Thursday, January 28, 2010

“Người Mỹ đã phản bội chúng tôi” - Vô Thường



Vô Thường, lược dịch


Vào tháng 12 năm 1979, trong dịp được Tuần báo Đức Der Spiegel phỏng vấn, cựu Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đã phản bác về những liên quan đến chiến tranh Việt Nam trong tập hồi ký của cựu Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Henry Kissinger.

ooOoo

Spiegel: Thưa ông Thiệu, trong suốt 5 năm từ 1968 đến 1973, Hoa Kỳ đã nổ lực đàm phán hòa bình cho Việt Nam. Là Trưởng đàm phán của Mỹ, Henry Kissinger đã mô tả chi tiết trong hồi ký của mình về ông, với tư cách là Tổng thống Nam Việt Nam, đã phá hoại những nỗ lực của ông ta như thế nào nhằm mang hòa bình cho cuộc chiến kéo dài nhiều năm, tổn thất hàng triệu nhân mạng và như muốn “bóp nát trái tim Hoa Kỳ” như lời của Kissinger nói. Tại sao ông lại cản trở như vậy?

Ông Thiệu: Điều đó hoàn toàn vô lý. Nếu như tôi ngăn cản thì đã không thể có chuyện dàn xếp hòa bình trong năm 1973. Tuy nhiên, như mọi người đã biết, đó không phải là một nền hòa bình tốt đẹp khi chứng kiến những hậu quả xảy ra tại Việt Nam. Kissinger đại diện cho chính sách và lợi ích của Chính phủ Hoa Kỳ. Với tư cách là Tổng thống Việt Nam, tôi có nhiệm vụ bảo vệ những lợi ích sống còn của đất nước tôi.

Tôi đã nhiều lần chỉ ra cho Tổng thống Nixon và Tiến sĩ Kissinger rằng giũ bỏ vài vị thế không mấy quan trọng tại một quốc gia nhỏ bé như Việt Nam có thể không có nhiều ý nghĩa đối với một cường quốc như Hoa Kỳ, nhưng đối với chúng tôi đó là vấn để giữa sự sống và cái chết của toàn bộ một đất nước.

Spiegel: Kissinger không phủ nhận rằng cuối cùng ông cũng đã đồng ý dàn xếp hòa bình. Nhưng ông ta nói lý do chính khiến phải mất nhiều thời gian vì ông đã cản trở quyết liệt và lý do thực chất ông không bao giờ phản đối các đề xuất của Mỹ vì ông tính toán rằng tất cả những đề xuất đó sẽ bị Hà Nội bác bỏ.

Ông Thiệu: Không đúng như vậy. Chỉ mất thêm hơn 2 hoặc 3 ngày hay 2 hoặc 3 tháng để chấm dứt cuộc chiến đã diễn ra gần 30 năm. Tôi nhận ra cuôc chiến này là cuộc chiến dài nhất trong lịch sử của Hoa Kỳ, trong đó họ là người đã viện trợ cho chúng tôi. Có thể vì vậy mà người Mỹ tỏ ra vội vàng như thế. Tuy nhiên, chúng tôi cần một nền hòa bình vững chắc.

Spiegel: Kissinger ám chỉ rằng ông không thật sự muốn có một giàn xếp hòa bình và hy vọng Bắc Việt cũng sẽ ngoan cố giống như ông. Vì vậy, ông ấy quả quyết dù ông đã đồng ý nhiều đề xuất của phía Mỹ nhưng không bao giờ muốn phải tuân thủ những đề xuất đó, vì trong bất cứ trường hợp nào ông không tin là thỏa thuận sẽ đạt được. Ông có lừa bịp trong đàm phán với hy vọng ông sẽ không bao giờ phải nói rõ hết ý định của mình?

Ông Thiệu: Không. Một quốc gia phải chịu đựng nhiều như thế trong suốt hơn 30 năm không thể nào bị kết tội là muốn kéo dài cuộc chiến. Kissinger muốn tiến hành nhanh để lính Mỹ có thể rút quân và tù binh Mỹ được phóng thích. Và có thể vì Chính phủ Mỹ muốn vội vã thoát ra, “cắt và chạy”.

Họ có thể thoát khỏi cuộc chiến. Chúng tôi phải ở lại Nam Việt Nam. Chúng tôi có đủ mọi quyền để đòi hỏi một sự giàn xếp hòa bình toàn diện, không phải chỉ là một nền hòa bình trong 2 hoặc 3 năm rồi sau đó lại thêm một cuộc chiến 30 năm khác.

Spiegel: Vậy tại sao ông dự tính trước Hoa Kỳ theo như Kissinger báo cáo, bằng việc tự mình đề xuất Hoa Kỳ rút quân tại cuộc họp ở Midway tại Thái Bình Dương vào tháng 6 năm 1969?

Ông Thiệu: Thậm chí trước cuộc họp ở Midway, việc Hoa Kỳ có ý định rút quân là không có gì bí mật. Tôi muốn nhắc cho anh nhớ rằng tin tức về kế hoạch rút một số lượng quân Mỹ đã loan tải trên toàn thế giới trước cuộc họp Midway. Tại sao? Tôi cho đó là vì Chính phủ Mỹ muốn thăm dò dư luận, tiết lộ thông in cho báo chí và đưa chúng tôi vào sự việc đã rồi.

Spiegel: Như thế ông đã hiểu rõ được sự việc?

Ông Thiệu: Vâng đúng vậy. Cuộc họp Midway nhằm hai mục đích. Nó mang đến cho hai tân tổng thống một cơ hội để hiểu về nhau và đàm phán về vấn đề Việt Nam. Điểm thứ hai đã vạch rỏ trong nghị trình đó là kế hoạch rút quân Mỹ đầu tiên. Tôi không hề ảo tưởng và tôi nắm bắt được tình hình. Không có gì phải lo lắng và tôi cảm thấy rất tự tin.

Spiegel: Khi đề xuất việc rút quân, ông có thật sự nghĩ rằng ông có thể tự tiến hành chiến tranh và cuối cùng giành thắng lợi trong cuộc chiến - một cuộc chiến tranh mà hơn 540.000 quân Mỹ và bộ máy quân sự hùng mạnh của Hoa Kỳ đã không thể thắng nổi? Thật khó để tin vào điều đó.

Ông Thiệu: Không. Thật ra tôi không phải là người đề xuất. Tôi chỉ đơn giản là chấp thuận. Tôi đồng ý đợt rút quân Mỹ đầu tiên vì Tổng thống Nixon đã nói với tôi rằng ông ấy có một số vấn đề quốc nội và việc rút quân chỉ hoàn toàn mang tính tượng trưng. Ông ta phải có ý kiến công chúng và Quốc hội phía sau. Nhưng tôi cũng nói với ông ấy rằng ông ta phải chắc chắn Hà Nội không xem đợt rút quân đầu tiên như là một dấu hiệu yếu kém của Hoa Kỳ.

Spiegel: Và ông không nghĩ đó là khởi đầu của việc rút quân toàn bộ?

Ông Thiệu: Không. Tôi có thể hình dung đó có thể là bước đầu tiên trong biện pháp giảm quân số. Tôi không thể nào tưởng tượng nổi Hoa Kỳ sẽ vứt hết tất cả và bỏ rơi Nam Việt Nam. Tôi đã đề xuất với Tổng thống Nixon rằng việc cắt giảm nên được tiến hành từng bước, đến khi khả năng chiến đấu và sự cũng cố quân đội Nam Việt Nam cho phép Việt Nam có thể đứng trên đôi chân của chính mình, tùy thuộc vào viện trợ kinh tế và quân sự.

Quan trọng hơn, tôi đã kiến nghị ông ta có thể yêu cầu Hà Nội đổi lại cũng có hành động tương tự. Người Mỹ hoàn toàn đồng ý với tôi về ….

Spiegel: …. và rút quân tượng trưng?

Ông Thiệu: Tôi nhận ra cuộc chiến Việt Nam cũng gây ra những vấn đề bên trong nước Mỹ. Và Tổng thống Nixon nói ông cần một cử chỉ tượng trưng để giải quyết vấn đề đó.

Khi tôi ở Hán Thành và Đài Loan một tuần trước đó, tôi đã nói với Tổng thống Park Chung Hee và Tổng thống Tưởng Giới Thạch rằng tôi hy vọng việc rút quân mà tôi bàn bạc với Tổng thống Nixon trong cuộc đàm phán tại Midway chỉ mang tính tượng trưng. Nhưng tôi đã chỉ ra rằng chúng tôi không thể ngăn ngừa việc Hoa Kỳ rút toàn bộ quân nếu họ muốn. Vì vậy sẽ là khôn ngoan hơn khi yêu cầu Mỹ rút quân từng bước và cùng lúc đó cung cấp viện trợ để chúng tôi xây dựng một quân đội Nam Việt Nam vững mạnh và hiện đại để thay thế người Mỹ. Tôi không bao giờ yêu cầu quân đội Mỹ ở lại Việt Nam mãi mãi.

Spiegel: Quân Mỹ đã đặt tại Nam Hàn và Tây Đức.

Ông Thiệu: Nhưng chúng tôi là những người rất tự trọng. Chúng tôi đã nói với họ chúng tôi cần viện trợ và vũ khí nhưng chúng tôi có đầy nhiệt huyết trong huyết quản và thừa binh lính.

Spiegel: Ông mô tả thế nào về tình cảnh của mình khi đó? chỉ vài tháng trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, Melvin Laird đã đề ra “Việt Nam hoá”. Người Mỹ trước đó đã nói về cuộc chiến “phi Mỹ hóa”. Không phải chỉ tên gọi này thôi cũng đã nói rõ ràng là Hoa Kỳ có ý định rút quân một cách nhanh chóng?

Ông Thiệu: Khi ông Nixon đến Sài Gòn vào tháng 7 năm 1969, ông ta nhắc lại rằng ông cần có công chúng Mỹ phía sau. Tôi hiểu vị thế của ông ta. Nhưng ông ấy không bao giờ lý giải rút quân có nghĩa là cắt giảm nghị trình có hệ thống và theo sáng kiến của Mỹ. Ông ấy chỉ nói về những khó khăn trong nước tại Mỹ và đề nghị tôi giúp. Ông nói “giúp chúng tôi để giúp các anh”. Tôi trả lời “Tôi sẽ giúp các ông để có thể giúp chúng tôi”. Tại cuộc họp chúng tôi lại bàn về vấn đề rút quân từng phần.

Spiegel: Nhưng không đặt ra lịch trình?

Ông Thiệu: Không. Và Ông Nixon lại hứa là bất kỳ đợt rút quân nào cũng sẽ tương xứng với những biện pháp tương tự của phía Bắc Việt và sẽ phù hợp với khả năng phòng thủ của Nam Việt Nam cũng như đi kèm với những viện trợ thêm về quân sự và kinh tế cho Nam Việt Nam.

Spiegel: Tại thời điểm đó ông có nhận ra Hoa Kỳ đã sẵn sàng đơn phương rút quân nếu cần thiết?

Ông Thiệu: Có, tôi có nghi ngờ điều đó. Nhưng khi đó tôi vẫn rất tự tin và tin tưởng vào đồng minh lớn của chúng tôi.

Spiegel: Có thể ông đúng khi nhận định như vậy. Rỏ ràng trong cuốn sách của Kissinger chính quyền Nixon không thể “chiến thắng một cách dễ dàng một chiến dịch có liên can đến hai chính quyền, năm quốc gia đồng minh và ba mươi mốt ngàn người chết như thể chúng ta chuyển một đài truyền hình”.

Người Mỹ rỏ ràng muốn thoát ra khỏi Việt Nam bằng đàm phán. Họ không muốn đơn phương rút quân trừ khi họ buộc phải làm điều đó. Ông có đưa ra bất kỳ yêu cầu nào về các cuộc đàm phán giữa Washington và Hà Nội?

Ông Thiệu: Chiến tranh đã quá đủ với chúng tôi và chúng tôi quyết định chấm dứt cuộc chiến bằng đàm phán. Chúng tôi yêu cầu những lực lượng đã xâm chiếm đất nước phải rút quân. Tất cả chỉ có vậy.

Spiegel: Ông oán trách sự sụp đổ của Nam Việt Nam trong năm 1975 chủ yếu được quy cho thực tế rằng quân đội Bắc Việt được phép ở lại miền Nam thậm chí sau khi Hiệp định Hòa bình Paris đã ký kết. Ông khẳng định ông chỉ bỏ qua sự hiện hiện của Bắc Việt trong khi hiệp định đang đàm phán và họ phải rút quân khi đàm phán kết thúc.

Nhưng Kissinger khẳng định trong cuốn sách của mình ông không hề đưa ra phản đối với đề xuất của Mỹ về vấn đề này cho đến tháng 10 năm 1972.

Ông Thiệu: Đó là lời dối trá vô giáo dục nhất từ phía Kissinger khi nói tôi đồng ý cho quân Bắc Việt lưu lại miền nam. Nếu tôi đồng ý ngay từ đầu như Kissinger đã nói, thì tôi đã không phản đối kịch liệt khi ông ta cho tôi xem bản dự thảo hiệp định trong đó không hề chứa đựng bất kỳ điều khoản nào về vấn đề rút quân của Bắc Việt.

Đó là điểm quan trọng nhất mà tôi đã đấu tranh trong suốt quá trình đàm phán hoà bình. Từ đầu đến cuối, tôi yêu cầu Kissinger buộc Hà Nội rút quân và giải thích cho ông ta rằng sẽ chẳng có hiệp định nào hết trừ khi Bắc Việt thực thi điều đó.

Sau nhiều ngày tranh luận quyết liệt, Kissinger cuối cùng thú nhận với tôi: “Thưa ngài Tổng thống, điều đó không thể thực hiện được. Nếu được tôi đã làm. Vấn đề đã được đặt ra cách đấy 3 năm nhưng Liên Xô sẽ không chấp nhận”. Sau đó tôi nhận ra Chính phủ Hoa Kỳ đã nhượng bộ yêu cầu của Liên Xô và đó là điều làm tôi thất vọng nhất.

Spiegel: Có thể Liên Xô không có lựa chọn khác vì Bắc Việt phủ nhận xem Nam Việt Nam như là một ngoại quốc và thậm chí có khi họ phủ nhận Bắc Việt có quân đội thường trực tại Nam Việt Nam.

Ông Thiệu: Chúng tôi đã ở trong chiến tranh hơn 20 năm và chúng tôi biết không bao giờ tin vào những gì Nga Xô và Bắc Việt nói. Bắc Việt có quân đội tại Lào, Campuchia và Nam Việt Nam. Tôi nghĩ thậm chí một người mù cũng có thể nhìn thấy điều đó. Để chấm dứt chiến tranh, chúng ta phải nhìn vào thực tế chứ không phải nghe những gì kẻ thù đang nói.

Spiegel: Ông có đặt ra những điểm này với Kissinger?

Ông Thiệu: Tất nhiên và cả với Tướng Haig. Tôi hỏi ông ta: “Tướng Haig, ông là một vị tướng và tôi cũng là một vị tướng. Vậy ông có biết một hiệp định hòa bình nào trong lịch sử lại cho phép lực lượng kẻ thù lưu lại trên đất nước mà họ đã xâm chiếm?” Tôi hỏi ông ta: “Liệu ông có cho quân Liên Xô đóng trên lãnh thổ Mỹ và nói rằng ông đã đạt được dàn xếp hòa bình với Liên Xô?”

