Friday, February 5, 2010

Dù đứng thẳng hay quỳ xuống, “XIN” đều có giá trị như nhau - Song Hà



Đứng thẳng hay quỳ xuống, “XIN” đều có giá trị như nhau

Song Hà

Trong xã hội chưa có “luật hành khất” nào được thông qua.

Vì vậy, trong cuộc sống xã hội, bất cứ sự xin xỏ nào đều hoàn toàn là phụ thuộc vào lòng hảo tâm của người được xin, muốn cho hay không và cho bao nhiêu, bao giờ cho là quyền của họ. Vì vậy không bao giờ có luật là “tôi đã xin thì anh phải cho”.

Đọc thông cáo của TGM Đà Nẵng của Đức GM Châu Ngọc Tri về những vấn đề liên quan đến Cồn Dầu tôi thấy khá ngỡ ngàng và cảm thấy khó tin rằng đây là quan điểm của một vị giám mục.

Bài viết có đăng hình của Giám mục và khẩu hiệu Giám mục là “Trời mới, đất mới”. Đọc nội dung, tôi thấy gần như nội dung và cách nói của của những tờ báo mới đây, nghĩa là nói “như sách”, trong đó cũng là cần tôn trọng quyền lợi dân nghèo, là báo cáo thành tích của chính quyền về giải tỏa được bao nhiêu hộ dân, đã kiên trì và thuyết phục như thế nào (để cướp đất của dân), là cần phải thế nọ, cần phải thế kia để đảm bảo đoàn kết lương - giáo, thực hiện nghĩa vụ công dân ... thôi thì đủ cả.

Nhưng thực tế ở đất nước chúng ta, chuyện nói và làm đi ngược nhau đã là lẽ thường.

Vì sao lại có điều lạ lùng này? đọc kỹ nội dung thông cáo mới biết được tại vì “Khó khăn rắc rối lại tập trung vào Giáo hội, nhất là Giáo hội địa phương, nơi sự vụ diễn ra”. Như vậy điều chính yếu là vì sự việc ở Cồn Dầu đã làm cho Giáo hội địa phương phải “rắc rối”, và chính vì ngại cái “rắc rối” đó liên quan đến mình nên mới có bản thông cáo này.

Nếu những việc ở nơi khác, hoặc ngay Cồn Dầu, nhưng không làm “rắc rối” đến giáo hội địa phương,chắc hẳn không bao giờ có bản thông cáo của TGM Đà Nẵng như thế.

Bản thông cáo minh định rõ: Giáo dân Cồn Dầu chỉ có ¼ số dân ở khu vực bị giải tỏa và mặt khác, Thánh đường và Giáo xứ không thuộc diện quy hoạch, do vậy việc giải tỏa này không liên quan đến tôn giáo? Giáo dân có kêu thì chỉ nên kêu về quyền lợi dân sự, không được cùng nhau kêu về vấn đề ảnh hưởng tôn giáo để làm rắc rối đến “giáo hội địa phương”?

Chắc TGM Đà Nẵng xác định rằng với số giáo dân này, có di chuyển đi đâu thì là việc của họ, Thánh đường và nhà xứ vẫn còn, có nghĩa là Giáo hội không bị ảnh hưởng. Kể cả sau này khu vực biến thành khu ăn chơi nhảy múa, khu du lịch... mà không có giáo dân ở đó nữa, thì Thánh đường và nhà xứ sẽ được dùng để làm cảnh bên cạnh khu ăn chơi cho vui, biết đâu thỉnh thoảng TGM còn có dịp qua đó thưởng lãm khu vực này. Và cũng biết đâu nhà nước lại tặng thưởng huy chương cho TGM vì Thánh đường đứng đó như biểu tượng của Việt Nam quá thừa thãi tự do tôn giáo vì có cả những nhà thờ không ai sử dụng đến.

Bản thông cáo cũng cho biết “một người hay một nhóm người không thể nhân danh giáo hội địa phương”... Nhưng một tập thể giáo dân đông đúc, chiếm đa số đã đồng lòng ký đơn và kêu cứu, thì nó là gì nếu giáo hội địa phương không có họ?

Điều vui nhất trong bản thông cáo của TGM Đà Nẵng là nói lên “thành tích đối thoại” của TGM Đà Nẵng về vụ trường tư thục đến nay đã được “đề xuất về Trung ương xin ý kiến của Ban Tôn giáo Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, với câu kết rất tích cực: “Rất mong Ban Tôn giáo Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo quan tâm giải quyết”. Và theo thông tin không chính thức, đề nghị này của Thành phố cùng với đề án mở trường tư thục của Giáo phận Đà Nẵng đã được đặt lên bàn làm việc của Thủ tướng Chính phủ”.

Như vậy, TGM Đà Nẵng đã vì một ngôi trường tư thục đang được “đặt lên bàn Thủ tướng” mà đã phải hi sinh những thứ khác, như cả tập thể giáo dân Cồn Dầu đang có nguy cơ xóa sổ Giáo xứ, ly tán mất nhà cửa, xa nhà thờ, mất ruộng đất, mất nguồn sinh sống ... chỉ vì một hy vọng mờ ảo nào đó trước mắt?

Đoạn “chúng tôi cũng được thông báo bằng một văn bản chính thức, mang chữ ký của vị Chủ tịch, đại diện cao nhất của chính quyền một thành phố trực thuộc trung ương như Đà Nẵng, với ấn triện và quốc huy, sao lại có thể biến thành một “trò lừa bịp” công khai trước thiện chí của một tổ chức công dân tôn giáo” làm cho người ta nhìn thấy sự “ngây thơ” của bản thông cáo này.

Nếu TGM Đà Nẵng còn chưa có kinh nghiệm, để mà hi vọng lên “cái bàn Thủ tướng” và “tin rằng thiện chí sẽ được đền đáp” thì xin nhớ rằng kể cả khi Thủ tướng đã đích thân đến tận Tòa TGM Hà Nội xem xét, hứa hẹn về Tòa Khâm sứ, thì sau đó vẫn là chó, là cảnh sát đến bao vây và... cướp.

Hoặc chẳng cần đi đâu xa, mời Đức GM Châu Ngọc Tri lên Đà Lạt, vừa nghỉ mát vừa học hỏi kinh nghiệm của Đức GM Nguyễn Văn Nhơn, Chủ tịch HĐGMVN. Sau những màn chào đón tươi cười Thủ tướng VN bằng hoa tươi, bằng đón tiếp nồng nhiệt để "đối thoại và hi vọng" thì ngay sau đó, Giáo Hoàng học viện được chiếm đoạt phá bỏ để ... làm công viên.

Đó thật sự là một cái tát vào những ai đang hoặc ngây thơ thừa thãi lòng tin, hoặc để che giấu sự sợ hãi, không dám đối mặt sự dữ, với ma quỷ bằng chiêu bài "đối thoại và hi vọng" với những người cộng sản.

Cái ấn triện Quốc huy mà TGM Đà Nẵng quá tin vào sự linh thiêng của nó đến thế, thì hãy xem các văn bản trắng trợn ... cướp không đất đai của Tòa Khâm sứ, Tam Tòa, Thái Hà, đập nát Thánh giá Đồng Chiêm, Loan Lý, Giáo hoàng Học viện... vẫn đóng dấu Quốc huy đỏ chót đấy cả thôi, chẳng có văn bản nào đóng con dấu Mafia cả.

TTrong bản thông cáo của Tòa Giám mục Đà Nẵng có một câu mà đọc lên thấy khá hài, đó là “chúng tôi đã thẳng thắn nói với các vị hữu trách dân sự rằng: “Với chính sách xã hội hoá giáo dục, đúng ra là Nhà nước phải xin nhân dân cùng làm. Nhưng ở đây, theo đúng qui định, chúng tôi phải làm thủ tục để xin Nhà nước cho phép làm. Nhưng quí vị nên biết, chúng tôi chỉ đứng thẳng mà xin, chứ không bao giờ quỳ gối”.

Trong xã hội chưa có “luật hành khất” nào được thông qua.

Vì vậy, trong cuộc sống xã hội, bất cứ sự xin xỏ nào đều hoàn toàn là phụ thuộc vào lòng hảo tâm của người được xin, muốn cho hay không và cho bao nhiêu, bao giờ cho là quyền của họ. Vì vậy không bao giờ có luật là “tôi đã xin thì anh phải cho”.

Ở Việt Nam, chỉ có duy nhất một thứ ngôn ngữ được sử dụng chỉ từ phía nhà nước, đó là "mượn" nhưng không trả, đó là "thương lượng" nhưng không đồng ý không xong, sẽ có ngay cảnh sát, vũ lực. Đó là người dân phải "tự nguyện" dưới họng súng. Giáo dân Cồn dầu đang đứng vào tình trạng như vậy.

MuMuốn "xin" mà "buộc phải cho" thì hãy làm nhà nước cộng sản. Thực chất, đó là những cuộc "xin đểu" mà bọn mafia thường làm.

Đúng với ngôn ngữ Việt Nam thường dùng, nếu những thứ không phải của mình, thì phải “mua” mới là công bằng. Còn đối với những thứ của mình bị chiếm đoạt, thì phải “đòi”.

Vâng, vẫn biết rằng đứng thẳng mà xin thì đỡ mỏi hơn quỳ gối, nên có thể đứng lâu hơn. Nhưng về tư thế khi đã “xin” dù đứng thẳng, đứng nghiêng, quỳ gối hay nằm xuống đều có ý nghĩa như nhau. Và cũng xin nhớ rằng "miếng thịt không mất tiền chỉ có trong bẫy chuột".

Một chế độ đã đi đến cướp từng tấc đất của dân, kể cả đập phá mồ mả liệt sĩ để cướp đất, thì đừng mong có sự hảo tâm nào đó cho ai, nhất là những tổ chức "thuốc phiện của nhân dân" như của người công giáo.

Trời mới đất mới – xã hội mới dân làm chủ và pháp quyền thì không thể chấp nhận chế độ xin – cho.
Đọc bản Thông cáo của TGM Đà Nẵng, người ta cứ tưởng đây là văn bản của Ban Tôn giáo Chính phủ? Có sự nhầm lẫn nào chăng??

Song Hà

Hòa Hợp Hòa Giải ? Kinh Nghiệm Của Người Tiệp Khắc - Triết Hồ

Triết Hồ

Tôi đề nghị những ai có ý đồ “hoà giải” thì nên suy nghĩ lại. Vì sao? Vì không bao giờ có sự “hoà giải” giữa một bên là các cá nhân yếu đuối và một bên là cả guồng máy chính quyền độc tài sắt thép ....

Theo dõi cuộc tranh luận về những vụ việc chung quanh cuốn Thơ đến từ đâu? xuất bản ở Hà Nội hồi cuối năm 2009 vừa qua, cũng như những nhận định của một số người về trường hợp ông Đặng Tiến và những thái độ “hoà giải”, tôi đoán là trong những người góp ý kiến có lẽ chưa có ai là người Việt ở những nước Đông Âu hậu-cộng sản. Vậy nên tôi mạo muội đóng góp một góc nhìn khác, vì tôi sống ở Tiệp từ 1970 đến nay, lấy vợ người Tiệp và đã trở thành dân nước Tiệp.

Phải nói ngay rằng tôi sinh ra và lớn lên trong chế độ XHCN ở miền Bắc Việt Nam. Thuở còn trẻ tôi tin vào đường lối của Đảng Cộng sản vì chưa từng biết đường lối nào khác. Năm 1970, nhờ có kết quả học vấn tốt nên tôi được sang du học ở Tiệp. Khi được đi Tiệp, tôi hãnh diện lắm vì tưởng mình có cơ hội đến một nước cực kỳ văn minh. Lúc ấy tôi vừa xong trung học nên còn ngây dại lắm, nhưng càng lớn lên, tôi càng nhìn thấy sự thật. Sống ở Tiệp từ 1970 cho đến khi chế độ Cộng sản ở Tiệp sụp đổ cuối năm 1989, tôi chứng kiến vô số những bi kịch trên thân phận con người. Khi Cộng sản ở Tiệp và cả Đông Âu sụp đổ tôi vui sướng vô cùng. Kể từ đó tôi mới được hưởng không khí dân chủ.

Trở lại chuyện “hoà giải”, tôi đề nghị những ai có ý đồ “hoà giải” thì nên suy nghĩ lại. Vì sao? Vì không bao giờ có sự “hoà giải” giữa một bên là các cá nhân yếu đuối và một bên là cả guồng máy chính quyền độc tài sắt thép. Bên yếu chỉ có thể được thu nhận để phục vụ cho bên mạnh, chứ bên mạnh không đời nào nhượng bộ cho bên yếu.

Chuyện “hoà giải” ở Tiệp là một kinh nghiệm. Năm 1977, chính quyền Cộng sản độc tài Gustáv Husák tung ra chính sách “hoà giải”, kêu gọi cộng đồng Tiệp lưu vong trở về để cùng xây dựng đất nước, vì chủ tịch Gustáv Husák sẵn sàng ân xá cho những người “di tản bất hợp pháp” (tức là những người Tiệp đã vượt biên tỵ nạn sang các nước tự do). Kết quả là gì? Kết quả là trong cộng đồng người Tiệp lưu vong trên khắp thế giới, chỉ có khoảng hơn 10 ngàn người nộp đơn xin ân xá. Trong số hơn 10 ngàn người đó có khoảng một phần ba là muốn phục hồi quốc tịch Tiệp để hồi hương, và số còn lại thì chỉ muốn về thăm quê hương, làm những công việc hợp với đường lối của chính quyền Cộng sản, nhưng vẫn giữ quốc tịch ở nước ngoài.

