Saturday, September 3, 2011

Tôn Giáo và cái ách cộng sản - Bảo Giang

Bảo Giang

“Tôn Giáo dưới ách cộng sản”. Là những câu chuyện, hay những bài viết kể lại những nỗi khốn khổ, bất hạnh mà người có tín ngưỡng phải gánh chịu thêm khi sống dưới chế độ cộng sản mà không một người nào không nghe biết. Gọi là gánh chịu thêm bởi vì, ngoài việc phải chấp nhận chung một số phận bất công là bị tước đoạt hết sự Tự Do, Nhân Quyền, Công Lý…. như những người công dân khác, người theo một tôn giáo còn phải chịu thêm một sức ép, một gánh nặng ghê gớm khác đè lên trong sinh hoạt thường nhật của họ. Đó là những cấm cản, ngăn trở, những ức chế cách này hay cách khác từ chủ thuyết, từ chế độ, từ tổ chức vô thần, vô tín ngưỡng luôn tạo ra cho cuộc sống tinh thần của họ. Nhưng cái ách cộng sản là cái “ách” gì?

“Ách” là một đoạn (khúc) gỗ được tạo hình dáng hơi cong, to chừng bắp đùi, được bào trơn các góc cạnh, chiều dài của nó vào khoảng 1.8 đến 2.2 mét ( tôi phỏng chừng như thế) được sử dụng như là một cái cùm lớn, đặt lên cổ hai con trâu hay bò để buộc chúng làm những công việc nặng nhọc như kéo cày, kéo xe. Đóng ách là chỉ hành động đặt ách lên cổ hai con vật đứng ngang nhau, mỗi con vào một bên. Chúng bị khóa chặt vào ách bằng hai cái chốt dài, khá lớn nằm xuyên qua cái ách từ trên xuống hai bên cần cổ con trâu, bò. Hai cái chốt này còn nhiệm vụ khóa, giữ chặt sợi dây nhợ có bản lớn vòng qua ở phía dười cổ con vật, để chúng không có cách nào thoát ra khỏi cái ách trong lúc kéo cày, kéo xe. Đã thế, chúng phải cùng đi, cùng cày, cùng kéo xe theo lệnh là cái roi trong tay nguòi điểu khiển. Không thể có tình trạng một con kéo một con nghỉ.

Chúng phải kéo cày bao nhiêu giờ một ngày và trọng tải của chiếc xe bò đặt lên mình chúng là bao nhiêu?

Thưa thật với bạn thế này, tôi xuất thân từ đồng quê, nhưng chưa bao giờ biết đóng ách trâu hay bò để cho nó kéo xe, kéo cày. Nhưng tôi đã có dịp nhìn thấy ngưòi ta đóng ách cho trâu, bò để chúng kéo cày, kéo xe. Về thời gian cày thì tùy theo, có khi vài ba tiếng thì ngưòi ta tháo ách cho trâu, bò nghỉ một lúc, nhưng đôi khi vì nhu cầu phải cày cho xong thửa ruộng thì thời gian kéo cày sẻ lâu hơn và lúc nghỉ, chủ nhân chỉ hút vội điếu thuốc lào là lại “ách”, nghĩa là lại ra lệnh cho cặp trâu bò tiếp tục công việc. Như thế thật khó kể thời gian lắm. Nói thế không có nghĩa là người ta không nương con trâu con bò của mình đâu. Nhưng vì công việc đồng áng đòi hỏi cho kịp vụ mùa mà trâu bò chịu khổ nhiều hơn những ngày tháng khác.

Còn về trọng tải của chiếc xe ư? Chẳng ai cân đo bao giờ, và cũng chẳng có sách vở nào ghi về trọng tải của chiếc xe bò là bao nhiêu. Thường họ chỉ ước chừng thôi, cứ chất thóc lúa lên ngang thành xe, lúc chuyển bánh thấy trâu bò chân vẫn đứng thẳng được là…. đi! Khi nào nó bị xa lầy hay qụy xuống thì tính sau.! Tuy thế, bạn chả nên trách những người nông dân này có máu lạnh. Tôi đã thấy họ khóc khi con trâu, bò đau yếu vì lao nhọc qúa mức. Hay bất chợt chiếc xe bị xa lầy và con trâu không đứng lên được nữa. Nói cách khác, họ không vui gì khi những con vật này phải lao nhọc qúa mức. Nhưng không có cách chọn lựa khác. Theo đó, cái roi họ cầm trong tay khi điều khiển trâu bò kéo cày, kéo xe là để giữ cho chúng đi đều nhịp bước hơn là cái roi hận thù của người đối với chúng.

Ngày nay, nhờ khoa học tiến bộ, nông cơ được đem về đồng ruộng, các phương tiện chuyên chở được cài tiến nhiều, nên đa phần trâu bò ở trên thế giới đã được giải phóng khỏi những công việc lao nhọc này, trừ ra các nước còn nghèo và chưa phát triển, như ở Việt Nam và một số nước ở vùng Đông Nam Á, Nam Mỹ. Tả thế, tôi đóan là bạn sẽ thương cảm cho những con vật này nhiều lắm nhỉ?

Thương là phải, nhưng đây chỉ là hình ảnh để bạn có thể qua đó, nhìn ra cái ách mà cộng sản khoác lên cổ người dân ta mà thôi. Trong thực tế, cái ách mà cộng sản khoác lên cổ dân ta còn nặng nề, khốn nạn gấp trăm lần cái ách mà người nông dân khoác lên cổ con trâu hay con bò trong những ngày mùa. Nó nặng nề khốn nạn ngay từ những khác biệt cơ bản giửa nhân bản tính của người nông dân cầm cái roi và đảng tính của người cộng sản.

1. Thường thì con người không có lòng thù hận với loài vật, đặc biệt là với trâu bò, những gia súc đã phụ giúp trong đời sông lao động của người. Cái roi trong tay ngừời nông dân cần có để nhắc chừng cho một công việc, không đem theo lòng thù hận. Nhưng con dao mã tấu trong tay ngưòi đoàn đảng viên Việt cộng, trong tay Hồ chí Minh đối với đồng bao ta là một hận thù sâu sắc.

2. Người nông dân không hãnh diện, không tỏ ra có uy khi cầm cái roi vụt lên lưng con trâu hay con bò. Nên họ không làm công việc này thường xuyên trong thích thú. Không làm vì niềm vui lẽ sống! Cộng sản đối với con ngưòi thì ngược lại. Con dao mã tấu, cái roi điện trong tay đoàn đảng viên phải là một hãnh diện lớn, là uy quyền lớn. Nó đòi sự khuất phục khi chém vào cần cổ nhân dân. Nó là lẽ sống của cộng sản. Vỉ không còn khủng bố nhân dân, cộng sản không còn lẽ sống!.

3. Người nông dân không đóng ách vào cổ con cái hay thân nhân của mình, nhưng là vào cổ những con vật có sức mạnh để nó phụ cho những phần việc lao nhọc với lòng biết ơn chúng. Cộng sản cũng không đóng ách vào cổ con mình, nhưng đóng tất cả mọi loại ách vào cổ nhân dân, thân nhân, có khi là cà cha mẹ nữa, để đày ải những thành phần nhân bản này phải nhận chịu một cuộc sống như tôi đòi, như nô lệ, hoặc như tội phạm và hứng chịu mọi bất công từ tinh thần cũng như vật chất do chúng tạo ra với lòng độc ác.

Như trên tôi đã nói, ngày nay, những cái ách đặt lên cổ con trâu con bò người ta chỉ bắt gặp ở những nước chưa phát triển, nghèo đói và chậm tiến. Cũng thế, cái ách cộng sản cũng chỉ có cơ hội đến và tồn tại một thời gian ở những nước nghèo đói và chưa phát triển mà thôi. Nó không thể tồn tại trong những quốc gia có trình độ văn hóa và nhận thức cao. Đó là định luật của đào thải để đưa đến tiến bộ.

Khi F. Engels và K. Marx đưa ra thuyết cộng sản, nó đã làm chao đảo cuộc sống của xã hội. Nhiều kẻ cho đó là một cứu cánh cho xã hội thoát khỏi cái ách của Phong Kiến quân quyền, nên đã tiếp tay truyên truyền và đem vào thực hành cái lý thuyết này. Kết qủa, khi chưa có thực nghiệm sống dưói chế độ cộng sản, ngưòi ta không thể nào hiểu được giá trị của Tự Do, Nhân Quyền, Công Lý… hoặc không thấu hiểu được triết lý trong đời sống đạo đức, luân lý của gia đình, của tôn giáo.

Đến khi bị áp đặt dưới sự kiểm soát của cộng sản người ta mới hiểu ra rằng: Tất cả những mất mát về Tự Do, về Nhân Quyền, về Công Lý, về tài sản của nền đạo hạnh trong gia đình, trong xã hội mà con ngưòi đã cố công, dù duới chế độ phong kiến, ra sức xây dựng, là không thể nào bù đắp được. Bởi vì nó đã tước đoạt mất quyền sống của con ngừời. Nó là một thứ bạo lực đẩy con người trở về đời nô lệ. Nó là cái ách thống khổ mà cộng sản đóng lên đầu, lên cổ của con ngưòi không một lúc ngơi nghỉ và buộc con người phải đi dưới mệnh lệnh chết của sự tước đoạt vô nhân tính. Đó chính là cái ách tàn bạo hơn tất cả mọi loại ách của phong kiến chuyên chế và thời kỳ thực dân góp lại. Tuy nhiên, trong tất cả mọi mất mát ấy, tôi cho rằng chủ trương phá bỏ nền tảng luân lý của tôn giáo là cái cách tồi tệ, nguy hại và tàn phá đời sống con nguòi nhiều hơn tất cả những cái ách khác cộng lại.

Nó tác hại vì con người sẽ mất dần ý niệm đạo đức trong Tôn Giáo là một ý niệm khởi nguyên trong chuỗi những nhận thức để biết về sự kiện thiện hay ác trong đời sống. Từ đó, nó xóa mờ dần đi khả năng phán đoán về sự thật, về công lý, về gỉa dối, về đa trá. Rồi nó tự tạo ra những phương thức, ngôn từ gỉa dối mà người nói không còn biết mình đang nói dối. Tệ hơn, nó dẫn đưa con người trở lại cuộc sống hoang dã, tìm mồi trong bạo hành, chết chóc. Không còn ý niệm về luân lý khi hành động.

Thật vậy, với ngưòi Công Giáo, ý niệm về tôn giáo, về sự tội đã bắt nguồn từ đoạn kinh thánh trong sách Sáng Thế Ký, thuật về câu chuyện ông Adong và bà Eva thấy xấu hổ, biết thiện, biết ác sau khi họ ăn trái cấm: “Thiên Chúa gọi con người và hỏi: “Ngươi ở đâu? “Con người thưa: “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn.” Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi: “Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không? “( Gn 3:9-11) Rồi ngay sau đó sự tội đã xâm nhập vào thế gian qua sự kiện Cain giết em mình là Abel để đưa đến câu hỏi đau thương, nhức nhối cho kẻ phạm tội, nếu như kẻ phạm tội còn ý niệm thiện, ác (tôn giáo) Thiên Chúa phán hỏi Ca-in: “A-ben em ngươi đâu rồi? ” Ca-in thưa: “Con không biết. Con là người giữ em con hay sao? ” Đức Chúa phán: “Ngươi đã làm gì vậy? từ dưới đất tiếng của em ngươi đã kêu tới ta” ( Gn 4: 9-11). Nhưng ở chiều ngược lại, câu hỏi ấy có cũng bằng không nếu như kẻ phạm tội đã không còn ý niệm luân lý và tôn giáo, không còn biết phân biệt thiện ác ở trong lòng y. Đó chính là tai hoạ.

Đối với những người không hề nghe biết đến đoạn kinh thánh này thì sao. Ý niệm về tôn giáo có phát khởi trong lòng họ hay không?

Tôi tin rằng, ngay từ khì có một người nam và một người nữ muốn, rồi sống gắn bó với nhau, dù họ chưa có ý niệm về việc tổ chức thành tập thể, thành bộ lạc, thành xã hội thì ý niệm về thiện ác, về xấu hổ, về tội lỗi là những ý niệm tôn giáo đã phát sinh ở trong lòng họ. Nó phát sinh ngay từ lúc họ chỉ vào người nam hay người nữ và bảo rằng: Người nam ấy, người nữ ấy là của tôi. Xin đừng lấy ra khỏi tay tôi. Những đứa bé ấy là con cái của chúng tôi, thuộc về chúng tôi. Chúng tôi phải bảo vệ cho nhau. Trong ý thức bảo vệ che chở ấy, phát sinh ý niệm về quyền tư hữu. Cùng lúc sự mặc cảm, xấu hổ, hay ý niệm tội lỗi, biết đúng, biết sai sẽ phát sinh nếu như người này muốn chiếm đoạt lấy cái thuộc về người khác bằng bạo lực, hay bằng sự lừa dối. Đó là ý niệm khởi nguyên về luân lý tôn giáo. Nó còn đến trước ý niệm về sự thưởng phạt.

Theo đó, ý niệm về Tôn Giáo là một ý niệm khởi nguyên từ khi có con người. Nó phát sinh một cách tự nhiên (như những người chưa bao giờ biết đến sách Sáng Thế Ký) rồi được hệ thống hóa, biến thành lề luật sống. Hoặc là từ lề luật, (qua sách Sáng thế Ký, lệnh cấm ăn trái cấm) biến thành sự ràng buộc êm ái tôn trọng nhau. Cả hai đều quy về một mục đích duy nhất là giải thoát con ngưòi khỏi những gian trá, tội lỗi để đưa con ngưòi vào một cuộc sống an vui và đem lại hạnh phúc cho con người. Dẫu rằng lúc ấy con nguời chưa đặt ra câu hỏi chết rồi mình sẽ đi đâu?

Như thế, ý niệm về Tôn Giáo là một ý niệm tốt đẹp nhất cho con người. Vì từ ý niệm tôn giáo đã phát sinh ra ý thức Đạo Giáo. Đạo trở thành Đường, thành hướng đi phát khởi từ Tâm nguyện, rồi được xây dựng, hệ thống hóa thành Đạo để hướng, đưa con người tới đích Chân Thiên Mỹ. Xa lánh cái ác và làm điều thiện theo nhân bản. Nói cách khác, ý niệm Tôn Giáo chính là gốc sinh ra nền tảng của luân lý học, đạo đức học, Kitô học, Phật học, Khổng học, Nho học… Rồi thành Đạo, làm căn bản cho đời sống an vui của con người. Là một tài sản vô giá của nhân loại và là nền tảng của mọi tư duy lương thiện và hướng thiện. Nghỉa là, người có tín ngưỡng là ngươi đi theo một tôn giáo rồi nhờ đời sống Tôn Giáo hướng dẫn bản thân mình tìm đến đích Chân Thiện Mỹ. Hành sử Đạo trong tình Bác Ái, Hỷ Xả theo nhân bản tính tự nhiên hay lề luật. Từ đó, Đạo trở thành lẽ sống Nhân Bản của Con người. Đạo có khả năng triệt tiêu những tệ nạn của xã hội, giảm thiểu những thói hư hèn của cá nhân và san bằng những bất công dối trá trong xã hội.

Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ 20, lý thuyết cộng sản và biện chứng duy vật ra đời đã làm chao đảo đời sống luân lý của xã hội. Nó đối nghịch trực tiếp với ý niệm về tôn giáo và lật ngược luân lý nhân bản xã hội. Coi tôn giáo (ý niệm thiện, ác) như là một loại thuốc phiện để ru ngủ con người và nó chối bỏ sự hiện hữu của thần linh. Chủ thuyết này đã biến thành hệ thống lãnh đạo nhà nước cộng sản tại Liên Sô, mau chóng lan rộng ra khắp Âu Châu và có khả năng khống chế các quốc gia kém mở mang. Đến sau đệ nhị thế chiến, cộng sản đã gây được một thế lực hùng mạnh và có thể áp đảo thế giới bằng những khẩu hiệu như “tiến lên thế giới đại đồng” nghe ra rất dễ lôi cuốn những quốc gia chưa phát triển tham gia vào vùng ành hưởng và thần phục chủ thuyết này. Kết qủa, vì chối bỏ ý niệm thiện, ác trong tôn giáo, xa rời nền luân lý, đạo đức xã hội, chủ thuyết này sớm bộc lộ nét vô đạo trong những cuộc tàn sát mang tính cách diệt chủng vói nhân loại ngay tại gốc sinh là Liên Sô và sang đến Tây Ban Nha (1931) và các quốc gia Đông Âu.

Lúc ấy, thế giới đã lên án cộng sản trong nỗi lo âu. Một sự lo âu trong thụ động, chống đỡ hơn là tìm cách giảì trừ. Ngoại trừ một quan niệm rắn rỏi, vững chắc của Đức Pio XI với nhận định là:” Chủ nghĩa xã hội và cộng sản xem ra tưởng chừng hùng mạnh, vững chắc lắm, nhưng chẳng bao lâu sẽ thấy cái cơ cấu đó không có nền tảng vững chắc, chúng sụp đổ liên tục một cách thảm hại, như số phận của bất cứ cơ cấu nào không dựa vào hòn đá góc tường duy nhất là Chúa Giêsu Ky-tô.” Và đó chính là cơ sở để vào ngày 10 tháng3 năm 1931, Ngài ban hành Tông thư Thiên Chúa Cứu Chuộc (Divini Redemptoris). Tông thư này được coi là nền tảng học thuyết bác bỏ chủ nghĩa Cộng sản. Chính sự can đảm, sắc bén trong sự phân tích về chủ nghĩa Cộng sản của Ngài đã cung cấp những cơ sở lý luận cho khuynh hướng chống Cộng sản của học thuyết chính trị – xã hội của Tòa thánh cho đến những năm đầu công đồng Vatican II.

Khơi nguồn từ Tông Thư Thiên Chúa Cứu Cuộc, và để bảo toàn ý niệm về tôn giáo, về thần linh, về luân lý và sự thanh thiện của giáo hội, Đức cố Giáo Hoàng Pio XII đã ban hành Sắc Lệnh về tà thuyết cộng sản năm 1949, nghiêm cấm tất cả mọi tín hữu Công Giáo, không trừ ai, truyệt đối không được tham dự vào những việc như cổ võ, sinh hoạt với thuyết cộng sản. Trong đó, điều số 4 đã quy định như sau.

(Q.4- If Christians declare openly the materialist and antichristian doctrine of the communists, and, mainly, if they defend it or promulgate it, “ipso facto”, do they incur in excommunication (“speciali modo”) reserved to the Apostolic See? R. Affirmative).

Đó là điều khoản công bố áp đặt vạ tuyệt thông cho tất cả những người Công Giáo nào hợp tác với các tổ chức Cộng Sản. Theo đó, tất cả những tín hữu nào bảo vệ hay cổ võ học thuyết Cộng sản thì “đương nhiên” bị khai trừ khỏi Giáo Hội. Nghĩa là không cần phảỉ có các đấng bản quyền công bố sự khai trừ này. Tự ngưòi sinh hoạt vời cộng sản biết mình đã không còn thuộc về giáo hội công giáo theo giáo triều Roma nữa. Đây là điều khoản xác định, không thể cò một chút nghi ngờ nào về tính cách pháp lý / án vạ của điều khoản này.

Ngày nay dầu không muốn, không thích hay kể cả những kẻ chống đối giáo hội Công Giáo cũng đều phải công nhận một điều là: Nhân loại đã thoát được tai kiếp cộng sản vô thần thống trị thế giới, một phần lớn là do ảnh hưởng từ Sắc lệnh về tà thuyết cộng sản đã được Đức Pio XII công bố vào năm 1949. Sắc Lệnh này về mặt xã hội thì được coi là một bức tường thành kiên cố ngăn chặn làn sóng đỏ lan truyền đi khắp nơi và dồn cộng sản vào cuộc tự hủy diệt. Về mặt đời sống thi bảo vệ vững chắc ý niệm về tôn giáo trong từng cá nhân và bảo vệ sự thánh đức tinh tuyền của Giáo Hội.

a. Với cộng đồng nhân loại:

Trong lúc cả thế giới còn bàng hoàng lo sợ vì con quái vật cộng sản xuất hiện và trở thành hiện tượng dũng mãnh như sẵn sàng nuốt trửng cả thế giói vào ái bụng gian ác của nó. Giáo Hội công giáo, dù không có một tấc sắt trong tay đã trở thành một vị tướng kiệt xuất của thời đại, đưa ra một hưóng đi, vẽ ra một con đường ngay chính để đưa thế giới thoát khỏi tay thần gian trá cộng sản bằng cách: Bày tỏ một thái độ mạnh mẽ, bảo vệ ý niệm thiện ác trong tôn giáo và bảo vệ sự thánh đức của Giáo hội. Công khai đặt để lý thuyêt này cũng như những sinh hoạt của nó ra ngoài vòng sinh hoạt thường nhật trong đời sống của xã hội.

Thật vậy sau khi đã công bố sắc lệnh về tà thuyết này. Vào tháng 6 1951. Đức Pio XII trong thông điệp Evengeli Praecones (Sứ giả phúc âm) Ngài đã huấn thị cho thế giới công giáo là: ”tuyệt đối phải ngăn ngừa mọi dân tộc khỏi bị tiêm nhiễm tà thuyết cộng sản lầm lạc và nguy hại, phải giải phóng dân chúng khỏi ách nô lệ của một thứ lý thuyết đang đặt ra mục đích buộc sinh hoạt của con người vào sự khoái lạc của thế giới hiện đại..”

Riêng ở Á châu, sau khi cộng sản chiếm được lục địa Trung Hoa, ngày 20 tháng 11 năm 1950, Trung cộng phát động phong trào Tam Tự Lập, muốn tách rời giáo hội công giáo ở Trung cộng ra khỏi Giáo Triều Tông Truyền ở Roma. Năm 1954, Đức Giáo Hoàng Piô XII ra một thông điệp cấm tham gia Tam Tự Lập. Năm 1957, Hội Công giáo Ái Quốc tại Trung cộng ra đời, tổ chức bầu giám mục và xin Rôma phê chuẩn. Tháng 6 năm 1958, Giáo hoàng kết án đích danh hội Ái Quốc và không chấp nhận những việc làm của tổ chức gỉa hiệu này..

Dĩ nhiên, với sắc lệnh năm 1949 và những việc cương quyết đối với kiểu gỉa hiệu Tam Tự Lập ở Trung cộng. Lúc đầu có nhiều ngưòi cho rằng sắc lệnh này qúa khắt khe và có phần bất công với một lý thuyết được gọi là duy vật biện chứng vừa phát sinh trong cộng đồng thế giới. Nhưng sau khi chứng kiến những cảnh tàn sát sinh mệnh con người một cách qúa dã man từ Liên Sô sang Âu Châu, rồi vào Trung cộng, Việt Nam, mọi ngưòi đều nhìn ra được Nguồn Thật và Sức Mạnh đã đến từ Sắc lệnh của Đức Pio XII. Đó là sự đứng dậy của ý thức tôn giáo để diệt trừ căn tính gian ác từ tà thuyết này.

b. Mặt cá nhân

Sắc lệnh năm 1949 đã đặt các tìn hữu công giáo vào một cuộc chiến trực diện với lương tâm của chính mình. Một là trung thành đi theo sự hướng dẫn của giáo hội để giữ lấy ấn tín của đưc tin trong sự hiện hữu của Thần Linh. Xa lánh, không tham dự vào bất cứ một sinh hoạt nào của tà thuyết này đẻ ra. Hai là bước vào vũng bùn hôi tanh, dứt bỏ ý niệm tội lỗi trong đam mê, đi theo sinh hoạt của các tổ chức phản thần linh do lý thuyết này thực hiện. Không có trưòng hợp một chân bên tả một chân bên hữu.

