Friday, July 2, 2010

Ai chống lại Giáo hội Công giáo - Đaminh Phan văn Phước



Đaminh Phan văn Phước

Để chứng minh điều vừa nói là có tình, có lý, tôi xin nêu lên các danh ngôn sau đây:
    a. Của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan XXIII: ”Ai phê bình, thậm chí chỉ trích tôi, người ấy là bạn. Còn ai tâng bốc tôi, người ấy là thù!”

    b.
    Của Thánh Hiền: ”Gạo bỏ vào cối, có đâm, có giã, có sứt, có mẻ, có nát, mới trắng tựa bông!”

    c.
    Của Sainte-Beuve: ”Đối với tôi, được phê bình là điều thú vị để biết tư tưởng của người khác, chứ không phải là để khống chế các tư tưởng ấy”.

    d.
    Của Heinrich Heine: ”Người muốn được khen là người coi trọng lời phê bình”.

    e.
    Của Abbé Prévost: ”Không nhất thiết tác giả hiểu được ngay những gì mình viết. Người phê bình sẽ đảm nhận việc giải thích cho tác giả những điều ông ta đã viết”.

    g.
    Erik Satie: ”Mọi lời phê bình đều có tác dụng”. Như lời nhận định của Đức Cha Nguyễn Chí Linh: ”Đó là điểm tích cực!”
”Kitô hữu công giáo” có bổn phận xây dựng Giáo Hội Tông Truyền và phải chịu trách nhiệm với lương tâm, với tha nhân, và nhất là với Đấng có Quyền Bính Tối Cao là Thiên Chúa về ba chức năng: ”tư tế, ngôn sứ, quân vương” ”thánh hóa” mình và người đồng Đạo để thắng Satan, hiển trị với Chúa và mở mang Nước Ngài khắp nơi như lời nguyện trong Kinh Lạy Cha. Vì vậy, nhiều Ki-tô hữu trong và ngoài Nước đã, đang và sẽ còn góp ý thẳng thắn, bằng cách này hay khác, với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về tư cách và khả năng Ngôn Sứ của các Ngài giữa lòng Dân Tộc vì, hơn ai hết, các Ngài là Mục Tử có nhiệm vụ tiên phong làm ”chứng nhân đi công bố Tin Mừng”!

Ấy là ”Tin Mừng về Hồng Ân của Chúa cho người nghèo khó, người bị tù đày, người đui mù, người bị áp bức!”. Tin Mừng cũng chính là ”Đạo” hay là ”Đường về Thiên Quốc” mà Chúa Giê-su đã chỉ cho người giàu có: ”Bán hết của cải, lấy tiền cho người nghèo, và sẽ có một kho tàng trên trời, rồi đến theo Ta”. Chàng thanh niên giàu có này không nhận ra ”cái nghèo xơ, nghèo xác” về Tin Mừng nơi tâm hồn mình vì tiếc của! Việt Nam ”Ta” chỉ có hơn sáu triệu người công giáo trong tổng số gần chín mươi triệu dân thì quả là một trong những nước nghèo nhất thế giới về Lời Chúa!. Nhiều Ngài Mục Tử Việt Nam chưa mạnh dạn làm theo lời dạy của Thánh Phao-lô: ”Trong (ơn) khôn ngoan, hãy đi đến người ngoài. – In sapientia ambulate ad eos qui foris sunt”. Ơn ‘Khôn Ngoan” của Thánh Linh khác với sự ”khôn khéo” không thật lòng ”con cái thế gian khôn lanh hơn con cái Sự Sáng!” của Dale Carnégie trong ”Đắc Nhân Tâm” vẫn còn là cuốn ”Best Seller” bởi vì ”con cái thế gian khôn lanh hơn con cái Sự Sáng!”

Điều thật đáng buồn là ”người lên tiếng góp ý vì yêu Giáo Hội” thì lại bị chụp mũ là ”phỉ báng các Đấng thay mặt Chúa cùng các Đấng làm Thầy, chống Cha, chống Chúa, chống Giáo Hội!”. Cũng vì ”Bác Ái, Từ Bi, tình nghĩa đồng bào và lòng yêu Nước nồng nàn” mà bà con đã lên tiếng phê phán cụ thể thành phần làm gương mù trong Công Giáo thì lại bị hiểu lầm là ”cố tình phá Đạo”!. Đáng ra chúng ta phải cảm ơn Kitô hữu ngoài Công Giáo (Chính Thống Giáo và Tin Lành), bà con Bên Lương hay là đồng bào đã chỉ cho chúng ta thấy được khuyết điểm của mình.

Để chứng minh điều vừa nói là có tình, có lý, tôi xin nêu lên các danh ngôn sau đây:
    a. của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan XXIII: ”Ai phê bình, thậm chí chỉ trích tôi, người ấy là bạn. Còn ai tâng bốc tôi, người ấy là thù!”.
    b. Của Thánh Hiền: ”Gạo bỏ vào cối, có đâm, có giã, có sứt, có mẻ, có nát, mới trắng tựa bông!”
    c. Của Sainte-Beuve: ”Đối với tôi, được phê bình là điều thú vị để biết tư tưởng của người khác, chứ không phải là để khống chế các tư tưởng ấy”
    d. Của Heinrich Heine: ”Người muốn được khen là người coi trọng lời phê bình”
    e. Của Abbé Prévost: ”Không nhất thiết tác giả hiểu được ngay những gì mình viết. Người phê bình sẽ đảm nhận việc giải thích cho tác giả những điều ông ta đã viết”
    g. Erik Satie: ”Mọi lời phê bình đều có tác dụng” như lời nhận định của Đức Cha Nguyễn Chí Linh: ”Đó là điểm tích cực!”
Kinh Mùa Chay Thánh cũng dạy như sau: ”Con xin Đức Chúa Giêsu hôm nay, cùng hằng ngày, cùng trọn đời con, cho linh hồn con, cùng lòng mình con, cùng mọi sự ý con, cùng cha mẹ, anh em, bạn hữu thân thích con, con lại xin cho kẻ nghịch cùng con đặng mọi sự lành”.

”Kẻ nghịch” tức là người ”chẳng thuận với ý của mình”! Mà đã cầu nguyện cho họ thì họ không phải là Satan chống phá Giáo Hội! Chẳng ai cầu nguyện cho Satan vì nó đã bị phạt đời đời, mà còn nuôi ảo tưởng sẽ ngồi trên Ngai của Thiên Chúa! (Ysaya 13, 11-15) Còn Cộng Sản thì vô thần, coi Tôn Giáo là thuốc phiện, đã cho viết vào Thánh Giá hàng chữ: ”Ma túy! Hãy tránh xa!”. Cho nên họ vô tình kết bạn với Satan! Họ không bao giờ chống, mà lại ”để yên” hay là ”gài bẫy” cho Mục Tử và con chiên tha hồ sa ngã!. Nhưng người có Tín Ngưỡng và Việt Đạo thì thấy mình cần phải góp ý cho đồng bào, trong đó có Kitô hữu và Đảng viên cộng sản vì họ quan niệm: ”Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ! Một người làm xấu, cả bậu mang nhơ!”. Tôi đau một ngón tay là toàn thân tôi đau!. Tôi có tội, tức là đau phần hồn thì Chúa Giêsu là Đầu của Hội Thánh và Hội Thánh là Thân Mình Mầu Nhiệm của Ngài cũng đau theo!. Người Bên Lương thấy nỗi đau của đồng bào tin Đạo Chúa thì ”họ” cũng xót xa theo nghĩa Từ Bi!. Chúng ta cũng chạnh lòng với Tôn Giáo Bạn theo nghĩa Bác Ái!. Góp ý cho đồng loại, tức là muốn người khác cũng sống ngay lành mà được phúc!. Hạnh phúc chính là cảm giác khi ta chạnh lòng thương, kính trọng và chiêm ngưỡng nỗi đau của người khác!. Chạnh lòng mà không ra tay cứu giúp khi mình có khả năng thì là bất nhân!. Cho nên, không được phép gọi người phê bình, chỉ trích Giáo Hội là thành phần ”phá Giáo Hội” nếu như người ta nói đúng!. Định danh không tốt cho ”người làm ơn” là lỗi bác ái và đức công bằng!. Còn đối với người công giáo thì Giáo Hội được ví như Con Thuyền giữa biển khơi đầy sóng gió. Giáo Hoàng như là Thuyền Trưởng, Hoa Tiêu; giáo dân như là thủy thủ của Con Thuyền ”Giáo Hội”. Chính vì thế, bài hát ”Lạy Mẹ là Ngôi Sao Sáng” (Sao Biển) dạy chúng ta cầu xin như sau: ”Sóng va tứ bề! Thuyền con sắp hòng chìm theo nước xuôi dòng! Thân lạy Nữ Vương! Mẹ thấu tình con! Giúp con yên hàn chèo, bơi, bát, cạy! Mẹ thương đến con cùng!”

Rõ ràng ”Thuyền Trưởng Giáo Hoàng” rất cần ”cộng tác viên” là Mục Tử, là giáo dân!. Tất cả phải ra sức ”chèo, chống, bơi, bát, cạy, tát nước…” thì Mẹ Hằng Cứu Giúp mới nhậm lời nài van của mình!. Trong Con Thuyền Giáo Hội Việt Nam cũng vậy: Mục Tử như là người giữ mái chèo; giáo dân như người giữ mái dầm (chầm). Đôi bên cùng ra sức, chống đỡ nhau để đưa ”Con Thuyền Giáo Hội địa phương lướt nhanh” như tục ngữ Việt Nam có dạy: ”Buông tay dầm, cầm tay chèo!””cả hai” đều quan trọng, giúp thuyền tiến lên!. Công dân yếu thì vận Nước điêu linh!. Giáo dân mạnh thì Danh Cha cả sáng!. Vì thế mà Sách Giáo Lý khẳng định như sau: ”Giáo dân ở tuyến đầu của Giáo Hội!”. Bởi vì họ được ”trang bị” bằng Sức Mạnh vô biên của Thánh Linh để bảo vệ Thành Trì của Giáo Hội, tức là đánh tan được ba thù: ”Ma quỷ, thế gian, xác thịt” như lời ca nhập Lễ: ”Tứ vi dịch thù vây hãm! Lo gì! Có Chúa trong Thành: Dịch thù tan nát hết! Chúa trong lòng ta! Lo lắng gì! Hồn tôi ơi!”

Cho nên, xét cho cùng, cái mũ ”chống Giáo Hội” chụp lên đầu những Kitô hữu kính sợ Chúa chính là thành kiến ”cản mũi kỳ đà” chức năng tư tế, ngôn sứ, quân vương của Hàng Giáo Dân bởi vì thành kiến ấy lại phá Đạo ác liệt hơn cả Satan, bởi vì Satan rất ghét những người công chính!. Vậy thì nên hiểu ba chữ ”chống Giáo Hội” theo nghĩa tích cực là ”nâng đỡ, giúp đỡ, chống đỡ Giáo Hội”. Ngoài chữ ”đỡ”, người mình còn dùng chữ ”chống” như sau: ”lấy cột tre, cây gỗ để chống buồng chuối, giàn bí…; cột chống mái nhà…”. Chúng ta chỉ ”chống đỡ” Mục Tử và con chiên nào có quan điểm và việc làm ngược với Lời Chúa dạy. Chúng ta cộng tác trong việc chống Con Thuyền Giáo Hội Việt Nam đi đúng hướng với Giáo Hội Hoàn Vũ bởi vì chúng ta thương Giáo Hội là Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu, bởi vì Giáo Hội phải vinh Danh Chúa giữa mọi người!

Maisen xin Chúa chỉ cho ông ta thấy vinh quang của Ngài thì Ngài trả lời như sau: ”Ta sẽ cho ngang qua trước mặt con tất cả sự tốt lành của Ta và Ta sẽ kêu Danh Chúa trước mặt con; Ta sẽ đoái thương người nào thương Ta, và Ta sẽ xót thương người nào thương xót Ta.” (X. Hành 33, 19)

Thương xót Giáo Hội chính là thương xót Chúa!. Người ”chống” là cầm sào mà ”thọc, tì” thật mạnh vào vật cứng để đẩy thuyền, ghe, bè, xuồng … đi tới!. Giáo dân sử dụng SÀO ĐỨC TIN, ”bám, tựa” vào Lời Chúa để cùng với Mục Tử CHỐNG THUYỀN GIÁO HỘI ra khơi!. Vâng Lời Thầy Chí Thánh, giáo dân có tội tình gì trong việc góp ý khi thấy Mục Tử chưa, thậm chí có khi là không ”kết hợp chặt chẽ” với Cây Nho là Thầy?. Con cái thấy nhà mình bị dột, đứng khoanh tay mà nhìn, rồi để ”mặc kệ nó”, là bất hiếu, vô ơn với đấng sinh thành, dưỡng dục. Thấy Giáo Hội Việt Nam đã có tuổi đời hằng mấy trăm năm, chỉ ”chiếm” tỷ lệ quá thấp vì nhiều lý do, trong đó lỗi lầm của Mục Tử và con chiên cũng là nguyên nhân chính ngăn cản Nước Cha trị đến, mà giáo dân khác không lên tiếng góp ý xây dựng thì có nghĩa là đồng tình, là vô trách nhiệm, hay là nhân danh chủ nghĩa ”mặc kệ” (mackéïsme, Mackeïsmus) cho khỏi bị rầy rà, khỏi mang tiếng ”phá Đạo”!