Gia đình nội ngoại bên vợ Tiệp của tôi thời ấy có gần chục người lưu vong ở Pháp, Mỹ, Canada. Trong số đó có vài ba người âm thầm “hoà giải”.

Họ “hoà giải” với ai? Với các công an mật (Státní bezpečnost - StB)? Với các cấp chính quyền? Với các “soudruh” (đồng chí) của Đảng Cộng sản? Không, họ không “hoà giải” được với ai cả.

Đúng ra, một ít người có tài, có học vấn cao cũng được Đảng cho phép làm việc ở Tiệp. Một ông bác của vợ tôi là Giáo sư ở Canada, khi về Tiệp thì được cho dạy ở trường đại học, nhưng phải ở dưới trướng của những ông bí thư dốt nát, mặt mày lạnh như chì.

Ở nước ngoài, cộng đồng Tiệp lưu vong sáng tác ra từ “upravenec” (số nhiều là “upravenci”) để chỉ những người “hoà giải”. Từ “upravenec” đúng ra có nghĩa là “kẻ nâng cấp” , và “upravenci” là “bọn nâng cấp”, vì lúc ấy chính quyền Cộng sản Tiệp dùng cụm từ “upravili vztahy s ČSSR” (“nâng cấp quan hệ với nước Cộng hoà XHCN Tiệp”) để chiêu dụ “hoà giải”!

Cộng đồng Tiệp lưu vong lại còn có từ “kolaborant” để chỉ những kẻ “hoà giải” hay “nâng cấp quan hệ” quá nhiệt tình! “Kolaborant” là kẻ “hợp tác” hay “cấu kết”, nghĩa là kẻ sẵn sàng làm tay sai cho chế độ, ca tụng chế độ, làm tình báo, chỉ điểm cho chế độ.

“Hoà giải”, “nâng cấp quan hệ” hay “hợp tác” chẳng đến đâu, thì cuối năm 1989, đùng một cái, mọi sự chấm dứt. Chế độ Cộng sản sụp đổ.

Từ năm 1990 đến nay, hầu hết những người Tiệp lưu vong đều đã hân hoan trở về thăm quê hương, nhiều người quyết định hồi hương để sống và làm việc trong một nước Tiệp dân chủ.

Còn thân phận của “upravenci” và “kolaborant” thì ra sao? Những kẻ “hoà giải”, “nâng cấp quan hệ” hay “hợp tác” với chế độ Cộng sản trước kia, thì giờ đây rơi vào trạng huống khá là ngượng ngùng. Trong khi người lưu vong bày tỏ thái độ tự hào, thì kẻ “upravenci” và “kolaborant” lại mang mặc cảm, thấy xấu hổ. Người lưu vong trở về Tiệp thì có thể thông cảm với các cán bộ hay Đảng viên trong sạch của chế độ Gustáv Husák thối nát, vì xem đó là hoàn cảnh bất khả kháng của họ trong một giai đoạn lịch sử. Nhưng người lưu vong lại coi khinh những kẻ “hoà giải”. Họ nhìn thấy kẻ “hoà giải” là mang bản chất của kẻ cơ hội, kẻ hèn, kẻ phản bội.

Đến nay đã hơn 20 năm sau ngày Cộng sản sụp đổ, nhưng cảm giác khinh bỉ ấy vẫn chưa phai. Đâu đây vẫn còn những lời bàn bạc về “upravenci” và “kolaborant”. Đâu đây vẫn còn những người đòi hỏi chính quyền hôm nay hãy công bố danh sách những kẻ đã nộp đơn xin “nâng cấp quan hệ với nước Cộng hoà XHCN Tiệp”. Cách đây mấy năm, Stanislav Reiniš vẫn còn công khai chê trách thái độ mất đạo đức (morální poklesek) của những kẻ đã phản bội cộng đồng tỵ nạn lưu vong để “hoà giải” với chế độ độc tài.[1] Năm 2006, đài Radio Praha còn phát thanh một chương trình về người Tiệp hồi hương, trong đó ông Vladimír Špaček, một người hồi hương năm 2000 sau hơn 30 năm lưu vong, còn lên tiếng tố cáo chính sách “nâng cấp quan hệ với nước Cộng hoà XHCN Tiệp” của Gustáv Husák là âm mưu chia rẽ và chinh phục (rozděl a panuj) cộng đồng lưu vong Tiệp.[2]

Cuối cùng, những kẻ vội vã “hoà giải” đã không “hoà giải” được với ai cả, để rồi suốt đời còn lại phải âm thầm hổ thẹn vì cũng khó lòng mà “hoà giải” được với chính bản thân mình.

Triết Hồ

[1] Stanislav Reiniš - Je to stará historie - nebo není? (Neviditelný pes, Pondělí 5.7.2004).

[2] Milena Štráfeldová - Vladimír Špaček projel australskou buš jako zeměměřič (Radio Praha, 29-04-2006).

Wednesday, February 3, 2010

Trần Văn Ân, tên phản trắc - Ngô Kỷ



Ngô Kỷ

Đọc bài phỏng vấn “GS Trần Văn Ân giải thích về ý tưởng Hội nghị Việt kiều …” trên báo Việt Weekly số 5 January 28 – February 3, 2010, tôi ngạc nhiên vô cùng. Lý do là lâu nay dưới mắt tôi thì cựu Trung tá Trần Văn Ân, nguyên phát ngôn nhân của Bộ Quốc Phòng Việt Nam Cộng Hòa là một người tào lao, ba phải, thích nổ, tròn như viên bi, và “lép xép”, nhưng khi đọc xong bài báo thì tôi tự trách mình là mình đã phán đoán và đánh giá sai về y. Trần Văn Ân không đơn giản và vô hại như mình nghĩ, mà trái lại Trần Văn Ân là một con “cáo già” vô cùng nguy hiểm cho cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại. Cái đuôi “Việt gian” của Trần Văn Ân đã đến lúc lòi ra, và y trực tiếp ra mặt thực hiện Nghị Quyết 36 với sự tiếp tay của Trần Văn Chi, phó Tổng giám đốc nhật báo Việt Herald và Lữ Giang.

Chính vì bị Đinh Viết Tứ và Phùng Tuệ Châu “bật mí” trên báo một cách bất ngờ về việc Trần Văn Ân và Trần Văn Chi có liên hệ với Cộng Sản Việt Nam, nên Trần Văn Ân phải buộc lòng nhờ đến báo Việt Weekly để “công khai hóa” hành động “phản quốc” và đâm sau lưng cộng đồng, mà y trình bày một số đoạn như sau:

“… Việc kết hợp chất xám ở hải ngoại với chất xám trong quốc nội là quan niệm nghiêm túc và tốt cho Việt Nam. (…) Tôi cho rằng rất thiết thực, rất cần thiết để có đối thoại. Tuy nhiên để có kết quả tốt của cuộc đối thoại, giữa hai người, hai nhóm, hai phía trước khi ngồi xuống, phải để qua một bên những định kiến, thiên kiến và hận thù. (…) Tôi xin nói ra ngay rằng, những gì anh Đinh Viết Tứ nói ra đều đúng. Tôi rất quí những người như anh Đinh Viết Tứ và chị Phùng Tuệ Châu. Tôi cho họ là những người yêu nước. Tôi chỉ quan tâm đến vấn đề con người và tấm lòng, những Đinh Viết Tứ, Phùng Tuệ Châu và Nguyễn Hữu Liêm là những người yêu nước, có lòng với dân tộc. Tôi đã gặp các anh em đó trong tinh thần yêu nước. (…) Ý tưởng về một mô thức tổ chức “Hội nghị Việt kiều” tôi chỉ nói chuyện với anh Đinh Viết Tứ, chứ không nói chuyện với anh Lê Xuân Khoa. (…) Quan niệm kết hợp, mang chất xám về giúp nước Việt Nam là điều tốt, tôi cho là như vậy.” (…) “Đúng. Xin xác nhận là tôi đi Việt Nam nhiều lần, nhưng tôi không bao giờ có ý gặp bất cứ một giới chức chính quyền nào cả. Tôi cũng không đến những nơi có tính cách “nhạy cảm” và, mục tiêu của tôi chỉ vui chơi, thăm bạn bè, và nói xin lỗi, để sống nốt đoạn đời còn lại của mình. (…) Về thực trạng ở Việt Nam, sau những chuyến đi về Việt Nam, từ năm 85, 86 trở đi, tôi về từ khoảng 91, 92, sau khi hệ thống cộng sản sụp đổ ở Xô-Viết, tôi thấy CSVN nhanh chóng thích ứng với hoàn cảnh mới. Với sự thay đổi mới này, tôi thấy rất tốt, may mắn cho Việt Nam. (…) “Sau đó mỗi năm, về lại tôi thấy sự tăng trưởng về kinh tế mỗi năm thật là kinh khủng, khoảng từ 10% cứ thế mà thay đổi. Mỗi lần về là cái nhìn khác nhau. Trong khi đó, cái nhìn của người chống cộng ở hải ngoại về Việt Nam vẫn vậy, không thay đổi. Nếu không về Việt Nam nhìn tận mắt, việc đánh giá hiện trạng Việt Nam sẽ không chính xác. (…) Đã qua 35 năm là một thời gian dài trong cái nhìn về chính trị, nhất là chính trị quốc tế. Chúng ta thấy nước Hoa kỳ chỉ trong vòng vài ba năm, đã thay đổi hoàn toàn. Nói như thế để thấy rằng, mỗi con người trong bối cảnh đấu tranh chính trị, theo tôi cần nhìn lại để lượng định và thích ứng với hiện trang mới. Rất tiếc, sự thích ứng này tôi hiếm thấy ở quốc ngoại. Hầu như không có (ngưng trích).

Vì bây giờ Trần Văn Ân đã công khai để lộ nguyên hình là một tên Việt gian, do đó tôi không cần phải tốn công đi “lột mặt nạ” như tôi đang làm với công ty báo Người Việt và Trần Văn Chi của báo Việt Herald. Tôi chỉ nhân dịp này trình bày thêm vài điểm để làm sáng tỏ hơn về Trần Văn Ân thôi.

Rõ ràng là ngưu tầm ngưu mã tầm mã, cá mè một lứa. Mọi người đều biết Phùng Tuệ Châu, cùng với Quốc Thắng, Đinh Viết Tứ, Trần Văn Chi làm đài phát thanh Tiếng Vọng Quê Hương và đài Việt Nam Quê Hương ngay trong “Chùa Việt Nam” của sư hổ mang Thích Pháp Châu trên đường Magnolia, Garden Grove để tuyên truyền cho cộng sản và bị biểu tình phải dẹp. Và bây giờ y thị làm giám đốc website tiengquehuong.com. Trong ngày tham dự Hội Nghị Việt Kiều tại Hà Nội, Phùng Tuệ Châu tuyên bố: “Mục đích của Đài phát thanh Tiếng Quê Hương là mở rộng thân tình mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ; giới thiệu sự tiến bộ và phát triển của đường lối, chính sách của Đảng và Nhà Nước Việt Nam.” Thế mà Trần Văn Ân nói “rất quí Phùng Tuệ Châu và Phùng Tuệ Châu là người yêu nước và có lòng với dân tộc.”

Còn Đinh Viết Tứ là một tên bưng bô cho cộng sản từ trước năm 1975. Y công khai tuyên truyền cho cộng sản ngay tại thủ đô tỵ nạn Little Saigon. Y về Việt Nam thường xuyên và viết bài ca tụng Hồ Chí Minh và đảng cộng sản trên mạng và báo chí. Theo báo Hà Tây, cơ quan của đảng bộ Cộng Sản Việt Nam ra ngày 19/5/2007 với tiêu đề “Ở Người trên hết là lòng yêu nước vô cùng chân chính!”, viết về Đinh Viết Tứ như sau: “Luật sư, nhà báo Đinh Viết Tứ hiện đang định cư ở California. Tuy sống xa quê hương, nhưng ông thường xuyên theo dõi tin tức trong nước và còn viết tin về hoạt động của cộng đồng kiều bào Việt Nam ở Hoa Kỳ để gởi về cộng tác với các báo trong nước. Trong chuyến về thăm quê hương mới đây, ông cho biết, mình vừa soạn một dự luật có tên “Luật bảo vệ tôn danh Chủ tịch Hồ Chí Minh” để gởi lên Quốc Hội Mỹ. (ngưng trích).

Cũng trong bài báo này, Đinh Viết Tứ ca ngợi Hồ Chí Minh như sau: “Tôi rất phục Ông Cụ. Sở dĩ tôi luôn nghĩ về đất nước, làm những điều có lợi cho đất nước cũng vì qua cái hình ảnh và tấm gương Ông Cụ mà tôi được biết suốt từ hồi còn nhỏ” (ngưng trích).

Và trong bài báo này, có đăng câu hỏi và trả lời nguyên văn như sau:

- “PV: Như ông nói, ông rất ngưỡng mộ Bác Hồ, ông có bao giờ mong ước được gặp Người?

- Ông Đinh Viết Tứ: Một ngày tháng 9 năm 1969, ở Sài Gòn, khi tôi vừa đi ra ngoài về văn phòng của hãng tin nơi tôi làm việc thì anh tổng thư ký tòa soạn hỏi: “Cậu biết tin gì chưa? Ông Hồ Chí Minh mất rồi!”

Tôi sửng sốt và buồn quá. Rồi viết mấy câu thơ:

“Con tưởng sau này Bác sẽ vô
Bổng đâu hung tin có ai ngờ
Bác đi về cỏi người không hẹn
Giữa lúc non sông nửa cách bờ

Đâu phải riêng mình dân ta đau
Bốn bể năm châu một nỗi sầu
Trời Thu không nắng mây ảm đạm
Tiễn bậc Cha chung của ngàn sau…

Bác đã ra đi qua nẽo đường
Băng rừng, xuyên núi, vượt đại dương
Hai vai mang nặng theo hồn Nước
Độc lập - tự do cho quê hương

Hiến dâng cho nước cả cuộc đời
Con đường giải phóng Bác đã khơi
Lê chân khắp chốn tìm phương thế
Tận diệt đời nô của kiếp người
…..

