community Leadership - Hiện nay không còn vấn đề thuyền nhân nên dĩ nhiên không cần đến SOS làm gì. TS Nguyễn Đình Thắng xoay qua hoạt động lãnh vực đào tạo leaders tưong lai cho cộng đồng tỵ nạn VN. Người ta không biết có sự sắp đặt nào giữa TS Nguyễn Đình Thắng và tòa Bạch Ốc không, nhưng sự thể xẩy ra tại South Court Auditorium trong Eisenhower Executive Office Building trong tòa Bạch Ốc cho thấy, đây là buổi thực tập cho các học viên chương trình Community Leadership của TS Thắng hơn là cuộc gặp gỡ Tổng Thống của người VN tỵ nạn để đạo đạt nguyện vọng của mình. Chủ đích của buổi tiếp kiến là trình bầy với chính quyền Obama về vấn đề nhân quyền tại VN thì hầu như bị bỏ quên, có nhắc đến cũng chỉ là một chút mầu mè riêu cua làm mặt. Sự vắng mặt cố ý của kép chính (TT Obama) trong buổi tiếp kiến là để làm giảm tính cách quan trọng của vấn đề nhân quyền hầu chứng tỏ cho VGCS thấy cái tài đạo diễn của người Mỹ để chúng an tâm. Màn ảo thuật biến “CÓ thành KHÔNG” ngoạn mục này hẳn làm yên lòng bọn VGCS. Nhưng nhân vật chủ chốt trong chiến dịch Petition là ông Trúc ồ thì bất bình ra mặt. Ông Trúc Hồ bất bình vì cho rằng mình đã thất bại vì bị người nào đó đánh lừa. Công cuộc vận động để chính TT Obama can thiệp với ngụy quyền VGCS thả NS Việt Khang và các tù nhân chính trị khác Trúc Hồ coi như đã đi đoong?

· Điều kiện sách thực?

Vấn đề đặt ra ở đây là, nếu quả thật chính quyền Obama đã dàn dựng ra biến cố và lợi dụng phong trào ký Petition của cộng đồng tỵ nạn VN để deal với VGCS trong vấn đề mua bán vũ khí thì chuyện đó có tin được không, và nếu đáng tin thì điều kiện sách mà người Mỹ đòi hỏi thực sự là gì?

Vấn đề thứ nhất: có hay không có chuyện dàn dựng - Chuyện tin hay không tin là tùy nơi mỗi người, bần bút chỉ dựa trên kinh nghiệm về nước Mỹ để suy đoán. Dù sao cũng có một điều có thể tin được là, ở nước Mỹ này, nhà cầm quyền đôi khi bất chấp đạo lý và lương tâm để được những gì mà họ cần. Lấy vụ án OJ Simpson làm thí dụ. Vụ án OJ Simpson đã lôi cuốn được sự chú ý của cả thế giới chứ không phải riêng nước Mỹ. Đến nỗi có một lần TT Yeltsin gặp TT Clinton, vừa bước ra khỏi máy bay, câu đầu tiên ông Yeltsin hỏi Tổng Thống Mỹ là: Liệu ông có tin OJ Simpson hắn giết vợ thật không? Khi OJ Simpson bị cảnh sát rượt đuổi trên xa lộ hàng buổi trời thì người ta đã có lý do để nghĩ rằng anh ta giết vợ thật. Simpson bị bắt và bị đưa ra tòa thì dân da đen đe dọa nổi loạn. Lý do là vì Nicole vợ Simpson là da trắng, còn anh ta da đen. Nhìn vào thành phần xử án, người ta đã có thể suy đoán Simpson sẽ vô tội. 12 phụ thẩm chỉ có 2 ông nhưng tới 10 bà. Trong số 12 vị này thì 2 da trắng, 1 spanish, còn 9 là da đen. Chánh án Ito là một ông gốc Nhật bản. Đúng như là, OJ Simpson trắng án thật. Research của đài NBC cho thấy có tới 77% người được hỏi tin rằng Simpson đã giết vợ. 87% trong số 77% này da trắng, còn lại là da mầu. Vụ án OJ Simpson quan trọng tới độ mà TT Bill Clinton đã phải bỏ công việc để theo dõi phiên tòa trên màn hình. Cho tới khi Simpson được tuyên bố trắng án thì ông Clinton mới yên tâm thở phào nhẹ nhõm. Phiên tòa đã được sắp đặt đâu ra đấy từ chánh án đến phụ thẩm, biện lý cũng như luật sư hai bên. Mọi thủ tục, luận chứng và bằng chứng trước tòa ăn khớp nhau, không ai bắt bẻ gì được. Người đạo diễn tỏ ra thật tài tình. Trong trường hợp này, công lý phải nhường bước để đổi lấy trật tự và an toàn cho xã hội. Biến cố 30-4-1975 còn là một kinh nghiệm học hỏi nữa cho bất cứ người VN nào. Đau thương, tang tóc, uất hận, và bi đát vô cùng. Chúng ta mất hết chẳng còn gì để người Mỹ được cái mà họ muốn. Trước danh dự của một cường quốc số một trên thế giới, người Mỹ còn dám dàn dựng cả một cuộc thua trận để tháo chạy, bỏ lại đàng sau một dân tộc rơi vào cảnh đau thương, tủi nhục, bị tước đoạt quyền làm người thì còn có gì họ không dám làm! Nếu chiến dịch Petition là một trò hề dàn dựng thì màn kịch dàn dựng này còn quá nhân đạo.