Tình mến là ”thước đo lòng người”! Alphonse Kaar phát biểu: ”Tình yêu là cuộc đi săn mà thợ săn phải để cho thú săn theo mình”. Sau khi phạm tội ”tày trời” là chối Chúa tới ba lần, rồi hiểu được ý nghĩa khổ nạn, sự chết và việc phục sinh của Chúa, Phêrô cũng được Ngài ”vặn hỏi” tới ba lần: ”Con có mến Ta không?” Chúa như là Thợ Săn; còn Phêrô như là thú săn chạy theo Thợ Săn tuyệt vời! Cho nên ông buồn khi được Chúa hỏi tới lần thứ ba để rồi phải xác tín như sau: ”Lạy Chúa, Chúa biết hết mọi sự. Chúa biết con mến Chúa!”

Lòng mến chẳng những đã cứu Phêrô khỏi tội chối Thầy, mà còn là ”tiêu chuẩn số một” để ông được Chúa chọn làm Giáo Hoàng Tiên Khởi, tức là Chủ Chăn Đàn Chiên là Giáo Hội của Chúa! Léonard de Vinci nói: ”Càng nhận biết thì càng yêu”. Thật vậy, được Chúa trả lời cho câu hỏi ”Thưa Chúa, Chúa đi đâu? – Quo vadis, Domine?”, Phêrô làm theo Lời Chúa là trở về Roma, xin ”được đóng đinh, mà đầu lộn ngược” để làm vinh Danh Thầy bởi vì ông đã quán triệt Sứ Mạng Cứu Rỗi mà Thầy truyền lại cho mình! Ý nghĩa của Sứ Mạng ấy đã được ghi lại trong Thánh Ca, theo Tin Mừng Thánh Gioan 15,13 như sau: ”Còn tình yêu nào cao quý hơn là tình yêu người liều mạng sống vì người mình yêu!”. Ở đoạn khác, Thánh nhân còn ghi lại Lời Chúa dạy thế này: ”Ta ban cho các con một điều răn mới: Hãy yêu mến nhau. Ta đã yêu các con như thể nào thì các con hãy yêu mến nhau như vậy. Theo dấu này, mọi người sẽ nhận ra các con là môn đệ của Ta: Đó là các con có tình thương mến nhau.” (Gioan 13,34-35) Mà đã thương thì phải sửa lỗi cho người mình thương!

Hồi còn bé, tôi được nghe kể chuyện thế này: Khi đến tuổi già, Thánh Gioan chỉ lặp đi, lặp lại bài giảng ngắn gọn như sau: ”Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen. Các con hãy yêu thương nhau. Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.” Bài giảng nghe hoài, chán tai, nhưng đó là ”linh hồn” của Giáo Hội! Cho nên người không có Đức Mến thì ”nguy hiểm” hơn cả Xatan bởi vì ”họ” ích kỷ và kiêu ngạo, mà lại ở ngay trong lòng Giáo Hội!. Chính họ còn tệ hơn cỏ lùng mọc chung với lúa bởi vì ”nhất cự ly, nhì cường độ”! Câu ”Gần mực thì đen” nói lên sự tác hại của gương xấu! Còn câu ”Gần đèn thì sáng” nói về ảnh hưởng tốt của gương lành! Nhưng ”đèn” không có ”lửa”, không ”cháy” rực lòng mến thì ”sáng” làm sao được? Chính Chúa Giêsu đã báo động người lớn như sau: ”Ai là cớ vấp phạm cho một trong những đứa trẻ này đang tin Ta thì thà buộc cối đá xay vào cổ nó và quăng nó xuống biển còn hơn.” (Marcô, 9, 42) Chúa còn dạy: ”Các con là muối đất. Nếu muối mà nhạt thì lấy gì làm nó mặn lại? Nó chẳng còn ích gì, chỉ đem đổ ra ngoài cho người ta dẫm đạp. Các con là ánh sáng thế gian… Ánh sáng của các con phải chói lọi trước mặt người đời ngõ hầu họ thấy việc lành các con làm mà tôn vinh Cha các con ở trên trời.” (Mathêô, 5, 13-16) Chúa dùng chữ ”chói lọi” khác với ”leo lét”!

Chúng ta thường đọc: ”Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con đặng biết việc phải làm, cùng khi làm, xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh, mỗi việc chúng con từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen.” Trong Cựu Ước, Ysaya 60, 19 nói về Thiên Chúa là Ánh Sáng như sau: ”Ngươi sẽ không cần nhờ mặt trời soi chiếu ban ngày, ngươi sẽ không cần nhờ vầng trăng soi chiếu ban đêm. Chúa sẽ là ánh sáng cho ngươi muôn đời. Chúa sẽ là vinh quang của ngươi.” (Thánh Ca Việt) Còn Khải Huyền thì viết: ”Và Thành không cần mặt trời, mặt trăng soi chiếu vì vinh quang Thiên Chúa chói lọi trên Thành; và đèn soi trên Thành là Chiên Con.”

Người cộng sản vô thần không tin có Đấng Hóa Công vì chẳng biết gì về Ngài, tức là ”vô tri!””vô tri” thì ”bất mộ!” Đã ”bất mộ Đạo mà họ coi là thuốc phiện” thì việc phải phá Đạo là chuyện đương nhiên!. Nhưng người đã tin, đã biết rõ Xatan là ai, mà còn ”làm lợi” cho nó bằng cách này hay cách khác, bằng lời lẽ ngụy biện dối trá vì tư lợi, chức quyền, danh vọng, tức là chẳng tuân giữ Mười Điều Răn nên cũng lờ đi việc người cộng sản đang xúc phạm đến Mười Điều Răn thì những người đó đáng ”bị phạt nặng hơn mà chớ!” bởi vì không thực hiện chức năng tư tế, ngôn sứ, quân vương giữa lòng Dân Tộc!

Ngày xưa, đi chân không, mà Mục Tử đến tận những nơi không được an toàn, vùng đèo heo hút gió, xa xôi, xa thẳm, xaxa, mà lại đi gần! Nơi xa dễ đến là những nước có cuộc sống xa hoa, xa phí, có nhiều xa xỉ phẩm! Nhiều VỊ có đôi chân khỏe, mà cứ ru rú ở nhà, trong ”khuôn viên” của mình, chỉ muốn ngồi yên trên xa-lông thành ra xa lìa con chiên là xa rời thực tế! Lời rao giảng của các NGÀI tưởng chừng được lan xa, nhưng lại trở thành xa vời, xa cách với lòng người! (Xin xem VietCatholic: ”Ưu Tư Truyền Giáo tại một vùng ở Việt Nam” ”Suy tư về nghịch lý trong vùng đất truyền giáo”.) tít! Còn ngày nay, nhiều VỊ có phương tiện để được đi xa, mà lại đi gần! Nơi xa dễ đến là những nước có cuộc sống xa hoa, xa phí, có nhiều xa xỉ phẩm! Nhiều VỊ có đôi chân khỏe, mà cứ ru rú ở nhà, trong ”khuôn viên” của mình, chỉ muốn ngồi yên trên xa-lông thành ra xa lìa con chiên là xa rời thực tế! Lời rao giảng của các NGÀI tưởng chừng được lan xa, nhưng lại trở thành xa vời, xa cách với lòng người! (Xin xem VietCatholic: ”Ưu Tư Truyền Giáo tại một vùng ở Việt Nam” ”Suy tư về nghịch lý trong vùng đất truyền giáo”.)

Sống dưới chế độ tự xưng là ”lương tri của thời đại, đỉnh cao của trí tuệ”, người yêu Nước, thương. Nói mà ”thẳng thắn, thành thật, thiết tha thì thường thành thiếu thốn, thua thiệt thê thảm!”. Còn ai ”lách luồn, len lỏi, lương lẹo, lạy lục, liếm láp lại lên lương lẹ làng!”. Xin hiểu Lời Chúa: ”Nước TA không thuộc về thế gian này!” cho đúng nghĩa là: ”Quyền Năng của Ta không bởi loài người, không có bạo lực bất nhân trong Nước Ta!” Và xin đừng quên câu tiếp theo: ”Ta là Vua như ông đã nói! Vì thế Ta đã sinh ra, đã đến trong thế gian để làm chứng cho sự thật.” (Gioan 18, 36, 37). Ước gì Dân Chúa cứ an tâm, mạnh dạn làm theo Lời Ngài dạy: ”Hãy nói có, có, không, không. Thêm thắt điều là do Ác Tà!” (Math. 5, 37). Xin Chúa ”trả công” cho những người có lòng ngay:
    BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO NGƯỜI THIỆN TÂM!
Đaminh Phan văn Phước (Düsseldorf, 01.7. 2010)



Thursday, July 1, 2010

'Sadistic' priest jailed for abusing 39 boys

By court reporter Jamelle Wells
Source: http://www.abc.net.au/news/stories/2010/07/02/2943303.htm

The public gallery of a Sydney court has burst into applause as a Catholic priest was sentenced to at least 13 years and 10 months in jail for abusing 39 schoolboys whose complaints about him were mostly ignored.

John Sidney Denham, 67, pleaded guilty to sexually abusing the boys at schools in Sydney, Newcastle, the Hunter Valley and Taree between 1968 and 1986.

Most of the students were from Newcastle's St Pius X High School, where Denham was a teacher from 1975 to 1980.

In sentencing today, District Court judge Helen Syme said some of the offences were "sadistic" and "contributed to a culture of fear and depravity" in the schools he taught at.

Justice Syme said many complaints about the former priest were not acted on and students left school early to avoid his attentions.

She said the priest showed some of his victims pornographic movies and gave others chocolates, alcohol and money.

Downing Centre District Court heard Denham had asked one of his victims, who was then aged between 11 to 13, to be his "special friend".

Justice Syme said while Denham had forgiven himself for what he had done, she was not satisfied he was genuinely remorseful.

Denham sat hunched over looking at the ground and avoiding the gaze of his victims and their families, as he was sentenced to a maximum sentence of 19 years and 10 months, with a non-parole period of 13 years and 10 months for 135 offences.

His victims and their supporters in the public gallery burst into applause.

Abuse well-known

Some of his victims left the court at times today while Denham was being sentenced.

Afterwards, one of them said the abuse was well-known among students at his school. He said when the former priest walked past them, they would say, "Denham's on the crawl".

He said there were probably other victims who had not come forward.

The mother of one of the victims said the abuse had "ruined families" and the Catholic Church should have done something sooner.

"It's disgusting, the hierarchy in the Catholic Church. I can't believe it," she said. "I can't believe I sent my children to a school like that."

Another of the victims said, "My only hope from the result we achieved today is that other abuse victims have the strength and courage to come forward and achieve justice as we've seen today."

'Mere scumbag paedophile'

Yesterday, Denham told the court he had spent the past 25 years trying to work out why he abused the boys.

"All I can say is, I am so sorry," he said. "I see myself as a mere scumbag paedophile who took advantage of a situation and used my power to abuse young people."

Denham said he could only put the crimes down to hubris, telling the court, "It was as if I thought no-one could resist me".

He said he preyed on the boys because he felt sorry for them.

Under cross examination from the Crown Prosecutor, the court heard Denham said the children were "little bastards who were already in trouble from their teachers."

He said they were sent to him to be disciplined.

The former priest said he realised he was attracted to power and had convinced himself the children were consenting.

A psychiatrist told the court, despite the guilty plea, Denham was still in denial about being a paedophile.

Denham has been in custody since he was arrested in August, 2008. His arrest stemmed from an initial complaint in April that year.

XÉT LẠI VẤN ĐỀ CHA LÝ CHỐNG CỘNG - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Đề cập đến vấn đề này, cầm chắc cái là bọn Việt Tân, dân chủ cuội, và bè lũ chống cộng bịp sẽ gầm gừ, tru tréo lên inh ỏi, bởi vì người viết đã dám đụng đến thần tượng. Còn người hiểu biết, tôi tin rằng họ sẽ đồng tình, vì đây là một việc làm nên làm. Kẻ chửi bới không lạ gì, bởi vì thần tượng hoặc thánh nữ, sư tổ chúng đã đặt lên bàn thờ rồi thì đệ tử đứa nào dám hạ xuống? Bọn tôn thờ thần tượng có hiểu rằng người viết cũng đã từng thờ tượng thần như chúng? Ngay từ khi Lm Nguyễn Văn Lý vừa trương lên tấm bảng “Tự Do Tôn Giáo Hay Là Chết”, kẻ hèn này đã đưa lên nhiều trang Net 4 bài viết để ủng hộ cuộc đấu tranh của ngài. Sự thể nói lên rằng người viết cũng đã từng coi cha Lý là thần tượng. Thế nhưng càng về sau, nhiều việc cha Lý làm, nhiều lời cha Lý tuyên bố cho thấy ngài có vấn đề. Vấn đề là gì, trong khi người viết chưa hình dung ra được, thì ngẫu nhiên, ông Võ Đình Chương đã nói huỵch toẹt: “ … Cha Lý là nạn nhân của những con buôn chính trị mà thôi”. (Võ Đình Chương: Thông Cáo Báo Chí ngày 20-4-2010. Xin xem Attached file). Đấy là người đồng chí của cha Lý nói, chứ chẳng phải ai xa la.

Với bài viết này, dựa trên những chứng liệu khả tín đã được phổ biến, chúng tôi muốn làm công việc xét nghiệm lại những suy nghĩ của mình trước đây về Lm Nguyễn Văn Lý. Việc làm này nếu được coi là một thiện ý thì đã là điều may mắn cho người viết lắm rồi.