Thuở nhỏ con hằng nỗi ước mơ
Đến khi khôn lớn thấy Bác Hồ
Từ nay mộng ấy không thành được
Nhớ Bác con đành viết trong thơ…”

Đó là những dòng tâm sự của tôi, đầy xúc động (ngưng trích)

Lữ Giang, Trần Văn Chi và Trần Văn Ân đang hội luận để nhục mạ và phỉ báng chính phủ VNCH
Tham dự Đại Hội Việt Kiều tại Hà Nội, Đinh Viết Tứ tuyên bố: “Đài Tiếng Nước Tôi và Việt Nam Ngày Nay đưa thông tin chính xác về tình hình Việt Nam đến với kiều bào chính là cách giúp bà con hiểu rõ hơn về tình trạng trong nước, các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với kiều bào…” (ngưng trích)

Trên nguyên tắc, tôi không nên phí thì giờ phổ biến bài thơ phản quốc, chất chứa sự ngu xuẩn, trơ trẻn và lố bịch của Đinh Viết Tứ. Tuy nhiên vì muốn “nói có sách mách có chứng” rằng Đinh Viết Tứ là tên tay sai và thân cộng, thế mà Trần Văn Ân ca tụng y là “một người yêu nước, có lòng với dân tộc, và đã gặp anh em đó trên tinh thần yêu nước,” điều đó đủ chứng minh Trần Văn Ân là ai.

Còn Luật sư Nguyễn Hữu Liêm ở San Jose, Bắc Cali là ai? Quan điểm chính trị ra sao? Bưng bô cho cộng sản thế nào mà đến nỗi Trần Văn Ân phải lên tiếng ca ngợi là “một người yêu nước, có lòng với dân tộc và đã gặp anh em đó trên tinh thần yêu nước.” Mời quý đồng hương và độc giả đọc bài viết “Nguyễn Hữu Liêm, Một Con Chó Liếm Máu Đồng Loại Không Đắng Miệng” của tác giả Thu Hiền viết từ Hà Nội gởi ra hải ngoại, mà tôi xin được trích sau đây vì bài viết giống quan điểm tôi.

Nguyễn Hữu Liêm, Một Con Chó Liếm Máu đồng loại Không Đắng Miệng.

Tôi đọc xong bài "Nơi giữa Đại hội Việt kiều: Một nỗi bình an" của Nguyễn Hữu Liêm mà phải nôn mửa nhiều lần . Tôi đọc lịch sử nói về thời Tây có những tên Việt gian núp bóng Tây để làm hại đồng bào mình, tôi không mường tượng được trong lòng một tên Việt gian họ ra sao khi làm những chuyện trái với lương tâm là làm hại đồng bào mình để sống thoải mái.

Nguyễn Hữu Liêm theo tôi hắn còn tệ hơn một tên Việt gian. Tôi phải xin phép loài chó để gọi tên nầy là chó . Chó có nhiều con dễ thương biết quấn quít bên chủ. Nguyễn Hữu Liêm là một giống chó hoang chỉ biết ăn thịt , uống máu đồng loại mà không biết đắng miệng. Có thể có người cho tôi dùng chữ quá đáng nhưng xin cho tôi biết ngôn ngữ nào , chữ nào của VN có thể tả chân được một con thú như Nguyễn Hữu Liêm. Hắn đích thực là một con chó dại được bọc bên ngoài bằng lớp vỏ loài người.

Nguyễn Hữu Liêm trong quá khứ đã công khai bênh vực cộng sản nhưng khi viết một bài ca ngợi đảng đã cố uốn nắn mình trở thành một tên bồi bút, hắn viết: "Trong hai mươi năm qua, tôi đã bao nhiêu lần về lại Việt Nam. Lần nào bước vào phi trường Tân Sơn Nhất, tôi cũng vẫn luôn mang một nỗi sợ hãi thầm kín. Không biết là lần này mình có bị trục xuất hay không? Những ngày còn ở trong nước thì vẫn nghĩ đến chuyện công an “mời lên làm việc”. Hắn láo điên cuồng không thua gì tên trung tá công an Nguyễn Như Phong trong tờ công an . Một thằng làm Việt gian, bênh vực cho VC bấy lâu nay mà mở miệng sợ VC bắt.

Con chó lại sủa tiếp: "Vừa bước tới quầy thủ tục nhập cảnh ở Nội Bài, tôi đã được hướng dẫn vào lối đi dành cho đại biểu kiều bào về tham dự Đại hội. Một sĩ quan cấp tá đón tiếp tôi thân mật, vui vẻ. Viên sĩ quan đóng dấu ngay lập tức vào tờ khai nhập cảnh và chào tôi nghiêm chỉnh với nụ cười"

Lần nầy tôi không còn giữ được bình tỉnh nên có xin phép quí bạn đọc được kêu con chó nầy bằng thằng. Có lẽ Nguyễn Hữu Liêm biết VC nhiều hơn nhiều người khác . Hắn sinh ra và lớn lên ở Quảng Trị, một vùng giới tuyến VN. CSVN đã về đây thãm sát, giết người hằng loạt nhất là trận Mậu Thân năm 68, người dân Quảng Trị và Huế đã đổ máu vì lũ ác ôn CSVN thế mà hắn nhìn tên sĩ quan cấp tá VC cười với hắn . Nếu cái đầu của Nguyễn Hữu Liêm không bị lộn cứt như đầu tôm thì mới có thể thấy được cái nụ cười đầy máu và nước mắt của người dân trong miệng thằng công an cấp tá.

Những đọan sau của hắn trong bài viết đã cố tìm ra những nhân vật, từ ngữ trong triết học như "Husserl, theo ngôn ngữ phiên giải của Derrida ", con chó đang cố khoát lên người một chiếc áo triết gia để đánh lừa người đọc . Hắn chẳng phải là một người có trình độ triết học, hắn vay mượn những từ ngữ để tô vẽ lên con người hèn hạ của hắn một ít màu mè hương vị của mùi triết Tây cho có lệ.

Cái đầu của hắn còn thấp lắm nên khi hắn nhìn cảnh Hà Nội bằng câu viết:

"Sáng sớm ngày hôm sau, thứ Bảy, 21 tháng 11, phái đoàn chúng tôi lên xe buýt – có xe cảnh sát hú còi mở đường – đi về Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình. Hà Nội, khi đi ra khỏi khu Ba Đình, là cả một công trường xây dựng.. Các cao ốc thi nhau vươn lên. Có một cái gì đó mang ít nhiều tính bất cập, bất tương xứng giữa những con người và chế độ chính trị, và cả con người tôi thấy trên đường phố, đối với các cao ốc hiện đại đang được dựng cao."

Hắn đâu có biết những cao ốc đang vươn lên ở Hà Nội là tác phẩm của máu và nước mắt . Những tên cán bộ giàu sụ tham ô hút máu nhân dân để có những cao ốc ngày hôm nay mà người chủ chính là những tên chúp bu trong đảng CS. Nguyễn Hữu Liêm từ khách sạn Thắng Lợi đi về Mỹ Đình quá sớm nên hắn không nhìn thấy cảnh những người dân lom khom dưới phố đang ôm từng thùng bánh mì to tướng, ngồi từng góc đường của phố Hà Nội, hắn đâu nhìn thấy cảnh những đứa bé chạy nhanh về bãi rác Nam Sơn để dành lấy những mãnh rác của cuộc đời . Có thể là hắn biết nhưng hắn đã quá hèn để cố tình không nhìn thấy máu và nước mắt của người dân VN chúng ta đang chảy chung quanh những cao ốc mà hắn đang đi qua.

Nguyễn Hữu Liêm viết tiếp:

"Ngày thứ ba của Đại hội, ở cuối phần bế mạc, tôi cùng đứng dậy chào cờ. Bài “Tiến quân ca” được vang cao trong cả hội trường. Lạ thật.. Tôi chưa hề từng nghe Quốc ca Việt Nam (này) trong khung cảnh thể thức như thế. Từ ấu thơ đến bây giờ, tôi từng hát Quốc ca của miền Nam, trước năm 1963 thì cùng với bài hát buồn cười “Suy tôn Ngô Tổng thống.” Ba mươi bốn năm qua là Quốc ca Hoa Kỳ xa lạ, Star Spangled Banner. Nay thì tôi lại nghe và chào Quốc ca Việt Nam và lá cờ đỏ sao vàng. Con người là con vật của biểu tượng. Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước. Tôi cảm nhận được một dòng điện chạy từ đáy lưng theo xương sống lên trên cổ trên đầu như là khoảnh khắc thức dậy và chuyển mình của năng lực Kundalini. Tôi nhìn lên phía trước, khi vừa hết bài Quốc ca, mấy chục cô và bà đại biểu từ Pháp đang chạy ùa lên sân khấu, vỗ tay đồng ca bài “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Tôi nhìn qua các thân hữu Việt kiều từ Mỹ, và ngạc nhiên khi thấy hầu hết – kể cả những người mà tôi không ngờ – đang vỗ tay hào hứng la to, Việt Nam! Hồ Chí Minh! Cả hội trường, và tôi, cùng hân hoan trong tất cả (vẫn là) cái hồn nhiên mà dân tộc ta đã bước vào từ hồi thế kỷ trước."

Hắn vừa viết xong là: "Từ ấu thơ đến bây giờ, tôi từng hát Quốc ca của miền Nam, trước năm 1963 thì cùng với bài hát buồn cười “Suy tôn Ngô Tổng thống" . Hắn buồn cười khi hát bài “Suy tôn Ngô Tổng thống" nhưng hắn lại hồ hỡi khi hát bài “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng” Cả hai bài đều ca tụng lãnh tụ như nhau nhưng Nguyễn Hữu Liêm "buồn cười" bài “Suy tôn Ngô Tổng thống" nhưng hồ hởi ca tụng Cụ Hồ . Hắn tưởng là đưa triết học vào bài viết thì người đọc sẽ bỏ qua cái ấu trỉ của hắn không để ý hắn là một con chó vừa ỉa xong là quay lại liếm vào đống cứt mình.

Tôi nhiều lần cũng đọc bài của Nguyễn Hữu Liêm trên báo danchimviet. com nhưng lần nầy lại thấy hắn biến thành một con chó săn biết vẩy đuôi ca ngợi chủ của hắn là những tên đồ tể khát máu CSVN. Đoạn kết hắn thú tội:

"Xin chân thành cảm ơn tất cả. Ôi hỡi quê hương Việt Nam. Lần này, tôi đã thực sự trở về!"

Thực sự hắn đã trở về với bầy chó sói mà hắn đã xa cách. Đúng là châu về hiệp phố. Xin chúc mừng cho hắn đã tìm được đồng loại .

Thu Hiền (Hà Nội) (ngưng trích)

Đọc bài viết trên, tôi thấy không cần thiết nói thêm gì nữa về Nguyễn Hữu Liêm. Cứ theo “tam đoạn luận” thì Trần Văn Ân không khác gì Nguyễn Hữu Liêm cả.

Tôi không chống đối gì những người Việt hải ngoại về Việt Nam, tuy nhiên tôi khinh tởm bất cứ kẻ nào vênh váo và huyênh hoang “áo gấm về làng” một cách vô ý thức. Trần Văn Ân về Việt Nam vì có con trai làm ăn lớn lao với cộng sản thì cũng là cái chuyện bình thường thôi. Nhưng cái giọng điệu “hồ hởi” khoe khoang về Việt Nam mỗi năm của y quả là một sự trơ trẻn, lố bịch, dị hợm và vô liêm sỉ. Một cựu trung tá với chức vụ cao cấp là phát ngôn nhân của Bộ Quốc Phòng Việt Nam Cộng Hòa, mà không biết nhục khi phải cúi lạy kẻ thù khi về nước, thế thì có gì đáng hãnh diện mà khoe khoang? Mới ngày nào chạy “tóe khói” để xin tỵ nạn, thề thốt đủ điều, thế mà bây giờ chỉ vì chút danh ảo hay chút lợi lộc nhỏ nhoi lại quay 180 độ bán rẻ lương tâm, phản bội lại lý tưởng. Đồ vô liêm sỉ.

Trần Văn Ân cho rằng kết hợp, đóng góp “chất xám” cho Việt Nam là cần thiết và tốt, thế thì với cái danh hiệu “giáo sư”, tại sao Trần Văn Ân không ở luôn bên đó mà đóng góp, xây dựng. Thật là một thằng hèn, chỉ biết nói dốc bằng cái lỗ miệng mà thôi. Việt Nam thay đổi mới, may mắn quá, sao không ở bên đó mà hưởng cái may mắn? Quả thật chỉ biết sủa vớ vẩn mà thôi.

Trần Văn Ân quả là thằng hề ngu xuẩn, không đủ khả năng đóng trọn vai trò mà Bác và Đảng giao phó. Việt Nam làm gì có cái chuyện kinh tế cứ mỗi năm tăng trưởng 10% mà lại đi nổ sảng. Tại Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới (WEF) năm 2010 kỳ này tại Davos, Nguyễn Tấn Dũng cũng phải ú ớ về cái lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của năm 2009 giảm xuống hơn 30% so với năm 2008. Trong khi đô la của Mỹ bị tụt giá trên thế giới, thế mà tại Việt Nam lại tăng từ 15 ngàn lên tới gần 20 ngàn đồng Việt Nam mới đổi được một đô la Mỹ. Thế mà Trần Văn Ân lại sủa bậy. Trần Văn Ân cần phải cập nhật tin tức và ôn bài vở cho cẩn thận kẻo lòi cái ngu của mình ra. Việt Nam Cộng Hòa mất nước cũng tại vì trước kia xử dụng cái đám ngu và vô liêm sỉ như Trần Văn Ân, mà bây giờ Bắc Bộ Phủ dùng lại cái loại ngu này thì chắc cái ngày tàn của Cộng Sản Việt Nam cũng sắp kề.