Vấn đề thứ hai: điều kiện sách thực - Lợi ích của việc Mỹ bán vũ khí cho VGCS thì chỉ có chính quyền, những người ở cấp thượng tầng, mới biết. Người khác khó có ai biết được. Chúng ta cũng chỉ có thể suy đoán dựa trên kinh nghiệm lịch sử. Ở các nước khác thì bần bút không dám nói, nhưng kinh nghiệm cuộc chiến Quốc cộng vừa qua cho chúng ta một bài học. Trong cuộc chiến tranh này, chính quyền Mỹ cung cấp cho VNCH dưới hình thức viện trợ toàn khối quân trang, quân dụng để chiến đấu chống Việt gian miền Bắc xâm lược. Phải nói thiệt rằng vũ khí và khối quân dụng đó đều là thứ cũ kỹ và lỗi thời. Không có cái gì là hiện đại cả, tạm trừ ra duy nhất là những trái bom CBU. Bom CBU tại VN cho đến bây giờ vẫn còn là một huyền thoại. Nó là loại vũ khí hiện đại nhất đối với QLVNCH. Theo nhận định của vài người bạn của bần bút trong Không Quân, thì CBU có thể gọi là loại vũ khí quyết định chiến trường của QLVNCH, được Mỹ viện trợ nhưng không giao ngòi nổ. Ngòi nổ được cất giữ mãi ở bên đảo Guam hay Thái Lan gì đó. Có lẽ người Mỹ sợ QLVNCH táy máy chôm chĩa rồi làm hư bột hư đường của họ chăng? Vào giờ thứ 25 của cuộc chiến, người Mỹ mới để cho Không Quân VNCH thả hai trái bom này xuống chiến trường Xuân Lộc nhằm chặn đường tiến quân của bộ đội miền Bắc hầu có đủ thì giờ cho ông ĐS Martin và những người Mỹ cuối cùng kịp rút khỏi Saigon.