Người Ôm Giấc Mộng Buôn Vua

Theo Sử Ký Tư Mã Thiên, Tần Thủy Hoàng đế là con của Trang Tương Vương nước Tần. Trang Tương Vương lúc còn là hoàng tử Tử Sở bị thất sủng, được gởi sang làm con tin ở nước Triệu. Tử Sở thấy người thiếp của Lã Bất Vi tên là Hạ Cơ xinh đẹp nên đem lòng yêu thích. Lã Bất Vi, một con buôn rất nhiều mánh lới, thuận nhượng vợ để ôm mộng buôn vua kiếm lời. Khi Hạ Cơ lấy Tử Sở thì đã có mang với Lã Bất Vi. Hạ Cơ đẻ con đặt tên là Chính. Sau này Chính lên ngôi hoàng đế nước Tần là Tần Thủy Hoàng. Như vậy về danh nghĩa, Thủy Hoàng đế là con Trang Tương Vương, nhưng thực tế lại là con ruột của Lã Bất Vi. Tử Sở lên làm vua nước Tần, cho Lã Bất Vi làm Thừa Tướng, phong là Văn Tín Hầu, ăn thuế mười vạn hộ ở Hà Nam, Lạc Dương. Trang Tương Vương làm vua được ba năm thì mất, thái tử Chính lên nối ngôi hiệu là Thủy Hoàng Đế, phong Lã Bất Vi làm tướng quốc, gọi là trọng phụ. Người đời sau gọi Lã Bất Vi là kẻ buôn vua.

Lm Nguyễn Văn Lý đang là người ôm mộng buôn vua giống như Lã Bất Vi. Trong Thông Cáo Báo Chí thượng dẫn, ông Võ Đình Chương viết về một cuộc điện đàm giữa ông với Lm Lý như sau: “Tôi đề cập đến Ban Đại Diện của Đảng Thăng Tiến (Anh Nguyễn Phong và Anh Nguyễn Bình Thành). Cha Lý trả lời rằng (nguyên văn): Những người bị bắt đó là người ta xung kích ra như vậy để xem coi thử bên kia họ đối xử như thế nào, để từ đó mà ứng xử, chứ những người này là những cái …. cái vật tế thần! Họ là những cái người hy sinh thế thôi, không phải là cái người điều hành thực sư Còn cái người điều hành thực sự thì người ta lại thông giỏi hơn nhiều … Cần cái người sau này để làm việc chứ lệ, chứ mấy anh đó thì có gì đâu … ”.

Trước hết cần minh xác một điều. Bởi vì ông Võ Đình Chương đã viết rõ trong Thông Cáo rằng những điều cha Lý nói đều đã được ông thu âm làm tài liệu, từ hơn hai tháng nay, người ta không thấy cha Lý lên tiếng bác bỏ hoặc giải thích những tố cáo của ông Chương, như vậy Thông Cáo Báo Chí của ông Võ Đình Chương là một tài liệu hoàn toàn xác thực và đáng tin cậy. Đem Thông Cáo Báo Chí, và đặc biệt là trích đoạn trên đây quy chiếu vào các hoạt động đấu tranh của Lm Nguyễn Văn Lý cho thấy, ngài là một chính khách nhiều tham vọng, thủ đoạn, và tàn ác.

Trước hết cha Lý là một chính khách. Thật vậy, khi dựng lên tấm bảng “Tự Do Tôn Giáo Hay Là Chết”, cha Lý là một linh mục hiền hậu và nhân ái. Ngài chỉ là một cá nhân đứng lên hô hào toàn dân đấu tranh đòi quyền tự do tôn giáo và các quyền tự do công dân khác. Thế Nhưng chẳng bao lâu, ngài biến thành một chánh khách từ lúc nào. Từ mục tiêu đấu tranh cho tự do tôn giáo và nhâm quyền, ngài chuyển sang tranh đấu chính trị đảng phải. Chính thức thì ngài chỉ thành lập và trực tiếp điều hành Khối 8406 như trong bản tiểu sử của ngài do Ls Hoàng Duy Hùng viết, hoặc như ngài trả lời phỏng vấn nhà báo Mạc Việt Hồng ngày 12-6-2010: “Thực sự, tôi có tuyên bố với cơ quan an ninh rằng, quý vị muốn cho tôi ra khỏi trại giam chữa bệnh hay không thì tùy quý vị, nhưng khi tôi ra ngoài, tôi sẽ tiếp tục điều hành khối 8406 ngay”. Cũng nên nói cho rõ là Lm Lý không minh danh thành lập đảng chính trị, nhưng ngài đứng mũi chịu sào và là linh hồn của các đảng Thăng Tiến, đảng Vì Dân, và Liên Đảng Lạc Hồng.

Một công dân đứng lên lập đảng tranh đấu chống cộng là việc làm chính đáng. Nhưng một linh mục thành lập tổ chức cho mục đích làm chính trị sẽ rơi vào cái thế bất lợi ít nữa là về hai phương diện. Thứ nhất là vi phạm luật Giáo Hội nên sẽ không được GH ủng hộ. Thứ hai là động lực chính trị thúc đẩy khó đúng đường. Chính khách hoạt động cho mục tiêu nhắm tới là quyền lợi. Trong khi linh mục làm việc do lương tâm thúc đẩy một cách vô vị lợi. Hai động cơ khác nhau, từ đó khẳng định rằng ông linh mục đấu tranh để phục vụ cho những mục tiêu chính trị đảng phái sẽ hỏng việc. Không những thế, Lm Nguyễn Văn Lý còn cho thấy ở ngài có nhiều đặc điểm của một chính khách khá dầy dạn:

- Tham vọng - Cha Lý sử dụng đảng Thăng Tiến như một con bài cho những mưu tính thầm kín nào đó trong lúc ban lãnh đạo đảng đang ở trong tù. Ngài còn để lộ ra một mưu đồ lớn là tự mình sẽ chỉ định những người lãnh đạo đất nước sau này: “Còn cái người điều hành thực sự thì người ta lại thông giỏi hơn nhiều … Cần cái người sau này để làm việc chứ lệ, chứ mấy anh đó thì có gì đâu…”. Tóm lại, cha Lý có tham vọng trở thành một siêu lãnh tụ, hay như một thái thượng hoàng thời phong kiến, nghĩa là người có quyền tự ý lập hay phế vua, thời nay là những người nắm vận mệnh đất nước. Tham vọng buôn vua của cha Lý hiện rõ ở điểm này.

- Độc ác - cha Lý đẩy Nguyễn Phong, Nguyễn Bình Thành, và Hoàng Thị Anh Đào là những người vừa là con chiên, vừa là đồng chí của ngài vào tay VGCS để đo lường phản ứng của chúng. Những nạn nhân này đều là người có học, có người đi làm lương khá cao, dám bỏ tất cả để bán mạng cho cha Lý. Họ đã bị dư luận bỏ quên, còn cha Lý thì không được một lần nhắc tới, nên gia đình hiện nay thật khốn đốn. Họ đúng là những con dê tế thần như cha Lý nói. Trong khi đó ngài dành tất cả ưu ái cho bọn dân chủ cuội, tay chân của ngài nhởn nhơ bên ngoài vòng kềm tỏa của công an.

- Thủ đoạn - Cha Lý từng trực tiếp nói với nhà thơ Chinh Nguyên: “Tôi sẽ làm mọi cách để họ bắt tôi. Đó là tôi đã chứng minh cho thế giới biết chế độ độc tài CS ở VN không có tự do tôn giáo và nhân quyền ….. CS nhất định phải bắt tôi.” (Xem cuộc đời đấu tranh cho tôn giáo và dân chủ nhân quyền - Tập I trang 5-6). Thủ đoạn này của Lm Lý là cao kiến, không có gì đáng phê phán. Cha Lý dùng thủ đoạn để vô tù, nhưng ngài cũng đã dùng thủ đoạn để ra khỏi nhà tù. Đây mới là chuyện đáng nói, bởi vì cái thủ đoạn cha Lý sử dụng để ra tù là một hành vi đầu hàng hết sức ô nhục. Một linh mục đấu tranh cho một lý tưởng cao cả không thể hành xử như vậy đối với kẻ thù của tôn giáo là CS. Một linh mục phải sống như một linh mục, và nếu chết cũng phải chết như một linh mục. Linh mục không được phép khuất phục những kẻ gian ác làm hại xã hội.

Trong thời gian nằm tù lần trước, Lm Lý đã viết hai lá tâm thư. Thư thứ nhất ngày 17-4-2003 gởi Hội Đồng Giám Mục VN để tỏ lòng ăn năn xám hối về việc tranh đấu đã làm bận tâm đến các giám mục. Thư thứ hai viết ngày 27-6-2003 gởi Quốc Hội Hoa Kỳ để xin hủy bỏ Dự Luật Nhân Quyền và Dự Luật Tự Do Tôn Giáo cho VN. Cha Lý cho rằng với hai Dự Luật đó, QH Mỹ đã xâm phạm chủ quyền của VN. Theo Lm Nguyễn Văn Lý, VN đã đạt được 4 thành tựu cơ bản là độc lập thống nhất, công bằng xã hội, không nô lệ nước ngoài, và an ninh ổn định vững chắc. VN đang nỗ lực thực hiện cải cách trên tất cả mọi mặt, đặc biệt về nhân quyền và tôn giáo. Cha Lý nhấn mạnh: nhà nước VN không đàn áp tôn giáo (xin xem attached file Tâm Thư).

Ngày 19-10-2001, cha Lý bị kết án 15 năm tù. Sau khi viết hai lá thư đầu hàng trên, ngài được VGCS thả trước thời hạn vì lý do học tập tốt, cải tạo tốt. Ngài ra tù tháng 2-2005. Qua lá thư này, đặc biệt với câu “nhà nước VN không đàn áp tôn giáo”, cha Lý đã tự phủ nhận chính mình và tất cả công cuộc đấu tranh của mình. Ngài không còn tư cách gì và mặt mũi nào để đấu tranh nữa. Nếu có ai cho rằng cha Lý bắt chước Hàn Tín dùng hạ sách này để nín thở qua sông, thì cũng nên hiểu rằng Hàn Tín chui háng anh chàng bán thịt cốt được sống để kiếm công danh. Không lý một linh mục công giáo cũng dễ dàng hàng phục những kẻ gian ác hầu được sống mà mưu cầu công danh như Hàn Tín?

Con Đường Vô Định

Cha Lý đấu tranh chống cộng với cách thức có thể nói là bá đạo như trên đáng được kể là người có chút bản lãnh chính trị. Nhưng với CS mà bấy nhiêu bản lãnh thôi chưa đủ. Cần rất nhiều hơn nữa. CS giết người không run tay. Cha Lý phải là người một ngày không nhìn thấy máu ăn cơm không ngon. CS lưu manh thủ đoạn. Cha Lý phải thủ đoạn lưu manh hơn chúng gấp bội v.v. Tóm lại mặt nào cha Lý cũng phải trên cơ CS thì mới thắng được chúng. Còn nếu không chủ thắng CS bằng con đường bá đạo, thì một linh mục đấu tranh cho công lý và công bằng xã hội có lẽ nên tìm con đường khác mà đi thì tốt hơn. Bởi vì con đường nửa chừng “xuân” là một con đường vô định. Để minh chứng rằng đường lối đấu tranh của Lm Nguyễn Văn Lý là con đường vô định, chúng tôi xin nêu ra tấm gương linh mục Jerzy Popieluszko để quý bạn đọc có cơ sở đối chiếu. Lịch sử Balan chứng minh đường lối chống cộng của cha Jerzy đã đem lại thành quả tốt đẹp.

Trên đời này, đối với một người đàn bà, không có đau khổ nào to lớn bằng sự đau khổ bà phải chịu khi nhìn thấy tận mắt đứa con của mình bị giết chết. Cũng trên đời này, đối với một bà mẹ công giáo, không có gì vui sướng nào bằng sự vui sướng khi bà còn sống được tham dự buổi lễ phong thánh cho người con yêu quí của mình.

Trong thời đại chúng ta, một người đàn bà có lẽ duy nhất từng trải qua cả nỗi bất hạnh lẫn niềm vui vô cùng lớn lao kia là cụ bà Marianna, thân mẫu linh mục Popieluszko. Cha Jerzy Popieluszko được Tòa Thánh tôn phong chân phước ngày 6-6-2010 vừa qua. Buổi lễ tôn phong cử hành tại công trường Pilsudski, Warsaw, thủ đô của Balan, với khoảng 150.000 ngàn người tham dự, cùng với sự hiện diện của bà mẹ của Thánh Nhân là cụ bà Marianna, chị, và các anh em trai của ngài.

