Monday, January 11, 2010

Giáo Hội Công Giáo Việt Nam Và Vatican Đã Sai Lầm Khi Hợp Tác Và Hòa Giải Với Việt Gian Cộng Sản - Đinh Lâm Thanh



Đinh Lâm Thanh

Đạo công giáo đã dạy cho tín hữu: Ai tát con bên trái thì con đưa luôn bên phải ra cho họ. Đó là "đức yêu người". Phải lấy lòng vị tha để đối xử với kẻ thù nghịch của mình. Suy gẫm câu nói, người ta hiểu được dụng ý, đã là con người, dù sinh sống dưới hoàn cảnh nào, tội lỗi phạm đến mức nào chăng nữa thì cũng có thể cảm hóa họ được, vì bẩm sinh của con người sinh ra đều có chiều hướng thiện. Nếu vì một lý do nào đó mà hoàn cảnh xã hội tạo cho con người có những hành vi tội phạm, thì mầm mống Chân Thiện Mỹ vẫn còn tiềm ẩn và ngủ yên trong tiềm thức của họ. Nếu biết đánh thức lương tâm của những người đã mất linh hồn thì cũng có thể vực họ dậy để trở về đường chính nẻo ngay. Nhưng đối với cộng sản, khi loài người đã liệt chúng vào thành phần quỷ Satan, loài rắn dữ và loại thú độc thì phần tử nầy không còn lương tâm, trí óc, quả tim con người để có thể chiêu hồi chúng trở về con đường chính trực. Giáo hội Công giáo Việt nam cũng như Vatican dùng hình thức vị tha nói chuyện với loài quỷ dữ để hy vọng hợp tác và hòa hợp với chúng là một điều sai lầm. Như vậy khi có người vừa đưa má bên trái cho quỷ nó tát thì chúng chẳng cần đợi má bên phải ... mà đã ra tay ăn tươi nuốt sống lập tức kẻ đối diện. Vì cộng sản là loài gian manh ác độc, chúng không để sai sót bất cứ một kẻ thù nào, ngay cả việc giành ăn tranh quyền trong nội bộ với nhau. Đến giờ nầy, những ai còn nói chuyện lễ nghĩa, tình cảm, van xin, đề nghị thì đối với cộng sản, chỉ là một đám cừu non đứng trước miệng bầy sói.

Trước đây sau khi Nguyễn Tấn Dũng từ Vatican về, cộng sản đã cho đập phá tượng Đức Mẹ, lấy đất tòa Tổng Giám Mục và đàn áp giáo dân Thái Hòa. Tiếp đến, chúng tiếp tục vụ đập phá nhà thờ Tam Tòa.Và vừa qua, cũng sau khi Nguyễn Minh Triết thăm Roma trở về, chúng dùng mìn tự tạo phá hủy Thánh Giá của giáo dân xứ Đồng Chiêm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội dựng lên trên núi Chẽ còn gọi là Núi Thờ. Đây không phải là hành động cộng sản dùng trả đũa đối với những việc như việc đòi hỏi vật chất một cách bình thường của tôn giáo, mà chính là những vi phạm đức tin tôn giáo một cách trầm trọng. Cộng sản đã thẳng tay đập phá nhằm nhục mạ Đấng Tối Cao và thách thức sự phẫn nộ của hàng tỷ người Thiên Chúa Giáo trên thế giới. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và Vatican đã sáng mắt ra chưa hay vẫn còn tin tưởng vào những lời hứa hẹn đường mật của cộng sản, rồi chần chừ kéo dài thương thuyết để đi đến hợp tác ? Vatican có nhớ những gì Nguyễn Minh Triết đã nói trong cuộc gặp gỡ Ðức thánh cha vừa qua ? "Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của người dân và luôn coi đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc". Gáo nước lạnh của trùm quỷ Satan đã tạt vào mặt Vatican thì dù Hội Đồng Giám Mục Việt Nam có bao che cho chế độ cộng sản thế nào đi nữa cũng không thể che giấu được những đòn âm mưu quỷ quyệt ‘vừa đánh vừa đàm’ của Hà Nội với giới lãnh đạo tôn giáo quốc doanh !

Kẻ viết bài nầy không tin là Vatican "ngây thơ" trước mưu chước của cộng sản mà Vatican đã chấp thuận những đề nghị hòa giải với cộng sản do Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đề nghị trong chương trình đòi tài sản cho giáo hội trong thời gian qua. Đòi lại tài sản là việc cần thiết, một hình thức chống chế độ cộng sản nằm trong chương trình tranh đấu chung của toàn dân. Nhưng không nên xem đó là mục đích duy nhất để phục vụ quyền lợi giáo hội, và khi được thỏa mãn một phần nào vật chất là xem như cuộc tranh đấu của người công giáo đã chấm dứt. Vì người công giáo cũng là người Việt Nam, có bổn phận với giáo hội cũng như với dân tộc và đất nước. Như vậy trong vai trò lãnh đạo tinh thần, các vị trong Hội Đồng Giám Mục chỉ thực hiện được một nửa là những chủ chăn tốt đối với giáo hội mà quên hẳn vai trò công dân đối với một đất nước đang quằn quoại dưới gông cùm cộng sản. Nếu ví dụ trong thời gian qua đảng cộng sản đã đem lại công bằng, no ấm cho người dân, đem lại thịnh vượng cho đất nước, đem lại bình an, tự do, dân chủ và nhân quyền cho người dân thì những gì các vị trong Hội Đồng Giám Mục làm đều đúng. Nhưng Hội Đồng Giám Mục đã quên một điểm căn bản là cộng sản chỉ ban phúc lộc cho đảng viên cán bộ nhà nước và những ai bám theo ăn có với chúng. Cộng sản chính là kẻ chủ trương vô thần, đàn áp tất cả tôn giáo chân chính đồng thời chúng thành lập các giáo hội quốc doanh để chia rẽ tôn giáo. Trong trên 60 năm qua, chúng cô lập, tù đầy, hãm hại những ai yêu nước chân chính, bóc lột tận xương tủy người dân, ăn cắp tài sản quốc gia, tham nhũng vô độ và nhất là bán đất nhượng biển cho ngoại bang Tàu cộng như vậy chế độ cộng sản Việt Nam đã đi ngược với tất cả những gì mà các chủ chăn đã dạy bảo con chiên từ lúc mới lọt lòng mẹ. Theo thiển ý của người viết, một khi đường lối cộng sản hoàn toàn đi ngược với tín ngưỡng tôn giáo, đáng lý các vị trong Hội Đồng Giám Mục là những chủ chăn thì nên ưu tiên nghĩ đến quyền lợi từ tinh thần đến vật chất của con chiên dưới chế độ độc ác mà các vị đang sống. Trong bài "2009 Việt Nam Đã Vuột Mất Hai Cơ Hội" kẻ viết đã nêu lên hai dịp, trong đó Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã thiếu sót vai trò chủ chiên của một công dân đối trước hiện tình đất nước nên đã làm vuột mất một.

Ngày nay, cộng sản Việt Nam đã công khai đập phá tượng Đức Mẹ cũng như Thánh Giá là đã trở lại khiêu chiến với người Kytô hữu. Đây là một vấn đề trầm trọng, không bình thường như việc tranh chấp đất đai và có thể giải quyết bằng những hình thức chắp vá, bằng hứa hẹn và đon giản trả lại vài ba mẫu đất là xong chuyện. Người công giáo Việt Nam hôm nay không thể bỏ qua cơ hội để đảng cộng sản tiến tới giai đoạn chót là diệt hẳn giáo hội công giáo chân chính Việt Nam. Do vậy, đây là thời điểm người công giáo không thể xuống đường bất bạo động và ngoan ngoãn vâng lời chủ chiên tranh đấu theo hình thức van xin và hòa hợp, mà phải bạo động để tạo cơ hội cho các tôn giáo bạn, các đảng phái và tổ chức tranh đấu cùng xuống đường nhập cuộc.

Kết luận, trong giai đoạn hiện tại, không thể đơn giản xuống đường đối thoại van xin mà máu của người tín hữu phải đổ ra thì mới đánh gục được chế độ cộng sản vô thần. Vừa vào năm 2010, cơ hội tốt lại đến lần thứ hai trong tay Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, xin đừng để vuột mất thêm một lần nữa !

Cầu xin Ơn Trên và Hồn Thiêng Sông Núi phù hộ cho những ai tin và dựa vào sức mạnh của Thần Linh để kết thúc cuộc tranh đấu nhằm giải thể chế độ cộng sản.

Đinh Lâm Thanh


HÃY ĐỨNG LÊN NGƯỜI GIÁO DÂN CÔNG GIÁO VIỆT NAM

XIN NGƯỜI CÔNG GIÁO HÃY ĐỨNG LÊN LÀM LỊCH SỬ

Đông Lan

Triết Lý An Vi là một nền Triết Nhân Sinh nên tư duy của Ngài đâu thể thờ ơ với đại cuộc. Bên giường bệnh yếu đau, Ngài viết sách, viết tin thư gửi học trò trong giòng nước mắt khóc cho vận nước. Là một người học trò nhỏ của Thầy, dù biết Thầy mình còn là một Linh Mục, nhưng tôi chưa bao giờ nhìn được Thầy mình trong bộ áo dòng. Thầy xuất hiện trước mắt tôi là áo trắng nhà Nho, đơn sơ, khuy áo cài tay trái, dấu Tả Nhậm của dòng Việt tộc như Thầy thường ca tụng.

Lần đầu tiên tôi đọc đuợc những dòng chữ của Ngài khi viết về Đạo của Ngài chỉ trong vài trang sách ngắn ngủi trong gần 8000 trang sách viết cho dân tộc.
    AI LÀM CHO NGƯỜI HOÀ THUẬN ẤY LÀ PHÚC THẬT.
Hòa Thuận là một Nhân Đức Căn Bản Nhất cho các tín hữu Ky Tô, là đức tiên phong, là nền tảng của Đạo. Riêng với hiện tình Dân Tộc Việt, mặc dù bao chia rẽ, hào quang anh hùng liệt nữ năm ngàn năm sáng ngời tâm thức mỗi người dân Việt mến yêu.Dù cho bạn ở bên này hay bên kia bờ đại dương, dù ở vòng vây nào của lợi danh hay đảng phái, phe nhóm, dù ở góc tối nào nhất của cái vỏ ốc, miệng giếng, ngõ cụt của cá nhân, tập đoàn … ta vẫn chung nhau một tấm gương soi, chia chung niềm tự hào rất Việt:
    Nực cười châu chấu đá xe,
    Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng.
Cho nên, cứ mỗi lần nước có họa diệt vong, cái điểm linh diệu ấy lại trỗi lên trong đáy lòng , mà kêu gọi nhau hãy nương nhau mà thực hiện chân lý Hoà của tiền nhân, để cứu nguy cho vận nước.

Cũng trong tinh thần ấy, Cố Triết Gia Kim Định, đã đặt nặng vai trò của người Ky Tô hữu, trong sứ mạng làm Hòa Thuận lòng người- Điểm căn bản của Đạo – trong tinh thần thực hiện đoàn kết với các tôn giáo bạn để Thống Nhất Dân Tộc:

“Riêng với Việt Nam thì đó là vấn đề sinh tử, tức vấn đề lập lại nền thống nhất dân tộc là điều tiên quyết cho việc cứu quốc, kiến quốc”.

Những thời gian ban đầu của Đạo không bình thường êm ái, vì Đạo là Đạo của Phương Tây, của Kẻ Mạnh đang trên đường thống trị. Dấu Chân Hội Nhập cũng là bước đường thương khó Việt.

Những đau buồn trong quá khứ cũng trôi qua, vì thời gian là liều thuốc tẩy đau thương.

Người giáo dân hôm nay trong mục đích mới đã khẳng định gánh vác cả hai vai Đạo và Đời, tức một vai Thiên Chúa, một vai Tổ Quốc.

Nhưng còn hạt nhân nối kết các niềm tin ấy, vai trò các vị tu sĩ không thể thiếu. Lệnh cấm không làm chính trị có lẽ chưa được thông diễn . Chính trị lập đảng nắm chính quyền, thì có thể cấm, vì tu sĩ không thể. Nhưng còn lo giúp nước giúp dân không màng địa vị, không mưu cầu tư lợi, chỉ vì nghĩa lớn mà làm, thì chỉ là lo “chính sự”, như Đức Giáo Hoàng cũng vẫn làm cho nước Ba Lan của Ngài vậy. Làm “chính sự” chính là việc làm “Mến Chúa, Yêu Người” của Đạo mà thôi. Vì khi người trong một nước cùng cảm thương , hỗ trợ cho nhau thì mới thực hiện phương trình ”Mến Chúa = Yêu Người” một cách thật sự thiết thực. Do đó, khi Tu sĩ mà làm hạt nhân, men YêuThương mới dậy bột, bánh Mình Thánh mới Thiêng Liêng, mới không thiếu sót thực hành lời Chúa dậy.

