Saturday, April 10, 2010

Alexandre de Rhodes



Alexandre de Rhodes

Đỗ Quang Chính

Từ nửa thế kỷ nay, rất nhiều sách báo viết về Alexandre de Rhodes: khen có, chỉ trích cũng có. Họ tìm hiểu, giải thích từ nguồn gốc gia tộc ông đến những hoạt động truyền giáo, những cách “hội nhập văn hóa” và công trình chữ quốc ngữ của ông. Tuy nhiên, hình như chưa ai công bố trên sách báo về những giờ phút cuối cùng cuộc đời ông dựa theo các tư liệu lịch sử.

May mắn cho chúng tôi, vì cách đây 30 năm, chúng tôi đã vô cùng sung sướng nhận được một tư liệu viết tay này 11.11.1660 do Amé Chezaud tường thuật về cái chết của ông. Amé Chézaud, như bạn đọc sẽ thấy dưới đây, người sống cùng một nhà, cùng ăn một mâm, cùng hoạt động truyền giáo với Alexandre de Rhodes tại Ispahan, thủ đô Ba Tư thời đó; hơn nữa, Chézaud còn ở bên cạnh Rhodes trong suốt cơn bệnh cuối cùng, vào chính giờ phút Rhodes tắt thở và tổ chức lễ tang cho ông.

Tư liệu này Chézaud viết đúng 6 ngày sau khi Rhodes nhắm mắt lìa đời, nên có thể tin vào những gì ông thuật lại là có thật. Bạn đọc sẽ thấy sau đây cách diễn tả của Chézaud, người bạn của kẻ qua đời, có thể đặt vào bản tường thuật những tình cảm và lối suy diễn của riêng ông.

Dù sao đi nữa, thiết tưởng đây cũng là một tư liệu đáng trân trọng đối với những người quan tâm nghiên cứu về Alexandre de Rhodes. Riêng chúng tôi, sau khi được đọc tư liệu này, chúng tôi có được cái nhìn rộng rãi hơn về nhà truyền giáo số 1 ở Việt Nam thế kỷ 17, về người đã đóng góp rất nhiều cho công trình sáng tạo chữ quốc ngữ, hơn nữa là người cho xuất bản 3 sách chữ quốc ngữ đầu tiên. Bởi những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn giới thiệu cùng bạn đọc.

I. Alexandre de Rhodes! Ông là ai?

Tuy bạn đọc đều biết Alexandre de Rhodes là ai, có liên hệ gì với Giáo hội và xã hội Việt Nam, nhưng thiết tưởng cũng nên nhắc lại cuộc đời của ông trên vài trang giấy, sau đó mới bàn đến những ngày cuối đời của ông trên dương thế. Cũng xin bạn đọc lưu ý: Trong tập này chúng tôi xin viết đúng tên Alexandre de Rhodes, hoặc viết ngắn gọn hơn là Rhodes, nhưng không dùng tên Đắc Lộ là tên người ta mới “đặt” cho ông từ 29-5-1941.

1. Thanh thiếu niên một nơi, thành nhân một chốn

Gốc gác Do Thái hay Pháp, Tây Ban Nha? Trước đây, người ta cho rằng Rhodes thuộc dòng dõi Do Thái, từ lâu đời có mặt tại Tây Ban Nha, xứ Aragon, miền Calatayud. Bốn năm gần đây, một linh mục Xuân Bích người Pháp, Michel Barnouin (tên Việt là Sơn) công bố một tài liệu về dòng họ Alexandre de Rhodes, nhận định rằng, không có dấu chỉ Rhodes thuộc dòng dõi Do Thái như người ta tưởng (de Rhodes ne laisse percevoir aucun véritable indice de judaité)[1]. Hãy cứ tạm nhận cho Rhodes có nguồn gốc Do Thái, vì vậy Cụ Tổ của ông ở Tây Ban Nha bị trục xuất cùng với 300.000 người Do Thái trong đợt 31-3-1492 vì chính quyền nước này kỳ thị người Do Thái [2]. Bỏ Calatayud đi đâu? Cụ tổ của Alexandre, Jean Chimenes de Rhodes (ghi trong bản di chúc năm 1497 bằng tên này), tức Jean de Rhodes, phải khăn gói chạy về Avignon, nơi gặp gỡ, hội tụ cho nhiều dân tộc, ngôn ngữ; đó là thành phố đã được Tòa thánh Roma mua lại trước đó 144 năm. Từ đấy Avignon là đất của Tòa thánh; chỉ đến năm 1791, Avignon mới trở thành đất của Pháp hoàn toàn.

Sinh 15-3-1593, thuộc giáo xứ thánh Madalena tại Avignon (từ năm 1960, Torralba chứng minh năm sinh 1591 của A.De.Rhodes là sai), A.de Rhodes cũng như những người trong gia đình sống tại Avignon, là công dân dưới quyền Đức thánh cha, mang quốc tịch Tòa thánh, mặc dù ông nói tiếng Provencale và tiếng Pháp. Thân sinh của Alexandre là Bernardin II de Rhodes, một quan chức giàu có, mang tước vị Ecuyer d’Avigon, kết hôn với Francoise de Raphaelis ngày 10-9-1590, anh của ông là Jean (1591-1621), tiến sĩ luật học; em trai là Georges (1597-1661) tu trong Dòng Tên, nhiều năm làm giáo sư thần học; ngoài ra còn 5 em ruột nữa: Gabrielle, Laure, Suzanne, Francois, và em út là Hélène sinh năm 1607 [3].

Bảy tuổi, Alexandre cắp sách đến trường Trung Tiểu học Avignon dưới quyền điều khiển của các linh mục Dòng Tên (Collège d’Avignon), theo học trường này từ năm 1600-1612. Theo chương trình học (Ratio Studiorum) của Dòng Tên được chính thức thi hành từ 8-1-1599, gồm 3 cấp:

Tiểu học: tức cấp 1 (Petit Collège) tính từ dưới đi lên gồm các lớp 5, 4, 3, 2, 1, tuổi từ 7-13: Các lớp tiểu học 5, 4, 3 học ngữ pháp La văn, Hi Lạp, tập nói và viết cho đúng; về La văn theo Cicero, còn Hi Lạp theo tác giả Ovide, Catulle, Tibulle, Properce, Virgile. Lớp 2 (Humanités), tuổi 10 và 11, nhằm trau dồi văn chương, thi văn La ngữ, Hi Lạp; về La văn theo các tác giả César, Tite-Live, Quinte-Curce, Horace, còn về Hi Lạp theo Esope, thánh Chrysotome, các thư của Platon, Synésios, và Iliade của Aristophane. Lớp 1 (Rhétorique), tuổi 12 và 13, nhằm trau chuốt văn chương Hi-La trong khi nói cũng như viết, đồng thời học Sử Địa, Luân lý tổng quát; về La văn theo Cicero (Partitiones, Do oratore v.v…); về Hi Lạp theo Quintilien, Tite-Live, Hésiode, Homère, Pindare-Démosthè ne. Bậc Tiểu học có khi thêm lớp 6, cũng vào lứa 7 tuổi.

Trung học: tức là cấp 2 (Moyen Collège, Cycle des Arts), tuổi từ 14-16; bắt đầu học Triết trong hai môn Siêu hình học và Luận lý học theo Aristote và Platon; về khoa học gồm Vật lý, Vạn vật học, Thiên văn, Toán học theo các tác phẩm của Aristote, Euclide, Sacro Bosco, Oronce Finé, các lý thuyết về các hành tinh của Peurbach, lượng giác học của Regiomontanus (cũng gọi là Johann Muller). Trong bậc này, các tu sĩ Dòng Tên (nếu khấn lần đầu độ tuổi này) học 3 năm, học sinh giáo dân 2 năm.

Việc lên lớp Tiểu và Trung học không theo năm học, nhưng theo khả năng.

Cao đẳng, hay cấp 3 (Grand Collège), đây là cấp Đại học, phải học đủ 4 năm chuyên về Thần học. Thường là do một Ban giám đốc riêng biệt điều khiển, trường cũng được đặt xa hai trường Trung Tiểu học; còn Trung Tiểu học thường có một Ban giám đốc chung [4].

Vậy, Rhodes học ở Collège d’Avignon được hiểu là Trung Tiểu học, từ năm 1600-1612, tức 12 năm, lúc đó Rhodes được 19 tuổi. Nhờ học với các cha Dòng Tên, nên ơn gọi tu Dòng Tên của Rhodes được định hình dễ dàng hơn. Nhưng Rhodes lại không xin gia nhập Dòng Tên tại Lyon, nơi có Nhà Tập, ngay phía Bắc Avignon; trái lại cậu thanh niên lại cất công đến Roma để xin vào Nhà Tập tại đây. Ngôi Nhà Tập mang thánh hiệu Anrê này, đã cung cấp cho Dòng Tên bao nhiêu nhân vật lỗi lạc về nhiều mặt.

Tại sao phải sang tận Roma? – Chẳng phải vì ham cái Roma cổ kính, nhưng chỉ vì khi gia nhập Tỉnh Dòng Tên Roma, sẽ dễ dàng được vua Bồ Đào Nha chấp thuận cho ông đi truyền giáo ở xứ Mặt trời hơn, là xứ cũng thuộc quyền vua Bồ Đào Nha theo chế độ bảo trợ (padoado Portugues).

Chính thức vào Nhà Tập ngày 14-4-1612, tuổi 19; hai năm sau, theo Hiến pháp Dòng Tên, Rhodes được khấn lần đầu ngày 15-4-1614. Tuy mới chỉ là “con nít” xét về thời gian tu trì, ấy vậy mà đã “cả gan” trong chính ngày khấn lần đầu, viết đờn chỉ gồm 20 dòng chữ bằng Ý văn, xin cha Bề trên Cả Claudius Aquaviva cho đi truyền giáo nơi xa xôi. Chưa được như ý xin; thế là thầy Rhodes của chúng ta bắt đầu năm thứ nhất Thần học tại Collège Romain, chứ chẳng phải ở Áo Môn hay ở Goa (nếu được chấp thuận cho đi truyền giáo ở Đông Á hay Nam Á). Thử “thời vận” một lần nữa xem thế nào: ngày 15-5-1617, cuối năm Thần học thứ ba, Rhodes viết một đơn khác bằng La văn chứ không bằng Ý văn như đơn viết năm 1614, nhưng vắn hơn hai dòng chữ, đệ lên cha Bề trên Cả Mutio Vitelleschi. Lần này, Rhodes ghi rõ: nhất là từ hai năm nay, con cảm thấy được lôi cuốn bởi lòng ao ước lớn lao vì phần rỗi người Nhật, Trung Hoa hay bất cứ người lương dân nào. Vẫn bặt vô âm tín! Cha Bề trên Cả chẳng nói chẳng rằng. Đánh bạo một phen nữa: vào mùa thu 1617, tức là khoảng tháng 10, đầu năm Thần học thứ bốn của Rhodes, thầy phóng tay viết một hơi 67 dòng chữ bằng La văn trên hai trang giấy khổ lớn như khổ giấy A4 ngày nay. Lời lẽ rất tha thiết, ý tưởng vững chắc, thật mạnh mẽ hùng hồn! Mấy dòng cuối lá đơn, thầy càng như muốn “lên giọng” thuyết phục cha Bề trên Cả hơn, khi đem ra những lý do có tính cách tôn giáo, học vấn, sức khoẻ và xã hội chính trị: con chẳng nghĩ tưởng rằng sinh quán của con có thể gây trở ngại hơn cho việc con đến vùng Ấn Độ, vì con là người Avignon, nên con là công dân của Đức thánh cha, con cũng có sức khoẻ, và con đang bắt đầu vào tuổi 25, con đang theo Thần học năm thứ bốn [5]. Chờ đợi. Cứ đợi chờ và cầu nguyện !

Rhodes vừa thụ phong linh mục xong, thì, đùng một cái, chính trong ngày lễ Phục sinh năm 1618, cha Bề trên Cả Vitelleschi gọi vị tân linh mục nhà ta sang Trụ sở của ngài, nói cho biết ngài chấp thuận cho đi Nhật Bản truyền bá Tin Mừng như ý nguyện. Vui quá là vui! Từ đây, Rhodes dành ra 6 tháng liền chăm chú học Toán học và Thiên văn như khi miệt mài theo khoa Thần học, hầu để thu phục nhân tâm làm cho người ta nhận biết Thiên Chúa.

2. Đông – Tây xa cách mọi mặt

Các nhà truyền giáo thời ấy muốn đi từ Châu Âu qua Đông Á, trừ Philippin, thường phải theo ngả Lisbõa, để từ đó tàu vua Bồ sẽ chở đi. Cuối tháng 1-1619 Rhodes tới thủ đô Lisbõa, sau khi rời bỏ Roma từ cuối năm 1618, ghé qua Avignon thăm gia đình. Ngày 4-4-1619 nhà truyền giáo lên tàu từ thủ đô Bồ Đào Nha, tới hải cảng Goa 9-10-1619. Vì xứ Anh đào đang cấm đạo nghiêm ngặt, bề trên Dòng Tên ở Goa tạm giữ ông lại hơn 2 năm trời, mãi đến 22-4-1622 Rhodes mới lên tàu từ Goa, tới Malacca 28-7-1622, nhưng rồi phải đến ngày 29-5-1623 Rhodes mới có mặt tại Áo Môn, chờ đi Nhật Bản. Tại đây, cũng như ở Goa từ 1619-1622, dù Rhodes chưa chính thức hoạt động truyền giáo, nhưng đã tỏ ra là nhà thừa sai năng động, nhiệt tình, dám nói dám làm, đặc biệt trong phương diện hội nhập văn hóa [6].

3. Còn hơn cả những gì mong đợi

Cuộc cấm đạo ở Nhật do Tướng quân Phong Thần Tú Cát khởi đầu từ 1587, rồi đến Tướng quân Đức Xuyên Tú Trung năm 1614, làm cho Giáo hội non trẻ ở đây tàn lụi dần. Giữa lúc ấy thì ở Đàng Trong xem ra việc truyền bá Tin Mừng khá thành công; do đó Bề trên Dòng Tên ở Áo Môn gửi Rhodes đến xứ chúa Nguyễn Phước Nguyên thời ấy. Thế là cuối năm 1624 (hoặc đầu năm 1625) Rhodes có mặt tại Thành Chiêm (Thanh Chiêm, Kẻ Chăm) cách Hội An về phía Tây chừng 4km, để học tiếng Việt với linh mục Francisco de Pina, một tu sĩ Dòng Tên đầu tiên thời điểm ấy thông thạo tiếng Việt nhất. Xem ra từ cuối năm 1624 đến tháng 6-1626, Rhodes được Bề trên cho ở Đàng Trong với mục đích chính là học tiếng Việt và làm quen dần với con người và xã hội Việt, để rồi tung ông ra Đàng Ngoài. Vì vậy, theo các tài liệu của Rhodes, thì hơn một năm ở xứ Trầm hương Yến sào, Rhodes chỉ có một lần theo Francisco de Pina ra Huế, khi Pina làm bí tích rửa tội cho bà Minh Đức Vương thái phi vào năm 1625. Cũng chẳng thấy Rhodes nói đến các công việc khác.

Để chuẩn bị cho sứ vụ ở Đàng Ngoài, Rhodes phải về Áo Môn đã, không thể trực tiếp từ xứ chúa Nguyễn vào xứ của chúa Trịnh được, vì hai nhà cầm quyền đang thù nghịch nhau dữ dội.

Tháng 6-1626, Rhodes cùng với linh mục Pedro Marques bỏ Đàng Trong về Áo Môn chờ gió mùa sang năm sẽ vào đất chúa Trịnh. Vâng, ngày 12-3-1627, Rhodes và Marques lên tàu từ Áo Môn, chỉ một tuần sau, ngày 19-3-1627, tàu tới bờ biển cửa Bạng tại Thanh Hóa. Lắm sáng kiến, lại nói tiếng Việt ngon lành, Rhodes đã chinh phục lòng người ở vùng cửa Bạng khá dễ dàng. Chẳng thế mà chỉ trong 2 tuần ở đây, ông đã làm cho 32 người tin vào Đức Kitô. Tại An Vực và Vân No, tức tỉnh lỵ Thanh Hóa ngày nay, dù chỉ ở tạm chừng 2 tháng, cũng có đến 200 người được rửa tội. Ngày 2-7-1627, hai nhà thừa sai được tận mắt nhìn thấy Thăng Long, kinh thành ngàn năm văn vật. Lúc đầu các ông được chúa Trịnh Tráng rất quý mến, ra lệnh dựng nhà cho hai ông ở (có lẽ sát với đền Bà Kiệu cạnh hồ Hoàn Kiếm). Nhờ đó, uy tín hai ông càng lớn. Chẳng những giới bình dân mà cả giới trí thức, quan lại và một số vị Sư ở Cầu Giấy cũng đến với Rhodes, người được gọi là Tiến sĩ Tây phương. Nhưng chỉ mấy tháng sau, người ta tung tin hai ông Tiến sĩ Tây phương là gián điệp của chúa Nguyễn tung ra Đàng Ngoài, là kẻ làm bùa phép (khi làm các Bí tích), là kẻ phá hoại đất nước, thuần phong mỹ tục của xã hội, vì rao truyền đạo giáo mới lạ, kỳ cục, lại chỉ cho phép người ta được lấy có mỗi một vợ!