Trần Văn Ân lại nhai cái luận điệu cũ mềm “hãy về Việt Nam để chứng kiến tận mắt”, cái điệp khúc mà tất cả chóp bu cộng sản đều sủa giống nhau. Cần gì phải về Việt Nam mới thấy hàng ngàn công an đánh người, giật sập Thánh Giá Đồng Chiêm. Cần gì về Việt Nam mới thấy cộng sản dùng luật rừng rú để bóp miệng Linh mục Nguyễn Văn Lý, quản thúc các nhà lãnh đạo tôn giáo, hoặc giam cầm những nhà đấu tranh dân chủ, hay đánh đập dân oan, và trù dập những người ái quốc đòi bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa một cách tàn nhẫn, phi lý, bất công. Cần gì về Việt Nam để thấy xì ke, ma túy, đĩ điếm, ăn mày, tham nhũng, thối nát tràn lan khắp mọi nơi. Trong thời đại internet toàn cầu này thì cần gì phải đi đâu, mà chỉ cần có sự quan tâm thì cái gì chúng ta không biết. Người quốc nội chưa chắc biết rõ những gì xảy ra trong nước bằng người hải ngoại vì trong nước bưng bít thông tin một chiều, dân chúng thiếu phương tiện, máy móc thì làm sao biết được cái gì ngoài mấy bửa ăn chưa chắc là có đủ.

Trần Văn Ân chớ có lếu láo và hỗn xược nói xỏ xiên và xúc phạm đến những người không muốn về Việt Nam làm thân khuyển mã như Trần Văn Ân. Không ngờ một cựu trung tá, một phát ngôn nhân Bộ Quốc Phòng mà đầu óc thiển cận và ngu muội đến thế. Cần gì phải lên hỏa tinh mới biết trên đó không có sự sống, cần gì rờ vô lửa mới biết nó nóng, cần gì rờ vô điện mới biết bị giựt, cần gì đi Tây Bá Lợi Á mới biết nó lạnh, cần gì sống với cộng sản mới biết nó tàn ác, phi nhân. Chỉ có bọn vô liêm sỉ và ngu xuẩn như Trần Văn Ân mới bị “lú” mà thôi.

Bây giờ đến chuyện tên Việt gian Trần Văn Chi, hiện là phó Tổng giám đốc nhật báo Việt Herald tiếp tay với Lữ Giang và Trần Văn Ân nhục mạ chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trên các hệ thống truyền thông, báo chí. Bằng chứng là trong chương trình “Gặp Gỡ Báo Chí” trên đài truyền hình băng tầng 18.7 VAN-TV do Bruce Trần làm chủ, ngày 8 tháng 12 năm 2009, ba tên này đã thay phiên nhau “đấu tố” và nhục mạ chính phủ Việt Nam Cộng Hòa theo đúng kế hoạch của cộng sản. Khi Trần Văn Chi mớm câu hỏi nhận xét ra sao về chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, thì Trần Văn Ân trả lời như sau:

“Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa của mình hoàn toàn dựa vào Mỹ 100%, và khi Mỹ bảo là tôi bỏ các ông, hết nghĩa là hết, cái đó là cái point. Ngược lại thì bên chính quyền Việt Nam bây giờ thì họ dựa vào cái nội tại họ nhiều lắm, chứ mình thì không có cái đó.” (…)

“Tại làm sao mà Mỹ lại muốn dùng những cựu quân nhân hay những người quân nhân, bởi vì thường thường những người quân nhân là những người không có kiến thức đủ về chính trị và kinh tế, và giáo dục vân vân. Thì như thế cho nên rằng dùng những người quân nhân thì nó dễ điều động hơn, dễ control hơn. Dù rằng mình đồng ý hay không đồng ý với ông Diệm, cũng công nhận giữ được thể thống quốc gia. Thế nhưng khi những cái quan trọng nó mất rồi thì một số tướng lên thì cái đầu tiên nó không có kỷ cương quốc gia nữa. Mạnh ông nào thì chiếm lấy cái ảnh hưởng của mình. Thành ra cái chuyện dùng cái chữ không có được đẹp là sau ông Diệm rồi, đến lúc nó là cả cái chuyện bát nháo. Khi mà mỗi ông tướng được lên, ông Khánh mang một mớ tướng lãnh đàn em lên, thế rồi ông Thiệu mang một số, thế rồi ông Khiêm lên, cứ mỗi ông có một cái phần của mình trong đó. Chính ra là sau khi ông Diệm bị lật đổ thì Việt Nam trở thành tình trạng hổn loạn, hổn quân hổn quan. Và đặc biệt cái thời gian mà tệ nhất là nếu quý vị ở Sài Gòn, thời gian mà có 5, 6 ông Cò của mình, nó cứ loạn lên ở Sài Gòn, họ chỉ có đi chơi thôi không à. Thành ra cái kỷ cương càng ngày nó càng mất. Cái đó là cái nhận định của tôi.” (ngưng trích)



Trần Văn Ân quả thật là một tên vô lại, ăn cháo đái bát, vong ân bạc nghĩa, qua cầu rút ván. Chính phủ nào cho Trần Văn Ân bổng lộc, làm được cái chức béo bở như vậy? Tại sao Trần Văn Ân thấy mấy ông tướng hay chính phủ Việt Nam Cộng Hòa bê bối như vậy mà Trần Văn Ân không từ chức mà lại giữ cái vai trò lớn lao là chức phát ngôn nhân Bộ Quốc Phòng suốt mấy năm trời? Tại sao lúc đó Trần Văn Ân không lên tiếng chỉ trích hay phản đối? Quả thật là một thằng hèn hạ và khiếp nhược. Quốc gia nào, chính phủ nào, tập thể tướng tá, quân nhân nào mà không có người tốt kẻ xấu, thế mà bọn này lại đi “quơ đủa cả nắm”, chờ cho đến giờ này, đúng thời điểm Bắc Bộ Phủ “bật đèn xanh” thì Trần Văn Chi, Lữ Giang và Trần Văn Ân bắt đầu ra mặt nhục mạ chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Mục đích để làm gì?



Tôi không phải là cựu Quân Cán Chính của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, nhưng tôi thấy hành động lố lăng và mất dạy của 3 tên vô lại này khiến tôi phẫn nộ và tức giận vô cùng. Ngạn ngữ Á-rập cho rằng: “Một con chó trung tín còn giá trị hơn một kẻ vong ân,” và Le Talmud cảnh cáo: “Đừng vứt đá xuống dòng suối mà anh đã uống nước.” Bọn này quả thật không xứng đáng làm con chó, chớ nói chi đến việc làm con người. Trong khi những người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại đang dồn mọi nỗ lực để hỗ trợ cho công cuộc đấu tranh đòi tự do dân chủ cho đồng bào quốc nội hiện tại đang bị bạo quyền cộng sản áp bức thô bạo, thì trái lại bọn vô liêm sỉ này lại bươi móc quá khứ để nhục mạ, phỉ báng và dè bỉu. Trần Văn Chi, Lữ Giang, Trần Văn Ân quả thật là một lũ khốn kiếp vô luân.



Trần Văn Ân còn tạo sự chia rẽ giữa quân đội và cảnh sát khi y lên án và nhục mạ rằng “5, 6 ông Cò của mình, nó cứ loạn lên ở Sài Gòn, họ chỉ có đi chơi thôi không à. Thành ra cái kỷ cương càng ngày nó càng mất.” Tôi tin là những người Cảnh Sát Quốc Gia sẽ có thái độ thích đáng với lời phát biểu mất dạy và hổn láo của Trần Văn Ân khi đi xúc phạm đến tập thể Cảnh Sát Quốc Gia.



Trần Văn Ân có biết ông Nguyễn Thừa Du, từng giữ chức vụ trung tá, tiểu đoàn trưởng Biệt Động Quân trước khi trở thành ông “Cò Du” không? Thế mà tại sao Trần Văn Ân lại dám xúc phạm đến tư cách và tinh thần chiến đấu của những ông Cò này? Trần Văn Ân hãy chuẩn bị mà trả lời và đối phó với sự phẫn nộ từ các chiến hữu và thân nhân của các ông Cò này trong một thời gian không xa đâu. Trần Văn Ân có đạo đức và có khả năng chiến đấu anh dũng bằng các ông Cò này không?



Tôi lấy làm thắc mắc là báo Việt Herald hiện nay có 3 người là Trần Văn Chi, phó Tổng giám đốc, Lữ Giang và Trần Văn Ân đều là “biên tập viên” chính thức của báo Việt Herald lại cùng nhau nhục mạ, phỉ báng các vị lãnh đạo và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Có phải chăng báo Việt Herald cùng với báo Người Việt đang thi hành Nghị Quyết 36 của Cộng Sản Việt Nam?



Tôi cũng muốn tìm hiểu lý do là tại sao Trần Văn Ân là người thân cộng và về Việt Nam thường xuyên như vậy mà lại đến tham dự và gia nhập vào Ban Lãnh Đạo của Ủy Ban Phối Hợp Đấu Tranh Chống Cộng Sản và Tay Sai do ông cựu Thứ trưởng Giáo Dục Nguyễn Thanh Liêm và cựu Dân biểu Bùi Văn Nhân tức nhà báo Vi Anh cùng các nhân sĩ đứng ra thành lập vào ngày 10 tháng 10 năm 2009 tại Little Saigon, rồi mấy ngày sau lại xin rút lui? Có phải Trần Văn Ân muốn làm “gián điệp” đến theo dõi tình hình đấu tranh của cộng đồng để báo cáo lại với Bắc Bộ Phủ hay không?



Tôi xin ngừng viết tại đây vì tôi quá khó chịu về cái hành động lố lăng của Trần Văn Ân và tập đoàn khi coi thường “sức mạnh cộng đồng.” Mục đích bài viết này là để cảnh báo cùng cộng đồng tỵ nạn biết về hành động phản trắc của tên “gián điệp Trần Văn Ân”. Tôi nghĩ là hai Ban Đại Diện Cộng Đồng của Bác sĩ Nguyễn Xuân Vinh và của ông Đốc sự Nguyễn Tấn Lạc, và 81 hội đoàn từng ký tên yêu cầu Hội Đồng Liên Tôn đứng ra tổ chức bầu cử Ban Đại Diện Cộng Đồng Nam Cali để lo đại sự, thì trước hết quý vị và Hội Đồng Liên Tôn nên giải quyết mấy cái “tiểu sự” trước mắt cái đã. Trước khi nói đến chuyện đội đá vá trời, trước khi muốn giải thể đảng cộng sản và giật sập Bắc Bộ Phủ bên kia Thái Bình Dương cách xa cả mười mấy ngàn dặm, thì quý vị nên trừng trị nhật báo Người Việt nhục mạ lá cờ Vàng ba sọc đỏ trong chậu rửa chân, hỏi tội Đỗ Ngọc Yến đi đêm với Nguyễn Tấn Dũng, phản đối báo Việt Herald đăng bài “Kẻ phản bội” của Lữ Giang nhục mạ cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và cũng là cố Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là một tên “ác ôn côn đồ”, và mới đây nhất là tên Trần Văn Ân, một cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lại đi ca tụng và tuyên truyền cho cộng sản ngay tại thủ đô tỵ nạn Little Saigon. Hãy làm những cái nhỏ trước khi bàn đến cái lớn lao. Hành động lúc nào cũng tốt và thực tế hơn là nói.

Ngô Kỷ

Tuesday, February 2, 2010

Ðổi trắng thay đen - Nguyễn Đạt Thịnh

Nguyễn Đạt Thịnh

“Chúng cháu bị thầy Xương đe dọa sẽ hạ thấp kết quả học tập ép chúng cháu quan hệ tình dục với thầy”, cô nữ sinh Nguyễn thị Thanh Thúy viết trong lá thư gửi cho luật sư Trần Ðình Triển, người được chỉ định để bênh vực cô. Trong thư cô liệt kê một danh sách chi tiết về những người bạn của thầy Sầm Ðức Xương mà cô và các bạn cô phải “quan hệ tình dục”.

Yêu tinh Sầm Đức Sương
Nói cách khác thầy giáo Xương không những lạm dụng quyền chấm điểm, mà còn đem quyền này ra làm áp lực bắt cô Thanh Thúy ăn nằm với thầy; không chỉ riêng cô nữ sinh Thanh Thúy, thầy còn ép cô nữ sinh Nguyễn thị Hằng, và 15 nữ sinh khác thất thân với thầy. Hành động biến nữ sinh thành đối tượng giúp thầy thoả mãn thú tính làm thầy trở thành một con yêu râu xanh tác oai tác quái trong lớp học.

Chưa hết, thầy còn khoe việc thầy làm với bè bạn như khoe một chiến tích vinh quang, và giúp họ được hưởng thú nhục dục mà thầy đã hưởng bên những cô nữ sinh nạn nhân. Hành động chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao khiến thầy Xương trở thành một thứ ma cô nguy hiểm hơn những ma cô chuyên nghiệp, vì thầy dùng quyền lực ép nữ sinh học với thầy “đi khách”.