Dù tôn giáo Thiên Chúa chỉ mới 7% dân số trên toàn quốc, nhưng người ra hải ngoại có lẽ đông hơn. Nhất là thành phần nắm truyền thông lại đa số là Thiên Chúa giáo, và tổ chức chặt chẽ, với trên hai trăm giáo sĩ làm việc toàn thời gian, riêng tại Mỹ.Tôn giáo này có thể có sức hoạt động mạnh, nếu “Vai Tổ Quốc” được các vị tu sĩ gánh vác chung với giáo dân. Nền Văn Hoá Nhân Bản của nứơc nhà có cơ sở tâm linh vững chắc, niềm tin Tâm Linh sẽ khiến khuynh hướng Tôn Giáo Phục Vụ Tổ Quốc thành sức mạnh vô song. Lý tưởng Dân Tộc sẽ nghiễm nhiên đưa Tôn Giáo Về Với Dân Tộc một cách Vinh Quang nhất.

Chừng đó, nếu có một câu hỏi của Lịch Sử Việt dành cho Thiên Chúa Giáo: “Đạo Thiên Chúa đã đóng góp gì cho di sản Văn Hoá Việt Nam?

Thì câu trả lời làm hãnh diện cho những người có Đạo, sẽ là: “Giáo dân đóng góp Đức TẬN HIẾN, ĐỨC HY SINH, TÍCH CỰC và TẬP THỂ để CỨU NGUY DÂN TỘC”.

Chúa đã dạy: ”Nước ta không thuộc trần gian này”. Do đó trên trần gian này ta phải lo việc của dân ta, của nước ta. Vai Tổ Quốc phải mang, đó là chuyện thiêng liêng, xin người Thiên Chúa Giáo HÃY ĐỨNG LÊN LÀM LỊCH SỬ .

Thêm nữa, Cố Triết Gia Kim Định còn ngỏ lời kêu gọi chúng ta hãy đoàn kết tôn giáo để thống nhất dân tộc. Chính trong những năm dài đau yếu trên giường bệnh, Ngài không ngừng suy tư, đặt vận nước lên trên tất cả, mong muốn các bậc hiền nhân, nghĩa sĩ, cùng nhau vượt lên mọi khác biệt tôn giá , để trở về thực hiện bổn phận làm người Việt, làm con người với Tổ Quốc của mình trước đã.

Ngài ca tụng Đạo Tứ Ân của Phật Giáo Hoà Hảo. Tứ Ân là: Ân Tổ Tiên Cha Mẹ, Ân Đất Nước, Ân Tam Bảo, Ân Đồng Bào Nhân Loại. Cho nên người có tôn giáo này cũng đặt Vai Tổ Quốc làm trọng, nếu ta tìm thì sẽ thấy rất nhiều điểm chung để cùng đoàn kết với nhau lo cho dân cho nước. Các tôn giáo khác cũng thế. Tình Tự Dân Tộc sẽ chiến thắng các chia rẽ tôn giáo, vì nghĩ cho cùng, tổ quốc phải là điểm tựa chung thì mới có sức mạnh của cả dân tộc để làm cho lịch sử chuyển mình.

Chính quyền nào rồi cũng qua. Chỉ có Dân Tộc là còn mãi. Chế độ nào cũng chỉ là của một thiểu số , nhưng Tổ Quốc không phải của riêng ai. Gánh giang sơn, gánh Tổ Quốc là của chung, ta cùng bảo vệ, trách nhiệm, để không hổ thẹn với xương máu tiền nhân, anh hùng liệt nữ đã hy sinh cho non sông còn tồn tại đến bây giờ. Những lớp sóng phế hưng như dòng kinh dịch biến chuyển lưu ly, văn hoá là cái gì còn lại. Nền Văn Hoá Nhân Bản Tâm Linh của Minh Triết Việt là Đoá Hoa An Vi, năm ngàn năm vừa nở lại một lần, dẫu mang theo hồn vong quốc.

Triết Gia Kim Định đã ra đi trong đau thương ngậm ngùi còn vương vấn HỒN NƯỚC với LỄ GIA TIÊN.

Những tâm tư của Ngài gửi đến chúng ta một Thông Điệp Trở Về Với Đạo Làm Người của Tổ Tiên, để thịt không còn rơi, máu không còn đổ trong anh chị em một nhà một Mẹ Việt Nam. Mà nếu có phải đổ chăng, hãy xin đổ xuống cho Chính Nghiã Dân Tộc, để tưới thắm Cây Việt , cho mùa Hoa Nhân Sinh tưng bừng muôn màu cờ sắc áo tôn giáo liên kết đại đồng của Kỷ Nguyên Hoà Bình và Hạnh Phúc.

Đông Lan
07/01/2010
(Viết theo tài liệu Cẩm Nang Triết Việt của Kim Định)


Sunday, January 10, 2010

Bài Giảng của Linh mục Guise Phạm Minh Triệu tại nhà thờ Đồng Chiêm



Linh mục Guise Phạm Minh Triệu
Xin BẤM VÀO ĐÂY để nghe
    Bài giảng Linh mục Giuse Phạm Minh Triệu tại nhà thờ Đồng Chiêm
Thứ Tư ngày 06 tháng Giêng 2010

Kính thưa quý Cha đồng tế, Kính thưa quý tu sĩ nam nữ, Cùng toàn thể anh chị em,
Và chúng tôi cũng có lời chào với tất cả các cán bộ, nhân viên an ninh đã trà trộn chung quanh nhà thờ để cùng với chúng tôi chứng kiến cái biến cố đau thương xảy ra trong ngày hôm nay.

Anh chị em thân mến,

Không phải phụng vụ Hội Thánh hôm nay do chúng ta Mừng Lễ Suy Tôn Thánh Giá. Nhưng mà xét cho cùng thì trong suốt cuộc đời và đức tin người tín hữu thì Thánh Giá Chúa Giêsu Kitô là đời sống, là sự sống, là dấu hiệu, và là hành vi suy tôn từng giây, từng phút, từng hơi thở của chúng ta. Sáng sớm hôm nay, sau khi chúng tôi dâng Thánh Lễ về đến phòng thì nhận được tin rằng chính quyền đã cho hơn 500 lực lượng quân đội, công an, cảnh sát, chó nghiệp vụ đến để bao vây Núi Thờ và đã đập tượng Thánh Giá Chúa xuống, trong đó có anh chị em chúng ta bị đánh trọng thương.

Chúng tôi lúc đó không ai nói điều gì; cũng không ai than trách điều gì. Chúng tôi nhìn lên Thánh Giá mà chúng tôi cảm nghiệm được rằng: "Lạy Chúa! Mầu nhiệm cuộc tử nạn của con Chúa không chỉ xảy ra cách đây hơn 2000 năm. Nhưng ngày hôm nay, tại giáo xứ Đồng Chiêm, những người con của Chúa, những người tín hữu của Chúa và chính Chúa đang bị người ta chà đạp, bị người ta đập phá, bị người ta chống đối".

Một tiếng sau, có một đài nước ngoài gọi điện phỏng vấn tôi rằng: "Cha nghĩ thế nào về việc người ta đập tượng Thánh Giá tại Núi Thờ, giáo xứ Đồng Chiêm?". Tôi trả lời rằng: "Điều hợp pháp hay không hợp pháp, không ai để ý đến. Nhưng một tổ chức, một chính quyền nào mà xúc phạm đến biểu tượng tôn giáo thì chính quyền đó đang đi dần vào sự tự sát!"

Mà quả thực, trong lịch sử dân tộc Việt Nam người ta kể chuyện rằng tại núi Cùng, ngày nay được gọi là công viên ở đường Hoàng Hoa Thám; cuối đời Lý khi mà Lý Long Đỉnh là một ông vua tàn ác, ăn chơi,… đàn áp tôn giáo, cụ thể là Phật Giáo, đã lên Chùa Núi Cùng bắt sư sãi nằm xuống rồi róc mía trên đầu sư sãi. Và quả báo, đó là toàn bộ gần trọn đời nhà Lý bị phân tán, và bị tan cơ sạt nghiệp chỉ vì đã làm những điều thất đức.

Người ta hỏi: "Thế còn việc đập tượng Thánh Giá thì Cha nghĩ thế nào về hậu quả của nó?".

Tôi trả lời: "Cái điều này không lạ gì với người Công Giáo chúng tôi, là bởi vì đức tin của chúng tôi là đức tin Mầu Nhiệm Thập Giá, Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa chịu đau khổ mà ngày hôm nay người ta đập tượng Thánh Giá không có gì là ngạc nhiên đối với chúng tôi. Nhưng, chỉ có một điều ngạc nhiên rằng, cái lưỡi của nhà nước này, mới Lễ Giáng Sinh vừa qua vào Tòa Giám Mục, và các nhà thờ bắt chân, bắt tay, tặng lẵng hoa chúc mừng, Mừng Chúa Giáng Sinh. Và rồi mấy hôm sau chưa được hơn 10 ngày người ta vác búa đến, lực lượng quân đội, cảnh sát, chó nghiệp vụ đến, rồi mà […] hạ tượng Thánh Giá xuống. Coi như là một sự sỉ nhục vào chính bản thân mình. Chẳng khác nào ngửa mặt lên trời nhổ nước bọt".

Điều đó là cái điều khó hiểu đối với chúng ta.

Vậy thì tôi muốn chia sẻ với chúng ta về nội dung chính của Thánh Lễ hôm nay. Đó là chúng ta Suy Tôn Thánh Giá. Tất cả các biến cố xảy ra từ sáng đến giờ và màu trắng khăn tang đội trên đầu ông bà và anh chị em, cũng như là màu máu, màu đỏ của các Cha đồng tế hôm nay nói lên rằng, một lần nữa Chúa lại chết cho thế gian và Chúa đã chọn chính đất của anh chị em Đồng Chiêm ở đây để dâng Thánh Lễ hy tế cứu độ trần gian;.

Để một lần nữa, Chúa cảnh báo những quyền lực của tối tăm và sự dữ là hãy ăn năn sám hối vì tội lỗi các ngươi. Một lần nữa, Chúa lại bị đóng đinh, bị đập phá, bị giết chết. Thật vậy, Thiên Chúa đã yêu thế gian và đã ban con một của Người cho chúng ta, như bài tin mừng chúng ta vừa nghe. Mà con một Thiên Chúa đã không chọn gì khác, không chọn ngai vàng, không chọn đất đai, không chọn địa vị quyền tước. Nhưng con một Thiên Chúa đã chọn chính cây thập giá -- là biểu tượng ô nhục đối với người Hy Lạp và người Do Thái. Chính con Thiên Chúa đã chọn lấy để làm phương tiện cứu độ trần gian.

Trong lời nguyện khi đi đàng Thánh Giá, chúng ta đọc rằng: Thánh Giá là chìa khóa mở cửa Thiên Đàng cho chúng con được vào. Thánh Giá là cờ vua cả toàn thắng dẫn chúng con đến nơi kính quốc. Thánh Giá là tàu cả giúp chúng con vượt qua biển cả.

Vậy thì, ngày hôm nay biểu tượng là Thánh Giá của Chúa bị đập vỡ thì còn đâu là chìa khóa cho chúng ta vào nước Trời nữa hay sao? Có phải là khi họ đập Thánh Giá rồi thì không còn chìa khóa vào nước Trời, không còn cờ chiến thắng nữa, không còn con tàu để cho chúng ta vượt qua biển đỏ được hay sao? Không. Đối với thế gian họ làm như vậy là một sự sai lầm. Bởi vì nếu Thiên Chúa đã dùng chính thập giá làm biểu tượng của sự chiến thắng thì không có một quyền lực nào từ hỏa ngục có thể dẫy lên để chiến thắng được Mầu Nhiệm Thập Giá Con Thiên Chúa. Hơn 2000 năm nay, Thánh Giá luôn là biểu tượng của tình yêu, của sự hòa giải và tha thứ. Đồng thời, Thánh Giá cũng là biểu tượng của sự hoán cải.

Chắc chắn quý ông bà và anh chị em đau khổ rất nhiều, thất vọng rất nhiều. Nhưng đối với Đức Tin, chúng ta biết rằng khi mà quyền lực bóng tối đã lợi dụng tối tăm để làm những việc thất đức, bất nhân, bất nghĩa như thế thì chính Thiên Chúa sẽ củng cố Đức Tin của chúng ta. Có thể một thập giá bằng sắt, bằng đá trên Núi Thờ bị hạ xuống nhưng sẽ nẩy sinh và làm lớn lên hàng trăm nghìn cây thập giá trong tâm hồn của chúng ta.