Spiegel: Ông ấy nói thế nào?

Ông Thiệu: Ông ta không nói gì cả. Làm sao ông ta có thể nói gì - điều đó thật phi lý. Ông ta nói gì đây?

Spiegel: Kissinger đã đưa ra câu trả lời trong cuốn sách của mình. Ông ấy nói Bắc Việt sẽ không thực hiện rút quân vì Hà Nội sẽ không nhượng bộ trên bàn đàm phán những gì họ không bị buộc phải từ bỏ trên chiến trường. Nhưng ông ta nói thêm Hiệp định Hòa bình Paris chứa đựng một điều khoản nghiêm cấm bất kỳ việc xâm lấn thêm nào và kế luận “điều này sẽ làm cho lực lượng Bắc Việt tại miền nam hao mòn làm tiêu hao sinh lực một cách tự nhiên”.

Ông Thiệu: Khi đàm phán với Cộng Sản, tôi cảm giác như Chính phủ Hoa Kỳ và cụ thể là Tiến sĩ Kissinger hoàn toàn không biết gì về những trải nghiệm không mấy ngọt ngào của Pháp với Cộng Sản vào năm 1954 hoặc từ cuộc chiến Triều Tiên. Họ không biết gì về những cuộc hội đàm với Lào và Campuchia. Họ không biết làm thế nào để đối phó với Cộng Sản và làm thế nào để lý giải chiến lược và chiến thuật của họ.

Do đó chúng ta trở lại vấn đề làm sao Tiến sĩ Kissinger, người đại diện cho một nước lớn và khoe khoang rằng ông ta là thương thuyết gia tài ba nhất, lại có thể tin rằng quân Bắc Việt sẽ không xâm chiếm Nam Việt Nam. Làm sao ông ta có thể tin như vậy?

Liệu ông ta có thể canh gác trên tất cả chốt biên phòng dọc biên giới của Campuchia, Lào và Nam Việt Nam. Thậm chí nếu chúng tôi có một triệu lính canh gác quốc tế, chúng tôi cũng không thể chứng minh là không hề có sự xâm chiếm nào. Làm sao ông ta có thể tin vào những gì Bắc Việt nói. Ông ta có thể tin vào Cộng Sản nhưng chúng tôi thì không. Đó là vì sao tôi khăng khăng yêu cầu Bắc Việt rút quân. Nếu Bắc Việt thật sự muốn có hòa bình, tại sao họ muốn ở lại?

Spiegel: Kissinger nói gì về điều đó?

Ông Thiệu: Ông ta có thể nói gì đây? Điều mà ông ta và Chính phủ Hoa Kỳ thật sự muốn là rút quân càng sớm càng tốt và đảm bảo tù binh Mỹ được phóng thích. Họ nói với chúng tôi họ muốn một giải pháp danh dự, nhưng họ thật sự muốn giải quyết mọi việc và thoát ra càng nhanh càng tốt mà không bị người dân Việt Nam và phần còn lại của thế giới lên án vì đã bỏ rơi chúng tôi trong cơn hoạn nạn. Đó là vấn đề của họ.

Spiegel: Kissinger viết ngay sau cuộc tiến công mùa xuân của Bắc Việt năm 1972, vai trò có vẻ như đã bị đảo ngược. Bắc Việt bất ngờ muốn nối lại đàm phán trong khi Nam Việt Nam lại muốn chiến đấu đến khi giành thắng lợi cuối cùng.

Ông Thiệu: Hoàn toàn vô lý! Tiến sĩ Kissinger hiểu thế nào là chiến thắng? Bắc Việt đã gây ra chiến tranh tại Nam Việt Nam. Chúng tôi muốn họ rút quân. Đó gọi là chiến thắng sao? Tôi không bao giờ yêu cầu người của Bắc Việt được xem là tù binh chiến tranh tại Nam Việt Nam. Tôi không bao giờ đòi hỏi Bắc Việt trả bồi thường chiến tranh. Tôi không bao giờ đòi hỏi Bắc Việt nhượng bộ lãnh thổ. Tôi không bao giờ yêu cầu có ghế trong chính phủ tại Hà Nội. Vậy Kissinger hiểu chiến thắng và chiến thắng toàn diện là gì?

Spiegel: Về vấn đề rút quân của Bắc Việt, theo Kissinger ngày 31 tháng 5 năm 1971 là một ngày quan trọng. Đó là thời điểm trong các cuộc đàm phán bí mật, Hoa Kỳ đã từ bỏ yêu cầu hai bên cùng rút quân. Tiến sĩ Kissinger nói ít nhất ba lần trong cuốn sách rằng ông đã được thông báo trước và ông đã đồng ý.

Ông Thiệu: Tôi không bao giờ đồng ý việc đơn phương rút quân. Sau cuộc họp Midway, tôi luôn luôn yêu cầu rút quân từng phần và cả hai bên cùng rút quân. Mỹ đã thay đổi lập trường và sử dụng chiến thuật thông thường nhằm ép buộc chúng tôi để chiếm lấy và đặt thanh gươm Damocles lên đầu chúng tôi, trích dẫn dư luận Mỹ với những nhận xét như: “Bây giờ ông đang có một hình ảnh rất xấu tại Mỹ!” hoặc “Quốc hội sẽ cắt giảm viện trợ.”… Họ sử dụng lại chiến thuật cũ, tiết lộ cho báo chí và đặt chúng tôi vào việc đã rồi.

Nếu tôi từ chối dư luận sẽ quay sang chống đối tôi: “Ông ta đòi hỏi quá nhiều, ông ta sẽ không bao giờ để Mỹ rút quân, ông ta sẽ không bao giờ để tù binh Mỹ trở về nhà”. Vì vậy tôi phải nhượng bộ. Không tự nguyện nhưng miễn cưỡng. Làm sao tôi có thể phản đối khi họ sẽ nói ngay rằng: “viện trợ sẽ bị cắt nếu ông không tuân theo”.

Spiegel: Kissinger nói ông luôn được tham vấn trước về tất cả mọi quyết định của Hoa Kỳ, dưới bất kỳ hình thức nào.

Ông Thiệu: Đúng, họ có bàn bạc với tôi, nhưng tất nhiên họ không muốn nghe tôi nói “không” đối các quyết định phục vụ cho lợi ích của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, trong hầu hết trường hợp áp lực đem lại cho họ hầu hết những gì họ muốn.

Spiegel: Kissinger giờ đây chỉ trích một cách cay đắng về cuộc tiến công Lào năm 1971. Ông ấy nói ông cho rằng cuộc tiến công mùa khô là rất cấp thiết. Vậy ý tưởng ban đầu là của ai?

Ông Thiệu: Đó là ý tưởng của họ. Trước đó rất lâu chúng tôi đã từng muốn tiến hành cuộc tấn công, nhưng chúng tôi không thể thực hiện một mình. Bây giờ Hoa Kỳ đề xuất nên chúng tôi vui vẻ đồng ý để chấm dứt cuộc chiến nhanh hơn. Đó là một chiến dịch liên quân Việt-Mỹ với các nhiệm vụ qui định rất rõ ràng: quân đội Nam Việt Nam có nhiệm vụ tiến hành chiến dịch tại Lào và lính Mỹ sẽ hỗ trợ tiếp tế bên ngoài Việt Nam, từ biên giới đến nơi giao chiến.

Spiegel: Tại sao? Vì quốc hội Mỹ rõ ràng đã cấm đoán quân Mỹ xâm nhập lãnh thổ Lào?

Ông Thiệu: Tôi tin là vậy. Nhưng cũng bởi vì chúng tôi không có phương tiện tiếp tế cho binh lính và quan trọng nhất là chuyên chở thương binh ra ngoài. Điều đó chỉ có thể tiến hành bằng trực thăng và Hoa Kỳ là bên duy nhất có đầy đủ trực thăng. Không có trực thăng, chúng tôi không bao giờ đồng ý tiến hành chiến dịch tại Lào.

Spiegel: Kissinger nói binh lính của ông gặp vấn đề khi đưa ra yêu cầu không quân hỗ trợ vì các đơn vị Việt Nam gần như không có những chuyên viên kiểm soát mặt đất được huấn luyện có thể nói được tiếng Anh.

Ông Thiệu: Hoàn toàn không có vấn đề gì đối với việc hỗ trợ của không quân. Chúng tôi không hề lo lắng nếu thỉnh thoảng không có không quân hỗ trợ, chúng tôi đã có pháo binh. Vấn đề là người Mỹ đã mất nhiều phi công trực thăng trong ba ngày đầu tiên của chiến dịch. Vì thế họ không sẵn sàng cất cánh theo lịch trình và với số lượng cần thiết. Điều đó đã trở thành một vấn đề lớn đối với quân đội Nam Việt Nam.

Spiegel: Có phải tinh thần binh lính đã suy sụp?

Ông Thiệu: Chúng tôi không thể chuyên chở binh lính tử trận và thương binh ra ngoài. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến tinh thần mà còn cả đến việc tiến hành chiến dịch.

Spiegel: Kissinger đưa ra một lý do khác giải thích tại sao chiến dịch thất bại. Ông ta nói ông đã ra lệnh cho binh sĩ của mình phải thận trọng khi di chuyển về phía tây và ra lệnh chấm dứt chiến dịch toàn bộ ngay khi chịu tổn thất 3.000 binh lính. Kissinger cho rằng người Mỹ sẽ không bao giờ chấp thuận kế hoạch có hạn chế này và đã được thông báo đến cho họ.

Ông Thiệu: Đối với một quân nhân, ý tưởng đặt ra một giới hạn về số thương vong trước là rất vô lý. Tiến sĩ Kissinger phải là một người rất giàu trí tưởng tượng khi nói như thế. Chúng tôi chỉ có thể di chuyển về phía tây xa đến mức mà trực thăng di tản có thể bay đến. Kissinger nói chúng tôi rút quân mà không hề thông báo cho phía Mỹ. Làm sao chúng tôi có thể triệt thoái hơn 10.000 quân mà không hề thông báo cho người Mỹ?

Spiegel: Vậy là ông đã thông báo cho họ biết?

Ông Thiệu: Ồ, tất nhiên. Và hãy để tôi kể cho anh nghe một câu chuyện. Khi đó tờ Time hay Newsweek gì đó đã đăng tải bức hình một binh sĩ Nam Việt Nam đang cố bám vào bộ phận hạ cánh của một chiếc trực thăng với chú thích “kẻ hèn nhát”. Tôi chỉ cười. Tôi thấy điều đó thật kinh khủng. Không thể nào ngăn cản một binh sĩ bị bỏ rơi khỏi những hành động như thế. Nhưng tờ báo đã nhục mạ binh lính Nam Việt Nam như là những kẻ hèn nhát và cùng lúc đó hoàn toàn che dấu một sự thật là phi công trực thăng Hoa Kỳ không có tinh thần chiến đấu trong chiến dịch này.

Spiegel: Một điểm cốt lỏi trong sự tranh cãi giữa Nam Việt Nam và Hoa Kỳ là vấn đề ngừng bắn. Theo Kissinger, Chính phủ Mỹ đã quyết định đề xuất một cuộc ngưng bắn trên chiến tuyến hiện hữu ngay đầu mùa hè năm 1970. Kissinger nói ông không những đồng ý mà còn chấp thuận đề xuất đó.

Ông Thiệu: Đúng vậy. Tôi cũng cho rằng ngưng bắn là một bước đầu tiên rất quan trọng để hoàn thành những nghĩa vụ của một thoả thuận hoà bình. Nhưng về vấn đề là ngay lặp tức - tôi nhắc lại một cuộc ngưng bắn ngay lặp tức - thì tôi không bao giờ đồng ý với Kissinger. Tôi nói chúng ta phải xem xét điều đó một cách cẩn trọng. Không thể tuyên bố ngưng bắn cho đến khi đã có những suy xét cẩn thận về việc ai sẽ là người giám sát cuộc ngưng bắn và điều gì sẽ xảy ra trong trường hợp có vi phạm, binh lính sẽ đóng ở đâu …

Spiegel: Kissinger viết: “Chúng tôi vẫn nghĩ rằng chúng tôi đang cùng làm việc với Thiệu”. Người Mỹ không hiểu rằng ông đang áp dụng “chiến thuật lãng tránh của người Việt Nam đối với người nước ngoài”.

Ông Thiệu: Điều đó không bao giờ xảy ra với một nước nhỏ như chúng tôi, một nước nợ gần như tất cả mọi thứ của đồng minh lớn và vẫn đang yêu cầu viện trợ lâu dài, lại có thể chơi trò bịp bợm.

Spiegel: Nhưng ông phải nghĩ rằng cuộc chiến cuối cùng cũng thất bại khi Mỹ rút quân và Bắc Việt được phép duy trì quân đội tại Nam Việt Nam?

Ông Thiệu: Không hẳn như vậy, nếu chúng tôi tiếp tục nhận được viện trợ từ Hoa Kỳ và Chính phủ Hoa Kỳ giữ lời hứa khi chúng tôi ký vào bản hiệp định. Thậm chí khi ký kết hiệp định, tôi vẫn nghĩ đó chỉ là một drôle de paix - một nền hòa bình giả mạo.

Nhưng chúng tôi vẫn tin chúng tôi có thể chống cự lại bất kỳ sự xâm lăng nào của Bắc Việt nếu họ vi phạm các điều khoản của dàn xếp hòa bình. Chúng tôi có hai lý do để tin tưởng: thứ nhất, chúng tôi có một bảo đảm bằng văn bản từ Tổng thống Nixon rằng Mỹ sẽ đáp trả bằng tất cả lực lượng nếu thoả thuận bị vi phạm.

Spiegel: Mặc dù ông ta không bao giờ nói là đáp trả như thế nào.

Ông Thiệu: Thứ hai, chúng tôi được nhận đầy đủ viện trợ kinh tế và quân sự đến khi nào chúng tôi cần để chống lại sự xâm lăng của Bắc Việt. Liệu Chính phủ Mỹ có giữ đúng lời hứa đó? Cuộc chiến có thể tiếp tục nhưng Bắc Việt sẽ không thể lật đổ Nam Việt Nam.

Spiegel: Ông và Kissinger ít nhiều đồng ý về điểm này. Ông ta viết, toàn bộ chiến lược có thể thành công nếu Hoa Kỳ ở vào vị thế có thể hành động với tất cả những vi phạm giàn xếp hoà bình của Bắc Việt và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho Nam Việt Nam. Cái gì đã sai? Kissinger đổ lỗi cho vụ Watergate và sự xói mòn của chính quyền hành pháp. Ông có thật sự nghĩ vụ Watergate phải chịu trách nhiệm cho sự thất bại?

Ông Thiệu: Xin lỗi nhưng tôi không phải là một người Mỹ. Tôi không có trách nhiệm phải dọn dẹp trước hàng rào của họ. Nhưng nếu họ giữ lời hứa, đó sẽ là một cản trở tốt nhất đối với những sự xâm lăng thêm của Bắc Việt và có thể kết thúc chiến tranh.

Spiegel: Nếu Mỹ giữ lời hứa, ông có nghĩ bản hiệp định có thể dẫn đến một kết quả thành công toàn diện?

Ông Thiệu: Tôi tin có thể sẽ là như vậy.

Spiegel: Vậy về tổng thể, Hiệp định Paris không phải quá tệ?