Jerzy là một linh mục người Balan sanh ngày 14-9-1947. Tháng 5-1972 thanh niên Jerzy chịu chức linh mục. Sau đó ngài đảm trách nhiều công việc mục vụ khác nhau và sau cùng là nhiệm vụ tuyên úy cho Công Đoàn Đoàn Kết, một công đoàn độc lập tại Ba Lan. Cuối năm 1981, cuộc đấu tranh đòi cải cách chính trị, xã hội và chống độc tài của Công Đoàn dâng cao, nhà cầm quyền ban bố lệnh thiết quân luật và đàn áp Công Đoàn. Cha Jerzy luôn là niềm an ủi cho những công nhân bị bắt bớ và gia đình của họ. Nói chung, ngài là chỗ dựa tinh thần của tất cả mọi công nhân. Trước tình trạng cuộc đàn áp càng ngày càng khốc liệt, hàng chục người bị giết chết hoặc bị thủ tiêu. Hàng ngàn người bị tù đầy hoặc bị khống chế. Cha Jerzy đi đến tận nơi công nhân đình công để dâng thánh lễ và giảng thuyết. Ngài nẩy sinh ra sáng kiến mỗi tháng dâng một thánh lễ cầu cho đất nước. Các thánh lễ này qui tụ hàng chục ngàn công nhân tham dự. Trong các bài giảng, ngoài khía cạnh thiêng liêng, ngài còn lên tiếng chống đối những chính sách bất công của CS. Ngài khuyến khích và thúc dục mọi người can đảm đứng lên đấu tranh cho công lý và nhân quyền. Đường lối đấu tranh của ngài là “lấy việc thiện để thắng sự gian tà”. Lm Popieluszko không tham dự vào việc lãnh đạo hay điều hành Công Đoàn. Việc đó đã có công nhân lo. Nhưng các công nhân tin rằng cha Jerzy mới chính là linh hồn của Công Đoàn Đoàn Kết. Con người ta sẽ không thể sống nếu không có linh hồn. Công Đoàn cũng thế, nếu không có Lm Popieluszko, nó sẽ không tồn tại.

Chính vì cha Popieluszko là linh hồn của Công Đoàn Đoàn Kết, nói khác đi là của phong trào đấu tranh, nên CS Balan nhất định phải tiêu diệt ngài. Chúng tưởng rằng giết chết ngài, Công Đoàn Đoàn Kết sẽ chết theo. Nhưng chúng đã lầm vì linh hồn bất tử, không thể giết chết được. Cha Jerzy trở thành cái gai trong con mắt bon CS Balan. Để loại trừ đi cái gai này, chúng tìm mọi cách, mọi thủ thuật để trừ khử ngài, từ dụ dỗ cho đi du học, dùng bề trên áp lực, đến các hình thức sách nhiễu, vu cáo, thóa mạ, ngụy tạo chứng cớ để truy tố, kết tội, khám xét, tra hỏi, bắt bớ, đánh đập, ngụy tạo đụng xe để giết chết nhưng ngài thoát nạn v.v. Tất cả mọi biện pháp không làm được cho cha Jerzy chùn bước, vì ngài cho rằng bổn phận của linh mục là phải công bố và làm chứng cho sự thật. Sự thật đó là nhân dân Balan bị CS đàn áp. Họ không có tự do.

Cuối cùng mật vụ Balan cũng làm được cho cha Jerzy phải im tiếng được bằng cách chúng chận xe bắt cóc ngài. Sau khi đánh đập cha Jerzy thật tàn nhẫn đến ngất xỉu, chúng liệng xác ngài xuống sông, 11 ngày sau người ta mới vớt được xác ngài. Một điều mà bọn CS Balan không thể ngờ được là sau cái chết của cha Popieluszko, tinh thần đấu tranh của Công Đoàn Đoàn Kết càng ngày càng lên cao, và cuối cùng đã đem lại cuộc giải phóng đất ngước Balan khỏi bàn tay của CS. 25 năm sau khi bị thủ tiêu, ngày 6-6-2010, cha Jerzy Popieluszko được Tòa Thánh tôn vinh lên bậc Chân Phước, bước đầu của việc ngài được phong thánh.

Như đã thấy, trong công cuộc cách mạng giải phóng Balan khỏi ách độc tài CS, Công Đoàn Đoàn kết có cái linh hồn là Lm Jerzy Popieluszko. Đó là điểm cần nhấn mạnh. Bọn VGCS ý thức rất rõ điều này. Do đó, chúng tiêu diệt tức khắc và thẳng tay bất cứ vị lãnh đạo tinh thần nào có khả năng trở thành linh hồn cho cuộc đấu tranh. Lm Popieluszko chỉ làm nhiệm vụ tuyên úy. Vũ khí của ngài là những bài giảng và chăm lo săn sóc đời sống tinh thần của công nhân. Đường lối của ngài là dấn thân phục vụ và quyết tâm thắng cái ác bằng cái thiện với tinh thần vượt trên mọi sợ hãi. Kết quả của cuộc chiến đấu không ồn ào của Lm Popieluszko là nước Balan được giải phóng, và ngài được Giáo Hội công nhận là một vị Thánh Tử Đạo.

Điều thiệt thòi cho Lm Nguyễn Văn Lý là ngài không có được môi trường thuận lợi để đấu tranh như Lm Popieluszko. Trong khi cha Popieluszko có Công Đoàn Đoàn Kết thì cha Lý phải tự tao ra môi trường là Khối 8406 và các đảng phái. Nhưng như chúng tôi đã phân tích trên, việc làm này không những không thích hợp cho một linh mục, mà còn có thể gây tai hại nữa như chúng ta đã thấy tại VN và ở nhiều nước khác. Cha Lý ở trong tù, hoặc chỉ ngồi một chỗ nên bị bao vây bởi vòng trong vòng ngoài là những tên công an trá hình và lũ dân chủ cuội. Ở hải ngoại ngài bị bọn Việt Tân và chống cộng bịp thổi ống đu đủ nên cứ tưởng mình là thần tượng, là lãnh tụ. Thực ra ngài đã bị chúng lợi dụng, đúng như ông Võ Đình Chương nói. Vì thế người ta không ngạc nhiên khi thấy đường lối đấu tranh của ngài không khác gì con đường hòa hợp hòa giải của Việt Tân. Cách thức đấu tranh của ngài còn lại đến lúc này chỉ là tuyên truyền đánh bóng cá nhân. Nó có những đặc điểm như sau:

- Hướng ngoại - Cuộc đấu tranh đúng lý chủ yếu phải là vận động quần chúng trong nước như Lm Popieluszko đã làm mới phải. Trọng tâm của vấn đề lật đổ CS là vận động đồng bào trong nước, chứ không phải chủ yếu tranh thủ dư luận người tỵ nạn và của thế giới bên ngoài. Thưc sự không mấy người dân trong nước biết cha Lý, cha Lợi là ai, bọn Thanh Giang, Trần Khuê, Đỗ Nam Hải, Nguyễn Khắc Toàn v.v. là thằng chó nào. Thế nhưng cha Lý và có thể nói là tất cả mọi nhân vật tranh đấu cuội trong nước đều hướng tiếng nói ra bên ngoài, nghĩa là chỉ chống cộng sản ở chỗ không có CS. Một thí dụ cụ thể là tờ báo bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận chủ yếu là phát hành trên internet cho người tỵ nạn ở hải ngoại đọc. Trong nước có ai biết và đọc nó đâu. Đường lối chống cộng hướng ngoại chỉ có tác dụng gây xúc động tâm lý người tỵ nạn hầu đánh bóng các thần tượng, thánh nữ ở trong nước, để từ đó, bọn con buôn chính trị lừa bịp những người ngu ngơ hầu dễ dàng móc túi họ. Chẳng có quốc tế nào còn quan tâm đến vấn đề CS tại VN nữa. Lý do là vì, theo cách đánh giá của người ngoại quốc, VN đã ổn định rồi. Ông Michalak, đại sứ Mỹ, không từng ca tụng VN đạt được tiến bộ về mọi mặt đấy sao!

- Nói nhiều - Nói nhiều nên hố nhiều. Trong Lời Kêu Gọi số 7 ngày 28-1-2001, Cha Lý công nhận VGCS đã góp công dành độc lập từ tay thực dân Pháp. Sao cha Lý giống Việt Tân thế. Báo của Việt Tân viết: Hồ Chí Minh là người yêu nước và đảng CSVN có công với Dân Tộc. Chẳng trách cha Lý luôn nạt những người bên cạnh hay phê phán Việt Tân: Đừng có chụp mũ cho người ta. Về điểm này, có thể nói rằng cha Lý không biết lịch sử. Hiệp Ước Élysées ký kết giữa Quốc Trưởng Bảo Đại và TT Pháp Vincent Auriol ngày 8-3-1949 đã đem lại độc lập cho VN. Nền độc lập này tuy chưa hoàn chỉnh, nhưng là một bước khởi đầu tốt đẹp. Người đuổi tên lính Pháp cuối cùng ra khỏi VN là TT Ngô Đình Diệm. Đảng VGCS là một chi bộ của Đệ III QTCS, chúng vâng lênh QTCS chiếm VN cho đế quốc Liên Sô chứ không hề đem độc lập lại cho Dân Tộc VN. Cha Lý còn nói rằng nếu thay đổi mà mất ổn đinh thì thà rằng cứ để cho đảng CS lãnh đạo còn hơn. Ngài cứ đọc lịch sử xem, có cuộc cách mạng nào không lâm vào tình trạng ít nhiều mất kiểm soát lúc ban đầu. Cha Lý luôn luôn đề cao đường lối tranh đấu bất bạo động. Đấu tranh bất bạo động luôn là điều đáng mơ ước. Nhưng giả sử rằng, trong một cuộc biểu tình tự phát mà sự phẫn nộ của quần chúng không còn kiểm soát nổi, đã trở thành cái gọi là bạo lực cách mạng, họ đình công, bãi thị, phá công ốc, giết cán bộ v.v. cha Lý có ra đấy mà ngăn cản quần chúng không, mà ngăn nổi sao? Nếu cuộc bạo động lật đổ được chế độ thì liệu cha Lý có thừa nhận cái thành quả đó không, hay ngài nói: tôi không chấp nhận bởi vì tôi chủ trương tranh đấu bất bạo động? Cho nên nhiều lời thường dễ bị hố. Chúng ta chỉ nên hiểu rằng ngài nói thể để tránh bị công an làm khó dễ. Cũng vô ích. Nếu cần, công an có thể đẻ ra một ngàn lẻ một lý do để còng tay cha Lý. Ngài không thể cãi lại chúng: tôi tranh đấu bất bạo động.

- Hoang tưởng - Thông Cáo Báo Chí của ông Võ Đình Chương có đoạn viết: Trong cuộc điện đàm với Cha Lý, ngài có đọc cho tôi nghe một lá thư của cán bộ đảng CSVN gữi cho Ngài như sau (nguyên văn): “Những người cộng sản càng ngày càng ủng hộ chúng ta. Tôi vừa nhận được lá thư, họ nói rằng: chúng tôi là những người vô thần 90% là đảng viên, nhưng nay nhờ ơn Chúa và nhờ cha, chúng tôi đã từ từ giác ngộ. Chúng tôi luôn luôn sát cánh với 8406 và âm thầm ủng hộ 8406. Chúng tôi là một tập thể đông lắm, hàng vạn người, và chúng tôi đang phải âm thầm như thế. Ngày cha chiến thắng, chúng tôi sẽ công khai xuất hiện và chúc mừng cha …”. Khi nghe cha Lý đọc lá thư này, tôi chợt nhớ đến hơn ba năm trước khi chưa bị vô tù, Ngài cũng đã nói với tôi là có sáu Uỷ viên Bộ chính trị CSVN ủng hộ ngài và 8406 ….

Đọc trích đoạn trên, người có trí khôn bình thường cứ coi như là chuyện Tề Thiên Đại Thánh đi để khỏi phải bận tâm thắc mắc. Người viết chỉ có một trong hai cách giải thích, một là cha Lý bị bệnh hoang tưởng quá nặng, hai là 6 thằng Ủy viên Bộ Chính Trị là 6 thằng điên, không điên thì cũng khùng.

Kết Luận

Ngày 8-6 vừa qua, cha Lý gởi đơn kiện VGCS lên Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (United Nations Human Rights Council) về các tội chúng vi phạm nhân quyền đối với tù nhân. Sau đó, ngài lên diễn đàn Paltalk cổ động cho vụ kiện cáo của mình. Thế giới không biết CSVN dã man sao? Mà Liên Hiệp Quốc nào xử cho cha Lý. Lại là chuyện cái kiến kiện củ khoai thôi. Chẳng có tác dụng thực tế nào cả. Nhưng khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Mạc Việt Hồng ngày 12-6-2010, cha Lý lại nói rằng (nguyên văn): “ tình hình tự do ngôn luận hiện nay cũng có những tiến bộ nhất định so với trước kia. Việc phát tán hay chuyển giao tài liệu hiện nay được thực hiện thoải mái hơn, công an họ cũng có kiêng dè hơn, ngần ngại hơn. Hay, tự do internet và điện thoại có tiến bộ hơn, anh em ít bị kiểm soát hay cắt điện thoại hơn so với trước kia”. Vấn đề đặt ra là, nếu tình hình VN mỗi ngày mỗi sáng sủa hơn, xã hội mỗi ngày mỗ tự do hơn như cha Lý nhận định, thì hà tất ngài còn phải nhọc công tranh đấu làm chi nữa cho mệt. Chịu khó chờ thêm tí nữa. Một xã hội hoàn chỉnh thế nào rồi cũng nắm trong bàn tay. Như thế cha Lý nên nghe theo lời khuyên của ông Võ Đình Chương: “Con chỉ mong cha yên tâm trị bệnh, như lời cha đã nói với con trong cuộc điện đàm là tòa giám mục nhận lãnh cha về để trị bệnh, chứ không phải về để lãnh đạo Khối 8406”.