Có thể nói rằng, trong số anh chị em ở đây nếu mà chiều Thứ Tư này Cha Sở có về dâng Lễ thì cũng được một hai chục người là cùng. Nhưng mà ngày hôm nay Chúa Giêsu cùng với chúng ta trong Mầu Nhiệm Tử Nạn là biểu tượng Cứu Độ của Chúa bị quyền lực bóng tối đập vỡ, thì Chúa đã mời gọi tất cả chúng ta đông đảo quy tụ về đây và trên đầu để những chiếc khăn tang để nói lên rằng: "Con yêu mến Mầu Nhiệm Thập Giá của Chúa". Và chính sự đau khổ của Chúa trên thập giá một lần nữa mời gọi chúng ta hãy nhìn lại Đức Tin của chúng ta.

Đức Tin của chúng ta không phải là tin vào cây thập giá bằng gỗ và bằng sắt. Nhưng, Đức Tin của chúng ta tin vào cây thập giá mà Con Thiên Chúa đã dùng để Chết và Sống Lại để cứu độ chúng ta. Và cây Thánh Giá của chúng ta là cây Thánh Giá được ghi dấu ấn ngày chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Chúng ta vẫn chú ý đến cây Thánh Giá đó mới là điều quan trọng. Và làm cho cây Thánh Giá đó sinh hoa kết trái; làm cho cây Thánh Giá trong cuộc đời của chúng ta trở thành chìa khóa, trở thành lá cờ chiến thắng, và trở thành con tàu vượt qua biển cả.

Đó mới là điều mà Giáo Hội muốn ta hướng tới. Chứ không phải là cây Thánh Giá bằng gỗ, bằng xi-măng mà quyền lực bóng tối ngờ nghệch bị lừa. Bởi vì chúng chỉ tin rằng sự sống của chúng là đời này, và hơi thở của chúng là tiền bạc. Trong Thánh Vịnh có câu rằng: "Kẻ ngu si tự hỏi làm chi có Chúa Trời?". Chúng hư đốn không còn biết làm những điều thiện.

Khi mà quyền lực bóng tối đã bao phủ thì chúng không còn cơ hội để nhìn ra ánh sáng. Nhưng chúng ta không chống đối. Chúng ta không cầu nguyện để rồi Chúa làm cho những con người đã đập Thánh Giá của Chúa phải chết một cách bất ưng hoặc là gặp sự khốn khó. Đức Tin Công giáo của chúng ta không cho phép chúng ta làm điều ấy.

Nhưng Đức Tin và Mầu Nhiệm Chúa Kitô Khổ Nạn và Phục Sinh mời gọi những con người đó hãy hoán cải đời sống nội tâm. Những đau khổ Chúa chịu chưa đủ hay sao mà còn chồng chất lên thân thể của Chúa những đau khổ khác. Những con cái của Chúa ngày hôm nay quanh năm lũ lụt chưa đủ hay sao mà còn tàn phá tâm hồn anh chị em nữa.

Tại sao không đi ra biên giới phương Bắc mà đòi hải đảo Hoàng Sa đang bị Trung Quốc mở các tour du lịch, lấn chiếm; rồi… các ngư dân của chúng ta đang bị đánh đập. Tại sao lại đi đàn áp tôn giáo từ Thái Hà, tòa Khâm Sứ, rồi xứ Loan Lý, rồi Tam Tòa,… Không chỉ Công Giáo rồi còn chùa Bát Nhã nữa. Ngày hôm nay đến lượt giáo xứ Đồng Chiêm chúng ta.

Người Việt Nam chúng ta nói rằng, khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một Mẹ chớ hoài đá nhau. Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng. Trong khi luồn cúi ngoại bang lại đi đàn áp chính đồng bào của chúng ta. Tại sao phải gieo rắc những khăn tang trắng trên khuôn mặt hiền từ của các bé thơ nơi đồng quê chất phác của chúng ta. Tại sao lại chất những gánh nặng nề đau khổ trên những tâm hồn tháo vác, quanh năm lụt lội. Còn mỗi một Thánh Giá là biểu tượng của niềm hy vọng để vươn lên sống làm người, làm con Chúa, làm công dân tốt, làm một tín hữu tốt mà tại sao còn chà đạp lên cả biểu tượng là niềm hy vọng của chúng ta nữa?

Nếu không phải là một chính quyền thì là một tà quyền, mới làm những điều đó. Bởi vì một chính quyền không bao giờ làm điều thất đức đó. Và không bao giờ làm điều lén lút đó vào đêm tối. Chỉ có lực lượng của ma quỷ, trộm cắp và phường cú vọ thì mới làm những chuyện đó vào đêm tối. Còn con cái của ánh sáng chúng ta làm việc giữa ban ngày để mọi người nhìn thấy việc lành của chúng ta mà ngợi khen Thiên Chúa. Nói như thế là để cho mỗi người chúng ta cám ơn Chúa.

Quan điểm cá nhân, Đức Tin của chúng ta là cám ơn Chúa vì Chúa đã dùng Đồng Chiêm của chúng ta để thực hiện một hy tế. Mặc dù hy tế không đổ máu, nhưng đã làm cho tất cả các tín hữu Đồng Chiêm […], mà ngày hôm nay trong vòng mấy chục phút mà toàn thế giới đã biết rằng chính quyền cộng sản Việt Nam đã đập biểu tượng Thánh Giá, biểu tượng của Công Giáo trên toàn cõi Việt Nam, và không phải là lần thứ nhất mà nhiều lần khác. Thì những cái bắt tay, những cuộc đi ra nước ngoài gọi là du hành, những cuộc thăm viếng vào dịp Lễ Giáng Sinh, có phải là bàn tay sắt bọc nhung, có phải là củ cà-rốt và cây gậy để rồi xoa dịu cái mưu đồ chính trị không?

Còn nếu đúng là một thiện chí, nếu đúng là một sự thương dân thì không bao giờ đập vỡ biểu tượng niềm hy vọng sự sống của con người quanh năm chân đất, quanh năm đau khổ vì thiên tai còn mỗi một cây Thập Giá trên Núi Thờ là nơi linh thiêng thuộc miền quê yêu dấu thì người ta cũng dập tắt niềm hy vọng của chúng ta. Có phải là một chính quyền hay là một tà quyền? Có phải là những người nghiêm túc hay là phường tội lỗi?

Cho nên, kính thưa quý ông bà cùng toàn thể anh chị em,

Không phải hôm nay chúng ta trút giận lên đầu chính quyền hay người đã thực hiện hành vi đồi bại như thế. Nhưng, chúng ta quy tụ về đây để chúng ta một lần nữa học hỏi về Mầu Nhiệm Thập Giá, để chúng ta phân biệt đâu là ánh sáng và bóng tối.

Thứ nhất, để chúng ta một lần nữa được củng cố nhờ lời Chúa, củng cố Đức Tin là Chúa Giêsu không chọn vinh quang trần thế. Nhưng Chúa đã chọn Thập Giá -- Mầu Nhiệm của Sự Đau Khổ -- làm phương tiện để cứu độ chúng ta. Thì đến lượt chúng ta thì chúng ta hãy lấy biến cố đau thương này như là chìa khóa, như là cờ chiến thắng, như là tàu để vượt qua biển cả để cứu mình và cứu người khác khỏi tội lỗi và khỏi chết muôn đời.

Thứ hai, chúng ta phải thấy rằng Chúa đã chọn Đồng Chiêm của chúng ta để thực hiện những kỳ công vĩ đại này, thì chúng ta phải tự hào mà an ủi lẫn nhau để rồi chúng ta không chỉ trồng một cây Thánh Giá bằng gỗ, bằng xi-măng, bằng sắt trên Núi Thờ, mà chúng ta sẽ trồng, không những trong tâm hồn chúng ta, mà khắp vùng của khu vực này những cây Thánh Giá thiêng liêng và bất tử. Những cây Thánh Giá là tín lý công chính, bình an và yêu thương cùng với sự hòa giải.

Và điều thứ ba, chúng ta không có ý tưởng cầu nguyện cho những người đập phá phải gặp tai bay vạ gió nhưng chúng ta xin Chúa Giêsu một lần nữa -- đã chịu đau khổ vì nhân loại -- ban cho những người đã làm các việc hôm nay xấu xa đó biết ăn năn hối cải, làm cho các nhà chính quyền, những người mà suy nghĩ nhất thời chỉ vì quyền lợi vật chất tiền bạc mà làm những điều xấu xa đó biết ăn năn trở lại, để rồi được ơn cứu độ.

Và quan trọng nhất là mỗi người chúng ta phải rèn giũa Đức Tin của chúng ta qua những biến cố này để chúng ta trưởng thành hơn, trưởng thành hơn trong sự đau khổ, trưởng thành hơn trong Mầu Nhiệm Thập Giá của Chúa. Và đó mới chính là con đường mà người Kitô hữu chúng ta phải đi qua. Bởi vì đó chính là con đường mà Giêsu -- Thầy Chí Thánh -- của chúng ta đã đi qua.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang mang trên đầu những chiếc khăn tang màu trắng không phải chúng con vô tình, nhưng chúng con tin rằng nhờ biến cố với sự đau thương này, Chúa nhắc nhở tâm hồn mỗi người tín hữu chúng con rằng, chỉ có bước vào con đường Thập Giá, chỉ có tình yêu hy sinh của Thập Giá mới đem lại Ơn Cứu Độ cho con người.

Xin cho chúng con nhận rằng những đau thương mà chúng con chịu trong ngày hôm nay, nếu máu của chúng con đổ ra xuống đất Đồng Chiêm ngày hôm nay sẽ là hạt giống, sẽ là sự bắt đầu của một mùa vụ thu nếu Năm Thánh Sở Kiện vừa qua thật là hoành tráng, thật là sốt sắng trang nghiêm thế nào, thì chúng ta phải biết rằng hàng hai trăm năm trước, máu của các Anh Hùng Tử Đạo cũng đã đổ ra như chúng ta này hôm nay, mà chúng ta tin chắc một điều là như vậy.

Anh chị em có tin vào điều đó không?

CĐ (Cộng đoàn trả lời): Có!

Anh chị em có định xây dựng Thánh Giá trong tâm hồn chúng ta không?

CĐ (Cộng đoàn trả lời): Có!

Anh chị em có cầu nguyện cho những người đó ăn năn sám hối không?

CĐ (Cộng đoàn trả lời): Có!

Đó là con đường của chúng ta. Đó là Ơn Cứu Độ của chúng ta. Vậy, lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng Thánh Giá mà cứu độ trần gian xin ban cho chúng con, và cho kẻ thù chúng con nữa, được ơn ăn năn thống hối, để cùng nhau xây dựng một Giáo Hội, một đất nước an bình để mọi người dân Việt Nam chúng con được hưởng nền thái bình thịnh trị, nhờ Mầu Nhiệm Sự Chết và Sống Lại của Con Một Chúa.

Amen.
    Phần 1





    Phần 2







CẬU Ánh Đi Sứ - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
    "- tôi sẽ làm việc với ông Smith và Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện để vận động cho Dự Luật Nhân Quyền Việt-Nam được thông qua nhằm áp lực nhà cầm quyền Việt-Nam tôn trọng nhân quyền và tự do tín ngưỡng". (Cao Quang Ánh Sunday, 21 December 2008)
Mấy hôm rầy làng lưới ta rôm rả tin tức ngài dân biểu Cao Quang Ánh đi sứ cố quốc. Đại diện một nhà nước đi thăm viếng xã giao, hay bàn bạc quốc sự với một nhà nước khác là đi sứ chứ gì, có đúng không thưa quí vị? Ngài Cao Quang Ánh là dân biểu Mẽo gốc Mít sang nước Annamít bàn chuyện nước, nói là đi sứ cố quốc cũng không sai chứ, có phải không? Cậu Ánh tuổi trẻ lại tài cao, làm tới chức Dân Biểu Quốc Hội Hoa Kỳ là một vẻ vang lớn cho người dân VN tỵ nạn chúng tôi. Thấy ngài được đi sứ trở về cố quốc, ai ai trong chúng tôi cũng nhìn về ngài mà trông đợi. Nhìn mấy tấm ảnh của phái đoàn đăng trên mạng, thấy ngài còn trẻ quá, giống y một anh sinh viên mới ra trường, nên kẻ hèn này xin phép được gọi ngài một tiếng bằng “Cậu” để tỏ ra cái tinh thần “thấy người sang bắc quàng làm họ” chứ chả có ý gì đâu. Cậu tha lỗi cho và đừng trách nghe.