Thế là những chuỗi ngày “xui xẻo” ập đến: 28-5-1628 hai cha bị quản thúc tại chính ngôi nhà do chúa Trịnh cung cấp; 10 tháng sau, 3-1629, hai vị bị chúa Trịnh ra lệnh đưa xuống Bố Chính. Nhưng hai cha cứ từ từ lần mò lên tới Vinh, rồi cơ hội đến, hai cha theo tàu Bồ Đào Nha lại lên Thăng Long. Rốt cuộc, tháng 5-1630, hai cha bị chúa Trịnh trục xuất hoàn toàn khỏi xứ.

Tuy ở Đàng Ngoài hơn 3 năm, nhưng tính ra chỉ hơn một năm đầu là được tự do. Vậy mà tổng cộng số người được rửa tội lên đến 5.602, chưa kể Rhodes đã lập được tu hội Thầy giảng, mà ba vị đầu tiên tuyên khấn đều là ba nhà Sư: Phanxicô Đức, Anrê Tri, Inhaxiô Nhuận.

Về Áo Môn, Rhodes “bị chỉ định” làm Giáo sư Thần học tại Học viện Madre de Deus, điều mà ông không cảm thấy thích thú, chỉ làm vì đức vâng phục. Trong 10 năm trời, 1630-1640, Rhodes ở Áo Môn làm “cái nghề” tay trái ấy, nhưng vẫn hoàn toàn đặt mình trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Đúng là ông giống như chiếc gậy trong tay ông già.

4. Đùa với tử thần

Năm 1639 tất cả 6 Giêsu hữu bị chính quyền đuổi khỏi Đàng Trong. Với tình hình này, Bề trên phải tìm một người trước đây đã quen thuộc với xã hội Đàng Trong để can đảm và mau lẹ ứng xử với mọi tình huống về mặt tôn giáo. Ai đây? Phải chọn Rhodes thôi, lúc này cha vừa đúng 47 tuổi.

Từ năm 1640-1645, Rhodes ở Đàng Trong, đôi khi có vài anh em đến trợ lực n hư cha Alberto và Mattos ở được vài tháng. Trong thực tế, Rhodes như “kẻ một mình một chợ” trong suốt thời gian trên, tha hồ mà sáng kiến, tha hồ mà chống chọi, tâm hồn thì rất an hòa thư thái, nhưng thân xác thì rong ruổi khắp Đàng Trong, khi trên bộ lúc dưới thuyền, sống chết lúc nào không hay. Hai lần bị bắt, một lần bị chính chúa Nguyễn Phước Lan lên án tử hình, nhưng rồi nhờ có vị Thái sư can gián, nên đổi ra án trục xuất khỏi xứ sở, nếu còn đến Đàng Trong lần nữa sẽ bị tiền trảm hậu tấu.

Tổng cộng trong giai đoạn này, 4 lần đi về giữa Áo Môn-Đàng Trong thật là cực khổ; mỗi lần tạm rút lui khỏi Đàng Trong cũng có nghĩa như bị chính quyền hoàn toàn trục xuất khỏi đây. Thời gian những lần đi về:

    Tháng 2-1640 đến tháng 8-1640;
    Tháng 12-1640 đến tháng 7-1641;
    Tháng 1-1642 đến tháng 7-1643;
    Tháng 1-1644 đến tháng 7-1645.


5. Bao la mà vẫn chật chội

Rhodes phải rời bỏ Đàng Trong ngày 3-7-1645 (nơi khác Rhodes lại ghi là ngày 9-7-1645) [7], mang theo di tích thánh là sọ của thầy giảng Anrê Phú Yên tử đạo tại Gò Xử ở Thành Chiêm ngày 26-7-1644 chính Rhodes chứng nhận tận mắt. Từ đó trở đi không bao giờ Rhodes đến nứơc Đại Việt này nữa.

Theo lời yêu cầu của Bề trên Dòng Tên ở Áo Môn, ngày 20-12-1645 Rhodes đáp tàu về Roma, để trình bày với Bề trên Cả Dòng Tên về tình hình Tỉnh Dòng Nhật Bản, với Tòa thánh về thực trạng Giáo hội Việt Nam. Đường về Roma đối với Rhodes còn nguy hiểm gian nan hơn cả những chuyến vượt biển trước đây, bởi vừa lâu dài, vừa bị người Hà Lan bắt giam, gần 3 tháng ở Jakarta vì dám dâng Thánh lễ ở đây là nơi do người Hà Lan theo đạo Tin Lành cai quản. Ngày 27-6-1649 mới “vác xác” về tới “Kinh thành muôn thuở” sau một cuộc hành trình 3 năm 6 tháng!

Bận việc quá! Tại Roma, nhà truyền giáo số 1 ở Việt Nam vừa phải lo xuất bản 5 cuốn sách để nói cho Giáo hội Châu Âu biết về Giáo hội Việt, về thành quả chữ quốc ngữ, lại phải vận động chạy ngược chạy xuôi, đến cả xứ Piémont, Thuỵ Sĩ để tìm mấy ứng viên giám mục cho xứ Con Rồng Cháu Tiên theo ý Tòa thánh. In sách thì được rồi, nhưng chẳng ai muốn đi làm giám mục ở nơi xa xôi hẻo lánh quá là khác lạ với Châu Âu.

Được sự chấp thuận của Thánh bộ Truyền giáo, Rhodes trở sang Pháp, đi tìm ứng viên giám mục. Cuối năm 1652, Rhodes bỏ Roma về Lyon, lên Paris thực hiện cho được mục đích. May quá, trong nhóm Bạn hiền (Bons Amis), ba linh mục trẻ có đủ khả năng, sẵn sàng đi làm giám mục ở đất Việt.
Nhưng, khốn thay, chính Đức thánh cha Innocens XI lúc đó lại không muốn cho người Pháp giữ trọng trách này, còn vua Bồ Đào Nha thì cực lực phản đối, lại còn dọa, nếu Tòa thánh cử người Pháp vào sứ vụ này, đế quốc rộng lớn Bồ Đào Nha sẽ không vâng phục Tòa thánh nữa. Sợ! Đức thánh cha liền yêu cầu cha Bề trên Cả Dòng Tên Goswinus Nickel chuyển Rhodes đi khỏi Pháp.

6. Mênh mông nước Ba Tư

Phải vâng lời Đức thánh cha ngay lập tức, không trì hoãn một giây. Cha Bề trên Cả thì đương nhiên rồi; còn Rhodes cũng thế, vì ông đã khấn trọng 4 lời Khấn trước năm 1635. Đức vâng phục của linh mục Dòng Tên này thật tuyệt vời, cha Amé Chézaud đã viết như thế trong bức thư đưa tin cha Rhodes qua đời. Cũng về đức vâng phục, Chézaud viết trong bức thư trên: “Tôi không muốn nói đến đức vâng phục và khiêm tốn của cha, vì nếu có nói, tôi chỉ nói được cách mập mờ. Tuy nhiên, nếu ai muốn biết cảm nghĩ của tôi và của anh em chúng tôi về điều đó thì chúng tôi đều đồng tâm nhất trí về điều này để nói rằng, cha thật tuyệt vời […]. Ai đã biết cha nhờ sống với cha thì chẳng hồ nghi về điều này […]. Tôi chắc chắn rằng những ai trong anh em chúng tôi đã được cha cùng sống và cùng làm việc lâu dài, có thể còn nói nhiều chi tiết đặc biệt hơn về điều sau đây trong bản tường thuật này; điều đó lại chính là điểm cuối cùng cuộc đời cha, tỏ ra đâu là mấu chốt của mọi thứ dệt nên đời cha. Chưa bao giờ người ta thấy một tu sĩ giống như cây gậy của ông già, chưa thấy cha trong tất cả cơn bệnh; cha nhẫn nhục, nhạy cảm hơn cả cây gậy, vì cha sẵn sàng ở tư thế như người ta muốn, đến mức như cha còn có ý chí hơn cả cây gậy”.

Đưa cha Rhodes đi làm việc ở đâu bây giờ? Chẳng rõ cha G.Nickel có phải nát óc vì vụ này không. Chỉ biết, Bề trên Cả không trả Rhodes trở lại cho Tỉnh Dòng Tên Nhật Bản, lại cũng chẳng phái đi một nơi nào dễ dàng cho ông hơn, nhưng “tống ngay đi” một vùng chẳng thuận tiện: Ba Tư! Ôi, cái vương quốc huyền bí một ngàn một đêm lẻ!!! Toàn là Hồi giáo (hiện nay nước Iran – trứơc đây gọi là Ba Tư – rộng 1.650.000 km2, dân số 56 triệu, nhưng chỉ có 13.000 người Công giáo, ngoài ra 93% theo Hồi giáo phái Si-it).

Đi Ba Tư, nhưng ở tại đâu? Thưa ở tại Ispahan (Asfahan), thủ đô của Ba Tư thời ấy, phía Nam Téhéran ngày nay (từ năm 1788, Ba Tư dời thủ đô từ Ispahan lên Téhéran).

Ngày 16-11-1654, Rhodes lên tàu từ cảng Marseille để tới Malte; lại lên tàu từ đảo Malte để đi Syria; ngày 11-12-1654 tới Seyde thuộc Syria; mừng lễ Chúa giáng sinh tại Thánh địa Palestine; mãi đến 1-11-1655, Rhodes mới đặt chân lên Ispahan. Thật ra, đối với con người xứ Avignon này, thì Ispahan cũng chẳng lạ lẫm gì, bởi vì trong chuyến đi từ Áo Môn về Roma, Rhodes đã ngừng tại Ispahan 2 tháng rưỡi kể từ ngày 13-4-1648 đến 28-6. Tại Ispahan có một cộng đoàn Dòng Tên, gồm Rhodes là bề trên và cha Chézaud cùng tu huynh Berthe.

Vương quốc Ba Tư rộng lớn mênh mông, nhưng đối với Rhodes cũng như các thừa sai khác (Augustinô, Capuxinô…) vẫn chật chội, bởi lẽ dân chúng toàn là Hồi giáo, giảng đạo ai chịu nghe, làm sao cho người Hồi giáo chân nhận Đức Giêsu Kitô chẳng những là ngôn sứ của Thiên Chúa mà còn là Thiên Chúa thật. Gì gì đi nữa nhà thừa sai của chúng ta cũng phải học tiếng Ba Tư đã. Sáu mươi hai tuổi rồi, dù Rhodes có tài về ngôn ngữ cũng chẳng phải như khi học tiếng Bồ, tiếng Việt. Về vấn đề học ngôn ngữ Ba Tư, trong thư Rhodes gửi cho người em ruột là linh mục Dòng Tên Georges, ngày 20-5-1658: từ khi anh đến ở xứ này, Chúa đã ban ơn cho anh học được tiếng Ba Tư: anh biết tạm đủ để giảng thuyết.

Đọc bức thư của Amé Chézaud, chúng ta thấy cuộc truyền giảng Tin Mừng của Rhodes ở Ba Tư chẳng thu lượm được mấy kết quả: “Tính dịu dàng của cha [Rhodes] đã làm cha luôn ứng xử như con chiên giữa bày sói, chịu đựng vui vẻ những lời lăng nhục, khinh bỉ và cả gạch đá, mà bây giờ tại đây người ta quen tiếp đón chúng tôi như thế, đáp lại phần thưởng đó là những lời như Sữa tốt lành ngọt ngào cùng lời chúc lành”.

“Để tỏ lòng nhiệt thành, cha đi khắp các làng chung quanh tìm kiếm trẻ em bệnh hoạn, hy vọng rửa các em bằng nước thanh tẩy khi các em gần sinh thì. Cha không sốt ruột dù thấy mình bị người lương dân chế nhạo, cũng chẳng nản lòng bỏ cuộc kể cả đôi khi cảm thấy bị dội vì đã không thể diễn tả cho đúng trong tiếng Ba Tư; cha cũng chẳng bao giờ nản chí trong những dịp ích lợi cho phần rỗi người lương dân, không sợ sệt, không e ngại chút nào, hơn nữa, còn được thúc đẩy ước ao chịu chết bằng con đường đó. Đôi lúc xem ra cha nhiệt tình quá mức (nếu cha có thể vượt qua khỏi) đến nỗi cha nghĩ là mình đã chẳng mang lại kết quả ở đây như cha đã làm được ở nước khác. Thật ra không hẳn là không có kết quả, cũng chẳng phải là cha nhụt nhuệ khí, nhưng chỉ do thiếu mầm mống vì không được chuẩn bị và kém sâu lắng”.

Sánh với cuộc thành công của Rhodes ở Việt Nam trước đó, thì Ba Tư chẳng có là bao, nếu không nói là thất bại. Chẳng riêng gì Rhodes, mà các nhà thừa sai ở xứ này cũng thế thôi. Chính Rhodes chẳng ghi lại gì đáng kể trong 5 năm 4 ngày ông ở Ba Tư. Quá là chênh lệch giữa xứ một ngàn một đêm lẻ với xứ Con Rồng Cháu Tiên!

Ngày 5 tháng 11 năm 1660, Alexandre de Rhodes, nhà thừa sai của chúng ta qua đời tại Ispahan, thọ 67 tuổi.

Liền đây, chúng tôi xin trình bày bức thư của cha Amé Chézaud, thuật lại lúc cha Rhodes bệnh nặng rồi qua đời. Đó là mục đích của tập này.

II. Thư báo tin Alexandre de Rhodes qua đời

1. Vài điều cần lưu ý

Chính bức thư do cha Amé Chézaud viết trong 3 trang giấy khổ 20cm60 x 29cm50, chữ viết nhỏ li ti, văn dài lê thê, nhiều chỗ chấm câu không rõ ràng, lại là thứ tiếng Pháp thế kỷ 17. Chính vì vậy, khi phiên dịch sang tiếng Việt, chúng tôi không thể dịch theo nghĩa từng chữ; đàng khác cũng không thể chấm câu hoàn toàn như nguyên bản. Chắc chắn trong bản dịch này có nhiều khiếm khuyết, mong bạn đọc chỉ giáo.

2. Tờ thứ nhất của bức thư

Tờ thứ nhất của bức thư là tờ giấy trên đó viết mấy dòng chữ, đề tên, địa chỉ người nhận và tên cùng địa chỉ của người mà tác giả muốn nhờ ông chuyển cho người nhận thư. Chúng tôi tạm coi tờ giấy này như một bao thư, dù không mang hình thức bao thư, không dán kín. Sau đó sang tờ thứ hai trở đi mới chính thức là bức thư. Vậy chúng tôi xin mô tả chi tiết hơn mấy dòng chữ tờ thứ nhất của bức thư này.

Trên cùng trang giấy của tờ thứ nhất, có ba loại nét chữ khác nhau, chứng tỏ do ba người viết: Amé Chézaud và hai người khác.

a. Trước hết là nét chữ của chính tác giả bức thư, cha Amé Chézaud:

Gửi cha đáng kính/Jacques Renault / Giám tỉnh Dòng Tên Pháp/tại Parys.
(A Mon Reuer, Pere/Le P.Jacques Renault Pro=/uincial de france de la Compagnie/de Jesus/a Parys)

Nhờ cha đáng kinh Georges / de Rhodes cũng thuộc Dòng Tên / tại Lyon.
(Rẽcommandee au R.P.Georges / de Rhodes de la mesme Compie / a Lyon.

b. Tiếp đến là chữ một người khác viết bằng La ngữ, nhưng chúng tôi không biết của ai; chỉ phỏng đoán của người làm việc ở Kho lưu trữ;

Cha Alessander de/Rodes/qua đời tại Aspan tháng 11/1660.
(Obiit / P. Alessander de / Rodes Aspani nouẽ/1660)

c. Sau cùng nét chữ của người thứ ba, trên cùng trang giấy; chúng tôi cũng không biết do ai viết:
Thư này được viết / do chính tay / cha Aymé Chezaud.