Ông Thiệu: Đó chắc chắn không phải là một thỏa thuận tốt đẹp đối với chúng tôi. Đó là một thảo thuận giả tạo. Nhưng đó là phương kế cuối cùng. Anh phải hiểu là chúng tôi chỉ ký kết, như tôi đã nói, bởi vì chúng tôi có đảm bảo từ phía Chính phủ Hoa Kỳ và Hiệp định được bảo đảm bởi 12 quốc gia và Liên Hiệp Quốc.

Spiegel: Kissinger đưa ra bình luận một cách chua cay trong cuốn sách của mình về nhiều chính trị gia lớn. Nhưng ông ta có vẻ giành nhiều sự miệt thị đối với ông. Mặc dù ông ta ngưỡng mộ sự “thông minh”, “lòng dũng cảm” và “nền tảng văn hoá” của ông. Ông ta chăm chú đến “sự điều hành tàn bạo”, “xấc láo”, “sự ích kỷ độc ác” và “thủ đoạn gần như điên cuồng” của ông khi làm việc với người Mỹ. Ông nói gì về những gán ghép này trong hồi ký của Kissinger?

Ông Thiệu: Tốt hơn là tôi không trả lời. Tôi thà không nói gì về ông ta. Ông ấy có thể nghĩ bất cứ điều gì ông ta thích về tôi, tốt hoặc xấu. Tôi thích nói về những gì đã thật sự xảy ra giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam hơn.

Spiegel: Phải chăng ông đã đem đến cho ông ta một lý do nào đó để viết về ông theo một cách coi thường như thế này?

Ông Thiệu: Có thể ông ta ngạc nhiên vì phải làm việc với một người quá thông minh và tài giỏi. Cũng có thể có vài điều phải làm với tính phức cảm tự tôn của một người quá tự phụ. Có thể ông ta không thể tin rằng một người đối thoại Việt Nam lại bình đẳng với một người tự cho rằng mình rất quan trọng.

Để tôi kể anh nghe một chuyện khác, tôi cảm thấy thật buồn cười tại đảo Midway vì tôi không thể nào tưởng tượng nỗi những người như thế lại cực kỳ đê tiện. Trong dịp đó, ông Nixon, ông Kissinger, phụ tá của tôi và tôi họp tại nhà của một sỹ quan hải quân Mỹ. Có ba cái ghế thấp và một cái cao hơn. Ông Nixon đã ngồi ở ghế cao hơn.

Spiegel: Giống như phim “Nhà độc tài vĩ đại”của Chaplin? Trong đó, Hitler đã ngồi ở một cái ghế cao để ông ta có thể nhìn xuống Mussolini đang ngồi tại nghế thấp hơn.

Ông Thiệu: Nhưng tôi đã tìm một cái ghế khác cao ngang bằng cho tôi trong giờ nghỉ để cùng cấp với Nixon. Sau cuộc họp Midway, tôi nghe từ vài người bạn Mỹ của tôi rằng Kissinger không bao giờ trông đợi Tổng thống Thiệu trở thành một người như ông ta.

Spiegel: Kinssinger phàn nàn trong cuốn sách của mình rằng ông đã đối đãi với ông ta thật tệ hại trong cách cư xử cá nhân của mình, rằng ông đã bỏ cuộc hẹn lướt ván, Nixon thậm chí còn nói thêm, theo Kissinger, ông ta nói ông là “một thằng chó đẻ” và nói: “tàn bạo là bình thường, … sẽ không bao giờ được nhìn thấy, nếu … không đi cùng”.

Ông Thiệu: Xin lỗi nhưng tôi không có gì để nói về điều đó. Tôi được giáo dục đầy đủ và tôi từ chối trả lời những lời bình phẩm mất lịch sự và khiếm nhã như vậy.

Nếu tôi không tiếp đãi Tiến sĩ Kissinger và Đại sứ Bunker, đó đơn giản là vì chúng tôi chưa đạt đến một điểm để có thể tiếp tục thảo luận với họ. Họ mất 4 năm vậy tại sao buộc tôi phải trả lời trong một giờ. Nếu người Mỹ có thể bỏ ra thời gian thì tại sao tôi lại không thể? Chúng tôi có thể phù hợp với họ nếu chúng tôi là những người ba phải, cái gì cũng đồng ý. Nhưng tôi không phải là một người ba phải và người miền nam không phải là một quốc gia của những người ba phải, Quốc hội chúng tôi không phải là một Quốc hội của những người ba phải. Tôi phải bàn bạc với họ.

Spiegel: Tiến sĩ Kissinger viết rằng thái độ của ông đối với ông ta về cơ bản được xác định là “căm thù một cách độc địa”

Ông Thiệu: Không. Tôi chỉ bảo vệ lợi ích của đất nước tôi. Chắc chắn là có những cuộc tranh luận nảy lửa nhưng thái độ của tôi luôn luôn kiềm chế bởi động cơ yêu nước.

Spiegel: Kissinger viết ông có vài điều kiện để đạt được “vị thế gần như là không thể” trong đó ông tự nhận thấy. Ông có nhận ra dấu hiệu nào của điều kiện đó?

Ông Thiệu: Không. Tất cả những gì tôi nhận thấy là áp lực từ Chính phủ Mỹ.

Spiegel: Kissinger viết ông không bao giờ tham gia vào một cuộc đàm phán dựa trên khái niệm. Ông ấy nói ông “đấu tranh theo cách của người Việt Nam: gián tiếp, giản lượt, bằng phương pháp nhằm làm cạn kiệt hơn là làm sáng tỏ, luôn luôn chăm chọc nhưng không bao giờ giải quyết vấn đề thực tế”

Ông Thiệu: Hãy đặt anh vào vị trí của tôi. Tôi đồng ý ngay từ đầu rằng Chính phủ Mỹ nên tham gia đàm phán bí mật với Hà Nội. Kissinger nói tôi sẽ luôn luôn được thông báo. Đúng, tôi đã được thông báo. Tôi được nghe những gì ông ta chọn để nói với tôi. Nhưng tôi tin đồng minh của tôi sẽ không bao giờ lừa gạt tôi, dàn xếp thỏa thuận trên đầu tôi và bí mật bán đất nước tôi.

Nhưng, anh có thể tưởng tượng được không, chỉ bốn ngày trước khi ông ta ra Bắc Việt vào tháng 10 năm 1972, ông ta đưa tôi bản dự thảo hiệp định sẽ được ký tắt tại Paris bằng tiếng Anh? Chúng tôi phải thẩm tra bản thảo bằng tiếng Anh từng điểm một.

Và bản thảo không phải được đưa ra bởi Nam Việt Nam và Hoa Kỳ mà là bởi Bắc Việt và Hoa Kỳ. Anh có tưởng tượng nỗi điều đó không? Theo logic thông thường Nam Việt Nam và Hoa Kỳ phải thỏa thuận về những điều kiện của dàn xếp hòa bình trước và sau đó Kissinger quay lại với chúng tôi nếu Bắc Việt đưa ra bất kỳ đề xuất trái ngược nào. Nhưng ông ta đã không làm như thế.

Thay vào đó, ông ta soạn thảo những điều khoản của hiệp định chung với Bắc Việt và đưa cho tôi xem bằng tiếng Anh. Hiệp định hoà bình sẽ quyết định số phận chúng tôi. Anh có tưởng tượng được tôi cảm thấy như thế nào khi chúng tôi thậm chí không thể nhìn thấy nguyên bản bằng chính ngôn ngữ của chúng tôi?

Spiegel: Nhưng cuối cùng ông cũng nhận được bản tiếng Việt?

Ông Thiệu: Chúng tôi khăng khăng đòi hỏi, đòi hỏi và đòi hỏi và cuối cùng ông ta đồng ý, dù tất nhiên là miễn cưỡng. Và chúng tôi đã phát hiện ra nhiều cạm bẫy. Tôi hỏi Tiến sĩ Kissinger và Đại sứ Bunker “Ai đưa ra bản tiếng Việt?” Họ trả lời “một người Mỹ rất giỏi từ trường Đại học Ngôn ngữ học Quốc tế tại Hoa Kỳ cộng tác với Bắc Việt”. Nhưng không người Mỹ nào có thể hiểu và viết tiếng Việt tốt hơn một người Việt Nam. Và không người Mỹ nào có thể làm việc với Cộng Sản Việt Nam bằng tiếng Việt giỏi hơn chúng tôi. Liệu đó có phải là cách ứng xử danh dự và ngay thẳng của phía đồng minh?

Spiegel: Các giới chức cấp cao tại Mỹ nói đã từng nghĩ rằng tất cả những gì mà Kissinger theo đuổi là một khoảng thời gian hợp lý giữa việc rút quân Mỹ và sự sụp đổ cuối cùng của Sài Gòn. Kissinger nói trong cuốn sách của mình là điều đó không đúng. Ông nghĩ thế nào?

Ông Thiệu: Bất kể người Mỹ nói gì, tôi tin rằng mục đích cuối cùng của Chính phủ Mỹ là một chính phủ liên hiệp tại Nam Việt Nam.

Spiegel: Kissinger đưa ra nhiều bằng chứng cho thấy điều đó không đúng.

Ông Thiệu: Người Mỹ cố gắng ép buộc chúng tôi đồng ý bản hiệp định. Nếu chúng tôi đồng ý, họ có thể hãnh diện là đã giải quyết mọi việc bằng một “thoả thuận danh dự”. Họ có thể nói với dân chúng tại nhà rằng: “Chúng tôi đang rút quân, chúng tôi đảm bảo tù binh sẽ được phóng thích”. Và có thể nói với phần còn lại của thế giới rằng: “Chúng tôi đã mang lại hoà bình cho Nam Việt Nam. Bây giờ thì tuỳ thuộc vào người dân Nam Việt Nam. Nếu chính phủ liên hiệp có bị Cộng Sản chi phối thì đó là vấn đề của họ. Chúng tôi đã đạt được một giải pháp danh dự.”

Spiegel: Kissinger viết: “Chúng tôi có một nguyên tắc trong đàm phán đó là người Mỹ không phản bội những người bạn của mình”.

Ông Thiệu: Thôi được, vậy hãy nhìn vào vị thế hiện nay tại Nam Việt Nam, Campuchia và tất cả Đông Dương. Khi chúng tôi đàm phán thỏa thuận hòa bình với những đại diện của Chính phủ Mỹ, chúng tôi thường có cảm giác họ không chỉ chơi trò xỏ lá mà họ còn thật sự là người đáng bị lên án trong hành động.

Spiegel: Ông có bao giờ cảm thấy biết ơn về những gì mà người Mỹ đã giúp đỡ cho đất nước ông? Kissinger nói trong cuốn sách của mình: “đáng giá cao về những gì được giúp đỡ không phải là một đặc điểm của người Việt Nam”.

Ông Thiệu: [Cười] Về những gì mà Kissinger viết trong sách, tôi nghĩ chỉ có người với một tinh thần bị méo mó mới có thể nghĩ như vậy, chỉ có thể xảy ra với một người có tính khí không bình thường. Ông ta ám chỉ trong cuốn sách của mình rằng ông ta sợ người Việt Nam sẽ trả thù những người Mỹ còn ở lại sau khi Washington đã bỏ rơi chúng tôi. Bây giờ và không bao giờ chúng tôi làm điều đó.

Spiegel: Cá nhân ông có cảm thấy biết ơn gì không?

Ông Thiệu: Tôi có thể nói một cách thành thật rằng nếu Chính phủ Mỹ không phản bội chúng tôi và không đâm sau lưng chúng tôi, người dân Việt Nam sẽ cảm thấy rất biết ơn. Sau khi chúng tôi có một cuộc bàn luận căng thẳng với Kissinger về từ ngữ của hiệp định hòa bình, vài thành viên của chính phủ tôi nói rằng sẽ là một ngày may mắn cho chúng tôi nếu Kissinger làm cho Nam Việt Nam bằng như những gì mà ông ta đã làm cho Bắc Việt. Tôi nói với họ nếu ông ta đàm phán một nền hoà bình đích thực với Bắc Việt, ông ta sẽ có cho riêng mình một đài kỷ niệm tại Nam Việt Nam giống như tượng của tướng McArthur tại Nam Hàn. Tiếc thay mọi chuyện đã không diễn ra như vậy.

Về hậu quả của hòa bình, tôi nghĩ tốt nhất là để tự người Mỹ phán quyết về những gì mà Kissinger đã làm cho Nam Việt Nam: những trại tập trung, nạn đói kém, hành hạ tra tấn, hàng ngàn thuyền nhân mất tích trên Thái Bình Dương và nạn diệt chủng còn khủng khiếp và được tiến hành có hệ thống hơn cả nạn diệt chủng tại Campuchia. Kissinger không có lý do gì để tự hào về nền hòa bình mà ông ta đã mang đến. Đó là mồ chôn của hòa bình.

SPIEGEL: Cảm ơn ông Thiệu đã giành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.

Vô Thường

Hà Nội ơi! Tượng Vua Quang Trung hộc máu ồi !



Tại sao các ngươi phải sợ con cháu của Tôn Sĩ Nghị ???

Nguyễn Duy Thành

Tiếc quá! Chưa một lần chạm chân Hà Nội, nên phải dùng hai chữ “có lẽ” để tự bảo lòng: Chắc đẹp lắm! Và có phải, vì ngoài nét cổ rêu phong còn chứa đựng nhiều diễm tuyệt của một kinh thành với ngàn tuổi trời, mà khiến người Hà Nội đi xa phải nhớ rồi ước muốn quay về ..!

Hơn 55 năm trước, yên vui trên đất Sài Gòn nhưng chàng trai xứ bắc Anh Bằng đã than cùng trời mây qua phách nhịp:
    “... Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ
    Ai đứng trông ai ven hồ, khua nước trong như ngày xưa ...”
Cũng cảm niệm đó, nửa thế kỷ sau chàng trai Phú Quang ngây ngất ngày về:
    “... Tôi bồi hồi chạm nắng Cửa Ô
    Như ngày xưa mỗi lần chạm vai gầy áo mẹ ...”
Rất có thể còn nhiều điều nữa làm cho người ta phải yêu Hà Nội!

Nhưng bao nét yêu kiều đó..hình như ... đã xa xưa ... đã vụt bay ...! Bởi đâu đó trong thi-văn bây giờ đang bàng bạc những lời thống khổ, trách cứ ... Có khi là sự gọi kêu người đời đừng để sự xa hoa phù phiếm phủ lấp sự hùng anh của đất thành Hà Nội.

Người ta than là phải!!!

Vì xa xăm gì đâu, chỉ mới hơn 2 đời người! Cũng vào những ngày tháng này, gần Tết của 221 năm trước. Năm đó là Kỷ Dậu 1789, dù chiến trận phía Nam chưa bình định được. Nhưng hay tin đạo quân hùng mạnh phương Bắc do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy tràn qua xâm lược nước ta. Xét rằng mối họa xâm lăng là nhãn tiền phải diệt. Nguyễn Huệ lên ngôi và quyết định Bắc Tiến.