Có 2 tấm ảnh cậu đăng trên Net. Một tấm cậu chụp chung với hai ông Mỹ mà một ông gốc Nhật Suzuki, Honda gì đó, và một thằng CS tên Nguyễn Thanh Sơn, thứ trưởng ngoại giao. Một tấm khác, tên thứ trưởng ôm vai bá cổ cậu trông thấy mà ham, đậm đà tình nghĩa quá chừng chừng. Trên cả hai tấm ảnh, cậu dân biểu trông nhỏ như đứa bé, giống một con nai tơ lọt thỏm giữa mấy con voi rừng đồ sộ. Tên VGCS ăn uống cái giống gì mà cũng to con như Mỹ vậy. Cái vụ cậu Ánh nhỏ con như rứa mà được đi sứ nước ngoài thì thật là hiếm có. Kẻ hèn này còn nhớ chuyện nước Tầu (lại Tầu???) thời Chiến Quốc, tể tướng nước Tề là Án Anh đi sứ nước Sở. Ông này cũng nhỏ thó, còn nhỏ hơn cậu Ánh nữa, nên khi đi sứ, bị vua tôi nước Sở coi thường và chọc quê quá chừng. Chuyện ngộ lắm, xin trích lại mấy đoạn hay hay mời bà con làng lưới đọc chơi cho vui. Chuyện thế này:

(trích) Chư hầu thấy nước Sở cường thịnh, đều tỏ ý sợ hãi, sai sứ đến triều cống. Quan đại phu nước Tề là Án Anh phụng mệnh Tề Cảnh Công sang sứ nước Sở. Sở Linh Vương bảo các quan triều thần rằng:

- Án Anh không đầy 5 thước, mà chư hầu ai cũng khen là người hiền. Nay các nước chỉ có Sở ta là cường thịnh hơn cả. Ta muốn làm cho Án Anh phải sỉ nhục để tỏ cái uy của nước Sở, các người nghĩ xem có kế gì?

Quan thái tể là Viễn Khải Cương mật tâu rằng:

- Án Anh là người tài ứng đối, tất phải dùng nhiều cách mới làm sỉ nhục đuợc hắn.

Viễn Khải Cương liền đem mưu kế tâu với Sở Linh Vương. Vương nghe lời. Đêm hôm ấy, Cương đem quân ra khoét một cái lỗ nhỏ ở bên cửa đông môn, vừa vặn độ 5 thước, rồi truyền cho quân canh cửa, đợi khi nào sứ nước Tề đến thì đóng chặt cửa giữa lại, rồi bảo chui qua cái lỗ nhỏ ấy mà vào. Được một lúc, Án Anh mặc áo cừu rách, đi cái xe xấu và con ngựa gầy, đến cửa đông môn, thấy cửa thành đóng, liền dừng xe lại, sai người gọi cửa. Quân canh cửa trỏ vào cái lỗ nhỏ ở bên cạnh mà báo Án Anh rằng:

- Ngài đi qua cái chỗ ấy cũng rộng rãi chán, cần gì phải mở cửa.

Án Anh nói:

- Đó là lỗ chó chui, chứ không phải chỗ người đi. Có sang nước chó thì mới vào cửa chó, chứ sang nước người thì tất phải đi cửa người.

Quân canh cửa đem lời nói ấy phi báo Sở Linh Vương. Vương nói:

- Ta muốn dỡn hắn, ai ngờ lại bị hắn dỡn lại.

Sở Linh Vương truyền mở cửa thành cho Án Anh vào. (hết trích)

Trong khi chờ đợi được triệu kiến, sứ giả Án Anh của nước Tề cũng còn bị nhiều giới chức quan lại trong triều đình nước Sở bầy trò diễu cợt, nhưng ông đã dùng tài ăn nói làm cứng họng được bọn người này. Trong buổi triều yết đầu tiên, Sở Linh Vương vẫn còn muốn thử tài (hay làm nhục không biết) Án Anh một lần nữa trước mặt quần thần. Câu chuyện như sau:

(trích) Sở Linh Vương ra ngự triều. Ngũ Cử (tổ tiên của Ngũ Tử Tư) đưa Án Anh vào yết kiến. Sở Linh Vương trông thấy Án Anh liền hỏi rằng:

- Quái lạ, nước Tề thiếu người hay sao?

Án Anh nói:

- Người nước Tề tôi hà hơi thì thành ra mây, vẩy mồ hôi thì thành ra mưa, đi thì phải chen vai, đứng thì phải chen chân, sao gọi là thiếu người.

Sở Linh Vương nói:

- Thế thì sao lại sai đứa bé này sang sứ nước ta?

Án Anh nói:

- Nước tôi vẫn có lệ: người hiền sang sứ nước hiền, người ngu sang sứ nước ngu, người bé sang sứ nuớc bé. Tôi ngưòi bé nhỏ mà hèn mạt, vậy mới phụng mệnh sang sứ nước Sở.

Sở Linh Vương nghe nói có ý hổ thẹn, nhưng trong lòng lấy làm la. Gặp bấy giờ có chức giao nhân đem dâng hợp hoan quất (quít). Sở Linh Vương cầm ngay một quả đưa cho Án Anh. Án Anh cắn ăn cả vỏ. Sở Linh Vương cười mà bảo rằng:

- Ngưòi nước Tề dễ thường không ăn quít bao giờ. Cớ sao lại không bóc vỏ?

Án Anh nói:

- Cứ theo trong lễ thì vua đưa cho quả gì, bề tôi không được phép bóc vỏ mà quẳng đi. Nay Đại Vương đưa cho tôi, cũng như Chúa Công tôi (tức Tề Cảnh Công) đưa cho tôi vậy. Đại Vương không truyền cho bóc vỏ, nên tôi phải ăn cả.

Sở Linh Vương có ý kính phục, mời ngồi uống rượu. Được một lúc, có 3, 4 người võ sĩ giải một tên tù đi qua dưới thềm. Sở Linh Vương hỏi:

- Tên tù ấy người ở đâu?

Võ sĩ tâu:

- Người nước tề.

Sở Linh Vương hỏi:

- Tên tù ấy phạm tội gì?

Võ sĩ tâu:

- Tội ăn trộm.

Sở Linh Vương quay lại bảo Án Anh rằng:

- Người nước Tề dễ thường quen tính ăn trộm hay sao?

Án Anh biết là Sở Linh Vương cố ý bầy ra để chế nhạo mình, mới đáp lại rằng:

- Tôi nghe nói thứ quít ở Giang Nam , đem sang trồng ở xứ Giang Bắc thì hóa ra chua, là tại thổ nghi không giống nhau. Nay người nước Tề, khi ở nưóc Tề thì không ăn trộm, khi sang Sở thì hóa ra ăn trộm, thế là tại thổ nghi nước Sở, chứ có tại gì người nước Tề!

Sở Linh Vương nín lặng hồi lâu rồi nói rằng:

- Ta định chế nhạo nhà người, chẳng ngờ lại bị nhà người chế nhạo.

Sở Linh Vương tiếp đãi Án Anh rất lễ phép, rồi tiễn về nước Tề. (hết trích)

Nhân việc Cậu Dân Biểu Cao Quang Ánh đi sứ nước Vẹm, cũng tiện thể, ôn lại câu chuyện Tể Tướng nước Tề đi sứ sang Sở, kẻ hèn này xin có một vài nhời bàn Mao Tôn Cương dưói đây:

1. Cả hai nhân vật cổ kim này đều có một ưu điểm giống nhau là nhỏ con và thấp. Án Anh lại còn có cái lưng hơi gù. Thứ lùn mã tử vậy mà gớm lắm chứ chẳng chơi. Nhất lé nhì lùn mà, không ăn trùm thiên hạ thì cũng hơn được khối người. Án Anh tuy được tiếng là người hiền, nhưng hiền chưa chắc đã giỏi. Cậu Ánh nhìn mặt có vẻ ngây thơ cụ, không biết có hiền hay không, nhưng hơn tể tướng nước Tề mấy cái bằng Ph.D là cái chắc. Đối đáp với bọn vua tôi nước Sở, Án Anh tỏ ra biến báo lanh lẹ, có lý sự, nhưng chẳng qua cũng chỉ là lý sự cùn với mấy chuyện lặt vặt. Cậu Ánh thì khác hẳn. Cậu nói ít, nhưng lời nói của cậu mang tính rất chiến lược. Cậu chỉ tuyên bố một câu, một câu thôi, đã cho cả bàn dân thiên hạ thấy được tương lai sáng lạn của cả hai nước Mỹ Việt thế nào rồi. Cậu nói thế này: “Dù còn bất đồng ý kiến trong một số vấn đề, nhưng tôi hy vọng hai bên sẽ hiểu nhau hơn và cùng làm việc cho tương lai của hai nước”. Đấy là sự nhìn xa trông rộng, cái hơn của một con người thời nay có “Mỹ học” là như vậy. (xin đừng lầm với mỹ học = Esthetics or Aesthetics).

2. Cũng nhờ có câu tuyên bố này mà mấy anh già lẩm cẩm như chúng tôi mới được sáng mắt, sáng lòng. Trước đây kẻ hèn này những tưởng tư bản và cộng sản là những thực tế không những đối lập về lập trường, tư tưởng, mà còn đối nghịch trong các chủ trương và hành động nữa, nên không thể dung hợp được. Chỉ có triệt dứt nhau thôi chứ nói gì đến tương lai. Ai ngờ giữa tư bản Mỹ và cộng sản VN chỉ có bất đồng ý kiến về một số vấn đề nhỏ nhặt thôi. Thế mà trước kia không biết sao, Mỹ uýnh nhau vói VGCS chết chóc, sứt càng, gẫy gọng không biết bao nhiêu mà kể. Thật là uổng phí xương máu. Nay cậu Ánh mới khai sáng cho, thật là phước đức.

3. Nhìn thấy cái hình tên Nguyễn Thanh Sơn bá vai bá cổ cậu Ánh thân mật, kẻ hèn này mừng đến rơi nước mắt. Trông cảnh tượng giống như người cha ôm đứa con. Người cha chứng tỏ rất thỏa mãn với đứa con trai của mình. Lối ngoại giao bá vai bá cổ do từ bà đệ nhất phu nhân Mỹ ôm eo Nữ Hoàng Anh mới “lancer” lên, bây giờ thịnh hành khắp nơi. Ấy vậy mà có nhiều người nghi ngờ về sự lợi hại của nó. Ôm nhau, người ta có thể tỏ tình nghĩa với nhau, nhưng cũng có thể dí lưỡi dao nhọn vào bụng nhau dễ dàng hơn nhiều. Những người lớn tuổi thường lo xa là vậy.

4. Còn chuyện này nữa, cậu Cao Quanh Ánh nói là đi để tìm hiểu. Không biết cậu tìm thấy cái gì và hiểu được ra sao. Giáo xứ Đồng Chiêm, gần Hànội bị công an đập bỏ Thánh Giá và đánh người gần chết ngay trong thời gian cậu Ánh có mặt tại Hànội, cậu có thấy không? Những người này vừa là đồng bào, vừa là dồng đạo của cậu nữa đấy. Theo ngu ý thì chẳng qua là bọn VGCS muốn bắt chước trò chơi của Sở Linh Vương, thử tài ứng phó của cậu xem sao đấy thôi. Không biết cậu sẽ ứng xử ra sao. Nhiều người bạn của kẻ hèn này cho rằng lờ đi như không biết là cách ứng xử khôn ngoan nhất, hợp thời nhất, và có lợi nhất. Chắc chắn nếu là Án Anh thì ông ta không không thể khôn hơn thế được. Mất mạng như chơi.

5. Sau hết, xin có đôi lời đối với một số quý vị hơi nóng nẩy đã nặng lời với cậu Cao Quang Ánh. Quý vị nên hiểu rằng Cậu Ánh là dân biểu của Quốc Hội Mỹ, chứ không phải dân biểu của Quốc Hội VNCH. Người ta bầu cậu để cậu làm việc cho nước Mỹ, chứ không thể đòi hỏi cậu phải làm việc cho VNCH của chúng ta được. Mà việc của nước Mỹ với việc của VNCH thì khác nhau một trời một vực như chúng ta đã biết, chúng tôi xin đươc miễn dài dòng ở đây. Không thể bắt con heo kéo cầy, hay bắt con trâu giữ nhà được. Vậy thì xin đừng bắt cậu Ánh phải làm thế này, làm thế khác như ý mình, kẻo tội cho cậu. Ăn cây nào, rào cây đó, không phải là đạo lý của dân ta sao? Cậu Cao Quang Ánh thông minh và tài giỏi chẳng bao giờ đem cái đạo lý cổ lỗ sĩ kia ra để mà tự cắt cổ mình đâu.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
ooOoo

    DB Cao Quang Ánh : Sẽ bảo vệ Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo cho VN
Trần Đình Liệu
Source: http://rfvn.com/?p=539#respond

Dân biểu Cao Quang Ánh giúp con làm dấu thánh giá trong nhà thờ
Dân biểu Cao Quang Ánh giúp con làm dấu thánh
giá trong nhà thờ
Phóng viên Trần Đình Liệu của VietCatholic tại thành phố New Orleans đã có cuộc phỏng vấn ngắn với tân Dân biểu liên bang Hoa Kỳ, Joseph Cao (hay Cao Quang Ánh) về chiến thắng trong cuộc tranh cử vừa qua cũng những những suy nghĩ của ông liên quan đến Cộng đồng và đất nước Việt Nam. Dưới đây là nguyên văn bài phỏng vấn từ nguồn VietCatholic News.