(Cette lettre est escrite / de la propre main / du P.Aymé Chezaud)

Để bạn đọc hiểu biết rộng hơn, chúng tôi xin ghi lại tiểu sử hai nhân vật mà chúng tôi có tư liệu: Amé Chézaud và Georges de Rhodes:

Amé Chézaud (1604-1664); chính cha Chézaud ký tên Amé Chézaud trên bức thư cha viết tại Ispahan ngày 11-11-1660, đưa tin cha A.de.Rhodes qua đời; có người lại viết tên cha là Aymé Chezaud; còn cha Joseph Déhergne viết là Aimé Chézaud. Cha Chézaud sinh năm 1604 tại Lyon; giai nhập Dòng Tên tại Avignon 22-9-1627; khấn trọng tại nhà thờ thánh Giacôbê của Dòng Tên tại Marseille ngày 7-6-1637. Năm 1639 Chézaud đi truyền giáo tại Syria; năm 1652 cha lập cư sở (residentia) Dòng Tên tại Julfa gần Ispahan; khi cha Alexandre de Rhodes đến Ispahan làm bề trên cộng đoàn Dòng Tên ở đây, thì (có lẽ) chuyển cộng đoàn ở Julfa vào Ispahan. Từ khi Alexandre de Rhodes có mặt tại Ispahan, 1655, cho đến khi qua đời, 1660, Chézaud luôn ở với cha, trừ khoảng 11 tháng, 1658-1659, Chézaud theo lời yêu cầu của Alexandre de Rhodes, đi đường bộ theo ngả Khorassan đến vùng Tartarie truyền giáo. Không thành công, Chézaud lại trở về Ispahan khoảng cuối năm 1659 đầu 1660. Chézaud qua đời tại Ispahan ngày 14-9-1664 [8].

Georges de Rhodes (1597-1661), sinh tại Avignon 28-12-1597; là em ruột của cha Alexandre de Rhodes; gia nhập Dòng Tên tại Avignon 16-10-1613; qua đời tại Lyon 17-5-1661. Khác với anh mình là Alexandre, quãng đời của Georges quanh quẩn trong vùng Avignon và Lyon. Có lẽ chưa bao giờ Georges ra khỏi nước Pháp, chứ đừng nói đến việc đi tới những miền đất xa lạ ở châu Á như Alexandre. Xem ra hoạt động của Georges tập trung vào việc dạy học nhiều hơn; vì trong gần 25 năm trời cha dạy học ở trường Trinité và Notre-Dame-du- Bon-Secours là hai trường của Dòng Tên tại Lyon. Các môn Georges giảng dạy: Nhân văn (Humanités): 3 năm; Văn chương (Rhétorique): 2 năm; Triết học: 6 năm; Tín lý: 11 năm; Luân lý: 2 năm. Những năm cuối đời, Georges làm Viện trưởng Notre-Dame-du- Bon-Secours. Georges viết những bộ sách lớn bằng La ngữ, được ấn hành vào các năm 1661, 1664 và 1671:

Disputationum Theologiae scholasticae in quibus Deus, angelus, homo, sex Tractatibus explicantur. Tomus prior, Lyon 1661, in-fol, 692tr.

Disputationum Theologiae scholasticae in quibus Christus, Deipara, Sacramenta, sex Tractatibus explicantur. Tomus prior, Lyon 1661, in-fol, 680tr.

Philosophia peripatetica, ad veram Aristotelis mentem. Libris quatuor digesta & disputata, pharus ad Theologiam scholasticam, Lyon 1671, in-fol, 704tr.

3. Bức thư phiên dịch sang tiếng Việt từ nguyên bản Pháp ngữ, kèm theo chú thích:


    “Thư Luân lưu [9] về cha Alexandre de Rhodes qua đời

    “Thư cha đáng kính. Bình an của Đức Kitô [10]. Xin báo tin cha hay, cha Alexandre de Rhodes đã qua đời tại đây vào ngày 5 tháng mười một, sau một cơn bệnh lâu dài và lên xuống thất thường. Bởi vì bệnh sưng bụng làm cha yếu mệt hầu như trọn tháng chín, tiếp đến là bệnh nhức buốt tai hại làm cha đôi khi không dâng Thánh lễ được (điều này còn gây đau đớn cho cha hơn là cơn bệnh). Tình trạng trên kéo dài đến giữa tháng mười, mà chẳng có phương thuốc nào giúp cha dễ chịu hơn. Từ đó cha phải nằm liệt giường, không còn dâng Thánh lễ được, vì cha còn bị rơi vào một thứ bệnh rỉ máu mà như người ta xét đoán do ung nhọt trong ruột. Chứng rỉ máu hay xảy ra, đã chẳng cho cha nghỉ yên chút nào ngày cũng như đêm. Những cơn khó chịu ấy kèm theo sự chán ngấy, đúng hơn là ăn chẳng biết ngon, rồi đến đau lá lách. Người ta đã chữa cha bằng mọi thứ thuốc mà người ta đoán phải có lợi cho cha, nhưng tất cả những thứ bệnh ấy chẳng chịu một loại thuốc nào. Rõ ràng là sức khoẻ của cha rất tàn tạ, suy nhược. Tuy nhiền nhờ tim cha còn tốt, nên ngay những ngày cuối cùng của cơn bệnh, chúng tôi thấy cha ít khi lên cơn sốt. Hy vọng những thứ bệnh đang tấn công cha, sẽ không thể làm cha chết vào chiều thứ sáu 5 giờ trước khi cha tắt thở. Vì lúc đó dường như sức khoẻ tốt hơn, nên cha dùng bữa theo thường lệ. đến bốn hoặc 5 giờ sau, nhờ ơn Chúa, cha chịu phép Bí tích rồi linh hồn về với Chúa cách nhẹ nhàng và thánh thiện. Tôi muốn nói mà không thêm bớt chút nào, đó là cha đã kết thúc cuộc đời như ngọn nến tàn dần.

    “Theo tôi, đã từ lâu chẳng những cha ước ao, mà còn dự đoán và biết trước thời điểm định mệnh đó. Vì từ khi tu huynh Georges Berthe [11] và tôi trở lại đây, đến nay được một năm, thì cha đã nói với chúng tôi, cha tin tưởng rằng Chúa đã cho phép chúng tôi trở về để giúp cha trong giờ chết, kẻ giúp về phần thiêng liêng, người về phần xác. Từ đó cha chuẩn bị chết bằng cuộc linh thao thường niên với một tâm hồn sốt sắng mới mẻ, đặc biệt cha xưng tội chung về cả cuộc sống cũng vì ý ấy. Do đó, cha dọn mình kỹ lưỡng và lâu dài; cha xét mình và viết ra cả những chi tiết cùng hoàn cảnh lầm lỗi bé nhỏ nhất. Bởi đấy cha chỉ có thể hoàn thành trong nhiều ngày, luôn luôn với sự xúc động bề trong cũng như bề ngoài khi ăn năn tội, một sự xúc động lâu dài như cuộc đời của cha; mỗi lần xưng tội là mỗi lần cha xúc động. Cha xưng tội hàng ngày theo thói quen bao nhiêu có thể, ít nhất từ khi cha có mặt ở đây [1655]. Trong việc xưng tội, cha tìm ra chất liệu [tội] để xưng với một lương tâm kính sợ Chúa tới mức bối rối, coi là tội những thứ không phải là tội và cha dọn mình rất kỹ lưỡng như tôi biết, vì trong 5 năm 4 ngày[12] tôi được hân hạnh làm người giải tội cho cha (trừ khoảng 11 tháng tôi vắng mặt).

    “Hầu hết và có thể nói là tất cả thư từ cha viết trong năm nay [1660] chứng tỏ rõ cha đã dự đoán cái chết gần kề; những ai nhận được thư cha viết trước khi phát cơn bệnh, đều có thể thấy điều đó.

    “Cha đã xin tôi cho cha biết khi cơn bệnh trở nên nguy kịch, nếu người ta đoán được thực là nguy. Nhưng khi chúng tôi biết được thì chẳng còn thuốc nào chữa nổi.

    “Vào lúc hai giờ chiều, cha ngủ thiếp đi mà chúng tôi lại nghĩ là tốt, vì xem ra giấc ngủ khá êm đềm và mạch của cha lại không giống với người chữa trị đã nhận định là mạch người sắp chết. Tuy thế tình trạng này kéo dài tới khi cha tắt thở tức là khoảng tám giờ sau [13].

    “Cha dâng Thánh lễ cuối cùng ngày 24 tháng mười, sau đó phải liệt giường hoàn toàn và xưng tội cùng rước Mình Thánh Chúa nhiều lần. Chính cha ước ao được ăn năng rước Mình Thánh, nhưng vì lòng cung kính lại không dám, bởi nghĩ mình chẳng xứng.

    “Bệnh rỉ máu hành hạ cha hầu như đêm ngày bất kể giờ giấc. Trạng thái yếu liệt cuối cùng này gây bất lợi cho chúng tôi và làm cho chúng tôi mất an ủi, vì chúng tôi hy vọng qua lời chúng tôi hứa với nhau, cha sẽ được đóng ấn cuộc đời bằng việc chịu phép Xức dầu bệnh nhân; nhưng cơn yếu liệt ấy đã cất khỏi cha không còn dịp tỏ lòng sốt sắng bằng việc lãnh nhận phép Xức dầu, điều mà cha đã xin từ trước.

    “Đó, cái chết đã xảy ra với cha vào tuổi ngoài lục tuần bắt đầu kể từ ngày tháng năm [14] là lúc cha sinh tại Avignon; như thế người ta có thể nói là cha là người của thế kỷ khác, do đời sống của cha gần với đời sống các tông đồ hơn là vì số những năm cha sống.

    “Cha qua đời để lại cho chúng tôi nhiều nuối tiếc và an ủi: Nuối tiếc vì mất cha, không những đối với chúng tôi, mà còn đối với biết bao vị thừa sai rải rác trong khắp phương Đông này (Leuant) là những nơi cha đã lay chuyển họ cách hữu hiệu và cha còn làm nhiều việc để chỉ đường dẫn lối cho họ, tỏ ra săn sóc họ bằng tâm tình người cha, cho họ lời khuyên và khuyến khích họ bằng lòng nhiệt tình của người cha; an ủi, vì người ta sẽ còn tưởng nhớ đến cha lâu dài, chẳng những nhờ một số thư từ rất xây dựng mà cha đã viết và soạn thảo do kiến thức của cha, mà còn nhờ các bản tường thuật và các tác phẩm cha đã biên soạn để xây dựng cho mọi người [15]. Cho nên chẳng cần tôi phải viết lại cuộc đời của cha, vì chính cha đã làm khá nhiều cho người ta biết công trình của mình.
    “Nước Ý và nước Pháp là những nơi cha đã từ đó đến đây, tỏ ra tôn kính cũng như ngưỡng mộ cha và nhiều vị cao cấp ủng hộ cha [16]. Danh giá mà tất cả mọi người dành cho cha nói chung cũng là vì người ta cho rằng cha có một đời sống thánh thiện. Quả thật tôi chưa thấy một ai rất đúng mực như cha trong tất cả mọi việc cha làm. Nếu viết về các nhân đức của cha, không biết phải bắt đầu từ nhân đức nào.

    “Xem ra nhân đức thứ nhất phải kể ra đây là cha luôn hãm mình phạt xác, vì mọi ngày cha đều đánh tội trừ ngày Chúa nhật và Lễ trọng; đó là thói quen cha hằng giữ cho đến cơn bệnh cuối cùng này. Trong tuần lễ, có mấy ngày cha cũng mang một dây ngang thắt lưng, bện bằng sợi arrhal có nhiều mũi nhọn, mà khi người ta tắm xác cha đã nhận ra nhiều dấu vết trên mình. Cha kiêng thịt mọi ngày, thường chỉ ăn rau hay thứ gì giống như vậy thay cho bữa tối.

    “Cùng với những hãm mình thể xác, cha còn nhiều hãm mình nội tâm; vì khi còn khoẻ mạnh, ngày nào ch cũng thức dậy một giờ trước những người khác để cầu nguyện (ngoài thói quen cầu nguyện theo luật Dòng Tên).

    “Việc cha liên tục học hỏi đường thiêng liêng vẫn không ngăn trở cha học tiếng Ba Tư. Để tiếp tục học được ngôn ngữ này, cha vận dụng nhiều công sức như một chàng trai trẻ khoẻ mạnh phải làm hết mình cho công việc đó. Muốn được tiến bộ, cha tập viết không biết mệt mỏi.

    “Lòng nhiệt tình của cha không phải chỉ đóng khung trong nước Ba Tư bao lâu cha còn có mặt tại đó, mà còn mở rộng ra khắp phương Đông. Vì vậy, dù cha chẳng đi tới vùng rộng lớn Tartarie [17] được, nơi Dòng Tên chưa mở cuộc truyền giáo, cha lại cổ võ tôi đi tới đó, rồi phái một tuy huynh [Georges Berthe] đi cùng với tôi, mà không giữ chúng tôi ở lại cùng cha. Việc truyền giáo ở đó không thành công (cũng do những bất toàn của tôi). Cha còn muốn mở cuộc truyền giáo cho người xứ Géorgie, nhưng đâu có người để gửi đi.

    “Tính dịu dàng của cha đã làm cha luôn luôn ứng xử như con chiên giữa bày sói, chịu đựng vui vẻ những lời lăng nhục, khinh bỉ và cả gạch đá, mà bây giờ tại đây người ta quen tiếp đón chúng tôi như thế, đáp lại phần thưởng đó là những lời như Sữa tốt lành ngọt ngào cùng lời chúc lành”.

    “Để tỏ lòng nhiệt thành, cha đi khắp các làng chung quanh tìm kiếm trẻ em bệnh hoạn, hy vọng rửa các em bằng nước thanh tẩy khi các em gần sinh thì. Cha không sốt ruột dù thấy mình bị người lương dân chế nhạo, cũng chẳng nản lòng bỏ cuộc kể cả đôi khi cảm thấy bị dội vì đã không thể diễn tả cho đúng trong tiếng Ba Tư [18]; cha cũng chẳng bao giờ nản chí trong những dịp ích lợi cho phần rỗi người lương dân, không sợ sệt, không e ngại chút nào, hơn nữa, còn được thúc đẩy ước ao chịu chết bằng con đường đó. Đôi lúc xem ra cha nhiệt tình quá mức (nếu cha có thể vượt qua khỏi) đến nỗi cha nghĩ là mình đã chẳng mang lại kết quả ở đây như cha đã làm được ở nước khác. Thật ra không hẳn là không có kết quả, cũng chẳng phải là cha nhụt nhuệ khí, nhưng chỉ do thiếu mầm mống vì không được chuẩn bị và kém sâu lắng”.

    Tất cả các Kitô hữu và nhiều lương dân tỏ lòng rất kính phục cha, ngay cả những người không quen biết cha cũng thế, dù chỉ thấy cha khi đi ngang qua. Nhiều người coi cha như một vị Giám chức vì cha nghiêm trang, đĩnh đạc và khiêm tốn. Những người khác lại gọi cha là nouroni, nghĩa là sáng rực hay đầy ánh sáng; có những kẻ gọi cha là thánh, vì ngưỡng mộ cha có tư cách thánh.

    “Tôi không muốn nói đến đức vâng phục và khiêm tốn của cha, vì nếu có nói, tôi chỉ nói được cách mập mờ. Tuy nhiên, nếu ai muốn biết cảm nghĩ của tôi và của anh em chúng tôi về điều đó thì chúng tôi đều đồng tâm nhất trí về điều này để nói rằng, cha thật tuyệt vời . Ai đã biết cha nhờ sống với cha thì chẳng hồ nghi về điều này.

    “Lòng bác ái của cha đối với người nghèo, người bệnh, dù là người trong nhà hay người ngoài cũng được cha đối xử như nhau. Đối với kẻ này cha như là người cha, với kẻ khác cha như là người mẹ. Bằng chứng là, trong khi cha bệnh, cũng có một người phục vụ trong nhà cùng nằm bệnh với cha, đã được cha săn sóc còn hơn là săn sóc cho chính cha, vì cha không chịu để cho anh ta thiếu thốn gì. Cha hạ mình làm những công việc thấp hèn nhất, những việc càng khó thì cha càng tin tưởng vào Chúa. Cha theo ý Chúa coi như ý mình, dù bất cứ sự gì xảy đến. Tính dịu dàng của cha trong khi chuyện trò và sự hiện diện của Chúa, là hai yếu tố làm nên đức tính trên.