Chuyện ngược đời là cha mẹ học sinh gửi con đến trường để chúng học điều hay, lẽ phải, văn chương, khoa học, chứ không phải để “vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay”. Nếu việc làm của thầy Xương xẩy ra ở một nước văn minh thì không những thầy ngồi gỡ lịch trọn đời trong khám đường, mà “nhà nước” trả lương cho thầy cũng sẽ trách nhiệm bồi thường cho cô Thúy, cô Hằng, và 15 bạn học của cô những số tiền lớn lao, mặc dù tiền không bù đắp được những cái ngàn vàng của các cô mà thầy Xương cướp mất.

Mô tả ảnh.Ngược đời thêm nữa là cả hai cô cùng bị truy tố về tội mãi dâm, và cả hai cùng viết những lá thư cho luật sư bênh vực họ, mà họ gọi là “những lá đơn kêu cứu, viết bằng máu và nước mắt.”

Cô Thanh Thúy ghi trong thư gửi luật sư, là cô viết vào lúc 10 giờ sáng ngày 20 tháng Giêng tại trại giam, sau khi phiên tòa phúc thẩm bị hoãn.

Trong lá thư máu cô viết:

“Đây là lá đơn kêu cứu cháu viết bằng máu và nước mắt, kính mong các cô chú cứu cháu. Đã 4 tháng 16 ngày nay, cháu bị giam giữ toàn với người lớn là người dân tộc không biết tiếng Kinh (như mù, như điếc).

Trong 2 tháng qua, cháu không được gặp người thân và không nhận quà, rất khó khăn và khổ sở khi tới ngày vệ sinh phụ nữ. Tội là tội của người lớn mà bọn cháu là nạn nhân sao lại giam cầm cháu. Do đó cháu xin các cô chú cứu cháu với”.

Lá đơn kêu cứu của bị cáo Nguyễn Thị Hằng gửi luật sư Nguyễn Văn Tú cũng có nội dung tương tự. Tờ VietnamNet viết, “Ngoài việc cung cấp tên tuổi những người mà Hằng đã quan hệ tình dục, bị cáo Hằng còn cho biết thêm: ‘cháu có khai toàn bộ tên tuổi những người ngoài Sầm Đức Xương mà các cháu phải quan hệ tình dục, nhưng hiện nay trong hồ sơ vụ án không có tài liệu nào thể hiện lời khai của cháu".

Ra tòa cô Hằng mới biết là tên tuổi những quan chức nhà nước hưởng thụ thân xác học trò của cô đã được các quan chức nhà nước khác xóa bỏ. Do đó không hề có việc cô bị thầy giáo Xương và những người bạn của thầy hiếp dâm mà cô chỉ là một cô gái mãi dâm tiếp khách.

Cái trò đổi trắng thay đen của pháp luật Việt Cộng quả là khiếp đảm; luật sư Nguyễn Văn Tú, biện hộ cô Hằng, nhũn nhặn nói: “các luật sư chúng tôi chỉ mong muốn cơ quan chức năng của tỉnh Hà Giang làm minh bạch, công khai và đúng pháp luật để đảm bảo đúng người, đúng tội!”.

Luật sư Trần Đình Triển
Ông Tú cũng như ông Triển không đòi hỏi thực hiện công lý, không biện hộ cho người vô tội mà chỉ “mong muốn”, chỉ “xin” quý tòa xử công khai và công bằng để bảo đảm một nguyên tắc của nhà nước là truy tố “đúng người, đúng tội.”

Hai “bị can” Thúy và Hằng đã cung cấp tên tuổi, địa chỉ, số điện thoại, chức vụ công tác của những người đã quan hệ tình dục với các cháu vị thành niên. Trong số đó, nhiều người là quan chức, công chức nhà nước của tỉnh Hà Giang, nhiều người là chủ doanh nghiệp. Những người này được Sầm Đức Xương “môi giới” đưa các cháu vị thành niên tới để họ thực hiện quan hệ tình dục, và trả tiền cho Sầm Đức Xương.

Danh sách thứ nhì ghi nhận tên của 15 cháu gái trong độ tuổi từ 13 đến 17 tuổi bị ép “ăn ngủ” cũng trong trạng huống giống 2 bị can: bị cưỡng ép, dụ dỗ, khống chế, đe dọa buộc phải quan hệ tình dục hoặc lôi kéo người khác phục vụ tình dục cho “nhóm bạn của thầy Xương”.

Bà Nguyễn Thị Toán, vợ bị cáo Sầm Đức Xương cho biết, trong lúc cơ quan điều tra vụ chồng bà ăn nằm với nữ sinh, bà được nhiều người tự xưng là cán bộ của tòa án, viện Kiểm Sát, công an gọi điện hoặc đến gặp bà Toán và “tư vấn” cho bà mang tiền đi “khắc phục hậu quả” (bồi thường cho nạn nhân bằng tiền mặt) để từ đó có tình tiết giảm án cho Sầm Đức Xương.

Ðiều trái cẳng ngỗng trong tòa án Việt Cộng là chỗ ngồi của hai cô Thúy và Hằng: họ không có lý do gì để phải ngồi ghế bị cáo; cũng như 4 chiến sĩ dân chủ Lê Công Ðịnh, Nguyễn Tiến Trung,Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long, họ cũng bị đặt ngồi sai chỗ.

Ðiều tréo cẳng ngỗng đó càng tròng tréo hơn với thái độ nhận tội của 2 ông Ðịnh và Trung; liệu hai cô nữ sinh Thúy và Hằng, hai nạn nhân bị quan chức nhà nước bề hội đồng có phải nhận tội mãi dâm không?

Tòa án Việt Cộng man rợ đến như vậy mà dân biểu luật sư Cao Quang Ánh vẫn ca tụng chế độ đổi trắng thay đen là tự do!

Nguyễn Ðạt Thịnh


Nine-year-old gives birth in China

A nine-year-old girl has given birth to a 2.75kg baby in north-east China, reports say.

The baby was delivered by cesarean at a hospital in Changchun in Jilin province.

The City Evening News in China reports the girl's parents have sought legal advice.

Under Chinese law, sex with a girl under 14 years of age carries an automatic rape conviction.

Despite the girl's young age, and the potential for complications, it's been reported the mother and her new baby are in good health.

Another report from a Shanghai based hospital said 30 per cent of young girls who had surgical abortions were school students.

Source: http://au.news.yahoo.com/thewest/a/-/mp/6752539/nine-year-old-gives-birth-in-china/


Mừng xuân Canh Dần không quên Mậu Thân 1968

    Thảm sát ở Huế và Lương tâm Dân tộc chúng ta

Đoàn Thanh Liêm

Sắp sửa đến Tết Canh Dần 2010, bà con ta người gốc Huế lại phải chuẩn bị đốt nén nhang trước bàn thờ người trong thân tộc của mình đã bị thảm sát oan uổng dịp Tết Mậu Thân năm 1968. Các nạn nhân bị chết đau đớn, tức tưởi đó là cha mẹ, ông bà, cô dì, chú bác, cậu mợ cũng như anh chị em ruột thịt, cùng bà con khác trong dòng họ nội ngoại của mình. Người viết bài này gốc gác ở đất Bắc, nên không có một bà con thân tộc nào, cũng như bạn hữu thân thiết nào mà nằm trong danh sách các nạn nhân đó. Dầu vậy, tôi cũng xin được chia sẻ với nỗi đau đớn khôn nguôi của các gia đình nạn nhân trong dịp tưởng nhớ vào năm thứ 42 này (1968 – 2010).

Và bài viết này được viết ra, không hề để bày tỏ sự giận dữ hận thù nào của bản thân mình đối với các người đã gây ra bao nhiêu cái chết tức tưởi đau đớn nói trên. Mà dù là một luật gia, tôi cũng không muốn đặt vấn đề thảm sát này trong góc độ pháp lý, cụ thể như vận động tổ chức một phiên tòa xét xử tội ác này theo luật hình sự quốc tế, như đã có một vài người đã gợi ý từ it lâu nay, với lý do rằng: đây là một thứ tội chống nhân loại, tôi diệt chủng (crime against humanity, genocide), nên không thể để cho chìm xuồng với nguyên tắc “thời hiệu - tố quyền bị triệt tiêu” (statute of limitations). Bởi lý do thực tế là việc vận động như vậy sẽ rất khó có kết quả. Ngay cái phiên tòa để xử tội “diệt chủng của Khmer Đỏ ở Cambodia”, dù đã khởi sự từ mấy năm nay, thì cũng chưa thấy tiến triển ra làm sao cả.

Vậy thì đúng như tiêu đề của bài viết, đây là một “vấn đề Lương tâm” đặt ra cho toàn thể dân tộc Việt nam chúng ta. Nói cho rõ hơn, thì là cần phải tiến hành một cuộc “cật vấn lương tâm” (examen de conscience như người Pháp thường nói), để suy xét, tra vấn tận đáy lòng của mỗi người về cái “tội ác tày trời” trong vụ thảm sát đến trên 6,000 người dân vô tội hồi Tết Mậu Thân năm 1968 ở Huế đó.

A. Tóm lược nội vụ

Đã có quá nhiều sách báo viết về chuyện này, từ phiá các nhà báo, nhà nghiên cứu, cũng như những chứng từ cuả người trong gia đình các nạn nhân, cuả cơ quan nhà nước cuả Việt nam Cộng hoà, cuả người Mỹ thuộc đơn vị quân sự hay dân sự. Tất cả đều “chúng khẩu đồng từ”, đưa ra các số liệu chính xác về sự tàn bạo trong các vụ “giết người hàng loạt” do quân đội và cán bộ cộng sản gây ra trong thời gian 26 ngày chiếm đóng thành phố Huế vào dịp Tết đó. Xin chỉ ghi lại thật ngắn gọn như sau:

1. Thành phần đội quân cộng sản tiến đánh và chiếm giữ thành phố Huế gồm khoảng trên dưới 10,000 người với quân tại địa phương và bộ đội chính quy từ ngoài Bắc vào. Số cán bộ nòng cốt nằm vùng sẵn tại Huế được ước lượng vào khoảng 200 người.

2. Việc thanh toán các nạn nhân được tiến hành giai đoạn đầu ngay sau khi phe cộng sản chiếm giữ được thành phố, họ đã ra lệnh xử tử hình các nhân viên của Việt nam Cộng hòa theo danh sách “Sổ đen” đã lập sẵn. Có chừng vài ba trăm người bị thanh toán trong đợt này, ngay tại khu vực xung quanh nội thành của Huế.

3. Trong giai đoạn sau cùng, sau khi quân cộng sản phải rút lui khỏi thành phố, thì có đến nhiều ngàn người “bị giết tập thể” và được chôn vùi tại nhiều nơi hẻo lánh cách xa thành phố Huế đến 20-30 cây số. Xác các nạn nhân chỉ được tìm thấy sau nhiều tháng vào cuối năm 1968 hay năm 1969.

massacre1s4 - Tổng số người bị giết và mất tích là trên 6,000. Mà cho đến năm 1975, thì thân nhân mới chỉ nhận diện được cỡ 3,000 tử thi. Dĩ nhiên là có một số người bị thiệt mạng vì lý do chiến trận do bị bom đạn lạc. Nhưng đa số là do bị cán bộ cộng sản ra tay giết chết rất tàn ác dã man, cốt ý nhằm “để phi tang”, vì các cán bộ này đã bị lộ diện trong thời gian công khai ra mặt nắm giữ quyền sinh sát tại Huế.

B. Vấn đề quy trách nhiệm về cuộc thảm sát này.



Theo nguyên tắc “tội quy vu trưởng”, thì giới lãnh đạo chóp bu của đảng cộng sản ở Hanoi phải chịu trách nhiệm chính yếu về cuộc thảm sát này, bởi lý do là chính họ đã ra lệnh và chỉ huy toàn bộ chiến dịch “Tổng Tấn công và Tổng Nổi dậy” này. Người đứng đầu hồi đó là Tổng Bí thư Lê Duẫn, rồi phải kể đến Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Trung Ương Cục Miền Nam Phạm Hùng v.v…

Tiếp theo là trách nhiệm của Ban Chỉ huy chiến dịch tại địa phương, những người này đều do Hà nội trực tiếp sắp đặt, cắt cử. Hai cán bộ cao cấp phụ trách chỉ huy mặt trận ở Huế là Lê Chưởng và Lê Tư Minh.

Sau cùng là trách nhiệm của những cán bộ cộng sản “nằm vùng” sẵn tại địa phương. Họ có chừng vài trăm người, mà đã trực tiếp ra tay sát hại đồng bào mà cũng là đồng hương xứ Huế của chính họ. Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân, Tống Hoàng Nguyên, Nguyễn Đình Bảy Khiêm v.v… là những người nòng cốt đi săn lùng những nạn nhân để thanh toán.

Vụ việc thảm sát này quá trầm trọng, chắc chắn là giới lãnh đạo ở thượng tầng của đảng cộng sản ở Hà nội đã phải bàn bạc, thảo luận và đưa ra kết luận về nội vụ. Nhưng vì lý do chiến tranh vẫn tiếp diễn, cho nên họ không hề chính thức công bố về chuyện này. Mà cả cho đến nay, sau trên 40 năm, chưa bao giờ giới lãnh đạo cộng sản chịu lên tiếng “nhận trách nhiệm về vụ thảm sát này”. Do đó, ta cũng đừng mong rằng sẽ có người trong hàng ngũ lãnh đạo mà vì bị lương tâm dày vò, thôi thúc, nên sẽ tự nguyện đúng ra tiết lộ “bí mật của đảng cộng sản” liên hệ đến vụ thảm sát này.
Dầu vậy, đối với mấy trăm ngàn người dân tại Huế nói riêng, cũng như mấy chục triệu đồng bào ở Miền Nam Việt nam nói chung, thì cái tội ác tày trời này sẽ không bao giờ mà đảng cộng sản lại có thể xóa bỏ hết dấu tích đi được. Bởi vì rằng: “Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ“ đấy thôi!