Cần phải thừa nhận VN là một mắt xích quan trọng và cần thiết trong sách lược chế ngự Trung cộng của Mỹ thì mới thấy rằng người Mỹ muốn dành quyền làm chủ các vũ khí có khả năng quyết định vấn đề thắng hay bại trong vùng biển Đông nếu chiến tranh xẩy ra. Trong cuộc chiến VN, Mỹ không chủ thắng nên họ viện trợ bom mà không viện trợ ngòi nổ cho VNCH. Tiền đề này dẫn đến kết luận là cho dù người Mỹ bán hay viện trợ các loại vũ khí chiến lược nào cho người VN, dù Quốc Gia hay CS thì họ cũng muốn dành quyền sử dụng vũ khí đó khi họ muốn. Xưa kia Mỹ giao bom mà không giao ngòi nổ cho VNCH. Bây giờ nếu bán vũ khí tối tân cho Hànội, VGCS cũng phải để cho Mỹ quyền điều khiển các vũ khí đó. Đây mới là điều kiện sách thực. Nhân quyền chỉ là cái mặt nạ của vấn đề. Yêu sách của người Mỹ có thể là họ đòi khi chuyển giao vũ khí phải có chuyên viên đi theo để bảo trì với hình thức cố vấn kỹ thuật. Vũ khí càng tối tân thì chuyên viên càng phải có trình độ. Phần chuyên môn này không phải ai làm cũng được và vơ ở đâu cũng có người. Thằng VGCS nghe thế có lẽ đành chịu thua, nhưng nó liên tưởng ngay đến con ngoáo ộp CIA và vô cùng sợ hãi. Do đó ông Mỹ lại phải một phen dùng phù phép để trị. Petition của Trúc Hồ mới là món ăn chơi. Có thể Dự Luật 1410 đang nằm ở Hạ Viện sẽ là món ăn thiệt. Đã có món khai vị (appetizer) rồi. Obama vừa mới ra lệnh cấm nhập từ VN vào Hoa Kỳ những túi nylon đựng đồ. Đến lúc cần cho thằng VGCS say xỉn, ông Mỹ chơi đòn cấm người dân tỵ nạn gởi tiền về hay một biện pháp nào khác hữu hiệu hơn xem nó có nằm đo ván để cho chó ăn chè không thì biết liền.

Trong bài viết trước đây “Thả con cá bắt con tép” bần bút cho rằng chiến dịch Petition có thể nằm trong kế hoạch vận động tái tranh cử của Obama. Tuy nhiên sau những chuyện xẩy ra tại tòa Bạch Ốc ngày 5-3 vừa qua, bần bút nhận thấy dự đoán đó khó thuyết phục. Cần phải tìm một lối giải thích khác. Thiếu thuyết phục bởi vì một cuộc vận động kiếm phiếu không thể nào luộm thuộm đến độ làm mất lòng cử tri được. Thế nhưng điều đó đã xẩy ra. Vả lại, nhìn vào cuộc tranh cử hiện nay thì thấy ông Obama không cần đến số phiếu của cộng đồng tỵ nạn VN. Có thể ông đã có đủ lý do để tin mình sẽ thắng cử. Không phải nhiều cơ quan truyền thông lề phải (Main Stream Media) đã đưa ra kết quả poll đó sao: Obama leads all GOP candidates (Obama dẫn trước tất cả mọi ứng cử viên Cộng Hòa.) Nếu không là kiếm phiếu hoặc một chủ đích quan trọng nào khác thì Bạch Ốc chẳng làm ồn ào kiểu đó. Cứ suy nghĩ xem, nhà cầm quyền thành phố Los Angeles đã dám “trick” cả nước Mỹ để tránh được một cuộc bạo loạn, thì chính quyền Obama chơi trick cộng đồng tỵ nạn VN một coup để nắm cái thế chiến lược tại Biển Đông theo tính toán của Bạch Ốc thì tại sao không làm?

· Cuộc chống cộng không người lái và hệ quả của nó

Tòa Bạch Ốc, và có lẽ cả ông Obama nữa, chắc hẳn phải sửng sốt trước sự thành công tuyệt vời của chiến dịch Petition của cộng đồng người VN tỵ nạn. Không phải khoe khoang, nhưng thử hỏi có mấy sắc dân làm được như thế. Sự việc nói lên hai đặc điểm của người tỵ nạn: lòng ái quốc rất cao và tinh thần chống cộng rất quyết liệt. Chỉ tiếc rằng người Việt chúng ta thiếu lãnh đạo. Việc lớn không có người lèo lái. Với tinh thần và quyết tâm đó mà kết quả của công cuộc chống cộng từ bao năm qua vẫn cứ xa tít mù khơi là vì vậy! Nhìn vào chiến dịch ký Petition này thôi (chưa nói đến trong nước), chúng ta cũng thấy được những hệ quả của việc thiếu lãnh đạo. Ít nữa có ba biểu hiện chính sau đây.