    “Đức trong sạch của cha lại không thể nào không bằng các đức tính khác. Tôi không thấy người nào thận trọng hơn cha trong việc gìn giữ giác quan nhất là sự nhìn xem; đối với các cuộc thăm viếng của phụ nữ, cha tiếp đãi họ chỉ vì lòng bác ái.
    “Trong khi trò chuyện với người Hồi giáo, cha tìm cách cho họ biết bao nhiều có thể về hai mầu nhiệm chính của Đức Tin chúng ta, đó là Thiên Chúa Ba Ngôi và Ngôi Lời nhập thể. Trong các lời chào hỏi của người Hồi giáo, họ thường nói Khoda nigah darad (Thiên Chúa gìn giữ anh chị), nhưng cha lại chào họ Hhazaret eissé hay Christus nigah darad (Đức Giêsu Kitô gìn giữ anh chị ) để họ hiểu rằng Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa [19].

    “Dù định viết vắn tắt, tôi cũng không được phép không nói gì về lòng sùng kính của cha đối với phép Thánh Thể, với Đức Thánh Trinh nữ, các Thiên thần và một số vị Thánh, cách riêng các Thánh trong Dòng chúng ta, nhất là các đấng tử đạo mà cha biết mặt và cha còn ghi nhớ như mới tinh. Khi nhớ tới các vị tử đạo trên đây, trong lòng cha pha lẫn một nỗi ưu phiền thánh thiện, vì đã không có được giờ phút giống như các ngài, đổ máu mình ra hay phải uống nước [20] hoặc bị treo hố [21] ở Nhật Bản như nhiều bạn bè của cha, mà cha còn mang di tích thánh của các ngài trên mình cách rất tôn kính [22] và ước mong được kết thúc đời sống bằng cuộc tử đạo nếu Chúa ban ơn này cho cha mà cha hằng khẩn thiết cầu xin. Vì tôn kính các đấng tử đạo, cha còn lưu ý đến việc hàng ngày trong bữa ăn đọc truyện vài vị tử đạo, hoặc anh em trong Dòng qua đời nhờ tin tức do các anh em gửi đến.

    “Lòng sùng kính của cha đối với Đức Mẹ Thiên Chúa được nhận thấy mỗi khi cha nói với người tín hữu hay người lương dân. Để tỏ lòng tôn kính Đức Mẹ Thiên Chúa, hàng ngày cha còn lần hạt ngoài các việc sùng kính khác.

    “Đàng khác, ngay từ khi còn nhỏ tuổi cha đã khấn hứa cách riêng giữ đức khiết tịnh, cho nên cha không thể chịu đựng được khi người đời nói chuyện với cha hay trước mặt cha mà nói tục. Những khi ấy cha cảnh cáo họ cách nhẹ nhàng để họ đừng nói như thế nữa, và thường là có hiệu quả. Cha cũng hành xử như vậy đối với những ai vì bất cẩn hay vì lý do nào khác mà buông lời gièm pha hay làm hại danh giá người thân cận.

    “Tôi chắc chắn rằng những ai trong anh em chúng tôi đã được cha cùng sống và cùng làm việc lâu dài, có thể còn nói nhiều chi tiết đặc biệt hơn về điều sau đây trong bản tường thuật này; điều đó lại chính là điểm cuối cùng cuộc đời cha, tỏ ra đâu là mấu chốt của mọi thứ dệt nên đời cha. Chưa bao giờ người ta thấy một tu sĩ giống như cây gậy của ông già, chưa thấy cha trong tất cả cơn bệnh; cha nhẫn nhục, nhạy cảm hơn cả cây gậy, vì cha sẵn sàng ở tư thế như người ta muốn, đến mức như cha còn có ý chí hơn cả cây gậy, chẳng tỏ ra một dấu hiệu nào là đau đớn, cũng chẳng tỏ ra khó chịu khi phải dùng thuốc hay đồ ăn người ta trao cho. Về điều này chúng tôi phải ngưỡng mộ cha trong bữa ăn cuối cùng, khoảng 3 hoặc 4 giờ trước khi cha trút linh hồn, vì cha tỏ ra vâng phục y tác của cha cách lạ lùng [23]. Dù khi đó giác quan của cha bị suy nhược, song cha chẳng quên chút nào việc làm phép và tạ ơn, hơn nữa còn làm dấu Thánh giá theo thói quen của cha trên ly thuốc người ta trao cho cha uống.

    “Liền sau đó là cơn hấp hối nhẹ nhàng, rồi cha tắt thở.

    “Đó là cái chết mà trước mặt Chúa còn cao quý hơn việc chúng tôi xúc động vì mất cha. Nếu chúng tôi thường coi sự ra đi của cha là mất mát, thì công phúc của cha làm cho chúng tôi, đúng hơn phải coi đó là lợi ích. Chúng tôi hy vọng nói như thế mới phải, dù cha không còn hiện diện để gầy dựng xứ truyền giáo này; chúng tôi vẫn tin một cách đạo đức như là cha đang còn ở đây, nơi cha đã làm được nhiều việc, và cha còn hiện diện hơn nữa tại chính nơi chúng tôi đang ở.

    “Vì nhiều lý do, chúng tôi không an táng cha trong nhà chúng tôi, nhưng trong nghĩa trang chung cho các Kitô hữu, khu vực dành cho những người Công giáo. Thứ nhất, chúng tôi chỉ có một nhà nguyện ở tầng hai nên chẳng thể an táng cha ở đó, ngoài ra cũng chẳng còn nơi nào trong nhà chúng tôi ở dành cho việc này được. Thứ hai, chúng tôi cũng chẳng dám chắc mình ở nhà này lâu, vì có điều khác chắc, như chúng tôi phỏng đoán theo lời Thủ tướng Etemad Dautet đã có lần nói với tôi là, người ta sẽ di dời tất cả các tu sĩ ra ngoại thành [24]; đó cũng là nơi người ta sẽ đưa mọi Kitô hữu xứ này ra ở đó, kể cả giáo dân người Pháp. Thứ ba, chính cha cũng tỏ ra thích nếu được an táng nơi đó hơn là trong nhà chúng ta.

    “Có lẽ vì lý do thứ hai trên đây mà chúng tôi cử hành tang lễ cha vào ngày hôm sau. Tất cả tu sĩ các Dòng có thể tham dự lễ an táng được, đều có mặt, gồm các tu sĩ Augutinh, Cát Minh, Capuxinô, cùng giáo dân Pháp, Bồ Đào Nha, Anh, Hà Lan và mấy người Arméniens. Chưa bao giờ thấy tại đây một đoàn người như thế dự lễ an táng. Họ tiễn biệt cha tới nghĩa trang xa nhà chúng tôi khoảng một dặm rưỡi. Cha Tu viện trưởng Dòng Augutinh, Đại diện tông tòa, cử hành nghi lễ (Le RP Prieur des Augustins, Vicaire, Aptq (apostolique) fit l’office); rồi 7 ngày sau cha còn cửa hành Lễ hát trọng thể trong nhà nguyện chúng tôi, cũng có mặt tu sĩ các Dòng trên đây.

    “Phần đông người Arméniens đều cảm thấy vui mừng và vinh dự vì đã an táng cha gần với các ngôi mộ của thân nhân họ, bởi vì họ nghĩ rằng cha là đấng thánh và có lẽ (họ nói thế) còn là thánh duy nhất nằm tại đó. Đàng khác, cũng là ngôi mộ duy nhất của các tu sĩ Pháp, vì tu sĩ các Dòng khác qua đời tại đây, đã được an táng trong nhà thờ của họ. Từ ngày an táng cha, nhiều Kitô hữu của chính xứ này, các linh mục và giám mục đã đến cầu nguyện bên phần mộ cha, xin cha bầu cử cùng Chúa cho mình. Họ cũng đã nói với tôi và khuyên tôi sau một năm thử mở mộ cha xem thế nào, vì nghĩ rằng xác cha sẽ còn nguyên vẹn không bị hư nát.

    “Sinh thời ít khi ra ngoài mà cha không mang trong mình cuốn Tin Mừng bằng tiếng Ba Tư để sử dụng khi có dịp; đến lúc chết cha lại mang cách vẻ vang từ nội thành ra ngoại thành, điều mà chưa ai làm bao giờ. Quan tài cha được phủ bằng tấm nhung đen trên có hình Thánh giá bằng nhung trắng nhìn thấy khá rõ. Làm như thế rất xứng đáng với đời sống của cha. Vậy là ngay cả khi chết, cha còn rao giảng Thánh giá như thế cho những người lương dân này.

    “Nếu tiếng dân là tiếng Chúa, người ta không còn hồ nghi cha không phải là một vĩ nhân (nếu không nói là ông thánh). Cảm nghĩ đó vì công trạng của cha, là cảm nghĩ chung của cả những người ở nước Ý và Pháp, khi cha đi qua đấy để tới đây [Rhodes ở Ý và Pháp từ 1649-1654]; ngay những người láng giềng với chúng tôi, dù là Hồi giáo cũng tỏ ra có cùng cảm nghĩ ấy.

    “Về phần chúng tôi còn ở lại đây, chúng tôi có thể nói chắc rằng: chiếc cột nâng đỡ nhà chúng tôi đã đổ, ngọn đuốc soi sáng cho chúng tôi đã tắt, người khởi sự và phát triển công việc truyền giáo xứ này được an táng như vậy sẽ là viên đá tảng cho chúng tôi, người trung gian của chúng tôi đã rời bỏ chức vụ ở đời này để thi hành việc đó trên trời bằng cách bầu cử cho biết bao xứ truyền giáo đã coi cha như người cha, cách riêng xứ truyền giáo này tự coi mình như con út của cha, nên đã làm những bổn phận bình thường cuối cùng đối với cha.

    “Xin cha đáng kính hãy dâng niệm kỳ kinh (suffrages) cho cha theo thói quen, hy vọng nhờ cha trợ giúp một ngày kia chúng ta sẽ được dự phần triều thiên với cha, dù chúng ta chẳng có công trạng xứng đáng và còn thuộc hạng rất thấp. Cũng vì mục đích ấy, chúng tôi và riêng tôi còn khẩn nài cha và tất cả anh em chúng ta [Giêsu hữu] ở bên ấy [Tỉnh Dòng Tên Paris] cầu nguyện cho cha trong các Thánh lễ.

    “Tại Ispahan ngày 11 tháng mười một năm 1660.
    “Người tôi tớ rất hèn mọn và người con vâng phục của cha đáng kính trong Chúa chúng ta.
    “Amé Chézaud S.J”


Chú thích
[1] Michel Barnouin, La parenté vauclusienne d’Alexandre de Rhodes (1593-1660), Extrait des Mémoires de l’Académie de Vaucluse, Huitième Série, Tome IV- Année 1995, Avignon 1995 tr.29
[2] Tuần báo Công giáo và Dân tộc, số 852, ngày 12-4-1992, tr.13
[3] Chúng tôi đã đến Avignon cách đây 31 năm để tìm hiểu dòng tộc Rhodes và nơi ông sinh trưởng. Các Sổ Rửa tội thời đó liên quan đến Jean, Alexandre, Georges và mấy người em khác đã mất; chỉ còn lại Sổ Rửa tội ghi tên 2 người em ruột là Francois di Roddi (Rhodes) rửa tội 12-7-1604 và Hélène ngày 22-2-1607. Nên nhớ ngày 20-9-1792, nước Pháp (Avignon vừa sáp nhập vào Pháp được 1 năm) mới chính thức công bố Luật về khai sinh, giá thú, khai tử.
[4] Tóm lược theo Francois de Dainville, La naissance de l’Humanisme moderne t.I Paris 1940, tr.85-95.
[5] Archivum Romanum Societatis Iesu, Fondo gesuitico, số 732, 734, 735.
[6] Alexandre de Rhodes, Divers voyages et missions, Paris 1653, tr.21
[7] A.De.Rhodes, Relation des progrez de la Foy au Royaume de la Cochinchine, Paris 1652, tr.132: lên tàu ngày 9-7-1645; A.De.Rhodes, Divers voyages et missions, Paris 1653, tr.269: lên tàu ngày 3-7-1645.
[8] Joseph Déhergne, Répertoire des Jésuites de Chine de 1552 à 1800, Roma-Paris, 1973 tr.54.
[9] Đây là thư của cha Amé Chézaud gửi cha Giám tỉnh Dòng Tên Pháp, Jacques Renault; nhưng xem ra còn có mục đích chuyển cho các Giêsu hữu trong Tỉnh Dòng, nên tác giả đã ghi Lettre Circulaire, mà chúng tôi tạm dịch là Thư Luân lưu.
[10] Bình an của Đức Kitô: Trong các thư từ, tường trình của anh em Giêsu hữu thời đó, thường ghi ở đầu dấu Thánh giá và chữ Pax Christi.
[11] Nhà Dòng Tên ở Ispahan thời đó thuộc Tỉnh Dòng Tên Pháp, gồm 3 người: cha Alexandre de Rhodes, bề trên; cha Amé Chézaud và tu huynh Georges Berthe, cũng viết là Georges Berghé, hay như A. Chézaud lại viết là George Berthe. Tu huynh George Berthe sinh 1622 tại Bourges, Pháp; gia nhập Dòng Tên 5-1-1638; khấn lần cuối cùng 28-9-1653 tại nhà thờ Saint-Louis, Paris. Chúng tôi phỏng đoán tu huynh Berthe đã cùng sống với Amé Chézaud tại Julfa, gần Ispahan, rồi cùng Chézaud đến ở tại Ispahan với A.de Rhodes. Berthe đã đi vùng Tartarie với Chézaud để truyền giáo vào khoảng 1659, nhưng không thành công. Năm năm sau, 1664, Berthe lại đi Trung Quốc truyền giáo, nhưng qua đời trên đường đi (in itinere ad Sinas) 7-2-1664).
[12] Alexandre de Rhodes rời Marseille 16-11-1654 để đi Ba Tư theo lệnh Bề trên Cả Dòng Tên. Trên đường đi, cha ngừng tại đảo Malte, bỏ Malte 2-12-1654 tới Seyde thuộc Syria 11-12-1654, mừng lễ Giáng sinh tại Đất thánh. mãi tới 1-11-1655, Rhodes mới có mặt tại Ispahan, thủ đô Ba Tư thời ấy. Vậy, kể từ khi Rhodes hiện diện tại Ispahan đến khi qua đời, được đúng 5 năm 4 ngày như Chézaud ghi nhận.
[13] Theo Chézaud, Rhodes tắt thở khoảng 10 giờ đêm, tức 22 giờ ngày 5-11-1660.
[14] Trong thư, Chézaud không nhớ rõ ngày tháng năm sinh của Rhodes, nên liền những chữ ngày tháng năm sinh, Chézaud còn để trống.
[15] Từ năm 1650-1659, Rhodes đã cho xuất bản tại Roma, Paris, Lyon, 10 tác phẩm bằng các ngôn ngữ Ý, Latin, Việt, Pháp, thuật lại những hoạt động truyền giáo của cha và của các bạn cùng Dòng. Nếu Rhodes không để lại những công trình trên, thì ngày nay chẳng biết được con người và hoạt động của cha. Trong 10 tác phẩm, 8 viết về Việt Nam, 1 về Nhật Bản, 1 về Ba Tư.
[16] Sau khi phải bỏ Đàng Trong vì bị chúa Nguyễn Phước Lan trục xuất, Rhodes về Áo Môn (Macao) rồi về Roma, Lyon, Paris, vận động cho có giám mục đến Việt Nam. Những hoạt động sôi nổi của Rhodes tại Roma (1649-1652) và tại Pháp (1652-1654), làm cho nhiều người Ý và Pháp biết đến công việc của cha ở Đàng Ngoài và Đàng Trong.
[17] Tartarie, danh từ địa lý xưa chỉ phần lớn các vùng Mông Cổ, Mãn Châu, Tân Cương, Afgahanistan và Baloutchistan. Trước thế kỷ 14, người ta gọi Tartarie chỉ riêng cho vùng Tân Cương. Theo chúng tôi, khi Chézaud nhắc tới vùng Tartarie, có thể hiểu là vùng Tân Cương phía cực Tây của Trung Quốc ngày nay; vì, theo J.Déhergne, chuyến đi của Chézaud qua ngả Khorassan (Joseph Déhergne, Répertoire des Jésuites de Chine de 1552 à 1800, Roma-Paris, 1973 tr.54).
[18] Trong thư A.de Rhodes gửi cho người em ruột là Georges de Rhodes, viết tại Ispahan 20-5-1658: từ khi anh ở xứ này, Chúa ban cho anh học được tiếng Ba Tư: anh biết vừa đủ để giảng (Kho lưu trữ Dòng Tên Tỉnh Paris, Fonds Rybeyrete, n.161)
[19] Vì người Hồi giáo chỉ coi Đức Giêsu Kitô là một người, cũng được dựng nên từ bụi đất như Ađam, do Thiên Chúa sai đến, nhưng không phải là Thiên Chúa. Theo Hồi giáo, ai nói Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa, mắc tội phạm thượng (Kinh Koran, chương 2, câu 81; chương 3, câu 52; chương 5, câu 76).
[20] Hay phải uống nước (ou boire ces eaux): hiểu được chăng là những thừa sai bị chết đắm tàu khi đi truyền giáo.
[21] Tục xử bị treo cổ trên hố xuất hiện ở Nhật khoảng từ cuối thế kỷ 16: nạn nhân bị treo ngược đầu trên một hố mới đào; sau khi chết, người ta cắt dây cho xác rơi xuống hố. Hình khổ này tiếng Nhật gọi là Ana-tsurushi. Vào thế kỷ 17 nhiều thừa sai ở Nhật bị hành quyết như vậy.
[22] Vì tôn kính Anrê Phú Yên tử đạo ở Quảng Nam 26-7-1644, cha Rhodes giữ sọ của vị này bên mình, rồi mang về tới Roma. Hiện nay sọ của Anrê Phú Yên đang được đặt tại trụ sở Bề trên Cả Dòng Tên ở Roma.
[23] Rhodes là tu sĩ năng nổ, nhiệt tình, can đảm, có nhiều sáng kiến, dám nói, dám làm, nhưng rất vâng phục bề trên. Đọc hết cuốn Divers voyages et missions của cha, chúng ta cũng thấy được cha có đức vâng phục đáng ca tụng: Trên đường đi Nhật Bản phải ngừng hơn hai năm tại Goa, không tiếp tục đi Nhật được vì cấm đạo, nên cha đã vâng lời bề trên tạm ở lại Goa; khi tới Áo Môn, không thể đến Nhật được, cha vâng lời bề trên đến Đàng Trong cuối năm 1624; sau khi bị trục xuất khỏi Đàng Ngoài năm 1630 cha cũng vâng ý bề trên ở lại Áo Môn dạy thần học 10 năm, điều mà cha không thích; nhất là vâng phục bề trên ngừng hoạt động ở Pháp để đi Ba Tư truyền giáo từ cuối năm 1654.
[24] Ngay giữa năm 1658, khi viết thư cho người em ruột là cha Georges de Rhodes, A.de Rhodes đã nhắc tới việc Thủ tướng Ba Tư cho biết sẽ chuyển các tu sĩ Tây phương ra ngoại thành (Kho lưu trữ Dòng Tên Tỉnh Paris, Fonds Rybeyrete, n.161)