Thiển nghĩ, đây là một lời khuyên chân tình, bởi vì ông Chương không muốn nhìn thấy cha Lý là nạn nhân của những con buôn chính trị. Còn nếu như cha Lý nhất quyết tiếp tục con đường đấu tranh, thì ngài nên lấy gương Lm Jerzy Popieluszko mà học hỏi. Biết đâu đấy cha Jerzy có thể đem cơ hội thành công đến cho cha Lý.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


THÔNG CÁO BÁO CHÍ
    Ngày 20 tháng 4 năm 2010

    Kính gửi : Quý Vị Thân Hào Nhân Sĩ

    Quý Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước

    Quý Cơ quan truyền thông, Báo Chí

    Kính thưa Quý Vị:
Tôi, Võ Đình Chương : Cộng tác viên với LM Nguyễn Văn Lý khi khối 8406 ra đời. Kể từ khi tôi gữi TỐI HẬU THƯ ngày 14.02.2010 yêu cầu lảnh đạo nhà nước csVN trả tự do cho Cha Lý để ngài được trở về nhà chữa bệnh, tôi đã hoàn toàn im lặng cho đến nay. Sau khi csVN tạm cho Cha Lý về nhà chung Tổng giáo phận Huế để trị bệnh, tôi đã trực tiếp nói chuyện với Ngài qua điện thoại 3 lần.

Lần thứ nhất, Ngài gọi cho tôi bằng máy di động từ VN để thăm hỏi sức khoẻ tôi. Tôi vô cùng xúc động trước sự bất ngờ được nghe lại giọng nói của Ngài vẫn còn như ngày nào. Trước đây hơn 3 năm, hầu như mỗi ngày, hoặc mỗi hai ngày, cha Lý và tôi ít nhất phải có một lần điện đàm trao đổi tin tức, tình hình, hoặc phỏng vấn thu âm để phát thanh trên đài Radio Hải ngoại. Vì tinh thần trách nhiệm cùng với tình cảm gắn bó với Ngài, tôi luôn luôn ủng hộ Ngài hết mình, không ngoài mục đích mong muốn cho quê hương và đồng bào VN được Độc lập, Tự do, Dân chủ và Nhân quyền.

Lần thứ hai, tôi trực tiếp gọi phone về cho cha Lý để kiểm chứng nguồn tin thân cận cho tôi biết là trong nước định sẽ giao quyền lảnh đạo (chức vụ Chủ tịch) của đảng Thăng Tiến VN cho một người khác (không cho biết tên). Còn anh Nguyễn Phong khi csVN thả về thì chỉ giữ nhiệm vụ là cán bộ của đảng mà thôi.

Sau khi trao đổi tình hình chung trong và ngoài nước giữa cha Lý và tôi, những vấn đề tiếp theo là:

1. Tôi đề cập đến Ban Đại Diện của Đảng Thăng Tiến (Anh Nguyễn Phong và Anh Nguyễn Bình Thành ). Cha Lý trả lời rằng (nguyên văn): “NHỮNG NGƯỜI BỊ BẮT ĐÓ LÀ NGƯỜI TA XUNG KÍCH RA NHƯ VẬY ĐỂ XEM COI THỬ BÊN KIA HỌ ĐỐI XỬ NHƯ THẾ NÀO, ĐỂ TỪ ĐÓ MÀ ỨNG XỬ. CHỨ NHỮNG NGƯỜI NÀY LÀ NHỮNG CÁI ..... CÁI VẬT TẾ THẦN! HỌ LÀ NHỮNG CÁI NGƯỜI HY SINH THẾ THÔI, KHÔNG PHẢI LÀ CÁI NGƯỜI ĐIỀU HÀNH THỰC SỰ. CÒN CÁI NGƯỜI ĐIỀU HÀNH THỰC SỰ THÌ NGƯỜI TA LẠI THÔNG GIỎI HƠN NHIỀU … CẦN CÁI NGƯỜI SAU NÀY ĐỂ LÀM VIỆC CHỨ LỆ, CHỨ MẤY ANH ĐÓ THÌ CÓ GÌ ĐÂU ....”(Hết trích)

2. Khi đề cập đến tình hình đảng Thăng Tiến, cha Lý nói (nguyên văn: “CẢ MỘT CÁI KHỐI TOÀN LÀ NHỮNG TRÍ THỨC CAO CẤP. TRƯỚC ĐÓ ĐÃ CÓ NHIỀU LẦN CÔNG NHÂN ( Lê Thị Công Nhân) NÓI RẰNG LÀ: THĂNG TIẾN ĐÃ CÓ KHOẢNG 700 TIẾN HỮU. ĐÚNG ! CŨNG CÓ NHƯ VẬY THẬT, NHƯNG HỌ VẪN NẰM IM, CHO ĐẾN BÂY GIỜ HỌ VẪN NẰM YÊN ….” (hết trích)

3. Khi cha Lý nói tiếp về Liên đảng Lạc Hồng, tôi hỏi ngài: “BÂY GIỜ AI ĐẠI DIỆN CHO LIÊN ĐẢNG LẠC HỒNG?” Ngài trả lời: “ĐẾN LÚC MÀ ANH PHONG ĐÃ BỊ BẮT RỒI Á! Ở TRONG NƯỚC LÀ COI NHƯ CŨNG TÊ LIỆT, THÌ TẠM THỜI ĐỂ YÊN ….” ( hết trích )

Dỉ nhiên trong các cuộc điện đàm này, có nhiều vấn đề khác nữa, nhưng vì có liên quan đến danh tánh của anh em trong nước, nên tôi chỉ trích một vài vấn đề quan trọng này thôi. Và như đã nói ở phần trên, tất cã các cuộc điện đàm với Cha Lý từ trước nay, tôi đều ghi âm để lưu hồ sơ làm chứng tích lịch sử. Các email liên hệ quan trọng tôi cũng in ra để lưu giữ. Nhờ đó, tôi đã mở nghe lại nhiều lần và không khỏi ngạc nhiên về những điều mờ ám và mâu thuẩn như sau:

- Trong phần 1 nêu trên, ở cuối câu, Cha Lý nói: “…CHỨ MẤY ANH ĐÓ (anh Phong và anh Thành ) THÌ CÓ GÌ ĐÂU”.

- Trong phần 3, cha Lý lại nói ngược lại: “ĐẾN LÚC MÀ ANH PHONG ĐÃ BỊ BẮT RỒI Á! Ở TRONG NƯỚC LÀ COI NHƯ CŨNG TÊ LIỆT, THÌ TẠM THỜI ĐỂ YÊN.”

Như vậy chính Cha Lý đã xác nhận: Anh Nguyễn Phong là người lảnh đạo quan trọng của đảng Thăng Tiến VN! Cho nên khi anh Phong bị bắt rồi thì Ở TRONG NƯỚC LÀ COI NHƯ CŨNG TÊ LIỆT!

- Trong phần 2, Cha Lý lại khẳng định: “CẢ MỘT CÁI KHỐI TOÀN LÀ NHỮNG TRÍ THỨC CAO CẤP”. Như vậy cả một cái khối trí thức cao cấp đó tại sao không làm được gì như anh Phong mà CHO ĐẾN BÂY GIỜ VẪN NẰM YÊN? Phải chăng vì không có Anh Phong lảnh đạo, hay là những trí thức cao cấp “CÒ MỒI” sau khi lùa anh em vô tù hết rồi thì xong việc ngồi chơi hưởng lộc?

Đối với tôi, những ai đồng lỏa trong việc chủ trương dùng anh Nguyễn Phong, anh Nguyễn Bình Thành làm cái VẬT TẾ THẦN , là những kẽ độc ác và thủ đọan, trong khi chúng ta là những người có TÂM LINH thì càng không thể tha thứ!

Tôi là người trung thành với Cha Lý lâu nay, nhưng sau nhiều ngày suy nghĩ và đắn đo, hôm nay tôi quyết định phải đưa tin tức này lên DĐ báo chí để cảnh báo những ai còn lầm lẩn , hãy tránh mang họa vào thân. Vẫn biết rằng, đưa những việc này ra ánh sáng sẽ làm phật lòng Cha Lý , nhưng tôi nghĩ Cha Lý cũng là nạn nhận của những con buôn chính trị mà thôi. Tôi thà làm mất lòng ít người mà cứu được nhiều người, mà trong đó đa số là những người thơ ngây chính trị, sẽ tiếp tục sa lưới như anh em đảng TTVN.

Lần thứ ba trong cuộc điện đàm với Cha Lý, ngài có đọc cho tôi nghe một lá thư của cán

bộ đảng csVN gữi cho Ngài như sau (nguyên văn): “NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN CÀNG NGÀY CÀNG ỦNG HỘ CHÚNG TA. TÔI VỪA NHẬN ĐƯỢC LÁ THƯ, HỌ NÓI RẰNG: CHÚNG TÔI LÀ NHỮNG NGƯỜI VÔ THẦN 90% LÀ ĐẢNG VIÊN, NHƯNG NAY NHỜ ƠN CHÚA VÀ NHỜ CHA, CHÚNG TÔI ĐÃ TỪ TỪ GIÁC NGỘ. CHÚNG TÔI LUÔN LUÔN SÁT CÁNH VỚI 8406 VÀ ÂM THẦM ỦNG HỘ 8406. CHÚNG TÔI LÀ MỘT TẬP THỂ ĐÔNG LẮM, HÀNG VẠN NGƯỜI, VÀ CHÚNG TÔI ĐANG PHẢI ÂM THẦM NHƯ THẾ. NGÀY CHA CHIẾN THẮNG, CHÚNG TÔI SẼ CÔNG KHAI XUẤT HIỆN VÀ CHÚC MỪNG CHA …” (hết trích)

Khi nghe cha Lý đọc lá thư này, tôi chợt nhớ đến hơn ba năm trước khi chưa bị vô tù, Ngài cũng đã nói với tôi là có sáu Uỷ viên Bộ chính trị csVN ủng hộ ngài và 8406. Nhưng sự thật trả lời là họ đã nhử cha Lý và anh em lảnh đạo đảng Thăng Tiến ra mặt để thộp cổ cho vô tù ! Vậy mà hôm nay Cha lý chưa sáng mắt sáng lòng, vẫn còn nuôi ảo vọng!

Tôi nghĩ rằng, những hy vọng và tin tưởng của Cha Lý đối với những tên cò mồi SỜ SỜ TRƯÓC MẮT rất có hại cho những người thật tình đấu tranh cho Tự Do và Dân Chủ của VN, nên tôi không thể im lặng để nhiều người sa lưới công an VGCS. Vì vậy, tôi đã kết luận: “THÀ MẤT LÒNG ÍT NGƯỜI ĐỂ GIÚP ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI!”

Riêng ở Hải ngoại, tôi thiết tha kêu gọi Quý Đồng Hương, nhất là Quý Niên trưởng, Quý chiến Hửu QLVNCH hảy mau tập hợp lại thành một lực lượng NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA để tìm ra một giãi pháp mới, tiếp tục đấu tranh cho một nước VN được ĐỘC LẬP, TỰ DO, DÂN CHỦ.

Đối với Đồng Bào trong nước , không nhất thiết đòi hỏi chỉ có trí thức cao cấp , không phân biệt tầng lớp Nhân dân . Vấn đề là muôn ngưòi như một , cùng đồng tâm nhất trí đứng lên đòi hỏi nhà cầm quyền csVN phải trả lại Tự do - Dân Chủ và Độc lập cho Quốc Dân Việt Nam. Không chấp nhận bất cứ thoả hiệp , liên hiệp nào với bọn bành trướng Bắc kinh !!!

Những bài học Cách Mạng tại Ba Lan , nhà Cách mạng Walensa Lech chỉ là một anh Thợ điện tại xưởng đóng tàu Ba Lan , người đã lãnh đạo phong trào đấu tranh Tự do - Dân chủ cho nước Ba Lan thành công rực rỡ và lên làm Tổng Thống đầu tiên, cả Thế giới kính phục .

Cha Lý kính mến!

Con thật lòng xin lỗi cha, khi đưa bản tin này lên DĐ báo chí, mong Cha hảy xem đó như một hy sinh, hy sinh tình cảm riêng tư để cứu giúp mọi người. Trước khi cha ra khỏi nhà tù, con đã gữi nhìều hồ sơ quan trọng về trong đó nhờ người chuyển cho cha, nhưng có lẻ cha không cần biết. Vì vậy con không thể nói nhiều hơn với cha những gì con chứng kiến trong thời gian cha ngồi trong tù. Đến lúc này cha vẫn chưa nhận ra hậu quả LẦM NGƯỜI. Con chỉ mong cha yên tâm trị bệnh, như lời cha đã nói với con trong cuộc điện đàm là: “TOÀ GIÁM MỤC NHẬN LẢNH CHA VỀ TRỊ BỆNH, CHỨ KHÔNG PHẢI VỀ ĐỂ LẢNH ĐẠO KHỐI 8406.”

Những lời nói đó rất đúng, cha nên tuyên bố cho mọi người cùng biết để họ lo liệu. Nhất là đừng để bọn xôi thịt, bọn đấu tranh DC cuội trong và ngoài nước lợi dụng danh nghỉa của cha mà làm nhục và làm hại những người đấu tranh chân chính cho Tự Do, Dân Chủ của Việt nam .

Trọng kính

Võ Đình Chương


Wednesday, June 30, 2010

LUẬT SỬ DỤNG "I" VÀ "Y" - Nguyễn Phước Đáng

Nguyễn Phước Đáng

1. LUẬT SỬ DỤNG "I" VÀ "Y"

Bây giờ tôi đọc "y" ra "Y gờ-réc" đàng hoàng, chớ hồi bé bỏng tiểu học tôi đọc nhại theo người lớn là "Y cà-rết".