1. Phi lập trường và mâu thuẫn - Khỏi cần biện luận, chỉ xin nêu dăm ba thí dụ cụ thể. Ký Petition thì ký, nhưng nhịn về VN, đem tiền về vỗ béo CS thì không được, phải về. Chống giao lưu văn hóa nhưng không đưa vợ con đi nghe Đàm Vĩnh Hưng hát không chịu được, phải đi. Tố Thúy Nga thân cộng nhưng trong nhà không thiếu cuốn Paris by Night nào, phải có. Bà Nancy Bùi ký và hội luận hô hào mọi người ký Petition nhưng không tài nào bỏ được công việc làm ăn giao dịch với VGCS. SBTN chống cộng nhưng Trúc Hồ vẫn gởi phóng viên về nước lấy tin và làm phóng sự. Không nhiều thì ít cũng có công tuyên truyền quảng bá dùm cho VGCS, chứ không sao? Có cái gì khác với Nguyễn Phương Hùng? TS Nguyễn Đình Thắng vận động nhân quyền cho VN nhưng lập ra tổ chức bảo lãnh và giúp đỡ con cháu của những đứa đang tước đoạt nhân quyền của người dân trong nước… Những mâu thuẫn này xuất phát từ tinh thần phi lập trường trong cuộc sống tỵ nạn hiện nay. Chữ “Phi” ở đây hàm ý là không cần, không xác định dứt khoát. Ngoài lập trường nhổ cỏ và nhổ tận gốc đảng và chế độ VGCS ra, những thứ khác đều là lập trường phi lập trường cả. Việt Tân rêu rao chống cộng, nhưng coi đảng VGCS có công với đất nuớc và chủ trương đối lập với đảng CS để xây dựng đất nước là phi lập trường. Tâng bốc Bùi Tín và Cù Huy Hà Vũ là phi lập trường, bởi vì bọn này chỉ chống bọn nắm quyền trong Bộ Chính Trị hiện thời mà không chống đảng VGCS. Trúc Hồ không chủ trương lật đổ phỉ quyền CS là phi lập trường. Vân vân và vân vân.

2. Niềm tin mù quáng: tin bạn mất vợ, tin đồng minh mất nước - Trong bài diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ 2, Tổng Thống Bush con tuyên bố đanh thép: “Today, America speaks anew to the peoples of the world: All who live in tyranny and hopelessness can know: the United States will not ignore your oppression, or excuse your oppressors. When you stand for your liberty, we will stand with you.“ (Tạm dịch: Hôm nay, một lần nữa nước Mỹ nói với các dân tộc trên thế giới rằng, tất cả những ai đang sống trong chuyên chế và vô vọng đều nên biết Hoa Kỳ sẽ không làm ngơ trước việc họ bị áp bức, và tha thứ cho những kẻ đàn áp họ. Một khi các bạn đứng lên vì tự do, chúng tôi sẽ cùng đứng chung với các bạn.) Ông Bush nói ngon vậy đó và còn gọi Đỗ Hoàng Điềm vào Bạch Cung để tham vấn, nhưng toàn đưa ra những chính sách làm khổ dân VN thêm. Obama cũng thế thôi, vì ông ta cũng là Tổng Thống Mỹ. Đường lối của nước Mỹ có thay đổi ít nhiều tùy tình hình cụ thể, nhưng chính sách của nước Mỹ thì liên tục, không thay đổi dù Cộng Hòa hay Dân Chủ. Đừng quên rằng chính quyền Mỹ đã trao người dân VN cho VGCS hành hạ và tước đoạt quyền làm người thì không có lý do gì đang trong lúc mặn nồng với VGCS, họ lại tốt bụng đến nỗi bắt thằng này phải trả lại nhân quyền cho nhân dân VN. Trên đời có lắm anh đàn ông tin bạn mà mất vợ. Lãnh đạo miền Nam tin Mỹ quá mất nước không hay. Vậy tại sao cái gì cũng phải méc bu với những kẻ đã quay mặt với mình và còn lậy lục xin xỏ nữa? Người dân Việt tỵ nạn chưa học được bài học cay đắng đó.