Đỗ Quang Chính, sj.

Việt cộng sản giả mạo tem thư của Đông Dương (Pháp)


    Việt gian cộng sản csBV ca ngợi công đức của cha Alexander de Rhodes bằng cách "cầm nhầm" tem thư của Đông Dương (Pháp), đóng mộc Việnam dân chủ cộng hòa lên trên ...


NORTH VIET NAM, 1945-46 Indochina issue overprinted in black and green, Scott 1L2-3





SOUTH VIET NAM, 1961, the 4th centenary of Rhodes' death, Scott 170-173


INDOCHINA, 1943-1944, Scott 238-239a
(239a is yellow brown, a variation of 239, the orange brown)


Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt Không Thể Ra Đi - Nguyễn Phúc Liên

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên, Kinh tế

Geneva, 08.09.2009

Giáo dân Công giáo họp lại, hiệp thông cầu nguyện cho CÔNG LÝ và HÒA BÌNH tại đất Tòa Khâm sứ Hà Nội, tại xứ Thái Hà và mới đây nhân vụ Tam Tòa. Có thể rồi đây, Giáo dân Sài gòn sẽ tụ tập lại cầu nguyện cho CÔNG LÝ và HÒA BÌNH tại vùng Thủ Thiêm. Từ Bắc (Tòa Khâm sứ và Thái Hà), Trung (Giáo phận Vinh cho Tam Tòa, Nam (Tổng Giáo phận Sài gòn và cả các Giáo phận Miền Nam cho Thủ Thiêm), tiếng Kinh cầu nguyện của Giáo dân Công giáo cho CÔNG LÝ và HÒA BÌNH sẽ lại cùng nổi lên một trật.

Cái vẻ đẹp, chân thật và bền bỉ của lời cầu nguyện Giáo dân này không đến từ những chỉ dậy đấu tranh của Hàng Giám Mục Việt Nam họp lại mà ra lệnh, cũng không đến từ chỉ thị của Vatican xa với cuộc sống đau khổ của Giáo dân trải qua bao chục năm trường. Việc họp lại Giáo dân, việc Hiệp thông giữa các Xứ đạo đến từ ĐỨC TIN Công giáo vào Thiên Chúa, vào LỜI GIẢNG PHÚC ÂM do chính Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể để truyền dậy và Giáo dân đã vững tin vào Ngài và những lời Ngài GIẢNG DẬY. Từ ĐỨC TIN vững mạnh ấy, người Giáo dân không sợ hãi trước đàn áp của ma qủy, mà sẵn sàng chịu đổ máu để bảo vệ ĐỨC TIN. Cũng vì ĐỨC TIN vào Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, mà GIÁO HUẤN PHÚC ÂM đã sống trong LƯƠNG TÂM từng Giáo dân để họ tự động làm theo CÔNG LÝ.

Toà Khâm sứ, Xứ Thái Hà, Nhà Thờ Tam Tòa, rồi vùng Thủ Thiêm chỉ là tỉ dụ cụ thể việc vi phạm CÔNG LÝ từ những kẻ Tham nhũng nắm quyền lực độc tài xử dụng bạo lực để cả vú lấp miệng em. Nếu Giáo quyền, Hàng Giám mục tính tóan cùng với Thế quyền Tham nhũng mà dẹp những cuộc họp lại cầu nguyện bầy tỏ ĐỨC TIN và bắt Giáo dân làm sai đi LỜI DẬY PHÚC ÂM của Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, thì chính Giáo quyền trở thành một GIUDA phản bội vì 30 đồng bạc bán Chúa. Giáo dân, với ĐỨC TIN vững chắc và với LƯƠNG TÂM mỗi cá nhân do GIÁO HUẤN PHÚC ÂM thấm nhuần, dù không nói ra lúc này, nhưng sẽ phân biệt hành động Thiện, Ác của Giáo quyền.

CSVN đã hiểu sai về ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM Giáo dân

Lịch sử đã chứng minh sự hiểu sai lầm về Đức Tin và Lương Tâm người Công Giáo. Thực vậy, ngay từ đầu cuộc cướp chính quyền của Lê-Nin 1917, Cộng sản đã thù ghét và tìm mọi cách tận diệt ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM người Công Giáo tại Nga, Trung Âu, Trung quốc và Việt Nam. Họ tính tóan theo Thế quyền và nghĩ rằng hễ diệt các Linh mục, Tu sĩ, phá Nhà Thờ, Tu viện, là diệt được ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM Công Giáo. Họ là những người không có ĐỨC TIN và Lương Tâm họ chỉ đầy hận thù vì tranh dành quyền lợi thế tục do Lý thuyết Mác-Lê nhồi vào, thì làm sao họ có thể hiểu ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM do chính Thiên Chúa chỉ dậy. Khi Cộng sản đổ, thì ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM Công Giáo vẫn đứng đó.

Tại Việt Nam, nhất là Miền Bắc, Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã làm mọi cách phá Nhà Thờ, Tu viện, bắt tù tội và giết các Linh mục, Tu sĩ, nhưng ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM của Giáo dân vẫn còn đó. Những cuộc họp lại cầu nguyện tại Tò Khâm sứ, Thái Hà và Tam Tòa chứng minh hùng hồn rằng dù CSVN có phá các Cơ sở Tôn Giáo, bắt bớ các Chủ chăn chân chính, thì ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM của Giáo dân vẫn sống còn.

Từ 1975, CSVN đã tìm đủ mọi cách để chia rẽ hàng Lãnh đạo Công Giáo với mục đích không để Giáo dân họp lại biểu lộ ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM của mình. Họ sử dụng những tên ngợm Giáo gian quốc doanh, kể cả một số Giám mục, dùng Thế quyền để cho nhập vào trong Tổ chức Giáo Hội, nhằm phá họai sự đòan kết hàng ngũ Chủ chăn và phân tán Giáo dân. Nhưng CSVN đã sai lầm bởi vì ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM mỗi Giáo dân phân biệt ai là Giuda phản Chúa vì 30 đồng bạc.

Ngày nay, sau sự việc Tòa Khâm sứ, Thái Hà và Tam Tòa, CSVN vẫn hành động theo sức hiểu sai lầm về ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM Công giáo của Giáo dân. Họ cứ tưởng rằng lấy quyền lãnh đạo của Bộ Chính trị, kèm theo bạo tàn của Công an, để sai khiến Dân chúng. Vì tưởng như vậy, nên họ nghĩ rằng nắm được Giáo quyền, là nắm được tòan thể Giáo dân. Chính vì vậy họ đã dùng đám ngợm Giáo gian quốc doanh tiếp tục nhằm lũng đọan Giáo quyền. Họ không biết rằng ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM Giáo dân phân biệt CÔNG LÝ đến từ Chúa Giêsu, Thiên Chúa Ngôi Hai nhập thể, có sức mạnh trên mọi Tổ chức Giáo quyền trần thế.

Khi Đức TGM NGÔ QUANG KIỆT tuyên bố những lời cứng rắn đối với những bất công, có thể là do chính Ngài hoặc có thể là do sự nhìn thấy ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM chân chính của Giáo dân Hà Nội mà Ngài lấy làm gương noi theo.

Khi Đức GM CAO ĐÌNH THUYÊN còn ở nước ngòai, thì Giáo dân Vinh đã tự động chứng tỏ ĐỨC TIN và làm theo LƯƠNG TÂM của mình. Khi Ngài trở về Giáo phận, lời tuyên bố: “Không phải chỉ có một Cao Đình Thuyên, mà có 500’000 Cao Đình Thuyên”. Câu nói đó hàm ngụ hai điều: (i) thứ nhất, đây là sự tự động đứng lên đòi CÔNG LÝ do ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM của mỗi Giáo dân; (ii) thứ hai, CSVN đừng hòng chỉ diệt được một mình Cao Đình Thuyên, Giáo quyền, mà phải diệt 500’000 Cao Đình Thuyên, Giáo dân.

Một số Giám mục VN bị nghi ngờ phản bội ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM Giáo dân

Chúng tôi nhìn biến cố Tam Tòa với sự bột phát thực sự từ ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM Công giáo. Khi nhìn những hình ảnh Giáo dân tụ họp lại để cầu nguyện cho CÔNG LÝ và HÒA BÌNH, chúng tôi ngưỡng mộ không phải chỉ nguyên là số lượng đông đảo Giáo dân tụ họp, mà ngưỡng mộ chính yếu là Giáo dân, từ những Xứ đạo hẻo lánh, bằng phương tiện di chuyển cá nhân trước những đe dọa hành hung của CSVN, từ mọi nẻo đường tìm đến với nhau để tuyên xưng ĐỨC TIN và cùngh mang LƯƠNG TÂM cá nhân họp thành LƯƠNG TÂM Đoàn Thể.

Chính vì vậy mà ngay từ ngày đầu, chúng tôi đã viết liền bài đính kèm dưới đây với đầu đề 170 LINH MỤC VÀ 420 NỮ TU SỐNG CHẾT VỚI GIÁO DÂN, trong đó chúng tôi nhấn mạnh đến ba điều:

- Tính cách tự động nổi dậy của Giáo dân bầy tỏ ĐỨC TIN và làm theo LƯƠNG TÂM cho CÔNG LÝ và HÒA BÌNH.

- Báo trước rằng CSVN gian manh sẽ xử dụng ngợm Giáo gian quốc doanh để thúc đẩy Hàng Giám mục tìm cách phản bội lại ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM chân chính của Giáo dân.

- Cảnh cáo Giáo quyền, Hàng Giám mục VN đừng vì những tính tóan “ngọai giao” trần thế với CSVN để đè nén LƯƠNG TÂM Giáo dân và ĐỨC TIN của họ vào Thiên Chúa Ngôi Hai nhập thể. Họ TIN vào Thiên Chúa và những Lời Dậy Phúc Âm của Ngài hơn là Tin vào Thế quyền hay Giáo quyền trần thế.

Nhìn như vậy, nên chúng tôi rất lo ngại sự can thiệp của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Mặc dầu nhiều người viết than vãn tại sao Hội Đồng Giám Mục VN không lên tiếng, nhưng riêng chúng tôi, chúng tôi không hề viết kêu gọi sự can thiệp của Hội Đồng Giám Mục VN vì chúng tôi nghi ngờ rằng trong số những Giám mục, có những vị vẫn hành xử theo CSVN hoặc bị ảnh hưởng của đám ngợm Giáo gian quốc doanh do CSVN sai khiến.

Trong sự nghi ngờ này, thì hãy để cho Giáo dân, được hướng dẫn bởi những Linh mục và các Nữ tu hàng ngày sống với Giáo dân, đã cùng đổ máu với Giáo dân, tự động bầy tỏ ĐỨC TIN thuần nhất và hành sử theo đúng LƯƠNG TÂM trực tiếp từ chính Chúa Giêsu, chứ đừng để Lãnh đạo Giáo quyền cao sang và xa vời đang bị CSVN xử dụng Giáo gian quốc doanh lừa đảo. Giáo dân làm gương sáng ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM cho chính một số Chủ chăn vậy.

Đức TGM NGÔ QUANG KIỆT không thể ra đi

Sau khi Đức TGM NGÔ QUANG KIỆT, cùng với việc chứng tỏ ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM của Giáo dân Hà Nội, đã thẳng thắn nói trước Ủy Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội lập trường của Ngài, thì CSVN công khai muốn đẩy Ngài ra khỏi Tổng Giáo phận Hà Nội. Nhưng Ngài vẫn đứng ở đó như một Chủ chăn chân chính cho một đàn chiên đầy can đảm tuyên xưng ĐỨC TIN và kiên cường làm đúng theo LƯƠNG TÂM được Giáo Huấn Phúc Âm tạo cho.

Vụ việc Tam Tòa lại xẩy ra. CSVN càng nghĩ đến những gian kế thao thúng Hàng Lãnh Đạo tối cao Công Giáo Việt Nam và tìm ảnh hưởng tới Vatican qua việc nhử mồi ngọai giao.

CSVN nói đến việc Nông Đức Mạnh thăm Vatican, nhắn mời Đức Giáo Hòang thăm Việt Nam. Rồi gần đây, Nguyễn Tấn Dũng gặp Giám Mục NGUYỄN VĂN NHƠN, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Những thông tin này làm cho Giáo dân đang tranh đấu cho CÔNG LÝ và HÒA BÌNH có những suy nghĩ hoang mang: CSVN gian manh dùng Giáo quyền để đè bẹp ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM mình hay sao ?

Một tin quan trọng làm hoang mang hơn nữa, đó là có tin tung ra là Đức TGM NGÔ QUANG KIỆT xin từ chức. Chúng tôi vẫn nghĩ rằng đây là tin do CSVN tung ra làm hỏa mù, hay là do đám ngợm Giáo gian quốc doanh tung ra để thử lòng kiên trì của Giáo dân. Tin đó càng gây hoang mang hơn nữa khi Linh mục TRẦN CÔNG NGHỊ viết một bài phân tích về thông tin từ chức này, và gần đây nhất, Lá Thư của một số Linh mục và Giáo dân Hải ngọai viết đến Giám mục NGUYỄN VĂN NHƠN để biết sự thật về tin đồn TGM NGÔ QUANG KIỆT xin từ chức.