Kết qủa, lương tâm hướng thiện của ngưòi công giáo đã chiến thắng. Tuyệt đại đa số những người công giáo đã từ bỏ, hoặc lánh xa những sinh hoạt đầy gian dối của tổ chức cộng sản, dù chính bản thân của họ và gia đình nhiều khi đã bị đẩy vào trong sự nghèo đói, gặp khó khăn về mặt kinh tế trong những nơi mà cộng sản nắm quyên, Nhưng trong các nước mà cộng sản chưa đến như Pháp Ý, tây Đức, Bỉ… và các quốc gia khác thì đã có hàng triệu tín đồ công gíao từ bỏ các sinh hoạt của cộng sản. Việc thiếu hụt trầm trọng các cán bộ cũng như không kết nạp thêm được các đoàn đảng viên mới mà các đảng cộng sản ở những nơi này rơi vào thế bị cô lập, và đi vào cuộc tự hủy. Đưa đến cuộc sụp đổ đồng bộ vào năm 1989.

Tuy thế, cũng có một số kẻ tự cho mình là cái túi khôn bằng cách đi hàng hai. Lao đầu theo cộng sản với những gian ác của chúng, chống lại giáo huấn của giáo hội., Thành phần này ở đâu cũng có. Về số lượng người ta có thể đếm được trên đầu ngón tay. Thi dụ như ở Việt Nam, một nhóm có tên gọi là “hội công giáo yêu nước” được lãnh đạo bởi “tứ nhân bang” Huỳnh công Minh, Trương bá Cần, Phan khắc Từ, Vương đình Bích… Nghe thì lừng lẫy nhưng chính gia đình, là gốc sinh ra họ thì cũng đã từ chối sự hiện diện của họ trong những ngày lễ, họp mặt của gia đình từ lâu. Trong nhóm này, đảng viên Trương bá Cần đã đi theo Kark Marx cách đây vài năm. Phan khắc Từ, Huỳnh công Minh dù đã chối bỏ sự hiện hữu của Thần Linh khi trở thành đảng viên đảng cộng sản nhưng vẫn cố bám lấy cái áo linh mục của công giáo để thi hành những thủ đoạn tiêu diệt nền luân lý, đạo hạnh của tôn giáo theo lệnh của đảng cộng.

Vậy những ngưòi đã gia nhập đảng công sản còn tư cách là người công giáo hay không?. Nếu không tại sao không công bố?

Theo luật, những người này đã bị khai trừ ra khỏi giáo hội bởi Sắc Lệnh 1949 mà không cần phải có đấng bản quyền công bố việc khai trừ này. Nghĩa là, việc khai trừ đương nhiên có hiệu lực ngay khi họ gia nhập vào đảng cộng sản. Như thế, từ bản chất, họ không còn là ngưòi Công Giáo (nếu luật vẫn còn dược áp dụng) thì nói chi đến cái “phẩm hàm” và “năng quyền” Linh Mục của giáo hội Thiên Chúa Gìao trước kia đã trao cho họ. Họ có đeo vào người thì cũng như là món hàng gỉa hiệu. Nhưng cộng sản lại không bỏ lỡ cơ hội, chúng dùng những món hàng gỉa hiệu này như là một thứ ách tối độc ác để khoác lên cổ người dân trong mưu toan triệt hạ niềm tin tôn giáo, và phá hủy truyền thống đạo đức, lành thánh của giáo hội bằng kế sách ”dùng mỡ heo để rán thịt heo”. Một kế sách ác độc và tỏ ra khá lợi hại vì chúng đã cài cắm được một số nhân sự vào trong những sinh hoạt của tôn giáo. Nó gây ra tác hại vì không có thông tin mở rộng nên người công giáo không thể nắm vững được tin tức, hay không được giải thích rộng rãi về những điều luật của sắc lệnh năm 1949. Riêng các Đấng Bản Quyền, dưới áp lực của cộng sản và ngay cái tổ chức này, chưa thể công khai hóa Án/Vạ với họ. Tuy nhiên, ngày ấy phải đến. Cái ách này phải bị bẽ gẫy, dẹp bỏ.

Riêng trong lúc này, xem ra là lúc vinh hoa của Giuđa khi Y cầm ba mươi đồng bạc. Nhưng thời gian chẳng là bao! Vì nó là cái giá của phù vân, và vì sau đó, nó đi thắt cổ! Lời trong sách Thánh còn đây “thà nó đừng sinh ra thì hơn “( Mc 14-21) Dĩ nhiên, câu nói này không phải là sự nguyền rủa cá nhân những người này, nhưng là việc lên án cái tệ hại của sự phản bội. Nhất là việc phản bội sự Chân Thiện Mỹ và tình yêu thương tuyệt đối của Thiên Chúa.

Tóm lại, vì hoàn cảnh chiến tranh lâu dài và thực trạng xã hội trong chế độ vô thần đã làm sai lạc ý thức về tội về thiện ác và về các luật lệ trong Giáo Hội. Nay thiết tưởng đã đến lúc các vị có thẩm quyền cần chấn chỉnh lại vấn đề chăng?.

Phần hai: Hồ chí Minh và cái ách cộng sản tại Việt Nam.

Lịch sử Việt Nam còn ghi lại một số cuộc hội nghị có tiếng nói của người dân đã làm thay đổi, không phải chỉ trong sinh hoạt thường nhật, nhưng còn làm thay đổi cuộc sống và ý niệm về sự trường tồn của đất nước. Một trong những cuộc hội nghị ấy, không một người Việt Nam nào không biết đến. Đó là hội nghị Diên Hồng thời nhà Trần. Nhưng lúc gần đây, có một số người đang còng lưng đánh bóng và nhắc đến cái hội nghị có khoảng 60 người tham dự ở gốc cây đa Tân Trào vào thời Hồ chí Minh, như là một “đại hội quốc dân” vì nó cũng làm thay đổi bộ mặt của đất nước. Thử xem, nó đã thay đổi bộ mặt đất nước thế nào?

Truớc hết, đã là người Việt Nam thì dù là người buôn thúng bán bưng, anh phu xe, người khuân vác, anh nông dân cho đến các quan chức trí thức… Không ai mà không biết, hoặc nghe nói về hội Nghị Diên Hồng cách xa chúng ta hơn 730 năm. Ngưới dân Việt Nam biết đến hội nghị Diên Hồng bởi một lẽ rất đơn giản: Hội nghị đã làm nên cuộc sống và sự trường tồn của dân tộc Việt Nam. Hội nghị ấy như một bí quyết đặc biệt để truyền sức sống không phải chỉ ở trong lòng mọi người, tạo nên một khối đồng tâm, mà còn vang dội vào lòng chiến mã, cây cỏ, sông, núi, để từ đó tạo nên một thực thể sống, đồng nhất, trong một mục đích bảo vệ sự vẹn toàn và độc lập của Việt Nam. Từ đó, hội nghị đã tạo nên những chiến công hiển hách trong lịch sử như Bạch Đằng, Chi Lăng, Xương Giang, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Đống Đa… Và người Việt Nam có quyền ngửa mặt lên để tự hào về những trang lịch sử vẻ vang của Bà Trưng, Bà Triệu, của Đức Trần Hưng Đạo, Bình định Vương, của Đức Quang Trung hay các bậc danh tướng Trần bình Trọng, Lý thường Kiệt…v.v… là những vị mà ngày nay khi nhắc tên, vẫn làm cho những binh đoàn Hán, Mông, Mãn kinh hoàng, tức tưởi. Như thế, Diên Hồng là lịch sử sống cho một dân tộc còn sống.

Diên Hồng là thế, còn cái hội nghị ở gốc cây đa Tân Trào thì thế nào? Khi làm thay đổi bộ mặt của ngươi dân trong một giai đọan, liệu nó có viết nên một trang sử không bị ô uế cho người còn sống, không làm nhục những ngưòi đã chết. Hay nó đã viết ra một trang nhơ nhớp trong dòng lịch sử của một dân tộc anh hùng?

Trước tiên, theo như sách vở của Việt cộng còn ghi lại thì cái gọi là “đại hội đại biểu quốc dân vào chiều ngày16-8-1945 ở gốc đa Tân Trào, huyện Sơn Dương, Tỉnh Tuyên Quang “có hơn 60 đại biểu đại diện từ Nam bộ, miền Nam Trung Bộ và Việt Kiều ở Thái Lan, ở Lào về dự đại hội”. Hội nghị cây đa đã lập ra “Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam”do Hồ Chí Minh cầm chầu.

Không biết đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên, hay là lịch sử của đảng cộng sản và cái hội nghị Tân Trào do Việt Minh tổ chức lại có mối liên hệ tiền kiếp với chuyện cây đa?

Tôi hỏi thế là vì, khi nhắc đến cây đa là nhắc đến một truyền thuyết lớn về chú cuội trong nhân gian của Việt Nam, mà không một ai không nghe biết. Từ ông già bà lão cho đến đứa trẻ nhỏ không ít lần đã ngửa cổ lên nhìn trăng để mà xem chú cuội ngồi ở gốc cây đa tròn méo ra sao! Hồi còn nhỏ ở dưới quê, tôi cũng tưởng là chuyện có thật. Bởi lẽ, vào ngày có trăng sáng nhìn lên, lạ qúa, hình như cũng thấy mờ mờ ảo ảo như có thằng cuội ngồi ở gốc cây đa.

Tuy nhiên, chuyện thằng cuội và cây đa là một câu chuyện hài trong nhân gian. Nó mang ý nghĩa dí dỏm, châm biếm, không có thật. Nhưng chắc chắn, cái không có thật ấy không làm hại ai. Nghĩa là, dù có bị người khác bảo “mày nói láo như cuội” thì ngưòi bị chê có lẽ cũng chẳng mất mát gì và có lẽ cũng không phải đi tù. Nhưng nay ở Tân Trào, Việt Minh lại nhờ gốc cây đa, như một truyền thuyết để đẻ ra một hội nghị “đại biểu quốc dân”, và đẻ ra cái “ủy ban giải phóng Việt Nam” do Hồ cầm chầu, hẳn nhiên là phải có ý khác. Không biết có phải họ muốn nhờ cây đa trong truyền thuyết để ví von đảng là cây đa cho đồng bào biết đến Việt Minh? Hay thực tế, đảng cộng và cái hội nghị này chỉ là câu chuyện và việc làm của thằng cuội?

Ở đây, tôi xin mở một dấu ngoặc là, riêng về nhân vật chính ở gốc cây đa thì cho đến thời điểm này chẳng có mấy người biết ông ta là ai. Dù trưóc đó: “để thực hiện chỉ thị của quốc tế CS cuối 1929 NAQ (Nguyển ái Quốc tức Hồ chí Minh?) từ Xiêm về Hương cảng, TQ để triệu tập và chủ trì hội nghị hợp nhất 3 tổ chức CS. Hội nghị họp từ ngày 03 – 07/2/1930. (Tham dự Hội nghị có đại diện của Đông Dương Cộng Sản Đảng và An Nam Cộng Sản Đảng). Hội nghị có 3 đại biểu chính thức và 2 đại biểu dự khuyết. Sau 5 ngày làm việc với tinh thần thống nhất cao, dân chủ hội nghị đã đi đến việc: thành lập đảng CSVN” (Ngô chí Tâm). Người như thế đó, nay lại thành kẻ cầm đầu câu chuyên về gốc cây đa!

Câu chuyện được khởi đầu như thế, nên sau 80 năm hươu cuội, tất cả mọi người Việt Nam, không trừ ai. Từ kẻ buôn thúng bán bưng, hay anh nông dân chẳng một ngày đến trường, đến hàng trí thức quan cán có những mảnh bằng to với những chữ nhớn TS, rồi PTS, hay là GS đến phó GS. Hoặc là chuyên viên các ngành nghề, như nghề công an đến nghề móc túi. Từ nghề tự do trí thức như BS, LS đến nghề xe ôm. Và trú qúan thì từ người ở hải ngoại cho đến những người ở trong nước, kể cả những kẻ ngồi tù vì mọi loại tội phạm. Rồi về tuổi thì kể từ 6, 7 tuổi trở lên cho đến chờ xuống lỗ… không xót bất cứ một ai, đều biết rất rõ và là chứng nhân cho một sự kiện là: cái “đại hội đại biểu quốc dân ở gốc cây đa Tân Trào” ấy đã làm nên hai thành qủa “vĩ đại” trong sự nghiệp của Hồ chí Minh và của Việt cộng trong lịch sử cận đại của Việt Nam:

1. Hội nghị gốc đa vào ngày 16- 08-1945 của Việt Minh đã tạo ra cuộc đảo lộn luân thường trong xã hội Việt Nam.

2. Hội nghị Tân Trào tạo nên một cuộc đảo lộn đạo lý sâu sắc làm băng hoại nền luân lý của dân tộc Việt.

Đây chính là hai cái ách tàn bạo nhất của cộng sản mà Hồ chí Minh và tập đoàn Việt Minh đã khoác lên cổ người dân Việt Nam theo từng vùng, miền hay trong cả nước trong 80 năm qua. Chuyện cây đa và thằng cuội là hoang đường. Nhưng chuyện cái ách Hồ chí Minh là chuyện thật, hàng ngày vẫn còn tiếp tục tái diễn tại Việt Nam.

1. Hồ chí Minh và cuộc làm đảo lộn luân thường trong xã hội Việt Nam.

Trước hết, đạo nghĩa của chữ luân thường là sự đúng, tính thật của một sự việc. Làm đảo lộn luân thường là làm cho những điều đúng thành sai, hay thành gian dối, và nó làm đảo lộn những gía trị, những nguyên tắc trong đời sống yên bình của xã hội.

Thật vậy, người Việt Nam ta từ xưa vẫn được đánh gía là một sắc dân trung hậu, thật thà. Có nề nếp và hiếu khách. Họ không ưa dối trá. Nhưng kể từ ngày có cái gọi là “đại hội đại biểu” ở gốc đa đến nay, Việt cộng đã ra sức làm thay đổi bộ mặt giao tế của xã hội Việt Nam bằng con đường dối trá. Tệ hơn thế, chúng còn ép buộc người dân phải đi vào con đưòng một chiều ấy để dối gạt chính mình và lừa đảo đồng loại. Nói toạc ra là sự gian dối ấy được Hồ chí Minh thực hiện ngay từ trong bản lý lịch của mỗi cá nhân.

Nói cho rõ là: Tất cả các bản lý lịch cá nhân của các đoàn, đảng viên Việt cộng và những kẻ liên hệ của nó,đều là những bản lý lịch man trá, gian dối, không đúng với sự thật. Riêng với người dân, vì hoàn cảnh phải sống với cộng sản, nên hầu như mọi ngưòi đành phải, hay dễ dãi chấp nhận sự hướng dẫn khai gian dối trong bản lý lịch của mình để được yên thân, hay cầu lợi. Với lớp trẻ, sự gian dối ấy được dạy ngay từ khi còn ở trong học đường. Theo đó, chỉ trừ ra một số ít người không tính đến chuyện liên hệ trực tiếp với chúng, hoặc là những chức sắc tôn giáo, hay người công giáo thì mới có được một chữ “thật” ở trong cái bản lý lịch cá nhân của mình. Ngoài ra, ít có trường hợp ngoại lệ.

Tôi đại ngôn ư? bạn đọc ngỡ ngàng về chuyện này ư?

Không, tôi tin tất cả đều tình táo để biết rằng. Đây không phải là lỗi ở chúng ta, nhưng là cái ách của cộng sản nó đang đè trên chúng ta, nên đành phải làm thế.

Để cho đoạn viết trên sáng tỏ hơn, bạn có đồng ý với tôi là tất cả mọi người Việt Nam đều biết phân biệt sự thiện và ác trong việc làm, lời nói của mình, và thường có khuynh hướng xa lánh cái gian ác hay không? Bạn có đồng ý với tôi là hầu hết ngưòi Việt Nam là người có tín ngưỡng hay không?

Đúng thế. Chắc chắn là thế và còn cao hơn thế nữa. Tất cả mọi người Việt Nam đều có tìn ngưỡng, có tinh thần tôn giáo và có ý niệm về tôn gíao rất sâu sắc. Theo thống kê từ trước, đa phần người Việt Nam theo đạo ông bà, kế đến là đạo Phật, đạo Công Giáo, đạo Tin Lành, đạo Cao Đài, đạo Phật Giáo Hòa Hảo, hay đạo Bà la môn ( gốc Chàm). Không ai là không có đạo. Không làng nào mà không có Đình, Chùa, nhà thờ, Thánh Thất, hay các cơ sở trang nghiêm để thờ thần hoàng, hay thờ cúng ông bà tại nhà. Rồi dọc trên các đường quốc lộ không thiếu những cái miếu nhỏ với hương đèn trong các ngày rằm, ngày đầu năm. Và các nghĩa địa thì lúc nào cũng ngập hương khói.

Nhưng từ sau cái hội nghị ấy, chuyện nghịch thường đã xảy ra. Trong tất cả mọi bản lý lịch cá nhân của các đoàn đảng viên Việt cộng, từ Hồ chí Minh trở xuống cho đến anh cán tại cơ sở địa phương. Từ những nhà trí thức cho đến lớp cán bộ chỉ biết dùng dao mã tấu, trong phần hỏi về tôn giáo đều ghi một chữ Không. Nghĩa là không có đạo, không có tín ngưỡng, không theo một tôn giáo nào.

Họ khai như thế có nghĩa gì? Có phải những ngưòi viết bản lý lịch này đều là những người không có đạo, không theo bất cứ một tôn giáo nào ư? Hay họ đã bị buộc phải gian dối với chính mình và từ đó gian dối với người khác theo chủ trương vô tôn giáo của cộng sản ? Thử hỏi, nếu một kẻ đã phải gian dối với chính mình thì làm sao tìm ra lời nói và việc làm trong sự thật cho người khác hưởng nhờ? Họ đã chối lý lẽ về thiện ác, về phong cách nhân bản tính làm người thì tìm đâu ra chân lý cho xã hội?

Mà câu chuyện nào có kết thúc ở trong lãnh vực đoàn đảng viên, cán bộ của nhà nước? Bước vào học đường, cô giáo thầy giáo mới của xã hội Việt cộng thì trăm người như một chỉ dạy học sinh, dù là học sinh công giáo, phải viết chữ không vào trong bản lý lịch của mình. Nếu không thì có thể bị đánh, bị tát cho sưng mồm, và cô thầy gian ác kia không ngần ngại xé bản lý lịch có chữ công giáo kia đi và buộc đứa trẻ phải viết chữ KHÔNG lại theo ý của mình. Hoặc gỉa, cô tự viết lấy bản lý lịch của trò theo ý cô để cán trên hài lòng, yên chuyện? Hai đứa cháu của tôi năm 1977 đã là những nạn nhân của trò giáo dục quái gở này. Và rất nhiều học sinh công giáo xuất sắc, đỗ đầu trường nhưng vì cái lý lịch có chữ công giáo nên các em không hề được bước lên đại học (lúc này thì có đổi khác một chút).

Nhớ lại những ngày sau 30-4-1975. khi Việt cộng vào Sài Gòn, sinh viên phải trình diện tại trường thì ngoại trừ một số sinh viên công giáo bỏ về hay trong bản khai lỳ lịch còn ghi rõ tôn giáo. Đa phần còn lại là được các cán bộ đoàn trường hướng dẫn là viết chữ Không cho nó tiện (cá nhân tôi là một trải nghiệm) Lúc ấy, chẳng ai muốn rắc rối vào mình nên cũng đành viết một chữ “không” cho nó qua chuyện. Mình nghĩ nó đơn giản, vì đạo tại tâm. Tuy nhiên, cộng sản không nhìn chữ Không ấy một cách đơn giản, Nhưng là sự chiến thắng trong sách lược vô tôn giáo của họ! Thưa bạn, thưa những nhà trí thức không phải là đoàn, đảng, quan cán, còn đang ở trong nước. Qúy vị đọc lại bản lý lịch của mình xem? Đây là chuyện nhỏ hay là chuyện cố tình làm đảo lộn luân thường trong xã hội đã bắt nguồn từ cái “đại hội đại biểu” tại gốc đa Tân Trảo?

Tại sao cộng sản lại muốn người dân viết chữ “không” vào trong bản lý lịch của mình?

Câu trả lời của Mac-Lê là: “Chỉ trong xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển thì tôn giáo mới có thể hoàn toàn biến mất và bị xoá bỏ khỏi đời sống con người. Nhưng việc tôn giáo mất đi không phải là một quá trình tự động; nó đòi hỏi phải kiên trì hoạt động giáo dục quần chúng, tuyên truyền rộng rãi những hiểu biết khoa học tự nhiên, xã hội và thế giới quan mác-xít ” (Từ điển Triết học, tr.588, từ mục “Tôn giáo “)

Bàn về chuyện này, Phạm Việt Anh trong “Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội viết: “Tôn giáo là một hệ tư tưởng mang tính chất duy tâm, do đó về bản chất nó có thế giới quan, nhân sinh quan trái ngược hoàn toàn so với quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin- quan điểm duy vật biện chứng khoa học. Bởi vậy, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội không thể nào không xoá bỏ tôn giáo”. Theo sách lược này, ở Việt Nam, sau ngày hội tại gốc đa Tân Trào, Hồ chí Minh đã tìm cách xóa bỏ dấu tích tôn giáo ngay trong việc viết các bản lý lịch cá nhân của từng người. Đây hẳn nhiên không phải là việc chỉ viết chữ “không” cho vui cửa vui nhà, hay vui lòng cấp trên mà thôi. Nhưng là buộc viết theo chủ đích của Hồ là xóa bõ dấu vết tôn giáo trên từng cá nhân, từng đơn vị. Hồ muốn biến người Việt Nam thành những kẻ vô tôn giáo!

Kế đến là quan niệm về Quân, Sư, Phụ trong xã hội ta. Quân thuộc về mặt sinh hoạt chính trị thì dĩ nhiên, nay còn, mai mất. Nó không phải là lý lẽ để trường tồn. Nhưng Sư và Phụ là đạo của người sống trong trời đất, có thể đảo lộn được không?

Tôi e rằng cái quan niệm kính Sư, trọng Phụ ở xã hội ta ngày nay đã bị đảo lộn rồi. Trò không được giáo dục về Nhân Lễ Nghĩa Trí Tìn, lại được dạy theo gương Hồ chí Minh, là người suốt đời không thắp cho bố mẹ một nén nhang, là người không biết đến đạo lý ở trong gia đình là gì. Rồi y cũng là người giết người đã ăn ở với mình là Nông thị Xuân, tàn ác hơn thế, y cho quăng xác của Xuân ra ngoài đường giả như một tai nạn xe hơi để phi tang, vì cô ta đã sinh con với Hồ! Rồi Hồ chí Minh cũng từ bỏ đứa con ấy thì cái nghĩa vợ chồng, tình cha con ở đâu? Kế đến, y là người tàn sát hơn 170,000 ngàn người dân vô tội trong vụ đấu tố để cướp đoạt tài sản của họ thì Nhân ở đâu có, mà bắt học sinh phải noi theo?

Trẻ được học những cái gương ấy thì lấy gì mà tôn sư trọng phụ? Làm sao xã hội có được cuộc sống tốt đẹp?

Trái lại, chính vì cái ách giáo dục này, ngày nay đã cho ra những kết qủa vô cùng kinh hãi: Nhan nhản trên các phố, có những địa điểm phá thai (lò giết người), có quảng cáo công khai, hay lén lút, cách giết người. Các bà mẹ đến với dịch vụ này đa phần là các học sinh, sinh viên, nhiều khi còn là vị thành niên nữa. Những người mở lò giết ngưòi (phá thai) này có phải là lương y cứu sinh độ thế hay không? Tại sao lớp tuổi trẻ ngày nay phá thai nhiều đến như thế? Có phải tại vì cái lối giáo dục “noi theo gương Hồ chí Minh vĩ đại” hay không?

Bạn đọc thân mến, đây là nỗi đau khôn nguôi của dân tộc ta hôm nay. Nó có phải là cái ách đảo lộn luân thường mà dân ta phải gánh chịu từ ngày có cái gọi là đảng cộng sản Việt Nam ra đời ở Hương Cảng, Trung Hoa vào ngày 3-2-1930, được Hồ chí Minh và tập đoàn Việt Minh đem vào áp đặt cho dân ta không? Tôi sẽ trở lại vấn đề này sau.

2. Hồ chí Minh và công cuộc đảo lộn đạo lý ở Việt Nam.

Hẳn nhiên việc khai không đúng sự thật trong mục tôn giáo trong các bản lý lịch cá nhân của người dân là do chính sách Vô Tôn Giáo của cộng sản chủ trương. Họ muốn lấy chữ “không”, có nghĩa là không có tôn giáo để chống chọi và tiêu diệt niềm tin của các tôn giáo và lấy số lưọng chữ không để tấn công các tôn giáo khác. (Nói đúng ra là chúng chỉ cố gắng xóa bỏ những chữ Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, hay đạo Ông Bà ra khỏi bản lý lịch của các cá nhân mà thôi. Riêng phần tinh thần thì chúng biết rõ là không bao giờ có thể làm được). Lúc đầu, phần vì sợ, phần nhìn chữ “Không” dầu có viết cũng chẳng mang ý nghĩa gì. Bởi vì, đạo tại Tâm. Nên đa phần viết chữ Không. Tuy nhiên, cái kết qủa về lâu về dài là một thảm khốc. Bởi vì mình đã mắc bẫy cộng để tự lừa mình. Bản thân đã trở thành người không có đạo (tự bỏ đạo), không còn mang ý niệm về tôn giáo, là ý niệm ăn ngay ở lành lúc nào chính mình cũng không hay biết. Khi đó, cũng chẳng cần giữ những nghi thức, nghi lễ của tôn giáo mình nữa. Cuộc sống sẽ đi về đâu?

Kế đến, có thể trở thành một áp lực xã hội đối với người chung quanh. Thí du như, có chữ “Không” là có cơ hội để được CS tổ chức học tập cho vào đoàn, vào đảng, để ăn trên ngồi trốc, làm lãnh đạo. Có chữ Phật Giáo, Công Giáo thì nên… kiếm đường vượt biên, hay hành nghề không có một chút liên quan gì đến các cơ quan, công sở của nhà nước. Đành phải chấp nhận là loại công dân hạng hai, hạng ba trong xã hội. Ấy là chưa kể đến việc nó tạo ra một sự đố kỵ,thù hận giữa tôn giáo với tôn giáo. Giữa con người với con người. Giữa đảng viên và người dân. Giữa nhà nước với tôn giáo. Chuyện này đối với những người đã trưởng thành khi chúng vào thì ít bị ảnh hưởng. Nhưng lớp trẻ mới sinh ra, hay lớn lên sau này thì qủa là một vấn nạn lớn. Trong phạm vi ngắn hẹp, tôi chỉ đề cập đến cuộc chiến giữa nhà nước với tôn giáo mà thôi.

a. Cuộc chiến trực diện.

Theo cuốn Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam do chính nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam biên soạn và in ấn. Trong cuộc cải cách ruộng đất từ 1953-56 đã có 172,000 người Việt Nam bị giết chết. Tuyệt đại đa số trong những người này bị chết oan và không hề có sự bồi thường đáp trả cân xứng. Cũng theo cuốn sách này, có đến 123,266 ngàn người tức hơn 70% bị giết oan, có nghĩa là họ vô tội. Nhưng cho đến nay, nhà cầm quyền cộng sản chưa bao giờ có được, dù chỉ là một lời xin lỗi một cử chỉ biểu lộ hay một cách thức đền trả tương xứng cho những gia đình bị chết oan khiên. Trái lại vẫn chiếm hữu tài sản của họ.

Song song với cuộc đấu tố đầy máu và nước mắt này. Nhà nước Việt cộng đã cho dân công, cán bộ, thành phần bất hảo trong xã hội đi đập phá rất nhiều nhà thờ, đình, chùa, miếu thần hoàng tại các vùng thôn quê hay thị xã để ngưòi dân mất điểm quy tụ. Mất điểm tựa tinh thần. Kế đến, các sinh hoạt thuần tuý của công giáo nhiều nơi đã bị nghiêm cấm một cách công khai, hoặc bằng cách, vào những giờ có nghi lễ tôn giáo thì nhà nước cũng tổ chức những buổi học tập chính trị và bó buộc người dân phải đến tham dự. Rồi khi bức màn tre buông xuống, tháp chuông của các giáo đường hầu như đã lặng tíếng ngân sau cuộc di cư vào nam năm 1954. Cuộc đập phá này đến nay vẫn chưa chấm dứt. Vài năm trước là khu TKS, đến Thái Hà, Tam Tòa, Đồng Chiêm, Cồn Dâu, Loan Lý nay là Tam Đảo!

Dĩ nhiên, cuộc chiến trực diện này đã tạo cho xã hội Việt Nam bộ mặt chết, đổ vỡ và sợ hãi. Nếu chỉ nhìn vào những hành động đập phá và cướp bóc của nhà nước Việt cộng đối với tôn giáo, có ngưòi cho rằng cộng sản đã là kẻ chiến thắng. Trong thực tế, tôi cho rằng, cuộc chiến trực diện này đã để lộ ra một sự thất bại ê chề cho chế độ. Nghĩa là nhà nước có thể đập phá nhà thờ, chùa chiền, đình hội, khoe ra cái tàn bạo ác độc của kẻ mất lương tri, mất nhân bản tính. Khoe ra cái vóc dáng vai u thịt bắp của những con bò mộng vô tri ở trong đấu trường mà thôi. Kẻ bạo ác như thế xưa nay vẫn có. Chúng có thể bắt bớ, giam cầm, quản thúc vị lãnh đạo của tôn giáo thì cũng không thể áp bức được niềm tin của tôn giáo. Bởi lẽ, tôn giáo đã tồn tại và sống trong lòng người hàng nghìn năm. Sự chân thật đã truyền đời kế thừa nhau như nếp sống, như hơi thở của con người. Nên cái bạo lực của cộng sản trở thành vô gía trị, không bao giờ có thể trấn áp được niềm tin của tôn giáo. Cách riêng, với người công giáo, biểu tượng là cây thánh gía của họ mạnh hơn cả sự chết! Họ sẵn sàng ôm lấyThánh Gía và chết dưới chân Thánh Gía hơn là cuộc đầu hàng vô đạo. Đó chính là phong cách sống và niềm tin của họ. Thật không cách gì thay đổi.

Đến nay, sau cuộc bể dâu 1954 và 1975, cộng sản phải nhìn thấy một điều về người công giáo là: Dù ở bất cứ nơi đâu, thành thị hay thôn quê, cao nguyên hay đồng bằng. Ven sông, trên biển hay nơi góc núi, kể cả ở hải ngoại, người công giáo vẫn có khuynh hướng sống chung thành làng, thành vùng, ngoài việc sinh hoạt theo tôn giáo cho dễ dàng, họ cũng là người sống hoà mình, yêu thương và bao bọc lẫn nhau. Tình cảm của họ là một thứ tình cảm rất chân thật dành cho nhau, dành cho đất nước và cho đồng loại trong mọi hoàn cảnh.Đó là phong cách sống thực của những người công giáo. Một phong cách đã trải nghiệm qua nhiều bạo lực. Ngày xưa thì dưới triều Minh Mạng, Thiệu Tri, Tự Đức. Ngày nay thì dưới gọng kìm cộng sản. Tuy nhiên, nguyên lý của sự trường tồn đã có sẵn. Cộng sản và sự bạo tàn của nó sẽ bị hủy diệt bất ngờ như cách mà nó đã khởi đầu. Đạo sẽ vĩnh viễn trường tồn.

Câu chuyện sau đây tôi đã có dịp chúng kiến vào năm 1972 tại miền quê Xuân Lộc.

Một anh cán binh Việt cộng bị thương, bị đồng đội bỏ lại trên đường mai phục để thoát chạy lấy thân. Ngoài cơn đau xé da thịt vì không được cứu chữa là sự uất hận bị bỏ rơi, anh còn lo sợ thần chết, lo sợ bị bắt và bị “nguỵ” chém giết, xẻ thịt banh da như những lời tuyên truyền nhồi sọ từ hàng ngũ cán bộ lãnh đạo trước khi đi gài mìn giết hại đồng bào. Anh đau đớn, tuyệt vọng khi lê thân vào những quãng đường, đồi, nương rẫy. Bỗng nhiên, cuộc sống như hồi sinh, dòng máu, nhịp tim lại dồn dập trong người. Một sự an bình như chưa bao giờ có đã chiếm trọn lấy cả tâm hồn và thể xác khi anh ta bò đến, và ôm được một cái chân cột. Lúc mở mắt nhìn lên. Đó chỉ là một Cây Thánh Giá thô sơ cắm trên ngôi mộ trong nghĩa trang của một xứ đạo miền quê. Anh gục đầu xuống, ôm chặt lấy và không còn muốn rời xa nữa. Là người theo đạo thờ cúng ông bà, tổ tiên. Anh, chưa một lần biết cầu kinh. Trái lại, còn được học tập, nuôi lòng căm thù những thành phần “tôn giáo phản động” bán nước. Kết qủa, khi gặp được người dân trong làng đi viếng mộ. Anh chỉ còn duy nhất một ước mơ. Nếu có phải chết, anh xin được chết trong phút giây an bình dưới chân cây cột mà anh đang ôm trong tay. Bởi ít nhất anh sẽ có một nấm mộ ở nơi đây. Anh không muốn chết vì lòng căm thù như đã được học tập. Anh xin với cha sở cho anh chôn ở một góc nghĩa trang nếu anh chết. Anh đã toại nguyện.

Như thế, tôn giáo không thể tách rời khỏi cuộc sống của con người. Bởi lẽ, tôn giáo nào thì cũng nhắm tới đích Chân Thiện Mỹ, là dạy con ngưòi ăn ngay ở lành, sống hòa thuận và thương yêu đùm bọc lẫn nhau và nhất là xa lánh những sự ác và gian dối. Nhìn cách khác, tôn giáo trở thành nhu cầu sống, không phải chỉ dành riêng cho từng cá nhân. Nhưng là cho toàn xã hội. Nên Mác- Lê muốn xóa bỏ hết dấu vết tôn giáo để cho xã hội chủ nghĩa hoàn thành chỉ là một ảo tưởng.Cái ảo tưởng ấy nay đã hiện thưc. Mác-Lê đã bước vào cống rãnh, cái thời của đao to búa lớn bạo tàn đã chấm hết sau 70 năm kể từ ngày nó tác yêu tác quái, khủng bố nhân loại. Tiếc rằng Hồ chí Minh không nhìn đuợc hình ảnh dân Liên Sô treo cổ Lê Nin để nghĩ đến thân phận của mình mà đấm ngực, thay vì tiếp tục lao đầu vào cuộc chiến chống tôn giáo, gây thêm tôi ác. Nói thì như thế, nhưng những con bò trên đấu trưòng, cứ thấy miếng vải đỏ là húc đầu vào. Nó không biết phía sau miếng vải đỏ là một cái mũi nhọn đang chờ đợi nó. Cái mũi nhọn khoan thủng bạo ác đó chính là Tôn Giáo.

Phần 3: Cuộc chiến dấu mặt.

Có nhiều người cho rằng, cuộc chiến trực diện với tôn giáo do Việt cộng mở ra chỉ như những nhát búa, bổ mạnh xuống trên các tôn giáo sau ngày hội nghị gốc đa Tân Trào. Tuy nó đã tạo ra được những thành quả vẻ vang cho những tên bạo chúa trong các hành động vô trí của cái vai u thịt bắp cũa những loài động vật kéo cày kéo xe, trong các vụ đập phá nhà thờ, chùa chiền, đình hội. Và tạo ra một bộ mặt bi thảm, chết chóc, đổ vỡ cũng như sợ hãi trong xã hội, nhưng xem ra, nó không có khả năng đạt tới cái đích “vô tôn giáo”, như nhà nước này mong ước. Trái lại, cuộc chiến dấu mặt, lặng lẽ như cái liềm, luôn nhẹ nhàng kề vào cổ các tôn giáo và không ngừng đưa qua, kéo lại cho cái liềm từng lúc, từng thời, lấn sâu vào trong cổ họng của các tôn giáo để tạo ra những vết thương đau đớn và không bao giờ lành, trở thành những tai họa khôn lường cho các tôn giáo và xã hội. Điều này đúng hay sai?

A. Những lý do đưa đến cuộc chiến dấu mặt.

Tôn giáo là những ý niệm hướng tới Chân Thiện Mỹ, là điểm công lý ẩn sau trong tim lòng của mỗi con ngưới, là gốc sinh ra an toàn cho xã hội. Trở thành điểm tựa an toàn cho con người. Hơn thế, cho cả xã hội dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào. Theo đó, không có một sức mạnh nào từ bên ngoài có thể phá vỡ và tiêu diệt được niềm tin tôn giáo trong lòng người. Trừ ra chính cá nhân ấy muốn từ bỏ. Như thế, cộng sản với chủ trương vô tôn giáo, chẳng bao giờ muốn giúp vốn cho tôn giáo vững mạnh trong xã hội qua những cuộc đập phá toàn diện. Trái lại, chúng muốn tạo cho các tôn giáo có thêm nhiều Giuđa, hơn là có nhiều thánh tử đạo.

Thứ hai, công lý không chỉ có ở trong lòng một người, nhưng là ở trong mọi người. Công lý không phải chỉ có trong nhất thới, nhưng là vĩnh cửu. Có khi nó tự phát sinh ngay trong lòng kẻ cầm búa đập phá các cơ sở của tôn giáo. Như thế, cuộc chiến trực diện nhắm đạp đổ chân lý của các tôn giáo do Hồ chí Minh chủ trương không thể kéo dài. Nó được xử dụng như một phương tiện để tạo ra khủng hoảng, sợ hãi. Nếu cần, nó có thể tái diễn, rồi ngưng. Bởi vi nếu kéo dài, nó sẽ đập vỡ chính đầu nó.

Lý do thứ ba. Đây là cuộc chiến người ta không tìm ra được khúc đầu, cũng không tìm ra được khúc cuối. Bởi vì phải sống trong gian dối, cá nhân những thành viên hoạt động trong cuộc chiến dấu mặt này, cũng như kẻ chỉ huy chúng, không bao giờ để lộ ra tung tích làm tay sai, phản đạo của mình. Trái lại, thành phần này luôn nhân danh tôn giáo, hoạt động lầm lũi theo lệnh như những loài côn trùng, sâu bọ có đầy ở dưới mặt đất, ngày đêm đục khoét, phá hoại rễ hay thân cây đang sinh hoa kết trái ngon ngọt, nhưng không ai nhìn thấy chúng. Nên dù biết cây trái mùa màng của mình bị phá hoại, chủ nhân lại không tìm ra cách trị đúng mức, hoặc không biết chúng ẩn nấp ở đâu để triệt hạ cho dứt căn bệnh.

Sự việc này được giải thích là: Khi thấy vườn hoa trái có nhiều trái thối, trái sâu, trái bệnh. Lúc đầu, chủ nhân khu vườn cho là nó bị ảnh hưởng thời tiết trái mùa. Ông đi tìm mua một số loại thuốc sát trùng về dùng với hy vọng sẽ cải tạo lại được vườn hoa trái. Kết qủa, tốn kém lên cao mà không đạt kết qủa. Số cây lây bệnh cho nhau, sinh ra trái hủi ngày càng nhiều. Chặt đi thì tiếc công lao nuôi trồng, mà để lại thì khó chịu. Trong lúc phân vân tìm hiểu nguyên nhân, ông dùng cái cuốc, cuốc sâu xuống đất, xát bên một gốc cây. Hỡi Trời đất ơi! Phơi ra theo nhát cuốc ấy là vô số những loại sâu bọ đang đục khoét rể và gốc cây. Có đủ loại. Con thì to con thì nhỏ. Ông bị hoa mắt, chẳng thể phân định được loại nào có mang trùng độc hại cây.

Dĩ nhiên, theo nhát cuốc, có con đứt đầu, con đứt mình, con bị chết, con bị phơi ra ánh nắng và lộ mặt như qúy cụ Huỳnh công Minh, Trương bá Cần, Phan khắc Từ, Vương đình Bích… Nhưng còn biết bao nhiêu con khác thấy động thì tìm chỗ ẩn núp, ông không thể nào tìm ra được. Nếu dùng loại thuốc cực mạnh đổ xuống cái lỗ ông vừa đào. Cây ăn trái kia sẽ bị ảnh hưởng nặng, đất có thể thành chai cứng không xử dụng được mà sâu bọ trùng độc kia có khi lại không chết. Nó di sang gốc cây khác thì cái hoạ càng lớn. Ông đành lấp đất lại, tự nhủ, để cho nó trốn ở đây còn hơn là làm động để chúng di đi nơi khác!

B. Những điểm tựa, hỗ trợ cho cuộc chiến dấu mặt.

1. Điểm tựa từ tôn giáo.

Có thể nói một cách không qúa sai lệch là: Tôn giáo là nạn nhân nhưng cũng là điểm tựa, rồi trở thành bức tường thành vững chắc hỗ trợ cho cuộc chiến dấu mặt, triệt tiêu tôn giáo của cộng sản. Đọc qua đoạn viết này, nhiều người sẽ nổi giận. Nhưng sự thật hiển nhiên đã được chứng minh là:

Vì nhiều lý do thực tế, hay vì sinh hoạt, có khi vì thể diện của tôn giáo, nên các chức sắc cao cấp của các tôn giáo dù không muốn bao che, nhưng cũng không dám công khai, công nhận thực tế là có những thành viên thuộc cấp lãnh đạo trong tôn giáo của mình thoái hóa, rồi trở thành những kẻ dấu mặt trong cuộc chiến phá hoại tôn giáo do cộng sản chỉ huy. Đã thế, các tôn giáo liên hệ cũng không dám công khai triệt hạ, hay đặt những kẻ dấu mặt này ra ngoài vòng sinh hoạt nghi lễ của tôn giáo mình, dù có đầy đủ những bằng chứng cá nhân, cũng như luật lệ của tôn giáo quy định về những trường hợp phản nghịch này. Điển hình là trường hợp của nhóm gọi là “tứ nhân bang” Minh, Cần, Từ, Bích… thuộc giáo hội công giáo, hay Nguyễn văn Bồng, tức TT Quang bên giáo hội PGVNTN? Đây có phải là một tai họa hay không? Tôi sẽ trở lại phần này sau.

2. Sự hỗ trợ từ nhà nước Việt cộng.

Ngoài việc xây dựng, giáo dục, vận động, cài cắm ngưòi của cộng sản vào trong các hoạt động của tôn giáo, Việt cộng còn triệt để áp dụng hai phương án tối độc để hỗ trợ cho cuộc chiến dấu mặt, phá hoại niềm tin đạo hạnh của tôn giáo. Đó là việc dùng bạo lực để trấn áp, thách đố những vị lãnh đạo cao cấp của các tôn giáo đã bị cài đặt người vào. Thứ hai, dùng thủ thuật Xin-Cho để chế ngự các tôn giáo.

a. Dùng áp lực.

Câu chuyện được kể lại như sau. Không phải là TGM Nguyễn văn Bình muốn xử dụng nhóm “tứ nhân bang” gồm các ông Hùynh công Minh, Trương bá Cần, Phan Phắc Từ, Vương đình Bích là những Linh Mục đã hoạt động cho các tổ chức của cộng sản để họ di họa cho giáo hội về sau. Xin mở dấu ngoặc là “theo Sắc Lệnh của Đức Pio XII công bố năm 1949, thì những người này đã đương nhiên bị khai trừ khỏi giáo hội vì những hoạt động của họ cho cộng sản mà không cần phải công bố. Theo đó, ngay tư cách ngưòi công giáo của họ cũng không còn, nói chi đến phẩm hàm Linh mục, nên trong danh xưng với nhửng vị này tôi chỉ dủng chữ qúy ông cho việc xưng hô mà thôi.(The Decree against Communism is a 1949 Catholic Church document (by Pope Pius XII) which excommunicates all Catholics collaborating in communist organizations.) “.điều 4, (Q.4 If Christians declare openly the materialist and antichristian doctrine of the communists, and, mainly, if they defend it or promulgate it, “ipso facto”, do they incur in excommunication (“speciali modo”) reserved to the Apostolic See? R. Affirmative).

Trái lại, sau khi những con cờ này đã lộ diện trong vụ tấn công TGM Nguyễn văn Thuận và có những hành động phản nghịch của họ trong việc tát (theo LT) và đẩy TGM Henry Lemaitre ra khỏi tòa Khâm Sứ ở đường Hai bà Trưng Sài Gòn vào ngày 14-5-1975. Tòa TGM Sài Gòn đã sửa soạn những văn bản cần thiết để công bố vô hiệu hóa tất cả những năng quyền thuộc lãnh vực tôn giáo của nhóm người này theo luật định. Nhưng, Nguyễn Hộ, một hung thần trong ban tôn giáo vụ ở Sài gòn lúc đó, đứng chống lưng, ra mặt thách đố tòa TGM Sài Gòn thực hiện việc công bố các văn kiện này. Tệ hơn thế, Nguyễn Hộ và nhóm “cố vấn” này, sau khi thành công trong việc đẩy TGM Nguyễn văn Thuận ra khỏi Sài Gòn, còn áp lực TGM Nguyễn văn Bình, đưa kiến nghị sang Rôma để xin đổi tên của TGP là Sài Gòn ra cái tên chết cạn HCM. Vì sự bạo phát của cộng sản lúc bấy giờ và vì cái thế ngoại giao trong lúc khó khăn, Rôma đành phải chấp thuận việc đổi tên này cho hợp với thủ tục hành chánh. Dĩ nhiên, việc Sài Gòn mất tên, và TGP Sài Gòn cũng mất tên còn là một vết thương lâu dài. Vết thương không phải chỉ dành cho người công giáo, mà còn là cho dân tộc Việt Nam nữa.

b. Thủ thuật Xin-Cho.

Cộng sản biết rất rõ một điều là: Tôn giáo không có việc làm là tôn giáo chết. Việc làm ở đây có nhiều dạng. Từ việc xây dựng cơ sở thờ phượng đến các cơ sở giáo dục. Việc phát triển nhân sự, việc sinh hoạt của các hội đoàn, đoàn thể thuộc lãnh vực riêng của tôn giáo, hay các tổ chức từ thiện, xã hội do tôn giáo tổ chức v.v. Nên về mặt lý thuyết, cộng sản có đủ mọi loại giấy tờ chứng mình rằng nhà nước tôn trọng và bảo vệ sự tự do tín ngưỡng của người dân. Nghĩa là nhà nước Việt cộng chỉ bảo đảm không cấm cản việc người dân theo bất cứ một tôn giáo nào họ muốn mà thôi. Ngoài ra không có bất cứ một giấy tờ, văn bản nào công nhận hay bảo đảm việc các tôn giáo được tự do trong các sinh hoạt phát triễn về nhân sự, cũng như các sinh hoạt làm tăng tiến đời sống đạo hạnh của các tôn giáo, ngõ hầu đem lại phúc lợi cho xã hội. Chính vì cái lối lý luận thịt ba rọi, công nhận “tự do tín ngưỡng” nhưng không cộng nhận tự do sinh hoạt theo tín ngưỡng mà cộng sản đã đặt cái lệ Xin – Cho, rồi áp đặt lên trên các tôn giáo với mục đích bóp nghẹt và kiểm soát các tôn giáo.

Lệ Xin-Cho là cái lệ gì?

Theo nguyên tắc, tất cả các dịch vụ hành chánh đều mở ngõ cho mọi ngưòi, nên khi cần chuyện gì thì đương sự phải có đơn xin. Đơn xin trong trường hợp này chỉ là những thủ tục thông thường.Thí dụ như xin giấy khai sinh, khai tử, xin giấy hôn thú, xin kết hôn, xin xuất cảnh, xin việc làm. Và sự thường là các loại giấy tờ này đều có thời hạn để giải quyết. Riêng các đơn xin có liên hệ đến sinh hoạt của các tôn giáo như xin xây nhà thờ, cơ sở, xin tuyển sinh, xin phong chức cho ngưòi đã đủ điều kiện thì cái thời gian “cho” nó giống như sợi giây thung. Thích thì địa phương xét sớm, trường hợp cần thêm tiền lót tay, hay các mưu toan mờ ám thì cứ ngâm tôm. Thời gian ngâm tính tháng hay năm, không tính theo ngày! Trong thời gian bị ngâm cũng chính là lúc các khẩu lệnh và điều kiện ngầm được các cán bộ nhà nước từ trung ương cho đến địa phương triệt để áp dụng, trao đổi để đưa đến chữ “cho”. Đó là nguyên tắc, là luật của xã hội chủ nghĩa Việt cộng!

Trong khi đó, sinh hoạt của tôn giáo không hề tách rời ra khỏi đời sống xã hội và con người. Trái lại, còn đi sâu vào trong lòng xã hội để truyền rao Chân Lý, Sự Thật, nên các chức sắc trong các tôn giáo tại Việt Nam, đều bị áp chế bởi thủ thuật Xin – Cho của Việt cộng. Nó chính là cái lưỡi câu, là cái chìa khoá, có kịch độc dùng để tiêu diệt sự đạo hạnh chân chính của tôn giáo, và là đòn buộc tôn giáo phải nâng cấp cái phẩm cách gian dối, bất lương của cộng sản lên ngang hàng với những đạo đức của xã hội. Hoặc kéo tôn giáo xuống ngang hàng cái gian dối của cái xã hội chủ nghĩa. Đó là cái gía quá đắt, ai cũng biết, nhưng các tôn giáo ở Việt Nam hôm nay lại không thể vượt thoát ra ngoài cái thủ thuật vô đạo Xin-Cho của cộng sản.

Điển hình, việc Nguyễn thiện Nhân, một cán bộ cao cấp của đảng và nhà nước Việt cộng có mặt trên lễ đài trong đại hội La Vang dịp kết thức năm Thánh là một việc rất khó giải thích và khó chấp nhận. Bởi lẽ, không phải chỉ có giáo dân, mà tất cả mọi người đến đây để cầu nguyện, xin ơn bình an, xin Mẹ yên ủi chúng con đều không muốn nhìn thấy kẻ vô thần, hại đạo ngồi trên nơi cao kia nhìn xuống. Như thế, sự hiện diện này được coi như là một thứ “điều kiện” của cái lệ xin cho của nhà nước. Nghĩa là, qúy tôn giáo xin được tổ chức những buổi lễ lớn, tuy là thuần túy của tôn giáo, nhưng có hiện diện của cả khách nước ngoài thì cũng phải mời cả đại diện của nhà nước đến dự và đọc điễu văn. Dù cái diễu văn của nhà nước chưa đọc thì ngưòi ta đã biết rõ nội dung của nó chỉ là những xảo trá tuyên truyền cho thế giới biết là ở Việt Nam có tự do tín ngưỡng. Người ngoài thì xấu hổ thay cho những hành động này, nhà nước Việt cộng thì không.

Trong khi đó, tại Hà Nội, như một biểu tượng cho những người đi tìm Tự Do, Sự Thật và Công Lý. Ngày 20-9-08 , trong cuộc họp chung với UBNDTP Hà Nội để giải quyết về quyền sở hữu khu nhà đất TKS, thuộc tài sản của tòa TGM Hà Nội. TGM Ngô quang Kiệt đã công khai đặt vấn đề với nhà nước phải phá bỏ, tháo gỡ cái lệ xin cho mà họ đã áp đặt trên các tôn giáo từ khi nắm công quyền. Bởi vì: “Tự do tôn giáo là quyền chứ không phải là cái ân huệ xin cho“. Nghĩa là TGM Kiệt muốn xác định cả cái quyền tự do sinh hoạt tôn giáo đều thuộc về ngưòi dân, chứ không phải chỉ có cái quyền tự do theo đạo mà thôi. Đây là một sự kiện lớn có thể dẫn đến việc thay đổi cả bộ mặt đất nước. Kết qủa, sự tự do sinh hoạt trong tôn giáo không có. Trái lại tất cả mọi dự án thuộc TGP Hà Nội, từ trung ương đến địa phương, ngoài cái lệ xin cho vốn đã có những điều kiện khắt khe từ trước, nhà nước còn chủ động tạo ra thêm nhiều khó khăn, dẫn đến việc làm tê liệt đời sống hoạt động Mục vụ của TGP. Tạo nên một lý do sâu sắc, khiến Ngài phải từ nhiệm.

Và còn rất nhiều trường hợp khác như câu chuyện dưới đây:

Hai vị LM có thới từng học chung trường và chung một Giáo phận. Một hôm cả hai gặp nhau trao đổi ý định xin giấy xuất cảnh, ra hải ngoại để vận động người thân quen, mạnh thường quân, giúp đỡ tài chánh để về xây dựng lại ngôi thánh đường mái tôn, vách đất đã xuống cấp mà giáo dân thì không có khả năng đóng góp nhiều. Ít năm sau, một vị thì đang chạy đông chạy tây, mời khách đến dự khánh thành nhà thờ mới. Một vị vẫn chưa qua cửa ải phỏng vấn để được xuất cảnh:

- Bác làm thế nào mà công việc chạy nhanh thế?

- Mình mất cả mấy tháng trời, đi không lại về không. Sau có một người giáo dân trong xứ đề nghị là lên thành phố, xin cái giấy giới thiệu của một vị trong ủy ban đoàn kết xem thế nào. Kết qủa, khi trở về tỉnh là giấy xuất cảnh được thuận. Tôi đi ra ngoại vài chuyến và được đồng bào hảo tâm trợ giúp.

- Họ có thần thế lắm à?

- Thần thế gì. Trong nhà là sâu là mọt, nhưng mình lợi dụng được sâu mọt để xong chuyện của mình thì tôi cũng phải liều một chuyến. Không ngờ thành sự!

- Mình rất kém về ngoại giao kiểu trao đổi này.

- Cha cứ nghe tôi, sen trong bùn mà hoa rất tươi đẹp, chỉ cần mình không mang theo mùi bùn là được! Hơn nữa, gặp cái thời thế đảo điên vô luật lệ này. Mình chỉ mặt kẻ phản bội, có khi lại lỡ việc. Nó đã chủ trương tạo cho nhau cái thế như vậy. Mình muốn bước qua, e rằng qúa khó…

- Chúa ơi! C’est la vie!

Câu chuyện này là sự thật hay sao? Thưa, chỉ nói lên được một phần nhỏ của sự thật thôi. Bởi vì, có một sự thật rất thật là:

Việt cộng có đủ mọi thứ giấy tờ để chứng minh, tuyên truyền rằng có tự do tôn giáo tại Việt Nam. Chúng hoàn toàn không can dự gỉ vào việc đào tạo và phong chức cho những tân chức trong các tôn giáo. Trong thực tế, mỗi khi giáo phận muốn phong chức cho những nhân tuyển đã đủ điều kiện học hành, tu đức thì đều phải nộp danh sách cho nhà nước duyệt trước. Nghĩa là kẻ duyệt có toàn quyền quyết định xem trong cái danh sách ấy ai được giữ lại và ai bị loại ra ngoài. Sự việc duyệt danh sách này không chỉ nằm ở cấp phong chức LM mà còn có thể ở những cấp cao hơn nữa? Nghe nói chuyện khởi đầu là do chính nhóm tứ nhân bang đã tạo ra tiền lệ trong việc nhờ Nguyễn Hộ và ban tôn giáo vụ ở Sài Gòn đẩy Đức TGM Nguyễn văn Thuận ra khỏi Sài Gòn. Chuyện đẩy đi thành công thì chuyện về cũng phải có ý kiến của nhà nước. Và người đầu tiên bị ảnh hưởng trong chuyến về Sài Gòn là Đức GM Huỳnh văn Nghi, xảy ra sau khi ông Huỳnh công Minh trở lại Viêt Nam sau chuyến đi Rôma. Đến nay, cái lệ Xin – Cho đã thành nếp và tạo ra những sự kiện nghiêm trọng đầy tai hoạ:

1. Cài người vào phá hoại: Gài các đảng viên, những thành phần bất hảo vào giả tu trì để phá hoại tôn giáo, mà những vị có thẩm quyến, nếu biết, cũng không dám loại những kẻ này ra khỏi danh sách khi đệ nộp cho nhà nước.

2. Tập gian dối cho tôn giáo: Có nhiều vị đạo đức chân tu, nhưng không biết “ngoại giao” đút lót cho nhà nước, hoặc gia đình không có tiền, tên của họ có nhiều cơ hội bị loại ra khỏi danh sách do đề nghị của địa phương vì lý do lý lịch! Một khi tên họ đã bị loại ra thì không ai dám phong chức cho những vị này. Ngoài trừ Tổng Giám Mục ngô Quang Kiệt

Đấy là cái “gía” của ân huệ Xin – Cho. Ai thật, ai giả? Ai thực tình làm việc vì Chúa, vì giáo hội, vì tôn giáo? Ai làm việc cho bác đảng? Không một ai biết, ngoại trừ kẻ trong cuộc. Một khi, trong lòng tôn giáo đã có sự hoài nghi, không còn niềm tin nơi nhau, thiếu sự hiệp thông, chỉ còn lai những toan tính thì đời sống tôn giáo cũng chỉ còn là cái vỏ bọc, không còn sự sống đích thực trong sự hiện hữu của Thần Linh. Nghi lễ, kinh sách khi ấy dễ trở thành cái vỏ để che lấp lối sống gian dối, là một lối sống mà cộng sản tôn thờ và người bị cài đặt vào đã tự nguyện sống theo cái giả hình ấy. Như thế, chính lối sống gian dối của cộng sản là một định nghĩa gắn kết cho lối sống theo chủ nghĩa vô tôn giáo của chúng.

Nói cách khác, sách lược vô tôn giáo mà cộng sản chủ trương chính là sự việc thúc đầy, thực hiện cuộc sống gian dối trong tôn giáo, hơn là sự việc xóa sổ, không còn tôn giáo trong xã hội. Bởi vì, Tôn giáo là cuộc sống của Sự Thật, của Chân Lý của Niềm Tin lành thánh. Nhưng khi sự gian dối đã được thực hiện ngay trong đời sống tôn giáo thì Sự Thật, Chân Lý sẽ dần dần bị loại trừ. Không còn Chân Lý, không còn Sự Thật thì không còn tôn giáo. Nghĩa là, khi niềm tin về Sự Thật, về Chân Lý về sự Thánh Thiện trong tôn giáo không còn, tôn giáo sẽ tự rã, hoặc chỉ còn cái vỏ bọc với nhiều vết thương. Như thế, việc cố tạo ra gian dối trong tôn giáo, theo tôi, chính là điểm căn bản, là ý nghĩa đích thực của chủ nghĩa vô tôn giáo mà cộng sản chủ trương, theo đuổi, thực hiện, hơn là việc chúng muốn xóa sổ các tôn giáo trong xã hội.

Thật vậy, vì ấu trĩ và vì mặc cảm phát sinh từ sự thấp hèn trong xã hội, (K. Mark cũng chỉ là kẻ ăn bám, sống nương nhờ vào kẻ khác) cộng sản như những kẻ nô lệ chưa được giáo hóa, bỗng nhiên chiếm được quyền lực nên không thể hiểu được ý nghĩa của quyền lực xã hội, quyền lực nhân bản là gì. Từ đó, cộng sản chỉ biết dùng bạo lực, khủng bố để phá hủy luân thường đạo lý trong xã hội, và đẩy xã hội ngụp lặn vào cảnh sống loạn thường, không nhân tính. Theo đó, đời sống đạo đức, luân lý xã hội Việt Nam ngày nay bị xuống cấp là phản ành trực tiếp từ cái căn bản vô đạo của chế độ cộng sản. Nó được thể hiện rõ nét trong việc chế độ này thúc đẩy, giáo dục, nuôi nấng và tạo ra gian dối ở mọi nơi, mọi chốn. Từ học đường cho đến môi trường xã hội đều phải gian dối, thấp hèn để tồn sinh.

Riêng với tôn giáo, cộng sản còn chủ trương xử dụng bạo lực để áp đặt lên các tôn giáo hệ thống Xin – Cho, ngõ hầu đạt đến mục đích là gian dối hóa đời sống của tôn giáo để loại trừ Chân Lý, Sự Thật, Thánh Thiện ra khỏi cuộc sống của con người. Để từ đó, cộng sản sẽ đồng hóa cái gian dối của cộng sản với xã hội và tôn giáo, rồi buộc con người quy phục và tin vào cái duy vật biện chứng hiện thực: Đảng cho anh danh vọng chứ không phải Chúa Trời hay Thần Linh! Nghĩa là, đảng là sự hiện diện, còn Thần Linh thì không! Đó là lý do trả lời tại sao chúng đặt ra lệ xin cho và tìm cách đưa cái đầu lâu của Hồ chí Minh vào chùa, nhà thờ. Để đưa tà ác thần trên thần quyền

Dĩ nhiên, khi muốn thực hiên công tác này, cộng sản sẽ từng bước từng bước xiết chặt lệ xin cho với những điều kiện được áp dụng riêng cho từng cá nhân. Khi một người muốn được việc cho mình, dù trong ý muốn tốt, có khi việc của tập thể sẽ không hay. Một ông thầy muốn chịu chức phải đút tiền để có tên trong danh sách được phong chức Linh Mục (điều này đã xảy ra). Tiền có thể ông không có, nhưng nhiều người đứng ra vay mượn cho ông. Khi ông làm Linh Mục thay vì phải sống xa lánh tiền của để phục vụ cho đời sống tinh thần dân Chúa. Nhưng vì món nợ của ngày chịu chức, buộc ông phải tìm tiền để trả nợ. Không phải nợ không mà cả vốn lẫn lời. Khi ấy, đời sống tinh thần cho nhà Chúa sẽ ra sao? Rồi giáo dân càng ngày càng nghe biết thêm nhiều trường hợp như thế, tôn giaó sẽ đi về đâu? Liệu có bước vào cuộc phá sản niềm tin hay không?

Ấy là chưa kể đến việc vị chức sắc này đã bị cộng sản “nắm”, giữ những điều kiện ngay từ trước khi nhận chức. Liệu ông có đủ can đảm chống lại những công việc gian dối của chúng? Hay sẵn sàng tham gia vào những công tác của Việt cộng, và được chúng ưu đãi thêm nhiều đặc quyền đặc lợi? Hoặc giả, giữ im lặng trước những hành động bạo ngược vô đạo của chúng vì đã trót nhận ân huệ? Dẫu nằm ở trong trường hợp nào thì cũng đều giúp vốn cho việc phá sản niềm tin mau hơn mà thôi.

Như thế, chủ trương vô tôn giáo của cộng sản không phải chỉ là việc muốn xóa sổ tôn giáo ở trong xã hội cộng sản, Nhưng còn là việc thúc đẩy gian dối hoá đời sống tôn giáo để tiêu diệt niềm tin vào Chân Lý, Sự Thật và Thánh Thiện của tôn giáo.

Điều tôi vừa viết, có lẽ mọi người đều biết và đều có thể cảm nghiệm được. Nhưng nếu buộc phải chứng minh cho từng trường hợp thì không ai có thể làm được. Bởi lẽ, nó là cái chìa khóa mang ẩn số của cuộc chiến dấu mặt. Sẽ chẳng tìm ra bằng chứng. Người trong cuộc gian dối thì chối cãi và người ngoài thì vô kế chứng minh. Có chăng chỉ dựa vào những việc làm, lý lẽ, lời nói của họ để mà dẫn chứng, suy luận mà thôi. Liệu viết như thế, người viết có bị kết án là hàm hồ, hay là vạch áo cho ngưòi xem lưng không? Điều đó cũng có thể xảy ra. Tuy nhiên:

Tôi không nghĩ thế. Trái lại, nếu không dùng cái cuốc mà cuốc xuống đất thì cũng không gieo được hạt giống mới! Không thấy được sâu bọ đang phá hoại cây trái. Nói cách khác, khi công khai hóa cái lệ xin cho xấu xa của cộng sản áp đặt trên tôn giáo là lúc chúng ta đang giải cứu tôn giáo ra khỏi cái ách của cộng sản. Phần bạn, bạn nghĩ sao? Có hay là không có các Linh Mục, Giám Mục, Đại Đức, Thượng Tọa là những đoàn đảng viên của đảng cộng sản Việt Nam? Kế đến, các tôn giáo có nên lên tiếng công khai về những trường hợp này để loại trừ gian dối ra khỏi đời sống của tôn giáo hay không? Hay nên giữ im lặng để cho người ta tưởng tôn giáo của mình không bị cộng sản xâm nhập, điều hành?

Tạm thay lời kết.

Trong cuộc chiến đấu mặt này, cộng sản là những kẻ hoàn toàn chủ động và vạch ra đường đi nước bước mà các tôn giáo thật khó thoát ra khỏi cái vòng vây của chúng. Nếu tiếp tục giữ im lặng, hoặc né tránh giải quyết mạnh mẽ những trường hợp cụ thể như nhóm tứ nhân bang và những nhân sự trực tiếp tham dự vào sinh hoạt của các tổ chức do Việt cộng điều hành, vì họ đã vi phạm sắc lệnh năm 1949 của Đức Pio XII. Công giáo nói riêng và tôn giáo nói chung, lần hồi sẽ trở thành những tác nhân bảo vệ cho chính cuộc chiến triệt hạ niềm tin, Sự Thật, Chân Lý và Thánh Thiện của tôn giáo. Và biết đâu, vô tình trở thành những mắt xích giúp cho cộng sản có cơ hội thực hiện gian dối hóa đời sống tôn giáo, để dần đi vào cái chủ trương vô tôn giáo của chúng? Tệ hơn, khi cái đầu lâu của Hồ chí Minh đã lấn vào trong chùa, trong nhà thờ thì đời sống của tôn giáo ra sao? Đạo đức, Thần Thánh được đánh gía ngang hàng với ác quỷ chăng?

Hẳn nhiên, mọi người sẽ trả lời là không. Không bao giờ. Tuy nhiên, khi trả lời là không, chúng ta có hiểu rõ ràng, hay có biết: Cái ân huệ Xin – cho và thái độ tiêu cực, giữ im lặng hôm nay chính là cánh cửa mở ra để cho ta đi vào cái tai họa ấy hay không?

Bảo Giang


Thursday, September 1, 2011

2-9, Ngày Quốc Nạn Độc Tài - Trần Gia Phụng




Trần Gia Phụng

Chế độ Cộng Sản Việt Nam bắt đầu xuất hiện từ ngày 2-9-1945. Ngày nầy đánh dấu sự khởi đầu quốc nạn độc tài đảng trị toàn trị trên đất nước chúng ta cho đến ngày nay.

1. CHỦ TRƯƠNG ĐỘC QUYỀN CAI TRỊ

Ngày 2-9-1945, đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) và Mặt trận Việt Minh (VM), một tổ chức ngoại vi của đảng CSĐD, cướp chính quyền. Lúc đó, đảng CSĐD chỉ có khoảng 5,000 đảng viên. (Philippe Devillers, Histoire du Viet-Nam đe 1940 à 1952, Paris: Éditions du Seuil, 1952, tr. 182.) Những người nầy thuộc ba nhóm chính:
    1. Nhóm theo Hồ Chí Minh từ khi còn hoạt động ở Trung Quốc.
    2.
    Nhóm trong nước từ thời Trần Phú và trước đó.
    3. Nhóm từ Liên Xô đi thẳng về miền Nam. Tuy nhiên cả ba nhóm đều thuộc đảng CSĐD, dưới sự chỉ huy của Ủy ban Trung ương đảng CSĐD, và nằm trong hệ thống CSQT do Liên Xô lãnh đạo.
Đảng CSĐD và Mặt trận VM thành công là nhờ lúc đó quân đội Nhật Bản đầu hàng Đồng minh ngày 14-8-1945, hạ vũ khí, và hoàn toàn không chiến đấu; trong khi chính phủ Trần Trọng Kim không có bộ Quốc phòng, không có quân đội để bảo vệ trật tự, an ninh. Do đó, bộ đội VM một mình thao túng, cướp chính quyền và công bố thành lập chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ngày 2-9-1945.

Ngày 11-9-1945, tức chỉ gần 10 ngày sau khi chính phủ VNDCCH ra mắt, hội nghị Trung ương đảng CSĐD tại Hà Nội đưa ra nguyên tắc căn bản là đảng CSĐD nắm độc quyền điều khiển mặt trận VM, và một mình thực hiện cách mạng. (Philippe Devillers, sđd. tr. 143.) Đảng CSĐD nắm độc quyền mặt trận VM. Mặt trận VM đang nắm chính quyền, cai trị đất nước. Như thế có nghĩa là đảng CSĐD độc quyền cai trị đất nước.

Do chủ trương độc tôn quyền lực, VMCS thực hiện hai kế hoạch: Thứ nhất tiêu diệt tất cả những thành phần đối lập, theo chủ nghĩa dân tộc. Thứ hai, thương thuyết với các thế lực nước ngoài (Trung Quốc và Pháp) nhằm duy trì quyền lực.

Kế hoạch tiêu diệt thành phần đối lập được VM gọi là “giết tiềm lực”. Chỉ những ai chịu sự điều động của VM, thì được tồn tại. Còn những ai có năng lực nhưng không hợp tác với VM, dầu không chống đối VM, cũng bị VM tiêu diệt để loại bỏ những khả năng tiềm ẩn, có thể bất lợi về sau cho VM. Cho đến nay chưa có thống kê đầy đủ tổng cộng số người bị VM sát hại vì lý do chính trị và tôn giáo từ cấp cao nhất ở trung ương và các thành phố lớn, đến cấp thấp ở các làng xã trên toàn quốc, trong giai đoạn từ khi VM nắm quyền năm 1945. Con số phỏng chừng không dưới một trăm ngàn người trên toàn quốc trong cuộc giết tiềm lực của VM. Con số xem ra lớn lao, nhưng tính trung bình từng tỉnh hoặc thành phố, nhân lên tổng số tỉnh trên toàn quốc thì sẽ thấy rõ. Xin chú ý thêm rằng những người bị VM giết đa số là nhân tài của đất nước, có thể nguy hiểm cho cộng sản, nên mới bị cộng sản giết.

2. BƯỚC ĐẦU THI HÀNH ĐỘC TÀI

Việt Minh nắm hết ngay tất cả những phương tiện truyền thông, đài phát thanh, các nhà máy in, các cơ sở sản xuất giấy và buôn bán giấy. Báo Cứu Quốc của mặt trận VM trước đây phát hành bí mật, nay ra công khai từ ngày 24-8-1945. Báo Sự Thật, cơ quan ngôn luận của nhà nước VM, xuất bản số đầu ngày 5-12-1945. Việt Minh thành lập ban chỉ đạo báo chí và văn sĩ, huấn luyện cán bộ tuyên truyền cho chế độ để hướng dẫn quần chúng.

Ngay khi vừa được thành lập, tuy chưa có quốc hội để quyết định, chính phủ VNDCCH đặt thủ đô tại Hà Nội. Ngày 5-9-1945, bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký văn thư quy định quốc kỳ là “Cờ đỏ sao vàng”, vốn là cờ của mặt trận Việt Minh, và bài “Tiến quân ca” của nhạc sĩ Văn Cao là quốc ca.

Lúc đó, quốc kỳ của CSVN có ngôi sao vàng ở giữa mập đầy, chứ không thon và sắc cạnh như về sau. Cờ nầy phỏng theo cờ của các đảng CSTH và Liên Xô. Theo tài liệu của CSVN, quốc kỳ và quốc ca của nhà nước VM đã được quyết định tại “Đại hội đại biểu quốc dân” ngày 16-8-1945 ở Tân Trào. (Bộ Quốc Phòng, Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Quân Đội Nhân Dân, 2004, tr. 911.)

Về hành chánh, VM ban hành sắc lệnh ngày 5-9-1945 dẹp bỏ toàn bộ hệ thống quan lại cũ ở thành thị cũng như hào lý ở nông thôn, và lập ra những Uỷ ban nhân dân trên toàn quốc theo các cấp xã, huyện, tỉnh, bộ (kỳ). Uỷ ban nầy gồm những cán bộ VM và những người thân VM, trong đó đa số chưa thông thạo công việc hành chánh.

Nghị định ngày 8-9-1945 quy định tổ chức phổ thông đầu phiếu trong vòng hai tháng để bầu cử Quốc dân đại biểu đại hội (Quốc hội lập hiến). Tất cả công dân trên 18 tuổi đều được ứng cử và bầu cử, không phân biệt giới tính (nam, nữ), sắc tộc.

Tuy nói là hai tháng, nhưng VMCS tìm cách trì hoãn bầu cử. Mãi đến khi các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc, từ Trung Quốc trở về Việt Nam sau thế chiến thứ hai, đòi hỏi quyết liệt, quốc hội lập hiến mới được bầu ngày 6-1-1946. Do sự chỉ định và áp đặt của VM, đa số đại biểu VM và than VM đắc cử. Chỉ có một thiểu số nhân vật các đảng phái được đưa vào quốc hội. Cựu hoàng Bảo Đại cho biết sau khi ra Hà Nội, ông bị đưa đi “nghỉ mát” ở Thanh Hóa. Việt Minh cho người đến mời ông ứng cử. Ông không tranh cử, nhưng lạ lùng là ông vẫn được đắc cử ở Thanh Hóa với số phiếu là 92% cử tri đi bầu. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Nguyễn Phước tộc xuất bản, 1990, tt. 221-222.)

Quốc hội soạn xong bản hiến pháp và thông qua ngày 9-11-1946, gồm “Lời nói đầu”, 7 chương và 70 điều. Lúc đó, các lãnh tụ đối lập với VM bị khủng bố đã rút lui hay bỏ qua Trung Quốc, không còn ai đối lập với VM. Vì vậy, Hiến pháp chưa được chính phủ ban hành, thì ngày 14-11-1946 quốc hội gồm đa số đại biểu VM còn lại, tuyên bố đình chỉ thi hành hiến pháp vừa thông qua. (Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua, 1945-1964, Sài Gòn: 1965, California: Nxb Xuân Thu tái bản, không đề năm, tr. 28.)

Trong chế độ cộng sản đảng trị, nhà nước VM chỉ là cánh tay nối dài của đảng CS và chỉ tuân theo những nghị quyết của đảng bộ cộng sản, thường được gọi là đảng ủy các cấp, từ trung ương xuống địa phương, chứ không theo luật pháp quy định. Nghị quyết là quyết định của một nhóm người (tức các đảng bộ VM) đưa ra trong một hội nghị, theo từng hoàn cảnh, chủ quan chính trị và quyền lợi của nhóm người đó. Vì vậy, để độc tôn quyền lực, nhà nước VM không cần đến hiến pháp nhằm tránh bị hiến pháp ràng buộc.

Ngày 11-9-1945, Hồ Chí Minh gởi thông báo cho các tỉnh trên toàn quốc, chỉ dẫn cách thức tổ chức Ủy ban nhân dân tỉnh. Mỗi ủy ban tỉnh gồm có từ 5 đến 7 người: chủ tịch, phó chủ tịch, thư ký, và 4 ủy viên (chính trị, kinh tế, quân sự, xã hội). Ủy viên chính trị có nhiệm vụ thành lập tòa án nhân dân trừng trị những kẻ phạm tội, trái luật, do thám, Việt gian, tuyên truyền và huấn luyện chính trị cho nhân dân. (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, sđd. tt. 21-23.)

Việt gian là từ ngữ xuất hiện từ năm 1945 mà VM dùng để chỉ những người không đồng chánh kiến với VM, theo các đảng phái khác, hay cộng tác với người Pháp hoặc người Nhật (VM gọi là tay sai). Việt Minh muốn hãm hại ai, thì chỉ cần chụp mũ Việt Gian là bắt giết. Trong khi đó, Hồ Chí Minh và VM cộng tác và làm tay sai cho Liên Xô và Cộng sản Trung Quốc thì sao?

Về danh xưng các đơn vị hành chánh, ngày 14-9-1945, VM lấy tên danh nhân hay tên cán bộ cộng sản đặt tên các địa phương, thay thế tên cũ. Đại khái tên các thành phố và tỉnh thành như sau: Thành phố Hoàng Diệu (Hà Nội); Nguyễn Trãi (Hà Đông); Đề Thám (Bắc Giang); Lý Thường Kiệt (Bắc Ninh); Ngô Duy Phường (Thái Bình); Tán Thuật (Hưng Yên); Trần Hưng Đạo (Nam Định); Hoa Lư (Ninh Bình); Trưng Trắc (Phúc Yên); Nguyễn Thái Học (Vĩnh Yên); Đội Cấn (Thái Nguyên); Ngô Quyền (Sơn Tây); Tô Hiệu (Hải Phòng); Phạm Ngũ Lão (Hải Dương); Thái Phiên (Đà Nẵng); Trần Cao Vân (Quảng Nam); Lê Trung Đình (Quảng Ngãi); Cao Thắng (Phú Yên); Nguyễn Huệ (Quy Nhơn) …

Tuy nhiên, người Việt không có thói quen dùng tên người để đặt tên thành phố theo kiểu Tây phương, nên ngày 9-10-1945, Hội đồng chính phủ quyết định các địa phương đều phải lấy lại tên cũ. Trong thời gian nầy, chính phủ VM chia nước thành 14 khu, vừa có tính chất hành chính, vừa có tính chất quân sự, và dùng con số để đặt tên các khu. Bắc Bộ có 7 khu (1, 2, 3, 10, 11, 12, 14). Trung Bộ có 4 khu (4, 5, 6, 15). Nam Bộ có 3 khu (7, 8, 9). Số thứ tự các khu về sau sẽ được điều chỉnh.

Điều đáng nói thêm là để thi hành chủ trương độc tài đảng trị, đảng CS và VM áp dụng chính sách “giáo dục phục vụ nhân dân” hay “giáo dục phục vụ chính trị”. Đó là nền giáo dục nhằm mục đích trên lý thuyết là phục vụ nhân dân, phục vụ công nhân lao động, nhưng trên thực tế là phục vụ chính trị, tức phục vụ chế độ do đảng CSĐD lãnh đạo.

Chính sách nầy do thứ trưởng Giáo dục Nguyễn Khánh Toàn nhập cảng từ Liên Xô. Có người cho rằng chính sách nầy ở Liên Xô do bộ trưởng Liên Xô là Kalenikov (?) đưa ra. Nguyễn Khánh Toàn có tên Nga là Minin, đã tòng học tại Học viện Thợ thuyền Đông phương (Université des Travailleurs d’Orient) ở Moscow (Liên Xô) từ năm 1928 đến năm 1931.

Trong nền giáo dục nầy, chương trình học tập cho học sinh theo đúng lập trường đảng CSĐD, nhất là các môn nhân văn (quốc văn, sử địa, công dân hay chính trị). Chỉ những người có thẩm quyền trong đảng mới được soạn sách giáo khoa và sách giáo khoa được xem là pháp lệnh, không giáo viên nào được giảng dạy ra ngoài sách giáo khoa. Giáo viên, học sinh đều phải “hồng” hơn “chuyên”, tức phải mang tính đảng hơn là khả năng chuyên môn. Với một nền giáo dục như thế, CSVN chỉ đào tạo được những người biết vâng lời hơn là biết suy nghĩ. Cộng sản chỉ cần như thế để ap đặt chế độc độc tài toàn trị. Tuy nhiên, chính đó là nguyên nhân suy thoái của Việt Nam ngày nay.

Chỉ sơ lược như trên, rõ ràng ngày 2-9 chẳng có gì vui mừng để gọi là “quốc khánh”, mà là ngày mở đầu cho quốc nạn và quốc nhục độc tài đảng trị và toàn trị của dân chúng Việt Nam.

Trần Gia Phụng
(Toronto, 30-8-2011)

Friday, August 26, 2011

$1.6 million placed on Gaddafi's head, dead or alive


WANTED

DEAD OR ALIVE
$1.6 million
The head of the Transitional National Council has given more details about the bounty now on Muammar Gaddafi's head.

"The NTC supports the initiative of businessmen who are offering two million dinars for the capture of Muammar Gaddafi, dead or alive," Mustafa Abdel Jalil said overnight.

The price comes to $1.6 million and will be given regardless of if the leader is handed over dead or alive.
.


Monday, August 22, 2011

Gaddafi "rule is over"



Gadhafi "rule is over" - (1:36) Libyan rebels claimed to be in control of most of the Libyan capital of Tripoli, and President Barack Obama says Moammar Gadhafi's rule is over. Still, there's no sign of the Libyan ruler. (Aug. 22) Published: August 23, 2011, 12:10 pm

Obama urges Gadaffi to step down

Obama urges Gadaffi to step down - (1:47)U.S. President Barack Obama says Muammar Gaddafi's hold on Libya is "coming to an end" as rebels worked to secure Tripoli. Deborah Gembara reports.Published: August 23, 2011, 7:05 am





Friday, July 22, 2011

Nguyễn Cao Kỳ "đang sống chuyển sang từ trần"

    Nguyen Cao Ky, Ex-General Who Ruled South Vietnam, Dies at 80
By THE ASSOCIATED PRESS
Source: http://www.nytimes.com/2011/07/23/world/asia/23nguyen.html

KUALA LUMPUR, Malaysia (AP)
— Nguyen Cao Ky, the former air force general who ruled South Vietnam with an iron fist for two years during the Vietnam War, died Saturday. He was 80.

Mr. Ky died at a hospital in Kuala Lumpur, where he was being treated for a respiratory complication, his nephew in Southern California told The Associated Press.

“He was in good health, but in the last couple of weeks he had been weak,” the nephew, Peter Phan, said. He said Mr. Ky split his time between his home in California and Vietnam.

One of his nation’s most colorful leaders, Mr. Ky served as prime minister of South Vietnam, which was backed by the United States, in the mid-1960s. He had been commander of South Vietnam’s air force when he assumed the post in 1965, the same year American involvement in the war escalated.

He was known as a playboy partial to purple scarves, upscale nightclubs and beautiful women. In power during some of the war’s most tumultuous times, he was a low-key but sometimes ruthless leader.

“It’s true that I did have absolute power when I was made premier,” he said in a 1989 interview with The Associated Press. “You may recall there was no congressional body in South Vietnam at that time. For more than two years, my word was the absolute law.”

From 1967 to 1971, he was vice president under his frequent rival, Gen. Nguyen Van Thieu.

When General Thieu’s government in Saigon fell to North Vietnamese troops in 1975, Mr. Ky fled by piloting a helicopter to a United States Navy ship. He and his family eventually settled in the United States, where he led a quiet life largely away from politics. He made headlines in 2004 when he made a controversial visit back to his homeland, praising the Communists, his former enemies.

Born in Son Tay Province west of Hanoi in 1930, Mr. Ky grew up under French colonialist rule and became involved as a youth in the national liberation movement led by Ho Chi Minh.

He left the movement, however, when he fell ill with malaria. He eventually enlisted in the army, where he trained as a pilot and rose through the ranks during the French fight against the insurgency. He was among the one million who fled the south after France’s defeat at Dien Bien Phu in 1954. The French withdrawal divided the country into the Communist North and non-Communist South.

Mr. Ky rose steadily in South Vietnam’s fledgling air force and was chosen as prime minister by a junta even though he had no political experience.

He was able to end a disruptive cycle of coups and countercoups that had followed the assassination of Ngo Dinh Diem, whose repressive regime was overthrown by military generals in 1963.

But Mr. Ky proved overly optimistic about the American prospects for victory.

In an interview with The New York Times in 1966, Mr. Ky said American airstrikes would “very soon” force the North to request a cease-fire, and said of war critics in the Unites States Senate: “They know nothing about Vietnam. ... They just represent the minority.”

Saying he wanted to end corruption, Mr. Ky threatened to shoot merchants manipulating the country’s rice market. A businessman convicted of war profiteering was executed by a firing squad in March 1966; Mr. Ky attended the trial’s opening session.

But when it came time for the country’s presidential election in 1967, Mr. Ky yielded power to his longtime rival, General Thieu, who at the time held the ceremonial post of chief of state. Mr. Ky served as General Thieu’s vice president until 1971, when he was briefly a rival candidate to General Thieu’s re-election.

He went on to watch General Thieu preside over the fall of Saigon. General Thieu was forced to step down as North Vietnamese troops closed in. He eventually left the country and died in Boston in 2001 at age 78.

The journalist and author Neil Sheehan, who won a Pulitzer Prize for his book on Vietnam, “A Bright Shining Lie,” told The A.P. in 1989 that Mr. Ky and General Thieu were “corrupt Young Turks” who rose to power as American involvement dramatically increased.

Mr. Ky flatly denied the characterization, saying, “If I had stolen millions of dollars I could live like a king in this country, but obviously I don’t live like a king. Believe me, I was a soldier fighting for freedom, not a politician interested in power and money.”

Mr. Ky made headlines in 2004 when, after 29 years in exile, he made a homecoming trip to Vietnam, dropping his vitriolic anti-Communist rhetoric and calling for peace and reconciliation.

Mr. Ky, who was married three times, is survived by six children and, according to his memoir, 14 grandchildren. He had five children by his first wife, a French woman. He and his second wife, a Vietnamese woman, had a daughter, Nguyen Cao Ky Duyen, a prominent Vietnamese-American entertainer. He met his third wife while living temporarily in Bangkok.


Thursday, July 21, 2011

Chuyện dài Vịt Tiềm

    Cái tội Không Thật
Nguyễn Đạt hịnh

Sự thật là trị giá lớn nhất trong mọi liên hệ của nhân loại; tương quan giữa hai cá nhân, hay hai quốc gia, nếu không đặt trên căn bản sự thật, thì quả không có khởi điểm để bắt đầu.

Một ông chủ doanh nghiệp loan báo cho nhân viên biết doanh nghiệp thua lỗ, phải đóng cửa; tin ông nói ra dĩ nhiên là một tin không vui, nhưng vẫn chuyên chở sự thật giúp công nhân làm việc với ông biết tình trạng thất nghiệp của mình để tự mưu cầu một lối thoát cho họ.

Nhưng nếu ông nói thêm là một tháng sau, doanh nghiệp sẽ có cơ tái hoạt động nhờ một khoản tài trợ của chính phủ, mà tin này lại không thật thì ông đã lừa dối những người tin tưởng ông.

Ông phạm vào tội không thật, cái tội mà phó đề đốc Hoàng cơ Minh đã phạm.

Mười năm, 15 năm trước, hay lâu hơn nữa, tôi viết bài chỉ trích mặt trận kháng chiến phục quốc của ông Minh, chỉ trích một việc làm không thật, một xảo thuật hào nhoáng, vẽ ra để thỏa mãn thèm khát phục quốc của người Việt hải ngoại, hầu gom góp và bỏ túi tiền họ ủng hộ một nỗ lực kháng chiến mà họ mong thành hình.

Tôi không nhớ, mà cũng không muốn nhớ lại trang sử tuy ngắn ngủi, nhưng vô cùng nhục nhã và tai hại trong cuộc đấu tranh chống Cộng của người Việt hải ngoại.

Một số những bài báo đó đăng trên tờ Việt Nam Hải Ngoại của anh Đinh Thạch Bích, một số khác đăng trên tờ Văn Nghệ Tiền Phong, và sau này trên tờ Sài Gòn Nhỏ, do cô Hoàng Dược Thảo làm chủ bút.

Đa số những "tội" mà tôi lôi ra để chỉ trích ông Phó Đề Đốc Minh là tội "không thật", Mặt Trận Kháng Chiến bịa đặt ra để lừa gạt, quyên tiền của đồng bào hải ngoại.

Một thí dụ: Mặt Trận loan tin tấn công và chiếm đóng quận lỵ Thiện Ngôn nguyên một đêm, mở kho gạo của Việt Cộng phát cho đồng bào trong quận, rồi sáng hôm sau rút trở vào rừng già Tây Ninh.

Tôi đùa bỡn thách ông Minh tìm ra quận Thiện Ngôn trên bản đồ Việt Nam, vì thựt tế chỉ có đồn Địa Phương Quân Thiện Ngôn, nằm trên tỉnh lộ 22 (?) từ Tây Ninh ra biên giới Miên. Chiến công chiêm bao chiếm "quận Thiện Ngôn" mua được một tiếng cười chua chát của độc giả.

Một thí dụ khác về những chiến khu, những đơn vị kháng chiến tưởng tượng chỉ được "vẽ" trên giấy, nhưng chiến khu nào, đơn vị nào cũng mang danh số tổng cộng thành 9 nút. Có lẽ từ ngày còn mang lon, đội mão, ông Đề Đốc nhà mình cũng thích "cờ bịch" (tiếng riêng của anh Văn Quang).

Chiến khu "quốc nội" là chỗ dưỡng quân của các đơn vị sau một thời gian tung hoành hoạt động, tấn công địch; có lần, theo tin đặc biệt của Mặt Trận, một đơn vị kháng chiến bị địch đánh tan, một số chiến sĩ HCM (đừng lầm là Hồ Chí Minh) lạc đơn vị.

Trong số này một chiến sĩ có sáng kiến nằm giữa đường để đơn vị di chuyển qua, "khám phá" ra anh; sáng kiến còn "cao siêu" thêm một bậc nữa là, để khỏi mất súng, anh đem khẩu súng dấu sau lưng, nằm đè lên để địch không biết súng anh dấu đâu.

Câu chuyện nhiều tính hài hước được chủ tịch HCM trịnh trọng kể lại trên một sân khấu Quận Cam, trong dịp đồng bào hải ngoại linh đình đón ông từ chiến khi quốc nội trở về. Ông ca ngợi anh chiến sĩ Mặt Trận chấp nhận đau lưng, vì bị súng cấn vào lưng, nhưng cương quyết bảo vệ vũ khí, không đổi thế nằm.

Tôi viết bài, hỏi đùa ông là trong giả thuyết một đơn vị địch di chuyển đến gần, thì anh chiến sĩ "Khiến Chán" của ông có đổi thế nằm không, hay sẽ tác xạ giết địch trong thế bắn nằm ngửa?

Thí dụ thứ ba: nhà văn Hải Bằng điện thoại hỏi tôi, "anh coi hình 'vá cờ' chưa? Bà xã em ngồi làm mẫu cho anh Nguyễn Ngọc Hạnh chụp đó." Tôi chưng hửng vì Mặt Trận đang bán hình chị Hải Bằng với lời giải thích chị là góa phụ của một chiến sĩ bị địch bắn tử thương trong nỗ lực cuối cùng, trèo lên cột cờ để đem quốc kỳ xuống, ấp ủ dấu kín trước phút mất nước."

Cũng như những câu chuyện bịa đặt khác, tôi vừa kể ở đoạn trên, ban lãnh đạo tối cao của Mặt Trận tỏ ra thiếu tưởng tượng; trong những bài viết chỉ trích những lường gạt đó, tôi nêu lên đặc tính thiếu tưởng tượng của họ.

Tôi hỏi họ, "nếu họ phát gạo lấy từ kho "quận" Thiện Ngôn cho cư dân trong quận và bị một cư dân từ chối không muốn khiêng bao gạo về nhà, vì anh không muốn, ngày hôm sau, khi Việt Cộng trở lại 'quận', bắt anh khiêng bao gạo trả trở về kho của chúng, thì Mặt Trận sẽ trả lời như thế nào với anh nông dân này."

Trường hợp anh chiến sĩ đương cự với địch trong thế bắn nằm ... ngửa, tôi hỏi đề đốc Minh, bề nào câu chuyện cũng chỉ là giả tưởng, sao đề đốc không bảo anh chiến sĩ Kháng Chiến, dấu khẩu súng vào bìa rừng, rồi tay không, anh ra giữa đường nằm -nằm ngửa, nằm xấp, hay nằm nghiêng cũng được- chờ được đơn vị dắt trở về chiến khu.

Tôi kể lại những chuyện này để xin anh Ngô Kỷ, và cô Hoàng Dược Thảo nhẹ tay với nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, vì phiên tòa dư luận không thể không xét đến "nghi vấn" bà Thanh Thủy bị Việt Tân lừa. Là tổ chức thối thân của Mặt Trận, Việt Tân bây giờ phải có nhiều thủ đoạn lừa gạt tinh vi hơn Mặt Trận ngày xưa nhiều lắm.

Nếu ngày xưa, vài trăm ngàn đồng bào hải ngoại đã bị những câu chuyện nỡm "thế bắn nằm ngửa" và "kho gạo quận Thiện Ngôn" lừa bạc triệu để tài trợ một hệ thống hàng phở, thì trường hợp bà Thanh Thủy bị lừa càng khả tín hơn: ở trong nước, tin tức bị bưng bít, bà không thể nào biết nghi vấn Việt Tân là cánh tay nối dài của Vẹm.

Dù bà Thanh Thủy có lầm lẫn vì "theo" Việt Tân, thì sự lầm lẫn của bà cũng vẫn nhẹ hơn sự lầm lẫn của hàng triệu người Việt hải ngoại, cho đến giờ này vẫn chấp nhận sự hiện diện của Việt Tân, tổ chức thối thân Mặt Trận Hoàng Cơ Minh.

Chán ghét Việt Tân đến mức không thèm ngó ngàng gì đến nó, để mặc nó nói dối, lừa gạt vô tội vạ, chính chúng ta đã đồng lõa với tội "không thật".

Việt Tân là một sản phẩm quốc ngoại, như một số sản phẩm nằm vùng khác, Việt Cộng đã gài được vào sinh hoạt của chúng ta. Dung dưỡng nó, chúng ta có lỗi nhiều hơn bà Thanh Thủy, một nạn nhân của nó.

Nguyễn Đạt Thịnh
---------
    VIỆT TÂN THÌ Ở ÐÂU CŨNG THẾ!

    - Lê Văn Ấn

    Mỗi khi đề cập đến Việt Tân là người ta nghĩ đến mấy chữ “mập mờ đánh lận con đen”. Cái mập mờ quan trọng bậc nhất của đảng Việt Tân là sự liên hệ giữa đảng Cộng Sản và đảng Việt Tân, nó như một mớ bòng bong không biết đâu mà gỡ. Ngay cả những điều Việt Tân đã viết ra giấy đã tuyên bố chính thức nhưng đến khi mặt giáp mặt và được hỏi tại diện tiền, Việt Tân cũng cắt nghĩa rất “lăn ba vi bộ”. Tuy vậy, những điều cốt lõi của Việt Tân được viết ra giấy và những việc Việt Tân làm tạo thành bộ mặt thật của Việt Tân không thể chối cãi. “Việt Tân ở đâu cũng thế”, ở thời điểm nào cũng vậy, ở Vương Quốc Bỉ trong vụ Hội Chuyên Gia Việt Nam mạo danh Cộng Ðồng Người Việt tị nạn Cộng Sản để “nhảy vào họng” Cộng Ðồng Việt Nam tại đây, dành quyền lập Bia Tri Ân và Cảm Tạ Vương Quốc Bỉ đã đón tiếp người Việt Nam tị nạn Cộng Sản 35 năm qua, đến vụ Việt Tân đang dồn mọi nỗ lực gây xáo trộn trong Cộng Ðồng Việt Nam tại San Jose để len lỏi vào nắm chính quyền. Cũng như vụ Những cái lồng đèn với biểu tượng Việt Cộng và lời của tên Hồ Chí Minh “Vì các cháu thiếu nhi, toàn dân ta kháng chiến.”. Một trăm vụ lợi dụng kiểu tu hú đều bị người Việt tị nạn Cộng Sản phanh phui cả trăm vụ, nhưng hai yếu tố quan trọng đã giúp cho Việt Tân thành công: đó là sự lỳ lợm của Việt Tân và “tính hời hợt và hay quên” của người Quốc Gia chống Cộng, khiến cho Việt Tân vẫn bày trò và vẫn thành công.

    Sự liên hệ anh em giữa Việt Tân và Việt Cộng rõ ràng trên giấy trắng mực đen, thế mà nhiều người nghe đó rồi bỏ đó, để mỗi khi có vụ lường gạt của Việt Tân mới đưa ra “bàn thảo” lại thì đã quá muộn.

    Liên hệ Việt Tân và Việt Cộng ra sao?

    Tài liệu có tựa đề “Giải pháp xây dựng Dân chủ cho Việt Nam” của đảng Việt Tân có đoạn liên hệ đến đảng Cộng Sản, tài liệu này ghi nguyên văn như sau: "Vai trò của các thành phần dân tộc trong tiến trình chuyển hóa dân chủ:

    - Lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam,
    - Những đảng viên tiến bộ trong đảng Cộng Sản Việt Nam,
    - Những lực lượng dân tộc, dân chủ,
    - Ðồng bào trong nước,
    - Ðồng bào ngoài nước”

    Trong 5 thành phần này, lãnh đạo đảng Cộng Sản và những đảng viên tiến bộ trong đảng Cộng Sản chiếm 2/5. Riêng “đồng bào ngoài nước” thì một tài liệu khác xác nhận “khi cần thì hy sinh 3 triệu đồng bào ngoài nước để chỉ chọn đồng bào trong nước!”. Chưa hết, cái gọi là “Tiến trình Dân chủ” của Việt Tân được chỉ thị rằng phải “kêu gọi đảng Cộng Sản Việt Nam chấp nhận tiến trình dân chủ”. Nói cách khác là xin phép Cộng Sản để Việt Tân đội lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam và “những đảng viên Cộng Sản tiến bộ” lên đầu để phục vụ, còn 3 triệu người Việt ở hải ngoại khi cần là hy sinh không tiếc nuối, không gớm tay.

    Lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam từ trước tới nay chỉ phục vụ cho ngoại bang, những ngày gần đây, lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam dâng đất, dâng biển cho Trung Cộng, tự đặt mình làm tôi tớ Trung Cộng, toàn dân đang trông mong một sự lật đổ thì đảng Việt Tân vẫn khư khư giữ bọn lãnh đạo này trên đầu để phục vụ, không có văn bản nào “mời” bọn lãnh đạo xuống. Ðáng tiếc cho dân tộc Việt Nam đã có đảng Cộng Sản, lại còn bồi thêm Ðảng Việt Tân. Ðiều nguy hiểm nhất là Việt Tân coi người Việt hải ngoại khi cần thì hy sinh, thế mà người Việt hải ngoại vẫn cắm đầu, cắm cổ nghe theo Việt Tân hay không chống đối Việt Tân một cách tích cực khi chúng dở trò lợi dụng.

    Gần đây, vì nhu cầu công tác, đảng Việt Tân đã “tách làm 2” bên “chính thống” và bên “chệch hướng”. Nhưng qua những sự kiện xảy ra tại Vương Quốc Bỉ trong những ngày đầu của tháng 9 năm 2010 do Hội Chuyên Gia, một hội ngoại vi của Việt Tân, cũng như bài báo của bác sĩ Trần Xuân Ninh một lãnh tụ Việt Tân “chính cống”, người ta ngao ngán mà thấy rằng chệch hướng hay chính thống chỉ là bề ngoài, bề trong cũng như nhau và vẫn khắng khít với nhau. Bằng chứng là trong một tài liệu khác Việt Tân xác nhận chấp nhận chế độ Việt Cộng sẽ tồn tại cho đến năm 2025. Khắng khít như vậy thử hỏi chuyện Việt Cộng công khai lên án Việt Tân là bọn khủng bố, Việt Tân thì vội vàng công nhận bất kỳ ai ở trong nước bị VC bắt đều là “đảng viên Việt Tân”, để Việt Cộng tha hồ muốn kết án họ cách nào cũng được.

    Sự kiện Hội Chuyên Gia của Việt Tân “phỗng tay trên” toàn thể người Việt tị nạn Cộng Sản trong vụ lập bia Tri Ân và Cảm Tạ Vương Quốc Bỉ. Ðây là một sự kiện mới toanh, đang xảy ra tại Bỉ, xin thuật lại đầu đuôi để đồng hương tị nạn Cộng Sản “nắm” vững và “thấm thía” cái truyền thống Mặt Trận lúc trước và Việt Tân sau này:

    Cách đây 5 năm, Cộng Ðồng Tị Nạn Cộng Sản Việt Nam tại Vương Quốc Bỉ gồm nhiều hội đoàn (khoảng 9, 10 Hội đoàn, trong đó có Hội Chuyên Gia của Việt Tân) đã đưa ra dự án lập Bia “Cảm Tạ và Tri Ân Vương Quốc Bỉ” đã giúp đỡ người Việt định cư ở Vương quốc này. Công việc đang tiến hành thì đùng một cái, các đoàn thể nhận được một thư thông báo của Hội Chuyên Gia, thông báo rằng Hội Chuyên Gia đã xin giấy phép và địa điểm là trong thành phố Bruxelles, bia đã điêu khắc và kiểu mẫu đã được vẽ, các hội đoàn chỉ việc chia nhau đóng góp 7 ngàn euros. Các hội đoàn đã họp lại và phản đối, vì Hội Chuyên Gia đã phỗng tay trên mọi người. Cái quan trọng và nguy hiểm cho toàn thể đồng hương tị nạn Cộng Sản tại Vương Quốc Bỉ là không biết trên tấm bia đó vẽ những gì, viết những gì, có lợi cho Việt Cộng hay không. Hội Chuyên Gia Việt Tân chỉ yêu cầu các đoàn thể đóng tiền. Trong cuộc họp của tất cả các hội đoàn tại Vương Quốc Bỉ ngày 11.9.2010, để bàn thảo vấn đề này thì Hội Chuyên Gia không đến! Hội đoàn nào cũng phản đối cách làm việc độc đoán của Hội Chuyên Gia, nhưng qua biên bản cuộc họp, mọi người không đưa ra được một quyết định tích cực nào. Ðó là khuyết điểm tiêu cực và mau quên của người Việt tị nạn Cộng Sản chẳng những ở Vương Quốc Bỉ mà các nơi khác cũng vậy. Đó là yếu tố quan trọng giúp Việt Tân phục vụ Việt Cộng một cách hữu hiệu!

    Ðiều hèn hạ của Việt Tân mà bất cứ người nào cũng không thể chấp nhận được, đó là Việt Tân đã lợi dụng cuộc vui của trẻ em ngày Tết Trung Thu để tuyên truyền cho Việt Cộng. Chuyện xảy ra đã lâu, từ ngày 24.9.1999 tại Houston, Texas. một màn “đánh lận con đen” của Việt Tân bằng cách lén phát lồng đèn Trung Thu mà nhiều người cho rằng do Việt Cộng sản xuất: tất cả “thiếu nhi” đều đội nón cối, đi chân đất, mặt trăng màu đỏ cam, và lồng đèn nào cũng có câu nói mà cán bộ VC thường cho là của “Bác Hồ” của chúng nói: "Vì các cháu thiếu nhi, toàn dân ta kháng chiến”. Sau một hồi chối quanh, chối quẩn, Việt Tân phải ra thông báo thú nhận đó là lồng đèn do chúng phát ra. Vụ việc này thực là đê hèn, nhưng đối với Việt Tân cũng như Việt Cộng, chúng luôn chủ trương “cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Chúng ta đọc “lời bình” của một trong hầu hết báo chí tại Houston lên án Việt Tân hay Việt Cộng như sau: "Có rất nhiều vấn đề phức tạp quanh vụ chiếc lồng đèn, nhưng có điều đáng nói là bọn Cộng Sản quá lộng hành khi thực hiện công tác này…”. Việt Tân đã ra thông cáo chính thức công nhận chính bọn chúng đã phân phát loại lồng đèn “kiểu Việt Cộng” đó. Như vậy có phải Việt Tân và Việt Cộng là một không?

    Tại San Jose này, Việt Tân cũng đang lợi dụng LÐCT và một vài “cựu” thành viên Mặt Trận hay Việt Tân như Huỳnh Lương Thiện để đánh phá cộng đồng người Việt tị nạn Cộng Sản tại đây. “Cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Cứu cánh của Huỳnh Lương Thiện là gây xáo trộn tối đa cho cộng đồng người Việt tại San Jose để lên án Ban Ðại Diện Cộng Ðồng mà chính xác là ông Nguyễn Ngọc Tiên với mục đích thay ông Tiên bằng người của chúng như những nơi khác đã làm và đã thành công, còn phương tiện là gây cảnh máu đổ đầu rơi, tù tội cho những thành phần Quốc Gia chống Cộng. Từ 2 tuần nay, khi báo Tiếng Dân vạch rõ âm mưu đen tối xấu xa của Huỳnh Lương Thiện, có nhiều đồng hương đã “giựt mình” vì họ đang “ôm cọp mà ngủ”. Chúng tôi cũng vạch rõ “ủng hộ ứng cử viên Minh Dương chỉ là chiêu bài”, vì chúng cốt ý binh vực Hồ Phương theo chủ trương của Việt Cộng từ trước khi chuyện ứng cử, bầu cử chưa xảy ra. Nói cách khác là âm mưu phá hoại cộng đồng mới chính là chủ trương của chúng.

    Ðiều đáng chú ý và cũng là yếu tố để nhận diện Việt Tân mỗi khi có những sự kiện bất thường xảy ra trong cộng đồng là luôn luôn binh vực Việt Cộng hay làm lợi cho Việt Cộng bằng cách tuyên truyền – nhưng luôn luôn núp dưới danh nghĩa người quốc gia. Suốt mấy tháng trời, Việt Tân San Jose đã tích cực binh vực và ủng hộ Madison Nguyễn trong vụ recall, vì trước đó, Madison Nguyễn đã công khai tuyên bố y thị chống tên Little Saigon chỉ vì nó có nghĩa chống Cộng.

    Việt Tân ở đâu cũng giống nhau, thời nào cũng một chủ trương ủng hộ Việt Cộng.
    Lê Văn Ấn
    23 .09.2010


Saturday, July 9, 2011

Ý NGHĨA CỦA LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ VÀ BÀI “TIẾNG GỌI CÔNG DÂN” - Lê Duy San


Lê Duy San

Đã có cả hàng chục bài viết về lịch sử, ý nghĩa của Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ (quốc kỳ của VNCH) và bài “Tiếng Gọi Công Dân” (quốc ca của VNCH) cùng nhiều bài tranh luận có nên treo Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và hát bài Tiếng Gọi Công Dân trong các buổi sinh hoạt cộng đồng của người Việt tỵ nạn Cộng Sản hay không. Nhiều bài viết rất là công phu và giá trị như bài “Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam” của cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, nhưng chính giáo sư Nguyễn Ngọc Huy cũng công nhận: “Viết bài này, tác giả chỉ có mục đích trình bầy một số dữ kiện lịch sử xác thật về quốc kỳ và quốc ca Việt Nam…”. Còn hầu như chưa có bài nào viết thật rõ ràng và ngắn gọn về ý nghĩa của Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài “Tiếng Gọi Công Dân” để người Việt hiểu rõ, nhất là trong giai đoạn hiện tại và tại sao chúng ta, những người Việt hải ngoại tỵ nạn Cộng Sản cần phải tôn kính và vinh danh mỗi khi có dịp hội họp tại nơi công cộng.

1. Lịch sử và ý nghĩa Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài “Tiếng Gọi Công Dân” trước 1975.
    a. Lịch sử Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài “Tiếng Gọi Công Dân”
Có thể nói, trước ngày quân đội Nhật lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương vào ngày 9/3/1945, Việt Nam chưa hề có quốc kỳ và quốc ca. Ngày 17/4/1945 chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập, lá cờ Quẻ Ly (sọc vàng ở giữa đứt đoạn làm hai) được chấp nhận là quốc kỳ của Việt Nam. Có thể nói đây là lá cờ đầu tiên của Việt Nam. Nhưng trên thực tế, lá cờ này chỉ đại diện cho nhân dân Việt Nam 2 miền Bắc và Trung mà thôi vì nhà cầm quyền quân sự Nhật chưa chịu trả Nam Kỳ cho triều đình Huế. Mãi tới ngày 14/8/1945, tức sau khi chính phủ Nhật đã đầu hàng Đồng Minh được 4 ngày (ngày 10/8/1945) lá cờ qủe ly mới thực sự đại diện cho cả 3 miền Bắc, Trung và Nam Việt Nam và bản Quốc Ca Việt Nam là bài Việt Nam Minh Châu Trời Đông của Nhạc Sĩ Hùng Lân.

Thời gian tồn tại của lá quốc kỳ Quẻ Ly và bài quốc ca Việt Nam Minh Châu Trời Đông quá ngắn ngủi vì 5 ngày sau tức ngày 19/8/1945 chính phủ Trần Trọng Kim đã bị Việt Minh tức Hồ Chí Minh, tay sai của Cộng Sản đệ tam quốc tế cướp chính Quyền và quốc kỳ được thay thế bằng Cờ Đỏ Sao Vàng là cờ đảng của đảng Cộng Sản Việt Nam (1) và quốc ca được thay thế bằng bài “Tiếng Quân Ca“ của Văn Cao.

Sau khi cướp được chính quyền, ngày 6 tháng 3 năm 1946, ông Hồ Chí Minh đã ký Hiệp Định Sơ Bộ Pháp-Việt với Jean Sainteny, đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp, rước quân đội Pháp vào để rảnh tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia (2), ông Hồ Chí Minh mới mở cuộc chiến chống Pháp để giành chính nghĩa. Chiến tranh Việt (Việt Minh) Pháp bùng nổ vào ngày 19/12/46. Pháp chiếm hầu hết các thành phố của cả ba miền Trung Nam Bắc, Việt Minh phải rút ra hậu phương để kháng chiến. Sau hơn 2 năm đánh nhau với Việt Minh, người Pháp thấy không thể chiến thắng nên đã liên lạc với Hoàng Đế Bảo Đại để trao trả quyền độc lập cho VN nhưng vẫn nằm trong khối Liên Hiệp Pháp. Ngày 2/6/1948, chính phủ lâm thời Việt Nam ra đời do tướng Nguyễn Văn Xuân chủ tọa, lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ do họa sĩ Lê Văn Đệ đề nghị được chấp nhận làm quốc kỳ và lấy bài Tiếng gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước (3) được đổi tên là Tiếng Gọi Công Dân đã được chập nhận làm quốc ca của quốc gia Việt Nam.

Ngày 7/7/1954, Ông Ngô Đình Diệm về nước thành lập chính phủ và lập nên nền đệ Nhất Cộng Hòa VN. Quốc Hội Lập Hiến VNCH năm 1956 đã quyết định giữ lại bài Tiếng Gọi Công Dân làm quốc ca, nhưng lời được đổi lại như sau:
    Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng.
    Ðồng lòng cùng đi, hy sinh tiếc gì thân sống!
    Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,
    Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.

    Dầu cho thây phơi trên gươm giáo,
    Thù nước lấy máu đào đem báo.
    Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy,
    Người công dân luôn vững bền tâm trí,

    Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
    Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!

    (Ðiệp khúc)

    Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!
    Công dân ơi! Mau làm cho cõi bờ
    Thoát cơn tàn phá, vẻ vang đời sống
    Xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng.
Có nhiều người chỉ trích việc dùng bài Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước là một người theo Cộng Sản. Thực ra thì bài Tiếng Gọi Công Dân chỉ mượn Nhạc, còn Lời thì đã thay đổi gần như khác hẳn. Hơn nữa, khi làm bài Tiếng Gọi Thanh Niên, Lưu Hữu Phước chỉ là một sinh viên với lòng yêu nước nhiệt thành, ông chưa hề gia nhập một đảng phái nào, kể cả đảng Cộng Sản Việt Nam.
    b. Ý nghĩa Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài “Tiếng Gọi Công Dân”
Theo giáo sư Nguyễn Ngọc Huy thì:

“ … quan niệm cổ của dân tộc Việt Nam, màu vàng thuộc hành thổ và màu đỏ thuộc hành hỏa và vì hỏa sanh thổ nên hai màu này rất hợp với nhau …, ba sọc đỏ nhỏ như những tia nắng rọi xuống một mặt đất rộng rãi làm cho mặt đất này ấm áp và có điều kiện thuận lợi cho cây cỏ mọc lên được”.

“… nền vàng tượng trưng cho quốc gia và dân tộc Việt Nam nói chung và ba sọc đỏ tượng trưng cho ba kỳ. Vậy, ba sọc đỏ nằm trên nền vàng hàm ý là nước Việt Nam gồm cả ba kỳ và dân tộc Việt Nam gồm người của cả ba kỳ”.

Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài Tiếng Gọi Công Dân không những là Quốc Kỳ và Quốc Ca của Việt Nam mà còn là biểu tượng của một nước có tự do và dân chủ và đã được tất cả các nước trên thế giới trong khối tự do dân chủ công nhận. Còn Cờ Đỏ Sao Vàng và bài Tiến Quân Ca chỉ được những nước độc tài chuyên chính trong khối Cộng Sản công nhận mà thôi.

Trong gần 30 năm, từ 1948 đến 1975, người dân VN tự do cũng như người lính VNCH chống Cộng Sản Việt Nam đã hy sinh không biết bao xương máu không phải là để bảo vệ cho một chủ nghĩa hay một chủ thuyết nào mà chỉ là để bảo vệ cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền cho Việt Nam. Vì thế ngọn Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài Tiêng Gọi Công Dân không những là biểu tượng cho quốc kỳ và quốc ca của Việt Nam mà còn là biểu tượng cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền, cho nguyện vọng tốt đẹp của quốc gia, dân tộc. Biểu tượng Cờ Đỏ Sao Vàng và bài Tiến Quân Ca của Việt Cộng trái lại, nó là biểu tượng chủ nghĩa Cộng Sản, một chủ nghĩa tam vô: vô tổ quốc, vô tôn giáo, vô gia đình, và học thuyết Mác Lê, một học thuyết chuyên chính vô sản. Bởi vậy những kẻ chiến đấu dưới lá Cờ Đỏ Sao Vàng, dưới bài Tiến Quân Ca không phải là chiến đấu cho Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền, cho quốc gia dân tộc mà là chiến đấu cho đảng Cộng Sản, cho chủ nghĩa Mác Lê.

2. Tại sao phải tôn kính và vinh danh Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài “Tiếng Gọi Công Dân”.
    a. Để để nêu cao chính nghĩa của người Việt quốc gia
Năm 1954, gần một triệu người miền Bắc VN đã phải bỏ hết cả nhà cửa ruộng vườn chạy trốn Việt Cộng để di cư vào Nam với 2 bàn tay trắng cũng chỉ vì muốn được hưởng tự do, dân chủ và nhân quyền của chính quyền miền Nam Việt Nam tức chính quyền quốc gia VN mà biểu tượng là lá cờ Vàng với ba sọc đỏ.

Suốt 20 năm cuộc chiến VN từ 1954 tới 1975, Việt Cộng mà biểu tượng là lá cờ máu (đỏ) với ngôi sao vàng đi tới đâu là đồng bào VN chạy khỏi đó và tìm tới vùng có lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tức vùng quốc gia để được bảo vệ và che chở. Hàng triệu quân dân cán chính của VNCH đã phải bỏ mình cũng vì để bảo vệ cho lá cờ Vàng ba sọc đỏ tức bảo vệ cho người dân miền Nam VN được Tự Do, Dân Chủ và có Nhân quyền.

Năm 1975, Việt Cộng xóa bỏ Hiệp Định Ba Lê và cưỡng chiếm miền Nam, lại một lần nữa, hơn một triệu người Việt bỏ hết cả tài sản, nhà cửa, ruộng vườn ra đi với 2 bàn tay trắng để tìm tự do và trong số này cũng có tới vài trăm ngàn người đã chìm xâu dưới lòng đại dương cũng vì 2 chữ tự do.
    b. Để giữ vững căn cước của người Việt tỵ nạn Cộng Sản
Sau năm 1975, chế độ Việt Nam Cộng Hoà không còn, Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ cũng như bài Tiếng Gọi Công Dân không còn là biểu tượng cho Quốc Kỳ và Quốc Ca của nước Việt Nam nữa. Nhưng trong lòng mọi người, dù đã bỏ nước ra đi hay hãy còn ở lại trong nước, Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài Tiếng Gọi Công Dân vẫn là biểu tượng của Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền.

Chúng ta bỏ nước ra đi vì không muốn sống dưới chế độ tàn ác, phi nhân của Cộng Sản Việt Nam. Các quốc gia tự do trên thế giới nhận cho chúng ta nhập cư cũng vì tư cách tị nạn chính trị của chúng ta.Vì thế, là người Việt tỵ nạn Cộng Sản, chúng ta cần phải bảo vệ tư cách này bằng cách tôn kính và vinh danh Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ (quốc kỳ VNCH) và bài Tiếng Gọi Công Dân (quốc ca VNCH) mỗi khi có dịp hội họp tại nơi công cộng.
    c. Để phân biệt rõ ràng lằn ranh Quốc Cộng
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài Tiếng Gọi Công Dân không những là biểu tượng lý tưởng của người Việt tỵ nạn Cộng Sản, không những là căn cước của người Việt tỵ nạn Cộng sàn, nó còn là biểu tượng để phân biệt rõ ràng làn ranh Quốc Gia và Cộng Sản. Một buổi họp có tính công cộng mà không treo Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, không hát bài Tiếng Gọi Công Dân thật khó lòng biết rõ đó là buổi họp của người quốc gia hay của bọn Cộng Sản.

Bởi vậy, là người Việt tỵ nạn Cộng Sản, chúng ta tuyệt đối không những không tham dự những buổi họp công cộng không có treo cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và hát bài Tiếng Gọi Công Dân mà còn có bổn phận phải tẩy chay và thông báo cho mọi người biết để xa lánh.

Trên thế giới nhiều nước đã ra nghị quyết vinh danh Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của người Việt tỵ nạn Cộng Sản, nhất là tại Hoa Kỳ. Trong bài “Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam” cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nói: “Hiện nay, quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ không còn được chánh thức dùng bên trong nước Việt Nam, nhưng mọi người Việt Nam ở quốc nội đều biết rằng nó là lá cờ tượng trưng cho nền độc lập và tự do của Tổ Quốc, chống lại chế độ cộng sản tàn ác, phi nhơn và nô lệ ngoại bang. Bên ngoài Việt Nam, nó cũng được người ngoại quốc xem là biểu tượng của phía người Việt Nam chống lại Cộng Sản. Không biểu tượng nào khác có thể thay thế cờ vàng ba sọc đỏ về các mặt này. Vậy, việc tỏ lòng tôn trọng quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và dùng nó một cách rộng rãi ở nơi nào có người quốc gia Việt Nam là một công cuộc đóng góp lớn vào việc giải phóng đất nước khỏi ách Cộng Sản”.

Tóm lại, mặc dầu Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ cũng như bài Tiếng gọi Công dân, kể từ 30/4/1975, không còn là biểu tượng quốc kỳ và quốc ca của Việt Nam nữa, nhưng đối với người Việt tỵ nạn Cộng sản, nó vẫn biểu tượng cho tự do, dân chủ, nhân quyền, cho căn cước của người Việt tỵ nạn Cộng Sản. Nó là bằng chứng để phân biệt người quốc gia với người Cộng Sản.

Không phải chỉ có người Việt tỵ nạn Cộng Sản, những miền Nam, đã sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà và được hưởng những ân huệ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa mới trân quý, bảo vệ và mong muốn Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ sẽ có ngày lại đại diện cho nước Việt Nam, mà ngay cả những người sinh ra dưới chế độ Cộng Sản và được dậy dỗ bởi Cộng Sản cũng mong muốn Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ sẽ có ngày tung bay khắp vùng trời Việt Nam. Trong bài “Còn Cờ Đỏ Sao Vàng Thì Không Bao Giờ Có Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc” đăng trong tờ báo chui trong nước, tờ “Báo Sinh Viên Yêu Nước”, tác giả Lê Trung Thành, một sinh viên du học tại Đài Loan nói “lá cờ vàng ba sọc đỏ chắc chắn sẽ lại tung bay ngạo nghễ trên quê hương Việt Nam”.

Mọi sự lạm dụng cũng như khinh thường Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài Tiếng Gọi Công Dân của những kẻ vô ý thức cần phải được kết án nghiêm khắc.

Lê Duy San

Chú thích.

(1). Thực ra thì cờ đảng của đảng Cộng Sản Việt Nam cũng là lá cờ Búa Liềm như cờ của Cộng Sản Nga, Cộng Sản Tầu. Nhưng vì muốn lừa gạt nhân dân và các đảng phái quốc gia nên chúng chọn Cờ Đỏ Sao Vàng. Khi cướp được chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim, chúng đã áp đặt lá cờ Đỏ Sao Vàng thành quốc kỳ VN.

(2). Hiệp định bao gồm các điểm chính sau đây:

Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng

Chính phủ Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế cho 200.000 quân Trung Hoa Quốc dân đảng để làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Pháp hứa sẽ rút hết quân trong thời hạn 5 năm, mỗi năm rút 3000 quân.

(3). Bài Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước như sau:
    I. Này sinh viên ơi! Ðứng lên đáp lời sông núi!
    Ðồng lòng cùng đi, đi, mở đường khai lối.
    Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên,
    Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!
    Hồn thanh xuân như gương trong sáng,
    Ðừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!
    Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,
    Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá.
    Ðường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương,
    Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường.

    (Ðiệp khúc)
    Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!
    Sinh viên ơi! Ta thề đem hết lòng!
    Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!
    Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!

    II. Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xoá!
    Hùng cường trời Nam, ghi trên bảng vàng bia đá!
    Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn,
    Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn.
    Hồ Tây tranh phong oai son phấn,
    Lừng tiếng Sát Thát Trần Quốc Tuấn.
    Mài kiếm cứu nước nhớ người núi Lam,
    Trừ Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám.
    Nòi giống có khí phách từ xưa chớ quên,
    Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền.
    (Trở lại điệp khúc)

    III. Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng,
    Hành trình còn xa, chúng ta phải cùng nhau gắng!
    Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông,
    Ngày nay ta cũng đem lòng son cho giống dòng.
    Là sinh viên vun cây văn hoá,
    Từ trước sẵn có nhiều hoa lá.
    Ðời mới kiến thiết đáp lòng những ai
    Hằng mong ta ra vững cầm tay lái.
    Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi
    Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!

    (Trở lại điệp khúc)
Lê Duy San

Thursday, July 7, 2011

MỘT BỊP! MỘT BỊP! LẠI MỘT BỊP! - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Nếu bây giờ còn có ai nói về sự thể gọi là “nguy cơ mất nước” thì nhất định là sai. Tình trạng gọi là nguy cơ đã biến thành hiện thực có chứng minh rồi. Đất nước ta đã thực sự mất vào tay Tầu cộng. Đó là một sự thực hiển nhiên. Tuy rằng trên bình diện công pháp và đối với thế giới, VN vẫn là một quốc gia độc lập có chủ quyền, nhưng nhìn vào thực tại của tình hình đất nước, rõ ràng người VN đã mất nước vào tay người Tầu từ lâu.

Những thực tế chứng minh

1. Những đô thị Tầu mà người Việt gọi là khu phố Tầu mọc lên nhan nhản khắp nơi từ Bắc chí Nam. Theo một người biết rành chuyện trong nước nói ra, phố Tầu do người Tầu làm chủ, do quan chức Tầu cai trị. Việt gian cộng sản không có quyền sớ rớ tới. Họ trưng bảng hiệu Tầu, sống phong tục Tầu, nói tiếng Tầu, lập trường Tầu cho con em học, bán buôn đồ Tầu, chịu luật lệ Tầu chi phối. Nó khác với China Town ở San Francisco, vì China Town do chính quyền thành phố quản trị. Tóm lại, các khu phố Tầu thực sự là những nước Tầu thu gọn nằm trong lãnh thổ VN.

2. Những khu mỏ quặng, những khu rừng thượng nguồn, những đồn điền cây công nghệ người Tầu sang chiếm cứ và khai thác. Công nhân là bộ đội Tầu cải trang. Khu vực khai thác, tuyệt đối người VN, kể cả bọn cầm quyền và công an không được héo lánh tới. Đây thực tế là những khu vực đóng quân của Tầu, quân số có nơi vượt cấp quân đoàn. Sách lược xâm thực này nhắm hai lợi ích vừa kinh tế, vừa quân sự. Phải kể đến nữa là 80% các công trình xây dựng trong nước do người Tầu trúng thầu với giá rẻ mạt. Hãng Tầu sử dụng công nhân Tầu. Từ kiến trúc sư vẽ đồ án cho đến người lau nhà, nấu bếp đều là Tầu, trong khi trí thức và công nhân VN thất nghiệp đầy đường.

3. Người Tầu ra vào VN tự do như đi trên đất Tầu không cần passort, không cần visa, công an phải chừa mặt không giám xét giấy tờ. Chúng muốn ở đâu và ở bao lâu, nhà nước việt gian cộng sản không dám kiểm soát. Dân Tầu phạm pháp trên đất nước VN, luật pháp VN không được quyền xét xử. Thường dân Tầu say xỉn phá phách ngoài đường, chọc gái giữa đám đông, người dân địa phương khôn hồn thì đi trốn để tránh vạ lây. Nếu thưa kiện, công an sẽ đứng về phía bọn Tầu làm bậy.

4. Cách Tầu xâm lăng VN hữu hiệu nhất là tiêu diệt nền kinh tế VN. Hàng hóa Tầu đổ vào VN qua cửa khẩu không phải đóng thuế. Xài hàng Tầu rẻ hơn hàng sản xuất tại quốc nội rất nhiều. Các hãng xưởng VN đang chết dần chết mòn, hoặc sống thoi thóp và chật vật. Dân VN ngày nay xài hàng hóa Tầu, xem phim Tầu, tập tễnh phong hóa Tầu nên trở thành Tầu lúc nào mà không biết.

5. Các đường lối chính sách quốc gia đều học theo Tầu. Tầu làm trước, VN bắt chước làm theo sau. Mỗi khi có chuyện lớn, bọn lãnh đạo VGCS đều phải sang lãnh chỉ thị từ Bắc Kinh. Tổng bí thư đảng việt gian cộng sản không hơn không kém là tên thái thú địa phương được thiên triều đặt lên để cai trị dân Việt.

Vân vân và vân vân. Như vậy thì chủ quyền quốc gia ở đâu mà không bảo là mất nước. Tình trạng Tầu hóa này trải qua chừng vài thế hệ nữa thì VN sẽ trở thành quận huyện của Tầu là chắc chắn. Hiện còn lại chuyện đôi khi xẩy ra như việc hải quân Tầu bắn giết ngư phủ VN, cắt cáp tầu thăm dò của VGCS v.v... bất quá chỉ đáng ví như những roi đòn quất vào mông đứa trẻ ngỗ nghịch không nghe lời dậy bảo. Hoặc, những tiếng nói đe dọa chiến tranh từ cửa miệng các quan chức Tầu coi như tiếng ông chủ rầy la đứa đầy tớ chểnh mảng công việc cho nó đi vào khuôn phép. Thế thôi. Theo ngu ý thì vào lúc này, không thể có chuyện nước Tầu xua quân xâm chiếm VN như hồi năm 1979 chúng dậy cho VN một bài học. Xét về các mặt lợi ích chính trị, quân sự, cũng như kinh tế, nước Tầu chẳng dại gì mà làm như vậy. Trước sau bề nào VN cũng phải nằm gọn trong tay rồi thì tội tình gì Tầu cộng phải nhọc công mà gây chiến tranh. Cách thôn tính hòa bình bằng sách lược chiến tranh không tiếng súng đã tỏ ra hữu hiệu không phải là thượng sách sao? Cho nên, điều mà nhiều người quan tâm vào lúc này, gọi nó là Biển Đông Dậy Sóng, chỉ là màn khói của bọn xâm lược lẫn lũ bán nước tung ra cho những nhu cầu chiến lược riêng của chúng mà thôi. Tầu muốn bành trướng chủ nghĩa Đại Hán, hơn nữa cần có cơm để nuôi một tỷ rưỡi dân, và cũng cần có đất để di dân. Hoa Kỳ cần con đường tự do đi lại trên biển và đầu tư. Việt gian cộng sản bán nước cần thu gom người dân về một mối cho dễ bề cai trị. Chúng muốn chạy tội bán nước trước nhân dân và lịch sử, và rất sợ bị trả thù nên cần phải dẹp tan sức chống đối của mọi thành phần mà chúng gọi là thế lực thù địch cả trong lẫn ngoài nước.

Việt gian cộng sản là một lũ Việt gian bán nước rành rành ra như thế, nhắm mắt cũng còn thấy, thế mà chúng lại luôn luôn thành công trong việc sử dụng sách lược khơi dậy lòng yêu nước của đồng bào để chống ngoại xâm bịp. Sách lược này mục đích là tiêu diệt những người yêu nước để chiếm độc quyền cai trị. Nói một cách chính chị chính em thì đây là ĐIỂM. Chống ngoại xâm chỉ là chiêu bài, hay là DIỆN. Sự thật trớ trêu nhưng rất hiển nhiên này cứ diễn đi diễn lại hoài mà hầu như đồng bào ta, kể cả những bậc đại trí thức cũng vẫn dễ dàng để cho VGCS lừa bịp.

Hồ Chí Minh gây chiến để tiêu diệt người yêu nước

Trong quá khứ sách lược gây chiến tranh chống xâm lược bịp của VGCS để tiêu diệt những đảng phái quốc gia và người yêu nước đã đem lại kết quả cho chúng ít nữa là hai lần.

Lần thứ nhất - Sau Đệ Nhị Thế Chíến, phong trào Dân Tộc Tự Quyết dâng lên cao tại hai lục địa Á Phi. Tất cả các nước thuộc địa lúc đó đều chọn giải pháp dành độc lập bằng cách tạm thời liên kết với “mẫu quốc” với một nền độc lập chưa hoàn chỉnh để tránh chiến tranh, xây dựng đất nước, và có thời gian kiện toàn thể chế ngõ hầu tiến tới một nền độc lập hoàn chỉnh về sau. Lấy thí dụ hai quốc gia gần gũi với VN là Philippines và Ấn Độ. Philippines được Mỹ trao trả độc lập ngày 4-7-1946, và Ấn Độ thoát ách thực dân Anh và tuyên bố độc lập ngày 15-8-1947. Những nước này không cần chủ nghĩa CS, cũng không cần chiến tranh, nhưng đã dành được độc lập một cách tương đối êm thắm, chẳng mấy tốn hao. Lý do là vì, một đàng chính các nước thực dân ý thức rằng chế độ thực dân đã đến lúc phải cáo chung rồi, ôm giữ mãi thuộc địa chỉ là ảo tưởng. Đàng khác, các dân tộc bị trị cũng nhận ra rằng đấu tranh dành độc lập bằng con đường thương nghị là tiết kiệm nhất và cũng hữu hiệu nhất.

Chỉ trừ có VN dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh thì không thế. Trong khi nạn đói năm 1945 tại miền Bắc chưa được khắc phục, thì Việt Minh phát động Tuần Lễ Vàng để vơ vét vàng trong dân chúng. Hồ dùng số vàng này dút lót cho bọn tướng của Tưởng Giới Thạch sang VN giải giới quân đội Nhật hầu ly gián Quốc Dân Đảng Trung Hoa với các đảng phái quốc gia VN. Đồng thời, Hồ mua chuộc tướng Tầu Tiêu Văn giúp thực hiện kế sách Chính Phủ Liên Hiệp (CPLH) của hắn. CPLH là một âm mưu rất thâm độc của Hồ Chí Minh. Sau khi chính phủ này ký Hiệp Ước Sơ Bộ ngày 6-3-1946 với Pháp. Hồ được rảnh tay đối phó với quân Tưởng và với Pháp, hắn lập tức ra lệnh cho Việt Minh truy quyét và tiêu diệt các đảng phái quốc gia và những thành phân bất phục tùng chúng. Các lãnh tụ VN Quốc Dân Đảng và Đại Việt như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam v.v... phải chạy sang Tầu để thoát thân. Hiệp Ước Sơ Bộ có điều khoản quan trọng là Pháp thừa nhận nền độc lập của VN trong Khối Liên Hiệp Pháp với một số hạn chế về nội trị và ngoại giao. Hiệp Ước này có chữ ký của Hồ Chí Minh, nhưng đến tháng 12 năm đó, Hồ xé bỏ bản Hiệp Ước, phản bội lại những điều đã ký kết với Sainteny và cụ Vũ Hồng Khanh, và quay ra chống Pháp.

Do tinh thần yêu nước của nhân dân ta rất cao, lại phải chịu đựng sự tủi nhục dưới ách thực dân Pháp trong gần một thế kỷ, chiêu bài chống Pháp Hồ Chí Minh tung ra hợp thời và rất tâm lý, đã dễ dàng lôi kéo được đa số quần chúng theo hắn, kể cả trí thức và thành phần tiểu tư sản thành thị. Chống Pháp 8 năm (1946-1954), với Hiệp Định Genève 1954, Hồ dành được một nửa phần giang sơn gấm vóc của Tổ Tiên và tròng lên đó một thứ gông cùm hà khắc và tàn ác hơn cùm gông của thực dân Pháp trước đó gấp trăm lần. Lịch sử ghi nhận, Tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của nhân dân VN bị Hồ Chí Minh và đồng đảng của hắn lừa bịp và ăn cướp thành công lần thứ nhất.

Lần thứ hai - Ngay sau khi Hiệp Định Genève vừa ký kết, Hồ Chí Minh đã lập ngay kế hoạch cướp miền Nam bằng võ lực cũng lại với chiêu bài chống đế quốc xâm lược. Kẻ xâm lược lần này là Mỹ.

Bất cứ nhà viết sử vô tư và có lương tâm nào cũng phải nhìn nhận rằng trong giai đoạn nước VN bị phân chia thành hai miền Nam Bắc thì miền Nam có độc lập, tự do, dân chủ, xã hội trù phú, đời sống ấm no và thanh bình hơn miền Bắc gấp bội. Hồ và đồng đảng dù rất thèm muốn miền Nam nhưng không dám vô cớ ngang nhiên xua quân xâm chiếm vì sợ dư luận của thế gìới. Ngay cả Pháp (lúc đó rất hận Mỹ vì trận Điện Biên Phủ), Liên Sô và Trung cộng cũng không dám ngoảnh mặt đi cho Hồ làm chuyện đó, bởi vì những nước này đã ký tên trên tờ Hiệp Định Genève. Do đó Hồ buộc phải tạo ra lý do để hành động. Hồ biết Mỹ muốn đem quân đội vào miền Nam, nên vấn đề là làm sao tạo cơ hội cho Mỹ đạt được ý nguyện. Chỉ có khi nào Mỹ đem quân vào VN thì Hồ mới có lý do trương chiêu bài chống xâm lược để gây chiến với phe Quốc Gia mà thâu tóm miền Nam. Sự cản trở cho kế hoạch của Hồ là người lãnh đạo của miền Nam lúc đó là TT Ngô Đình Diệm tuyệt đối không chịu để cho Mỹ đổ quân. Để trừ đi được cái trở lực này, Hồ lôi kéo bọn trí thức bất tài nhưng ham quyền và dùng cán bộ nằm vùng là những nhà sư của nhóm Phật Giáo Ấn Quang giàn dựng ra cái gọi là chính quyền “đàn áp Phật Giáo” để giết TT Diệm. Mỹ hẳn biết nhiều nhà sư là đảng viên CS, nhưng vì là “đúng tủ” của Mỹ, nên rất hoan hỉ tích cực tham gia vào việc sát nhân này.

TT Diệm chết, Mỹ tự do đổ quân vào VN như chỗ không người vì bọn tướng lãnh lãnh đạo bất tài của miền Nam lúc đó. Mỹ đem quân vào VN có nghĩa là ban cho CS miền Bắc cái lý do để xua quân xâm chiếm miền Nam. Lại một cuộc chiến nữa bắt đầu do Hồ Chí Minh và đồng đảng gây ra. Ngày 22-10-1957, lần đầu tiên toán cố vấn viện trợ quân sự MAAG (Military Assistance Advisory Group) tại Saigon bị đặc công CS đánh bom làm bị thương 13 nhân viên. Nếu lấy thời điểm này làm khởi đầu cho cái gọi là cuộc chiến chống Mỹ cứu nước của Hồ Chí Minh và kết thúc vào ngày 30-4-1975, thì chiến tranh kéo dài suýt soát 17 năm. Cuộc chiến đã cướp đi khoảng 4 triệu sinh mạng người VN, gần 60 ngàn người ngoại quốc kể cả 58.220 quân nhân Hoa Kỳ. Mất mát về vật chất và tinh thần thì vô kể.

Tuy việt gian cộng sản trương tấm bảng chống Mỹ, nhưng chúng thừa hiểu rằng nước Mỹ không phải là một đế quốc có tham vọng đất đai. Do đó, chống Mỹ chỉ là một chiêu bài bịp để vận động quần chúng. Mục tiêu của cuộc chiến là chiếm miền Nam và tiêu diệt những người VN yêu nước để CS độc quyền cai trị. Với chiêu bài chống Mỹ cứu nước, Hồ và đồng đảng lại lôi kéo thành công được nhân dân VN vào cái âm mưu lừa bịp một lần nữa. Tinh thần yêu nước ngây thơ của người dân VN lại bị cướp trắng. Nhân dân miền Bắc không hiểu và không biết phân biệt bị bịp đã đành, trí thức miền Nam, nhiều chính khách nữa, cũng sẵn sàng tự để cho mình bị lừa bịp mới là chuyện lạ không hiểu nổi.