Chúng ta đã có quá đày đủ chứng từ cuả các thân nhân có người nhà bị thảm sát, và cuả một số người may mắn thoát chết vì trốn thoát được trước khi bị thủ tiêu. Nhưng chúng ta chưa có được bao nhiêu chứng từ cuả những người đã tham dự, đã nhúng tay vào cuộc thảm sát này. Trong số trên 10,000 bộ đội, cán bộ, nhất là cán bộ điạ phương, thì ít nhất phải có đến 70% tức là cỡ 7,000 người lúc đó đang ở tuổi trên dưới 20. Đến nay vào năm 2010, thì số người này đã vào lưá tuổi 60 và đã giải ngũ hay về hưu cả rồi. Như vậy, số người mà còn sống sót của đội ngũ chiếm đóng Huế năm 1968 đó, thì hiện nay phải có cả đến hàng ngàn người. Mong rằng ta sẽ thâu thập thêm được chứng từ cuả chính các người “đã trực tiếp hay gián tiếp dính tay vào máu” đó, để có thêm được chứng cứ bổ túc vào hồ sơ cuả vụ thảm sát ghê rợn này.

C. Vấn đề Lương tâm cuả toàn thể Dân tộc chúng ta.

Như đã viết ở trên, tác giả bài viết này không nhằm đặt vấn đề trên phương diện pháp lý. Mà đây là vấn đề của lương tâm, của đạo lý làm người. Dân tộc Việt nam chúng ta vốn từ xa xưa đã có một truyền thống nhân đạo và nhân ái rất tốt đẹp vững chắc, con người luôn sống thuận thảo, hòa nhã với nhau trong các làng mạc, thôn ấp theo khuôn khổ đạo đức từ bi của tôn giáo, thông qua các vị tu sĩ, các bậc tôn trưởng, các vị sĩ phu quân tử trong mỗi một cộng đồng điạ phương. Ấy thế mà chỉ vì do cái “chủ trương cách mạng bạo lực sắt máu cuả đảng cộng sản du nhập từ nước ngoài vào”, cho nên đã xảy ra cuộc “anh em coi nhau như kẻ thù, để mà ra tay tàn sát không một chút xót thương đối với mấy ngàn thường dân vô tội” ở một thành phố nổi tiếng là một cố đô đã bao nhiêu năm trước. Đó quả thật là một điều khủng khiếp quá sức, đến độ lương tâm cuả bất kỳ người Việt nam nào mà lại không động lòng xót thương và ray rứt thắc mắc, dày vò trước sự thể “anh em một nhà mà thù hận, chém giết nhau quá man rợ” đến thế!.

Và cho đến nay, đã trên 40 năm sau khi sự việc thảm sát xảy ra, giới lãnh đạo cộng sản vẫn một mực ngoan cố, vẫn tìm mọi cách để giấu nhẹm và né tránh cái trách nhiệm cuả mình trong vụ phát động cuộc chém giết này. Thế thì toàn thể dân tộc chúng ta phải cùng hợp lại với nhau để mà “đồng lòng lên tiếng đòi hỏi đảng cộng sản phải công khai đứng ra nhìn nhận cái lỗi lầm, cái sai trái cuả mình trong cuộc thảm sát này”. Đồng thời họ cũng phải có “lời xin lỗi chân thành đối với vong linh cuả những nạn nhân đã bị họ ra tay tàn sát vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968 oan nghiệt” đó.

Nhân dân Việt nam chúng ta kiên quyết đòi hỏi giới lãnh đạo đảng cộng sản hiện nay ở Hanoi phải “làm điều tối thiểu là phải nhận cái tội lỗi tày trời đó”. Nhất quyết chúng ta không thể dung tha cho cái thái độ ngạo mạn, ngang ngược như thế này mãi mãi được nưã. Và chúng ta cũng tiếp tục lên án cái đảng và nhà nước cộng sản hiện vẫn đang tiếp tục sử dụng thủ đoạn côn đồ để hành hung các tu sĩ và tín đồ các tôn giáo tại các điạ phương, cụ thể như ở Đồng Chiêm, ở Cồn Dầu, ở Lâm Đồng, ở Cao nguyên Trung phần v.v…

Trong niềm tưởng nhớ và xót thương vô hạn đối với bao nhiêu nạn nhân vô tôi đã bị cán bộ cộng sản tàn sát cực kỳ dã man hồi Tết Mậu Thân năm 1968 tại cố đô Huế, chúng ta cùng hiệp nhau cất lên “tiếng nói lương tâm của tập thể Dân tộc Việt nam mình” để đòi hỏi đảng cộng sản phải hành xử thích đáng hầu chuộc lại được “cái tội lỗi Trời không dung, Đất không tha này”.

D. Kinh nghiệm cuả “Uỷ Ban Sự Thật và Hoà Giải” ở Nam Phi.

Sau khi chế độ Kỳ thị chủng tộc Apartheid chấm dứt ở Nam Phi, thì Tổng Thống Nelson Mandela đã phát động một chiến dịch nhằm hàn gắn những đổ vỡ, hận thù trong xã hội do sự tàn bạo độc ác cuả giời cầm quyền da trắng đã gây ra bao nhiêu tội ác khủng khiếp đối với đa số người da đen trong nước, bằng cách thiết lập “Uỷ Ban Sự Thật và Hoà Giải” nhằm công khai hoá những sự vi phạm về tự do và nhân phẩm, nhân quyền đối với người dân, để rồi tìm cách xoá bỏ loại trừ hết được những sự chia rẽ, hiềm khích thù hận trong nội bộ cuả đại gia đình dân tộc. Nhờ có chiến dịch này, mà Nam Phi đã tránh được các vụ đổ máu do những vụ ân oán trả thù lẫn nhau, giưã người da đen đa số hiện đang nắm giữ quyền bính và người da trắng thiểu số mà nay đã mất hết quyền hành để mà làm mưa làm gió, tác oai tác quái như thời còn chế độ Apartheid.

Uỷ Ban này cũng được thiết lập tại nhiều quốc gia khác nưã, cụ thể như ở Nam Hàn, ở Maroc, ở các nước Châu Mỹ La tinh v.v…
Thiết tưởng dân tộc Việt nam chúng ta cũng có thể rút kinh nghiệm cuả người tại Nam Phi và tại các nước khác, để tìm cách hàn gắn lại sự đổ vỡ hận thù đã do người cộng sản gây ra từ bao nhiêu năm nay vậy.

California, cuối năm Kỷ sửu 2010
Đoàn Thanh Liêm

Monday, February 1, 2010

NÔ LỆ XƯA VÀ NAY


    VẤN ĐỀ NÔ LỆ XƯA VÀ NAY
Nguyễn Quý Đại

Lịch sử nô lệ

Lịch sử về nô lệ có trước thời trung cổ, đầu tiên ở đảo Sizilien miền Nam Ý (136-132 trước Công nguyên) nô lệ trao đổi với Đế Quốc La Mã có các danh từ “Eunus, Antiochos“…. Những cuộc chiến đẩm máu trong lịch sử thế giới thường xảy ra. Phe chiến thắng chiếm đoạt tài sản và sinh mạng kẻ bại trận, kể cả đàn bà, trẻ em đều bị bắt làm nô lệ. Giới quý tộc bỏ tiền mua người nghèo về phục vụ. Cách đây hơn 100 năm ở Việt Nam những Điạ chủ giàu có, muốn bảo vệ gia trang, mua hay mướn những người Thượng phục vụ, gác nhà.

Tác phẩm Geschichte der Sklaverei/ History of Slave “Lịch sử nô lệ“ tác giả Sunsanne Everett mô tả cuộc đời người nô lệ thời Trung cổ, từ Á sang Âu đã có phong trào mua bán nô lệ, các dịch vụ chở nô lệ bằng tàu buồm hay áp giải vượt sa mạc Sahara. Trung Hoa có hàng triệu cô gái bị bán làm nô lệ.

Giáo chủ Hồi Giáo Mohammed (570-†632) cầm đầu giáo quyền năm 630 đánh chiếm Mecca. Những người chống đối (Do Thái giáo, Thiên chúa giáo) đều bị tiêu diệt, hàng ngàn đàn ông bị chém đầu, đàn bà bị bắt bán làm nô lệ! Trận chiến thành Troy, Hy lạp (Greeks) xua quân đánh chiếm thành Troy cuả Thổ Nhĩ Kỳ tiếp thu chiến lợi phẩm và bắt những người đẹp như: Briseis, Tecmessa và Chryseis.

Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey) từng có chợ nô lệ Sandal Bedesten, tiểu vương Mehmet xây cất từ năm 1461 tại Istanbul. Chợ nô lệ người Hoà Lan tổ chức ở New Amsterdam (ngày nay là New York). Những thương thuyền lớn người Anh, Bồ Đồ Nha, Tây Ban Nha mua người da đen, thổ dân ở Phi Châu (Neger) làm nô lệ, vì giống người nầy đời sống kém văn minh nhưng có sức mạnh.

Thị trường mua bán thời đó phần lớn ở Hoa Kỳ cần người làm việc tại các đồn điền, nông trại, trồng miá, hái bông vải, kéo xe, đào mỏ. Thương thuyền Âu Châu chở vũ khí, máy móc, rượu, hàng hoá biến chế rẻ tiền bán cho Phi Châu, và ngược lại mua “người“ từ Phi Châu bán cho Hoa Kỳ, và mua của Hoa Kỳ nguyên liệu hàng hóa, bông vải, đường, caffe …

Kiếp người nô lệ khổ đau, bị cưỡng ép lao động như trâu bò kéo cày, bị đánh đập, hành hạ, nếu chống lại chủ thì bị xiềng xích, đóng gông. Người bỏ tiền mua nô lệ dùng thỏi thép nung đỏ, đóng dấu trên lưng họ để nhận dạng nếu bỏ trốn.

Đức giáo Hoàng Greogor I (540-†604) đã từng kêu gọi Thế giới ngưng mua bán nô lệ, phải tôn trọng phẩm giá con người mà Thượng Đế đã tạo dựng, không phân biệt màu da sắc tộc dù Đức Giáo Hoàng kêu gọi nhưng chưa đánh động được lương tâm của thế giới vì con người đầy tham vọng và quyền lực. Từ Thế kỷ 16 đến Thế kỷ 18 hơn 15 triệu người Phi Châu bị bắt bán làm nô lệ, dù ông William Lloyd Garrion từng đứng lên đòi giải phóng cho người da đen. Hiệp Hội chống lại chế độ nô lệ “Anti Slavery Society“ trên báo (The Genius of Universal Emancipation) đấu tranh giải phóng nô lệ.

Thế Kỷ thứ 18 đế quốc Anh chiến thắng Tây Ban Nha, Hiệp Ước Asiento năm 1713 Anh Quốc độc quyền mua bán nô lệ, mỗi năm 5,000 người ở Trung và Bắc Mỹ là các nước thuộc điạ của Tây Ban Nha.

Chấm dứt nô lệ ở Âu Châu

Trải qua những biến đổi lịch sử từ 01.01.1807 Anh Quốc cấm mua bán nô lệ, nếu thương thuyền vi phạm bị phạt tiền vạ 100 Bảng Anh và bỏ tù. Đại Hội Quốc Tế ở Wien / Vienna 1815 (Áo) các quốc gia phải bỏ chế độ nô lệ: Bồ Đồ Nha / Portugal năm 1817, Pháp và Hòa lan năm 1818. Ba Tây / Brasilien 1826 được độc lập và chấm dứt nô lệ. Ở Âu Châu năm 1820 việc buôn bán nô lệ cáo chung. Hiến pháp Đức ghi đìều 1 đoạn 1 “nhân phẩm con người bất khả xâm phạm“. Chỉ còn ở Hoa Kỳ kéo dài một thời gian, nội chiến Hoa Kỳ máu của những người nô lệ đổ nhiều và từ đó chế độ nô lệ cũng được giải phóng ở nhiều tiểu bang.

Năm 1860 Abraham Lincoln (1809 -†1865), được bầu làm Tổng Thống thứ 16 Hoa Kỳ, từ năm 1862 người nô lệ được giải phóng ở các thành phố phiá Đông, đến năm 1867 theo điều 13 Hiến Pháp Hoa Kỳ từ ngày 18.12.1865 chấm đứt chế độ nô lệ. Tổng thống Lincoln từng nói: “Vì không muốn làm một kẻ nô lệ nên tôi cũng sẽ không làm chủ nô lệ. Điều này diễn đạt ý tưởng của tôi về Dân Chủ. Bất cứ điều gì khác hơn thế, dù khác ít hay khác nhiều, đều chẳng phải là dân chủ”. Lần đầu tại New Orleans người nô lệ được tham gia bỏ phiếu. Năm 1965 mục sư Tin lành Martin Luther King (1929 -†1968) người nhận giải Nobel hòa bình năm 1964. tiếp tục đấu tranh cho sự bình đẳng của người da đen ở các tiểu bang Montgomery, Alabana …

Thời đại văn minh tiến bộ, chế độ nô lệ không còn phổ biến như xưa, Quyền lực không còn là phương tiện tuyệt đối bắt người làm nô lệ, nhưng thế lực đồng tiền vẫn là phương tiện vô biên cho đến nay. Dựa trên một số tài liệu, thì việc buôn người là một kỷ nghệ trị giá lên đến 40 tỷ đô la? Chợ nô lệ được trá hình dưới nhiều hình thức khác nhau, bọn gian thương khai thác triệt để, là món hàng không vốn, đắc giá nhất bởi vậy nạn buôn người và nô lệ vẫn tồn tại ở thế kỷ thứ 21.