Tôi vẫn tin rằng thông tin này do CSVN hay đám ngợm Giáo gian tung ra. Tuy nhiên nếu việc xin từ chức của Đức TGM NGÔ QUANG KIỆT là có thực, do chính Ngài tự ý xin hoặc do Giáo quyền, Hàng Giám Mục VN hoặc Vatican, áp lực, thì việc xin từ chức của Ngài là một sự phản bội lại với ĐỨC TIN mà Giáo dân nuôi dưỡng, với LƯƠNG TÂM mà Giáo dân được chính Chúa Giêsu dậy bảo qua Phúc âm.

Trường hợp chính Đức TGM tự ý ra đi

Đức TGM NGÔ QUANG KIỆT còn trẻ, còn có sức khỏe. Ngài không thể nói dối viện cớ sức khỏe và tuổi tác để xin từ chức. ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM Giáo dân trong Giáo phận đang lên cao. Nếu là Chủ chẵn chân chính, thì Chủ chăn không có quyền bỏ con chiên để ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM của họ phải sống trong thử thách do lang sói CSVN vây quanh. Con chiên bị thử thách và lâm nạn, mà Chủ chăn bỏ ra đi để đàn chiên cảm thấy bơ vơ, thì đó là cái lỗi của Chủ chăn. Vì đàn chiên mà Chúa Giêsu trao cho, Chủ chăn tự đào thải để ĐỨC TIN tín hữu giao động, thì cái lỗi này sẽ quy về trách nhiệm của Chủ chăn. Đức TGM NGÔ QUANG KIỆT không có quyền tự đào thải lúc này.

Trường hợp Đức TGM bị áp lực bởi Vatican

Nếu vì quyền lợi trần thế mà Vatican áp lực TGM NGÔ QUANG KIỆT từ chức để dễ tính tóan quan hệ ngọai giao với CSVN, quân Pharisiêu giả hình, thì Vatican đang lấy sự đổi chác trần thế để đè bẹp ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM người Công giáo. Những quyền lợi trần thế không thể đứng trên ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM Tôn giáo. Không thể trả giá giữa hai bình diện Thiêng liêng và Trần thế. Làm hại ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM Giáo dân Hà Nội là việc làm lỗi. Hãy đọc kỹ tỉ dụ của Chúa Giêsu. Sau 40 ngày ăn chay trên sa mạc, Chúa Giêsu đói (trần thế), ma qủy đề nghị Ngài phải van lậy chúng thì chúng mới cho cao lương mỹ vị mà ăn. Ngài đã dứt khóat đuổi ma qủy hãy cút đi. Không thể đổi chác việc tôn thờ Thiên Chúa thiêng liêng với thức ăn trần thế mặc dù Chúa Giêsu rất đói bụng sau 40 ngày ăn chay trên sa mạc.

Trường hợp dàn xếp của một số Giám mục Giáo gian

Trong bài viết của Linh mục TRẦN CÔNG NGHỊ, thấy những giả thiết rằng có thể do việc dàn xếp để một Giám mục nào đó “ngoan ngoãn“ với CSVN và “dễ vâng lời “ đám vô thần Nguyễn Thế Thảo, ngay trong việc phản bội lại ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM Công giáo, về Hà Nội để thay thế TGM NGÔ QUANG KIỆT. Nhưng nếu TGM NGÔ QUANG KIỆT ra đi, rồi Giám mục “ngoan ngoãn“ và “dễ vâng lời “ kia về Hà Nội thay thế, thì Giáo dân Hà Nội sẽ coi vị thay thế này như ham quyền cố vị, làm đẹp lòng CSVN, nghĩa là sẽ đi với CSVN gian manh để đè bẹp ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM tín hữu đang lên. Thực vậy, nếu một Vị nào không đẹp lòng CSVN, thì chúng sẽ không cho về Hà Nội. Mà nếu CSVN đồng ý cho về, thì ắt Vị ấy phải làm đẹp lòng Cộng sản bằng cách tích cực đè nén ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM tín hữu hoặc tối thiểu trùm chăn yên lặng khiến đàn chiên tán lọan để ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM họ mòn mỏi.

Khi Giáo dân Hà Nội đang ngưỡng mộ Vị Chủ chiên chân thật và kiên cường hiện nay là Đức TGM NGÔ QUANG KIỆT, thì bất cứ một Vị nào về thay thế mà CSVN hài lòng chấp nhận, thì khối Giáo dân Hà Nội sẽ coi Vị này là Giáo gian quốc doanh làm hại Giáo Hội Việt Nam và phản bội lại chính ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM của họ. Khối Giáo dân Hà Nội có quyền và có bổn phận phải phản ứng như vậy để bảo vệ Giáo Hội Mẹ Việt Nam và bảo vệ chính ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM của mình. Họ tin vào LƯƠNG TÂM do chính Chúa Giêsu in vào con người họ và hòan tòan có quyền lấy ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM ấy ra để phản ứng khinh thường tất cả những Vị nào tính tóan danh vọng trần thế với CSVN để về Hà Nội thay thế TGM NGÔ QUANG KIỆT, Chủ chăn chân chính và kiên cường đang đứng đầu sóng ngọn gió bênh vực cho ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM tín hữu. Họ có thể gọi những Vị thay thế này là ngợm Giáo gian quốc doanh vì chứng cớ rành rành là những Vị thay thế này phải làm “đẹp lòng” CSVN bằng cách này hay cách khác. Mà làm “đẹp lòng” CSVN có nghĩa là tòng phạm với những tội ác mà CSVN (quân Pharisiêu giả hình) đã tàn hại Giáo Hội Công Giáo VN trong suốt những chục năm trường. Chúa Giêsu tha thứ cho mọi người, trừ đám Pharisiêu giả hình mà Chúa gọi chúng là những mồ mả sơn phết vôi bên ngòai cho đẹp, mà bên trong thì đầy những xương thịt hôi thối. Tính tóan tòng phạm với quân Pharisiêu CSVN, thì khi về Hà Nội thay thế, sẽ bị Giáo dân Hà Nội nguyền rủa.

Cuộc đấu tranh của Giáo dân Hà Nội không phải chỉ hạn hẹp vào đất đai Tòa Khâm sứ và Giáo xứ Thái Hà, mà còn cho CÔNG LÝ và HÒA BÌNH chung của Dân Tộc Việt Nam. Dân Tộc Việt Nam đã bao chục năm trường trong đau khổ vì những BẤT CÔNG, đàn áp dưới quyền cai trị độc tài khát máu của đảng CSVN. Ý chí kiên cường đấu tranh cho CÔNG LÝ và HÒA BÌNH của Giáo dân Hà Nội, mà Đức TGM NGÔ QUANG KIỆT cương quyết đứng ở đầu sóng ngọn gió cùng đồng hành, đang tỏa ra niềm hy vọng cho các Tôn giáo khác và cho cả Dân Tộc Việt Nam đau khổ, nhất là trong hòan cảnh nguy cơ Tầu xâm lăng do CSVN làm Thái thú rước vào. Vì nguyện vọng tha thiết có CÔNG LÝ và HÒA BÌNH của Tòan dân và các Tôn giáo khác, chính Đức TGM NGÔ QUANG KIỆT phải nghĩ rằng mình không có quyền tự đào thải để nhường chỗ cho những Vị tòng phạm tội ác với CSVN trên Dân tộc và tội phản quốc của CSVN rước Tầu vào xâm lăng. Không phải chỉ nguyên người Công giáo Hà Nội, mà cả Dân tộc Việt Nam sẽ phán đóan việc tự đào thải như trốn trách nhiệm của Đức TGM NGÔ QUANG KIỆT nếu Đức tự quyết định ra đi thực sự. Dân tộc Việt Nam sẽ khinh thường những Vị nào vì danh vọng cá nhân, âm mưu dàn xếp với CSVN để về Hà Nội thay thế Đức TGM NGÔ QUANG KIỆT, nối tay dài cho CSVN tiếp tục đàn áp Dân Tộc và rước Tầu về chiếm Quê Hương Đất Tổ.

Trong cả ba trường hợp, Đức TGM NGÔ QUANG KIỆT không thể ra đi lúc này vì cao trào bầy tỏ ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM của Giáo dân đang lên và vì quyền lợi của Giáo Hội Công Giáo VN. Trách nhiệm đối với ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM tín hữu và với quyền lợi của Giáo Hội Mẹ Việt Nam là việc thiêng liêng. Không thể lấy quyền lợi trần thế mà đè bẹp vậy.

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên, Kinh tế
_____________________________
    170 LINH MỤC VÀ 420 NỮ TU SỐNG CHẾT VỚI GIÁO DÂN
Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên, Kinh tế

Bài viết đăng kèm dưới đây cho thấy rằng cuộc nổi dậy của người Công giáo thuộc Giáo phận Vinh là sự bột phát từ ĐỨC TIN và lời GIÁO HUẤN PHÚC ÂM nằm sâu trong lòng từng cá nhân tín hữu. Đó là việc đồng đứng lên một lúc của những cá nhân tín hữu. Việc hướng dẫn sự bột phát lại được Giáo dân tin tưởng đặt ở trong tay những Linh mục và những Nữ tu sống gần kề nhất với đời sống Giáo dân.

Nhật báo lớn quốc tế THE WALL STREET JOURNAL ngày 27.07.2009 đã viết như sau: “Con số giáo dân tham gia biểu tình lên đến hàng trăm ngàn người dưới sự hướng dẫn của 170 linh mục và 420 nữ tu. Đụng độ giữa giáo dân và công an Việt Nam đã được ghi nhận trong đó có 2 linh mục bị thương nghiêm trọng»

Tính cách tự động nổi dậy

Chỉ trong vòng mấy ngày, mà cuộc nổi dậy có tới từng những trăm ngàn người, thì cuộc nổi dậy này không phải là sự vận động từ trên kêu gọi hoặc khích động từ một Tổ chức. Nó hiển nhiên là phải đến từ sự tự động đứng lên của những cá nhân tín hữu bột phát phản ứng trước những đè nén bất công trên đời sống họ. Đức Giám mục Giáo phận Vinh đi vắng, hiện đang thăm viếng Mục vụ tại Hoa kỳ. Hàng Giám Mục Việt Nam không hề lên tiếng kêu gọi Giáo dân phản ứng. Obama và Chính quyền Mỹ dường như tính tóan thân thiện với CSVN và Trung Cộng hơn là gây những khó khăn cho các người cai trị của hai nước này, nên chắc chắn không thể xúi giục cuộc nổi dậy. Tòa Thánh Vatican, vì những tính tóan ngọai giao với CSVN chẳng hạn, nên khó có thể hiểu là nguồn gây nổi dậy của Giáo dân Vinh. Chính sự nổi dậy tự động này đến từ ĐỨC TIN và từ GIÁO HUẤN PHÚC ÂM của Chúa Giêsu nơi từng cá nhân Tín hữu mà những Tổ chức quyền hành Chính trị hay Tôn giáo dù cao và mạnh đến đâu cũng không được quyền can thiệp vào trong tính tóan trần thế với CSVN để đè nén nguyện vọng chính đáng của Tín hữu : CÔNG LÝ và HÒA BÌNH cho chính đời sống cụ thể của từng người.

Hướng dẫn của 170 Linh mục và 420 Nữ tu

Chính Nhật báo THE WALL STREET JOURNAL đã nói rõ khía cạnh này: “... dưới sự hướng dẫn của 170 linh mục và 420 nữ tu ». Cuộc tự động nổi dậy của những trăm ngàn người cần được hướng dẫn cho có nhịp nhàng. Giáo dân tin tưởng vào những Linh mục và những Nữ tu sống hàng ngày trực tiếp với họ, cùng họ chịu những cảnh bất công CSVN tại những họ đạo hẻo lánh nhất và ngày nay cùng sát cánh đi biểu tình với họ, cùng đứng trước những đe dọa hành hung như họ.

Những Linh mục và những Nữ tu không phải là chỉ huy bằng ngồi ở nhà yên lành mà chỉ tay năm ngón cho Giáo dân vào nguy hiểm. Họ đã cùng Giáo dân lăn xả vào hiện trường giữa « quân dữ CSVN » đang hành hung tàn bạo. Qua hình ảnh, chúng ta thấy những đòan Nữ tu cùng đi trong hàng ngũ Giáo dân và những Nữ tu này cũng sẵn sàng phải chịu những đánh đập côn đồ của CSVN. Những Linh mục thì luôn luôn ở hiện trường đau khổ của Giáo dân. Tối thiểu có hai Linh mục đã bị côn đồ CSVN đánh trọng thương. Máu của những Linh mục này đã cùng chảy ra và hòa chung với máu của Giáo dân.

Cùng ở hiện trường, cùng hòa chung máu, nên Giáo dân đặt tin tưởng vào sự hướng dẫn của những Linh mục và các Nữ tu. Họ biết chắc là những Linh mục và các Nữ tu này không phản bội lại sự đau khổ của họ vì chính những Linh mục và các Nữ tu này cùng sống thực với họ trong những đe dọa, những đau khổ và đã cùng đổ máu như họ.

Giáo dân ý thức và nghi ngại những phản bội

Chúng tôi có liên lạc với một cựu Tu xuất gốc Giáo phận Vinh, làm việc tại Liên Hiệp Quốc và sống ở vùng Geneva. Vị này đã kể cho tôi hai câu chuyện cho thấy lòng cương quyết đi tới cùng và thái độ của Giáo dân Vinh ngay với Lãnh đạo Tôn giáo:

- Ông nói Giáo dân Vinh đã có những nổi dậy như Qùynh Lưu. Họ đã «ăn cá rô cây» khô cứng. Họ không sợ chết. CSVN bây giờ đụng đến họ là đụng vào «ổ kiến lửa» đấy ! CSVN phải biết điều đó và chắc chắn khó lòng đánh lừa được Giáo dân Vinh. Tuy nhiên CSVN vốn dĩ ma giáo, có thể tìm những giải quyết lừa lọc, tính tóan đổi chác với những quyền lực Chính trị hay Tôn giáo ở cấp cao, chưa từng sống với những đau khổ thực tế của Giáo dân.

- CSVN đã dùng sức ép để đặt vào Tổ chức Giáo Hội những thành phần thân với mình để lũng đọan Giáo Hội. Giáo dân Công giáo ý thức về điểm này. Họ phân biệt ai là thân CSVN và ai là người có thể tin tưởng được để hướng dẫn họ. Oâng kể câu chuyện : một họ đạo tại Vinh có vấn đề tranh chấp với quyền lực Cộng sản địa phương. CSVN nhờ một Linh mục có quyền cao trong Giáo phận đến để giải quyết vấn đề. Linh mục này được Công an dùng xe nhà nước chở đến họ đạo, Hội đồng Giáo xứ đã nói với Linh mục ấy như sau: «Công an dùng xe nhà nước chở Cha đến đây, thì chúng con không tiếp Cha và Công an. Cha hãy bảo Công an chở Cha về nhà. Còn nếu Cha đến đây một mình, không bằng xe của Công an, thì chúng con sẵn sàng tiếp đón Cha !»

Người Công giáo Vinh tự động nổi dậy ngày nay đã chọn mặt thử vàng mà tin tưởng trao phó sự hướng dẫn. Họ tin tưởng vào 170 Linh mục và 420 Nữ tu đã từng sống chết, lăn lộn hàng ngày với họ trong những nguy hiểm, thậm chí đã cùng đổ máu ra hòa chung với máu của họ.

Có lẽ họ phải nghi ngại về những sự hướng dẫn đầy quyền lực, đầy tính tóan trần thế sống xa họ, chỉ đọc thông tin phiến diện qua báo chí để rồi lấy những quyết định có thể phản bội lại sự hy sinh, đổ máu của họ. Những quyền lực ấy, Chính trị hay Tôn giáo, hãy đến hiện trường, cùng thắp nến cầu nguyện, cùng diễn hành biểu tình, cùng chịu đánh đập và đổ máu như họ, thì mới mong Giáo dân Vinh ngày nay đặt tin tưởng tòan diện vào hướng dẫn hay quyết định. Không thể ngồi ở Sứ quán, ngồi ở Washington, Paris..., thậm chí tại Vatican... để chỉ dùng tiếng Mỹ, tiếng Pháp, tiếng Ý... ra chỉ thị, do tính tóan trần thế, đi ngược lại sự hy sinh nổi dậy phát xuất từ ĐỨC TIN vững chắc và từ GIÁO HUẤN PHÚC ÂM do chính Chúa Giêsu chuyền vào Lương Tâm họ.