Chúng tôi được dịp trò chuyện và phỏng vấn tân Dân Biểu Cao Quang Ánh và chị Hoàng Phương Hiếu trong một bữa cơm đầm ấm với bạn bè. Chúng tôi hỏi rằng báo Times-Picayune đã viết các Cộng Đồng Việt-Nam, nhất là các CĐ lớn ở California và Texas rất ngạc nhiên khi được tin anh thắng cử, có phải vì họ không biết anh ra tranh cử? Anh Ánh cho biết “Họ có biết, nhưng tôi cho họ biết khá trễ vì tôi còn phải chờ đợi coi đối thủ của mình là ai. Tôi biết ngày bầu cử 4 tháng 11 đảng Dân Chủ đi bỏ phiếu để tuyển chọn ứng viên đương đầu với tôi. Lúc đó tôi mới biết đối thủ của mình là Dân Biểu lão thành đương nhiệm William Jefferson. Vì thì giờ cũng quá ít, chỉ có 4 tuần, nên các Cộng Đồng Việt-Nam khác cũng không kịp thời vận động.”

Khi hỏi về câu tuyên bố của thủ lãnh đảng Cộng Hoà tại Hạ Viện ông John Boehner rằng “Chiến thắng của ông Cao là một biểu tượng tương lai của chúng ta”, thì anh Ánh trả lời rằng “Tôi cũng hy vọng như vậy. Một mục đích khiến tôi ra tranh cử là nhằm khuyến khích giới trẻ Việt-Nam tham gia vào chính trường nhiều hơn. Sự thắng cử của tôi, hy vọng trong tương lai sẽ là bước dẫn đường cho giới trẻ Việt-Nam vào chính trường. Câu tuyên bố đó cũng rất khó đoán, nhưng tôi hy vọng sẽ có thể thành đạt.”

TĐL: Báo Times-Picayune viết rằng, “Ngôi sao sáng của đảng Cộng Hoà năm nay là Ông Cao chứ không phải bà Palin”, xin anh cho biết cảm nghĩ về điều này.

DB Cao Quang Ánh: Báo Times-Picayune là tờ báo địa phương, tôi nghĩ họ viết như thế vì ảnh hưởng của bà Palin không mạnh bằng người đại diện cho khu vực này. Ảnh hưởng của bà chỉ có hiệu quả ở tiểu bang Alaska mà thôi chứ không gây ảnh hưởng nhiều ở địa hạt vùng New Orleans. Đồng thời, tôi nghĩ họ viết như thế vì hơn 100 năm nay, Dân Biểu ở đơn vị này thuộc đảng Dân Chủ, cuộc thắng cử của một người đảng Cộng Hoà gốc Việt-Nam là một việc khác thường đáng nói.

TĐL: Trong bài diễn văn đêm thắng cử, anh đã kêu gọi giới trẻ Việt Nam tham gia vào việc đấu tranh cho một nước Việt-Nam dân chủ, xin anh cho biết thêm cảm nghĩ về lời kêu gọi này.

DB Cao Quang Ánh: Tôi dùng câu “work peacefully”, có thể dịch là làm việc một cách ôn hoà. Hiện nay chính phủ Việt-Nam vẫn đàn áp nhân quyền. Người Việt-Nam ở quê nhà không có tự do trong vấn đề tập họp, tôn giáo, v.v… Tôi muốn kêu gọi sự hợp tác của giới trẻ nói riêng và tất cả người Việt-Nam tại hải ngoại để vận động và đưa ra các Dự Luật để áp lực chính quyền Việt-Nam thay đổi lập trường hầu Việt-Nam có thể trở thành một nước quốc gia tôn trọng nhân quyền.

TĐL: Cũng trong tư tưởng đó, thưa anh, Tín Hữu các tôn giáo nói chung và Công Giáo ở Việt-Nam nói riêng, đặc biệt là ở miền Bắc, đang bị nhà cầm quyền Việt-Nam đàn áp. Mới đây nhất là các vụ xảy ra tại Toà Khâm Sứ và Thái Hà. Trong cương vị một dân biểu Quốc Hội Hoa Kỳ, anh có dự định nào để kêu gọi nhà cầm quyền Việt-Nam tôn trọng nhân quyền và tự do tín ngưỡng không?

DB Cao Quang Ánh: Dân Biểu Christopher Smith và một vài người khác đang đưa ra Dự Luật Nhân Quyền Việt-Nam. Hôm nay tôi đã có dịp thảo luận về vấn đề này với họ. Trong tương lai tôi dự định sẽ làm việc với họ và Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện để đệ trình những Dự Luật bảo vệ nhân quyền không những chỉ cho Việt-Nam mà cho tất cả các quốc gia khác trên thế giới đang thiếu hay không có sự tôn trọng nhân quyền và tôn giáo. Riêng về Việt-Nam, tôi sẽ làm việc với ông Smith và Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện để vận động cho Dự Luật Nhân Quyền Việt-Nam được thông qua nhằm áp lực nhà cầm quyền Việt-Nam tôn trọng nhân quyền và tự do tín ngưỡng.

TĐL: Anh là một cựu Chủng Sinh được đào luyện trong Dòng Tên 6 năm, như thế niềm tin Tôn Giáo của anh có ảnh hưởng đến quan điểm chính trị hay không?

DB Cao Quang Ánh: Cái đó thì tôi chắc chắn là phải có. Đường hướng và lập trường của con người thường chịu ảnh hưởng bởi đức tin của người ấy. Nói chung thì sự huấn luyện, chương trình học vấn và kinh nghiệm sống cùng với đức tin thường tạo nên ảnh hưởng đến đường lối chính trị của họ.

TĐL: Anh có dự định tham gia vào nhóm Congressional Caucus on Viet Nam (Nhóm Tham Vấn Việt-Nam tại Quốc Hội) không?

DB Cao Quang Ánh: Thưa có, nhưng hiện thời thì tôi chưa biết rõ đường hướng của nhóm này nên tôi cần phải tìm hiểu nhiều hơn trước khi hợp tác với họ.

Gia đình DB Cao Quang Ánh
Gia đình DB Cao Quang Ánh
TĐL: Thưa anh, Đài BBC Luân Đôn đã công bố rằng “Giấc Mơ Hoa Kỳ cũng đã đến với cộng động Việt-Nam. Joseph Cao sẽ là tiếng nói đầy quyền lực tiêu biểu cho ý nguyện của người Việt-Nam tại quốc hội Hoa Kỳ.” Xin anh cho biết cảm nghỉ về lời tuyên bố này cùng chia sẻ tâm tình với quý Đồng Hương?

DB Cao Quang Ánh: Tôi thiết nghỉ lời công bố “Giấc mơ Hoà Kỳ đã đến”, “American dream has arrived”, thật đúng. Đối với một người sinh trưởng ở Việt-Nam và lớn lên trong xã hội Hoa Kỳ, giấc mơ đắc cử vào Quốc Hội Hoa Kỳ là một mơ ước lớn. Mơ uớc này giờ đã thành tựu nhờ sự giúp đỡ của nhiều người nhất là nhờ đức tin và sự quan phòng của Chúa. Có rất nhiều yếu tố phải xảy đến như ý thì mới mang lại thắng lợi trong cuộc bầu cử này. Tôi tin rằng nếu chỉ có sức con người thì khó mà thành đạt được. Tôi hy vọng “Giấc Mơ Hoa Kỳ″ này sẽ là bàn đạp cho những giấc mơ của người Việt-Nam khác hầu khuyến khích họ tham gia nhiều hơn vào việc chính trị trong tương lai.

Theo tôi, cuộc thắng cử này không phải chỉ là thành công riêng cho tôi mà là cho cả Cộng Đồng Việt-Nam tại Hoa Kỳ. Tôi không biết mình sẽ có cơ hội để làm việc trong Quốc Hội lâu dài nhưng tôi mong ước sự thắng cử này sẽ là một động cơ thúc đẩy người Việt khác tham gia và lãnh vực này nhiều hơn. Cộng Đồng Việt-Nam tuy ở Hoa Kỳ đã hơn 30 năm nhưng hoạt động chính trị rất yếu. Theo ý kiến của tôi để Cộng Đồng có thể tiến mạnh và phát triển về mọi mặt chúng ta bắt buộc phải tham gia vào lãnh vực chính trị nhiều hơn. Để có thể giúp Việt-Nam một cách tích cực hơn chúng ta phải có chân đứng vững vàng trong lãnh trường này. Nếu chúng ta chỉ biết biểu tình mà không tạo nên một thế đứng mạnh trong nghành Lập Pháp thì thành quả không thể hữu hiệu được.

Còn ý tưởng thứ hai của lời thông báo là “tiếng nói đầy quyền lực …” , việc tối quan trọng của tôi là chu toàn bổn phận của người đại diện trong Quốc Hội của Địa Hạt 2 thành phố New Orleans. Là một người Mỹ gốc Việt tôi có bổn phận phải đề cập đến vấn đề nhân quyền và đàn áp tôn giáo tại quê nhà. Nhưng tôi mong Cộng Đồng Việt-Nam hiểu rằng tôi chỉ là 1 trong 435 Dân Biểu Hạ Viện. Ý muốn của tôi là nêu lên nguyện vọng của Cộng Đồng Việt-Nam nhưng xin hiểu rằng các Dân Biểu khác trong Quốc Hội cũng có mục đích riêng để phục vụ cử tri của họ. Tôi sợ rằng Cộng Đồng Việt-Nam đặt quá nhiều kỳ vọng ở nơi tôi. Họ cần phải thực tế và hiểu rằng trong Quốc Hội có 435 Dân Biểu Hạ Viện và 100 Dân Biểu Thượng Viện. Khi đắc cử vào Quốc Hội thì tiếng nói của tôi có trọng lực hơn nhưng tôi vẫn phải cần sự cộng tác của nhiều Dân Biểu khác để đạt được kết qủa mong muốn.

Trần Đình Liệu
(Vietcatholic News)

Saturday, January 9, 2010

Mùa Từ Thiện vẫn … kéo dài - Võ Phú Viên



Võ Phú Viên

Tôi đã quen biết tác giả bài “Mùa Từ Thiện” (MTT) từ nhiều năm nay. Nhưng cách đây không lâu, lần đầu tiên tôi tình cờ đọc được trên mạng bài của chị thì tôi chưa dám quả quyết đó là NML mà tôi đã quen. Rồi mãi đến khi bài của chị được nhiều người để ý đến, khi gặp lại chị tháng trước tôi mới được tác giả xác nhận. Tôi mừng lắm và khen chị có một bài viết hay, tuy không nói lên hết được ý nghĩ của đại đa số đồng hương tỵ nạn CS người Việt trên thế giới chứ không gì ở Mỹ – nơi mà việc quyên tiền bà con gởi về VN đã trở thành một cái “job” thơm cho nhiều người, nhiều tổ chức.

Xin quý vị bình tâm , đừng vội cho tôi chụp mũ hay nói không có bằng cớ. “Job” thơm ở đây có nhiều ý nghĩa. Thơm tiền, thơm danh, thơm thỏa mãn tự ái, thỏa mãn cái ảo tưởng rằng ta đang làm việc “tốt” cho người dân VN.

Ai có quyên tiền rồi ăn chận, cắt xén, lấy của công làm của tư thì tự biết lấy. Không cần biết là cá nhân, hội đoàn, Thầy Chùa, Cha Đạo Tin lành hay Công Giáo, tổ chức nhân danh nhóm người bất hạnh nầy hay bất hạnh kia có cái tên rất hay, quyến rũ. Cứ thành thật nhìn nhận đi. Trước khi đứng ra quyên tiền, mình có cái gì, tài sản bao nhiêu, nay sau mấy năm làm “từ thiện” mình có của cải, cơ sở “làm ăn” ra sao, bao nhiêu v.v. Không ai biết quý vị bằng chính quý vị. Nếu quý vị nào làm tốt, trong sạch, thì khỏi phải lo. Đừng bận tâm. Nhưng đây tôi chỉ nói đến cái tốt về tiền bạc, còn cái tốt của một công dân VN, yêu nước, muốn làm một cái gì để đất nước chúng ta thoát khỏi chế độ độc tài, phát xít tư bản đỏ, mafia, để cứu hơn 80 chục triệu người VN, chứ không cứu tạm thời một vài nhóm lẻ tẻ, thì tôi chưa nói đến.

Luật lệ của Mỹ, hay của các nước ngoài VN, tuy đã cố gắng tối đa để phòng ngừa những gian lận có thể xảy ra. Nhưng nếu có một ai đó cố tình gian lận thì khó có luật nào hiệu qủa 100 %.

Nhưng chuyện nầy tôi xin để cho mấy ông IRS (sở Thuế Vụ) của Mỹ, hay Pháp, Úc, Đức, … lo.