Ðọc theo chữ quốc ngữ, đó là "y dài", đối chọi lại với "i ngắn". Người mình quen thấy sao nói vậy, thấy nó dài thì gọi là dài, còn thấy nó ngắn thì gọi là ngắn để phân biệt 2 chữ cái đồng âm dị tự nầy. Người ta từng đặt tên "dê trên" cho "d" "dê dưới" cho "gi", cũng theo cái thấy “d” viết cao lên trên, và "gi" viết kéo xuống dưới.

Y dài, i ngắn gây tranh luận triền miên, cho đến nay vẫn chưa phân thắng bại. Phe tự coi là tiến bộ thì thích dùng i ngắn. Chỉ khi nào kẹt lắm mới dùng y dài. Gặp tên vua Bảo Ðại Vĩnh Thuỵ , gặp tên ca sĩ Thanh Thuý , gặp chức vụ Uỷ viên ... họ mới ráng xài y dài, nghĩa là khi nào kẹt gặp chữ có vần hoà âm họ mới lôi y dài ra chịu trận, còn không thì họ xài tuốt luốt i ngắn hết. Thế kỷ , nước Mỹ, ly tách ... họ viết thế kỉ , nước, li tách ... và còn xác định thẳng rằng viết như vậy mới đúng nữa. Hai trường học ở Thị Xã Long Xuyên mang chung một tên, toạ lạc sát vách nhau, một trường tên là cấp 1 Mỹ Long, còn trường kia tên là cấp 2 Long. Sau một thời gian, bị nhiều lời đàm tiếu, nói ra nói vào, những người "cấp tiến" sửa lại là "cấp 2 Mỹ Long".

Như vậy, dùng y dài cũng được, mà dùng i ngắn cũng được!

Theo tôi, không có luật sử dụng i y , mà chỉ có một vài quy tắc sử dụng, tùy theo suy nghiệm của từng người.

Một số nhà ngôn ngữ nói rằng "mỗi âm nên biểu thị bằng 1 ký hiệu (chữ cái) thôi". Vậy i y đồng âm (phát ra tiếng giống nhau) vậy nên dùng i thôi, dùng chi y cho thêm rắc rối.

Có vị còn phát biểu đến chỗ quá trớn, bảo rằng chữ mây viết mâi cũng đọc ra mây được (đúng với ngôn ngữ học).

Thực tế thì không đơn giản như vậy. Bây giờ mà bỏ hẳn y thì chữ Việt sẽ rối loạn. Nói vậy, có nghĩa là không thể lấy i thay cho y được. Có nhiều trường hợp, âm i đứng một mình hay đứng cuối chữ thì viết y hay i đều phát âm giống nhau, vậy viết bằng i thì gọn hơn. Tuy nhiên, tính như vậy cũng chưa hẳn là hay, vì xét về ý nghĩa của từng chữ, thì 2 chữ đồng âm dị nghĩa mà có 2 dạng chữ khác nhau thì hay hơn là đồng âm, đồng tự mà dị nghĩa. Nói cách khác, 2 chữ viết khác nhau, có 2 nghĩa khác nhau hay hơn là 2 chữ giống nhau mà có 2 nghĩa khác nhau.

Thí dụ: Viết trí vànhí. 2 chữ,(khác mặt chữ, khác nghĩa) thì hay hơn là viếttrí và nhí (giống mặt chữ, khác nghĩa)

Giáo Sư Nguyễn Ðình-Hoà không coi y dài là một nguyên âm trong hệ thống mẫu tự quốc ngữ. Có lẽ giáo sư coi y dài chỉ là biến thể của i ngắn.

Có người còn "lạc đề" khi tham chiếu văn phạm Anh ngữ, coi y là phụ âm. Tôi nói đó là lạc đề, vì nghiên cứu chữ Việt mà lấy chữ Anh vào, để buộc chữ Việt phải như chữ Anh. Những vị nầy nghiên cứu chữ Việt mà lệ thuộc, chịu ảnh hương chữ Anh thậm tệ.

Tôi để ý thấy có 4 trường hợp y dài thay thế i ngắn:

1. Thay i ngắn trong chữ có vần hoà âm. (Bắt buộc phải dùng y dài)

Thí dụ: thu (m), Tuy (nhiên), suy (nghĩ) ... (thu+ , tu+y , su+y ...)

2. Thay i ngắn khi bán nguyên âm đứng đầu chữ.

Thí dụ: yết (kiến), yến (tiệc), yên (ổn) ... Ta viết iết, iến, iên thì phát âm đã đúng với tiếng nói rồi, nhưng quy tắc quốc ngữ buộc khi bán nguyên âm đứng đầu chữ thì i phải thay bằng y.

3. Thay i ngắn khi vần xuôi có u ráp với vần ngược hoặc vần hợp âm có i.

Thí dụ: xuýt (xoa), (họ) huỳnh , (đêm) khuya , khuỷu (tay). Chữ Việt không có vần yt, ynh, ya, yu ..., mà chỉ có vần it, inh, ia, iu ... Khi các vần nầy ráp với vần xuôi có u như xu, hu, khu ... thì i được thay bằng y (xu+ýt , hu+nh , khu+ya , khu+u).

4. Thay i ngắn khi vần xuôi có u ráp với vần ngược có.

Thí dụ: tuyết (trắng), (họ) Nguyễn , thuyên chuyển ... Cũng vậy, chữ Việt không có vần yêt, yên ..., mà chỉ có vần iêt, iên ... khi các vần nầy ráp với vần xuôi có u như tu, ngu, thu, chu ... thì i được thay bằng y (tu+yết , Ngu+yễn, thu+yên, chu+yển...)

Bây giờ xét qua công dụng của y dài trong việc hình thành chữ viết quốc ngữ đang dùng hiện nay. Nói cách khác, xét về vị trí của y dài trong chữ quốc ngữ, thì y dài có đủ 4 công dụng của 1 nguyên âm:

1. Y dài đứng một mình tạo được 1 chữ, ghi được 1 lời nói.

Thí dụ: (Sao) y , ý (kiến)...

2. Y dài đứng đầu chữ tạo được 1 chữ, ghi được 1 lời nói.

Thí dụ: (Thương) yêu, (chim) yến ...

3. Y dài đứng giữa chữ tạo được 1 chữ, ghi được 1 lời nói.

Thí dụ: (hoa) Qunh, (diễn) thuyết, luyện (tập), (họ) Nguyễn...

4. Y dài đứng cuối chữ tạo được 1 chữ ghi được 1 lời nói.

Thí dụ: ký (sự), (thủ) qu , thu (thủ)...

Thật là khó khi tranh luận về y dài, i ngắn.

Lý giải như cách thứ nhì, phân tích thẳng vào thực tế chữ quốc ngữ đang dùng, thì y dài có 4 công dụng y như các nguyên âm a, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, thì nó phải là nguyên âm.

Lý giải như cách thứ nhứt, xét đến các quy tắc quốc ngữ trước, để chỉ ra rằng có rất nhiều trường hợp y dài chỉ giữ vai trò thay thế i ngắn mà thôi. Các quy tắc đó có thật, mặc dù hầu hết chúng ta không đọc thấy trong văn kiện hay tài liệu nào. Ta biết theo suy luận hợp lý mà thôi.

Dù quả thật như vậy đi nữa, chúng ta cũng không loại hẳn y dài ra khỏi hệ thống mẫu tự quốc ngữ được:

1. Không thể lấy i ngắn thay y dài trong các chữ có vần hoà âm được.

Thí dụ: Tuy (nhiên), khuy (áo)...

2. Không thể lấy i ngắn thay y dài ráp thành vần hợp âm với bán nguyên âm â được.

Thí dụ:y (là)..., (hướng) Tây , (đám) mây, thầy (giáo) ...

3. Không thể lấy i ngắn thay y dài ráp với nguyên âm a để tạo thành 1 vần nghiêng qua âm â.

Thí dụ: dạy (học), (bái) lạy , hay (giỏi), (số) bảy ...

Vậy ta có lối thoát nào cho vấn đề y-dài-i-ngắn được êm dịu không? Nghĩa là có biện luận nào hy vọng thuyết phục được cả đôi bên không?

Tôi xin mạo muội nêu ra sau đây đôi điều biện luận về vị trí hay công dụng thực sự của y dài trong chữ quốc ngữ.

Ðiều quan trọng bậc nhất là: "Y dài không có chức năng tạo vần ngược, cũng như không có chức năng tạo vần hợp âm".

Tất cả các nguyên âm a, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư và bán nguyên âm ă, â, iê, uô, ươ đều ráp được với phần lớn phụ âm để tạo thành vần ngược. Riêng y dài thì không. Chúng ta đâu từng thấy vần ngược yt, yc, yn, ym, ych, ynh, yp ...

Các nguyên âm a, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư đều tạo được vần hợp âm. Riêng y dài thì không. Chúng ta đâu từng thấy vần hợp âm ya, yu.

Do vậy, ta có 2 hệ quả sau đây:

1. Y dài không có công dụng đứng đầu chữ:

(Không tạo ra được vần ngược hay vần hợp âm thì làm sao đứng đầu chữ được?)

2. Y dài không có công dụng đứng giữa chữ:

(Không tạo ra vần ngược hay vần hợp âm được thì lấy gì để ráp với các phụ âm phía trước để được đứng giữa?)

Tuy nhiên, nhóm người sáng tạo chữ quốc ngữ lại đưa ra 2 quy tắc làm cho y dài có cơ hội có được chức năng đứng đầu chữ và đứng giữa chữ. Hai quy tắc đó là:

1. Bán nguyên âmkhi đứng đầu chữ, thì i ngắn phải được thay thế bằng y dài.

Thí dụ: Ðáng lẽ phải viết iết kiến, iến anh, iên ổn... nhưng ta bị quy tắc trên khống chế, nên phải viết yết kiến, yến anh, yên ổn. Trong trường hợp nầy, nếu không có quy tắc trên, ta viết với i ngắn, khi phát âm, các chữ đó cũng cho ra tiếng nói giống hệt như ta viết với y dài, như hiện nay.

2. Vần ngược hay vần hợp âm có i ngắn và vần ngược có bán nguyên âm khi ráp với u hay vần xuôi có u thì i ngắn phải được thay thế bằng y dài.

Thí dụ: Ðáng lẽ ta phải viết: Uình uịch (u+ình, u+ịch) , họ Huình (hu+ình) , họ Nguiễn (Ngu+iễn), canh khuia (Khu+ia), khuỉu (khu+ỉu) tay... nhưng ta bị quy tắc trên khống chế, nên phải viết: Uỳnh uỵch, họ Huỳnh, họ Nguyễn, canh khuya, khuỷu tay.

Thật ra quốc ngữ đâu có vần ngược ynh, ych, mà chỉ có inh, ich. Quốc ngữ cũng không có vần ngược yên: Nếu có vần yên , thì ta có thể ráp với các phụ âm khác như vầy sao để thành tạo các chữ: tyên (t + yên) , thyên (th + yên), myên (m + yên) ...? Quốc ngữ cũng không có vần hợp âm ya, yu. Nếu có thì ta có thể viết như vầy sao týa (má), (cây) mýa, (cái) dỹa, (xá)-xýu, nýu (kéo )...? Trong trường hợp nầy, nếu không có quy tắc trên, ta viết với i ngắn, khi phát âm, các chữ đó cũng cho ra tiếng nói giống hệt như ta viết với y dài, như hiện nay.

Vậy thì, nếu ta vẫn còn công nhận 2 quy tắc trên trong việc sử dụng y dài đứng đầu chữ và đứng giữa chữ, thì y dài có đủ tiêu chuẩn (có 4 chức năng để thành tạo chữ như kể ở trên) để được coi là nguyên âm như những nguyên âm khác.

Theo tôi, 2 quy tắc trên không cần thiết, nó chỉ tạo thêm ngoại lệ vô ích, vì không cần lấy y dài thay i ngắn, mà chữ viết với i ngắn, khi phát âm cũng chẳng khác biệt với chữ viết với y dài.

Còn nếu ta gạt bỏ 2 quy tắc trên, thì y dài chỉ còn có 2 công dụng trong việc thành tạo chữ: đứng một mình và đứng sau cùng để thành tạo chữ. Theo tôi, chỉ 1 công dụng "đứng một mình" mà thành tạo được một chữ ghi được một lời nói thôi cũng đủ để y dài được coi là nguyên âm rồi. Các bán nguyên âm ă, â, iê, uô, ươ không có chức năng tiên quyết nầy.

Bỏ 2 quy tắc trên, ta xoá bớt được ngoại lệ cho i ngắn, y dài. Mà cái gì "ít ngoại lệ chừng nào thì lại hay và tốt chừng nấy".

Người xưa ỡm ờ, vừa bóp xiết, giới hạn chức năng của y, lại vừa mở cửa ngách cho y thoát ra, nên gây phiền phức, gây tranh luận trong đám con cháu về chuyện y-dài-i-ngắn triền miên, chưa biết đến bao giờ mới dứt.

Cho đến nay chưa có cơ quan hay cá nhân nào đủ uy tín định đặt được quy tắc sử dụng "i" ngắn, "y" dài. Phần lớn đang sử dụng theo nếp cũ, coi y dài có 4 công dụng tạo chữ như các nguyên âm khác. Họ dùng y dài nhiều bình thường. Một số khác, được đào tạo từ miền Bắc, và một số ít theo thời, ở miền Nam, lại sử dụng rất ít y dài. Lúc nào kẹt lắm, khi dùng i ngắn mà không thể phát âm ra đúng tiếng nói, thì họ mới dùng đến y dài. Ngoài những chữ có vần hoà âm cần y dài, họ cũng không thể dùng i ngắn trong các chữ có vần ay hay ây. Câu nói "Miền Tây, dân cày cấy mà hát hò rất hay", đâu có ai viết là "Miền Tâi, dân cài cấi mà hát hò rất hai".