Giáo dân Vinh đứng lên và đi tới cùng. Họ nắm vững lấy ĐỨC TIN và GIÁO HUẤN PHÚC ÂM. Họ tin tưởng vào chính họ và vào những hướng dẫn của 170 Linh mục và 420 Nữ tu đang chia sẻ hiện trường đấu tranh cùng họ mỗi ngày.

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên, Kinh tế


Hãy Thức Tỉnh Trước Khi Quá Muộn - Hương Trà cùng nhóm bạn trẻ, Sài Gòn

Hương Trà cùng nhóm bạn trẻ, Sài Gòn

Chúng tôi xin bắt đầu bài viết này bằng lời nói của ông Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng tin vào những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”. Thật vậy, tất cả những gì mà các nhà lãnh đạo ĐCSVN đã thực hiện qua từng giai đoạn, từng thời kỳ đối với đất nước và nhân dân khiến cho chúng tôi phải suy nghĩ lại lời nói này của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Khi còn nhỏ dưới mái trường giáo dục của đảng, chúng tôi lúc nào cũng nghĩ rằng đế quốc Mỹ rất ác với nhân dân VN, là kẻ thù không đội trời chung của nhân dân VN. học kể lại những chiến công đánh Mỹ của các chiến sĩ trong lực lượng Quan đội Nhân dân VN, từng bài toán cộng, trừ về con trâu chém Mỹ, con ong đánh Mỹ …v.v…, dĩ nhiên trong đó cũng có sự ươn hèn bán nước của chính quyền theo Mỹ mà đảng cho là bọn ngụy quân, ngụy quyền.

Chúng tôi còn được các thầy cô dạy về lòng yêu dân mến nước của bác Hồ trên con đường giải phóng dân tộc trước kẻ thù xâm lược là đế quốc Pháp và Mỹ. Với tâm hồn ngay thơ trong trắng, chúng tôi lúc nào cũng tôn vinh bác Hồ là vị cha già dân tộc, là một bậc thánh duy nhất của VN. Nhưng rồi khi lớn lên chúng tôi được tiếp xúc với mọi thành phần trong xã hội, chứng kiến những lời nói và việc làm của các nhà lãnh đạo đất nước trong các ban ngành của đảng, nhất là khi chọn ngành luật để tiến thân, được tiếp cận và tham khảo nhiều nguồn thông tin trong thời buổi ngày nay, đã làm đảo lộn hoàn toàn về suy nghĩ của chúng tôi đối với những gì mà trước đây chúng tôi đã tôn thờ.

Trong thời đại văn minh và hội nhập vào tiến trình phát triển của đất nước, mọi điều gian dối để nhằm che đậy dã tâm của một nhóm quyền lực lãnh đạo đất nước như hiện nay là việc làm vô nhân đạo không thể chấp nhận được bởi vì, nếu như một người bác sĩ dở chữa bệnh sai phát đồ trị bệnh thì sẽ làm chết chỉ có một bệnh nhân. Nhưng nếu cả một nền giáo dục của quốc gia được cổ súy trên lập trường giả dối, lỗi thời với mục đích chỉ phục vụ cho một thiểu số thành phần và quyền lợi riêng của một nhóm người, chắc chắn nó sẽ là hậu quả đen tối nhất cho cả một thế hệ mầm non và tuổi trẻ là những nhân tố tương lai của đất nước sau này. Càng tệ hại hơn khi đất nước được lãnh đạo bởi những con người không có kiến thức, không có tài, không có đức và không có tầm nhìn chiến lược, không có những chính sách phù hợp với lòng dân, phù hợp với trào lưu phát triển của nhân loại thì quốc gia đó sẽ không bao giờ tiến bộ được. Chúng tôi không chủ quan, trái lại chúng tôi luôn luôn khách quan trong sự nhận định của mình bằng tất cả những chứng cứ có thật và rõ ràng đã và đang xảy ra trên quê hương đất nước.

Chúng tôi hy vọng rằng: những dẫn chứng của chúng tôi sẽ đánh thức được lương tâm của những ai còn tuyệt đối trung thành với đường lối của các nhà lãnh đạo CSVN hiện nay, nhất là các chiến sĩ trong lực lượng quân đội, công an là những người đang mang trên mình nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đất nước và nhân dân.

- Tại sao sau ngày 30/4/1975, chính quyền luôn luôn tuyên bố là Tổng thống Thiệu của VNCH mang 16 tấn vàng (tài sản của quốc gia miền Nam) ra nước ngoài để làm của riêng. Nhưng sự thật lại hoàn toàn không có bởi vì, chúng tôi đã đọc được loạt bài “Vàng đổi chủ” đăng trên báo Tuổi trẻ thời gian từ 25/4 đến 2/5/2006 tường trình về cuộc bàn giao 16 tấn vàng của Miền Nam cho Ủy ban Quân quản Cách mạng, cũng như trong cuốn sách “ Từ tòa bạch ốc đến Dinh độc lập” của TS Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L.Schecter được nhà xuất bản Trẻ Hà Nội tái bản năm 1990, trang 480 cũng xác nhận là ông Thiệu không có lấy 16 tấn vàng ra nước ngoài.

- Tại sao phải đưa vào chương trình giáo dục và bắt học sinh phải học về ngọn đuốc sống Lê văn Tám, trong khi nhân vật Lê văn Tám là không có thật, mà do ông Trần huy Liệu là trưởng ban thông tin-tuyên truyền của đảng tự nghĩ và đặt ra. Theo lời kể của GS Phan Huy Lê thì trước khi chết ông Trần Huy Liệu có nói với ông: sau này nếu điều kiện cho phép thì xin đính chính lại một sự thật này để ông được nhẹ nhàng nơi chính suối.

- Tại sao lại bắt nhân dân phải tin bác Hồ là vị cha già dân tộc, là bậc thánh của VN, được tổ chức Unesco LHQ công nhận là danh nhân của thế giới. Sự thật tổ chức Unesco LHQ chỉ nhận đơn xin của ĐCSVN, chớ chưa từng có bất cứ quyết định nào công nhận bác Hồ là danh nhân của thế giới cả. Trong buổi lễ tuyên dương bác Hồ tại Paris năm 1990 là do tòa đại sứ VN tự tổ chức và không có sự tham dự của Unesco LHQ.

- Tại sao phải bắt nhân dân tin bác Hồ là con người luôn luôn sống độc thân, suốt đời chỉ biết lo cho dân cho nước. Trong khi thực tế, ông vẫn có vợ, có con như bao nhiêu người khác. Người vợ đầu tiên của ông là bà Tăng tuyết Minh cưới bên TQ, còn người vợ gây nhiều tranh cải ở VN về cái chết của bà là Nông thị Xuân đã sinh cho ông một đứa con trai do chính ông đặt tên là Nguyễn tất Trung, hiện nay vẫn còn sống tại Hà nội với vợ và 5 con. Về huyền thoại của cuộc đời bác Hồ thì còn rất nhiều những nhân chứng hiện vẫn còn sống, đã từng có một thời gian dài làm việc và sống bên ông kể lại như Hồi ký “Đêm giữa ban ngày” của nhà văn Vũ Thư Hiên, con của ông Vũ đình Huỳnh (thư ký riêng của bác Hồ) cùng với 12 tập phim “Sự thật về HCM” do LM Nguyễn Hữu Lễ chủ xướng, đang được trình chiếu khắp nơi trên thế giới và lưu trữ trên các trang web toàn cầu, trong nước rất nhiều người xem là một bằng chứng hùng hồn cho những ai muốn đi tìm sự thật để xác nhận lại sự hiểu biết và hướng đi của mình. Nếu đây là cuốn phim không đúng sự thật thì tại sao chính quyền CSVN lại im lặng không thưa LM Lễ ra tòa án quốc tế?

- Mới đây trên báo QĐND ngày 12/2/2010 tác giả Hồ Ngọc Sơn viết: năm 1992 Hội đồng khoa học Hoàng gia Anh vinh danh 10 nhân vật quân sự lỗi lạc nhất mọi thời đại, trong đó có 2 vị tướng kiệt xuất của VN là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và ĐT Võ Nguyên Giáp. Nhưng thực tế chính ông Bùi Tín (cựu đại tá QĐNDVN, cựu phó Tổng biên tập báo Nhân dân cơ quan ngôn luận của đảng) hiện đang sống tại Pháp đã xác nhận là không bao giờ có chuyện đó qua bài viết của ông “Khen quá lố, không nên”, được đăng trên các trang web toàn cầu. Chúng tôi tin rằng với lòng tự trọng của một tướng lãnh tài ba như ĐT Võ nguyên Giáp thì ông cũng không bao giờ muốn bất cứ ai ca ngợi mình bằng những câu chuyện bịa đặt không có thực.

- Đương kim thủ tướng Nguyễn tấn Dũng nói: “tôi yêu nhất, thích nhất là trung thực, ghét nhất, giận nhất là giả dối”. Nhưng thử hỏi tất cả các quyết định và chỉ thị của ông ký không thông qua Quốc hội hoặc bất cứ cuộc trưng cầu dân ý nào như chỉ thị 37: cấm báo chí tư nhân; Chỉ thị 57: cấm tập họp đông người nơi công cộng; Quyết định 167: cho TQ khai thác Bô xít Tây nguyên, một đại dự án đã gây ra sự mất nước trong tương lai, khiến cho các tướng lãnh trong đó có ĐT Võ Nguyên Giáp và trên 3000 nhà trí thức khoa học ưu tú trong và ngoài nước cùng với các đại biểu QH phản đối nhưng ông thủ tướng vẫn không nghe; Quyết định 197: cấm phản biện công khai khiến cho hội IDS của GS Hoàng Tụy và GS Nguyễn Quang A phải giải tán thì ông lại cho là theo ý muốn của toàn dân. Trong khi, miệng ông luôn luôn hô hào cương quyết chống tham nhũng, tiêu cực., nhưng trong lần trả lời chất vấn ngày 19/11/2009, đại biểu Lê văn Cuông hỏi về một chủ tịch tỉnh Hà Giang đã 5 lần không thi hành chỉ thị của thủ tướng thì ông trả lời không biết, còn đại biểu Trần thị Quốc Khánh hỏi về kết quả thực hiện chống tham nhũng thì ông trả lời: hơn 3 năm làm thủ tướng chưa lần kỷ luật ai, sẽ noi gương theo thủ tướng Phạm văn Đồng là không kỷ luật ai.

- Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khi qua Mỹ có phát biểu: bất đồng chính kiến là chuyện bình thường. Nhưng rõ ràng trong nước thì hầu hết những người công khai đấu tranh ôn hòa cho dân chủ, nhân quyền, công khai bày tỏ quan điểm bất đồng về sự sai trái của chính quyền đều bị bắt bỏ tù với nhiều tội danh như: tuyên truyền chống nhà nước, âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân hoặc bị công an theo dõi, trù dập, cô lập về kinh tế và khủng bố tinh thần kể cả bị hành hung qua chiêu bài quần chúng tự phát.

- Lúc nào các nhà lãnh đạo CSVN cũng hô hào bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Nhưng khi sinh viên học sinh và nhân dân biểu tình phản đối sự xăm lăng của TQ thì công an lại đàn áp thẳng tay.

Còn rất nhiều những lời nói giả dối của các nhà lãnh đạo cấp cao trong chính quyền đang xảy ra hàng ngày trên khắp miền đất nước, trên nỗi khổ đau của nhân dân. Trong bài viết này chúng tôi xin đơn cử điển hình một vài lời phát biểu của những người đã từng là đảng viên cao cấp trong đảng, từng là nhà trí thức có thời gian dài phục vụ cho đảng như ông Trần Q. Thuận (cựu phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội): “Cái lớn nhất bị mất đó là đạo đức. Chúng ta đang sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống. Nói dối hàng ngày nên thành thói quen, thói quen dùng lâu ngày thành đạo đức, mà cái đạo đức ấy là rất mất đạo đức, nhưng nó lại là đạo đức cách mạng”. Bà Ngô bá Thành (cựu chủ nhiệm Ủy Ban Pháp Luật QH) từng nói “ Ở VN có cả một rừng luật, nhưng chỉ dùng một thứ luật duy nhất đó là luật rừng.

Về phương diện giáo dục thì theo GS Hồ Ngọc Đại trả lời nhà báo Nguyễn Quang Thiều đăng trên tuanvietnam.net có đoạn ông nói “Khi mà 5% dân cư đi học và thất bại cả 5% thì không sao. Nhưng với một nền giáo dục mà tất cả trẻ em được dạy bảo sai thì điều đó sẽ khiến cho cả thế hệ sai lầm, cả dân tộc sai lầm. Dân tộc đó là dân tộc của 100 năm về trước, chớ không phải là dân tộc của ngày hôm nay. Đây là nỗi đau của cả dân tộc”. Tuy GS Đại không nói thẳng ra là dân tộc VN, nhưng những gì mà hệ thống giáo dục VN đang tồn tại thì rất đúng với lời nói của GS Đại.

Hoàn cảnh của đất nước VN hiện nay, các nhà lãnh đạo đang trung thành với các tiêu chí của bọn người xăm lăng TQ đề ra, đó là 16 chữ vàng và 4 tốt. Mới đây trong cuộc hội đàm với thủ tướng Dũng tại Hà nội, Dương khiết Trì thay mặt ĐCSTQ chỉ đạo cho thủ tướng Dũng thêm 4 mối tương quan nữa: “Sông núi liền nhau, văn hóa hiểu nhau, lý tưởng giống nhau và vận mệnh gắn bó với nhau”. Hiệp định về biên giới và hiệp ước vùng biển khiến cho đất nước VN mất hẳn Ải nam quan, 2/3 thác Bãn giốc cùng bãi Tục lãm, trên 10 ngàn km2 vùng biển vịnh bắc bộ. Quần đảo Hoàng sa nơi có 58 chiến sĩ của VNCH hy sinh trong trận tử chiến với hải quân TQ vào tháng 01/1974, quần đảo Trường sa cũng có 64 chiến sĩ QĐNDVN hy sinh trong cuộc xăm lăng của TQ năm 1988. Hơn 60 ngàn chiến sĩ QĐND phải đền nợ nước trong cuộc chiến tranh xâm lược biên giới của TQ năm 1979. TQ đang dung mọi mưu mô và mánh khóe để xâm lược nước ta, nhưng các nhà lãnh đạo VN lại luôn tôn thờ đã khiến cho những ai có lương tri phải suy nghĩ là giữa ý đảng và lòng dân phải chăng vẫn còn khoản cách đối nghịch với nhau. Hiện nay, TQ đã xây dựng xong phi trường quân sự ở HS, còn TS thì căn cứ quân sự cũng được hoàn thành, 80% vùng biển Đông của ta hiện TQ đang làm chủ, các ngư dân đánh cá của VN đánh cá trên vùng biển này của VN thì TQ tự do bắt giữ, đánh đập để đòi tiền chuộc và tịch thu tài sãn trước sự im lặng của các nhà lãnh đạo CSVN. Thời gian vừa qua TQ còn cho hàng trăm ngư thuyền đánh cá vào sâu trong thềm lục địa của VN. Sau khi hăm dọa các công ty dầu hỏa của Anh và Mỹ khiến họ phải hủy bỏ các hợp đồng đã ký với VN và rút lui thì hiện nay, TQ đang ngang nhiên khai thác dầu hỏa trên vùng biển này của VN. Song song với sự đàn áp đối với những ai dám lên tiếng phản đối hoặc biểu tình chống TQ, thỉnh thoảng phát ngôn viên VN có lên tiếng phản đối chiếu lệ về chủ quyền HS-TS, vì đây là kế sách của chính quyền CSVN nhằm xoa dịu lòng căm phẫn của nhân dân. Hành động không dám đưa tranh chấp ra diễn đàn LHQ và tòa án quốc tế, chứng tỏ các nhà lãnh đạo CSVN đang âm thầm lừa gạt nhân dân trong vai trò biến VN là Tây tạng 2 của TQ sau này. Với những sự ca ngợi tình hữu nghị VN-TQ mà các hệ thống báo đài cùng với trên 700 tờ báo hàng ngày đang cổ vũ là bằng chứng để chúng tôi khẳng định sự suy nghĩ của chúng tôi là đúng. Thêm một hành động lệ thuộc TQ vào dịp tết nguyên đán Canh Dần vừa qua, khiến cho chúng tôi không biết phải hiểu sao về các nhà lãnh đạo của mình. Sau những sự cố truyền thông như: tên miền trang web công thương hợp tác với TQ của VN lại do chính bên TQ sử dụng để chống phá VN trong thời gian dài, trang web của ĐCSVN đăng nguyên văn bài tập trận của hải quân TQ xác nhận chủ quyền của TQ trên quần đảo HS-TS, tiếp đến các tấm pano kỷ niệm 65 năm thành lập QĐNDVN trên các ngã đường thành phố HCM lại in hình đoàn quân của TQ, rồi tiếp đến bài ca: sông liền sông, núi liến núi, cùng chung biển đông, đặc biệt cuối bài hát là câu “nhân dân ta ca muôn năm HCM- Mao trạch Đông” được nam, nữ ca sĩ lập lại tới 3 lần được trực tiếp truyền hình trên VTV1, VTV3 vào đêm giao thừa năm Canh Dần vừa qua trước sự ngỡ ngàng của hàng triệu người xem.