Những chuyện ăn xén một “tí” – tuy nhiều năm cái “tí” nầy nó thành “to” lắm - không quan trọng và tai hại bằng cái “đổ tiền” về VN, giúp cho chế độ CS sống lâu làm mất nước VN vào tay Tàu Cộng.

Có vị sẽ cho là việc nầy tôi nói hơi quá và không liên quan gì đến vấn đề từ thiện. Có chứ sao không ? Từ từ tôi sẽ giải thích nếu mà quý vị có tâm địa tốt, lòng tha nhân rộng thì đừng chụp mũ, nóng tánh, sẽ làm cho quý vị “trốn đầu lòi đuôi”, tỏ ra là mình làm từ thiện, có lòng tốt mà cục tự ái thì to như núi.

Đa số chúng ta ở đây ai mà không là nạn nhận của CS. Nhớ ngày nào xuống tàu, hay bôn ba tìm đường chạy thoát khỏi chế độ CS, trong lòng căm phẫn, thề trong lòng sẽ không bao giờ giúp một cái gì cho chế độ đó sống còn, để tiếp tục đàn áp bà con ta. Thế mà sau mấy năm sống ở ngoại quốc, đời sống tương đối ổn định, nguy cơ bị CS đàn áp không còn gần đến ta, có cái passport Mỹ, Canada, Pháp, Úc, … trong tay thì lại quên đi lời thề năm xưa.

Có biết bao các ông, các bà từ hải ngoại mang tiền về ‘làm le’ với bà con , hàng xóm, dù là sau đó qua lại Mỹ “đi cày trối chết để trả nợ”. Làm chi vậy nhỉ? Chỉ để thoả mãn cái tự ái. Hồi trước chắc là ở trong xóm, bà con không coi ta ra gì. Nay đi Mỹ được mấy năm, áo gấm về làng, về đến đó, ai cũng quý ta, người nầy mời, kẻ kia tử tế, làm cho ta thấy quan trọng hẵn ra. Chứ ở bên Mỹ nầy không ai coi ta ra gì. Đi làm ở sở Mỹ thì có gì “enjoy” lắm đâu. Đời sống ở đây chỉ quanh đi quẩn lại, đi làm, đi chợ khu VN, rồi qua ngày. Đa số cảm thấy buồn chán vì không biết tạo cho mình có một cuộc sống có ý nghĩa, một phần vì cho rằng sống như vầy “đủ” rồi. Do đó khi về VN, thôi thì ta mặc sức mà cho tiền người nầy, người nọ, và nói dóc dù có người ở VN không cần tiền của chúng ta cho lắm.

Thoả mãn tự ái “vặt” là cái mà nhiều người dân VN ra khỏi xứ khi về lại VN bị mắc phải. Có người đổ tiền về để xây mồ mã ông bà cho to, lấy le với thiên hạ. Có vùng ở VN, nội cái chuyện xây mồ mã mà cũng “cạnh tranh” nhau đến nỗi ai làm to lớn hơn mình thì “nóng mũi”, đập lại làm cái khác! Đôi khi bỏ ra cả mấy chục ngàn đô, hay cả trăm ngàn. Tiền nầy thì chỉ vào tay mấy ông quan lớn CS, vì họ chính là chủ nhân của các cơ sở xây cất làm ăn, chớ dân nghèo thì có được hưởng bao nhiêu.

Còn các cậu , hay các anh sồn sồn thì về VN vung tiền chơi gái cho thỏa chí. Đâu có cần biết đó là việc làm vô tình duy trì các tổ chức mãi dâm, gây tệ nạn cho xã hội. CS còn tổ chức bao che cho các dịch vụ nầy, để kiếm tiền, móc túi du khách từ nước ngoài. Ở Mỹ các anh nầy đâu kiếm ra vợ, hay girl friend, về VN thì tha hồ chọn lưạ, nói phét, lường gạt. Dĩ nhiên là đem tiền về đổ vào làm chế độ CS sống dai thêm.

Các vị nầy quên mất lý do mình ra đi năm nào và CS còn chình ình ra đó. Té ra là ra đi vì kinh tế, chứ chẳng có tị nạn chính trị gì ráo trọi. Mỹ mà nó biết được, chắc lúc đó nó sẽ từ chối hết các đơn xin nhập cư vào Mỹ từ bên đảo. Bao nhiên lời thề, lời khai trốn CS vì bị đàn áp còn sành sành ra đó. Còn mấy vị HO , hay con cái HO thì nếu mà tiếp tục về VN, hoang phí một số tiền không nhỏ dành dụm từ ‘tiền già”, tiền phụ giúp có lợi tức thấp, tiền bịnh, thì còn đáng trách hơn. Còn các vị đi theo diện ODP thì lại cũng đáng trách không ít. Sở dĩ ta không ở được với CS, đến nỗi phải bỏ xứ, xin đi làm ăn xa, thì sao lại đem tiền về giúp cho CS nhỉ ?

Chỉ có một thành phần mà không muốn cho chế độ CS sụp đổ là con cái của mấy anh cán bộ CS. Lúc nầy mấy ảnh giàu có to rồi, tính chuyện tẩu tán tài sản, cho con cái đi du học, tìm cách lập gia đình với các cô cậu có giấy tờ hợp lệ rồi ở lại luôn chứ đâu có màng về VN giúp nước. Kể cũng lạ. Đấu tranh giành độc lập, để xây dựng đất nước tự do phú cường, dân chủ mà rồi giờ đây không có một ông cán bộ nào mà lại không tìm cách cho con đi ra ngoài định cư dù Úc, dù Âu Châu, dù Mỹ. Nhưng nói theo kiểu của nhà văn Dương Thu Hương, thì cái lớp người có lý tưởng, đấu tranh cho độc lâp̣, “giải phóng” dân tộc khỏi ngoại bang – dù Pháp, Mỹ, hay Tàu thì đã chết hết cả rồi. Giờ đây ta chỉ thấy một lớp người vô lương tâm, hậu quả của giáo dục Mác-Lê, sau bao nhiêu năm đô hộ Miền Bắc, và đem nhập vào Miền Nam sau 1975.

Cá nhân tôi, tôi chỉ mong cho đất nước được tự do, dân chủ thật sự, thì sẽ về VN sống và phục vụ dân tộc.

Dù nghèo, dù còn thiếu đủ thứ so với Âu Mỹ, nhưng chúng ta sẽ xây dựng đất nước tốt hơn, với một điều kiện là CS không còn là đảng duy nhất độc quyền thao túng đất nước. Chứ ai mà bỏ nước, thi nhau ra ngoại quốc sống thì còn cái thể thống gì của dân tộc. Ta chỉ đi du học, học hỏi được cái hay của thiên hạ rồi về sống bên VN thì quý nhất, chứ ai lại đi luôn. Hồi VNCH có ai tính chuyện đi luôn đâu nhỉ, trừ một ít các cô cậu nghe theo lời dụ dỗ đường mật của CS, theo phe phản chiến, thì không về Sài Gòn mà thôi. Còn đi đi về về, lúc ở bên nầy, lúc ở bên kia, thì đâu là con đường chính nghĩa. Hay chỉ ích kỷ, lo cho bản thân, còn ai sống chết mặc bay ? Đây không phải là “chính sách quốc gia”, mà chỉ là lối làm ăn lưu manh, có hại cho tiềm năng quốc gia, dân tộc.

Đem dân ra ngoài sống đâu có phải là thượng sách. Còn quý vị đã ở đây lâu rồi đã thấy là con cái chúng ta dần dần sẽ mất gốc, dù cho chúng ta có cố gắng bao nhiêu. Nó sẽ kết hôn với người bản xứ, sẽ lai căng một đời, rồi hai đời, rồi ra con cái của chúng đâu có muốn về VN sinh sống.

Sung sướng chi, hãnh diện chi mà các ông các bà cán bộ CS cho con cái ra ngoài tìm cách kết hôn rồi ở lại luôn. Họ làm chỉ vì họ không có cái đầu biết suy nghĩ và lo cho dân tộc. Nghĩ cho cùng họ chỉ lo cho miếng ăn, lo làm tiền, rồi giáo dục con cái theo kiểu đó. Vì chỉ nghĩ đến miếng ăn nên họ chưa đoạt đến giai đoạn của một con người (human being) đúng nghĩa và vì chỉ vì miếng ăn, “kinh tế”, nên dù có biện minh đến đâu, nhìn cho cùng thì như vậy không xa súc vật bao nhiêu. CS đã làm cho cả nước, từ nhỏ đến lớn, đâu đâu chỉ lo cho miếng ăn, ăn lớn, ăn nhỏ, ăn gian, ăn chận, đủ loại cách làm ăn, mà không dám nghĩ đến đấu tranh, phản kháng một cái gì dù biết rằng đó là điều trái tai gai mắt. Súc vật cũng chỉ lo miếng ăn, chưa lo đến giai đoạn kế tiếp là suy nghĩ, dùng trí óc để phân biệt, thiện, ác, phải, trái. Hay ho gì ba cái phi trường, khách sạn tối tân 4, 5 sao, chiêu dụ khách ngoài để kiếm đồng đô la. Tất cả đều còn ở trong giai đoạn của sub-human, vật chất gần như súc vật, chưa có dám suy nghĩ, tri thức, nói lên lẽ phải được.

Một độc giả có trả lời bài MTT của chị NML, tên là VQL, ký tên là cựu sinh viên khoa học Sài Gòn, không nói rõ là SV trước 75, hay học dưới chế độ CS sau nầy, và có ra trường hay chưa. Nhưng có lẽ ông nầy có ghi thêm là cựu SVKH để cho rằng mình là trí thức hoặc có trình độ khoa học, chứ nếu không thì ghi cái “title” nầy vào làm gì. Tôi dù có biết ông học tới tiến sĩ, thì cũng chỉ xem nội dung của bài viết chứ đâu để ý đến bằng cấp. Trong quá khứ chúng ta thấy biết bao nhiêu trí thức mà bị CS mê hoặc, dụ khị, ngây ngô làm tay sai cho họ. Vì trong bài ông ta có ghi lại yếu tố súc vật khi đề cập đến vấn đề nhân đạo nên tôi mới xin nói ra đây.

Trong phần kết luận, ông VQL cho rằng người viết bài MTT “dùng những “nạn nhân” đau khổ nhất thế giới, những người phong cùi, nghèo khổ, bệnh tật, làm mồi để thỏa mãn “thú tính” (animal instinct) cho mục đích chính trị”. Ông nầy không biết CS có “animal instinct” còn gấp triệu lần, thế mà vẫn giao lưu, đem tiền về giúp cho CS đỡ một gánh nặng xã hội. Chính CS đã chính trị hóa việc làm từ thiện của phe Quốc Gia chúng ta, mà không biết những người “không làm chính trị” này có thấy mình bị mắc bẫy hay không ?

Ông ta sợ bài MTT sẽ làm cho mấy người nghèo ở VN chết hết vì không nhận được sự giúp đỡ.
Té ra theo ông VQL thì lâu nay người nghèo ở VN sống nhờ tiền của các hội từ thiện từ chúng ta mà thôi.

Tôi không nghĩ là như vậy. Việc làm và công sức của bao nhiêu hội đoàn, cá nhân, các Cha, các Thầy, các Ni Cô v.v. có giúp thật sự cho một số người, nhưng không giúp gì to lớn lắm cho đại đa số hơn 80 triệu người VN.

Việc làm của quý vị, tuy có ý tốt, nhưng tôi cho rằng chỉ thoả mãn nhu cầu “feeling good’ của quý vị. Còn ngoài ra quý vị đã quên đi gần … thôi nói sơ sơ 75 triệu 900 ngàn người dân VN (tôi trừ một số dân nghèo do quý vị tiếp tế tiền bạc, cộng với gần mấy triệu đảng viên CS VN).

Thế thì quý vị nói là sức tôi chỉ làm được bao nhiêu đó thôi, tôi không để ý đến chính trị. Thấy người nghèo là tôi giúp. Nhưng xin thưa vì mình là người VN, dù muốn dù không chúng ta phải cố gắng, và suy nghĩ nhiều hơn, khác hơn các dân tộc khác. Chúng ta, dân tị nạn CS, đa số đã ở các xứ Tây Phương nhiều năm. Dẫu sao chúng ta đã tạm ổn định, qua cái giai đoạn đi làm chỉ vì miếng ăn, kiếm cơm ngày hai bữa. Cuộc sống của chúng ta không như cuộc sống của mấy anh cầm quyền tham nhũng. Chúng ta đã đi xa hơn mấy anh đó về trình độ sống và chúng ta có tự do suy nghĩ thật sự theo nghĩa tốt của nó. Mấy “ổng” còn quanh quẩn trong cái ăn, cái làm giàu bất chính, hành dân lấn đất, bóc lột nông dân, cái mánh mung bá láp, đôi khi vô nghĩa và có trình độ sub-human.