Công Ước Genève ngày 25.09.1926 về việc ngăn cấm, phòng ngừa và trừng phạt mọi hình thức mua bán nô lệ. Từ trước đến nay thế giới đã có hàng chục Công ước, Hiệp định bổ túc cấm nạn mua bán, khai thác nô lệ trong các lãnh vực cưỡng bức trẻ em lao động, mại dâm vv… Thời đệ nhị thế chiến, quân đội Nhật Bản đã bắt đàn bà Đại Hàn làm nô lệ sinh lý. Mặc dù chính phủ Nhật đã xin lỗi Đại Hàn, nhưng vết mực đen đau thương cho thân phận đàn bà Đại Hàn còn sống sót khó có thể phôi pha.

Theo tổ chức Quốc Tế Di Dân trụ sở tại Genève cho biết hàng năm có khoảng từ 250.000 đến 300.000 trẻ em đàn bà từ khối Sô Viết bị bán qua các nước Tây Âu. Quỹ Bảo Trợ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) tổng kết hàng năm trên thế giới đến 2 triệu trẻ em bị mua bán về tình dục, riêng các nước Á Châu (Campuchia, Lào, Miến Điện, Thái lan và Việt Nam) người Việt chiếm một phân nửa? buôn bán phụ nữ, trẻ em để phục vụ cho ngành mại dâm dưới nhiều hình thức khác nhau. Nếu muốn hạn chế, kiểm soát chặt chẻ ngăn chận buôn bán người, phải cần sự hợp tác của nhiều quốc gia trên thế giới.

Nô lệ mới

Việt Nam trải qua nhiều khổ đau vì chiến tranh tàn phá. Năm 1945 gần triệu người miền Bắc chết đói, nhưng không có người Việt nào rời bỏ quê hương. Năm 1975 người ta vui mừng thống nhất đất nước, chấm dứt chiến tranh đem lại thanh bình cho dân tộc. Niềm vui chưa trọn hàng trăm ngàn quan chức chế độ VNCH bị bắt tập trung cải tạo, những năm dài trên cao nguyên núi rừng từ Nam ra Bắc, đời sống trong các trại cải tạo đọa đày giống như người dưới thời nô lệ! Những tù nhân chính trị may mắn còn sống, từ năm 1990 được chính phủ Hoa Kỳ nhận qua chương trình H.O. (Humanitarian Operations), “tù nhân nô lệ” được giải phóng. Tổng Thống Lyndon Bainer Johnson (1908-†1973) năm 1965 nhắc lại thời kỳ còn nô lệ ở Hoa Kỳ “tự do chưa đủ vết thương nô lệ từ trăm năm qua chưa thể lành được“

Hòa bình hơn 3 thập niên, tưởng đất nước yên vui “đổi mới“ kinh tế phát triển thì xã hội phải văn minh, tốt đẹp hơn, nhưng nhìn lại thân phận đàn bà Việt Nam trở thành món hàng giải trí rẻ tiền cho thiên hạ. Dù với hình thức kết hôn, nhưng thực tế đàn bà VN bị bán cho những đàn ông ngoại quốc dốt nát, ít học, bệnh hoạn nhiều bài báo đã viết về trường hợp nầy. Những đàn ông ở xứ họ không thể tìm ra vợ hoặc muốn tìm người giúp việc nên họ để dành tiền, vàng sang Việt Nam tìm đàn bà. Xã hội Trung Hoa còn ảnh hưởng phong kiến trọng Nam hơn Nữ, sinh con gái họ đã vứt ra đường như con vật chả ai để ý tới (tuần báo Stern của Đức đã lên án và chụp hình hài nhi là con gái bị bỏ bên đường), gây ra nạn trai thừa gái thiếu, nên họ đổ xô đi tìm vợ VN

Thận phận đàn bà Việt Nam

Trường hợp rao bán phụ nữ Việt Nam trên Internet của ebay Taiwan gây dư luận về việc buôn người bất hợp pháp vi phạm nhân quyền, phẩm giá phụ nữ Việt Nam bị tổn thương. Tin này gây dư luận ở Đài Loan. Các Hội Nữ Quyền ở Mỹ, Úc và người Việt Nam tỵ nạn đều phản đối, nhưng Hội Phụ Nữ Việt Nam ở quốc nội vẫn im lặng?

Gia đình và xã Hội

Sài Gòn hiện nay là thành phố đông dân hơn 8 triệu người. Dù số thống kê chưa chính xác, nhưng người ta ước tính trong số 8 triệu người Sài Gòn có hơn 1 triệu người từ các vùng quê nghèo đến Sài Gòn mưu sinh. Trong số dân nhập cư này, đa phần là phụ nữ, họ vào Sài Gòn với giấc mơ đổi đời, nhiều người mưu sinh bằng những việc lương thiện, đánh đổi mồ hôi để kiếm ăn hàng ngày, cũng nhiều người bị đưa đẩy vào đường tội lỗi. Những tệ hại và khốn nạn với dịch vụ “chợ buôn người“ dưới dạng “lấy chồng ngoại quốc“. Ở Singapore mấy thiếu nữ Việt Nam ngồi trong những phòng kính để khách qua lại lựa chọn như một món hàng ở khu thương mãi.

Thân phận gái quê lên thành phố cũng nhiều đắng cay, vì nhẹ dạ bị dụ dỗ bán qua biên giới Trung Hoa, Campuchia, Lào, Thái để làm việc. Nhưng thực tế phần lớn họ bị lừa, buộc nạn nhân phải làm việc trong các động mại dâm. Đời sống lặng lẽ như những chiếc bóng, những chiếc bóng chờ một ngày trôi qua khi màn đêm buông xuống ra đường sống kiếp phù du…

Hơn 100 ngàn phụ nữ Việt nam làm dâu xứ người, có bao nhiêu người hạnh phúc? ngôn ngữ phong tục là bức tường ngăn cách! nhiều cô bị bỏ đói, đánh đập, phục vụ sinh lý cho cả gia đình, sống bơ vơ xứ người phải bán mình như nàng Kiều! làm việc nhà từ sáng đến tối như người nô lệ. Chúng ta phải chạnh lòng và tủi nhục cho thân phận đàn bà Việt Nam xấu số, mời theo dõi phóng sự tại Đài loan:


http://www.youtube.com/watch?v=dV94AMrlA5w&feature=related


http://www.youtube.com/watch?v=Cs3J8WNKdOg

Một số phụ nữ Việt lấy chồng Hàn Quốc đã tự tử, hoặc bị đánh tới chết mà nhiều vụ được kể trên báo chí đã gây xúc động cho dư luận mấy năm qua. Theo một bản tin của báo Anh ngữ Korea Herald ngày 23 tháng 12 năm 2009, chỉ kể từ tháng 11, 2006 là thời gian cơ quan này được thành lập cho đến hết tháng 10, 2009 tin trên tường thuật, 40.4% các người gọi cầu cứu là phụ nữ Việt Nam (28,417 lần gọi). Các quốc gia trên thế giới xuất cảng máy móc, hàng hoá. Sau năm 1975 nhà cầm quyền Việt nam “xuất khẩu lao động“ sang các nước thuộc khối Xã Hội Chủ Nghiã Đông Âu để trả nợ chiến tranh. Nhưng chủ trương đó đến nay không ngừng mà còn tiếp tục xuất cảng người ra các vùng Đông Nam Á như Đại Hàn, Mã Lai, Nhật Bản, Singapore, Hồng kông, Nam Dương và cả các nước Á Rập.

Việt nam với tài nguyên giàu có “rừng vàng bể bạc“, không thiếu nhân tài, giới trẻ góp sức phát triển xây dựng một nước hùng mạnh, phú cường, không thua gì Nhật hay Đại Hàn, nhưng tiếc thay nhà nước không chú trọng đến việc khai thác nhân tài. Người Việt phải đi lao động xứ người thật khổ, làm những việc mà người bản xứ chê, bị kỳ thị, cô lập, đánh đập, trường hợp một số người lao động tại Mã Lai gặp khó khăn, không rành ngoại ngữ, họ lảnh lương không đúng hợp đồng, lý do là phía Việt Nam xuất khẩu lao động chỉ tìm cách đưa nhiều người sang để kiếm tiền, mà không chú ý tới các điều kiện lao động Theo Cục quản lý Lao động ngoài nước của CSVN, hiện có hơn 500 ngàn người Việt đang lao động tại hơn 30 quốc gia trên thế giới. Ở một số nước mới có người Việt lao động bắt đầu từ năm 2005 như Đài Loan, Nhật Bản, Đại Hàn và Mã Lai thì ngoại tệ chủ yếu tập trung chuyển về những khu vực nông thôn. Đây là những thị trường “xuất cảng lao động” lớn của VN. Năm 2010 sẽ có đến 85.000 người chính thức đi lao động. Tâm sự của một công nhân làm việc ở Malaysia:

“Do là các công ty của mình ở nhà, cứ đưa đẩy người sang để mà lấy phần trăm, cứ đưa người sang ào ào nhưng công việc lại chẳng đâu vào đâu cả. Bức tranh lộn xộn về lao động xuất khẩu Việt Nam, không chỉ tại Malaysia mà còn ở nhiều nước khác, cho thấy sự phối hợp và quản lý của các cơ quan chủ quản là rất yếu, nếu không muốn nói tới tình trạng đem con bỏ chợ. Thế cho nên những người lao động Việt Nam, vỡ mộng làm giàu nơi xứ người, giờ đây không biết bấu víu vào đâu … „

Ngoại tệ chuyển về VN hàng năm tăng liên tục và tăng rõ rệt trong 10 năm qua. Năm 2000 được 1 tỷ USD, năm 2001 tăng lên 1.5 tỷ USD, năm 2002 lên hơn 2 tỷ USD, năm 2003 2.6 tỷ USD, năm 2004 3.8 tỷ USD, năm 2005 lên gần 4 tỷ USD, năm 2006 nhảy vọt lên 5.2 tỷ USD, năm 2007 lên trên 6 tỷ USD và năm 2008 đạt kỷ lục 7.2 tỷ USD. cuối tháng 12 năm 2009 lượng kiều hối chuyển về VN chỉ được 6.283 tỉ USD, giảm 12,8% so với năm 2008.

Nhìn lại 19 năm qua, từ khi những đồng tiền đầu tiên của Việt kiều được gửi về VN qua đường chính thức kể từ năm 1991, đến nay con số này đã vượt quá 30 tỷ USD chiếm hơn 70% số vốn Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài (FDI – Foreign Direct Investment) tính từ năm 1988 và cao gấp rưỡi nguồn vốn Viện Trợ Phát Triển Kinh Tế (ODA – Official Development Assistance) được giải ngân từ năm 1993. (Năm hết Tết đến tính sổ kiều hối với CSVN – Trần Việt Trình)

Đời sống Việt nam ngày nay đua theo vật chất, nguời có quyền lực thì giàu sang, các đại gia, công tử tiền tiêu không hết thành phố Hà Nội, Saigon không thiếu các loại xe đắt giá nhất thế giới như: Rolls Royce, Mercedes, BMW… người nghèo thì nghèo tận cùng xã hội, nghèo rớt mồng tơi! Thế hệ trẻ không nhìn thấy tương lại, nhiều gia đình muốn con mình ra nước ngoài làm việc, mong thu nhập cao hơn để giúp gia đình theo kinh tế thị trường. Bọn buôn người nhờ thế lực bao che, tổ chức đưa người ra nước ngoài.

Tại các nước Đông Âu (trước kia thuộc khối xã hội chủ nghiã) đã từ bỏ thiên đường cộng sản, nhưng lề lối làm việc còn ảnh hưởng dưới thời cộng sản, kẻ hở luật pháp chưa được tôn trọng, nhiều đường giây buôn người. Nhiều người ở quê nhà tưởng sang xứ người dễ làm giàu, nhờ bản tính cần mẫn siêng năng! bán tài sản ruộng vườn để đủ tiền nợp cho các dịch vụ ra nước ngoài làm việc, đến Nga và từ đó sang Ba lan, Tiệp Khắc hy vọng tìm đời sống như ước mơ. Đến nơi những gì hưá hẹn trở thành hư ảo, đứng trước hoàn cảnh nan giải tiến thối lưỡng nan, bị đem con bỏ chợ “hết xôi rồi việc“ tiền đã bỏ tuí bọn buôn người lẫn trốn. Nhiều người bơ vơ không giấy tờ hợp pháp phải sống chui rúc làm đủ các thứ việc, đồng lương bị bóc lột, trở thành nô lệ kêu trời không thấu. Mùa đông ở Âu Châu giá lạnh nhưng ở cảng Calais các khu rừng Téteghem, Grande Synthe, Angres bên Pháp có nhiều người Việt Nam sống bất hợp pháp chịu cảnh đói khổ mong tìm một nơi nương tựa có việc làm gởi tiền về trả nợ bên quê nhà ….