3. Giao trứng cho ác - 150.000 chữ ký là 150.000 tấm lòng yêu nước sắt son (dĩ nhiên trừ ra những kẻ phi lập trường), trao vào tay những người chưa rành về đấu tranh, phi lập trường mà không trất uốc mới là chuyện lạ. Sau này khi mọi chuyện đã vỡ lở, qua những lời tuyên bố từ chính cửa miệng Trúc Hồ nói ra, nguời ta mới biết ông là một nhà làm truyền thong phi lập trường: ông không chủ trương lật đổ phỉ quyền VGCS mà còn kêu gọi Mỹ giúp nó. Mục tiêu tranh đấu ban đầu của ông là đòi phóng thích NS Việt Khang ra khỏi tù. Về sau thêm mắm thêm muối vào, mục tiêu của Petition mới thành ra là đấu tranh cho nhân quyền tại VN. Tại sao lại Việt Khang mà không phải là một ai khác. Thiếu gì người ở tù không tội tại VN? Thì ra chỉ vì Việt Khang cũng là nhạc sĩ như Trúc Hồ. Chuyện đồng thanh, đồng khí như thế là đáng khen, nhưng nặng tinh thần cục bộ và tùy hứng. Nhờ có “nguyễn trãi” Nam Lộc hiến kế “Obama tiếp kiến và muốn nghe nhạc Việt Khang” mà sáng kiến Petition của “lê lợi” Trúc Hồ bay bổng lên trời cao và nở hoa trên bầu trời tỵ nạn. Tuy nhiên, Trúc Hồ vẫn chưa tìm ra con đường để tìm vào Bạch Ốc và tòa nhà Quốc Hội nên mới phải cầu cạnh TS Nguyễn Đình Thắng. Đây là đầu mối của chuyện bể bạc Petition của Trúc Hồ. Đàng sau vấn đề này người ta thấy lấp ló bóng dáng của những tên Việt Tân. Không biết TS Nguyễn Đình Thắng có liên hệ gì với Việt Tân không, nhưng cái âm mưu lợi dụng lòng yêu nước của đồng bào khởi đi từ chương trình Community Leadership của ông.