Đồng bào của chúng ta tuy có thiếu ăn, thiếu mặc đẹp như ta ở đây. Nhưng họ có quyền hưởng những thứ cao quý hơn, thứ đó là món ăn tinh thần, món quà tri thức, được suy nghĩ tự do, mà bổn phận của quý vị và tôi, của tất cả chúng ta cần “đem về trao cho họ” từ lòng từ thiện trí thức của chúng ta.

Nếu bạn đi hỏi thật sự một người nghèo, một người cùi rằng nếu tôi đem cho anh chị tiền – trước sau tiêu cũng hết - hay đem cho anh chị tự do, dân chủ, một cơ hội đấu tranh để cả nước được hưởng công bằng, tự do, nhân ái thì tôi tin rằng họ sẽ ghé tai quý vị – vì còn sợ công an hay cò mồi theo dõi – và bảo rằng các anh cho tôi cái thứ hai đi !

Buồn thay cả nước bị chế độ CS làm cho một dân tộc thông minh, cần cù, hiền lành và đầy nhân ái như dân VN về phương diện phẩm chất, giá trị của con người , trở thành một xứ sở còn kém hơn cả các nước Phi Châu. Tôi đã chán ngán khi nghe mấy anh thiển cận khi về VN qua lại bên Mỹ nầy “khoe” giùm cho CS là VN bây giờ có chỗ nầy tối tân, chỗ kia có khách sạn 5 sao, như … bên Mỹ! Cái tối tân, hiện đại nầy chỉ là những cái mà VN chưa cần và chính phủ đã đặt sai ưu tiên trong việc canh tân và phát triển đất nước.

Chuyện giúp vài bao gạo cho người cùi, cho ba tấm tôn lợp nhà trong cơn bão đều là chuyện nhỏ. Không có ai về VN rồi nói cho chúng ta nghe là VN bây giờ có một hệ thống y tế tối tân, người dân có đau ốm hay vào bệnh viện thì được chăm sóc tử tế, an toàn, một hệ thống giáo dục miễn phí từ lớp mẫu giáo cho đến lớp 12, một hệ thống pháp lý tương đối công bằng, người nghèo, dân đen được bảo vệ một cách “có văn hoá”, hay it́ ra được luật pháp che chở. Xây dựng một xã hội, đất nước được như vậy thì mới gọi là văn minh. Chứ lấy tiền cuả đĩ điếm, tham nhũng, thụt két của công, đàn áp dân nghèo, chấp chứa xã hội đen mà gọi VN bây giờ “khá” hơn xưa nghĩa là thế nào ?

Tất cả giá trị tinh thần, văn hoá, văn minh cho con người thì bây giờ đã bị CS làm cho VN tụt hậu, thua rất xa hồi thời đệ nhất hay đệ nhị VNCH. Thế thì cái việc quý vị “có lương tâm” đầy mình , nghĩ đến đồng bào ruột thịt của chúng ta, rồi ngày đêm đem công sức ra làm việc ... thiện để cứu dân VN, tuy có tốt chút đỉnh, nhưng nghĩ cho cùng thì hãy dồn hết sức lực cứu 80 chục triệu kia mới phải. Chứ còn đem tiền về giúp lẻ tẻ, sau đó thì xem ta là tha nhân đủ rồi, trùm chăn ngủ kín bên Mỹ, để cho 80 triệu dân sống trong độc tài CS thì quý vị sẽ có cơ hội cả mấy trăm năm “làm từ thiện” vì CS sẽ còn sống nhăn răng ra đó. Cứu trợ đến đời con, đời cháu của quý vị, VN vẫn còn lầm than, đau khổ, và quý vị đừng lo là sẽ bớt nghèo, bớt bất công ở VN. Vô tình quý vị và CS đều hợp rơ với nhau, anh nầy tựa vai anh kia mà làm việc dài dài.

Đó không phải là hành động của con người có chút ít tinh thần dân tộc, tri thức và dám nhìn thẳng vào cốt lõi của vấn đề. Do đâu mà ta cứ phải năm nào cũng làm đại nhạc hội tình thương để quyên tiền gởi về VN, mà ta thì không về VN sống cho được, phải “bỏ xứ ra đi” ? Do đâu mà chúng ta phải cứ “cực khổ” bỏ tiền ra lên radio, đài truyền hình kêu gọi đồng bào gọi vô cho năm ba chục để ta phải cực khổ mua vé máy bay cho “kịp” về VN cưú trợ kẽo bên nhà bà con đang chờ ta ? Có khi bên VN năm nào không có lụt lội, mưa bão thì như là ta thiếu đề tài, việc quyên tiền thấy hụt hẫng, không ăn khách cho mấy. Cán bộ CS thì rành việc nầy lắm rồi. Họ cứ trông cho có lụt lội, mưa bão để còn kiếm chút đỉnh. Lẽ nào sau mấy chục năm sống trong một xã hội văn minh, ta lại làm giống như mấy anh Vẹm nầy?

Tôi thì quyết không để cho mấy anh Vẹm lợi dụng lòng tốt của chúng ta một lần nữa. Năm 54 và năm 75 thua kế mấy anh nầy hai lần rồi, dại gì mà ta thua thêm một lần nữa ?

Nói tóm lại, đã là một người VN xa xứ, dù là ra đi với bất cứ dạng nào – chạy loạn năm 75, vượt biển, vượt biên, ODP, HO v.v chúng ta đều có chung một tổ quốc là VN. Và chúng ta ai cũng mong cho đất nước sớm được độc lập, tự do, dân chủ, nhân quyền. Con dân VN phải có cơ hội sống trong một xã hội lãnh đạo bởi một chính phủ vì dân, cho dân, và lãnh đạo bởi những người tài đức thật sự. Sao quý vị lại nhẫn tâm cứ để VN bị chìm đóng trong chế độ hiện tại. Tại sao quý vị phải bỏ biết bao tiền của, sức lực, thời gian làm những chuyện … không đâu vào đâu, hay chuyện lẻ tẻ ? Hết đi đại nhạc hội nầy, chạy qua buổi cơm gây quỹ kia, tham gia nhóm nầy, nhóm nọ, mất biết bao nhiêu là công sức và thì giờ của quý vị, mà rồi có đi đến đâu ? Năm nầy qua năm khác cũng bao nhiêu trò đó lập đi lập lại mãi. Chắc là quý vị cũng thấy có cái gì không ổn trong đó, mà không nói ra, tự dối với chính mình.

Hãy nhìn thẳng vào cốt lõi của vấn đề VN và đem hết sức mình để làm cho VN trở thành một quốc gia không thua gì các nước lân bang như Đại Hàn, Nhật Bản. Muốn được vậy chuyện quyên tiền từ thiện của quý vị sẽ thành thứ yếu, nhỏ nhoi, tuy vẫn tiếp tục làm, nhưng hãy dồn các sức lực trên để làm chuyện lớn hơn cho tự do, dân chủ của VN. Được như vậy thì bão lụt sẽ có một chính phủ, quân đội vì dân lo. Các trại cùi sẽ có quỹ của Bộ Xã Hội của một chính phủ do dân bầu ra, trong sạch, giúp đỡ đúng đắn. Các Nhà Dòng, Tu Viện, các Chùa sẽ có tự do tôn giáo thật sự để quyên tiền, quản trị tài chánh theo ý mình mà giúp đỡ đồng bào ruột thịt. Chúng ta sẽ có Hội Hồng Thập Tự, hay các tổ chức tư nhân bất vụ lợi thật sự như các nước văn minh để cứu trợ đồng bào, mà không phải qua công an, mật vụ, ban tôn giáo như bây giờ.

Quý vị có muốn như vậy không? Nếu muốn như vậy, thì hãy thay đổi lối suy nghĩ và hành động. Hãy mạnh dạn làm một cuộc cách mạng trong hành động cho xứng đáng một người con dân VN văn minh của thế kỷ 21.

Võ Phú Viên


Cục Gân Gà Đầu Năm Hữu Nghị - Đinh Tấn Lực


TonQuocTuong
Tôn Quốc Tường

Đinh Tấn Lực
    “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
    Có nội thù thì vùng lên đánh bại
    Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
    Đất Nước của Nhân Dân …”.
    (Nguyễn Khoa Điềm)
Bộ phim Lý Sang-Phong Ba Chốn Cung Đình ( 이산 - 정조대왕 ) của đạo diễn Lee Byeong-Hun (trình chiếu trên HTV3 lúc 21h mỗi đêm từ thứ hai đến thứ năm hàng tuần) diễn lại cuộc đời đầy sóng gió của hoàng thái tôn Lý Sang từ thuở ấu thời cho đến lúc trở thành vị minh quân Jeong-Jo (1752–1800) trong triều đại Joseon minh trị của Triều Tiên (tức trong khoảng cùng thời với vua Quang Trung của VN).

Bộ phim lôi cuốn khán giả không chỉ vì các ý tưởng đi trước thời đại nhằm canh tân (cả triều đình, đất nước, lẫn chính sách đối ngoại với Thanh triều) của vị hoàng đế trẻ tuổi Jeong-Jo trong một giai đoạn lịch sử bi tráng cận đại thay da đổi thịt của xứ này; mà còn bởi từng lời đối thoại/phản biện của các nhân vật hắc/bạch/thiện/ác/chính/tà/bảo thủ/cải cách/quý tộc/sĩ phu/trí thức… Trong đó, quả đáng ngẫm biết bao, ngay trong thời điểm kỷ niệm trọng thị 60 năm quan hệ Việt-Trung này, lời nhắn nhủ xuyên thời đại của Hong Kuk-Young – một tay mưu sĩ/khai nghiệp/công thần của Lý Sang: “Đi với hổ thì vào rừng xanh. Còn theo chó thì chỉ có thể vào nhà xí”.

Chào Đón Tân Niên – Ưu Tiên Trung Quốc?

Mở màn cho Năm Hữu Nghị 2010 “Thiên tuế Ta-Lục tuần Tàu”, Tôn Quốc Tường, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc tại Việt Nam, trong buổi họp báo sáng ngày 6/1/2010 ở Hà Nội, đã uốn nắn/chỉ đạo/khuyến cáo VN cần tạm gác lại vấn đề khúc mắc sau cùng trong quan hệ giữa hai nước là vụ tranh chấp Nam Hải (nguyên văn); mà chỉ nên dành ưu tiên cho hoạt động phát triển kinh tế xã hội, cụ thể là cùng khai thác tài nguyên biển đảo.

Tôn Quốc Tường đã chứng tỏ vị thế sứ thần đại hán tất yếu là phải bao trùm/khuất lấp/phủ kín cả quyền lực của lãnh đạo đảng và nhà nước ta, bằng lời huấn thị/bảo ban/đe nẹt rất mực thẳng thắn, như thể chữ triện đúc bằng nhôm ròng Nhân Cơ: “Hợp Tác Sẽ Phát Triển, Đấu Tranh Sẽ Thất Bại”!

Tôn Quốc Tường không cần đến chương trình phát thanh “Tiếng nói Vịnh Bắc Bộ” của tỉnh Quảng Tây vừa mới khai trương/phát sóng sau ngày quốc khánh Tàu vừa qua, bởi đã có hàng trăm báo/đài vốn là cơ quan ngôn luận/tiếng nói/diễn đàn của đảng bộ các thứ của ta cật lực giúp đỡ tán phát/tuyên truyền đến rộng rãi quần chúng nhân dân VN một kết luận tất yếu và (thông qua Ban tuyên giáo TW, cho nên) nhiều phần là duy nhất đúng, rằng: “…Lãnh đạo cấp cao hai nước đã nhiều lần đạt được nhận thức chung hết sức quan trọng. Đó là không để cho vấn đề Nam Hải (nguyên văn) ảnh hưởng đến sự phát triển, ổn định lâu dài, bình thường của quan hệ hai nước”.

Tôn Quốc Tường đã khiến Bộ 4T, thậm chí cả chính phủ của ta lên ruột/xanh mặt/ướt tã/mất ngủ … và đã ngắn gọn xóa sạch hàng nghìn trang báo của ta đăng tin ngư dân VN bị “tàu lạ” uy hiếp/cướp lưới/gỡ neo/đoạt tàu/thu cá/đánh đập/bắt ký giấy vi phạm/đòi tiền chuộc… chỉ bằng một lời phán gang thép: “Không nên đưa tin những việc xấu như thế này!”.

Tôn Quốc Tường đã lên lớp tập huấn/nắn gân đại trà cán bộ các cấp của ta một quan điểm toàn cục/đại cục nhất quán cần thiết là: “cần tăng cường sự hiểu biết chính trị để đảm bảo sự phát triển lâu dài của quan hệ song phương!”.