Nguyễn Phước Đáng


Khi Bài Hát Trở Về - Trần Trung Đạo

Trần Trung Đạo

Nếu phải xếp hạng những bài hát được sinh ra và lớn lên cùng với thăng trầm của đất nước, với thao thức của thanh niên, sinh viên, học sinh, với tâm trạng của những người lính trẻ trong cuộc chiến tranh tự vệ đầy gian khổ ở miền Nam trước đây, tôi tin, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang sẽ là một trong những bài ca được xếp hàng đầu.

Không giống như một số hành khúc quen thuộc trong giới trẻ trước 1975 như Dậy Mà Đi của Nguyễn Xuân Tân, Tổ Quốc Ơi Ta Đã Nghe của La Hữu Vang thiết tha, mạnh mẽ nhưng chỉ giới hạn trong các phong trào sinh viên tranh đấu và ngay khi ra đời đã bị Đảng sử dụng cho mục đích tuyên truyền trong các trường đại học, các đô thị miền Nam, hay Việt Nam Việt Nam của Phạm Duy chan chứa tình dân tộc, kêu gọi người người thương mến nhau nhưng thiếu đi cái hùng khí, sôi nổi của tuổi trẻ, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của Nguyễn Đức Quang không dừng lại ở nỗi đau của đất nước mà còn nói lên cả những bi thương, công phẫn, thách đố của tuổi trẻ Việt Nam trước những tàn phá của chiến tranh và tham vọng của con người. Trong vườn hoa âm nhạc Việt Nam, Việt Nam quê hương ngạo nghễ nổi bật lên như một biểu tượng cho khát vọng của một dân tộc đã vượt qua bao nhiêu gian nan khốn khó để tồn tại và vươn lên cùng các dân tộc khác trên mặt đất nầy.
    Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn
    Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
    Lê sau bàn chân gông xiềng của thời xa xăm
    Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loang xoang.
Lời nhạc của Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ tương đối khó nhớ nhưng nhờ cách sử dụng ngôn ngữ trẻ trung, mạnh mẽ, tượng thanh, tượng hình như “tiếng cười ngạo nghễ”, “xích kêu loang xoang”, “trên bàn chông hát cười đùa vang vang” hay “Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân trời” đã làm cho Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ trở thành độc đáo, không giống như những bài ca yêu nước khác với những ý tưởng quen thuộc và lời ca phần lớn là lập lại nhau. Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đẹp tự nhiên như một đoá lan rừng, không mang màu sắc chính trị, không nhằm cổ võ hay biện minh cho một chủ nghĩa nào, không cơ quan nhà nước nào chỉ đạo thanh niên sinh viên học sinh phải hát và bài hát cũng chẳng nhằm phục vụ lợi ích riêng của chính quyền, tôn giáo hay đảng phái chính trị nào.

Trước 1975, từ thành phố đến thôn quê, từ các trường trung học tỉnh lẻ đến đại học lớn như Huế, Sài Gòn, từ các phong trào Hướng Đạo, Du Ca đến các tổ chức trẻ của các tôn giáo như Thanh niên Công giáo, Gia đình Phật tử, từ các quân trường Đà Lạt, Thủ Đức, Quang Trung, Nha Trang đến các tổ chức, đoàn thể xã hội từ thiện đều hát Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ.

Sau 1975, bài hát theo chân hàng trăm ngàn sĩ quan và viên chức miền Nam đi vào tù. Nhiều hồi ký, bút ký kể lại Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đã được hát lên, kín đáo hoặc cả công khai, ở nhiều trại tù khắp ba miền đất nước. Trong tận cùng của đói khát, khổ nhục, đớn đau, Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã hoá thành những hạt cơm trắng, hạt nếp thơm nuôi sống tinh thần những người lính miền Nam sa cơ thất thế.

Những năm sau đó, bài hát, như tác giả của nó và hàng triệu người Việt khác lên đường ra biển tìm tự do. Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ lại được hát lên giữa Thái bình dương giông bão, hát lên ở các trại tị nạn Palawan, Paula Bidong, Panat Nikhom trong nỗi nhớ nhà, hát lên ở Sungai Besi, White Head trong những ngày chống cưỡng bách hồi hương, hát lên ở San Jose, Santa Ana, Boston, Paris, Oslo, Sydney trong những cuộc biểu tình cho tự do dân chủ Việt Nam, hát lên ở các trại hè, trại họp bạn Hướng Đạo, các tổng hội sinh viên Việt Nam tại hải ngoại.

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, trong buổi phỏng vấn dành cho chương trình Tiếng Nói Trẻ đã kể lại câu chuyện ra đời của Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ trong âm nhạc Việt Nam: “…Thế bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ cũng vậy, nó không phải là một bài ca tôi nghĩ là quá lớn, nhưng lúc bấy giờ khi tôi kết thúc tập Trường Ca vào năm 1965, cuối 1965 hay đầu 1966 gì đó, khoảng thời gian đó, 10 bài trường ca, những bài như Nỗi buồn nhược tiểu, Tiếng rống đàn bò, Lìa nhau, Thảm kịch khó nói v.v. những bài nói về đất nước của mình rất là khổ sở, tôi nghĩ nên kết nó bằng một bài hát có tiếng gọi hùng tráng và tha thiết hơn. Thành ra tôi viết bài Việt Nam quê hương ngạo nghễ một cách rất là dễ dàng. Tất cả những ý đó tôi đem vào hết trong bài hát đó để nó vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu mà trở thành một nước to lớn, và lòng người cực kỳ dũng mãnh. Viết xong bài đó tôi nghĩ chỉ kết thúc tập Trường Ca mà thôi, không ngờ về sau càng ngày đi các nơi càng thấy nhiều người ưa thích bài đó, có lẽ đáp được ước vọng của nhiều người, tôi nghĩ tiếng gọi đáp ứng đúng được tiếng của nhiều người, không riêng gì giới trẻ đâu, cả người lớn tuổi ở các hội đoàn về sau này, rồi đi vào trong quân đội, đi rất nhiều nơi. Thành ra, tôi cho đó là một bài hát tự nó trưởng thành nhưng khi viết tôi chỉ đúc kết cho tập Trường Ca lúc đó mà thôi.”

Thật đơn giản và tự nhiên như thế. Không một ông bộ trưởng Bộ Chiêu Hồi nào đặt hàng hay một ông tổng ủy trưởng Dân Vận nào chỉ thị anh phải viết. Anh viết không phải để thi đua sáng tác hay mong mang về giải thưởng, huân chương. Trong tâm hồn của một nghệ sĩ chân chính, tình yêu nước bao giờ cũng là sự thôi thúc tự nguyện. Anh viết Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ để kết thúc tập trường ca của riêng anh nhưng cũng nối tiếp tập trường ca lớn hơn của đất nước.

Sau ba mươi năm, nhiều nhạc sĩ, ca sĩ đã trở về qua nhiều ngã, trong nhiều tư cách khác nhau, một số tình ca sáng tác trước 1975 đã được nghe lại trong nước, nhưng đây là lần đầu tiên một bài hát đã về lại quê hương qua ngã của trái tim, trở về trong vòng tay nồng ấm của tuổi trẻ Việt Nam.

Bất ngờ và cảm động, một buổi sáng tuần trước, khi đi dạo một vòng qua các blog Việt ngữ, tôi bắt gặp không chỉ những mẩu tin nóng viết vội vàng trên đường phố, những đoạn phim biểu tình vừa mới đưa lên YouTube, những tấm hình ghi lại cảnh xô xát giữa đồng bào, sinh viên với công an, nhưng còn được nghe lại bài hát quen thuộc Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ. Tôi cảm nhận qua lần gặp gỡ đó một niềm vui chung khi có một bản nhạc mà các em sinh viên Việt Nam ở California, Washington DC, Oslo, Paris, Hà Nội, Sài Gòn cùng hăng say hát trong những cuộc biểu tình chống Trung Quốc bành trướng bá quyền mà không cảm thấy ngần ngại, nghi ngờ, xa cách.
    Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người
    Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi
    Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi
    Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian.
Trong số một trăm em đang hát trong nước hôm nay có thể hơn chín mươi em chưa hề nghe đến tên Nguyễn Đức Quang lần nào, và nếu có nghe, có đọc qua bộ máy tuyên truyền của Đảng, cũng chỉ là một “nhạc sĩ ngụy đã theo chân đế quốc”. Biết hay không biết, nghe hay không nghe không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là bài hát đã đáp ứng được ước vọng về tương lai và tình yêu tổ quốc của tuổi trẻ. Tổ quốc, vâng, không có gì lớn hơn tổ quốc.

Văn hoá không phải chỉ là đời sống của một dân tộc mà còn là những gì giữ lại được sau những tàn phá, lãng quên. Việt Nam quê hương ngạo nghễ sau 30 tháng Tư 1975 hẳn đã nằm trong danh sách các tác phẩm “văn hoá đồi trụy” mà Đảng tìm mọi cách để xóa bỏ, tận diệt.

Thế nhưng, như giọt nước rỉ ra từ kẽ đá và như bông hoa mọc giữa rừng gai, bài hát đã sống sót, đã ra đi và đã trở về. Để tồn tại, một bài thơ, một bản nhạc cũng phải trải qua những gạn lọc, những cuộc bỏ phiếu công bằng không chỉ của người nghe, người đọc dưới một chế độ chính trị nào đó mà còn của cả lịch sử lâu dài. Bài hát phát xuất từ tình yêu nước trong sáng như Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ sẽ ở lại rất lâu trong lòng tuổi trẻ Việt Nam hôm nay và nhiều thế hệ mai sau.

Là một người thích tham gia các sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, bài hát mang tôi về thời trẻ tuổi của mình. Tôi còn nhớ, mùa hè 1973, khi còn là sinh viên năm thứ nhất, Việt Nam quê hương ngạo nghễ cũng là nhạc sinh hoạt chính của trại hè sinh viên toàn quốc quy tụ đại diện sinh viên các trường đại học và cả sinh viên du học về nghỉ hè, do Bộ Giáo Dục Và Thanh Niên tổ chức lần đầu và có lẽ cũng là lần cuối tại trường Thiếu Sinh Quân, Vũng Tàu. Đêm trước ngày chia tay, chúng tôi không ai ngủ được. Ngày mai sẽ mỗi người mỗi ngả, chị về Huế, anh về Đà Lạt, em về Cần Thơ và đa số chúng tôi sẽ trở lại Sài Gòn. Cùng một thế hệ chiến tranh như nhau, khi chia tay biết bao giờ còn gặp lại. Những ngày tháng đó, cuộc chiến vẫn còn trong cao điểm.

Mỹ đã rút quân nên máu chảy trên ruộng đồng Việt Nam chỉ còn là máu Việt Nam. Thảm cảnh của mùa hè đỏ lửa chưa qua hết. Trên khắp miền Nam, đâu đâu cũng có đánh nhau, đâu đâu cũng có người chạy giặc. Mơ ước của tuổi trẻ chúng tôi là được thấy một ngày đất nước hoà bình, một ngày quê hương không còn nghe tiếng súng. Đêm cuối trại hè, chúng tôi ngồi quây quần thành một vòng tròn rộng quanh cột cờ trường Thiếu Sinh Quân và hát nhạc cộng đồng như để vơi đi những vương vấn, lo âu đang trĩu nặng trong lòng. Bài hát được hát nhiều nhất trong đêm đó là Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ, và khi điệp khúc cất lên cũng là khi chúng tôi hát trong nước mắt:
    Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại
    Xương da thịt này cha ông miệt mài
    Từng giờ qua cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi.
    Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang
    Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
    Còn Việt Nam triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng.
Những giọt nước mắt của tuổi sinh viên nhỏ xuống xót thương cho dân tộc mình. Tại sao có chiến tranh và tại sao chiến tranh đã xảy ra trên đất nước chúng tôi mà không phải tại một quốc gia nào khác? Mấy tháng sau, tháng Giêng năm 1974, bài hát Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã được hát vang trên đường phố Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, Cần Thơ sau khi Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc. Những bản tin đánh đi từ Đà Nẵng, danh sách những người hy sinh được đọc trên các đài phát thanh làm rơi nước mắt. Và hôm nay, ba mươi ba năm sau, trong cái lạnh mùa đông trên xứ người, những lời nhạc Việt Nam quê hương ngạo nghễ từ YouTube phát ra như xoáy vào tim. Tôi lại nghĩ đến các anh, những người đã hy sinh ở Hoàng Sa tháng Giêng năm 1974, ở Trường Sa tháng Ba năm 1988. Các anh khác nhau ở chiếc áo nhưng cùng một mái tóc đen, một màu máu đỏ, một giống da vàng, cùng ăn hạt gạo thơm, hạt muối mặn, cùng lớn lên bằng giòng sữa mẹ Việt Nam, và cùng chết dưới bàn tay hải quân Trung Quốc xâm lăng.

Việt Nam, sau ba mươi ba năm “độc lập, tự do” vẫn chưa thoát ra khỏi số phận nhược tiểu bị xâm lược, vẫn chưa tháo được cái vòng kim cô Trung Quốc trên đầu. Việt Nam có một lãnh hải dài trên ba ngàn cây số nhưng thực tế không còn có biển. Cả hành lang Đông hải rộng bao la từ Hải Nam đến Hoàng Sa và xuống tận Trường Sa đã bị Trung Quốc chiếm. Nếu vẽ một đường cung dọc theo lãnh hải đó, ngư dân Việt Nam chỉ còn có thể đi câu cá ven bờ chứ không thể đánh cá như ngư dân Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan hay các quốc gia khác trong vùng biển Đông. Phía sau tấm bảng in đậm “mười sáu chữ vàng” hữu nghị thắm thiết giữa hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc là thân xác của ngư dân Việt Nam trôi bềnh bồng dọc các hải đảo của tổ tiên mình để lại.

Trong suốt dòng lịch sử, hoạ xâm lăng từ phương Bắc vẫn là mối đe doạ thường xuyên. Khác với các thời đại trước đây, cái bất hạnh của Việt Nam ngày nay không phải chỉ là mất đất nhưng mất đất mà không đòi lại được ngay. Cuộc kháng Nguyên lần thứ nhất trong hàng vương tước nhà Trần chỉ có mỗi Trần Nhật Hiệu chủ trương “Nhập Tống” và lần thứ hai chỉ có Trần Ích Tắc và đám hầu tước Trần Kiện, Trần Văn Lộng, Trần Tú Viên chủ trương “Hàng Nguyên” nhưng ngày nay, về mặt lập trường quan điểm, Việt Nam có đến 14 Trần Ích Tắc và 160 Trần Kiện. Trận đụng độ giữa Việt Nam và Trung Quốc diễn ra tại Trường Sa năm 1988 theo tác giả Daniel J. Dzurek trong biên khảo “Xung Đột Trường Sa: Ai có mặt trước?” (The Spratly Islands Dispute: Who’s on First?) chỉ kéo dài vỏn vẹn 28 phút và Việt Nam chịu đựng hầu hết thương vong. Với một giới lãnh đạo tham quyền cố vị và sự chênh lệch quá xa về kỹ thuật chiến tranh như thế, cuộc đấu tranh giành lại hai quần đảo sẽ vô cùng khó khăn.

Dù sao, tuổi trẻ Việt Nam, khác với các thế hệ Tân Trào, Pác Bó trước đây, thế hệ Hoàng Sa, Trường Sa ngày nay có nhiều cơ hội tiếp xúc, học hỏi và so sánh giữa chế độ các em đang sống với các tư tưởng tự do dân chủ, khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhờ đó, hy vọng các em sẽ có những chọn lựa đúng cho mình và cho đất nước phù hợp với dòng chảy của văn minh nhân loại.

Trong cuộc chiến Việt Nam dài mấy mươi năm Đảng đã sản xuất ra không biết bao nhiêu bài hát, bài thơ kích động lòng yêu nước nhưng tại sao các em không đọc, không hát nữa? Như một độc giả trong nước đã trả lời, đơn giản chỉ vì chúng nhạt nhẽo. Ý thức sâu sắc đó đã được thể hiện không chỉ trong khẩu hiệu các em hô mà ngay cả trong những bài hát các em hát. Sau những “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”, “Dậy mà đi”, “Nối vòng tay lớn” của những ngày đầu phong trào, các bạn trẻ trong nước đã đi tìm những nhạc phẩm nói lên lòng yêu nước trong sáng, tích cực, không bị ô nhiễm, chưa từng bị lợi dụng và họ đã tìm được Việt Nam quê hương ngạo nghễ.
    Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng
    Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm
    Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân trời
    Ôm vết thương rỉ máu ta cười dưới ánh mặt trời.
Mỗi khi nhắc đến những khó khăn đất nước, chúng ta thường nghe đến những “bất hạnh”, “nỗi đau”, “tính tự ti mặc cảm”, vâng đó là một thực tế hôm nay, thế nhưng dân tộc Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu, nước non bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” như Nguyễn Trãi khẳng định, không phải chỉ biết đau, biết tự ti mặc cảm mà thôi nhưng từ những nỗi đau đã biết lớn lên bằng tự hào và kiêu hãnh làm người Việt Nam. Chỗ dựa tinh thần của tuổi trẻ Việt Nam hôm nay không có gì khác hơn là lịch sử. Không thể làm nên lịch sử mà không cần học lịch sử. Lịch sử sẽ là vũ khí, là hành trang trong hành trình tranh đấu cho một nước Việt Nam mới, cũng như để xây dựng một Việt Nam tươi đẹp sau nầy.
    Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người
    Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam
    Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian
    Hỡi những ai gục xuống ngồi dậy hùng cường đi lên.
Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ như giọt nước mắt bi tráng của tuổi trẻ Việt Nam ngày nào nhỏ xuống trên quê hương chiến tranh khốn khổ, đã bốc thành hơi, tụ thành mây và sau bao năm vần vũ khắp góc bể chân trời đã trở về quê hương qua ánh mắt của em, qua nụ cười của chị, qua tiếng hát của anh, hồn nhiên và trong sáng. Từ “vết thương rỉ máu” của một dân tộc đã từng bị nhiều đế quốc thay phiên bóc lột, lợi dụng và hôm nay còn đang chịu đựng trong áp bức của độc tài đảng trị, Việt Nam quê hương ngạo nghễ cất lên như một lời khuyên, hãy sống và hãy vững tin vào lịch sử, sẽ có một ngày, sẽ có một ngày.

Trần Trung Đạo


Làm Sao Để Bài Trừ Nạn Buôn Người Ở Việt Nam? - BPSOS

BPSOS
(Boat People SOS)


Buôn người là vấn đề ở tầm vĩ mô, nghĩa là do ảnh hưởng chính sách và mang tính hệ thống. Muốn bài trừ thì phải thay đổi ở tầm vĩ mô. Bằng không thì chỉ là đối phó với hậu quả–giúp cho một người thì lại có thêm cả ngàn người trở thành nạn nhân.

Muốn thay đổi về vĩ mô thì phải dùng thế, phải có sách lược, và phải kiên trì. Đó là kế hoạch của Liên Minh CAMSA,với những đặc điểm sau đây.

Tập trung vào buôn lao động: Việt Nam cố tình phô trương với quốc tế nỗ lực chống buôn tình dục nhằm che đậy tình trạng buôn lao động–bỏ con tép để bắt con tôm vì kỹ nghệ buôn lao động có quy mô lớn và dính đến chính quyền còn buôn tình dục chỉ là hoạt động lẻ tẻ của cá nhân. Các tổ chức hoạt động chống buôn người ở Việt Nam phải tập trung thuần tuý vào lãnh vực buôn tình dục. Vì không muốn bị rơi vào kế này của nhà nước Việt Nam, Liên Minh CAMSA tuy giúp đỡ những trường hợp phụ nữ bị buôn tình dục nhưng đặt trọng tâm chính vào buôn lao động. Một khi phá vỡ được mạng lưới buôn lao động thì cũng sẽ làm giảm đi tình trạng buôn tình dục vì nhiều phụ nữ bị lường gạt vào kỹ nghệ mãi dâm qua con đường lao động ngoài nước.

Truy từ ngọn đến gốc: Việt Nam hoàn toàn phủ nhận tình trạng buôn lao động và lúc nào con số báo cáo của nhà nước về nạn nhân buôn lao động cũng là 0. Để chứng minh ngược lại, Liên Minh CAMSA hoạt động ở những quốc gia có đông người lao động Việt Nam và đã có luật chống buôn người để qua đó truy ra nạn nhân và rồi vận động các quốc gia ấy áp dụng luật có sẵn. Lúc ấy Việt Nam không thể nào phủ nhận rằng có buôn lao động từ Việt Nam.

Can thiệp toàn diện: Thay vì trải mỏng năng lực, Liên Minh CAMSA tập trung vào một số nhỏ trường hợp buôn lao động mà dấu tích buôn người không thể chối cãi. Với mỗi hồ sơ như vậy, Liên Minh CAMSA không chỉ can thiệp và giải cứu nạn nhân mà còn có luật sư lập hồ sơ để từng bước nhắm vào các đầu mối buôn người: chủ sử dụng lao động, công ty xuất khẩu lao động ở Việt Nam, các giới chức chính quyền liên can, và hệ thống luật pháp cũng như chính sách dung túng cho tội phạm buôn người.

Nói cách khác, kế hoạch này tựa vào những hồ sơ nạn nhân ở tầm vi mô để đạt những thay đổi ở vĩ mô. Muốn đạt được điều này, Liên Minh CAMSA tận khai thác luật quốc tế, mà đặc biệt là luật chống buôn người của Hoa Kỳ. Chính nhờ những hồ sơ cụ thể tích luỹ từ hai năm qua mà Liên Minh CAMSA đã chứng minh được là có tình trạng buôn lao động rất phổ biến ở Việt Nam. Vì vậy, ngày 14 tháng 6 vừa qua Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia cần theo dõi về tình trạng buôn người.

Trước áp lực quốc tế, nhiều quốc gia đã ban hành luật chống buôn người. Khi chính sách đã thay đổi, luật lệ được ban hành thì vấn đề can thiệp và giải cứu nạn nhân sẽ thuận lợi hơn. Và như vậy Liên Minh CAMSA lại có nhiều cơ sở vững chãi hơn nữa để thúc đẩy thêm cho những thay đổi về chính sách. Kế hoạch này đã được áp dụng thành công ở Mã Lai và Đài Loan. Một khi đã có lượng hồ sơ tương đối nhiều do hoạt động ở các quốc gia ngoài Việt Nam, bước kế tiếp là áp dụng kế hoạch đối với Việt Nam. Cứ vậy, Liên Minh CAMSA huy động thế và lực quốc tế để đẩy lùi dần thế và lực của đường dây buôn ngườI ở Việt Nam.

Một ví dụ điển hình là trường hợp 31 công nhân Việt làm cho hãng đúc nhôm Spektra Alucast. Năm 2009, Liên Minh CAMSA bắt đầu can thiệp cho số công nhân này. Luật Sư Daniel Lo, Quản Trị Chương Trình CAMSA ở Mã Lai, lập hồ sơ cho các nạn nhân để kiện hãng Spektra Alucast ra toà. Đầu năm 2010, 8 công nhân trong số này bị cảnh sát Mã Lai bắt để trục xuất vì không có chiếu khán lao động, do công ty không gia hạn. Nương vào luật chống buôn người mà Mã Lai đã phải ban hành năm 2007 sau khi bị Hoa Kỳ xếp vào Hạng 3, Ls. Lo thuyết phục được toà án tha bổng 8 công nhân. Không những vậy, cơ quan công lực Mã Lai thừa nhận đây là một vụ buôn người và bắt đầu cuộc điều tra để truy tố.

Trong khi ấy, nhân viên đại sứ quán Việt Nam đã tìm mọi cách để áp lực công nhân phải nhận tội để rồi bị trục xuất. Thậm chí họ còn ra tận toà án để gây trở ngại cho phiên toà, và mới đây nhất, nhân viên đại sứ quán Việt Nam đã áp lực 8 công nhân này, sau khi họ được xét là nạn nhân buôn lao động, ký giấy cam kết không thưa kiện công ty xuất khẩu lao động sau khi hồi hương.

Liên Minh CAMSA đã báo động cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ biết về trường hợp này. Mọi hành động như vậy xảy sau ngày 14 tháng 6, 2010 đều được ghi nhận bởi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ để xếp hang Việt Nam vào năm 2011. Nếu Việt Nam không thay đổi tốt hơn thì hoặc sẽ ở lại danh sách theo dõi hoặc sẽ rơi xuống Hang 3. Một quốc gia ở trong danh sách theo dõi hai năm liền thì sang năm thứ ba tự động rơi xuống Hạng 3 nếu không cải thiện. Quốc gia ở Hạng 3 bị chế tài theo luật chống buôn người của Hoa Kỳ.

Trước đây có người đã thắc mắc rằng làm sao Liên Minh CAMSA có thể bài trừ tận gốc nạn buôn lao động và cho rằng giỏi lắm thì chỉ can thiệp được cho vài ngàn hồ sơ. Kế hoạch của Liên Minh CAMSA là nương vào số hàng ngàn hồ sơ đã và đang can thiệp làm đòn bẩy, qua vận động áp lực quốc tế về chính trị và kinh tế, để đưa đến những thay đổi về chính sách và hệ thống luật pháp ở quốc gia có nạn buôn người, kể cả Việt Nam. Cho đến nay, kế hoạch này đã thành công ở một số quốc gia tiếp nhận người lao động Việt Nam và đã có tiến triển bước đầu đối với Việt Nam, khi Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách cần theo dõi.

Liên Minh Bài Trừ Nô Lệ Mới Ở Á Châu, viết tắt là CAMSA (Coalition to Abolish Modern-day Slavery in Asia) trong tiếng Anh, hiện gồm năm tổ chức thành viên: BPSOS, Uỷ Ban Hoa Kỳ Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam, Liên Hội Người Việt Canada, Hiệp Hội Nhân Quyền Quốc Tế (Đức), và Tenaganita (Mã Lai). Sau một năm hoạt động, Liên Minh CAMSA đã can thiệp cho trên 30 vụ lớn nhỏ, ảnh hưởng đến ba ngàn công nhân. Liên Minh CAMSA cần sự yểm trợ của đồng bào để tiếp tục phát triển hoạt động nhằm can thiệp và trợ giúp nạn nhân, truy tố thủ phạm, và thúc đẩy những thay đổi về chính sách của các quốc gia.

Mọi đóng góp yểm trợ cho Liên Minh CAMSA, xin đề cho và gởi về:

BPSOS/CAMSA (Coalition to Abolish Modern-day Slavery in Asia)
PO Box 8065
Falls Church, VA 22041 – USA