Theo loạt bài phóng sự “người rừng“ của ông Huỳnh Tân đăng trang
http://thongtinberlin.de/diendan/latnguaconbai,authuanvietnam.htm. Mùa đông năm nay khá lạnh đôi khi nhiệt độ -20 độ C. Chúng ta phải thông cảm nỗi khổ của những người lẫn trốn trong rừng vì đói lạnh, thiếu vệ sinh lo sợ bị ức hiếp. Họ là nạn nhân bị các tổ chức buôn người hứa hẹn tìm kiếm công ăn việc làm, với lương cao 5000€ hàng tháng, (chú thích: tiền lương nầy chỉ những người tốt nghiệp đại học làm lâu năm chưa trừ thuế, lao động VN không rành ngôn ngữ, không nghề nghiệp không có giấy phép làm việc, nếu người ta thuê làm lậu thuế tốt bụng lắm họ trả tối đa 5€ một giờ). Những người sống ở các khu rừng biên giới Pháp, chờ cơ hội để nhảy xe tải sang Anh tìm việc! Sau cơn khủng hoảng kinh tế không riêng gì ở Anh mà các quốc gia khác cũng không tránh được nạn thất nghiệp gia tăng. Nếu may mắn vào được nước Anh không phải dễ tìm được việc làm hợp pháp! Tương lai là những ngày dài đen tối, tâm sự của “người rừng“ được gởi gắm qua những dòng thơ buồn man mác, đọc hết bài thơ dài tôi không thể cầm được nước mắt:

    ………………….
    Anh ra đi gánh nợ em mang
    Lúc chia tay anh qúa vội vàng
    Không cùng em tâm sự lời sau trước
    Và nơi đây anh sống xa đất nước
    Nỡ lòng nào không thương vợ nhớ con
    Muốn quay về nhưng cách trở núi non
    Đường xa lắm em ơi xa ngàn dặm ………
    Thơ trích từ: “Người Việt chui lủi giữa rừng nước Pháp”cuả Nhà báo Võ Trung Dung tại Paris.


Họ là nạn nhân có thể chết đói, chết lạnh giữa xã hội văn minh dư thừa vật chất!

Người Việt ở Campuchia

Nội chiến Kampuchia năm 1975, Khmer đỏ do Pol Pot lãnh đạo (thân Trung Quốc) chiến thắng, giết hàng triệu người vô tội phơi xương trắng ruộng đồng. Năm 1979 chính quyến CSVN đưa quân đội giúp Heng Samrin chống lại Pol Pot & đóng quân cho đến 1989. Trong thời gian trên nhiều người Việt được sự bảo trợ của quân đội sang lập nghiệp, tại Phnom Penh và các thành phố, làng mạc khác. Ngày nay nhiều du khách Tây Phương đến thăm Angkor kỳ quan thế giới tráng lệ. Xứ Chùa Tháp nhưng đời sống hổn độn, đạo đức suy đồi, ở đâu cũng có quán bia ôm, những động mại dâm ở Svay Pak là những em gái vị thành niên phần lớn người Việt Nam đến từ các tỉnh phiá nam. Tệ nạn mại dâm do tổ chức buôn người về vùng quê Việt Nam dụ dỗ con gái nhà nghèo sang Campuchia làm việc có nhiều tiền hơn, đến nơi bị bán trinh cho người Tàu và buộc làm việc tiếp khách mua vui, công việc kinh tởm, không đạo đức vi phạm nhân quyền. Trường hợp cô Sina Vann tên thật là Nguyễn Thị Bích, quê ở Cần Thơ. Năm mười ba tuổi, Nguyễn Thị Bích bị một bà hàng xóm gạt dẫn sang Kampuchia, bán vào động mãi dâm. Cô được tổ chức Somaly Mam Foundation cứu thoát. Tháng Mười năm 2009, Sina Vann đến Hoa Kỳ để nhận giải thưởng Frederick Douglas vì nổ lực tự phục hồi bản thân và quyết tâm chống nạn buôn người mà cô từng là nạn nhân.

Đần năm 2010 hãng AAP (Australian Assciated Press) cho biết tổ chức The Grey Mann trụ sở ở Brisbane đã cứu thoát được 2 em bé Việt Nam bị bắt làm nô lệ tình dục, không biết còn bao nhiêu trẻ em đang phải sống kiếp người nô lệ của điạ ngục trần gian. Chúng ta nếu có dịp trở về thăm Singapore, Indonesia, Malaysia phải chạnh lòng ngao ngán thấy những cô gái Việt Nam trẻ đẹp ăn mặc hở hang đứng đường làm nghề buôn hương bán phấn. Họ đến đây trong những hoàn cảnh khác nhau, tìm chồng ngoại quốc vì hoàn cảnh gia đình nhiều cô tuổi vị thành niên bị bọn buôn người lừa dối, hứa hẹn giúp cho đi học nghề, nhưng thật ra đến nơi bị khống chế bởi bọn má mì và du đảng ép buộc làm nghề “đi khách“.

Nhìn lại lịch sử Việt nam qua các Triều đại các đấng nữ nhi như hai chị em Bà Trưng bà Triệu, Cô Giang, Cô Bắc đã làm vang danh lịch sử giống nòi. Ngày nay đàn bà Việt Nam phải bán thân khắp nơi làm nô lệ! Trẻ thơ Việt Nam bị đọa đày, ai là người quan tâm khi đang còn mãi mê, sa đoạ, vơ vét cho đầy túi tham hãy thức tỉnh nhân tâm giải phóng cho tuổi thơ Việt Nam! chấm dứt vi phạm nhân quyền cựu Tổng thống George.W. Bush đã tuyên bố:

“Chúng ta phải chứng tỏ sức mạnh mới trong việc chống lại một tệ nạn cũ. Gần 2 thế kỷ sau khi dẹp bỏ nạn mua bán nô lệ, và hơn một thế kỷ sau khi chế độ nô lệ bị chính thức khai tử ở các cứ địa cuối cùng của nó, không thể để cho nạn mua bán người vì bất cứ mục đích nào nẩy nở trong thời đại của chúng ta”.

Là người Việt ở khắp nơi trên thế giới cũng như trong nước, chúng ta phải làm gì cho một dân tộc sớm thoát khỏi cảnh nghèo đói lạc hậu? chấm dứt trình trạng buôn người “nô lệ”.
Năm mới Canh Dần hy vọng ánh sáng đến đẩy lui bóng tối đang bao phủ quê hương nước Việt.

Nguyễn Quý Đại
Tài liệu tham khảo
Geschicthte der Sklaverei tác giả Susanne Evertt NxB Becchtermünz
Hình đời nô lệ trên Internet



Lời kêu gọi tọa kháng của cô Phạm Thanh Nghiên



Âm thanh lời kêu gọi của cô Phạm


Trong suốt chiều dài lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, hàng hàng lớp lớp các thế hệ tiền nhân cống hiến cuộc đời, mạng sống của mình cho sự nghiệp cứu nước và dựng nước. Giải giang sơn gấm vóc mà chúng ta có được ngày hôm nay đã nhuộm thắm mồ hôi, xương máu của biết bao công dân Việt Nam đầy lòng ái quốc. Trong trách nhiệm của một con dân Việt Nam, trong sự biết ơn và trân quý những hy sinh xương máu của tổ tiên, tôi tự cho mình có bổn phận phải tiếp nối truyền thống bảo vệ và gìn giữ đất nước. Sự gìn giữ và bảo vệ không chỉ đơn thuần ở từng mét vuông lãnh thổ mà còn là danh dự và niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Sự gìn giữ và bảo vệ này nằm trong tinh thần Tổ Quốc trên hết, đứng trên mọi bất đồng về ý thức hệ, chính kiến, tổ chức và đảng phái. Cách đây đúng 50 năm, vào ngày 14 tháng 9 năm 1958, ông Phạm Văn Đồng đã đại diện đảng Cộng sản Việt Nam ký bản công hàm chấp nhận và tán thành bản Tuyên bố của đảng Cộng sản Trung Quốc về bề rộng lãnh hải của Trung Quốc trong đó bao gồm các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vốn tự nghìn đời thuộc vào lãnh thổ Việt Nam. Đây là một hành động cúi đầu bán nước của đảng cầm quyền CSVN đối với ngoại bang, chưa kể là ông cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng vào thời điểm đó không có thẩm quyền ấy, vì 2 đảo Trường Sa và Hoàng Sa lúc ấy thuộc về quyền trách nhiệm sở hữu của miền Nam Việt Nam Cộng Hòa. Nhân dân Việt Nam chưa bao giờ và sẽ không bao giờ chấp nhận sự dâng hiến này của đảng CSVN. Hoàng Sa và Trường Sa muôn đời vẫn là lãnh thổ của Việt Nam.

50 năm trôi qua, mối nhục mất đất mất biển lại bị tiếp nối bởi nhiều sự dâng hiến khác, vì quyền lợi riêng tư, của thiểu số cầm quyền. Điển hình là Hiệp định về biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung quốc vào ngày 30-12-1999 và Hiệp định phân định lãnh hải Việt Nam-Trung quốc ngày 25-12-2000. 789 cây số vuông dọc biên giới Trung Việt, trong đó có thác Bản Giốc và Ải Nam Quan cùng một phần lãnh hải của dân tộc, lại bị dâng hiến cho ngoại bang. Thêm một lần nữa, độc lập của Việt Nam lại bị xâm phạm, danh dự của dân tộc Việt Nam lại bị chà đạp. Trong khi đó, mọi tiếng nói, hành động bày tỏ quan điểm của công dân Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, mọi thái độ thể hiện lòng yêu nước và bảo vệ sự vẹn toàn của lãnh thổ cha ông của người dân đã bị thẳng tay đàn áp, bắt bớ hoặc giam cầm.

50 năm trôi qua nhưng chúng ta không thể quên. Vì một phần thân thể của đất mẹ vẫn còn bị cắt đứt. Chúng ta không thể cúi đầu. Vì danh dự và tự hào dân tộc vẫn là một vết nhục chưa được xóa nhòa. Chúng ta không thể im lặng. Vì im lặng là đồng ý với hành động bán nước. Chúng ta không thể buông xuôi. Vì mọi sự thờ ơ và buông xuôi sẽ dẫn đến những hành động bán nước tiếp diễn trong tương lai. Chúng ta, không những phải nỗ lực lấy lại những gì đã mất, mà còn phải ngăn chận những gì sẽ mất trong tương lai. Một người, chúng ta sẽ không thành công. Một ngày, một tháng, một năm là quá ngắn để đạt được mục đích. Nhưng với nhiều công dân Việt Nam, bằng trách nhiệm, lương tâm và lòng yêu nước, bằng chiều dài cuộc sống của chúng ta, chúng ta sẽ thành công trong việc tiếp nối sự nghiệp cứu nước và giữ nước của tiền nhân.

Trong sự ý thức về trách nhiệm của một công dân Việt Nam, trong tinh thần Tổ Quốc trên hết, tôi quyết định sẽ tọa kháng ngay trước nhà của tôi khởi từ ngày 14 tháng 9 năm 2008 trở đi để phản đối hành động bán nước, dâng hiến Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc cách đây 50 năm. Lý do tôi phải chọn hình thức đấu tranh này là vì tôi đã từng nộp đơn xin phép nhà nước để được biểu tình, để được làm theo đúng pháp luật quy định của nhà nước, hầu không bị công an vô cớ đàn áp và vu khống như những lần tham dự biểu tình trước, nhưng đơn xin phép của tôi cũng đã bị bác bỏ, và bản thân tôi lại bị hành hung. Tôi khiếu tố và đơn khiếu tố ấy cũng bị tòa từ chối không giải quyết. Tôi không còn lựa chọn nào khác trừ phương thức đấu tranh tọa kháng ngay tại nhà tôi để thể hiện quyền bày tỏ thái độ của tôi, một quyền mà chính hiến pháp nhà nước trong điều khoản 69 cũng đã ghi rõ. Và lần này, nếu nhà nước đàn áp, sách nhiễu hay xử dụng bạo lực với tôi, hay thậm chí án tù với tôi, thì ít ra tôi cũng đã thể hiện qua chính sự an nguy của tôi cho cả thế giới được biết sự thật của đất nước này là không hề có tự do ngôn luận, cho dù là ngay tại chính nhà mình sở hữu.

Tôi cũng tọa kháng để phản đối mọi hành động khiếp nhược của nhà nước này trước ngoại bang phương bắc nhưng lại hung hãn đàn áp mọi tiếng nói, mọi thái độ bày tỏ lòng yêu nước của công dân Việt Nam. Đây chỉ là một việc làm nhỏ bé mà cá nhân tôi có thể làm được trong lúc này. Nhưng dù là một hành động nhỏ bé, nhưng với tinh thần đất nước là của chung, tôi xin kính khẩn kêu gọi mọi tầng lớp công dân Việt Nam, quý bác, quý chú đã từng hy sinh cuộc đời của mình cho nền độc lập của đất nước, các anh chị và các bạn trẻ đang mong ước đất nước Việt Nam sẽ ngẩng cao đầu với cộng đồng nhân loại, hãy cùng với tôi bày tỏ thái độ và lòng yêu nước của mình ngay tại chính nhà của quý vị, bất cứ ngày nào khởi từ ngày 14 tháng 9 này trở đi, nếu như quý vị cũng như chúng tôi bị ngăn cấm, không thể đến được nơi biểu tình ở Hà Nội vào 14/09 trước sứ quán Trung Quốc.

Mục đích duy nhất của hành động tọa kháng của tôi là bày tỏ lòng yêu nước và nhắc nhở cho chính tôi và đồng bào của tôi về mối nhục mất đất, mất biển và tôi mong mỏi được sự hỗ trợ và đồng thuận của nhiều người qua những hành động cụ thể. Nếu tôi bị bắt giam thì chắc chắn "tội" của tôi và đó là là tội duy nhất của tôi, là đã dám công khai bày tỏ lòng yêu nước của mình. Và nếu vì yêu nước mà bị giam cầm thì tôi rất sẵn sàng và hãnh diện đón nhận bản án tù ấy bất cứ lúc nào. Và nếu như tôi bị bắt giam trước khi tôi có cơ hội toạ kháng tại nhà như ước muốn, thì tôi sẽ tọa kháng phản đối trong nhà tù. Đối với tôi những khó khăn này rất là nhỏ bé so với những hy sinh của các bậc tiền nhân, của các vị cha chú đi trước tôi đã trải qua trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.

Kính mong,

Ngày 13 tháng 09 năm 2008
Công dân Phạm Thanh Nghiên
17 Phường Lưu 2, Phường Đông Hải, Quận Hải An, Hải Phòng