Trong những tháng vừa qua lại còn thêm 10 tỉnh, trong đó có các tỉnh biên giới cho HK, ĐL, nhất là TQ thuê trên 300 ngàn hecta rừng trong thời hạn 50 năm, khiến cho trung tướng Đồng sĩ Nguyên và thiếu tướng Nguyễn trọng Vĩnh, thiếu tướng Nguyễn hữu Anh phải đưa kiến nghị phản đối. Không biết rồi đây kết quả sẽ ra sao theo lới hứa của thủ tướng Nguyễn tấn Dũng với trung tướng Đồng sĩ Nguyên? Trong khi đó, mọi cá nhân, mọi tổ chức đấu tranh ôn hòa bằng lời nói, bằng các bài viết đăng trên mạng thì đều bị kết tội tuyên truyền chống nhà ước, âm mưu lật đổ chính quyền, bị các thế lực nước ngoài xúi giục theo diễn biến hòa bình…v.v… mặc dù, các chủ trương và các cương lĩnh phổ biến công khai của các cá nhân và các tổ chức này đều không có từ nào mang nét lật đổ chính quyền cả, mà họ chỉ đòi hỏi một sự công bằng là các nhà lãnh đạo ĐCSVN phải chấp nhận đối thoại trong hệ thống đa nguyên mà thôi. Còn những nước ngoài mà chính quyền cho là xúi giục thì thực tế hàng ngày đang giúp đỡ, viện trợ tiền bạc cho sự tồn tại của chính quyền CSVN về mọi mặt như: kinh tế, quốc phòng và giáo dục. Nói người ta là kẻ thù nhưng con cái của các nhà lãnh đạo thì cứ tiếp tục cho đi du học vào các nước của người ta, còn tiền bạc cũng vẫn cứ tiếp tục gửi vào các ngân hàng của họ, có bao giờ các nhà lãnh đạo CSVN gởi con mình du học qua TQ không? Trong tình hình nhạy cảm hiện nay của đất nước thì ai là kẻ thù thật sự của VN, xin mọi người phải thực tâm nhận rõ, nhất là các cấp chỉ huy trong lực lượng quân đội, công an thành phần đang mang trên mình nhiệm vụ bảo vệ đất nước, bảo vệ cuộc sống yên lành cho nhân dân?

Có phải các nhà lãnh đạo VN ngày nay đang thực hiện con đường cho VN làm chư hầu của TQ trong tương lai đúng như lời kêu gọi của cựu TBT đảng Trường Chinh đăng trên nhật báo Tiếng Dội số 462 ngày 24/8/1951, tòa soạn 216 đường Gia Long Sài gòn mà chúng tôi đã sưu tầm được. Nội dung như sau:

    Ủy ban kháng chiến VNDCCH năm thứ 7/ ĐLĐVN

    Số 284/LĐ/ Độc lập Tự do Hạnh phúc

    Hỡi đồng bào thân mến

    Tại sao lại nhận vào đất nước VN yêu mến của chúng ta là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho TQ cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da trắng đem đến. Tại sao lại truyền bá trong dân chúng từ Ải nam quan đến mũi Cà mau, cách viết chữ kỳ dị của tên thực dân Alexendre de Rhodes đã đem qua xứ mình như thế. Không, đồng bào ta nên loại hẳn cách viết theo lối Âu-Tây ấy, một cách viết rõ ràng có mau thật đấy. Nhưng ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước là thứ chữ nho của TQ.

    Vì người Trung hoa, bạn của ta, có lẽ là thầy của chúng ta nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như thế, có phải Trung Hoa là dân tộc văn minh trước nhất hoàn cầu không? Còn nói gì đến y khoa của Âu Mỹ, chúng chỉ cắt, đục, khoét, nạo có thế thôi.

    Hỡi đống bào yêu mến!

    Chúng ta phải gạt bỏ cái thứ trị bệnh của các nước phương Tây đem qua xứ ta. Ta hãy bỏ nhà bảo sanh, bệnh viện của chúng. Ta dùng thuốc dán của ông cha ta để lại và nhất là dùng thuốc Tàu danh tiếng khắp cả hoàn cầu. Ta hãy trở về phương pháp này, trước là để ủng hộ các bạn Trung hoa, sau nữa là để loại bỏ ra khỏi nước VN yêu mến của chúng ta bao nhiêu những đồ nhập cảng thực dân như là khoa học, phát minh…v.v… Ta hãy quét sạch lũ trí thức đã xuất thân ở các trường Âu-Mỹ, đế quốc và thực dân.

    Chúc tổng phản công và thi hành mọi phương pháp bài trừ thực dân.

    Trường Chinh (Tổng thư ký đảng Lao động VN)
Chúng tôi rất tiếc cho các nhà trí thức VN tốt nghiệp tại các trường danh tiếng của Tây phương đã hết lòng phục vụ cho ĐCSVN, để rồi cuối đời tất cả đều phải ân hận. Đã đến lúc các nhà lãnh đạo ĐCSVN, các thành phần đang trung thành với đường lối của một thiểu số người chóp bu bảo thủ của đảng nên sớm thức tỉnh trước khi quá muộn.

Sài Gòn, ngày 6/04/2010
Hương Trà cùng nhóm bạn trẻ (Email: huongtra13@gmail.com)



Phải giữ vững Căn cước Tỵ nạn Chính trị - Đoàn Thanh Liêm

Đoàn Thanh Liêm

Westminster, Tháng Tám 2008

Khối người Việt nam hiện sinh sống tại trên 60 quốc gia khắp thế giới đã sấp xỉ lên đến con số 3 triệu người. Trong số này, thì tuyệt đại đa số là dân tỵ nạn chính trị, mà đã phải rời bỏ quê hương sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975, chỉ vì một lý do duy nhất, đó là không thể chấp nhận 'sống dưới chế độ độc tài chuyên chế của đảng cộng sản'. Và riêng tại nước Mỹ và Canada, thì cũng phải đến một triệu rưởi dân tỵ nạn , tức là chiếm tới 50% của tổng số người Việt hải ngoại rồi.

Người xưa có câu 'Hà chính như mãnh hổ', tức là chế độ chính trị mà hà khắc, tàn bạo thì cũng hung dữ như cọp, như beo thường hay cắn xé ăn thịt con người ta vậy. Vì thế mà bà con người Việt chúng ta đã phải lũ lượt liều mình chết, bằng cách bơi ghe xuồng ra biển khơi, hay vượt rừng băng suối qua ngả biên giới Lào, Kampuchea, để mong thoát khỏi nanh vuốt độc ác, bất nhân bất nghĩa của người cộng sản. Và khốn khổ thay, biết bao nhiêu vạn người thân yêu của chúng ta đã phải vùi thân ngoài đại dương, hay chết mất xác trong rừng thẳm ở các nước láng giềng nói trên!

Đã trên 30 năm qua, chúng ta là những người được may mắn sống sót qua cơn vượt thoát hãi hùng vừa kể, để ngày nay lũ con, lũ cháu được sinh sống, được học hành và có công ăn việc làm lương thiện, yên ổn với đời sống được bảo đảm vững chắc, nhân phẩm nhân quyền của mỗi người được tôn trọng đúng mức. Là một dân tộc có truyền thống văn hóa tốt đẹp với nền luân lý cao thượng, chúng ta luôn luôn biết ơn những đất nước và dân tộc đã mở rộng vòng tay tiếp đón lớp người tỵ nạn đã phải xa lìa quê cha đất tổ như chính chúng ta. Và chúng ta cũng đã cố gắng hết sức để hội nhập êm thắm vào với xã hội đang cưu mang bà con chúng ta, bằng cách noi gương và rút kinh nghiệm của những lớp người di dân đã tới lập nghiệp tại nước Mỹ này trước đây mấy thế hệ.

Trong mấy năm gần đây, chánh quyền Hanoi đã vươn cánh tay dài ra ngoài nước để tìm cách ve vãn, lũng đoạn các tổ chức của cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Họ đã đưa ra cả một chính sách dựa trên Nghị quyết số 36 của Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng sản, nhằm o bế và khống chế khối đông đảo người Việt sinh sống ở ngoài nước như chúng ta. Và họ còn dùng mọi thủ đoạn nham hiểm, thâm độc nhằm gây chia rẽ, mâu thuẫn, đố kỵ trong lòng đại khối người không cộng sản, theo đúng chiến thuật cố hữu 'Chia để Trị', mà chế độ độc tài nào cũng thường hay áp dụng hầu giữ vững ngai vàng của mình. Và tiếc thay, đã có một số ít người xưa nay vẫn ở trong hàng ngũ người tỵ nạn như chúng ta, mà gần đây đã vô tình hay cố ý tiếp tay cho chính sách này của đảng cộng sản. Cái thứ 'Đạo quân thứ năm này' đã thấy lai rai xuất hiện trong một số tổ chức chính trị, văn hóa, xã hội và ngay cả tôn giáo nữa. Do vậy, mà đã có hiện tượng chao đảo về lập trường tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền trong hàng ngũ người tỵ nạn chúng ta. Mặt khác,lại có một số người quá khích, nên hay chụp mũ lung tung, kết án bừa bãi lên bất kỳ ai có suy nghĩ khác với mình, coi ai cũng là tay sai cộng sản cả. Đây rõ rệt là cái lối hốt hoảng 'Quân ta lại đi đánh quân mình', khiến đưa đến hậu quả là 'làm suy yếu hàng ngũ của chính phe mình đi', và rõ rệt điều này lại có tác dụng là làm lợi cho chính người cộng sản. Người cộng sản vốn xưa nay rất sành sõi với đòn phép 'Xúi giục cho phe địch đánh phá lẫn nhau, để mà đứng giữa hưởng lợi'.

Trước tình hình phức tạp ngay trong hàng ngũ nội bộ của mình như vậy, ta không nên chủ quan khinh xuất được. Trái lại, ta phải bình tĩnh, sáng suốt và cùng ngồi lại bàn thảo với nhau hầu tìm ra được một đối sách khả dĩ hóa giải được mối nguy hiểm này. Để nhận định vấn đề một cách đơn giản ngắn gọn, và phù hợp với quan điểm của số đông quần chúng tỵ nạn cộng sản, người viết xin được trình bày ngắn gọn như sau đây:

1. Từ trên 10 năm nay, nước Mỹ đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt nam. Chánh quyền Washington đã trao đổi liên lạc cấp Đại sứ với chánh quyền Hanoi, mặc dù chánh quyền này hiện vẫn do đảng cộng sản lãnh đạo.Là người công dân nước Mỹ, chúng ta có bổn phận phải tuân theo luật pháp của nước Mỹ. Như vậy chúng ta không thể làm điều gì trái ngược với chánh sách ngoại giao của nước Mỹ được.

Cụ thể là: Với tư cách công dân Mỹ, ta không thể xử dụng võ lực nhằm lật đổ chánh quyền Hanoi, cũng không thể cản trở công tác trao đổi ngoại giao giữa hai bên chánh phủ Việt và Mỹ được. Dĩ nhiên là chúng ta có hoàn toàn tự do để vận đông, làm lobby để chánh phủ Mỹ có đường lối chánh sách phù hợp với lý tưởng tranh đấu cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền của người dân Việt nam.

Chúng ta có quyền và có cả bổn phận tranh đấu cho lập trường đó, nhưng phải bằng phương thức bất bạo động, thì mới được sự hậu thuẫn của nhân dân các quốc gia yêu chuộng tự do dân chủ, đặc biệt ở nước Mỹ và Cộng Đồng Âu châu. Đó là điều khẳng định thứ nhất.

2. Điều khẳng định tiếp theo là: Việc tranh đấu cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền cho Việt nam là trách nhiêm chính yếu của khối đông đảo đồng bào trong nước; chứ người ở hải ngoại chúng ta, thì chỉ có thể đóng vai trò yểm trợ mà thôi (supportive role). Chúng ta ở ngoài nước, thì không thể bao biện làm mọi việc thay thế cho trên 85 triêu người ở trong nước được. Chúng ta chỉ có thể giúp bà con ở quê nhà, để cho họ tự lo liệu cho chính mình họ mà thôi, như người Mỹ hay nói: 'Helping the people to help themselves'. Bà con ở trong nước đứng lên tranh đấu đòi công lý, công bằng xã hội, để bảo vệ nhân phẩm nhân quyền cho chính mình, thì đó là vì quyền lợi chính đáng của riêng họ, chứ không phải là vì quyền lợi của người ở hải ngoại hay của bất kỳ nhóm người nào khác.

Cụ thể là trong mấy năm gần đây, sự hỗ trợ của hải ngoại cho các nhà tranh đấu dân chủ mà bị sách nhiễu, giam cấm tù đày ở trong nước như các Luật sư Nguyễn văn Đài, Lê thị Công Nhân v.v… thì đã có hiệu quả rất tốt, gây được sự hưởng ứng mạnh mẽ trong công luận quốc tế, khiến cho chánh quyền Hanoi phải chùn tay, không thể sắt máu như trước đây nữa.

Sức mạnh của khối cộng đồng hải ngoại chính là ở chỗ lôi cuốn, thuyết phục được quần chúng tiến bộ ở khắp thế giới cùng tham gia, chia sẻ với công cuộc tranh đấu của nhân dân Việt nam ở trong nước. Đó là điều làm tăng thêm niềm phần khởi hào hứng và lòng tự tin của tất cả chúng ta, ở trong cũng như ngoài nước.

3. Nói cho gọn lại, thì người Việt hải ngoại chúng ta cần phải 'giữ vững căn cước tỵ nạn của mình'. Chúng ta không phải là dân bỏ nước ra đi vì lý do kinh tế đói khổ, nghèo túng, như người ta vẫn thường nói là 'dân tha phương cầu thực'. Mà chúng ta dám tự hào rằng mình là 'người tỵ nạn chính trị' (political refugees).

Đây là điều khẳng định chắc chắn như đinh đóng cột, không thể nào nhập nhằng, lấp lửng 'xập xí xập ngầu' được.

Những người như ông Nguyễn Cao Kỳ hay như ai ai đi nữa, mà đã quyết định 'từ bỏ căn cước tỵ nạn chính trị' của mình; thì đó là cái quyền tự do chọn lựa của cá nhân họ. Chúng ta chẳng cần phải mất công thắc mắc về cái chuyện lẻ tẻ, vặt vãnh của nhóm thiểu số quá ư là nhỏ bé đó. Chỉ có điều cần phải nói cho thật rõ ràng là: 'Khi không còn là thành viên của cộng đồng tỵ nạn nữa, thì họ nên sòng phẳng, danh chính ngôn thuận; chứ không nên mạo nhận mìn là 'đại diện cho người Việt hải ngoại' để mà đứng ra chào mừng người lãnh đạo cộng sản, như ông Kỳ đã làm tại Nam California hồi năm 2007 mới vừa đây. Cái chuyện 'xài bạc giả' như thế, người có lương tri và biết tự trọng thì không bao giờ lại nên làm'.

Một lần nữa, tuyệt đại đa số người Việt hải ngoại chúng ta xác nhận mình là 'dân tỵ nạn chính trị'. Và dù đã hội nhập sâu sắc với xã hội của một đất nước đã mở rộng vòng tay đón nhận mình từ nhiều năm qua, chúng ta vẫn luôn luôn tự hào là thuộc dòng giống Việt nam, mà còn giữ vững được truyền thống nhân bản và nhân ái tốt đẹp ngàn đời của cha ông truyền lại. Vì thế cho nên:
    Dù ai có ngả, có nghiêng
    Thì ta vẫn vững như kiềng ba chân
Đoàn Thanh Liêm