Sử lược nước Việt có khá nhiều giai thoại ngợi ca về đấng anh hùng áo vải này. Nhưng nếu chịu khó tham khảo các trận chiến do Nguyễn Huệ chỉ huy, thì quả thật ông mới là một quân sự kiêm chính trị gia đáng để đời sau khâm phục và học hỏi. Có một chuyện nhỏ trong cơ trí của người chỉ huy mà ít sách vở nhắc đến khi nói về vị Tiền nhân lỗi lạc này. Chuyện là, vào ngày 25 tháng 11 năm ấy, ngay trong lễ đăng quang Hoàng Đế với niên hiệu Quang Trung, nhưng Ngài e ngại rằng quân sĩ sẽ nao lòng trong kế hoạch Bắc tiến vì không khí đang vào dịp Tết. Vì thế, Vua Quang Trung sai lính đem đến một cái Mâm có phủ vải điều mà trên đó đựng đầy đồng tiền. Trước mặt ba quân tướng sĩ, Ngài nói:

- Hỡi ! Ba quân hãy cùng ta quan sát. Nếu cả 200 đồng tiền này đều nằm sấp, thì đó là điềm trời báo chúng ta đại thắng. Nhược bằng, có đồng nằm ngửa thì đó là đại sự của chúng ta có điều trắc trở.

Nói xong, Vua cung kính lạy tạ đất trời rồi đưa Mâm tiền lên cao và hất đổ xuống đất. Quân sĩ reo mừng khi thấy toàn bộ số tiền đều nằm sấp, và chí khí giết giặc tăng cao vì binh sĩ tin rằng lần Bắc tiến đuổi diệt quân Thanh sẽ đại thắng.

Kỳ thực! Trước đó Vua Quang Trung đã cho người đúc sẵn 200 đồng tiền đều là mặt sấp.

Và Ngọc Hồi, Đống Đa thuộc đất Hà Nội hôm nay ghi lại dấu chân vó ngựa của Quang Trung đi đến đâu thì chiến thắng đến đó. Sớm hơn lời hẹn với ba quân là mồng 7 sẽ vào Thăng Long, nhưng chỉ tới mồng 5 thì quân Tây Sơn đã uống rượu khải hoàn. Đạo quân nhà Thanh hơn 20 vạn bị đánh tan tành, danh tướng Tôn Sĩ Nghị chỉ còn 50 binh chốt chạy trốn về Tàu. Đại thắng này không chỉ làm nức lòng người nước Việt, mà sử sách của giặc phương Bắc vẫn ghi lại một vết son của Vua Quang Trung về lòng đối nhân xử thế với kẻ thù. Đó là việc khi thu dọn chiến trường, Ngài cho quân lính lượm nhặt xương cốt quân Thanh tử trận chất thành gò đống, rồi lập đàn cúng tế biểu thị sự thương xót người Trung Hoa chết xa nhà, mà trong bản soạn do Quan văn Vũ Văn Tân biên thảo có đoạn tế, ca rằng:
    “... Nay ta
    Sai thu nhặt xương cốt chôn vùi
    Bảo lập đàn bên sông cúng tế
    Lòng ta thương chẳng kể người Phương Bắc
    Xuất của kho mà đắp điếm đống xương khô
    Hồn các ngươi không vơ vẩn ở trời nam, hãy lên đường mà quay về nơi hương chí.
    Nên kính ngưỡng ta đây là chủ, chan chứa lòng thành.
    Nhưng mong sao đáp lại đạo trời. Dạt dào lẽ sống ...”
Chí khí và ving quang mà cổ nhân kỷ niệm với đất Hà Nội là thế đó!

Nhưng càng chiêm nghiệm sử ký năm xưa để luận bàn thời thế hôm nay. Ngẫm nghĩ sự đời..sao mà tiếc ..! Tiếc rằng, năm xưa Vua Quang Trung sao hiền từ quá! Sao Ngài không quất ngựa truy sát thêm vài dặm, rồi chém phứt đi cái đầu Tôn Sĩ Nghị để trừ cái di họa xâm lăng, mà hôm nay ngay trên đất Hà Nội nhưng một tên giặc Tàu cũng họ Tôn- Đại sứ Trung Cộng Tôn Quốc Tường bố láo dọa nạt một câu: “Đấu Tranh Sẽ Thất Bại”.

Một tháng rồi trôi qua, giới cầm quyền Hà Nội êm re ... sau câu nói ấy, và hình như người dân Thủ Đô ngàn năm văn vật vẫn “tự nhiên như người Hà Nội”.

Ôi! “Quân dân ta anh hùng”, có thật không “bác hồ” ơi???

Nghĩ mà rầu, mà rụng râu! Giá như cái câu nói đó xảy ra tại Iran hay một số quốc gia nhỏ bé khác hơn Việt Nam, thì chắc rằng cái tòa Đại sứ Trung Cộng sẽ chìm trong biển lửa, và ông đại sứ cùng ngoại giao đoàn phải u đầu bể trán trước khi cuốn gói về nước. Hoặc nói đâu xa, chỉ cần nhìn qua quốc gia Thái Lan, một giáo viên Tây phương có ý xúc phạm đến vị Vua trong giờ lên lớp, lập tức sẽ bị xử án mấy năm tù. Vì sao người ta nghiêm ngặt đến thế! Có phải đó là văn hóa, là tự tôn dân tộc mà người Thái gìn giữ được?

Còn lãnh đạo Hà Nội thì sao???

Nói như mấy bà cụ đất Hà Thành là “Bố tiên sư nhà nó ...”, giới cầm quyền sợ hãi đã đành lại còn đem những người dám tuyên bố “Trường Sa-Hoàng Sa là của Việt Nam” ra kết án tù đày. Chẳng biết có ai ở Hà Nội đến dinh Thủ tướng để hỏi rằng. Ông ta đang vận động khối Asia để chống lại Trung Cộng về vấn đề biển đảo, nhưng chính ông Thủ tướng lại bỏ tù người dân nước mình khi lên tiếng về vấn đề đó, thật trớ trêu với ngược đời, ơi ông thủ tướng!

Nghĩ về Hà Nội mà buồn!

Hơn 200 năm trước, Vua Quang Trung là Nguyễn Huệ rượt đuổi tướng Tàu Tôn Sĩ Nghị chạy ... có cờ ..!

Hơn 200 năm sau, lãnh đạo Việt Nam cũng là họ Nguyễn Tấn Dũng - Nguyễn Minh Triết, và tên giặc Tàu bây giờ cũng là họ Tôn ... đấy chứ!
    Sao các Ngươi lại sợ cái đám con cháu Tôn Sĩ Nghị ???
    Hãy đem tên Đại Sứ kia ra mà xử để khai lễ: Ngàn Năm Thăng Long.
    Ơi người Hà Nội!
Nguyễn Duy Thành


Wednesday, January 27, 2010

CÁI CHẾT CỦA SỬ GIA PHẠM VĂN SƠN - Nguyễn Văn Dưỡng

Nguyễn Văn Dưỡng

Trước năm 1975, ở miền Nam, ông Phạm Văn Sơn là một trong rất ít những vị viết sử. Bộ sử được nhiều người biết đến nhất của ông là bộ Việt Sử Tân Biên.

Tôi hân hạnh được làm việc dưới quyền chỉ huy của ông từ năm 1958 đến 1960. Thời gian này ông mang cấp bậc Thiếu tá, giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Quân Báo & Chiến Tranh Tâm Lý Cây Mai; tôi mang cấp bực Trung úy, là huấn luyện viên và sĩ quan an ninh của Trường. Chính trong thời gian này, ông đã tu chỉnh bộ sử nói trên và cho tái bản.

Những thì giờ nhàn rỗi, tôi đã tình nguyện giúp ông. Tôi được ông giới thiệu đến gặp ông Lê Ngọc Trụ, công chức làm việc ở Thư Viện Quốc Gia -- lúc đó còn nằm trên đường Gia Long -- để nhờ hướng dẫn sưu tầm tài liệụ Ông Lê Ngọc Trụ còn là một học giả, giảng sư Ngữ học của Đại học Văn khoa Saigon, đã chỉ dẫn cho tôi tìm được khá nhiều tài liệu và sách viết bằng tiếng Pháp về thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Các tài liệu này cũng như những tài liệu quý giá khác, giúp cho ông Phạm Văn Sơn tu chỉnh Việt Sử Tân Biên. Thời gian làm việc với ông, tôi đã học được ở ông nhiều điều về viết lách.

Năm 1961, trường Cây Mai đổi tên, chỉ còn là trường Quân Báọ Ngành Chiế Tranh Tâm Lý tách ra riêng, đuợc dạy riêng ở một trường của ngành này, mới thành lập, ở một địa điểm khác; do đó, Thiếu tá Phạm Văn Sơn cũng được thuyên chuyển về ngành Chiến Tranh Chính Tri.. Sau đó không lâu, ông được bổ nhậm vào chức vụ Trưởng Ban Quân Sử của Quân Lực VNCH, thuộc Bộ Tổng Tham Mưụ Ông lần lượt được thăng đến cấp I.a.i tá và giữ nhiệm vụ này cho đến ngày miền Nam sụp đổ.

Tôi nghĩ rằng, với khả năng của ông và và dưới sự chỉ đạo của người viết sử sở trường và kinh nghiệm như ông, hẳn là Ban Quân Sử Quân Lực VNCH đã viết được những bộ sử chiến tranh VN cận đại quí giá, nhất là binh sử thời kỳ sau năm 1954 trở đị Tôi nghĩ như vậy vì tôi biết ông PVS rất thận trọng, không thể khinh xuất trong nhiệm vụ của mình và càng không thể để cho thuộc cấp khinh xuất. Ngày trước ông thường bảo tôi :"Phải cố gắng làm sao cho mức độ trung thực và chính xác cao chừng nào tốt chừng đó, như vậy thì những điều mình viết về sử mới mong có thêm một chút giá trị Việc sưu tập những sự kiện, chứng tích, tài liệu có độ xác tính cao nhiều chừng nào thì việc so sánh, nghiên cứu, lượng giá, đối chiếu ... dễ chừng nấy". Ịó là lề lối làm việc nghiêm cẩn, thận trọng của ông. Vì vậy sau này, năm 1972, tôi đã không ngạc nhiên khi chiến trường An Lộc còn đang sôi động với những trận đánh đối tuyến chỉ cách nhau có một con đường, giành nhau từng góc phố -- giữa các đơn vị VNCH và quân CS Bắc Việt -- khi những cơn pháo kích dữ dội của địch quân chưa giảm, khi không một chiếc trực thăng nào đáp xuống An Lộc mà không sợ tan xác,tôi đã thấy ông hiện diện ở chiến trường này để tìm hiểu sự thật viết về trận chiến khốc liệt đó.

Lúc bấy giờ, tôi là Trưởng Phòng 2 của Bô Tư Lệnh Hành Quân của tướng Lê Văn Hưng, đã cung cấp cho ông những tài liệu, sự kiện "sống" nóng bỏng, chính xác và đầy đủ. Tuy nhiên, muốn viết cho trung thực hơn, ông đã ở lại trong hầm chống pháo với tôi một đêm, thức trắng để nghe tiếng đạn pháo của địch quân rơi trên đầu mình và xung quanh đâu đó, vừa hỏi tôi thật chi tiết về những sự kiện ghi trong nhật ký hành quân (mỗi phòng của Bộ Tư Lịnh Hành Quân đều có) kể cả tài liệu, cung từ tù binh của địch bắt được trong các trận đánh trước ở đó.

Sau khi ông rời An Lộc, không bao lâu mặt trận được giải tỏa, tôi đến Bộ Tổng Tham Mưu để gặp ông thì được biết ông đã ra Quảng Trị để làm nhiệm vụ như đã làm ở An Lộc. Như vậy ông và những sĩ quan thuộc cấp trong Ban Quân Sử đã hiện diện ở khắp chiến trường lớn để tìm sự thật viết về binh sử...

Tôi nêu lên những chi tiết trên đây mong các bạn hình dung được tư cách khả trọng của một người viết sử chân chính, ông PVS, một người đã thành danh trong giới trí thức VN, để rồi tôi xin kể lại những ngày cuối cùng bi đát trước cái chết thảm thương của ông trong lao tù, dưới chế độ bất nhân, tàn độc của CSVN.

Ngày 30/4/75, như mọi người đều biết, Dương Văn Minh, một tổng thống phi hiến định, tuyên bố đầu hàng CS Bắc Việt vô điều kiện, Quân Lực VNCH bị bức tử, buông súng, tan rã. Một số tướng lãnh, sĩ quan cấp tá, cấp úy tuẫn tiết. Tất cả những sĩ quan còn lại ở miền Nam vào lúc đó, bị dồn vào các trại tập trung tạm trong lãnh thổ miền Nam, cùng với các cấp chỉ huy cảnh sát, công chức cao cấp và các nhà hoạt động chánh trị trong các đảng phái miền Nam.

Một năm sau, CS đưa tất cả những người mà họ gọi là có "nợ máu" nhiều nhất với nhân dân miền Bắc, giam giữ và bắt lao động khổ sai ở những trại giam trong rừng sâu nước độc của Thượng du và Trung du Việt Bắc. Một số sĩ quan và công chức khác còn bị giam giữ ở các trại cải tạo miền Nam.

Tháng 6, năm 1976, đợt tù nhân đầu tiên bị đưa ra Bắc, trong đó có tôi, bị dồn cứng dưới khoang của những chiếc tàu thủy cận duyên cỡ nhỏ. loại chuyên chở của quân đội CS. Sau 4 ngày 4 đêm, tàu cập ở Bến Thủy thuộc Vinh. Từ đó vào nửa khuya, chúng tôi bị chuyển vào bờ, lần này thì bị dồn vào các toa tàu hỏa dùng để chở súc vật, lên phía Bắc.

Ngày 15/6/76 -- ngày duy nhất mà tôi nhớ suốt 13 năm tù -- đúng một năm sau ngày tôi đưa đầu vào cùm ở trường Don Bosco ở Gò Vấp -- trên chuyến tàu hỏa nói trên, qua một kẻ hở thật nhỏ của toa tàu, tôi đã nhìn thấy nhà thương Bạch Mai và ga Hàng Cỏ, những địa danh của Hà Nội mà tôi đã được đọc qua trong các tác phẩm của Tự Lực Văn Ịoàn, thuở tuổi học trò. 2 sĩ quan tù nhân cấp Tá đã ngộp thở chết trong toa chở súc vật, quãng giữa đường Việt Trì - Yên Báị Kể từ đó, có thêm hàng trăm tù nhân đi trên những chuyến tàu định mệnh này đã ngã xuống ở các trại tù miền Bắc, vĩnh viễn không còn thấy được những chuyến tàu xuôi Nam ... Trong số những người này có Đại Tá Phạm Văn Sơn.

Một số tù nhân trên dưới một ngàn người trên các toa tàu này được đổ xuống ga Yên Bái, trong số đó có tôị Từ ga Yên Bái, bộ đội CS dùng xe quân sự Molotova chuyển chúng tôi theo đường bộ lên Sơn La giam giữ ở các trại giam dành cho quân nhân. Tôi ở đó được một năm rồi bị chuyển sang trại giam công an, cũng ở Sơn La, trong 2 năm nữa.

Năm 1979, trước cuộc chiến ngắn ngủi giữa Trung Cộng và CSVN không bao lâu, tất cả chúng tôi -- những tù nhân chính trị -- ở những trại giam trên các tỉnh biên giới phía Bắc và Tây Bắc được chuyển về các trại giam vùng Trung Du và các tỉnh phía nam, tây nam Hà Nội, như các trại giam Tân Lập (Vĩnh Phú), Nam Hà (Nam I.i.nh), Thanh Phong (Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh),...

Sự chuyển dồn trại như vậy làm cho đời sống lao tù chúng tôi đã cơ cực càng cơ cực hơn, ăn đã đói càng đói hơn, mỗi người không có được đến 4 dm2 để có thể nằm ngửa, phải nằm nghiêng chen chúc lẫn nhau mà ngủ sau mỗi ngày lao động nặng nhọc, nên phòng giam nào cũng hôi hám, thiếu ánh sáng, thiếu không khí đến ngộp thở, bao nhiêu chứng bệnh ngặt nghèo nguy hiểm đã bộc phát trong anh em chúng tôi, thuốc men không có để trị, mạng sống của mọi người cũng bị Tử Thần rình rập từng ngày từng đêm.

Da số anh em chúng tôi được đưa về trại giam Tân Lập do công an quản chế, bây giờ đặt dưới sự chỉ huy của Trung Tá công an Nguyễn Thủy, một tên cán bộ chữ nghĩa viết chưa hết một lòng bàn tay nhưng vẫn thích đọc thơ Tố Hữu và Huy Cận trước mặt anh em tù nhân, trong khi lòng dạ lại hiểm độc vô lường ...

Tân Lập là một hệ thống trại gồm một trại chính và nhiều phân trại thường được gọi là K, đánh số từ K1 đến K7, nằm rải rác hai bên bờ một nhánh sông bắt nguồn từ sông Lô, chảy qua xã Tân Lập, tỉnh Vĩnh Phú. Tôi đến Tân Lập ngày nào năm đó, đã không còn nhớ nữa, chỉ nhớ là lúc đó trời đã bắt đầu trở lạnh; dù vậy, sau mỗi buổi lao động vẫn phải theo mọi người ra những bãi vắng trên sông này để tắm trước khi về trạị Chính ở các bãi tắm này chúng tôi mới thấy hình hài khốn khổ của nhau, vì mọi người đều trần truồng. Trong khi số tù nhân từ Sơn La mới chuyển về người ngợm còn chút thịt da, thì, những anh em tù đã ở trại giam K2 Tân Lập từ mấy năm trước thân thể chỉ còn da bọc xương, đến 2 bên mông là nơi lý ra phải còn có chút thịt, cũng chỉ thấy có xương xẩu nhô hẳn lên, trông thật thảm não. Khi tắm ai cũng rét run, vì cái lạnh của trời và nước làm cho mọi người thấu buốt ruột gan ... bởi trong người không còn năng lượng để kháng nào nữạ

Tôi nói lên những điều này để chỉ rõ chế độ quản chế, đối xử với tù nhân chính trị của trại giam Tân Lập cay nghiệt hơn bất cứ trại giam nào mà chúng tôi đã trải qua trước đó, mặc dù chúng tôi biết rằng với chế độ tập trung cải tạo, trại giam là nơi CSVN giết người kín đáo nhất, ít đổ máu nhất, bằng áp đặt khổ sai vắt sức, bằng bỏ đói trường kỳ khiến cho tù nhân chết mỏi mòn vì kiệt sức, vì bệnh hoạn hay vì những lý do mờ ám khác nữạ Không một ai trong chúng tôi, lúc đó, thoát khỏi sự thách đố của định mệnh, của cái chết đến bằng nhiều cách ở bất cứ lúc nàọ Ở Tân Lập, bọn công an Nguyễn Thùy đã làm hơn những điều chúng tôi nghĩ, đã biết. Vì thế các tù nhân chính trị chết trong các phân trại Tân Lập nhiều hơn bất cứ nơi nào khác. Riêng ở phân trại K2, mấy tháng mùa đông cuối năm 1979, đầu năm 1980, mỗi ngày ít nhất cũng có 1 đến 2 tù nhân chết; con số tù nhân đến bệnh xá (không có một thứ thuốc men nào để trị bệnh), hằng ngày hơn 200 người, mục đích không phải là để xin trị bệnh, nhưng để được khám, chứng nhận là bệnh, để khỏi đi lao động, được ngày nào đỡ ngày đó, mặc dầu họ là những người bệnh thực sự cần phải được điều trị và miễn làm việc ...

Tại K2 Tân Lập, trong hoàn cảnh chung như vậy, tôi đã gặp lại ông Phạm Văn Sơn.. Tôi đã nhìn thấy tận mắt những ngày sống bi đát cuối cùng của đời ông.

Chừng một tháng sau khi đến K2, một buổi trưa, tôi và một người bạn tù khác cùng đợi đến phiên phải lên phạn xá gánh cơm về cho anh em trong đội ăn sau buổi lao động; trong khi chờ đến lượt mình nhận cơm, tôi đã vơ vẫn đến bên ngoài hành lang của một căn phòng nhỏ cạnh phạn xá, tôi thấy một người, đã nhận ra ông mà cứ ngỡ là đôi mắt mình đã nhìn lầm.

Ông chính là Dại tá Phạm Văn Sơn, vị chỉ huy trưởng ngày xưa của tôị Ông chỉ còn là cái bóng âm thầm, một cái xác sắp mục nát, bất động, câm nín sau chân song sắt, bên trong cửa sổ của căn phòng "cách ly", duy đôi mắt hiền hòa thì vẫn tinh anh như thuở nàọ Rõ ràng ông hiện hữu như một tĩnh vật có linh hồn sáng suốt, đang nhìn ngắm mọi sự vật đổi thay, quay cuồng điên đảo với những nhận định xuyên suốt, những ý nghĩ sâu sắc, cao xa nào đó một cách hữu thức, vì chính đôi mắt nhìn lắng sâu, và sáng kia là "cửa sổ linh hồn ông", cho tôi biết điều đó.

Tôi nhìn ông và ông nhìn tôị Trong một thoáng, quá khứ như chổi dậy; không biết vì mừng rỡ hay vì ngỡ ngàng xúc động, tôi chợt buộc miệng gọi lên:

- "Thầy" !

Chỉ một tiếng rồi lặng thinh. Tôi còn biết nói gì hay làm gì hơn khi mà ai cũng biết rằng mình bất lực trước hoàn cảnh bất hạnh nào riêng của mỗi ngườị

Mắt ông hình như sáng hơn, ông đã nhận ra tôị Trong gương mặt đã biến dạng, sần sùi của ông, với đôi môi khẽ chớp động, tôi đã nhìn thấy một nụ cườị Ông đã hiểu rõ tâm trạng của tôi, tuy ông lặng lẽ không nói một lời nàọ

Không một dấu hiệu, ông rời song cửa sổ. Chỉ chưa đầy một phút sau, cánh cửa ra vào của căn phòng nhỏ -- đang khép hờ -- mở rộng rạ Ông đứng ở ngưỡng cửa, thẳng thớm như đứng giữa giang san của mình, một giang san thu hẹp đến thật nhỏ nhoi, lạnh lẽo, cô độc ...

Với thế đứng vững vàng như vậy ông đã cho tôi ý nghĩ là, chính nơi này, nơi thật nhỏ nhoi này, là nơi ông đã tìm ra nguyên ủy, phương trình giải quyết và kết luận cho một nan đề khó giải quyết nhất, hay ông đang ấp ủ một điều gì thật to tát trong tư tưởng của ông. Nhận xét của tôi không thể nhầm lẫn vì ngày xưa nhiều lần tôi đã nhìn vào mắt và tư thế của ông mà đoán đúng những gì ông định ra lệnh cho tôi hay muốn nói cùng tôị Ở lần gặp lại này, tôi cũng linh cảm được ý nghĩ của ông như thuở đó.

Tôi định bước vào hành lang, tiến đến gần ông nhưng kịp thấy ông nhìn tôi khẽ lắc đầụ Tôi dừng lại và ghi nhận đầy đủ hơn tín hiệu của căn bệnh ghê gớm đã và đang tàn phá cơ thể của ông.

Ông đứng thẳng, hai tay chập lại để trước người, những ngón tay đan chéo vào nhau, chỉ nhìn tôi không nói một lời nàọ Ngày đó, trời đã la.nh. Tuy nhiên, tôi nghĩ không phải vì trời lạnh mà ông trùm kín đầu bằng một chiếc khăn lông trắng đã trở màu vàng, bẩn và lấm tấm những vệt máu, mủ. Vòng khăn quấn kín cổ chỉ chừa có đôi mắt, mũi, miệng và một phần rất nhỏ ở 2 bên má. Ông trùm kín mặt như vậy có lẽ đã che bớt đi những vết lở lói trên mặt mình, bởi chứng bệnh nan y của ông.

Thân thể gầy gò nhưng cộm lên vì mặc nhiều lớp áo quần bên trong; bên ngoài, ông mặc một chiếc áo mưa màu nhà binh đã thật cũ, sờn rách một đôi nơị Chân được bó lại bằng những mảnh vải quần áo cũ xé ra, dính đầy bụi đất và những vết máu, vết mủ.

Chỉ có một phần mặt mũi và hai tay của ông lộ ra, các phần thân thể khác không thấy được. Và chỉ có vậy thôi, tôi cũng nhận ra rằng không phải ông mang chứng lở lói bình thường mà tôi đã từng thấy, từng biết. Mũi ông đỏ ửng, bóng; hai má cũng vậy, cộng thêm một số vết lở lói; lông mi ở mắt đã ru.ng. Hai bàn tay cũng có những vết lở tấy, nhưng các ngón tay đã co lại, móng tay nhiều ngón đã bị khuyết lại hay mất hết: ông bị chứng phong hủi (leprosy) ở thời kỳ trầm trọng. Vì không có thuốc và vì điều kiện vệ sinh không thể có được trong tù nên bệnh của ông phát triển rất nhanh. Dó là lý do tại sao chỉ mới đi tù trong vòng bốn năm năm ông đã trở thành người tàn phế, bị cách ly riêng biệt.

Có lẽ người ta gán cho ông chứng bệnh lở lói là để tránh sự loan truyền căn bệnh cùi trong trại giam. Vả lại ông bị "cách ly", chỉ được ra ngoài vào những giờ mọi người đã đi lao động, không còn ai trong trại, nên ít ai biết rõ. Nhưng chính ông, ông biết rõ bệnh trạng của ông.

Tôi nhìn ông thật lâu, trong lòng xót xa, không biết phải nói gì, làm gì. Vị sĩ quan cao cấp chững mực với quân phục chỉnh tề trang nghiêm ngày xưa nay đã mang hình hài của một người tàn phế giống như một kẻ hành khất lở lói mà ai cũng có thể gặp ở đâu đó. Dôi mắt tôi nói rõ sự thương cảm của tôi đối với ông. Và một lần nữa ông cười, nụ cười nhăn nhún với một chiếc răng khểnh trong môi, như ông muốn nói với tôi rằng: "Tôi chấp nhận định mệnh của tôi, nhưng tư tưởng của tôi đã vượt khỏi thân xác nhỏ nhoi tàn phế của tôi rồị Anh đừng thương hại cho tôi".

Sau nụ cười là ánh mắt nhìn tôi sâu hơn. Trong ánh mắt đó của ông, tôi đã ghi nhận được sự thương xót của ông đối với tôị Hình như ông đã nhìn thấy lại người sĩ quan thuộc cấp trẻ tuổi của ông ở những ngày xưa, còn độc thân, mặt còn non sữa, nhưng sáng sủa và nhanh nhẹn, đã từng lúc làm ông hài lòng, cùng từng khi khiến ông phải chỉ bảo ... Ngày nay, hắn ta đã trở thành một người cằn cỗi, gầy ốm, lam lũ với áo quần chùm đụp rách rưới, má hóp, mắt thâm vì những ngày thiếu ăn, những đêm thiếu ngủ. Hơn thế nữa, hắn ta còn chưa biết phải làm gì trong cảnh tù đày và trong tương laị

Tôi chưa biết nói gì thêm, làm gì thêm ở buổi gặp lại ông trong hoàn cảnh khốn khổ đó, thì anh bạn cùng tôi đi lãnh cơm, tìm được tôi, thấy tôi đang đứng "nói chuyện" với Dại tá Sơn. Anh đến gọi tôi vì cơm anh đã lãnh xong để ngoài sân phạn xá.

Tôi tần ngần một phút nhưng rồi cũng phải theo anh trở lại phạn xá gánh cơm về cho anh em ăn. Chúng tôi chào từ giã ông, không thấy ông trả lờị Tôi quay đi, mang theo nỗi buồn thật lớn. Anh bạn nói với tôi :

- Dại tá Sơn đó, ông ta bị chứng bệnh nan y, vừa bị suyển, bệnh tim, lao phổị Ông không hề nói chuyện với aị

Tôi trả lời ngắn : "Xếp cũ của tôị"

Suốt ngày hôm đó tôi thẫn thờ vì những ý nghĩ miên man trong đầu óc tôị Dêm đó cũng không thể ngủ được. Tôi suy nghĩ về ông và những ngày tù đày của chính bản thân tôị

Quả thật, trong lần đối thoại bằng mắt ở buổi gặp lại lạ lùng này, ông đã nói với tôi thật nhiều về thân phận của ông và tôị Tôi biết rõ ông đã vượt khỏi cái thân xác bệnh hoạn yếu đuối nhỏ nhoi của con người, dẫn phần tâm linh của ông đến một cõi an bình nào đó, như một tín đồ công giáo tin tưởng sự an bài của Dấng Tạo Hóa về định mệnh của mình. Hơn thế nữa, trong tư tưởng, ông không chỉ còn là một người viết sử bình thường, một sĩ quan bình thường, mà đã trở thành một triết gia lớn biết cả cội nguồn của dân tộc và tổ quốc. Tâm trí ông đã đi ra ngoài thân thể ông để đến một khung trời bao la nào đó, cao rộng, hay ít nhất cũng phủ trùm trên bờ cõi VN.

Rõ ràng ông đã tìm được cho ông một lối thoát, sau khi đã trải qua đau khổ đến tột độ : thể xác nứt nẻ, nhức nhối vì bị gặm nhấm, rút tỉa bởi con máu độc hại của chứng bệnh nan y; bị bỏ đói khát lạnh lẽo, cô độc trong một nơi cách biệt đến trở thành câm nín. Bao nhiêu tháng ngày đau đớn oằn oại mà ông phải chịu đựng từng phút từng giây đó không đủ để ông trở thành một triết nhân hay sao, vả lại ông là một người thâm trầm, hiểu sâu học rộng...Dù sao thì ông cũng đã vượt thoát được đau khổ và tìm ra cho mình một con đường.

Một ngày nào thoát khỏi gông cùm CS, nếu tấm thân tàn phế của ông còn hơi thở, thì biết đâu khối óc phong phú và tĩnh đạt của ông sẽ không giúp ông trở nên bất tử trong lòng mọi người, vì những điều chứa đựng trong đó sẽ có thể cho chúng ta những hiểu biết về lịch sử VN -- trong thế hệ chúng ta -- một cách xác đáng nhất, tường tận nhất, đáng suy gẫm nhất vì sao chúng ta đã đau khổ triền miên trong cuộc chiến tranh tàn khốc dai dẳng vừa quạ Hay xa hơn nữa, biết đâu ông cũng có thể cho chúng ta một triết lý nhân sinh rút tỉa từ kinh nghiệm bản thân ông, khả dĩ giúp được nhiều người tìm ra sự an bình trong tâm hồn ở cuộc sống nhiều đau thương nàỵ

Tôi yên tâm phần nào về ông, vì tôi biết, dù ông là kẻ chiến bại trong cuộc sống, nhưng lại là người chiến thắng chính bản thân mình.

Còn tôi, ông đã nói cho tôi biết bằng ánh mắt, là ông thương cảm cho tôi, vì ông đã biết rõ tôi đã và đang còn mù mờ, quờ quạng trong đáy ngục, trong lưu đàỵ Tôi chưa nghĩ gì cho hôm nay và cho ngày mai hơn là phải sợ lao động nặng nhọc sáng nay hay sợ bị đói lạnh chiều nàỵ Tâm trí, tư duy của tôi là một thứ bong bóng.

Tôi phải gặp lại ông, tôi phải học tấm gương của ông, phải biết nhận chịu cái đau buốt tận xương tủy, để nghiền ngẫm về lẽ sống và tìm cho mình một con đường thích hợp nhất mà bước đị

Từ ngày đó tôi định bụng hôm nào thuận tiện tôi sẽ đi tìm ông, vì ông ở phòng "cách ly" không phải lúc nào cũng tự tiện mà dến được, bọn cán bộ cấm ngặt mọi tù nhân đến đó.

Trong mấy ngày liền, sau các buổi lao động xong về trại, tôi đi theo các bạn lãnh cơm lên phạn xá, lảng vảng đến gần căn phòng cách ly mong nhìn thấy ông để đến gặp, nhưng lần nào cũng trở về không. Rồi một buổi chiều tôi trở lại đó, từ xa tôi đã thấy ông sau xong cửa sổ, mắt đang nhìn ra xa xôi cao hơn bờ tường rào của trại trước mặt ông. Tôi muốn nhìn ông cho rõ hơn nên bước thêm mấy bước nữa rồi dừng lạị Một chập rất lâu, ánh mắt ông vẫn thế, không thay đổi hướng. Ở hướng đó, mặt trời chiều đã xuống thấp, nắng đã nhạt, mấy áng mây thật mỏng, ráng hồng, còn vơ vẩn, rồi bị gió xé nát rạ Tôi chợt thấy ông rùng mình.

Tôi tự nghĩ : Chẳng lẽ mình nhầm hay sao khi nhận xét về ông ở buổi đầu tiên. Không do dự nữa, tôi bước đến gần, đứng ngoài sân, trước hành lang, chào ông và khẻ hỏi :

- Chào Thầy, hôm nay Thầy có khoẻ hơn không ?

Ông quay lại nhìn tôi, nhẹ gật đầu nhưng không trả lờị Dôi mắt ông lại hướng về góc trời có một bóng mây vừa tan, một thoáng như mờ đi, như nghĩ ngợi, rồi chợt sáng hẳn ra nhìn thẳng hơn vào mắt tôị

Thôi, Thày ơi ! Tôi đã hiểu rồị Tôi đã hiểu trong lòng Thầy nghĩ gì và Thầy muốn gì ở tôị Lòng tôi trong một phút cảm thấy đau điếng.

Tôi có nên nói đến những điều này cho các bạn nghe hay không ? Liệu các bạn có tin rằng tôi nói bằng sự thật, bằng tấm lòng của tôi hay không ? Thôi thì tôi cứ nóị

Ông đã cãm nhận được định mệnh của ông rồị Hơn ai hết, ông hiểu rõ tình trạng sức khoẻ của ông. Ông chỉ sợ mình như ráng mây mong manh kia, sẽ phải tan rã mất đi vội vàng. Thời gian quí báo không còn nữa đối với ông, ngọn đèn hắt hiu trong tim ông sắp tắt, nhưng ngọn lửa lớn trong óc ông, đang rực sáng, không có chỗ thoát rạ Bốn bức tường của nhà giam này thật cay nghiệt; cái hoài bão của ông, niềm ấp ủ đã hình thành trong tâm não ông cũng sẽ tan biến mà thôị Ông không sợ bản thân ông bị tiêu hủy, ông chỉ sợ những điều đó bị tiêu diệt, tôi nghĩ như vậỵ

Với ánh mắt nhìn thẳng vào mắt tôi, tôi nhận ra hình như ông muốn ủy thác cho tôi một việc gì đó sau này -- khi tôi ra khỏi 4 bức tường của trại giam -- chẳng hạn như sẽ thay ông viết lên những gì mà ông muốn để lại cho những thế hệ tương laị

Nếu quả thật điều này tôi đoán đúng, tôi cam đành chịu sự thất lễ đối với ông. Dù tôi hiểu ông, nhưng làm sao tôi có thể hiểu tường tận những gì tách bạch định hình trong tư tưởng của ông.

Ông đã nghĩ gì, ông đã biết những gì -- hẳn nhiên là phải rộng lớn và khúc chiếc -- ông muốn viết những gì, làm cách nào tôi có thể biết được. Vả lại, những thứ ấy là những điều mà ông phải phấn đấu thật cam go với bệnh tật, với chính mình bao nhiêu năm trời, chịu đựng vô vàn đau đớn tủi nhục từ thể xác đến tâm não mới có được. Nó là của riêng ông. Làm sao tôi có thể cảm nhận được hết, khi mức độ thương đau của tôi có hạn định; làm sao tôi có thể viết những điều ấy thành lời.

Sở năng của ông là viết sử. Ngay ở công việc này, nếu tôi có hiểu biết một đôi điều, thì với khả năng của tôi, tôi cũng không thể thay ông mà viết nổi hết cái cao xa rộng lớn của ông, cái sâu sắc phong phú của ông, cái chiết trung tinh túy của ông, cái kinh nghiệm dồi dào của ông về những gì phức tạp nhất, nhiêu khê nhất, khuất lấp nhất của lịch sử ở thời đại nhiễu nhương nàỵ

Nếu tôi cần thời gian để có được những ưu điểm trên đây như ông, thì sẽ bao lâụ Có lẽ suốt đời đến khi nhắm mắt, tôi cũng không có được.

Hôm trước tôi gọi ông bằng "Thầy" để tránh tiếng gọi bằng cấp bậc đã trở thành "không thích hợp" nữạ Hôm nay, tôi cũng gọi ông bằng chữ đó, cùng nghĩạ Xét cho cùng, tôi chưa đáng là học trò của ông trên nhiều phương diện.

Tôi đành cam chịu sự bất lực rồị

Cái hy vọng giữ được cuộc sống của ông thật mong manh, cái hy vọng giữ sự hiểu biết trong trí não ông cũng không thể có, rồi cát bụi sẽ trở về với cát bụi mà thôi ... Bỗng nhiên tôi nghe mấy giọt nước mắt lăn trên má tôị

Ông nhìn tôi lặng lẽ thở dài rồi quay đị

Tôi trở về phòng giam của mình với tâm trạng buồn bã, mệt mỏị Tôi muốn làm vui lòng cố nhân, muốn làm tròn bổn phận với một cấp chỉ huy tôi quí trọng, nhất là khi ông đang ở trong hoàn cảnh khốn cùng, nhưng tôi biết tôi kém tài, thiếu khả năng để khả dĩ hoàn thành sự ký ủy của ông.

Sau buổi chiều đó, lại một đêm và nhiều đêm khác nữa tôi mất ngủ. Dù ông muốn hay không, tôi cũng thương cảm cho ông, xót xa cho ông. Niềm trắc ẩn của tôi không ngoài việc tôi biết ông cảm thấy sức khoẻ của ông đã cạn, ông biết ông sẽ không thể -- bằng cách nào đó, phổ cập được những gì đó thật hữu ích đã kết tinh trong não tủy của ông qua những tháng ngày đau khổ. Niềm hy vọng cuối cùng là ký thác những điều đó cho một ai đó có khả năng, cũng đã bị giập tắt. Sự cô đơn của ông bây giờ đã hoàn toàn, tất cả đã quay lưng lại với ông. Bên ông có lẽ chỉ còn Thượng Ịế là vị an ủi, là vị cứu tinh cuối cùng mà thôị Con người đã không còn trong tầm mắt và niềm hy vọng của ông nữa, mãi mãi ...

Sau đó không lâu, một buổi tối, bọn cán bộ trại tổ chức buổi chiếu bóng ngoài trời cho tất cả tù nhân xem ở cái sân rộng lớn giữa trạị Dêm ấy, trời đầy trăng sáng trong sương đêm loang loáng của mùa đông. Hơn 1,000 tù nhân được xếp hàng ngồi theo đội của mình trong sân. Tuy nhiên, mọi người khi cần thiết cũng có thể tách ra đứng lên đi tiểu ở một vài nơi mà CS đã chỉ định trước. Một nơi như vậy nằm bên trong bờ tường của phạn xá.

Dây là cơ hội may mắn cho tôị Khi phim chiếu được chừng một giờ -- phim gì đó, tôi không còn nhớ -- tôi đứng lên đi về phía ở bờ tường vào phạn xá, đến chỗ đi tiểụ Nhìn không có ai, tôi bước thêm mấy bước nữa, dừng lạị Chỗ tôi đứng chỉ còn cách căn phòng nơi ông ở không đầy 10 bước. Tôi không có ý định gặp ông, chỉ muốn nhìn thấy ông mà thôi, và tôi đã nhìn thấỵ Ông đứng bên trong cửa sổ, ở đó có ánh đèn le lói hắt ra, đang nhìn lên khung trời đầy ánh trăng bàng bạc trong sương. Giờ đó cũng gần khuya, ông vẫn thức, đứng nhìn trăng, nhìn trờị

Tôi đã hiểu rõ hơn tâm sự của ông. Tôi đứng nhìn ông một lúc khá lâu, rồi sợ bị bọn cán bộ bắt gặp, tôi quay trở ra về chỗ ngồi của các ban cùng đội và không xem gì được nữa ở những thước phim tuyên truyền còn lạị

Tôi lơ đãng ngắm nhìn những vì sao xa xa, ngắm vần trăng nhàn nhạt trên nền trời nhiều sương lành lạnh, diệu vợi, buồn man man.

Dêm trăng là khung trời của Hàn Mặc Tử, vầng trăng và ánh trăng là thơ của Hàn Mặc Tử, không phải của ông. Ông không là một thi nhân, ông là một nhà viết sử. Trăng đã thức trong máu để Hàn Mặc Tử làm thơ và ngâm thợ Trăng đã thức trong máu của ông, chỉ để ông thấy nỗi cô đơn của ông thấm đậm hơn mà thôị

Hàn Mặc Tử, ở những ngày cuối cùng của cuộc đời, còn nói lên được, còn viết lên được những điều muốn nói, những điều muốn viết, trong sự yêu chiều an ủi của một người đẹp yêu ông. Ông ta thật có diễm phúc so với nhà viết sử Phạm Văn Sơn. Vị sử gia của tôi trong những giờ phút cuối cùng này còn có ai đâụ Ông bị cách ly thân thể, bị chối bỏ tình cảm, tuyệt nguồn tâm sự đến trơ trọi cả linh hồn.

Ngày xưa, vua Hezekiah của Do Thái -- trong Thánh Kinh -- hơn mười mấy năm bị phong hủi cũng không cô đơn bằng ông, vì ông vua này vẫn sống trong hoàng cung lộng lẫy với hằng trăm cung tần mỹ nữ hầu ha..

Có lẽ chỉ một người chịu sự cô đơn như ông là một vị bác sĩ nào đó -- một nhân vật có thật -- trong tác phẩm "Kẻ Ịộc Hành" (Man Who Walks Alone) của một nhà văn Mỹ, tôi đã quên tên, đã hy sinh suốt quãng đời đẹp đẽ nhất của mình, tình nguyện đến một phương trời xa, phục vụ một trại hủi để chữa trị bệnh nhân bằng sự hiểu biết và lòng tận tâm của mình, cho đến một ngày chính ông ta bị truyền nhiễm chứng bệnh nan y nàỵ Khi trở lại quê hương, ông lại bị hất hủi, bị bỏ quên, cô đơn như một kẻ độc hành trong cõi đời thường như hoang vắng. Dù sao vị bác sĩ đó cũng đã làm tròn thiên chức của mình, đã hưởng được sự tự do để suy gẫm về cái triết lý của cuộc sống.

Còn ông, nhà viết sử của chúng ta, ông đã cô đơn bốn bề ở kiếp con người; loài người dưới đất quên lửng ông, trăng sao trên trời xa lạ với ông. Ông là kẻ cô đơn nhất trong loài người...ở những giờ phút sau cùng.

Dêm trăng này hay bao nhiêu đêm trăng nữa sẽ cho ông nhìn thấy gì, hay ông chỉ nhìn thấy sự hoang mạc đến tận cùng của cuộc đời ông trong những ngày còn lạị Hay hơn thế nữa, ông sẽ nhìn thấy nỗi tuyệt vọng vừa nhen nhúm trong tâm sự ông, về sự không thể làm tròn thiên chức của mình, sẽ lớn dần lên, sẽ còn đày đọa ông không biết bao lâu nữạ Ịêm không ngủ dưới trăng kia có ích lợi gì cho ông không...

Thì ra tâm sự con người thật phức tạp trước những sự kiện tưởng chừng như vô tình nhất, giản dị nhất.

Lần đầu tiên sau khi gặp lại ông, tôi tưởng ông đã yên tâm vì đã tìm cho mình được một con đường, một chân lý, đến độ khi nhìn ông tôi cũng cảm thấy yên tâm. Hôm nay, bởi những sự kiện mới mẻ tưởng như vô tình, tôi mới biết ông vẫn còn ưu tư khoắc khoải, nên lòng dạ tôi xốn xang vô cùng.

Tôi đã ngu muội và thật thà ở buổi chiều hôm trước, vì vô ý thức, tôi đã đẩy tình trạng cô đơn của ông đến cao độ nhất, bởi sự phản ứng tự nhiên, chân tình bằng mấy giọt nước mắt dại khờ, non nớt, rơi không đúng chỗ, đúng lúc.

Một giọt nước đã làm tràn miệng bát.

Dáng lẽ tôi phải tế nhị giữ nó lại, tìm cách an ủi ông. Biết đâu niềm hy vọng vẫn còn là ngọn lửa, tuy nhỏ nhoi, cũng sưởi ấm lòng ông để ông cảm thấy mình vẫn còn người tri kỷ, không cô đơn, còn có ý nghĩa với mọi ngườị Biết đâu như vậy sẽ làm cho ông yên tâm hơn. Dù cái chết có đến với ông, bằng cách nào đi nữa, ông cũng cảm thấy ấm cúng trong tâm hồn.

Niềm trắc ẩn xốn xang này đã trở thành sự hối hận triền miên trong tôi suốt 15 năm qua, chưa có dịp bộc lộ cùng aị Tôi thật khổ tâm.

Lúc đó, tôi thầm cầu nguyện Thượng Dế xui khiến cho những người CS thấy rõ chứng bệnh vô cùng hiểm nghèo, nguy ngập của ông mà tha cho ông ta, cho ông được trở về với gia đình. Dó là con đường duy nhất cứu được ông, cứu được cái hoài bão mà ông từng ôm ấp bao nhiêu năm quạ

Tôi đã thất vọng, ý trời không phải là ý ngườị CS chỉ hủy diệt những nhân tài đối lập, không bao giờ nhẹ tay với một aị

Rồi việc gì phải đến, đã đến.

Một ngày, chưa hết mùa đông, đầu năm 1980 (tôi không nhớ chính xác ngày tháng), buổi sáng sớm lất phất một cơn mưa phùn nhỏ, trời lạnh và đục, người ta đã đánh kẻng tập hợp tù nhân các đội ra ngoài sân để tuần tự cho xuất trại đi lao động như thường lê.. Bấy giờ tôi ở trong đội cưa xẻ gỗ súc. Dội chúng tôi ra hiện trường làm việc -- là hai dãy nhà lợp tranh, chỉ cách cổng trại vài mươi bước -- trong vòng mấy phút. Mỗi cặp cưa gồm 2 người, tự động vào giàn cưa của mình và xẻ những thân gỗ lớn thành những tấm ván dày hoặc mỏng dùng để đóng bàn ghế, vách nhà, sàn nằm trong trại, hay đóng hòm chôn tù nhân, chết bởi nhiều cách, đa số là chết vì bệnh và kiệt sức.

Chừng chín giờ rưởi hay mười giờ hôm đó, tôi đến nhận phần sắn phụ trội (đội cưa xẻ thuộc loại lao động nặng, có thêm một phần ăn phụ trội ở giờ giải lao, nhưng bất thường) vừa định quay về giàn cưa mình thì anh bạn hôm trước đi lãnh cơm với tôi, hôm nay vừa đi lãnh sắn ở nhà bếp, nói nhỏ vào tay tôi :

- Tin buồn !

Tin buồn có nghĩa là trong anh em của chúng tôi có thêm một người vĩnh viễn nằm xuống, cũng có nghĩa là đội của chúng tôi phải xẻ thêm những tấm ván để đóng chiếc hòm tạm bợ bọc xác bạn bè, một điều không ai muốn, nhưng ai cũng tình nguyện làm để biểu lộ lòng thương xót với người đã ra đị Biết đâu rồi ngày nào cũng đến lượt mình. Tâm lý trái ngược đa đoan là thế đó.

Tôi nghe anh nói xong, định hỏi xem là ai, nhưng anh đã bảo tôi:

- Di đi ...!

Trở về chỗ, vừa ngồi xuống đã thấy anh theo đến, ngồi sát bên, nói vừa đủ cho tôi nghe:

- Dại tá Sơn, "xếp" của anh, chết rồi !

Tôi sững sờ, tưởng chừng như ai tạt một gáo nước lạnh vào mặt, hỏi lại anh:

- Anh nói ... chết rồi, tại sao, hồi nào ?

Anh buồn bã thuật lại câu chuyện anh vừa nghe ở nhà bếp:

- Sáng nay, sau khi các đội đã xuất trại hết, "tụi nó" ra lệnh cho ông đem giỏ ra sân mang than đá vào bếp trại như những ngày trước. Không biết ông bưng vác đến giỏ thứ mấy thì kiệt sức, hộc máu tươi, ngất xỉu bất tỉnh. Khi chúng hay được cho mang ông lên bệnh xá thì mấy phút sau ông mất; cả người nhầy nhụa máu me, hình như bao nhiêu máu mủ trong các phần thân thể lở lói tuôn tràn ra hết ...

Anh nói tiếp:

- Giờ này có lẽ họ đã đem ông xuống nhà xác rồi !

Anh lặng lẽ bỏ đi, không nói thêm gì nữạ

Tôi như một kẻ mất hồn. Tôi đã hiểụ

Từ lâu nay, thỉnh thoảng chúng tôi thấy một chiếc xe tải chở vào trại loại than đá vụn vo thành viên tròn to như những trái "poids" lớn, dùng làm chất đốt ở bếp. Mỗi lần như vậy, họ đổ than đá ở phần sân ngoài bức tường, trước cửa vào nhà bếp. Bọn cán bộ ra lệnh cho ông hằng ngày dần dà chuyển hết những đống than đá đó vào bếp, trừ trường hợp trời mưa, phải chuyển gấp chúng cho người phu.. Như vậy, một người bệnh trầm kha như ông vẫn bị chúng vắt sức lao động đến giọt máu cuối cùng. Hôm nay ông đã ngả xuống như trăm ngàn nạn nhân khác dưới chủ trương giết người siêu dã man này trong các trại giam CS.

Sau buổi giải lao, tất cả anh em trong đội cưa xẻ đều biết về cái chết thảm thương của ông.

Ông đã mất rồi về cõi thiên đường đã mang theo sự chịu đựng và hiểu biết của ông, vốn dĩ không hề tưởng là đã có trong con người mang nhục thể. Cái gì của Thượng Dế trả về cho Thượng Dế.

Người ta ra lệnh xẻ gỗ đóng quan tài cho ông.

Tôi nhận việc ấy với những giọt nước mắt chảy dài trên má. Chỉ còn một chút đáp đền này thôi, hỡi cố nhân ơi ...

Nguyễn Văn Dưỡng


Các anh có hãnh diện không? - Huy Phương

Huy Phương

Trong bài “Ðêm Của Những Cánh Bướm Việt Ở Malaysia” tuần trước trên Nhật Báo NV, ký giả Ðông Bàn đã vô tình nhắc lại câu nói của giới taxi Kuala Lumpur , rằng “con gái Việt Nam đẹp lắm”. Khốn nạn thay câu nói này cũng đã phát ra từ cửa miệng một ông chủ tịch nước, Nguyễn Minh Triết trước đây. Thủy, một “cánh bướm đêm” tại Beach Club đã cay đắng hỏi lại những người ký giả cùng quê hương với cô: “Người ta nói vậy, các anh có hãnh diện không?”

Câu hỏi này đáng cho chúng ta chảy nước mắt. Lẽ cố nhiên câu trả lời là trăm nghìn lần không! Nhưng có một bọn người hãnh diện với câu rao mời trên, đó là những cái mặt mo như Nguyễn Minh Triết. Mặt mo vì không biết đến nỗi đau xót của thân phận đàn bà, là chị, là em, là đồng bào ruột thịt của chúng ta, vì vô phúc, phải sống dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam , “đem thân cho thiên hạ mua cười” từ xứ sở này đến quốc gia khác. Chúng tôi đánh giá nhân cách của một “con đĩ” hơn các ông chính khách của đảng Cộng Sản nhiều, vì họ còn biết liêm sỉ, còn biết thế nào là tủi nhục cho mình và cho đất nước hơn các ông.

Chuyện khổ đau của phụ nữ Việt Nam và cũng là điều ô nhục của cả dân tộc từ lâu nay đã được các cơ quan truyền thông hải ngoại kể cả trong nước thông tin đầy đủ, tuy vậy nhà cầm quyền Cộng Sản trong nước vẫn ngủ yên ù lì như những con gấu Mùa Ðông, không hề biết đến xót xa, khổ đau của đồng loại. Nói ra thì cũng chuyện thường tình, mà không nói ra, phải nuốt điều uất nghẹn vào lòng cũng là điều không chịu được.

Chỉ trong năm 2000, có khoảng nửa triệu phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị bán qua Trung Hoa, Macao, Ðại Hàn, Cao Miên, Thái Lan và nhiều nước khác. Năm 2003 phụ nữ Việt Nam bị đăng bán đấu giá trên Ebay Taiwan Website với giá bắt đầu là $5,400. Riêng trong năm 2005, theo bản tin của cơ quan UNICEF và Bộ Tư Pháp Việt Nam cho biết có 400,000 phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị bán ra ngoại quốc (10% của tổng số nạn nhân khắp thế giới). Cũng trong năm này, nhiều thiếu nữ Việt Nam bị đem ra trưng bày như món hàng sale, ngồi trong những tủ kính để khách qua lại lựa chọn ở Trade Fair ở Singapore.

Chỉ tính riêng con số phụ nữ Việt lấy chồng Ðài Loan là bao nhiêu? Theo thống kê chính thức Hà Nội, tính đến cuối năm 2003, có hơn 65,000 phụ nữ Việt Nam được cấp giấp phép (!) nhập cảnh vào Ðài Loan để “làm dâu ...”, nhưng theo đại diện của chính phủ Ðài Loan ở Sàigòn trong thời gian đó, thì “Hiện nay có khoảng 77,000 cô dâu Việt Nam tại Ðài Loan. Dự tính trong khoảng hai năm nữa con số cô dâu Việt Nam tại Ðài Loan sẽ lên tới khoảng 100,000 người”. Chỉ riêng tại Cần Thơ mỗi năm có khoảng 2,500 phụ nữ lấy chồng Ðài Loan, đó là con số thống kê từ năm 2000 đến 2004, được chính Hội Phụ Nữ Cần Thơ nêu ra. Con số ấy tính đến năm 2010 là bao nhiêu?

Ðàn ông ngoại quốc có thể bỏ tiền mua phụ nữ Việt Nam đem về nước làm người giúp việc không công kiêm nô lệ tình dục, hay cả hai. Tại các cơ sở môi giới, đàn bà đôi khi cầm bảng số đi trình diễn, hay cởi trần truồng cho người mua chọn lựa. Trên danh nghĩa là đi lấy chồng ngoại nhưng khi cô dâu đã theo chồng ra ngoại quốc, họ đã trở thành nô lệ bị giam giữ, không có quyền đi lại vì không có giấy tờ tùy thân, họ cũng có thể làm vợ cho cả gia đình hay bị mua đi bán lại như một món hàng để tiếp tục sa chân vào những ổ mãi dâm. Ðau đớn hơn là số trẻ em Việt Nam hiện nay đang ở trong các động điếm tại Phnom Penh, Kampuchea trong 15 ngàn gái mãi dâm, 52% là thiếu nữ và trẻ em Việt Nam.

Theo nguồn tin địa phương Prague, Tiệp Khắc được hãng thông tấn Việt Nam thuật lại chỉ trong vòng thời gian 15 tháng, các tổ chức mãi dâm đã đưa khoảng 50 cô gái Việt vào nước này. Các cô gái này phải trả từ $5,000 để được đưa lậu từ việt Nam sang với các hứa hẹn là giúp họ tìm được việc làm tại Ðông Âu. Họ có biết trước là sẽ bị đưa vào hang động của các tổ chức mãi dâm hay không, hay dù biết trước, thì đó cũng là lối thoát tốt đẹp nhất mà họ đã chọn.

Cảnh tượng hàng trăm cô gái xếp hàng cho bọn đàn ông Ðại Hàn, Ðài Loan đến xem mắt, lựa chọn đã là chuyện thường tình ở Saigon, đâu có gì mới lạ, không gây khó chịu hay làm ai động lòng xúc cảm. Cả một hệ thống làm tiền trên thân xác còm cõi của những cô gái đáng thương này, từ ma cô, công an, cảnh sát, nhân viên phường khóm cho đến các tổ chức làm giấy tờ xuất cảnh, khám bệnh, chích ngừa ... Ðây là một dịch vụ béo bở lâu nay được thả nổi, không được nhà cầm quyền kiểm soát hoặc được địa phương làm ngơ để chia chác, thủ lợi, nên Việt Nam loan báo, lần đầu tiên sẽ thành lập một công ty “tư vấn hôn nhân quốc tế” tại Saigon nhằm “bảo vệ quyền lợi của phụ nữ”, nghĩa là nhà nước VC sẽ điều hành chính thức việc bán phụ nữ ra nước ngoài ở đợ hay làm đĩ.

Tại Việt Nam, nạn mãi dâm bị coi là bất hợp pháp nhưng trên thực tế, tình trạng gái chơi, gái gọi dưới nhiều hình thức, công khai hay giấu kín đã lan tràn, phổ biến. Từ các thành phố lớn cho đến những vùng nông thôn, rừng núi, bãi biển xa xôi ở đâu cũng có nạn mãi dâm.

Cuối năm 2002, nhà cầm quyền Việt Nam nói là Việt Nam có 14 ngàn gái mại dâm, nhưng con số do giới truyền thông ước tính lại là 37 ngàn người. Con số này, nhà cầm quyền lấy ở đâu, phải chăng là trên những con số do địa phương báo cáo lấy lệ hay con số đã đưa vào trại “phục hồi nhân phẩm”? Trong đất nước Việt Nam từ Nam chí Bắc, đâu là không có đĩ điếm, đâu là không có các dịch vụ “ôm”. Phụ nữ Việt Nam hẳn là món hàng rẻ nhất thế giới? Con gái Việt Nam đẹp lắm! Nhưng con gái Việt Nam cũng rẻ lắm - “Người ta nói vậy, các anh có hãnh diện không?”

Con gái Việt Nam quả tình là đẹp, chẳng đẹp sao dám đem phô bày dưới nhãn hiệu “Duyên Dáng Việt Nam” đi trình diễn khắp nơi, không đẹp sao dám tổ chức hoa hậu toàn cầu, hoa hậu quốc gia, hoa hậu Biển, hoa hậu Núi mà người bỏ cả vài nghìn đô la để mua vé vào xem? Con gái Việt Nam đẹp lắm, không đẹp sao đàn ông tứ xứ đểu đổ xô đến Việt Nam để mua dâm hay đem về làm vợ?

Sao số phận đàn bà con gái Việt Nam lại ra nông nỗi này? Tại sao đến nay lại có hiện tượng cả một phong trào con gái Việt Nam coi rẻ nhân phẩm mình, đổ xô chạy theo đồng tiền, ra đi lấy chồng xứ lạ hay tự nguyện bán thân ngay ở trong nước. Ca sĩ, người mẫu, hoa hậu, sinh viên đại học đều có thể là gái bao, gái gọi. Vì sao trước khi Cộng Sản vào miền Nam con gái lấy Mỹ, lấy Phi, lấy Tây... đều bị xã hội lên án và coi rẻ. Còn bây giờ con gái lấy Ðài Loan, Ðại Hàn đều hãnh diện, tự hào. Người ta nêu ra những nguyên nhân kinh tế: gia đình khó khăn (78.94%), thất nghiệp (65.5%), cần tiền để giải quyết những nhu cầu trước mắt (62.56%), và do tâm lý hãnh diện được lấy chồng ngoại quốc (47.1%).

Tôi mạn phép xin nhắc lại, lời một đứa bé Việt Nam ăn xin ca cẩm, mà tôi đã viết trên trang này: “Ngoại ơi ngoại! Ngoại cho con 5,000 đồng, con cầu nguyện Bà cho con gái ngoại lấy được chồng Ðài Loan! Ngoại ơi ngoại! Ngoại cho con 5,000 đồng, con...”

Chỉ có một xã hội nền đạo đức suy đồi mới xẩy ra những thảm họa như thế.

- “Con gái Việt Nam đẹp lắm! Người ta nói vậy, các anh có hãnh diện không?”

Qua cuộc đời bất hạnh, khốn nạn của những người con gái Việt Nam sinh lầm trong chế độ, phải bán thân đi mười phương, câu hỏi này đáng ném vào mặt bọn lãnh tụ hôm nay. Câu hỏi khiến cho những người còn chút liêm sỉ phải đau lòng, nhưng bọn chúng thì không?

Tôi xin lập lại: “Chúng tôi đánh giá nhân cách của một ‘con đĩ’ hơn các ông chính khách của đảng Cộng Sản nhiều, vì họ còn biết liêm sỉ, còn biết thế nào là tủi nhục cho mình và cho đất nước hơn các ông”.

Huy Phương
ooOoo
    Đêm, của những cánh bướm Việt ở Malaysia

Đông Bàn

“Giá tiền thì tùy mấy anh muốn ‘tâm sự’ lâu hay mau. Tâm sự một tiếng đồng hồ, tụi em tính 400 RM; tâm sự nguyên đêm, tụi em tính 700 RM.” Cô gái tên Thủy nói thẳng với chúng tôi.

“Bọn anh không muốn tâm sự ‘một giờ,” cũng không muốn ‘nguyên đêm,” chỉ muốn mời mấy em đi ăn tối, nói chuyện cho vui thôi.” Chúng tôi trả lời.

“Vậy, anh trả bao nhiêu?” Thủy hỏi.

“200 RM được không?” Chúng tôi ướm giá.

Thủy quay lại hỏi ý kiến hai người bạn. Cả hai gật đầu. Thế là tất cả chúng tôi, sáu người, kéo nhau ra khỏi Beach Club, đi bộ đến một quán pizza gần đó.

Ðêm, trung tâm Kuala Lumpur, nhộn nhịp khác thường. Ðêm trong tuần cuối năm 2009 ấy, theo thời giá, một RM, đơn vị tiền tệ Malaysia, có giá khoảng bằng 30 xu Mỹ.

Giá tiền 700RM cô gái đưa ra lúc đầu cho một đêm, khi chưa mặc cả, xấp xỉ 210 đô la.

Hai ngày trước đó, khi đón taxi từ phi trường về khách sạn Citrus, nằm ở khu trung tâm Kuala Lumpur, người tài xế bản xứ hỏi chúng tôi có muốn gặp "Vietnamese ladies" không. Chưa kịp trả lời, tay tài xế nói thẳng: "Toàn là mấy cô Việt Nam. Rẻ lắm!".

Beach Club nằm trên đại lộ Jalan P.Ramlee, ngay trung tâm thủ đô Malaysia, và được xem là “một trong những hộp đêm nổi tiếng bậc nhất” quốc gia này.

Chúng tôi, một người đến từ California; một nha sĩ, tên Chu Văn Cương, đến từ Houston, và một dược sĩ, tên Phạm Lê Hoàng Nam, đến từ Úc Châu, đón một chiếc taxi. Cả ba chẳng biết phải đi đâu. Ðến cái tên của cái club cũng không biết. Bèn hỏi người tài xế: “Chỗ nào có Vietnamese ladies?” Người tài xế đáp ngay: “À, Beach Club. Beach club, toàn con gái Việt Nam.”

Ðến cửa quán, chúng tôi hỏi người bán vé: “Ở đây có người Việt Nam làm việc không?” Người gác cổng khoát tay vào bên trong, trả lời bằng tiếng Anh: “Tất cả đều là con gái Việt Nam!”.

Bước chân vào Beach Club, thấy rõ ràng sự phân chia của hai thế giới sắc tộc. Ðàn ông thì toàn là người có nước da nâu sậm hoặc đen, râu tua tủa, to như những người khổng lồ; phụ nữ thì toàn các cô gái trẻ, nhỏ thó, mắt lạnh lùng quan sát từng người khách bước vào.

Người ta nói, dân Á Châu “trông ai cũng giống nhau.” Nhưng người Á Châu, nhìn người nước mình, thế nào cũng nhận ra đó là người nước mình. Chúng tôi nhìn quanh, “có cái gì đó quen quen nơi khuôn mặt các cô gái.”

Chúng tôi chợt nhận ra, “nét quen quen” ấy chính là “nét Việt Nam” trên khuôn mặt các cô gái trẻ.

Không hẳn toàn bộ các cô gái làm việc tại Beach Club đều là người Việt Nam. Nhưng, chúng tôi ước lượng, có không dưới 90% là “người nước mình.” Sau này, chúng tôi sẽ biết, họ đến từ mọi miền đất nước. Ba cô gái mà chúng tôi mời đi ăn tối, đại diện cho cả ba miền: Hà đến từ Hải Phòng; Kim đến từ Ðồng Tháp; và Thủy gốc người Nha Trang.

Chúng tôi bước vào Beach Club, loay hoay mãi mới có một chỗ ngồi. Ngồi đợi, khá lâu, chẳng thấy ai đến hỏi thăm. “Không biết mình trông có quê mùa không mà ai cũng chê?” Tôi tự hỏi. Rồi đây, khi đi riêng với các cô Thủy, Hà, Kim, tôi mới hiểu lý do tại sao chúng tôi không được đón tiếp niềm nở ở cái hộp đêm “quốc tế” này.

Thấy chúng tôi ngơ ngác nhìn xung quanh, một cô lên tiếng trước, cụt lủn: “Hello.” Chúng tôi đáp lại: “Hello. Em người Việt Nam?” Cô gái khựng lại, ngập ngừng, quay sang một cô khác: “Ðụng hàng rồi!”.

Rồi cô quay lại chúng tôi, xưng tên Thủy, và ngỏ ý muốn tiếp chúng tôi. Thủy đề nghị để cô tìm thêm hai cô bạn nữa, cùng ngồi. Chúng tôi có thêm Hà và Kim.

Chúng tôi “ngã giá,” 200 RM mỗi người để được mời các cô đi ăn tối và nói chuyện khoảng 30 phút. Cả sáu người bước ra khỏi quán trong cái nhìn tò mò của tất cả các cô gái còn lại. Thủy quay lại, nói với cùng đồng nghiệp: “Chồng tụi em đây!”.

Trong số ba người bạn mới quen, Thủy là người bộc trực, mạnh mẽ, và ăn nói liếng thoắng nhất. Nhưng, càng tiếp xúc, chúng tôi càng nhận ra, ẩn giấu phía sau sự tự tin ấy là một tâm hồn yếu đuối, đầy mặc cảm và dễ tan vỡ. Một ai đó nhắc đến chữ “hạnh phúc,” nét mặt Thủy đanh lại. Cô khoát tay: “Trên đời này, cái gì cũng có, trừ hạnh phúc.”

Mặc dầu hết sức cẩn trọng khi tiếp chuyện với chúng tôi, đặc biệt đối với các câu hỏi về đời tư, Thủy buột miệng sau khi khẳng định “trên đời này cái gì cũng có, trừ hạnh phúc”. “Gia đình em tan vỡ cách đây vài tháng, và em bước chân vào nghề này cũng mới vài tháng. Ba em vừa mới mất, gia đình lâm vào hoàn cảnh khó khăn, rồi em sang đây, đi làm.”

Các cô, chia thành nhóm nhỏ vài người, hùn tiền, nhờ người bản xứ đứng tên và thuê một căn phòng nhỏ trong các chung cư. “Ðêm đi làm đến gần sáng mới về. Ngày thì ngủ vùi, ngủ suốt. Ðói bụng thì cơm hàng cháo chợ. Rồi đêm xuống lại ra đây làm việc.” Thủy cho biết. “Mấy anh đừng thấy tụi em ăn mặc đẹp đẽ như vầy mà tưởng tụi em vui ...”

Thỉnh thoảng, cô lại tỏ vẻ khó chịu khi chúng tôi hỏi các câu hỏi về đời tư, “Tụi mình nói chuyện gì khác đi. Ðừng hỏi chuyện gia đình.” Ngồi chung bàn, các cô Hà và Kim cũng tế nhị né tránh các câu hỏi đời tư. Không một ai muốn một ai khác tình cờ biết được gốc gác của mình. Và đó cũng là lý do tại sao chúng tôi phải chờ mãi ở Beach Club mới có người đến hỏi thăm. Hình như các cô, cũng như chúng tôi, nhìn thấy ở ba người thanh niên bước vào quán “nét Việt Nam, quen quen!”.

“Tụi em không muốn tiếp người Việt Nam. Nhưng không hiểu sao lại đi với mấy anh ...” Thủy nói.

Ngồi ở hai góc bàn là các cặp Nam-Hà và Cương-Kim. Cả bốn người cũng nói rất nhỏ, về gia cảnh của nhau.

Tất cả đều có điểm chung, là đằng sau những gương mặt còn rất trẻ ấy, bên trong những bộ đồ rất đẹp đang mặc trên người, là những câu chuyện đầy bất hạnh. Vừa đổ vỡ, vừa bế tắc, các cô sang đây mà lòng cứ nhớ về nhà, với câu hỏi như lời khẳng định, “Ai mà không muốn ở nhà, phải không anh?”.

Hà, tế nhị, nhưng cương quyết, từ chối trả lời mọi câu hỏi về đời tư. Tất cả những gì chúng tôi biết về cô, là cô đã từng có người yêu. Nhưng, “một sự đỗ vỡ ghê gớm lắm đã xảy ra.” Rồi cô quyết định sang Malaysia “làm việc.”

Qua những gì Hà nói, chúng tôi diễn dịch, cuộc sống của cô tại đây là chuỗi ngày vô cảm; không vui, không buồn, không ham muốn bất cứ điều gì, bất chấp mọi chuyện. Suốt ngày cứ ở trong nhà, cũng chẳng buồn nói chuyện với người cùng phòng, lặng lẽ như một chiếc bóng.

Chiếc bóng ấy, sẽ chờ ngày lùi dần, khi màn đêm buông xuống, lặng lẽ bước ra đường với bộ đồ thật đẹp. Nhưng, “đừng thấy tụi em ăn mặc đẹp đẽ như vầy mà tưởng tụi em vui ...”.

Kim, cô gái ngồi chung với Cương, xởi lởi hơn. Cô kể, khi lên tám tuổi, nhà có đám giỗ, cha cô nói ra chợ mua ít trái cây về cúng. Ông ra chợ, và chẳng bao giờ trở về. “Ba em bỏ em và gia đình từ khi em lên tám tuổi.”

Kim “đi làm” như thế này cũng vài tháng nay. Cô cho biết, từ Việt Nam, đi đến các nước trong khối ASEAN không cần phải có visa nếu cư ngụ dưới một tháng. “Bọn em đến đây, cố gắng làm việc trong một tháng. Sau đó về Việt Nam nghỉ ngơi, rồi lại sang một nước khác. Cứ như thế, xoay tua ...”.

Kim đã từng đến Singapore, có người yêu Singapore. Cô nói, rằng sẽ không bao giờ lấy chồng Việt Nam. “Ðàn ông Việt Nam không lo cho gia đình.” Cô khẳng định như vậy, sau khi kể cho chúng tôi câu chuyện về cha cô. Ông ấy nói, “đi mua trái cây về làm đám giỗ, và không bao giờ trở về nữa.”

Chúng tôi rời Beach Club lúc một giờ sáng. Phải năn nỉ lắm, các cô mới nhận số tiền 200 RM mỗi người, như đã thỏa thuận. Thủy thì ngần ngừ, rồi cầm lấy tiền. Kim thì nhất định không nhận: “Hay để bữa khác.” Còn Hà, chúng tôi phải vào tận bên trong quán. Nói mãi, cô mới cầm tiền.

Các cô trao cho chúng tôi số điện thoại, và cả email, hẹn “có dịp thì cứ liên lạc.”

Xe taxi đưa chúng tôi trở lại khách sạn. Và cũng trên chuyến taxi này, chúng tôi biết cuộc sống của các cô khó khăn ra sao. Người tài xế cho biết: “Beach Club này rất nổi tiếng. Trước đây, toàn con gái Thái Lan làm việc. Sau đó, mấy cô Philippines vào chiếm lĩnh. Vài năm gần đây, đến lượt mấy cô Việt Nam.”

Người tài xế nói, một cô Việt Nam vào, mang theo 4, 5 người bạn. Cứ như thế, bây giờ nói đến Beach Club là nói đến con gái Việt Nam. Khách thì toàn là người nước ngoài, họ đến đây, vì “con gái Việt Nam đẹp thật.”

Ðẹp để làm gì? Ăn mặc thật sang trọng, để làm gì? Khi mà mỗi lần bước lên taxi “đi tâm sự với khách,” là mỗi lần các cô phải đối mặt với nguy hiểm?

“Có đến hai tầng nguy hiểm,” Người tài xế nói. Có nhiều lần, chính các cô gọi cho anh sau khi “tiếp khách.” Có nhiều khách làng chơi hung bạo. Xong việc, họ không chịu trả tiền, lại đánh và cướp cả điện thoại của mấy cô Việt Nam. “Chính tôi cũng đã nhiều lần chở mấy em từ chỗ khách trở về Club này.”

Không ai muốn, hay dám, gọi cảnh sát để nhờ can thiệp. Và chính cảnh sát Malaysia cũng là nguồn nguy hiểm khác cho các cô gái Việt Nam.

Người tài xế taxi kể, “Ði taxi từ đây đến điểm hẹn cũng là thời gian nơm nớp lo sợ.” Bất cứ lúc nào, cảnh sát cũng có thể xuất hiện, chặn taxi và đòi kiểm tra giấy tờ các cô gái. Cảnh sát biết chắc chắn các cô làm nghề gì, và họ biết chắc chắn, đây là lúc có thể... kiếm tiền.

“Có cô nói với cảnh sát, rằng người đàn ông trong xe là bạn, nhưng cảnh sát hỏi lại, bạn gì mà người thì cầm hộ chiếu Việt Nam, người thì cầm hộ chiếu không phải Việt Nam?” Rồi cảnh sát nói rằng họ “nghi” các cô cầm giấy tờ giả, cần phải đưa về đồn cảnh sát, ngày mai gọi Tòa Ðại Sứ Việt Nam để xác minh.

“Không cô nào chịu về đồn cảnh sát. Họ biết họ không còn lựa chọn nào khác.”

Và đây là lúc cảnh sát Malaysia nháy mắt ra hiệu cho giới tài xế. Các tay tài xế taxi sẽ đóng vai trò trung gian, ra giá, mặc cả, thâu tiền cho cảnh sát, để được nhận hoa hồng, cũng từ cảnh sát.

Tiền, phải trao ngay. Không có tiền, phải ra ngân hàng, phải ra máy ATM. Không có ngân hàng, không có ATM, phải gọi bạn bè. “Phải làm tất cả những gì có thể, để có ngay tiền, trả cho cảnh sát.”

“Một lần như vậy, cảnh sát đòi 300 RM, và cho lại taxi 50 RM.”

Chúng tôi chia tay Hà, Thủy, Kim trong một khuya cuối năm Dương Lịch 2009. Một người trong nhóm nhắc lại lời của giới taxi, rằng “con gái Việt Nam đẹp lắm.” Thủy hỏi lại, “Người ta nói vậy, các anh có hãnh diện không?”

Cả ba chúng tôi đều yên lặng, không trả lời, cũng không nói với các cô rằng, trên đường từ phi trường về khách sạn, người ta đã nói, “Con gái Việt Nam rẻ lắm!”

Đông Bàn (Viết từ Malaysia)


Tuesday, January 26, 2010

Ngày lễ Quốc Khánh Úc Melbourne




Úc Châu, ngày 26-1-2010

Lá Cờ Vàng của Cộng Đồng Người Việt Tự Do ngạo nghễ tung bay trong nắng ấm hòa nhập cùng với các cộng đồng bạn để mừng Ngày Quốc Khánh của đất nước Úc.

Lá Cờ Vàng và chiếc áo dài Việt Nam cùng với các lá cờ và những bộ y phục dân tộc, cổ truyền của các sắc dân khác trong đoàn diễn hành đã làm nổi bật tính chất đa văn hóa của nước Úc mang đậm những màu sắc rực rỡ trong một không khí từng bừng vui nhộn của một ngày lễ hội.

Đoàn diễn hành đã được dòng người đứng hai bên đường hoan hô vổ tay hân hoan đón chào ... hy vọng rằng rồi có một ngày lá Cờ Vàng cũng sẽ được tung bay và đón chào trên khắp nẽo đường của đất nước Việt Nam.