Vấn đề đào tạo Leader của TS Nguyễn Đình Thắng cho cộng đồng là một việc nên làm và nên khuyến khích làm. Tuy nhiên trong vấn đề này có hai nghi ngại lớn cần phải đặt ra. Thứ nhất là cơ quan BPSOS của TS Thắng hiện nay đã biến thành một cơ quan bảo trợ cho các du học sinh từ trong nước. Như vậy thì liệu TS Thắng có nghĩ tới việc VGCS cấy người của chúng vào để sau này lãnh đạo cộng đồng tỵ nạn mà ngăn chặn không? Thứ hai, không biết TS Thắng và đám đệ tử của ông có thể lead cái gì cho cộng đồng nếu không phân biệt được mục tiêu tranh đấu như hiện nay. Có hai loại mục tiêu đấu tranh là DIỆT và ĐÒI. Loại đấu tranh để DIỆT bần bút không bàn đến ở đây. Còn với mục tiêu đấu tranh đòi quyền lợi, cũng cần biết quyền lợi tranh đấu là thứ quyền lợi gì. Có cái hợp lý, tranh đấu có thể đòi được. Nhưng cũng có cái bất hợp lý, tranh đấu chỉ uổng công vô ích. Loại thứ nhất là quyền lợi công dân mà Hiến Pháp và luật pháp Hoa Kỳ bảo đảm. Để tranh đấu cho những quyền lợi công dân, TS Nguyễn Đình Thắng và các đệ tử của ông có thể học hỏi nơi các leader người da đen như Martin Luther King Jr. hay Louis Farrakhan. Họ kéo cộng đồng của họ xuống đường để nói to lên nguyện vọng là đủ rồi, chả cần phải xin xỏ lậy lục ai. Loại thứ hai là quyền lợi công dân của nước ngoài, nằm trong tay của chính quyền sở tại, cụ thể ở đây là VGCS, luật pháp Hoa Kỳ không bảo đảm được. Quyền lợi Petition đòi hỏi thuộc loại này và phải biết nó nằm trong khuôn khổ bang giao quốc tế. Bang giao quốc tế được hiểu là việc trao đổi quyền lợi giữa các nước. Chuyện đấu tranh đời quyền lợi từ trong tay phỉ quyền Hànội, TS Nguyễn Đình Thắng không thể đem bầu nhiệt huyết, tinh thần yêu nước của cộng đồng cùng với hai bàn tay trắng ra mà đòi được. TT Obama có muốn cho cũng không có mà cho, muốn giúp cũng phải đổi chác với Hànội bằng một cái giá nào đó. Nếu cái giá đó đi ngược lại với đường lối chính sách của chính phủ Hoa Kỳ thì ai buộc được ông Obama phải chiều lòng cộng đồng chúng ta? Ai cũng biết, đường lối và chính sách của các chính quyền Mỹ từ sau chiến tranh VN là thân thiện với bọn VGCS. Sự thể này không còn nghi ngờ gì nữa. Nên nhớ lại đi, trước đây có lần khi ngoại trưởng Mỹ sang thăm Miến Điện, trước một tập hợp đông đảo dân chúng Miến, bà Hillary Clinton sánh vai bà Aung San Suu Kyi tuyên bố khuyên các nhà lãnh đạo Miến Điện và Bắc Hàn nên theo gương và bắt chước CSVN trên các vấn đề cải cách và phát triển. Khi bà Ngoại Trưởng Mỹ đã lấy CSVN làm mô hình phát triển dân chủ và kinh tế cho nước khác thì xin hỏi, đối với chính quyền Mỹ, vấn đề nhân quyền tại VN có còn được họ quan tâm và cần thiết phải đặt ra nữa hay không? Trao phó tinh thần yêu nước của cộng đồng vào tai những kẻ đang ôm ấp kẻ thù của cộng đồng nên gọi là cái gì, có phải là giao trứng cho ác không?

· Tại cái GPS

Lái xe không rành đường ở nước Mỹ, người ta phải nhờ đến cái máy chỉ đường gọi là GPS (global positioning system.) Để kết thúc bài viết, bần bút xin mạn phép nói rông rài một chút về chuyện cái GPS. Mới hồi đầu tháng, có 3 sinh viên nhật đi du lịch sang Úc. Vì không biết đường nên họ mướn xe có máy chỉ đường GPS. Không biết cái máy quên đường hay trục trặc gì đó, thay vì dẫn 3 người bạn trẻ đến nơi họ muốn tới thì lại đưa họ xuống một bãi biển sình lầy. Chiếc xe ngập hết bánh dưới nước biển và không chạy được nữa. Tội ngiệp mấy người bạn trẻ phải chui ra khỏi xa và lội vô bờ để về khách sạn. Tin rằng lái xe đi đường có GPS là chắc ăn thì lầm to. Bần bút sợ rằng, những quí vị đi trình Petition, có thể vì gặp phải cái GPS có “sự cố” (lại tiếng VC) chăng nên đã đi lộn đường, tới lộn chỗ, gõ lộn cửa, và gặp lộn người chăng. Không phải cái GPS nào cũng giống nhau cả đâu. Sợ là uổng công cho quí vị mất thôi. Hơn một trăm ngàn Petition có giá trị chính trị và tâm lý rất cao. Nó ví như một thanh kiếm báu, chém đá như chém bùn, có thể giáng xuống chưởng lực ngàn cân trên đầu bọn VGCS. Nhưng báu kiến trao vào tay một kiếm khách tồi, chưởng lực tung ta chỉ là nhát kiếm chém gió. Quí vị có đi lạc chỗ cũng xin đừng buồn. Tin rằng thế nào rồi Bạch Ốc cũng sẽ gởi cho quí vị một lá thư cám ơn với một vài câu hứa hẹn vu vơ. Đó là phép xã giao bắt buộc nơi cung đình của các bậc vương tôn công tử trên thế gian này. Trừ ra bọn đầu gấu tại Ba Đình là không có cái lễ nghi vương giả đó mà thôi.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất