Tuesday, May 24, 2011

Ngàn năm bia miệng - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Nghe đâu ở nam Cali, mợ xướng ca Khánh Ly và một nhóm trẻ nào đó đang sắp sửa làm lễ giỗ cho Trịnh Công Sơn (TCS). Buổi lễ là một nhạc hội hát nhạc của họ Trịnh. Có bán vé thu tiền. Nếu TCS dưới âm phủ còn sáng tác, chắc anh ta sẽ cao hứng để viết vào bản nhạc của mình “Bài Ca Dành Cho Những Xác Người” thêm những lời lâm ly bi đát sau đây: “Chiều đi qua Quận Cam, hát trên thân xác mình. Ta đã thúi, ta đã thúi, sao bây giờ người ta còn u mê mù quáng? Chiều đi qua Quận Cam hát trên thân xác mình, ta đã thúi, ta đã thúi, ta bây chừ thân chương xình như xác Minh râu …”

Từ nhiều sự kiện xẩy ra cùng một lúc hiện nay, chúng ta mới nhận ra rằng chuyện có nhiều gia đình đem thân làm tôi mọi cho CS là một hiện tượng di truyền từ đời nọ sang đời kia, chứ chẳng phải là ngẫu nhiên. Miền nam Cali, người chủ xướng tôn vinh TCS nghe đâu là con trai của Trịnh Cung (?). Còn ở bắc Cali, tên quậy giấu mặt vụ Little Saigon là chồng của Madison Nguyễn. Tên này là con trai của Đoàn Văn Toại. Đoàn Văn Toại và Trịnh Cung là ai thì dân tỵ nạn hẳn không ai mà không biết. Các trường hợp bố con Nguyễn Cao Kỳ và Phạm Duy không là những yếu tố chứng minh giả thuyết di truyền kia đó sao? Bố là Việt gian, muốn xem con có là Việt gian không thì dễ thôi. Thử DNA là xong ngay. Giá có nhà khoa học nào bỏ công ra nghiên cứu, biết đâu chẳng tìm ra được loại Gene Việt Gian này để từ đó tìm ra phương pháp phát giác và phòng ngừa Việt gian trong cộng đồng thì may cho người tỵ nạn mình biết mấy. Nhưng cũng còn phải nhờ vào hồng phúc của tổ tiên và các đấng anh hùng liệt nữ.

Về cái anh chàng nhạc sĩ họ Trịnh, tôi đã viết rồi, cách đây cũng khá lâu. Nay muốn viết thêm chút nữa nhân cái biến cố đang gây sóng gió này.

TCS, người nhạc sĩ có chút ít tài năng, chết cách đây đã 7 năm. Người ta cứ tưởng rằng anh ta chết cũng giống như chó chết là hết chuyện. Nhưng không, bọn phỉ quyền Hànội, kẻ đã lợi dụng tối đa cái tài mọn của Sơn lúc anh ta còn sống, lại manh tâm dựng dậy cái xác chết của anh ta để quậy phá, khuấy đảo sự an bình của cộng đồng những người Việt Nam tỵ nạn chúng ta, mặc dầu anh ta chết, và đã chết 7 năm nay rồi. Kẻ có công với bọn Việt gian CS, chúng nhớ ơn, tưởng niệm theo cái lý ăn-quả-nhớ-kẻ-trồng-cây là điều bình thường. Người tỵ nạn không ke (care). Nhưng những nạn nhân của sự phản bội, những kẻ tự xưng là tỵ nạn CS dựng dậy cái thây ma của kẻ đã đâm sau lưng mình để vinh danh, để nhớ ơn mới là điều thật khó hiểu, và cũng khó chịu nữa. Có phải tất cả chúng ta sắp trở thành những kẻ “người chết 2 lần” (lời TCS trong bài Đại Bác Ru Đêm) bởi những thứ “Mỵ Châu” thời đại đang lẩn quất trong hàng ngũ chúng ta?

Người ta tổ chức giỗ chạp để tưởng nhớ người chết trong phạm vi gia đình, giữa những người thân thuộc hay bè bạn. Người còn sống thường chỉ vinh danh hay ca tụng một người đã chết một cách công khai ngoài xã hội khi người này: một là sau khi từ giã cõi đời, đã để lại công lao to lớn đối với một dân tộc, hay cho cả nhân loại; hai là đã nêu gương sáng chói về nhân cách hay đạo đức, xứng đáng cho người đời sau bắt chước và noi theo; và ba là có để lại một công trình nào đó về văn học, nghệ thuật, hay khoa học đem lại lợi ích cho xã hội. Nếu người thân hay bạn bè làm giỗ TCS trong phạm vi gia đình thì chẳng nói làm gì. Nhưng người ta làm công khai và lôi kéo cộng đồng tham dự là chuyện cần phải lên tiếng. Xét trên cả ba tiêu chuẩn, Trịnh Công Sơn có cái gì để lại đáng cho người Việt Nam tỵ nạn CS phải vinh danh và ca tụng một cách công khai và rình rang như thế?

Không phải bây giờ, mà ngay khi TCS vừa chết, cái chết của anh ta làm nổi lên không biết bao nhiêu dư luận khen chê. Lời khen không phải không có, mà tiếng chê lại càng không ít. Người chê lên án TCS là một tên phản bội, một tay CS nằm vùng, một con người tham sinh úy tử, ích kỷ, và hèn nhát. Có người cho rằng cái chết của TCS là một sự đền tội xứng đáng. Có người khác còn tiên đoán, TCS chết, nhạc của anh ta cũng sẽ chết theo. Còn những người khen đánh giá TCS là một nhạc sĩ thiên tài. Anh ta là một người yêu nước. Người khen, để biện hộ cho những cáo buộc của dư luận, cho rằng TCS đã phải đi giữa hai lằn đạn, ý nói anh ta là nạn nhân của cả hai phe Quốc cộng. Nhận định này đưa ra luận chứng rằng TCS cũng đã từng bị đầy ải tại các công, nông trường của CS.

Dư luận chê TCS nhận định và đánh giá anh ta như nói trên không sai. TCS là một thanh niên trốn lính ai cũng biết. Hành vi đó cho thấy anh ta là một con người hèn nhát, ích kỷ, và vô trách nhiệm. Trong lúc trốn lính, TCS còn dựa vào sự bao che của một vài giới chức quen biết có thẩm quyền trong quân đội để viết nhạc, rong ruổi đây đó, tụ tập giới trẻ hát hò chống chiến tranh, xuyên tạc và chống báng công cuộc chiến đấu tự vệ của quân dân miền Nam, ca tụng và cổ võ bọn xâm lược miền Bắc. Đó là một hành vi phản bội. Như thế, TCS bị kết án là phản bội thì cũng đúng thôi. Nếu anh ta không núp dưới sự che chở của người khác mà hành động đi ngược lại quyền lợi của Tổ Quốc thì tư cách của anh ta còn có thể biện minh được. Như thế có thể coi anh ta là một con người có lập trường và có bản lãnh. Nhưng đáng tiếc bản chất con người TCS tự nó đã là hèn nhát và phản bội rồi.

Có nhiều tác giả không nhận định và đánh gía TCS trên bình diện văn học thuần tuý, mà chỉ phê phán dưới khía cạnh chính trị qua cuộc sống và các ca khúc anh ta viết về cuộc chiến. Có nghĩa là những người đó chỉ cân nhắc và đánh giá TCS có công hay có tội đối với Quốc Gia, Dân Tộc, mà không phê bình về mặt nghệ thuật. Cái đó là một thiếu sót, bởi vì những người không biết gì về âm nhạc sẽ tưởng rằng tính tình TCS có chút nên chê trách thôi, nhưng anh ta là một thiên tài âm nhạc thật. Sự phê phán có phiến diện thật đấy, nhưng cũng dễ hiểu thôi, vì nhạc của TCS thật sự cũng chẳng có gì đáng giá lắm để nói tới. Nó phần lớn khởi hứng từ chiến tranh, gắn liền với cuộc chiến, và đã gây ảnh hưởng không nhỏ vào việc làm sụp đổ chế độ của miền Nam. Có thể nói một cách không sai là nếu không có chiến tranh thì đã không có nhạc TCS. Và ngược lại, TCS cũng đã không được nổi tiếng nếu không có chiến tranh. Điều mà dư luận phê phán mạnh mẽ nhất vẫn là TCS là một nhạc sĩ phản chiến. Từ phản chiến đi đến phản bội.

Trong sáng tác, TCS đã viết ra rất nhiều lời ca có tính cách kết án chiến tranh một chiều. Ta hãy nghe TCS hát: "Đại bác qua đây đánh thức mẹ dậy, đại bác qua đây con thơ buồn tủi ..... Từng chuyến bay dêm con thơ dật mình, hầm trú tan hoang, ôi da thịt vàng từng đêm soi sáng lạ mắt quê hương. Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng, hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng, cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn...." (bài Đại Bác Ru Đêm). Đây rõ ràng là những lời kết án nhắm vào Chính Quyền VNCH và đồng minh Mỹ. Đại bác qua đây. Từ đâu qua? Hàng vạn tấn bom trút xuống. Từ đâu trút xuống? Chính câu hỏi đã là một sự trả lời rồi. Sao không thấy TCS than khóc những cái chết do đạn pháo từ rừng bay đến, hoặc do những trái mìn của những kẻ từ bưng biền ôm ra? Còn nhiều và rất nhiều những câu hát như thế rải rác trong hàng trăm ca khúc mà TCS đã viết ra. Trong khi TCS khóc "từng vùng thịt xương có mẹ có em " (bài Đại Bác Ru Đêm), và tủi phận cho những "người già co ro buồn nghe tiếng nổ, em bé lõa lồ khóc tuổi thơ đi " (bài Người Già Em Bé), thì anh ta lại bỏ quên, không nhỏ được lấy một giọt nước mắt nào cho hàng ngàn nạn nhân vô tội bị CS giết hại tại Huế, nơi quê hương của chính anh ta.

Từ chỗ chống chiến tranh một chiều như thế, TCS đã trở thành một con người phản bội. Anh ta đã phản bội lại máu xương của những người đã gục ngã, hy sinh để bảo vệ cho mảnh đất mà anh đang sống, và được sống an bình. TCS có phải là VC hay không thì chuyện này chưa có bằng chứng xác đáng để kết luận. Thiển nghĩ, có lẽ TCS không phải là một dảng viên CS. Nhưng một điều có thể khẳng định, TCS là một công cụ phục vụ cho bọn xâm lược miền Bắc, và tự nguyện để cho việt gian cộng sản lợi dụng.

Có người cho rằng Cái chết của TCS là một sự đền tội xứng đáng. Chúng ta nên thông cảm cho những nạn nhân của CS mà sự uất hận đã lên đến cực điểm. Chẳng nên bắt lỗi hoặc trách cứ họ. Tuy nhiên phải nhìn nhận rằng sự kết án đó có phần hơi hồ đồ. Cho rằng TCS đã gây tội ác đối với chúng ta, và anh ta chết là xứng đáng để đền tội. Vậy chúng ta những nạn nhân của tội ác kia, mai kia chúng ta chết, không lẽ chúng ta cũng phải đền tội sao? Không được. Chết là một định luật chung cho mọi ngườị Ai cũng phải chết, và loài nào rồi cũng đi đến cái chết. Do đó không thể nói cái chết của TCS là sự đền tội. Sự đền tội của TCS là sự khinh bỉ của dư luận khi anh ta chết.

Còn về những lời khen? Lời khen ngợi lớn nhất cho TCS là lời mợ Khánh Ly ngôn rằng TCS là một người yêu nước. Chữ NƯỚC ở dây không hiểu là thứ nước nào, mợ KL không cho biết, Nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hay là nước Việt Nam Cộng Hòa? Nếu mợ KL cho rằng TCS yêu nước VN xã hội chủ nghĩa, chúng ta khen mợ Khánh Ly nói đúng. Còn nếu bảo rằng TCS yêu nước VNCH thì chuyện này cần phải làm cho sáng tỏ. Sự thực là như thế nào cũng dễ tìm ra thôi. Chúng ta hãy nghe mợ KL hát: "Hãy sống dùm tôi, hãy nói dùm tôi, hãy thở dùm tôị Thịt da này dành cho thù hận, cho bạo cường, cho tham vọng của một lũ điên ..." (bài Hãy Sống Dùm Tôi). Xin thử hỏi cái lũ điên tham vọng đây là ai, bọn phỉ quyền Hanoi hay Chính Quyền VNCH? Nếu lũ điên thù hận, bạo cường, và tham vọng kia là bọn phỉ quyền Hanoi, thì tại sao ngày 30-4-75, TCS lại lên đài phát thanh SG hát đón bọn này vào thành phố? Không lẽ TCS ngu đến độ vui mừng và hãnh diện đi đón lũ điên vào Saigon. Như vậy lũ điên tham vọng, thù hận, và bạo cường kia tất nhiên phải là Chính Quyền VNCH. Thật là oan nghiệt, kẻ xâm lược thì được TCS hân hoan đón chào là người "anh em ta về" (bài Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói), còn những người chiến đấu để tự vệ lại bị TCS gọi là lũ điên tham vọng, bạo cường, và thù hận. Mợ Khánh Ly cũng nên hiểu như thế chứ. Qua bài hát này, TCS đã nặng nề kết án cả chính thể VNCH của miền Nam, nơi anh ta trú thân an toàn để đi ca hát. Mợ KL tôn vinh TCS là một người yêu nước thì phải hiểu rằng nước đây chính là nươc VN xã hội chủ nghĩa thì mới là chính xác. Với sự tôn vinh này, người tỵ nạn CS Khánh Ly đã nhục mạ cả Chính Quyền và tập thể QLVNCH. Còn gì đau đớn và mỉa mai hơn, bởi vì miền Nam là nơi mợ KL sinh ra, lớn lên, được hưởng giáo dục đầy đủ, và đưa mợ lên đài vinh quang trong nghề hát xướng. Lại nữa, nếu TCS yêu nước VNCH, thì tại sao ngày 30-4-75 anh ta lên đài phát thanh reo hò ca hát: "mặt đất bao la anh em ta về gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng chơi rồng bàn tay ta nắm nối chờ một ngày VN " (bài Nối Vòng Tay Lớn). Anh em với TCS về Saigon vào ngày 30-4-75 là ai mà làm cho anh ta vui mừng đến thế. Và, những người anh em này từ đâu về? Hỏi tức là trả lời rồi vậy. Mợ KL ca tụng TCS là người yêu nước. Nước ở đây như thế phải hiểu là nước VNCS. Không thể hiểu khác được. Mợ KL là một người tỵ nạn CS lại ca tụng tên phản quốc, công cụ tuyên truyền cho VGCS, là người yêu nước. Nước đó là nước Việt Nam CS. Sự thật đã được chứng minh. Vậy thì mợ KL thật ra là ai đây?

Cho rằng TCS trong cuộc chiến đã phải đi giữa hai lằn đạn cũng chỉ là lời biện hộ láo khoét. Thật vậy, chỉ nguyên một việc TCS lên đài SG hát nối-vòng-tay-lớn để mừng chiến thắng của VC và đón chúng vào thành như đã nói trên đã quá đủ để nói lên đường đi, chỗ đứng của TCS rồi. Không cần thiết phải dài dòng thêm. TCS rõ ràng đã đứng hẳn về một một bên, bên VGCS, chứ chẳng phải anh ta đứng ở giữa để bị lãnh đạn của cả hai bên. Miền Nam trước 30-4-75, có ai dám cho TCS ăn đạn không? Chắc chắn không. Hơn thế nữa, anh ta không phải là đã nhận được biết bao nhiêu ân huê và ưu đãi của người miền Nam đấy sao? Việc chọn cho mình một chỗ đứng và những sáng tác của TCS đã làm cho anh ta trở thành người có công lớn đối với CS. Sự đãi ngộ cuả CS đối với TCS khi anh ta chết đã nói lên điều đó. Thiếu gì người đã từng lập công hãn mã đối với CS, khi chết đi đâu có được cái phước đức như TCS. Sự thật đã qúa rõ ràng. Tất cả mọi lời lẽ được tung ra để biện hộ và chạy tội cho TCS đều là giả trá, hoặc là vì thiếu hiểu biết, hoặc là có dụng ý.

Cũng trong luận điệu chống đỡ cho TCS, có người nói rằng đã một thời TCS bị CS đầy đi nông trường. Nói như vậy tỏ ra họ chẳng hiểu biết một tý gì về CS. Dưới chế dộ CS, nhất là vào thời Lê Duẫn, để tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, tất cả mọi người (dĩ nhiên trừ bọn đầu sỏ ở Hanoi) đều phải tham gia vào sản xuất. Các văn nghệ sĩ được điều động đến các công nông trường tập thể vừa để thực tế (tiếng của VC) lao động, vừa để sáng tác hầu thúc đẩy tăng năng xuất. TCS có đi công, nông trường không phải là một biệt lệ, càng không phải là một sự đầy ải. Người nhạc sĩ sáng tác bản Tiếng Chầy Trên Sóc Bambo đã phải nằm ở một sóc thượng hơn nửa năm trời để viết ra bài hát. Và người viết ra bài “Tiếng Đàn Tà Lư” cũng phải vậy nữa.

TCS sống tại miền Nam, làm việc (dậy học) trong chế độ Cộng Hòa, được nhiều người nắm giữ quyền hành lúc đó che chở để khỏi phải ra trận, tức là đã hưởng những ơn huệ hơn người. Nhưng anh ta vẫn đi theo CS, và cuối cùng hoan hô, đón rưóc bọn xâm lược vào Saigon. Như thế TCS đã hiển nhiên là một tên phản bội người Việt Nam Quốc Gia. Thế thì tại sao những kẻ đã bị TCS phản bội, hiện nay lại muốn vinh danh cho TCS? Lý do gì? Xét cho cùng thì cái lý do duy nhất chỉ là để thi hành Nghị Quết 36/CP của bọn VGCS mà thôi. Bọn phỉ quyền Hànội tung ra NQ36 một cách công khai, không hề úp mở. Thi hành ở đâu trong những lãnh vực sinh hoạt nào, chúng đã ra chỉ thị rõ ràng cho các cơ quan thừa hành của chúng. Tài trợ bao nhiêu, chúng cũng không thèm giấu đút. Chỉ có kẻ đứng ra công khai thi hành Nghị Quyết tại các môi trường sinh hoạt thì chúng không tiết lộ. Vấn đề này, những người có kinh nghiệm về CS, các sĩ quan cảnh sát đặc biệt, và sĩ quan quân đội làm trong ngành tình báo hoặc phản gián của QLVNCH thì biết rành và biết rõ. Cho nên, chẳng hạn như những người đi nghe ca sĩ trong nước ra ngoài này hát rồi lên giọng “có thấy tuyên truyền gì đâu” thì thật là ngây thơ và ngu xuẩn. Nên biết rằng VGCS không bao giờ triển khai và thi hành NQ36 tại hải ngoại dưới bảng hiệu công sản, mà luôn luôn bọc nó bằng cái vỏ Quốc Gia, hay ít nữa là một cái gì đó vô thưởng vô phạt để dễ qua mặt người tỵ nạn.

Thực ra, VGCS chọn chủ đề vinh danh TCS xem ra cũng là chuyện bất đắc dĩ, bởi vì ở hải ngoại này, TCS, về mặt nhân cách và đạo đức, đã là một người mất hết cảm tình của người đồng hương rồi. Hơn nữa, nhạc của anh ta cũng chẳng còn mấy ăn khách và đang đi vào quên lãng. Nói thế không phải là cố tình hạ giá nhạc TCS. Người miền Nam rất bao dung, cỏi mở, và ít có câu nệ, cả về lối sống lẫn trong thưởng thức văn nghệ. Vì những đức tính này, ngay trong thời chiến tranh, người ta có thể khá dễ dàng tìm đọc những thông tin của phía CS, hát và trình diễn công khai những bản nhạc của Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Đặng Thế Phong … đọc thơ của Lưu Trọng Lư, Trần Dân, và ngay cả Tố Hữu, Chế Lan Viên … Ở hải ngoại, trừ ra những thứ nhạc, sách báo tuyên truyền bị gạt bỏ, còn những cái hay, cái đẹp nói chung trong sáng tác vẫn được đón nhận một cách niềm nở. Như thế mới thấy rằng nhạc TCS bị đào thải ở hải ngoại không phải hoàn toàn vì vấn đề đạo đức cá nhân của anh ta, mà vì chính tự bản thân những bản nhạc.

Những sáng tác của TCS xin tạm phân chia làm hai loại: nhạc phản chiến và nhạc tình cảm. Khoảng trên 50% hoặc hơn các sáng tác của Sơn là nhạc phản chiến. Sở dĩ tên tuổi TCS được bốc lên là do loại nhạc này. Loại nhạc phản chiến của TCS đều là dân ca, rất đơn điệu (monotone) và cũng tầm thường thôi. Trong thời còn chiến tranh và ngay tại miền Nam, từ thành thị tới thôn quê, trong khắp hang cùng ngõ hẻm, đâu đâu cũng vang tiếng nhạc phản chiến của TCS. Đáng tiếc là loại nhạc dùng để tuyên truyền này được viết để phục vụ cho cuộc xâm lược của CS, nên nó cũng buộc phải chết theo ngay khi nạn nhân của xâm lược (VNCH) đã chết. Điều đáng buồn cho TCS là những sáng tác loại này của anh ta bị cấm hát thời còn chiến tranh ngay trong những khu vực do VC kiểm soát. Nếu TCS không phải là CS, và nếu anh ta còn là một con người có liêm sỉ và biết tự ái thì anh ta đã phải nhận ra cái thân phận nô lệ của mình ngay từ ngày đó.

Còn lại trong số các tác phẩm của TCS là nhạc tình cảm. Đem nhạc tình cảm của TCS so sánh với các nhạc phẩm của các tác giả khác, ta có thể đánh giá giá trị nghệ thuật của anh ta chính xác hơn. Nhạc TCS, lãng mạn không thể bằng cái lãng mạn của Thiên Thai, thơ mộng không qua mặt được Trăng Mờ Bên Suối, gợi cảm không so sánh được với Dư Âm, tình tứ còn thua xa Tiếng Thời Gian, hồn nhiên sao bằng được Sơn Nữ Ca, tha thiết còn dưới bậc của Giọt Mưa Thu, hay Con Thuyền Không Bến, quyến rũ làm sao bằng Ai Về Sông Tương hoặc Thu Quyến Rũ, du dương nhất định phải nhường bước Tiếng Sao Thiên Thai, ray rứt không thể bằng Nhớ Về Hànội, êm đềm dưới hạng của Làng Tôi hoặc Tình Quê Hương. Vân vân và vân vân. Hơn nữa, trong nhạc TCS, người ta không tìm được cái không khí của một gia đình ấm cúng, những hình ảnh quyến luyến như trong Tình Quê Hương hoặc Về Dưới Mái Nhà.

Nhạc TCS còn thua kém nhiều nhạc phẩm khác như thế, vậy mà có kẻ cho rằng TCS là một nhạc sĩ thiên tài. Thật đúng là nói láo. Người đó hoặc không biết gì về âm nhạc, hoặc không biết thưởng thức môn nghệ thật này. Vậy thì người ta vinh danh TCS là vinh danh cái gì? Thật khó mà tìm ra được câu trả lời.

Sự thật, TCS không phải là một nhạc sĩ tài ba như người ta tưởng, mà đúng ra anh ta là một tay phù thủy ngôn ngữ. TCS chỉ giỏi viết lời trong ca nhạc, tức là lời ca mà thôi. Công tâm mà nói, khó có thể phủ nhận TCS là người có tài về nghệ thuật “chế tạo” ngôn từ. Các bài hát của TCS nếu bỏ đi phần lời ca thì bản nhạc sẽ trở thành rẻ tiền ngay. Cho nên nhạc TCS nếu có được coi là hay thì nó hay ở phần lời ca chứ không phải hay vì âm điệu. Chẳng hạn để mô tả về thân phận nhược tiểu của người VN yêu nước, TCS viết: Người con gái VN da vàng, yêu quê hương như yêu đồng lúa chín. Muốn tố cáo Mỹ xâm lược, TCS nhẹ nhàng than thở: Người con gái VN da vàng, yêu quê hương nay đã không còn (bài Ca Dao Mẹ). TCS lên án chiến tranh hủy hoại tương lai dân tộc, anh ta viết: “Khi chiến tranh về đốt lửa quê hương … bom đạn về đêm đêm đốt cháy tương lai” (bài Đại Bác Ru Đêm). TCS nằm tưởng tượng ngày mai của anh ta ra sao rồi lớn tiếng thúc dục bộ đội VC và bọn phản chiến trong thành phố: Ta đã thấy gì trong đêm nay, đèn soi trăm ngọn đèn soi. Mặt đất rung rinh muôn triệu người phá ngục tù đi dựng ngày mới. Rạng đông soi sáng tương lai. Dòng máu anh em đã nhuộm mặt trời cùng xương khô lên tiếng nói, đời sống ấm êm nhân danh con người” (bài Ta Đã Thấy Gì Đêm Nay). TCS trong khi ăn cơn Quốc Gia, uống nước Quốc Gia, hít thở không khí Quốc Gia, thế mà vẫn mong chờ, chờ cho được cái mơ ước: VN thống nhất với những tình thương vô bờ (bài Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói). Ôi cái tình thương vô bờ của CS mà TCS mơ tưởng nó đẹp làm sao như ta đang thấy ngày nay!

Trong những dòng nhạc phản chiến, TCS sử dụng chữ nghĩa thật tài tình. Một câu hát của TCS có thể làm cho một binh sĩ phải buông súng, một em học sinh sẵn sàng xuống đường đốt cờ Mỹ, một cụ già muốn xét lại thái độ chính trị của mình: tại sao phải chống lại những người đi giải phóng quê hương, tại sao lại cam tâm làm nô lệ cho Mỹ v.v. và không thiếu học sinh sinh viên cảm thấy cuộc chiến là phi lý! Lời ca trong dòng nhạc phản chiến của TCS thật dễ sợ.

TCS cũng vẫn tỏ ra là một tay phù thủy chế tạo ngôn ngữ trong những sáng tác tình cảm của anh ta. Những chữ, những lời anh ta sử dụng rất tầm thường, bình dân, tự nhiên, không gò bó, nhưng lại tượng hình, giầu âm thanh và nhạc điệu, và cũng không thiếu cả ánh sáng, hơn nữa rất hàm xúc, mỗi chữ mỗi câu đều hàm chứa ý nghĩa của nó. Chẳng hạn câu: “Trên bước chân em âm thầm lá đổ ….. Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau” (bài Diễm Xưa), hoặc: “Mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn, đong đưa võng buồn …. Mẹ ngồi ru con tiếng hát lênh đênh” (bài Ca Dao Mẹ). Hầu như tất cả mọi lời ca trong nhạc TCS đều sản phẩm phù thủy cả. Tuy nhiên cũng có những câu, hát nhiều lần, hát mãi, người ta vẫn chẳng hiểu gì. Thí dụ: “Mưa vẫn mưa bay trên hàng lá nhỏ, dài tay em mấy thuở mắt xanh xao”. Tuy không hiểu nhưng người ta vẫn phải nhìn nhận cái hay vô hình ẩn hiện trong câu hát. Một lần nữa xin được nhấn mạnh, đó là tính chất phù thủy trong phần lớn các bản nhạc của TCS. Nói tóm lại, nhạc của TCS dù nhạc phản chiến hay nhạc tình cảm đều chỉ nặng giá trị ở lời ca, nhưng không mấy xuất sắc về âm điệu. Một nhạc sĩ có tài là một nhạc sĩ biết dùng âm thanh để nói lên tư tưởng của mình. Dùng lời để nói điều mình muốn nói như TCS sao gọi được là nhạc sĩ tài. Như vậy mà thổi TCS lên thành thiên tài âm nhạc liệu có quá đáng không? Xếp TCS ngồi chung chiếu với những Beethoven, Chopin, Mozart v.v., cái thế giới âm nhạc này sẽ nghĩ như thế nào?

Khi TCS chết, có một số văn nghệ sĩ bạn bè hoặc quen biết với Sơn ở hải ngoại đến nhang khói trước di ảnh của anh ta. Nhiều người bầy tỏ tiếc thương và thổi anh ta lên đến tận tầng mây xanh. Đó là thói quen mặc áo thụng vái nhau của một số văn nghệ sĩ của ta. Nhưng khi thấy VGCS tổ chức ma chay linh đình, và đồng bào tỵ nạn mạnh mẽ lên án anh ta, những người này từ đó tắt tiếng. Việc thương tiếc và trả nghĩa bạn bè là điều nên làm, nhưng không nên vì cảm tình riêng tư mà phủ lên quan tài người chết những tấm áo mà người chết đã không sắm nổi lúc sinh thời. Ngày nay, bọn người rắp tâm vực dậy cái thây ma TCS đã rữa, không phải vì tình cảm liên hệ với TCS, cũng chẳng phải vái cái thây ma TCS để mình được sáng giá lây, mà chỉ là để thi hành NQ36 của VGCS. Chuyện này VGCS không dám ra mặt làm.

Chúng mượn tay thế hệ con cháu của những tên tay sai mang gene di truyền làm thay. Điều đó không có gì lạ. Chỉ là kẻ có công, người có của, ai cũng đều lợi cả. Muốn người đời sau nhớ đến TCS, người ta cần gì phải lập bia khắc chữ, nhạc hội nhạc hè chi cho phí công tốn sức. Nhân dân VN sẽ không bao giờ quên được TCS, sẽ luôn luôn nhớ đến và nói cho nhau nghe cái tên của kẻ nổi tiếng là hèn nhát và phản bội này. Nhân dân VN đã lập bia từ lâu rồi, đây gọi là bia miệng. Bia miệng mới là thứ công cụ ghi nhớ đời đời bền vững của loài người trên mặt đất.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


Saturday, May 21, 2011

We made it: It's May 22 and the world has not ended

    Judgment Day!
    May 21st, 2011

    Past


    Case of poor judgment - US preacher Harold Camping gets it wrong again
THEY spent months warning the world of the apocalypse, some giving away earthly belongings or draining their bank accounts. And so they waited, eagerly or anxiously, for the appointed hour to arrive.

Nothing.

When 6pm came and went at various spots around the globe, and nothing extraordinary emerged. In Australia and New Zealand, early target of the prediction of Armageddon, and across the world, the deadline was greeted with scepticism and humour.

"People are making jokes like there's no tomorrow," was one of the top tweets.

In the US, Keith Bauer - who hopped in his minivan in Maryland and drove his family 4800km to California for the momentous occasion - tried to take it in stride. "I had some scepticism but I was trying to push the scepticism away because I believe in God," he said outside the gated Oakland headquarters of Family Radio International, whose founder, Harold Camping, has been broadcasting the apocalyptic prediction for months.

"I was hoping for it because I think heaven would be a lot better than this earth." But he added, "It's God who leads you, not Harold Camping."

He now plans to hop back in his minivan and begin the cross-country drive back with his wife, young son and another family relative.

The May 21 doomsday message was sent far and wide via broadcasts and websites by Mr Camping, an 89-year-old retired civil engineer who has built a multi-million-dollar nonprofit ministry based on his apocalyptic prediction.

The top trends on Twitter at midday included, at No. 1, #endofworldconfessions, followed by #myraptureplaylist.

Mr Camping's radio stations, TV channels, satellite broadcasts and website are controlled from a humble building sandwiched between an auto shop and a palm reader's business. Family Radio International's message has been broadcast in 61 languages. He has said that his earlier apocalyptic prediction in 1994 didn't come true because of a mathematical error.

"I'm not embarrassed about it. It was just the fact that it was premature," he told The Associated Press last month. But this time, he said, "there is ... no possibility that it will not happen".

Why now?

Mr Camping and his followers believe the beginning of the end will come on May 21, exactly 7000 years since the flood in the biblical story of Noah's Ark.

Mr Camping believed that some 200 million people would be saved, and that those left behind would die in earthquakes, plagues, and other calamities until Earth is consumed by a fireball on October 21.

Christian leaders from across the spectrum widely dismissed the prophecy. One local church was concerned that Mr Camping's followers could slip into a deep depression in the aftermath of nothing.

"The cold, hard reality is going to hit them that they did this, and it was false and they basically emptied out everything to follow a false teacher," a pastor said. "We're not all about doom and gloom. Our message is a message of salvation and of hope."

As the day drew nearer, followers reported that donations grew, allowing Family Radio to spend millions on more than 5000 billboards and 20 recreational vehicles plastered with the doomsday message.

In the Philippines, a big billboard of Family Radio ministry in Manila warned of Judgment Day. Earlier this month, group members there distributed leaflets to motorists and carried placards warning of the end of the world.

Marie Exley, who helped put up apocalypse-themed billboards in Israel, Jordan and Lebanon, said the money helped the nonprofit save as many souls as possible.

She said she and her husband, mother and brother were glued to the television on Friday night waiting for news of an earthquake in the southern hemisphere. When that did not happen, she said fellow believers began reaching out to reassure each other of their faith in the prophecy.

"Some people were saying it was going to be an earthquake at that specific time in New Zealand and be a rolling judgment, but God is keeping us in our place and saying you may know the day but you don't know the hour," she said. "The day is not over, it's just the morning, and we have to endure until the end."

M Camping, who lives a few kilometres from his radio station, was not home to comment on the lack of Rapture.

FIVE OTHER END-OF-WORLD PREDICTIONS:

1. Followers of William Miller believed the world would end on October 22, 1844.

2. The Jehovah's Witness religion has predicted the end of the world in 1914, 1915, 1918, 1920, 1925, 1941, 1975 and 1994.

3. Charles Wesley, founder of the Methodist Church, predicted the world would end in 1794.

4. Famous forecaster Nostradamus predicted doomsday would happen in July 1999.

5. English mystic Joanna Southcott predicted the world would end on October 19, 1814, when she gave birth to the Messiah.


Friday, May 20, 2011

Ngày tận thế rất gần !?

    Apocalypse almost: Rapture has world on tenterhooks

    Judgment Day!
    May 21st, 2011
    And to them it was given that they should not kill them, but that they should be tormented five months: and their torment was as the torment of a scorpion, when he striketh a man. Revelation 9:5

    The End of the World !
    October 21st, 2011
AFP
May 21, 2011, 11:31 am

WASHINGTON (AFP) - Warnings by a US fundamentalist preacher that Saturday is Judgment Day have sent some people into hiding or scrambling to repent, while others are planning parties to wave off good Christians as they are beamed up to heaven.

Activists believing that "Judgement Day" will happen on May 21, spread their word near Manhattan City hall in New York on May 12. With an aging fundamentalist Christian preacher warning that Saturday is Judgment Day, some Americans have been getting ready.
Eighty-nine-year-old tele-evangelist Harold Camping has predicted that at 6:00 pm local time in each of the world's regions the Rapture will happen and good Christians will be beamed up to heaven.

In the light of the prediction, thousands of ethnic Hmong converged on northwestern Dien Bien province a few weeks ago after hearing broadcasts on Camping's global religious broadcasting network, Family Radio, that Jesus was coming on May 21.

The Vietnamese government said some in the huge gathering were calling for a breakaway Hmong kingdom, and disrupted their wait for Christ, sending several hundred fleeing into the forests to hide, a resident told AFP.

But their families are still in the region, waiting for Christ's return, the resident said.

In Ciudad Juarez, one of the hardest hit cities in Mexico's drug wars, huge billboards proclaim that "Christ is coming back on May 21."

According to the authorities, the apocalyptic message hasn't provoked panic or hoarding, but one resident, Rosy Alderete, said she was "worried by the coincidence" that earthquakes have rocked the world in recent months.

Harold Camping, 89, the California evangelical broadcaster who predicts that Judgment Day will come on May 21, 2011, is seen in this still image from video during an interview at Family Stations Inc. offices in Oakland, California May 16, 2011.
Camping's prophecy says the end will be signaled in each region by powerful earthquakes, after which the good will be whisked up to heaven and the not-so-good will suffer through hell on earth until October 21, when God will pull the plug on the planet once and for all.

Britain's The Guardian newspaper called the looming Rapture "the fundamentalist Christian equivalent of the last helicopter out of Saigon," referring to the US pull-out after the long Vietnam war in 1975.

In the United States, where Camping's evangelizing organization is based, some people have been quitting their jobs and hitting the road to urge others to repent before it's too late.

Gregory LeCorps left his job "in a medical facility" weeks ago to take his wife and five young children on the road and warn others that the Rapture is really nigh, the Journal News in New York wrote.

"We're in the final days," he was quoted by the lower Hudson valley newspaper as saying as he handed out leaflets.

LeCorps said he hopes to be on a beach in South Carolina by Saturday, the newspaper said.

A New York couple, Abby Haddad Carson and her husband, Robert Carson, a few years ago stopped saving money to send their kids to college and started going on missions that the world will end on Saturday.

Their children are not only worried about whether or not they will be able to afford to go to college, but also somewhat embarrassed by their parents' actions.

Then, there are those who look on the bright side.

New York City Mayor Bloomberg -- who is Jewish and therefore, according to Camping's prophecy, unlikely to be beamed up to sit alongside Jesus and God in heaven -- said on his weekly radio show on Friday that he would suspend alternate-side parking in New York if the world ends on Saturday.

The much-reviled alternate-side parking rule requires New Yorkers to move their cars from one side of the street to the other to allow street cleaning to be carried out.

And some are cashing in on money-making opportunities.

Craigslist was running tens of thousands of ads from non-believers offering to buy the worldly goods of those who think they're going to heaven, while a group of US atheists has sold hundreds of contracts to rescue people's pets.

A group of Christians, who think Camping's prophecy is bunk, will be tracking the Rapture and posting reports on the Internet each time it doesn't happen.

One of the first places to be hit, according to Camping, would be New Zealand, where 6:00 pm happens at 0600 GMT.

If Camping's prediction doesn't pan out, one idea is gathering steam on Twitter to create an ersatz Rapture.
A tweet suggests laying out old clothing and shoes on pavements and lawns on Saturday to give the impression that someone has indeed been beamed up.

Source: http://au.news.yahoo.com/world/a/-/world/9489973/apocalypse-almost-rapture-has-world-on-tenterhooks/

LẠY ÔNG - Đỗ Thái Nhiên

ĐỗTháiNhiên

“Lạy ông” là hai chữ đầu của câu nói: “Lạy ông tôi ở bụi này”. Trước tòa án, bị can rất thường chối tội. Tuy nhiên, tòa án không xét xử một hồ sơ tội phạm đơn thuần theo lời khai của bị can. Chính những chất vấn từ phía thẩm phán công tố đối với bị can mới dồn bị can rơi vào hoàn cảnh mất khả năng che giấu sự thật trong một vụ án.

Ngày 08 tháng 05 năm 2009, tai thành phố Geneva, Thụy Sĩ, Hội Đồng Nhân Quyền của Liên Hiệp đã nhóm họp với mục đích kiểm điểm vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Phiên họp này được sự tham dự của trên 70 quốc gia thành viên. Trong đó có đại diện của 60 quốc gia đã được phép phát biểu ý kiến. Cuộc kiểm điểm kéo dài 04 tiếng đồng hồ, kể cả 45 phút phụ trội. Ông Phạm Bình Minh, thứ trưởng ngoại giao của CSVN, trưởng phái đoàn Việt Nam, quốc gia đối tượng của kiểm điểm. Đây là một hồ sơ nhân quyền. Hội Đồng Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc là biểu tượng của một tòa án. CSVN là “Nghi can” của tội phạm chà đạp nhân quyền. Các quốc gia “chất vấn CSVN” là biểu tượng của quyền công tố. Sau đây là lời khai của CSVN trước tòa án Nhân Quyền:

“Trình độ nhận thức của bộ phận nhà nước, kể cả trung ương và địa phương về quyền con người còn nhiều hạn chế: không chỉ không nắm được các qui định của luật pháp quốc tế, nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là quốc gia thành viên của các công ước quốc tế về quyền con người, mà đôi khi còn nắm không chắc các qui định của luật pháp và chủ trương chính sách của nhà nước, do vậy có nơi, có lúc còn để xảy ra các vụ việc vi phạm, làm hạn chế và ảnh hưởng đến việc thụ hưởng quyền của người dân”.

Nói ngắn và gọn: CSVN nhìn nhận có vi phạm nhân quyền. Đồng thời đưa ra hai lý do để tự biện hộ:

Một là: giới chức lãnh đạo địa phương cũng như trung ương không hiểu biết đầy đủ luật quốc tế về nhân quyên.

Hai là: nhiều địa phương không nắm vững luật pháp và chính sách của trung ương.

Hai lý do nêu trên nên gom lại thành một lý do duy nhất. Đó là sự ngu dốt luật pháp của nhà cầm quyền CSVN trung ương cũng như địa phương, luật quốc nội cũng như luật quốc tế. Sau khi luật pháp được ban hành theo đúng thủ tục và thời hạn luật định, không ai được phép viện dẫn sự ngu dốt luật pháp để vi pham luật pháp. Đó là một trong những nguyên tắc pháp lý trọng yếu giúp cho luật pháp có giá trị cưởng hành. Phải chăng chế độ Hà Nội không nắm rõ luật pháp đúng như họ đã “tự khai”?. Thực ra luật quốc tế nhân quyền bao gồm Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 1948 cộng với các công ước về quyền dân sự, chính tri; công ước về quyền kinh tế văn hóa xã hội … là những văn bản luật pháp rất minh bạch và đơn giản. CSVN chỉ khai là họ (chính quyền trung ương và địa phương) “Không nắm được các quy định của luật pháp quốc tế” về nhân quyền nhưng tránh không nói chính xác điều nào, khoản nào mà Hà Nội “không nắm rõ”.

Muốn biết Hà Nội vi phạm nhân quyền vì dốt luật hay vì một ly do nào khác chúng ta hãy theo dõi những đối thoại giữa CSVN và các “thẩm phán công tố” trước Hội Đồng Nhân Quyền của LHQ. Ngày 14/05/2009 Hội Đồng Nhân Quyền của LHQ công bố phúc trình về cuộc kiểm điểm vấn đề nhân quyền tại Việt Nam, trong đó có những đối thoại đáng chú ý như sau:

Hoa Kỳ đòi hỏi CSVN hãy công nhận Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và cho phép các chi nhánh của Hòa Hảo và Cao Đài hoạt động. CSVN bác bỏ đề nghị này của Hoa Kỳ. Như vậy, Hà Nội đàn áp quyền tự do tôn giáo vì độc tài chứ không vì “Nắm không chắc” ý nghĩa của quyền tự do tôn giáo qui định trong luật quốc tế nhân quyền. Sức lớn mạnh của tôn giáo tại Việt Nam là một đe dọa trầm trọng đối với chế đô độc tài Hà Nội. Đó là lý do giải thích tai sao ngày 8 tháng 5 năm 2009, trong báo cáo đọc trước Hội Đồng Nhân Quyền Của LHQ, CSVN nhấn mạnh rằng: dân số VN trên 85 triệu người nhưng tín đồ các tôn giáo cộng gộp lai chi đạt con số 20 triệu người.

Canada đòi hỏi CSVN công bố số lượng người bị giam cầm vì lý do an ninh và tin tức về những người này. CSVN bác bỏ đòi hỏi vừa nêu của Canada. Sự thể này cho thấy tại VN còn rất nhiều tù chính trị. Đây là sự tố cáo CSVN đã trắng trợn vi phạm Công ước quốc tế về quyền dân sự chính tri mà Hà Nội đã ký cam kết tôn trọng.

Anh quốc yêu cầu CSVN hãy mở ra những đối thoại giữa nhà cầm quyền và những tổ chức dân sự. Hà Nội bác bỏ yêu cầu vừa nêu. Tổ chức dân sự là những tổ chưc hoàn toàn không có bàn tay chi phối của chính quyền. Tổ chức dân sự là những tổ chức do người dân tự đứng ra thành lập và điều hành nhằm thực hiện một số tác vụ theo đúng đòi hỏi của xã hội. Ngăn cấm sự ra đời cua các tổ chức dân sự chế độ Hà Nội vừa chà đạp quyền tự do lập hội của luật quốc tế nhân quyền vừa tự tố cáo trước công luận CSVN là chế độ độc tài đến độ từ chối tiếp xúc với người dân, từ chối đối thoại với các tổ chức dân sự.

Thụy Sĩ yêu cầu CSVN hãy mời đặc sứ nhân quyền của LHQ vào Việt Nam kiểm tra nhân quyền trên mọi lãnh vực khác nhau. Hà Nội dứt khoát từ chối đề nghị này của Thụy Si. Sự việc kia cho thấy thái độ gian dối của CSVN trước Hội Đồng Nhân Quyền của LHQ ngày 08/05/2009. Thực vậy, một mặt CSVN khai rằng họ vi phạm nhân quyền vì họ “nắm không chằc” luật quốc tế nhân quyền. Mắt khác CSVN lại ngăn cấm đặc phái viên nhân quyền LHQ vào Việt Nam kiểm tra nhân quyền. Kiểm tra tức là hướng dẫn Hà Nội hiểu biết thế nào là nhân quyền trong những vụ việc cụ thể. Rõ ràng là Hà Nội khai một đường, hành động một nẻo.

Áo quốc đề nghị Hà Nội cho biết số lượng trại tù và hoàn cảnh pháp lý của mỗi tù nhân. CSVN bác bỏ dề nghị của Áo Quốc. Hà Nội bao giờ cũng lớn tiếng khẳng định Việt Nam không có tù chính tri, tai sao trước Hội Đồng Nhân Quyền của LHQ, CSVN lai che dấu tình trạng bắt bớ giam cam dưới chế độ CS?

Điều 19 của Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Dân Sự và Chính trị (ICCPR) đòi hỏi quyền tự do báo chí phải độc lập và tư nhân. Các quốc gia: Canada, Na Uy, Hà Lan, Anh, Mỹ, Phần Lan, Đức yêu cầu CSVN phải tôn trọng quyền tự do truyền thông đúng theo điều 19. Chế độ Hà Nội bác bỏ tức thời lới yêu cầu vừa nêu. Chế độ dân chủ là chế dộ dối thoại. Đối thoại giữa người dân với người dân, giữa người dân với nhà cầm quyền và giữa những cơ quan công quyền với nhau. Không thể có đối thoại nếu không có tự do truyền thông. Tự do truyền thông là xương sống của chế độ dân chủ. Chế độ dân chủ và nhân quyền như cá với nước. Mọi loại nhân quyền tại Việt Nam đều là bánh vẽ chừng nào nhà cầm quyền còn ngăn cấm quyền tự do truyền thông của tư nhân.

Tóm lại trong báo cáo nhân quyền đọc trước Hội Đồng Nhân Quyền LHQ, CSVN nhìn nhận họ đã vi phạm nhân quyền vì hiểu biết của Hà Nội về luật quốc tế nhân quyền rất hạn chế. Thế nhưng khi bị những quốc gia thành viên Hội Đồng Nhân Quyền LHQ yêu cầu CSVN tôn trọng nhân quyền theo từng điều khoản cụ thể thì Hà Nội đã phản ứng ra sao? Thưa rằng: Trong trường hợp này CSVN không thể bảo là họ không hiểu luật, Hà Nội đành ra mặt lì lợm bác bỏ những yêu cầu chánh đáng của quốc tế về nhân quyền. Sự việc “đành ra mặt” vừa kể được gọi là “Lạy ông tôi ở bụi này”. Nhìn vào trong bụi, LHQ thấy rất rõ: chà đạp nhân quyền người dân Việt Nam đích thực là “Chủ trương lớn của đảng và nhà nước”CSVN. Chủ trương này có mục đích bảo vệ sự tồn tại của một triều đình độc tài, bán nước và tham ô.

Đỗ Thái Nhiên

BA MƯƠI SÁU NĂM QUA RỒI... - Trọng Đạt



Trọng Đạt


Ngày 30-4-1975, một ngày kinh hoàng nhất đối với người dân miền nam nước Việt khi họ thấy xe tăng và bộ đội Cộng Sản tràn vào tiếp thu Sài gòn, ai nay mường tượng ra một tương lai đen tối mù mịt sẽ diễn ra tại mảnh đất này: đói khổ, thóc cao gạo kém, mất tự do, sưu cao thuế nặng, bị trả thù, lưu đày… Mặc dù cũng là người Việt Nam máu đỏ da vàng nhưng người Sài gòn chỉ biết đây là những người ngọai lai, xâm lược, họ biết rằng đất nước của mình đã bị đạo quân từ bên ngoài tới chiếm đóng.

Từ sau 1954, Việt Nam chia ra làm hai nước, một nước ở phía trên vĩ tuyến 17, hay trên sông Bến Hải và một nước ở dưới vĩ tuyến và dòng sông nhỏ này. Từ những năm đầu thập niên đã diễn ra cuộc chiến tranh giữa hai nước: miền Bắc được Cộng sản quốc tế trợ giúp vũ khí đạn dược đã mở cuộc chiến tranh dưới danh nghĩa “giải phóng” chiếm cho được vựa lúa miền Nam để cứu đói miền Bắc đã và đang thiếu thốn thực phẩm, lúa gạo trầm trọng. Cuộc chiến mở rộng bắt đầu từ 1964, 1965 khi miền Bắc công khai đưa quân vào miền Nam để chiếm cho được mảnh đất phì nhiêu béo bở này. Tình hình chiến sự trở nên tàn khốc trong khoảng 10 năm từ 1965 cho tới 1975, đó là cuộc chiến giữa một nước nghèo đói lạc hậu miền Bắc VN và một nước sung túc tiến bộ ở miền Nam VN. Miền Bắc có ưu thế ở chỗ họ được CS quốc tế viện trợ vũ khí dồi dào, vô hạn định và một dân số đông đúc, họ có cơ hội thuận tiện để đẩy hàng triệu thanh niên vào cuộc chiến.

Mặc dù bị thiệt hại nặng nề nhiều trăm ngàn người trong những năm giữa và cuối thập niên 60, nhưng miền Bắc vẫn tiếp tục cuộc phiêu lưu, họ có ưu thế của kẻ nghèo đói không sợ chết, dù tổn thất bao nhiêu cũng không đáng kể miễn là chiếm được vựa lúa miền Nam VN. Sau khi nướng hơn một triệu thanh niên họ đã đạt được mục tiêu, chinh phục được miền Nam sung túc.

Khi mới vào tiếp thu Sài gòn họ nói “Đế quốc Mỹ bại trận, dân tộc ta là kẻ chiến thắng”, miệng nói hòa giải dân tộc nhưng trên thực tế sau khi thắng trận họ đã thỏa thuê mãn nguyện tha hồ mà vơ vét, chiếm đoạt nhà cửa, ruộng đất, quý kim, hàng hóa. Cựu đảng viên Cộng Sản Bùi Tín đã gọi đây là một cuộc ăn cướp vĩ đại. Nhà cửa, tài sản của dân di tản đương nhiên thuộc về quân chiếm đóng dù họ còn thân nhân ruột thịt, tất cả những nhà lớn đều thuộc về quân chiếm đóng, chủ nhà phải dọn đi ở những căn nhà nhỏ lý do phó thường dân không được quyền ở những nhà rộng lớn, cao tầng.

Có người nói đây là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa Tư bản và Cộng Sản, người cho đây là cuộc chiến chống Đế Quốc xâm lược, người nói đây là cuộc chiến tranh ủy nhiệm, hai miền Nam Bắc đã được các siêu cường uỷ nhiệm, nhưng sự thực đã quá rõ ràng, nó chỉ là một cuộc “chiến tranh ăn cướp” giữa một nước nghèo đói lạc hậu và một đất nước giầu có tân tiến. Nước nghèo ra sức đánh thí mạng để cướp của cải vật chất bên kia, để chiếm cho được mảnh đất phì nhiêu rồi tha hồ mà vơ vét, bóc lột. Nước nghèo đói chỉ biết lấy lưỡi lê và họng súng để theo đuổi cuộc chiến tranh ăn cướp lâu dài, họ chủ trương chính quyền đẻ ra từ họng súng.

Khi chiếm được miền Nam, cán bộ Cộng Sản tươi cười với đồng bào nói nào hoà bình thống nhất rồi, nào hai miền cùng xoá bỏ hận thù và cùng nhau xây dựng đất nước, hàn gắn vết thương chiến tranh. Thế nhưng họ không bao giờ bỏ được bản chất gian trá có từ hồi mới cướp chính quyền mùa thu 1945, chiếm xong Sài Gòn hoa lệ, đạo quân chiến thắng vội vã chở hết vàng bạc, quý kim của ngân hàng, tháo gỡ các máy móc trong các cơ xưởng, bệnh viện, vét hết các kho dụng cụ, hàng hoá, máy móc hiện đại ... chở ra Bắc. Số vàng bạc quý kim vơ vét được vào túi các quan cán bộ gộc hết, họ vơ vét nhanh gọn y như đàn cào cào châu chấu phá hoại mùa màng, sau cơn trấn lột tập thể vĩ đại ấy miền Nam chỉ còn là một mảnh đất nghèo xơ xác. Thực tế chứng tỏ tại châu Âu, nước Đức sau khi thống nhất, Đông Đức đã trở thành gánh nặng cho Tây Đức, họ gồm hàng tá khuyết điểm: lười biếng, gian trá, lạc hậu, ngu xuẩn … và tình hình Việt Nam cũng y hệt như thế, miền Bắc đã dựa hẳn vào miền Nam để sống.

Một hai năm sau ngày 30-4-75 Cộng Sản đánh tư sản hai lần để lấy nhà cho cán bộ, đổi tiền ba lần, chính quyền đã vét cạn sạch túi tiền người dân, kế đó họ phát động chiến dịch đẩy dân chúng đi kinh tế mới để dãn dân ra khỏi thành thị ngõ hầu có chỗ đưa dân từ miền Bắc vào. Kế hoạch chiếm nhà dân đã được kẻ chiến thắng hoạch định một cách tinh vi khoa học. Những người đi vượt biên dù thoát hay không thoát đều bị lấy nhà, những nhà lớn, nhà mặt đường của dân cải tạo liên hệ chế độ cũ hầu hết bị tịch thu, họ lấy tất cả nhà cửa tài sản của những người đi chính thức. Sau ngày 30-4-75 một hai tháng, họ lùa các viên chức, sĩ quan chế độ cũ vào các trại cải tạo lâu dài rồi đẩy miền Nam tới chỗ nghèo nàn cùng cực để không thể trỗi dậy chống lại họ. Người Sài Gòn mỗi ngày một nghèo, nhiều người phải bán nhà với giá rẻ mạt cho kẻ chiến thắng để lấy tiền đong gạo sống qua ngày. Cán bộ cao cấp từ miền Bắc kéo nhau vào Nam chiếm nhà của kẻ bại trận, cán bộ lớn chiếm nhà lớn, cán bộ nhỏ chiếm nhà nhỏ rồi tha hồ mà vơ vét cho đầy túi tham.

Thấm thoắt đã 36 năm trôi qua, đời sống kinh tế miền Nam ngày nay cao hơn những năm thập niên 80, 90 rất nhiều nhờ Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận và nhờ các nước giầu Đài Loan, Hoa Kỳ, Tây Âu, Đại Hàn, Nhật ... vào đầu tư cộng với tiền đô la của Việt kiều ở ngọai quốc gửi về dồi dào. Đời sống có khá hơn xưa nhưng cái hố chênh lệch giầu nghèo lại sâu gấp bội lần tình trạng xã hội trước 1975. Trong khi những bà mẹ nghèo khổ tay bế con, tay bán vé số thì những đảng viên quyền thế có cơ ngơi, nhà mặt đường, trong nhà lúc nào cũng có cả triệu đô la tiền mặt, mấy nghìn lượng vàng. Các quan to tỉnh ủy, ủy viên trung ương đảng đã thành phú gia địch quốc có khách sạn, nhà hàng, đất đai, cơ sở thương mại, sản xuất ... tài sản của họ có thể lên tới hàng trăm triệu đô la hoặc hơn thế. Nhiều người khi mới vào Nam chỉ mang theo có một manh chiếu rách nay đã trở thành những triệu phú đô la, xe ngựa nghênh ngang.

Nay người nghèo tại các tỉnh đổ xô lên Sài gòn và các thành phố lớn làm công nhân, họ chen chúc nhau thuê phòng trọ, hàng chục người một phòng nhỏ xíu với mức lương thấp 100 đô la hàng tháng, sau khi trả tiền phòng, tiền ăn họ chẳng còn dư đồng nào, những người cùng khổ này làm lụng vất vả nhưng chỉ đủ bỏ vào mồm. Đời sống thành thị tương đối còn khá, tại miền quê người dân lam lũ vật lộn với cuộc sống đắt đỏ, một hiện tượng phổ thông tại các nước kém mở mang, người nghèo ngày càng khốn khổ, người giầu ngày càng giầu thêm.

Mặc dù mức sống đã được nâng cao nhưng gần đây Thủ tướng CSVN nhìn nhận Việt Nam vẫn là một nước nghèo, thật vậy lợi tức đầu người VN nay vào khỏang 1,000 đô la một năm, trên thực tế chỉ bằng một nửa, hoặc một phần ba của các nước Phi châu như Ai cập, Lybia, Tunisie… nếu so với các nước láng giềng tại Đông Nam Á thì VN còn thua xa hơn nữa.

Nay người miền Bắc kéo vào Sài Gòn và các thành phố lớn tại miền Nam rất đông, họ là những người giầu có và quyền thế nhất Sài Gòn hiện nay, làm chủ hầu hết các nhà cửa to lớn của Sài Gòn và các nhà hàng lớn, các cơ sở thương mại, các cơ quan nhà nước... Họ là những cán bộ cao cấp và bà con thân thuộc được đưa vào đây để tranh dành hết những chức vụ béo bở, những công việc hái ra tiền. Tại các cửa hàng lớn, các cơ quan chỗ nào cũng thấy toàn là Bắc Kỳ, đó là giai cấp giầu có thống trị tại Sài Gòn hiện nay. Kẻ chiến thắng lấy đi tất cả, Winner takes it all, họ hưởng đủ tất cả lạc thú trên đời, biệt thự, xe hơi, rượu ngon, gái đẹp … không còn thiếu thứ gì.

Cho tới nay bộ mặt đổi đời của miền Nam càng lộ rõ hơn bao giờ hết bộ, kẻ thắng trận ngày càng giầu có, vơ vét, tập trung tài sản của nhân dân vào trong tay, bà con của họ cũng được chia chác những chức vụ béo bở, cơ sở làm ăn lớn tha hồ mà đớp hít… trong khi ấy người dân miền Nam, những kẻ bại trận ngày càng khốn khổ, trừ những người có thân nhân ở nước ngoài trợ giúp, đa số phải làm lụng đầu tắt mặt tối vì miếng cơm manh áo. Người miền Bắc nay đã trở thành giai cấp thống trị người miền Nam, họ tước đoạt tài sản nhà cửa của người miền Nam, đuổi người miền Nam đi các vùng kinh tế xa xôi khỉ ho cò gáy. Những kẻ bị áp bức bóc lột đành ngậm đắng nuốt cay, chịu khuất phục trước lưỡi lê và họng súng của đạo quân chiến thắng.

Đã một phần ba thế kỷ trôi qua, người miền Nam ngày nay dù là lớp người cũ hay lớp trẻ em sinh sau đẻ muộn vẫn nhìn chính quyền CS, nhìn người miền Bắc như đạo quân chiếm đóng, như bọn xâm lăng đã tước đọat tài sản, quyền sống của họ. Dù nói cùng một thứ tiếng, viết cùng một văn tự nhưng không hẳn phải là một quốc gia, thời xa xưa, Xuân thu, Chiến Quốc, thời Tam Quốc nước Tầu đã chia làm nhiều nước Tần, Sở, Yên, Ngô… và bây giờ Bắc Hàn, Nam Hàn cũng là hai quốc gia riêng biệt, châu Mỹ La Tinh cùng nói tiếng Tây Ban Nha, Trung Đông cùng nói tiêng Ả Rập nhưng đã chia làm mấy chục nước. Người miền Nam VN xa xưa không muốn thống nhất với miền Bắc cũng như Nam Hàn hiện nay không muốn thống nhất với Bắc Hàn lý do nước tân tiến sung túc không muốn mang cái gánh nặng lạc hậu trên vai.

Nay CS đưa ra luận điệu ru ngủ dân miền nam như hãy để Việt Nam Cộng Hòa lùi vào quá khứ, hãy quên đi lá cờ vàng, chúng ta hãy bắt tay nhau cùng xây dựng lại những vết thương do chiến tranh để lại, cùng nhau xoá bỏ hận thù nhưng người miền Nam lớp già cũng như lớp trẻ vẫn tiếc nhớ đất nước của họ, tiếc những cái họ đã mất từ bao năm qua:

- Tự do

Cái mất mát lớn nhất của người miền Nam phía dưới vĩ tuyến 17 là mất tự do, trước hết là tự do ngôn luận, thời xa xưa tại nước Việt Nam Cộng Hòa … báo chí được quyền chỉ trích sai trái của chính phủ, người dân được nói cái mình muốn nói, được biểu lộ sự phản kháng, biểu tình chống chính phủ, được thành lập đảng phái đối lập, được tự do hội họp. Người dân được quyền tự do tư tưởng, được đọc và viết điều mình muốn, sách báo không bị kiểm duyệt hoặc chỉ bị kiểm duyệt hạn chế, người dân được đọc sách báo nhập từ ngọai quốc trái với tình trạng ngày nay, sách báo hải ngọai gửi về bị vất vào thùng rác. Người dân VNCH được tự do cư trú, muốn ở đâu thì ở, muốn đi đâu thì đi nhưng nay họ phải chịu chỉ định cư trú, theo chế độ hộ khẩu, bị chính quyền địa phương giám sát, theo dõi nghiêm ngặt. Từ mấy chục năm nay quân chiếm đóng đã tước đọat hết mọi quyền tự do của người dân miền nam nước Việt.

- Luật pháp

Người dân VNCH đã được luật pháp bảo vệ tài sản tính mạng, có tòa án, có luật sư bào chữa, người dân chỉ bị bắt giam tối đa 24 giờ đồng hồ nếu không có bằng cớ phạm pháp, nay họ có thể bị công an nhà nước bắt giam vì bất cứ lý do gì hoặc chỉ là tình nghi. Họ có thể bị giam giữ vô thời hạn mà không cần đưa ra tòa xét xử, phải có án, người dân có thể bị chính quyền, bị kẻ thống trị cướp đoạt đất đai tài sản mà không thưa kiện ai được. Sau 30-4-1975, trại tập trung, nhà giam mọc lên như nấm tại miền Nam, hàng trăm ngàn người bị lùa vào trai tù dưới danh nghĩa cải tạo mà không hề được xét xử, họ bị giam giữ lâu dài có người lên tới mười mấy năm trời. Sống trong xã hội áp dụng luật rừng hiện nay, người miền Nam ai cũng nơm nớp lo sợ, họ có thể bị bắt bất cứ lúc nào không có lý do, chỉ một sự tình nghi hoặc tư thù với cán bộ có thể bị giam giữ lâu dài.

- Đạo đức

Người dân miền Nam nay tiếc nhớ xã hội có kỷ cương đạo lý của VNCH ngày xưa, trước 1975, miền nam là một xã hội có tổ chức nghiêm chỉnh, chịu ảnh hưởng sâu xa của giáo lý Khổng Mạnh, con người có nhân phẩm, gia đình và học đường giáo dục đạo đức luân lý cho con em để trở thành con người tốt của xã hội. Nay thì khác hẳn, xã hội đương thời sô bồ, băng hoại phản đạo đức luân lý, phim ảnh khiêu dâm đồi bại lan tràn, đĩ điếm, bia ôm, đầy rẫy cả thôn quê thành thị, con gái bị bán đi làm đĩ khắp nơi. Con người ngày nay chỉ biết có đồng tiền, lửa đảo, lưu manh trộm cướp, băng đảng lộng hành, trẻ nít chửi thề tục tĩu ngay tại học đường, tham nhũng hối lộ từ trên xuống dưới, có người nói giả thử chế độ CSVN sụp đổ, người ta phải mất ít nhất là ba thế hệ mới xây dựng được xã hội lành mạnh như xưa.

- Tài sản

Nhiều người mất cơ mất nghiệp, nhiều người xưa là thương gia, đại phú bị quân chiếm đóng lấy nhà tịch thu tài sản đuổi đi vùng kinh tế mới rồi trốn về Sàigòn với tấm thân tàn ma dại. Nhiều người khá giả có nhà lớn hoặc nhà mặt đường đi vượt biên không thoát bị quân chiếm đóng lấy nhà nay nghèo khốn nghèo khổ tiếc nhớ thời oanh liệt xa xưa. Những người có tài sản làm việc cho chế độ cũ phải vào trại tập trung cũng bị chính quyền “mượn nhà” nay tiếc nhớ thủa vàng son của mình ….

- Giáo dục, Y tế

Khoảng 1980, trong một phiên họp nhân viên tại bệnh viên Vũng Tầu, một chị dược sĩ gốc ngoài Bắc vào đã phát biểu: “Chế độ Ngụy mà chúng ta đánh đổ nó nhưng nó đào tạo các chuyên viên như kỹ sư bác sĩ giỏi hơn chúng ta”.

Thật vậy nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa trước 1975 đã đào tạo các chuyên viên khoa học kỹ thuật tương đương với các nước tân tiến và đã được chính phủ Pháp công nhận có giá trị ngang hàng. Văn bằng trung học VNCH đã theo đúng chương trình của người Pháp, việc thi cử rất nghiêm chỉnh, văn bằng trung học, đại học cũng đã được coi ngang hàng với văn bằng bên Pháp, việc thi cử dưới trung học nhất là thời Đệ nhất cộng hòa thập niên 60 có phần còn khó khăn hơn ở ngọai quốc. Nay người gốc miền Nam vẫn tiếc nhớ một thời giáo dục vàng son của họ vì nền giáo dục hiện nay của quân chiếm đóng đã sản xuất ra một lô những văn bằng “lèo”, thạc sĩ, tiến sĩ nhiều như lá mùa thu, các quan to Thứ trưởng, Tỉnh ủy, huyện ủy đều có thể mua bằng tiến sĩ “ma”, thạc sĩ “lèo”, nạn bằng giả bằng ma tại VN ngày nay không còn gì xa lạ. Học sinh từ tiểu học lên trung học, đại học VNCH hồi xưa đều được học miễn phí, chỉ riêng bậc trung học có thêm trường tư thu học phí, ngày nay trẻ em thất học nhiều vì không có tiền đóng học phí.

Trước 1975, nhà giầu hoặc những người có tiền khi ốm đau nặng đi bệnh viện tư, người nghèo đã có nhà thương thí của chính phủ lo. Nay lấy danh nghĩa xã hội chủ nghĩa để mị dân, chính quyền CS chỉ biết thu thuế, không mảy may để tâm tới phúc lợi người dân, các bệnh viện ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi bệnh nhân phải có tiền, không có tiền thì chịu chết, đi học, chữa bệnh phải có tiền, cái gì cũng phải mất tiền.

- Bình đẳng

Mặc dù có một số khuyết điểm nhưng VNCH trước đây tương đối là một xã hội công bình, tuy có nạn bè phái nhưng người có tài đức dù thân cô thế cô vẫn có cơ hội tiến thân điển hình là Giáo sư Nguyễn Văn Bông. Xuất thân từ người con thông minh trong một gia đình nghèo tại miền quê, Bông đã phải làm lao động thêm để lo đèn sách, lớn lên anh ta xuất dương du học, làm bồi tầu, khuân vác cực nhọc rồi thành công vẻ vang, đậu tiến sĩ, thạc sĩ, làm tới chức Viện trưởng một Học viện lớn, nếu sống dưới chế độ CSVN hiện nay, tột đỉnh cuộc đời của ông ta chỉ có thể làm một thầy giáo làng quèn mà thôi.

Từ 1975 cho tới nay, sự học hành, công ăn việc làm chỉ con cái cán bộ, đảng viên hoặc những người từ miền Bắc vào mới được ưu tiên, con cháu các cựu quân nhân, viên chức chế độ cũ hoặc phó thường dân Nam bộ vẫn bị kỳ thị phân biệt đối xử nặng nề, chính quyền CS duyệt xét lý lịch đương đơn rất kỹ. Những công việc tốt, lương cao, béo bở hái ra tiền … chỉ dành cho các đảng viên hoặc họ hàng thân thuộc, những người từ miền Bắc vào Nam còn những việc xương xẩu, làm chỉ đủ bỏ vào mồm mới đến tay thành phần chế độ cũ hoặc phó thường dân Nam bộ.

Nay người dân phía dưới sông Bến Hải vẫn tiếc nhớ một thời vàng son của miền Nam nước việt nhưng cái thời ấy nay đã chết rồi, nó chỉ còn để lại một tiếng vang, vang bóng một thời. Quân chiếm đóng đã tàn nhẫn bế mạc cái thời huy hoàng ấy, mặc dù họ lớn tiếng kêu gọi xóa bỏ hận thù nhưng người miền Nam vẫn không thể quên những hành động trắng trợn của họ tại mảnh đất này.

Quân chiếm đóng có thực sự muốn xoá bỏ hận thù hay không? Họ xóa bỏ hay đào sâu thêm cái hố sâu hận thù đã vốn dĩ sâu thăm thẳm từ bao năm qua? Người Việt Hải ngoại chúng ta hòa hợp với quân chiếm đóng, đem tài nguyên tài năng về Việt Nam xây dựng quê hương hay là để củng cố thêm quyền lực và tài sản cho bọn thống trị, để họ vơ vét thêm tài sản nhân dân cho đầy túi tham và đè đầu cưỡi cổ nhân dân miền Nam thêm nhiều thế kỷ nữa? Trước mắt chúng ta thấy họ vẫn ngoan cố như tự bao giờ, trước sau như một.

Địa vị của quân chiếm đóng, của bọn thống trị vẫn phải được củng cố vững mạnh hơn bao giờ hết bằng lưỡi lê và họng súng.

Trọng Đạt

Tuesday, May 17, 2011

Kết quả của sau hơn 36 năm tiến nhanh xuống hàng chó ngựa

    The dangers facing Vietnam's street kids
May 16, 2011 5:14 p.m. EDT

(CNN) -- Every day, thousands of children are living and working on the streets of Vietnam's cities. Michael Brosowski is trying to give many of them a chance at a brighter future.

Through Brosowski's Blue Dragon Children's Foundation, more than 350 Vietnamese children have been given safe shelter and enrolled in school. The organization has a network of programs in cities throughout Vietnam, and it recently broadened its efforts to combat child trafficking. So far, it has rescued more than 100 trafficked children.

Brosowski recently spoke with CNN about the struggles facing Vietnam's street children.

CNN: Who are Vietnam's street kids?

Michael Brosowski: When we were starting out back in 2002, the kids were pretty much all boys coming from rural areas. And they were coming to make a little bit of money to supplement the family income. Mom and dad can hardly afford money to send the rest of the kids to school, can't afford to get enough food on the table, so they think, well, you might as well go to Hanoi and work.

These days, we're mostly coming across runaway children, and it's where kids are having some kind of family problem. Poverty is usually part of the problem, but it's not the only problem. Very often, there might be alcoholism, sometimes drug use.

It might be that one of the parents has died and the remaining parent has remarried and then that new husband and wife couple don't want the kids from the previous marriage. So kids are ending up now on the streets of Hanoi more because they feel unwanted at home rather than coming here to earn money to support the family.

CNN: What dangers do the kids face on the streets in Vietnam?

Brosowski: The dangers now are much greater, and there are more of them than when we started out. There's a lot more gang activity on the streets and a lot more cases of trafficking.

One reason that street kids here in Vietnam are mostly boys is that the families have this view that the girls should be somewhere safe and secure, but the boys are fine (and) they can wander around at will.

In reality, they're not fine. In reality, the boys are facing gangs, they're facing arrest. And the longer they're out on the street, the worse habits they learn. There are gangs selling heroin, and heroin here is very cheap, widely accessible and a lot of people's job is to get young people hooked on it so that then they've got to start buying it.

Meanwhile, the girls ... they're going to end up in positions that can very often be exploitative or abusive. So we've also got to think about how to protect the girls.CNN: What are some of the challenges you and your group encounter when working with street kids?

Brosowski: As satisfying as (this work) is, it's not easy. One of the things I always tell my staff is, "It's never the end of the story."

Today, there might be a kid who is getting in trouble, has broken the law, he's had a fight in our center, he's told the staff to get lost. Tomorrow, that same kid might really start to make a change in their life. But equally there can be a kid doing really well today -- doing his best at school, behaving well. And tomorrow he might be out there stealing with a gang. So our work is never finished, in a sense. There's always something more that could happen, and I think that's the biggest frustration for us.

Sometimes there are kids we've worked with for a year who've then come back at night, broken in and robbed us. That's what hurts us all the most, because we take that personally. We put so much of ourselves into the kids.

But we've had kids do that and then come back to us later really sorry. And they've actually come back to make amends. And that's more powerful still to have someone who's been with us and then gone astray and then come back, because I think that shows the power of our work.

See the full story on CNN Hero Michael Brosowski:http://www.cnn.com/2011/WORLD/asiapcf/05/16/cnnheroes.brosowski.vietnam.trafficking/


Sunday, May 15, 2011

Chương trình Gây Quỹ Xây Dựng Tượng Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam tại Saigon Place

Vietnamese Community In Australia
Cộng Đồng Người Tự Do Úc Châu Sydney, NSW
http://www.vietnamese.org.au/

*****

Bankstown Office
23 Greenwood Avenue
Bankstown NSW 2200
(02) 9796 8035 - (02) 9790 3934
(02) 9796 3794
bankstown@cdnvnsw.org

Cabramatta Office
4/50 Park Road
Cabramatta NSW 2166
(02) 9727 7599
(02) 9727 5599
(02) 9727 5276
bankstown@cdnvnsw.org

Community and Cultural Centre
6-8 Bibbys Place
Bonnyrigg NSW 2177
bankstown@cdnvnsw.org

Sydney, ngày 11 tháng 5 năm 2011
    Kính thưa: Quý vị Lãnh đạo Tinh Thần
    Quý hội đoàn, đoàn thể, tổ chức
    Quý cơ quan truyền thông Việt Ngữ
    Quý Đồng Hương
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, khoảng 2 triệu người Việt đã bỏ nước ra đi tìm tự do trên những con thuyền mong manh bất chấp muôn vàn hiểm nguy. Hàng trăm ngàn người đã bỏ mình trên biển cả vì sóng gió, bão táp, đói khát, bệnh tật, bị hải tặc tấn công, cướp bóc, hãm hiếp và giết chết. Theo thống kê của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc có khoảng 600,000 thuyền nhân Việt Nam đã bỏ mình trên đường vượt biển, vượt biên tìm tự do.

Được sự hỗ trợ của Hội Đồng Thành Phố Bankstown, Cộng Đồng Người Việt Tự Do NSW sẽ thực hiện một Tượng Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam tại Saigon Place, Bankstown, để tưởng niệm các thuyền nhân đã bỏ mình trên biển. Chương trình xây dựng nầy là một công trình chung của cộng đồng chúng ta, vì Tượng Đài Thuyền Nhân Việt Nam là một biểu tượng mang nhiều ý nghĩa gắn liền với tình cảm, lý tưởng tự do và lịch sử định cư của người Việt Tỵ Nạn. Tượng Đài nầy cũng là để ghi nhận sự định cư, hội nhập và đóng góp thành công của Thuyền Nhân Tỵ Nạn Việt Nam tại tiểu bang New South Wales nói chung và thành phố Bankstown nói riêng.

Tượng Đài sẽ được làm bằng đồng cao 3 mét 8 bao gồm 3 phần chính là Thuyền Nhân Việt Nam, Con Thuyền Tỵ Nạn dài 3 mét 5 và Sóng Biển theo như mẫu thiết kế đã được chấp thuận. Chi phí cho chương trình xây dựng nầy là $240,000 cộng GST là $264,000.
    - Hội Đồng Thành Phố Bankstown trao tặng: $ 75,000
    - Chính phủ tiểu bang NSW trao tặng: $ 50,000
    - Số tiền do CĐNVTD/NSW đóng góp: $139,000
    Tổng cộng: $264,000
Để giúp Cộng Đồng Việt Nam trong việc gây quỹ, Bankstown Sports Club đã tặng CĐ một bữa tiệc gây quỹ trị giá $60,000 để khoản đãi 600 khách. Ban Chấp Hành CĐNVTD/NSW tha thiết mời gọi Đồng Hương tích cực tham gia đóng góp cho Chương Trình Gây Quỹ Xây Dựng Tượng Đài Thuyền Nhân Việt Nam nhằm giúp Cộng Đồng có đủ số tiền $139,000 để chương trình xây dựng được hoàn tất theo dự trù. Xin trân trọng kính mời Quý Vị xem chi tiết chương trình gây quỹ được trình bày trong tập tài liệu nầy.

Chúng tôi tin rằng kể từ nay, người Việt Tỵ Nạn và con cháu chúng ta tại Tiểu Bang NSW và tại Úc sẽ có thêm một biểu tượng có giá trị lịch sử để hãnh diện với Cộng Đồng Thế Giới vì nơi đây, chúng ta có Tượng Đài Thuyền Nhân Việt Nam đặt tại Saigon Place.

Trân trọng kính chào

Nguyễn Văn Thanh
Chủ Tịch



Số tiền đóng góp

Phưong cách ghi nhận

Dưới $200

Biên lai chính thức và đặc biệt do CĐNVTYD/NSW ấn hành

Trên $200 - $500

Tấm hình tượng đài (A4 – 21cmx30cm) & Biên lai chính thức

Trên $500-$2000

Bằng Cảm Tạ & Tấm hình tượng đài (A4 – 21cmx30cm)

Trên $2000 - $5000

Plaque Cảm Tạ & Tấm hình tượng đài (A4 – 21cmx30cm)

Trên $5000

Bằng Cảm Tạ & Khung hình tượng đài khổ lớn (A1 – 60cmx85cm)

Đặc biệt: Quý vị đóng góp từ $1000 trở lên sẽ nhận được Thiệp Mời Đặc Biệt tham dự Bữa Tiệc Gây Quỹ vào ngày Thứ Sáu 1 th áng 7 năm 2011 t ại Bankstown Sports Club (trị giá $100/người) như sau: $1,000: 2 thiệp, $2000: 4 thiệp, $3000: 6 thiệp, $4000: 8 thiệp và $5000: 1 bàn 10 người.

ĐỊA ĐIỂM NHẬN ĐÓNG GÓP:

BANKSTOWN

  1. Văn phòng CĐNVTD/NSW tại Bankstown
    23 Greenwood Avenue, Bankstown NSW 2200
    - ĐT: 9796 8035

  2. Phòng mạch Bác sĩ Liêu Vĩnh Bình
    310 Chapel Road South, Bankstown NSW 2200
    - ĐT: 9796 7545

  3. Phòng mạch Bác sĩ Vũ Ngọc Tấn
    1/326 Chapel Road South, Bankstown NSW2200
    - ĐT: 9790 5375

CABRAMATTA

  1. Văn phòng CĐNVTD/NSW tại Cabramatta
    4/50 Park Road, Cabramatta NSW 2166
    PO Box 106 Cabramatta NSW 2166
    - ĐT: 9227 5599

  2. Phòng mạch Bác sĩ Nguyễn Mạnh Tiến
    16/49 Park Road, Cabramatta NSW 2166
    ĐT: 9726 6595

  3. Văn phòng Luật sư Nguyễn Văn Thân
    10/104 John Street, Cabramatta NSW 2166
    - ĐT: 9724 7188

  4. Phòng mạch Bác sĩ Lê Đình Cường
    3/76-80 John Street, Cabramatta NSW 2166
    - ĐT: 9755 9040

PHƯƠNG CÁCH ĐÓNG GÓP:

Bằng tiền mặt:

- Xin vui lòng đến một trong những địa điểm đóng góp trên để trao tiền và lấy Biên Nhận.

Bằng ngân phiếu (cheque): Xin viết ngân phiếu trả cho:

    Vietnamese Community in Australia/NSW Chapter – Boat People Monument.
    Commonwealth Bank of Australia
    Số BSB: 062 130 - Số trương mục: 1105 4935
- Xin đến một trong những địa điểm kể trên để trao ngân phiếu và lấy Biên Nhận.

- Nếu gửi ngân phiếu qua đường Bưu Điện, xin ghi rõ tên người gửi, địa chỉ, điện thoại và email (nếu có) để chúng tôi liên lạc gửi Biên Nhận.

- Nếu số tiền là do các Hội Đoàn, Đoàn Thể, Tổ Chức và Nhóm Sinh Hoạt Cộng Đồng gây quỹ quyên góp được, xin ghi rõ tên của tổ chức, chi tiết của người liên lạc và danh sách người đóng góp để việc đóng góp được ghi nhận.

Bằng cách chuyển ngân khoản (electronic transfer)

- Quý vị có thể chuyển tiền thẳng vào trương mục:
    Vietnamese Community in Australia/NSW Chapter – Boat People Monument
    Commonwealth Bank of Australia
    Số BSB: 062 130 - Số trương mục: 1105 4935
- Sau khi chuyển tiền, xin gửi email đến quynh.bui@vietnamese.org.au báo cho chúng tôi biết để tiện việc kết toán và gửi Biên Nhận đến quý vị.

Muốn biết thêm chi tiết, xin liên lạc:

Friday, May 13, 2011

Treo hay không treo cờ VNCH ? - Nguyễn Kim Quý




Nguyễn Kim Quý
cựu giáo sư Viện Đại Học Đà Lạt
    Các cựu sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt ở các nước Âu Châu sẽ tổ chức Đại Hội Thụ Nhân tại Paris năm 2012, trong đó phe bỏ phiếu không treo cờ VNCH đang thắng thế. Phe ủng hộ treo cờ, quá ít, đang cần sự yểm trợ tinh thần của chúng ta, những người quốc gia chống Cộng, dù họ không lên tiếng yêu cầu.
***********
1. Khi một người Việt Nam tỵ nạn khước từ dấu chứng tỵ nạn của mình (không chào lá cờ truyền thống của mình) họ nghiễm nhiên chấp nhận vai trò cai trị của thể chế đã từng biến họ thành người tỵ nạn. Nói theo kiểu bình dị, họ là những người vô tổ quốc, là những kẻ tha phương cầu thực không hơn và không kém. (cựu sinh viên Thụ Nhân Bích Thủy)

2. Vì vậy, nếu một đại hội Thụ Nhân mà người tổ chức từ chối treo lá cờ Vàng thì sẽ không có tôi. (cựu sinh viên Thụ Nhân Huỳnh Văn Của)
    Thưa quý giáo sư, quý anh chị trong đại gia đình Thụ Nhân,
Vì lý do riêng, tôi đã xin tạm ngưng sinh hoạt trên hai diễn đàn Thụ Nhân. Nhưng vì tên tôi được ghi trong mục cc và nằm trong phần mở đầu "thưa các thầy cô", và vì, nhất là, vấn đề treo hay không treo, chào hay không chào lá cờ VNCH đã đụng vào tử huyệt, bình dân hơn đụng vào lò xo trong người tôi, một nạn nhân của Việt Cộng, một người tỵ nạn không đội trời chung với Cộng sản dù họ là Việt Nam, Tàu, Cuba, Bắc Hàn, tôi mạo muội có ý kiến như sau:


1. Quốc kỳ VNCH là biểu tượng cho linh hồn của quốc gia miền Nam đã mất. Là căn cước của người quốc gia tỵ nạn. Tôi bỏ nước ra đi chỉ bởi vì lý tưởng quốc gia, tự do, không chịu nổi ách thống trị của Cộng sản, chứ không phải vì đi ăn mày miếng cơm manh áo tại Mỹ, tại Pháp. Nếu chối bỏ lá cờ quốc gia, chối bỏ căn cước tỵ nạn, tôi sẽ giải thích ra sao với con cháu và thế hệ tương lai, tại sao chúng được sinh ra, có mặt tại hải ngoại? Chối bỏ lá cờ quốc gia, chối bỏ căn cước tỵ nạn, tuyên bố không làm chính trị, không phân biệt Quốc gia, Cộng sản nữa, tôi sẽ là ai, gốc gác từ đâu? Vô lẽ tôi chui lên từ đất nẻ Washington DC, Paris, Bruxelles hay Oslo? Vô lẽ tôi không khác gì con cháu, ở các Chinatowns Mỹ, của những người Tàu bị bắt đến Mỹ để làm phu đường rầy xe lửa vào thế kỷ XIX? Hay tệ hơn, vô lẽ tôi chỉ là một trong thành phần "ma cô đĩ điếm" mà một Thủ tướng Việt Cộng nọ (chính xác, Phạm Văn Đồng) đã một lần thoá mạ những thuyền nhân, trong đó có tôi, trốn chạy trối chết chúng nó (mặc nhiên công nhận ông ta nói đúng, nếu tôi chối bỏ lý lịch quốc gia trong sáng của tôi qua việc chối bỏ lá cờ vàng)?

2. Khi bỏ chạy, tôi đã mất hết, chỉ còn lý tưởng tự do, và nhất là tấm lòng chung thủy và hiếu đễ đối với miền Nam, tức nước VNCH, nơi mà tôi được sinh ra, hoặc được nhận vào từ miến Bắc trong cuộc di cư vĩ đại 1954, đã nuôi dưỡng tôi, cho tôi cơm ăn, áo mặc, cho tôi học hành đến nơi đến chốn để trở thành ông này bà nọ, hãnh diện với đời, cho tôi được tự do, kể cả tự do vinh thân phì da, kể cả tự do, ngày nay, quên ơn quên nghĩa, kể cả tự do phản bội. Lá cờ vàng là biểu tượng của nước VNCH và của tấm lòng chung thủy và hiếu đễ của những người con đối với Tổ quốc.

3. Tưởng nhớ, biết ơn nước VNCH trong phạm vi rộng lớn, đối với tôi, cũng như tưởng nhớ, biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ tôi trong phạm vi nhỏ hẹp hơn. Khi con cháu hội họp, vui chơi, ăn uống, nhảy nhót trong gia đình, trước bàn thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, có đứa con đứa cháu nào đã đặt vấn đề nên hay không nên thắp một nén nhang tưởng niệm các cụ trước, rồi vui chơi sau, nên hay không nên bỏ phiếu để lấy biểu quyết thắp nhang? Treo cờ, chào cờ là một bổn phận đối với tổ quốc (đã mất), cũng như thắp nhang cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ (đã khuất) là một bổn phận, mà đã gọi là bổn phận thì còn gì để bàn cãi, bỏ phiếu lấy ý kiến?


4. Có người sẽ bảo, thắp nhang và treo cờ khác nhau. Đúng, khác nhau, bề ngoài. Dưới lăng kính nghị quyết 36. Các cộng đồng, đoàn thể, hội đoàn, kể cả tôn giáo, trường học của người Việt tỵ nạn hải ngoại, diễn đàn thân hữu, v.v... đều là đối tượng của Nghị quyết 36. Bọn lãnh đạo Việt Cộng, sau những năm thất bại, đã nâng Nghị quyết 36 lên hàng quốc sách (xin quý vị xem báo chí và tin tức internet trong nước), ra chỉ thị những tòa đại sứ và những tên nằm vùng triệt để thi hành Nghị quyết đó bằng mọi giá. Bằng cách gợi lên, với những lời đường mật, trong lòng người xa xứ nỗi nhớ quê hương, tuyển mộ nằm vùng bằng cách quẳng cho vài mẩu xương (nghĩa bóng), mời gọi những "khúc ruột ngoài ngàn dặm" (hết ma cô đĩ điếm, phản bội tổ quốc rồi, sướng nhé!) về du lịch đi (Nguyễn Minh Triết còn dụ: "gái Việt Nam bây giờ đẹp lắm..."), về làm ăn đi, xoá bỏ hận thù đi, đem tiền về xây dựng đất nước đi, cứu trợ thay cho chúng những người khốn khổ thuộc trách nhiệm của chúng, cho người ra ngoại quốc vắt cạn những con bò sữa hải ngoại, và những con bò sữa hải ngoại này đi vắt cạn những con bò sữa hải ngoại khác, đem tiền về VN phải chia tứ lục cho bọn cán bộ mới mua được cơ hội làm từ thiện, thương người, trong khi trong nước có kẻ đã sắm máy bay riêng, đi xe Rolls Royce đời mới, ở những dinh thự nguy nga, tiền hàng tỷ đô gửi trong chương mục ngoại quốc (tại sao không đến gõ cửa xin vắt sữa những con bò này?) -mà người tỵ nạn như tôi nằm mơ cũng không thấy. Bằng cách chia rẽ những người trong cộng đồng, đoàn thể, các trường Việt ngữ, cãi nhau như mổ bò về bất cứ vấn đề nào nằm trong mục thảo luận chương trình tổ chức, từ thực đơn ăn uống, mời ca sĩ nào hát nhảy đầm, cho đến việc treo hay không treo cờ VNCH. Và treo cờ hay không treo cờ mới là mục tiêu chính yếu của Nghị quyết. Một số không nhỏ đồng hương vô tình mắc bẫy Nghị quyết 36, còn số hữu tình thì được che đậy, nằm vùng rất kỹ bằng những cái cớ được nại ra, nhưng không thuyết phục.
Nói ra thì mang tiếng chụp mũ, không nói ra thì mang tiếng thụ động, ba phải, nín thở qua sông.

Tuy nhiên, VC không dám chỉ trích việc thắp nhang tưởng nhớ tổ tiên, chúng để tự do, mặc dù chúng không ngu đến nỗi không hiểu rằng treo cờ quốc gia và thắp nhang tưởng niệm tổ tiên đều giống nhau, ít ra về ý nghĩa tinh thần. Nhưng bằng mọi cách, chúng phải tiêu diệt lá cờ quốc gia, lá cờ mà có một ông thầy chùa tại Beaverton, Oregon, tên Thích Ẩn Long (những Phật tử chân chính cho ông này là sư giả, xin xem tài liệu đính theo) công khai gọi trong một buổi thuyết pháp là "lá cờ ba que". Nhưng vì bản chất gian manh, láu cá nên VC dùng mánh lới khác. Ví dụ, tôi nghe nói, chưa có bằng cớ, ở Việt Nam bây giờ, trên một số bàn thờ tổ tiên gia đình có cả hình Hồ Chí Minh, và trong chùa, nhà thờ có tượng Hồ Chí Minh ngồi bên Chúa, Phật? Nếu đúng, VC đã tương kế tựu kế, lấy gậy ông đập lưng ông, trong vấn đề thắp nhang: cho thắp, cúng tế, để tỏ ra tự do, nhưng phải có Bác hiện diện. Trong vấn đề treo cờ, tại những trường học Mỹ, chẳng hạn, chúng vận động treo cả hai cờ, VC và VNCH, như giải pháp tạm thời, trước khí thế cao độ của đồng bào tỵ nạn tại Mỹ, trong khi chờ đợi một cơ hội khác. Nhưng đồng bào tỵ nạn không chịu các trường học Mỹ treo hai cờ. Phải treo cờ VNCH mà thôi. Và không phải không có lý do mà đa số các tiểu bang, thành phố Mỹ đã công nhận, cho treo lá cờ VNCH. Họ là người ngoại quốc, không mắc nợ gì với VNCH. Huống chi tôi là một người thọ ơn đất nước, quốc gia miền Nam?

Cuối thư, tôi xin hoàn toàn đồng ý với anh Huỳnh Văn Của và chị Bích Thủy, đặc biệt về những câu tôi đã trích ra trên từ thư của anh, chị. Tôi biết sẽ có những phản ứng, như thời gian trước đây, từ phía những anh chị không đồng quan điểm. Nhưng không sao, vì đây là xứ sở tự do, dân chủ và tôi đã quá quen với những cuộc tranh luận về chính trị, và một lần đã bị kiện vì một bài viết chống nằm vùng và VC tại Portland, vụ kiện mà tôi, sau khi tai qua nạn khỏi, vẫn thấy hãnh diện. Một điều duy nhất tôi sợ, là khi ngôn từ và phương cách, mức độ đối thoại đã vượt quá lằn ranh truyền thống phải có, dù sao, giữa thầy và môn sinh, hay ngược lại giữa môn sinh và thầy, giữa môn sinh và môn sinh.

Tôi có thể im lặng, cầu an, để yên thân, cho đến hết tuổi già, cho xong kiếp người. Nhưng không, tôi đã lên tiếng, để yểm trợ một số cựu sinh viên Thụ Nhân, có vẻ ít ỏi, đã dám viết rõ ràng, không mập mờ, hàng hai, bằng giấy trắng mực đen, lập trường "quốc gia" (tôi chưa nói "chống Cộng") vững chắc của mình, đã dám viết lên những điều mình cho là đúng. Tôi đã lên tiếng, để chứng tỏ tư cách một người tỵ nạn chân chính còn nhớ và biết ơn tổ quốc VNCH và lá cờ vàng thân yêu của tôi, lá cờ mà quân dân cán chính miền Nam đã một thời hy sinh xương máu để bảo vệ cho đến phút cuối của ngày 30/4/1975 và bây giờ còn tôn vinh, nâng niu xem như một lẽ sống, một lẽ chết, chứ không phải là một sự chọn lựa, một vấn đề mang ra để bỏ phiếu. Tôi đã lên tiếng, để vong linh những người đã chết cho tôi, vì tôi, thay tôi trước đây khỏi phải tủi hổ. Tôi đã lên tiếng, vì tôi là một người, không muốn thua những "con cá hồi" của chị Bích Thủy, hoặc không muốn là một con thò lò (hay thần giữ cửa Janus trong thần thoại cổ) hai mặt, lúc vàng lúc đỏ, hay nửa vàng nửa đỏ, hay đỏ nhiều hơn vàng, như màu áo của một Hồng Y VN khi ông qua Úc tuyên bố, đỏ vàng giống nhau.

Vả lại, vì tôi chỉ có một đời để sống. Sống không thẹn với quốc gia, với tổ tiên, cha mẹ, không thẹn với chính mình, với con với cháu mình.
Tôi dùng chữ "tôi", vì đây là ý kiến cá nhân, chứ không phải đề cao "cái tôi đáng ghét". Xin quý vị thông cảm.

Kính chào quý vị. Chúc quý vị an bình, thanh thản trong tâm hồn, và những ngày thật vui.

GS Nguyễn Kim Quý

Thursday, May 12, 2011

Complaint lodged after Vietnam issued visa stamped with ‘Province of China'


By Shih Hsiu-chuan / Staff Reporter

Taipei has lodged a complaint with Vietnam and demanded a correction after a lawmaker produced a copy of a Vietnamese temporary residence card issued by Hanoi to a Taiwanese that was stamped “Taiwan Province of China,” the Ministry of Foreign Affairs said yesterday.

Democratic Progressive Party Legislator Chen Ting-fei, speaking in the Legislative Yuan in Taipei yesterday, displays a copy of a Vietnamese temporary residence card stamped with the words “Taiwan Province of China.”
Photo: Wang Min-wei, Taipei Times
“The ministry spoke with Nguyen Ba Cu, director of the Vietnam Economic and Cultural Office in Taipei, by telephone to express the government’s serious concern and to protest the matter,” ministry spokesman James Chang (章計平) told reporters.

While questioning Premier Wu Den-yih (吳敦義) at the legislature, Democratic Progressive Party Legislator Chen Ting-fei (陳亭妃) showed a copy of the document, saying: “Visas issued by Vietnam to Taiwanese state that Taiwan is a province of China.”

It was subsequently determined that the document Chen said was a “working visa” given to her by a Taiwanese working in Vietnam was in fact a temporary residence card, in which “Taiwan Province of China” was stamped in the space left for applicants to write their nationality or passport number.

The temporary residence card was issued on Dec. 12, 2008, and was valid for three years.

Chen said the holder of the document did not initially notice the reference to “Taiwan Province of China” when he renewed the document in 2008, but the holder was sure that the reference to his nationality in previous documents stated “Republic of China [ROC].”

“After noticing the change, he said he questioned Vietnamese authorities and was told the change was made with the consent of Taiwan’s Ministry of Foreign Affairs,” Chen said.

The ministry denies the allegation.

Chang said the ministry had been informed by the Vietnam Economic and Cultural Office in Taipei that visas issued by Vietnam to holders of ROC passports only contain the word “Taiwan,” and that only visa exemption certificates issued to Taiwanhttp://www.blogger.com/img/blank.gifese spouses or children of Vietnamese citizens used the designation “Taiwan Province of China” when referring to nationality.

The ministry has asked for corrections to be made to the visa exemption certificates, Chang said.

The ministry received a Vietnamese official yesterday afternoon, but details of the meeting were not available as of press time.

Source: http://www.taipeitimes.com/News/front/archives/2011/05/11/2003502939

Monday, May 9, 2011

The phone call that led Obama to Osama


Bob Woodward
May 8, 2011

IT SEEMED an innocuous, catch-up phone call. Last year Abu Ahmed al-Kuwaiti, the pseudonym for a Pakistani known to US intelligence as the main courier for Osama bin Laden, took a call from an old friend.

''Where have you been?'' inquired the friend. ''We've missed you. What's going on in your life? And what are you doing now?''

Kuwaiti's response was vague but heavy with portent: ''I'm back with the people I was with before.'' There was a pause, as if the friend knew that Kuwaiti's words meant he had returned to bin Laden's inner circle, and was perhaps at the side of the al-Qaeda leader himself. The friend replied, ''May God facilitate.''

When US intelligence officials learned of this exchange, they knew they had reached a key moment in their decade-long search for al-Qaeda's founder. The call led them to the unusual, high-walled compound in Abbottabad, Pakistan.

''This is where you start the movie about the hunt for bin Laden,'' said one US official briefed on the intelligence-gathering leading up to the raid early last Monday.

The exchange and several other pieces of information, other officials said, gave President Barack Obama the confidence to launch the mission to capture or kill bin Laden, a decision he took despite dissension among his advisers and varying estimates of the likelihood that bin Laden was in the compound. The officials spoke on condition that they not be named.

US agencies had been hunting for Kuwaiti for at least four years; the phone call gave them his mobile phone number. Using a vast number of human and technical sources, they tracked Kuwaiti to the compound.

The main three-storey building, which had no telephone lines or internet service, was impenetrable to eavesdropping technology. US officials were stunned to realise that whenever Kuwaiti or others left the compound to make a call, they drove some 90 minutes away before even placing a battery in a mobile phone. Turning on the phone made it susceptible to electronic surveillance.

As intelligence officials scrutinised images of the compound, they saw that a man emerged most days to stroll the grounds for an hour or two. The man walked back and forth, day after day, and soon analysts began calling him ''the pacer''. The imagery never provided a clear view of his face.

The pacer never left the compound. His routine suggested he was not just a shut-in but almost a prisoner.

Was the pacer bin Laden? A decoy? A hoax? A set-up?

Bin Laden was at least 190 centimetres tall, and the pacer seemed to have the gait of a tall man. The White House asked the National Geospatial-Intelligence Agency to determine the pacer's height. The agency said the man's height was somewhere between 170 centimetres and 200 centimetres, according to one official.

Another official said the agency provided a narrower range for the pacer's height, but the estimate was still of limited reliability because of the lack of information about the size of the building's windows or the thickness of the compound's walls, which would have served as reference points.

In one White House meeting, CIA director Leon Panetta told Mr Obama that the general rule in gathering intelligence was to keep going until a target, such as the Abbottabad compound, ran dry.

Mr Panetta said that point had been reached, arguing that those tracking the compound were seeing the pacer nearly every day but could not conclude with certainty that it was bin Laden.

Mr Obama and his advisers debated the options. One was to fire a missile from an aerial drone. Such a strike would be low-risk, but if the result was a direct hit, the pacer might be vaporised and officials would never be certain they had killed bin Laden.

If the attack missed, bin Laden or whoever was living in the compound would flee and the US would have to start the hunt from scratch.

Mr Panetta designated Vice-Admiral William McRaven, head of Joint Special Operations Command, to devise a boots-on-the ground plan that became known as ''the McRaven option''.

His decision to assign the operation to the Navy SEALs was critical. SEALs have a tradition of moving in and out fast, often killing everyone they encounter at a target site.

A ''pattern of life'' study of the compound by intelligence agencies showed that about a dozen women and children periodically frequented it.

Specific orders were issued to the SEALs not to shoot the women or children unless they were clearly threatening or had weapons. (During the mission, one woman was killed and a wife of bin Laden was shot in the leg.) Bin Laden was to be captured, one official said, if he ''conspicuously surrendered''.

The longer such raids take, the greater the risk to the SEALs. One senior official said the general philosophy of the SEALs was: ''If you see it, shoot it. It is a house full of bad guys.''

Several assessments concluded there was a 60 to 80 per cent chance that bin Laden was in the compound. Michael Leiter, the head of the National Counterterrorism Centre, was much more conservative. During one White House meeting, he put the probability at about 40 per cent.

When a participant suggested that was a low chance of success, Mr Leiter said: ''Yes, but what we've got is 38 per cent better than we have ever had before.''

Officials said Mr Obama's advisers were not unanimous in recommending he go ahead with the McRaven option. The president approved the raid at 8.20am on Friday.

During the assault, one of the Black Hawk helicopters stalled, but the pilot was able to land safely. The hard landing forced the SEALs to abandon a plan to have one team rope down from a Black Hawk and come into the main building from the roof. Instead, both teams assaulted from the ground.

The White House initially said bin Laden was shot and killed because he was engaged in a firefight and resisted. Later, White House spokesman Jay Carney said bin Laden was not armed, but Mr Carney insisted he resisted in some form. He and others have declined to specify the exact nature of his alleged resistance, through there reportedly were weapons in the room where bin Laden was killed.

SEALs scooped up dozens of thumb drives and several computer hard drives that are now being scrutinised for information about al-Qaeda, especially an address, location or phone number for Ayman al-Zawahiri, bin Laden's second-in-command.

But officials said the delicate process of sifting this intelligence bonanza was made more challenging because of worries that using the wrong passwords could trigger a planned erasure of digital information.

In the White House situation room on Sunday night, the President and his national security team watched a soundless video feed of the raid.

When bin Laden's corpse was laid out, one of the Navy SEALs was asked to stretch out next to it to compare heights. The SEAL was 184 centimetres. The body was several centimetres taller.

When Mr Obama heard this, he turned to his advisers and said: ''We donated a $60 million helicopter to this operation. Could we not afford to buy a tape measure?''

Source: http://www.smh.com.au/world/the-phone-call-that-led-obama-to-osama-20110507-1edeo.html