Lịch sử đang tái diễn

Hiện nay, VGCS lại đang dở trò lừa bịp để ăn cướp lòng yêu nước của nhân dân VN một lần nữa qua chiêu bài chống xâm lược với những cuộc biểu tình phô trương lá cờ đỏ sao vàng. Quân xâm lược bây giờ là người anh em 16 chữ vàng ròng Trung cộng.

Luật pháp của VGCS cấm tụ họp không có phép từ 5 người trở lên. Vậy tại sao lại có những cuộc biểu tình hàng ngàn người chống Trung cộng tại nhiều nơi trong nước trong mấy tuần lễ vừa qua? Có phép hay không có phép? Thứ trưởng ngoại giao việt gian cộng sản Hồ Xuân Sơn đi Tầu hội họp, tuyên bố rằng liên hệ giữa Trung Hoa và VN vẫn dựa trên phương châm 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt, tình hình vẫn tốt đẹp và ổn định, đảng và nhà nước việt gian cộng sản vẫn giao hảo bình thường với Tầu. Thế mà tại sao dân VN xuống đường biểu tình chống Tầu lại được việt gian cộng sản để yên? Có phải là vô lý không? Nhưng xin thưa cái đuôi chồn lòi ra rồi. Các cuộc biểu tình nhất định phải có phép mới có thể xẩy ra được. Chắc chắn như vậy bởi vì đây là VN xã hội chủ nghĩa chứ không phải Pháp, Mỹ, Maroc, hay nước nào khác. Câu hỏi đặt ra là việt gian cộng sản để cho dân chúng biểu tình như vậy thì chúng có thật tâm chống Trung cộng không? Thú thật người viết hỏi chơi vậy thôi, chứ tin rằng ai nấy đã có câu trả lời chính xác rồi.

Ải Nam Quan đã mất vào tay Tầu. Thác Bản Dốc đã mất vào tay Tầu. Nhiều đất đai biên giới phía Bắc đã mất vào tay Tầu. Biển đã mất vào tay Tầu. Hoàng Sa, Trường Sa đã mất vào tay Tầu. Lại nữa, những chứng cớ xâm lược của Tầu trên lãnh thổ VN mà chúng tôi liệt kê ở trên, tất cả chứng minh rằng giang sơn gấm vóc của Tổ Tiên đã bị Tầu cướp đoạt, ít ra là từng phần và là những phần quan trọng. Còn nữa, khi hải quân Tầu bắn chìm tầu đánh cá của dân Việt trong hải phận VN, và giết ngư phủ VN, cắt giây cáp của tầu thăm dò của VN, việt gian cộng sản cũng vẫn im thin thít, coi như chúng thừa nhận các hành động côn đồ của Trung cộng là chính đáng. Trước tình trạng Trung cộng xâm chiếm VN như thế, người ta không hề thấy đảng và nhà nước VGCS có phản ứng nào để chống trả. Trái lại chúng vẫn duy trì tình anh em môi hở răng lạnh với Tầu trên cơ sở phương châm 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt. Như vậy thì việt gian cộng sản chống Trung cộng xâm lược ở chỗ nào? Theo tuyên bố của tên thứ trưởng ngoại giao Hồ Xuân Sơn sau các cuộc biểu tình mà chúng tôi vừa tường trình thì việt gian cộng sản chống Tầu xâm lược ở chỗ nào?

Hơn nữa theo binh pháp thì chống ngoại xâm là phải chận đánh giặc ngay khi chúng còn ngoài cửa ngõ đất nước. Để cho giặc vô ở hẳn trong nước rồi mới biểu tình đuổi giặc mà gọi là chống xâm lược sao? Vài ngàn người biểu tình có đuổi được giặc không? Vậy nên phải kết luận là những cuộc biểu tình được việt gian cộng sản cho phép chỉ là những màn trình diễn nhắm những mục tiêu khác chứ không phải là chống Trung cộng. Những cuộc biểu tình tuy do việt gian cộng sản ngầm tổ chức, nhưng không thiếu sự có mặt của tuổi trẻ VN yêu nước. Đó là lý do chúng tôi nói tinh thần yêu nước của nhân dân VN đã bị việt gian cộng sản ăn cướp. Xin rành mạch ở chỗ đó.

Vẫn như hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ trước đây, chống Trung cộng xâm lược hiện nay chỉ là diện, tiêu diệt những người VN yêu nước mới là điểm. Những sự kiện nhìn thấy bằng con mắt trong các cuộc biểu tình nói lên điều đó. Ở trong nước, chỉ có những người biểu tình tuần hành theo lá cờ máu, hô các khẩu hiệu của cán bộ trà trộn đi kèm, hát những bài ca ca tụng CS. Ai có biểu hiện khác tức thì bị khóa tay, bóp họng, trấn áp, đẩy lên xe cây. Những người này mới thực sụ tham gia biểu tình vì tinh thần chống xâm lược. Biểu tình rõ ràng đã trở thành cái bẫy để thu hút những người chống cộng xuất hiện. Tại hải ngoại, lá cờ máu xuất hiện tràn ngập trong các cuộc biểu tình ngụ ý là chế độ việt gian cộng sản cũng quyết tâm chống Tầu, nhưng thực chất là để lấn át hầu đi đến việc xóa bỏ lá cờ Vàng 3 Sọc Đỏ của đồng bào tỵ nạn. Đó mới là mục đích chính và tối hậu của việt gian cộng sản. Trò chơi này là sách lược lấn đất dành dân của việt gian cộng sản. Nguyên tắc của trò chơi là lá cờ máu cắm ở nơi nào có người Việt cư ngụ, người Việt nơi đó là thần dân của chế độ. Cuộc chiến tranh hiện nay giữa hai phe người Việt không phải bằng súng đạn như xưa, mà là bằng lá cờ, nên có thể gọi là cuộc chiến của những lá cờ. Cắm được lá cờ máu trên các cộng đồng tỵ nạn là coi như kết thúc được công cuộc bình định từ sau ngày 30-4-1975. Nếu việc thành, người Việt Nam tỵ nạn sẽ được goị là Việt kiều. Mọi tầng lớp theo nghề nghiệp hoặc tuổi tác sẽ được đoàn ngũ hoá thành hội, thành đoàn để sinh hoạt. Các chi bộ và tổ đảng sẽ được thành lập để chỉ đạo các cộng đồng. Những người còn mang tư tưởng chống cộng sẽ phải rút vào cuộc sống của loài sò, ốc quanh quẩn trong các khe, hốc đá. Lúc đó việt gian cộng sản kể như là đã toàn thắng. Chúng tha hồ ăn ngon, ngủ yên.

Từ trước tới nay, chưa bao giờ việt gian cộng sản cắm được lá cờ máu lên giữa cộng đồng tỵ nạn. Nhưng sau cuộc biểu tình ở trong nước ngày 5-6 đến nay, việc này xem ra chúng đã khá thành công. Lá cờ máu bay thoải mái trên nhiều Website của người tỵ nạn, xuất hiện trong nhiều cuộc xuống đường trên đường phố nơi người tỵ nạn cư ngụ. Nếu truy nguyên nhân, thì lý do một phần là vì tinh thần chống cộng của người tỵ nạn đã hầu như cạn kiệt mất rồi. Một phần khác là do bọn trở cờ, bọn tay sai, và bè lũ hòa hợp hòa giải hỗ trợ. Không phải chúng hành động vô ý thức, mà có chủ ý. Chúng tự nguyện đứng vào hàng ngũ với việt gian cộng sản để chống Trung cộng vì cho rằng việt gian cộng sản diễn vở tuồng chống Trung cộng thật hay. Chủ trương của chúng, miễn là chống Trung cộng thì lá cờ nào cũng OK, dù là lá cờ máu, và lá cờ này đứng ra lãnh đạo công cuộc cũng tốt thôi. Chúng làm chính trị nên đã biết và biết rất rõ ràng, nhưng chúng không ke (care), lá cờ máu biểu tượng cho một chế độ từ bản chất là tay sai ngoại bang và bán nước. Vì thế lá cờ máu chính là biểu tượng của tinh thần bán nước. Một biểu tượng bán nước không thể đồng thời là yêu nước được. Bây giờ chúng suy tôn lá cờ bán nước lên làm minh chủ cho công cuộc chống xâm lược thì thật là thậm khôi hài và vô lý. Nhưng chúng không ke. Trong khi chúng biết rõ lá cờ Vàng là biểu tượng của tự do và những giá trị cao quí. Nó đã có thành tích hơn nửa thế kỷ chống CS miền Bắc xâm lược, và đã lập thành tích chống Tầu cộng chiếm đảo Hoàng Sa năm 1974. Những kẻ đó đã một thời nương thân dưới lá cờ này, nhưng chúng không quan tâm và cố tình quên. Công cuộc chống Đại Hán xâm lược của Dân Tộc VN đang là một thảm kịch và còn là một thảm họa.

Tóm tắt dòng suy nghĩ

Người viết tự nhận rằng cái tiêu đề của bài có vẻ tào lao nên có lẽ làm bạn đọc ngứa mắt. Vì thế nên sẽ không có kết luận nào cho cái sự tào lao của mình. Thay vào đó người viết xin có vài câu thơ con cóc để kết thúc. Thơ trái vần, chẳng niêm, cũng chẳng vận, xin quí bạn đọc đừng cười chê:
    Một bịp! Một bịp! Lại một bịp!
    Nhắn này lũ chó chuyên ăn kít.
    Theo voi dễ còn bã mía ăn
    Bám Hồ chỉ có mà hửi địt.
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


Tuesday, July 5, 2011

Những bài học Lịch sử đắt giá chưa thuộc - Nguyễn Trung

Nguyễn Trung
    "Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải.

    Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn.
    Tức là họ không tôn trọng biên giới quy ước.
    Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp.
    Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta.
    Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích.

    Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn:

    "Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác".
    Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu."
    Lời của Vua Trần Nhân Tông (1258-1308)

    “Ta phải giữ gìn cho cẩn thận, đừng dễ ai lấy mất 1 phân núi, 1 tấc sông do vua Thái Tổ để lại.” Lời của Vua Lê Thánh Tông (1442-1497)
Trên đây là những lời vàng ngọc liên quan đến chủ quyền và lãnh thổ quốc gia, trước mưu đồ bành trướng của người láng giềng đến từ phương Bắc, của hai vị Vua nổi tiếng trong lịch sử nước nhà. Không có gì là quá đáng nếu xem đó là những bài học lịch sử đáng giá ngàn vàng trong vấn đề chủ quyền và lãnh thổ của đất nước. Tiếc thay, lịch sử luôn lặp lại với những người không thuộc lịch sử.

Và Đảng Cộng Sản Việt Nam mà người đại diện là cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng là một trong những người không thuộc những bài học lịch sử mà Tiền nhân đã để lại.

Ngày 14 tháng 9 năm 1958, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký Công hàm gởi người đồng nhiệm của mình là Chu Ân Lai để ghi nhận và tán thành “tuyên bố với quốc tế về quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Hoa Lục”!. Nội dung của bức Công hàm do Thủ tướng việt gian cộng sản Phạm Văn Đồng ký như sau.

Gần đây, nhiều học giả của Việt Nam đã bỏ ra nhiều thời gian và công sức để chứng minh rằng bức Công hàm trên đây của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị khi phía Trung Quốc dùng bức Công hàm trên đây như một bằng chứng là Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa vào năm 1958. Dù chúng tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm trên đây của nhiều học giả Việt Nam trong và ngoài nước nhưng chúng tôi thấy cần phải trình bày thêm những điểm sau đây để chúng ta có thể đánh giá vấn đề này một cách thấu đáo.

Thứ nhất: Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Chu Ân Lai, Thủ tướng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công khai tuyên bố với quốc tế về quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Hoa Lục, có đính kèm bản đồ về đường ranh giới lãnh hải, trong đó bao gồm quần đảo Hoàng Sa. (1)

Như vậy, rõ ràng là một điều bất cập khi cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký Công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 bởi “Thủ tướng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công khai tuyên bố với quốc tế về quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Hoa Lục, có đính kèm bản đồ về đường ranh giới lãnh hải, trong đó bao gồm quần đảo Hoàng Sa”. Có nghĩa là phía Trung Quốc đã có gởi hình ảnh để làm bằng chứng “đường ranh giới lãnh hải, trong đó bao gồm quần đảo Hoàng Sa” mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng vẫn đặt bút ký Công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 để “ghi nhận và tán thành” tuyên bố của Trung Quốc thì rõ ràng là phía Việt Nam đã tự buột dây thòng lọng vào cổ mình.

Thứ hai: Là Thủ tướng của một nước thì không thể ký Công hàm một cách giỡn chơi được. Nhất là Công hàm liên quan đến chủ quyền và lãnh hải của quốc gia cũng như đối ngoại với lân bang hay bạn bè trên thế giới. Có phải là lố bịch hay không khi mà đảng cầm quyền vẫn tồn tại, thể chế lãnh đạo vẫn tồn tại nhưng lại cho rằng Công hàm ngoại giao của người tiền nhiệm không có giá trị pháp lý. Nói như vậy thì có khác nào tự vả vào mặt mình?

Thứ ba: Ngày 19 tháng 1 năm 1974, Trung Quốc đã đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa từ trong tay của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Khi đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà Thủ tướng việt gian cộng sản Phạm Văn Đồng vẫn đang làm Thủ tướng có gởi Công hàm để phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền và lãnh hải của Việt Nam hay không? Nếu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có gởi Công hàm để phản đối hành động xâm lược này của Trung Quốc thì đương nhiên quần đảo Hoàng Sa trực thuộc chủ quyền của Việt Nam. Còn nếu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có phản đối hành động xâm lược này của Trung Quốc thì đã đồng nghĩa rằng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không coi trọng chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa. Dù lúc đó Trung Quốc là đồng minh của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng như giúp đỡ súng đạn cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng cũng không thể nào dùng chủ quyền lãnh hải và biển đảo của đất nước để trao đổi, thỏa hiệp. Dù là chế độ nào, dù cho ở thời điểm nào, một khi dùng một tấc đất của Tổ tiên để lại rồi trao đổi với ngoại bang thì vẫn là hành động bán nước cần lên án.

Thứ tư: Đảng Cộng Sản là đảng cầm quyền mà thông qua Thủ tướng việt gian cộng sản Phạm Văn Đồng đã ký Công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 và đảng cầm quyền hiện nay tại Việt Nam vẫn là một đảng Cộng Sản. Tính đến nay là đã có 6 người giữ chức Thủ tướng sau Phạm Văn Đồng. Như vậy, đã có vị Thủ tướng nào của Việt Nam đã lên tiếng nói rằng Công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 được ký bởi Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý hay chưa? Nếu chưa có vị nào đưa ra tuyên bố này thì hiển nhiên là Công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 được ký bởi Phạm Văn Đồng vẫn còn có giá trị.

Có lẽ bài học lịch sử “Công hàm 1958” là một bài học đắt giá mà lãnh đạo đảng CSVN phải ghi nhớ và nằm lòng để lấy đó làm kim chỉ nam trong quan hệ đối ngoại với Trung Quốc. Ngoài ra, cũng cần kể thêm bài học “mối nối đường xe lửa” của Trung Quốc để thấy rõ âm mưu bành trướng để lấn đất, cướp đất của Việt Nam chúng ta. Thế nhưng, lãnh đạo của đảng CSVN không bao giờ ghi nhớ những bài học xương máu. Để rồi Việt Nam lại mắc mưu thâm độc của Trung Quốc và lịch sử lại tiếp tục lặp lại.

[….. Những biến động lớn trong tình hình thế giới bên ngoài lúc này đã tác động mạnh mẽ tới suy nghĩ của lãnh đạo ta về phương hướng chiến lược đối ngoại.

Cuộc khủng hoảng chính trị tại nhiều nước theo chế độ XHCN đã bùng nổ từ năm 1989 và đang có chiều hướng lan rộng ra. Tháng 6.89 xảy ra vụ Thiên An Môn ở Trung Quốc. Cũng trong năm 1989, chế độ XHCN ở các nước Đông Âu như CHDC Đức, Ba Lan, Rumani, Hung, Tiệp, Ba Lan đều đã sụp đổ. Đầu tháng 10.89, TBT Nguyễn Văn Linh đi dự kỷ niệm 40 năm Quốc khánh CHDC Đức, khi về đến Hà Nội thì bức tường Berlin đổ, Honecker bị lật. Lãnh tụ Rumani Ceaucescu, người mà khi ở Berlin anh Linh xem ra tâm đầu ý hợp trong việc bàn chuyện tâm huyết cứu vãn sự nghiệp XHCN thế giới đang lâm nguy, vừa chân ướt chân ráo về đến Bucarest thì bị truy bắt. Với “tư duy mới” của Gorbachov, tình hình Liên Xô ngày càng trở nên lộn xộn.

Các "đồng chí" Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ Nguyên còn nhấn vào âm mưu của đế quốc Mỹ sau cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu. TBT có ý kiến: “Việt Nam và Trung Quốc là hai nước XHCN cùng chống âm mưu đế quốc xoá bỏ CNXH, phải cùng chống đế quốc. Trước hết phải phát triển quan hệ giữa 2 nước. Các vấn đề khác giải quyết sau … một Campuchia thân thiện với Trung quốc, thân thiện với Việt Nam là tốt nhất. Trên cơ sở điểm đồng này mà giải quyết vấn đề Campuchia có lợi cho Campuchia … Phương án 4 là tốt. Không để LHQ nhúng tay vào vì LHQ là Mỹ, Thái lan là Mỹ” …] (Hồi ký Trần Quang Cơ, Chương 9)

Khi những quốc gia ở Đông Âu từ bỏ con đường XHCN trong những năm cuối của thập niên 80 của thế kỷ trước, thì Việt Nam đã có một cơ hội ngàn vàng để thoát khỏi vũng lầy lạc hậu và đói nghèo. Thế nhưng, lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai đoạn đó đã bỏ qua cơ hội ngàn vàng này để đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo đói và lạc hậu. Không những vậy, Bộ Chính Trị đã chọn con đường chống đế quốc bằng cách bắt tay với Trung Quốc để tiếp tục con đường xây dựng XHCN.

Hôm nay, sau hơn 20 năm kiên định đi theo con đường XHCN và đã có 4 người đảm nhiệm chức vụ Tổng Bí Thư kể từ thời TBT Nguyễn Văn Linh. Nhưng cho đến ngay lúc này, ông tân TBT Nguyễn Phú Trọng – một nhà lý luận (suông?) xuất sắc của đảng CSVN hiện nay vẫn không thể trả lời cho hơn 85 triệu người Việt Nam biết rằng, không thể nói rõ rằng Việt Nam hiện đang ở đâu trên nấc thang dẫn đến thiên đường bánh vẽ XHCN.

Hôm nay, sau hơn 20 năm kiên định đi theo con đường kinh tế thị trường định hướng XHCN, kim ngạch xuất cảng của Việt Nam vẫn phụ thuộc vào xuất cảng thủy hải sản, lúa gạo, và tài nguyên thô là chính. Hôm nay, sau hơn 20 năm kiên định đi theo con đường XHCN, nền giáo dục nước nhà đã đi “đúng hướng” với những chỉ tiêu như học sinh cấp trung học thi đậu tốt nghiệp từ 98% đến 100%. Lãnh đạo của Bộ Giáo dục có thể tự hào vì Việt Nam đã có những trường đại học được xếp thứ hạng cao trong một trang mạng “vui là chính” nào đó. Thế nhưng, Việt Nam luôn thiếu nguốn nhân lực đảm trách các ngành sản xuất chế tạo công nghiệp cao mà những công ty kỹ thuật hàng đầu như Intel tìm kiếm.

Hôm nay, sau hơn 20 năm kiên định đi theo con đường XHCN, Việt Nam đã có những công trình hạ tầng cơ sở hoành tráng và hiện đại. Thế nhưng, những công trình hoàng tráng và hiện đại này có thể bị sụt lún hay xuống cấp trầm trọng trước khi được đưa vào sử dụng bởi do thời tiết. Hoặc là những công trình hoành tráng có thể trở thành sông sau một cơn mưa lớn. (2)

Hôm nay, sau hơn 20 năm kiên định đi theo con đường XHCN, giai cấp công nhân – giai cấp tiên phong của chế độ được làm việc trong những điều kiện tồi tệ và bị bóc lột đến tận xương tủy. Những người công nhân – giai cấp tiên phong của chế độ được sống và làm việc trong những môi trường không khác gì những giai cấp công nhân Âu Mỹ đã từng trải qua trong khoảng thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.

Hôm nay, sau hơn 20 năm kiên định đi theo con đường XHCN, Việt Nam đã nhận được rất nhiều hỗ trợ từ các quốc gia tiên tiến Âu Mỹ để xây dựng hệ thống Tư pháp được tốt hơn. Thế nhưng, thế giới biết đến Việt Nam không phải vì Việt Nam có một nền Tư pháp văn minh hiện đại mà thế giới biết đến Việt Nam qua những phiên tòa “bịt miệng” cũng như phiên tòa bắt đầu bằng “2 bao cao su”.

Hôm nay, sau hơn 20 năm kiên định đi theo con đường XHCN, sân golf mọc lên khắp nơi để phục vụ những người lắm tiền nhiều của. Bên cạnh đó là người dân bị đẩy vào con đường cùng bởi mất ruộng, mất đất để làm kế sinh nhai. Chúng ta có thể thấy những khu biệt thự triệu đô bị bỏ hoang nhưng cũng không thiếu cảnh người dân không có mảnh đất cắm dùi. (3)

Hôm nay, sau hơn 20 năm kiên định đi theo con đường XHCN, tuy giới lãnh đạo CSVN không thể cho hơn 85 triệu người dân biết được Việt Nam đang ở đâu trên con đường tiến lên XHCN, nhưng hơn 85 triệu người Việt hiện nay có thể biết được, thấy được xã hội Việt Nam ngày nay đang đầy rẫy những bất ổn bởi sự quản lý yếu kém, tham nhũng, và tất nhiên là không thể không kể đến “một bầy sâu” như lời của ông Bí thư Thường trực Trương Tấn Sang đã nói cách đây không lâu.

Và tệ hại hơn, việc bắt tay với Trung Quốc để tiếp tục con đường xây dựng XHCN vào năm 1990 đã khiến Việt Nam lún sâu vào những cạm bẫy của Trung Quốc. Chúng tôi sẽ trình bày những vấn đề này trong một chủ đề mới với tựa đề “Tư duy và chiến lược Đà điểu”. Kính mời quý độc giả đón đọc kỳ tới.

Nguyễn Trung

(1) http://www.thuvienphapluat.vn/Default.aspx?CT=NW&NID=5586
(2) http://www.dothi.net/news/tin-tuc/doi-song-do-thi/2011/06/3b9b029a/
(3) http://phapluattp.vn/2011021310440350p0c1085/bo-hoang-biet-thu-trieu-do.htm