Buổi họp báo khá ồn ã, nhờ một vài câu hỏi cò mồi đậm tính xum xoe/khúm núm/cúc cung đến mức đáng khinh không đáng nhớ, theo kiểu xin thái thú nhận định về những điểm nổi bật trong 60 năm quan hệ, hay khi nào thì lãnh đạo VN có thể ca múa Như có bác Hồ (Cẩm Đào) trong ngày vui đại yến v.v…. Ngoài ra, có 2 câu hỏi cực kỳ bức xúc mà một số nhà báo tâm huyết chỉ có thể thầm thì với nhau sau lúc tan hàng/giải tán:

1. Do đâu và từ bao giờ mà tay đại sứ của TQ có thể hồn nhiên quy hoạch/áp đặt cho lãnh đạo VN một giải pháp cưỡng chế bao gồm 2 nội dung cực kỳ bất công/bất lợi là tạm gác tranh chấp và cùng nhau khai thác?

2. Do đâu và từ bao giờ mà tay đại sứ của TQ có thể tự trang bị cái lề thói ứng xử (ngoại giao) đầu gấu/kẻ cả/trịch thượng/vương-hầu/cha-con/chủ-tớ đối với VN như thế?

Quả Ớt Đánh Lừa Cái Lưỡi?

Tôn Quốc Tường chỉ xấc láo phát ngôn, nhưng nhất định không thể và không phải là tác giả của đề nghị “gác tranh chấp-cùng khai thác”.

Đối với nhiều người, giải pháp “gác tranh chấp-cùng khai thác” được nghe lần đầu là từ bài tham luận của GS Ji Goxing (Đại học Jiaotong), Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược (của TQ) tại Thượng Hải – cũng là vị khách mời danh dự hàng đầu của buổi hội thảo quốc tế do Học viện Ngoại giao và Đoàn Luật Sư VN đồng đứng tên đăng ký tổ chức (tại Hà Nội hồi cuối tháng 11/2009 vừa qua) về chủ đề “Biển Nam Trung Hoa: Hợp Tác Vì Sự Ổn Định Và Phát Triển Khu Vực” (International Workshop on “The South China Sea: Cooperation for Regional Security and Development”).

Trên thực tế, giải pháp “gác tranh chấp-cùng khai thác” này cũng không phải do GS Ji Goxing nghĩ ra. Mà nguyên thủy là do Đặng Tiểu Bình đề xướng trong hội nghị quốc tế hồi tháng 10/1982 tại Tokyo (chỉ hơn 3 năm sau trận chiến “giáo trừng”, trong giai đoạn Việt-Trung đại xung đột/bất cộng đái thiên). Có nghĩa rằng nó là sản phẩm đã được tính toán rốt ráo từ rất lâu rồi của Bộ chính trị Trung Nam Hải.

- Vì sao khai thác chung? -

Các thỏa thuận về khai thác chung, nhằm mục đích phát triển nguồn tài nguyên, thường được coi là giải pháp tạm thời nhằm giảm xung đột giữa các bên tranh chấp, cố gắng không tạo ra ảnh hưởng nào tới yêu sách về chủ quyền lãnh thổ cũng như các quyền chủ quyền và quyền tài phán của từng quốc gia liên hệ.

TQ đòi thực hiện thỏa thuận về khai thác chung là nhắm vào các lợi ích riêng có thể tạm lược kê như sau:

Một là, gia tăng tính chất “song phương” luôn tạo tính tối ưu cho TQ, đặc biệt là trước khi VN có vai trò quan trọng hơn trong khối ASEAN vào năm 2010 này.

Hai là, TQ đánh quả lừa cho dư luận lầm tưởng rằng giải pháp này phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế, trong lúc Bắc Kinh gia công tìm kiếm thêm lợi thế khác về mặt pháp lý.

Ba là, phần lớn các khu vực mà TQ đề nghị khai thác chung đều nằm trên các thềm lục địa đang thuộc chủ quyền của nước khác, trong trường hợp này là của VN.

Bốn là, TQ vừa đề nghị khai thác chung, lại vừa củng cố tham vọng “Nam Hải hình lưỡi bò” chiếm trọn 3/4 Biển Đông cùng chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Năm là, lợi dụng/khai thác tối đa đề xuất “hợp tác cùng phát triển” trên biển Đông của nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười, nêu ra trong chuyến viếng thăm Thái Lan vào tháng 10/1993, tức là hai năm sau khi VN nối lại quan hệ môi-răng với TQ.

Sáu là, TQ chờ đợi những tiền lệ từng có sẽ xảy ra lần nữa, là: “cái tạm thời hiện nay có khả năng trở thành vĩnh viễn sau này”.

- Vì sao gác tranh chấp? -

Đề nghị khai thác chung tại khu vực biển Đông đang tranh chấp chỉ có thể được đưa vào hoạt động khi các bên thể hiện thiện chí và quyết tâm trong việc hợp tác, thông qua nỗ lực xây dựng lòng tin, nhất trí ngăn chận nguy cơ xung đột. Tuy nhiên, cho tới nay, những điều kiện cần thiết đó đều còn thiếu, đặc biệt là thiện chí và lòng tin.

TQ đã đặc phái 6 học giả ồ ạt tham dự cuộc hội thảo quốc tế “Biển Nam Trung Hoa: Hợp Tác Vì Sự Ổn Định Và Phát Triển Khu Vực” là nhằm thử nghiệm một cách tiếp cận mới và có tính áp đảo mạnh đối với VN trong bối cảnh:

- TQ là nước có lợi thế nhất về sức mạnh quân sự lẫn kinh tế đối với các nước đang tranh chấp, và là quốc gia có yêu sách giành phần lớn nhất (gần 80% của tổng diện tích 3 triệu rưỡi cây số vuông) trên biển Đông.

- Các quốc gia tranh chấp trên biển Đông chưa thực sự có đủ sự tin cậy lẫn nhau, trong lúc Bắc Kinh vẫn luôn có ưu thế “giềng mối quân-thần” đối với Hà Nội.

- Các sự kiện ngư dân VN bị nạn liên tục trên biển Đông chỉ là mặt nổi của tảng băng chủ quyền biển đảo mà TQ đã cưỡng chiếm và quyết giữ.

- TQ vừa muốn trấn an/xoa dịu tình hình sóng gió biển Đông trước dư luận quốc tế, lại vừa mạnh dạn phô trương thanh thế với lãnh đạo VN, thông qua một số sự kiện giải quyết bất đồng bằng sức mạnh quân sự được chuẩn bị bội phần chu đáo hơn thời 1979.

- TQ cần tách rời VN ra khỏi quần thể các nước Đông Nam Á đang có tranh chấp chủ quyền trên biển Đông để dễ “đấu tay đôi”, và dễ cho cả việc áp dụng tình cảm thầy-trò cùng nghĩa vụ cộng sản với lãnh đạo VN.

- TQ sẽ sẵn sàng sử dụng mọi phản ứng bạo lực/kinh tế/bẫy sập (và cả những con bài tẩy ham hố/nhơ nhuốc của lãnh đạo VN) nhằm khẳng định xem ai là chủ “Biển Nam Trung Hoa”, cho đến khi lãnh đạo VN nghiêm chỉnh chấp hành giải pháp của TQ và tự nguyện dẹp yên dư luận quần chúng VN!

- Trong thời gian cần thiết để có thể kiếm thêm áp lực về Nguyên tắc ứng xử trên biển Đông và cả ưu thế hùng mạnh của đại hạm đội Nam Hải, TQ cần “giữ nguyên trạng” bằng giải pháp “gác tranh chấp”, bởi cầm chắc là VN không thể chạy đua vũ trang với TQ.

Đá Cuội Lăn Theo Gót Hài!

Đã từng có lắm người lầm tưởng rằng VN và TQ là hai nước chính yếu nắm giữ chìa khóa giải quyết vấn đề biển Đông.

Tôn Quốc Tường, với món quà Đầu Năm Hữu Nghị cực kỳ khó nuốt mà cũng không dễ nhả cho phía lãnh đạo VN, đã thực sự đơn phương xác quyết là VN không có vai trò/vị trí/quyết định gì trong vấn đề đó, xét trên căn bản quan hệ Việt-Trung bất xứng hiện giờ.

Cái lề thói ứng xử (ngoại giao) đầu gấu/kẻ cả/trịch thượng/vương-hầu/cha-con/chủ-tớ của sứ thần Bắc Kinh đối với VN như thế không phải tự nhiên trên trời rơi xuống. Tôn Quốc Tường, hay bất kỳ một đại sứ đặc mệnh toàn quyền nào khác của TQ tại Hà Nội cũng đều có thể có thái độ khinh mạn như thế. Bởi vì, không sẵn tay sai hẳn khó có quan thầy!, chính lãnh đạo đảng và nhà nước ta đã đưa đường/trải thảm/kéo ghế/bắc thang/mời mọc các quan thầy TQ tọa mông vào vị trí cha chú/trưởng thượng để có thể ứng xử xấc xược/trịch thượng với VN, thông qua một số diễn tiến khó quên:

- 1951: Hà Nội không hề dám mở mồm phản đối khi Chu Ân Lai trình bày bản hải đồ lưỡi bò, ngay trong cuộc họp hữu nghị đầu tiên giữa hai đảng/nhà nước.

- 1955: Hà Nội cho phép hồng quân TQ đánh đuổi tàn quân của Tưởng Giới Thạch rồi toàn quyền chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của ta.

- 1956: Ung Văn Khiêm, Thứ trưởng Ngoại giao VN, trong buổi tiếp đón tham tá sứ thần TQ là Li Shimnin ngày 15/6/1956 tại Hà Nội, đã chính thức xác nhận rằng: “Dựa vào những tài liệu mà phía Việt Nam có trong tay, các đảo Tây Sa và Nam Sa, xét về mặt lịch sử, là thuộc về Trung Quốc”. Cũng trong buổi tiếp tân này, Lê Lộc , Xử lý thường vụ Giám đốc Phòng Á châu Sự vụ VN, đã bổ túc thêm cho rõ nghĩa: “Trên mặt lịch sử, các đảo Tây Sa và Nam Sa đã là đất đai của Trung Quốc từ đời Nhà Tống (960-1279)”.

- 1958: Công hàm của Thủ tướng nước VNDCCH Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng nước CHNDTH Chu Ân Lai đã “ghi nhận và tán thành” những yêu sách trên bản tuyên bố ngày 04/09/1958 về lãnh hải của TQ, trong đó, Bắc Kinh khẳng định “các đảo Bành Hổ, Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa, Nam Sa và các đảo khác là của Trung Quốc”.

- 1960: Các sách giáo khoa môn Ðịa lý dạy học sinh VN đã hồn nhiên viết rằng: “Các hòn đảo từ quần đảo Nam Sa, Tây Sa, qua Hải Nam, Ðài Loan, là một bức trường thành bảo vệ Trung Quốc”.

- 1972: Cục Bản đồ trực thuộc Phủ thủ tướng VNDCCH đã phổ biến một ấn bản họa đồ thế giới, trên đó tên đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN bị thay bằng tên đảo Tây Sa và Nam Sa theo cách gọi của TQ.

- 1974: Hà Nội lặng im/đồng lõa/cổ vũ cho sự kiện hải quân TQ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, trong lúc hải quân của quân lực Việt Nam Cộng Hòa (mà Hà Nội coi là kẻ thù chính bấy giờ) đã một lòng hy sinh cố giữ đảo.

- 1977: Nguyên TT Phạm Văn Đồng xác nhận ý nghĩa bức công hàm 14/9/1958 rằng: “Lúc đó là thời kỳ chiến tranh nên tôi phải nói như thế!”.

- 1979-1991: Hà Nội tuyên truyền rộng rãi để giải thích việc huy động/hy sinh sức dân trước trận chiến “giáo trừng” của “bọn bá quyền bành trướng Bắc Kinh” bằng 3 bộ văn kiện: quyển “Sách Trắng 1979” của Bộ Ngoại giao VN, quyển “Phê phán chủ nghĩa bành trướng và bá quyền nước lớn của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh” (Nxb Khoa Học Xã Hội – Hà Nội, 30/08/1979), và bộ sách “Sự Thật Về Quan Hệ Việt Nam-Trung Quốc Trong 30 Năm Qua” (Nxb Sự Thật, Hà Nội 10/1979). Nhưng đến năm 1991, khi cần quay lại tìm chỗ chống lưng ở Bắc Kinh thì Hà Nội liền chỉ thị cho chỉnh trang lại các sách giáo khoa môn Sử VN, và ra lệnh thu hồi các quyển/bộ sách đó, để tránh làm phật ý quan thầy. Cũng từ bấy tới nay, mọi Đại hội Toàn đảng của CSVN đều có Đại biểu cấp UV-TW, thậm chí cấp UV-BCT của TQ sang cố vấn/sắp xếp/chỉ đạo/phê chuẩn/tọa thị ở hàng ghế danh dự.

- 1992: Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm xác nhận trong cuộc họp báo ngày 03/12/1992: “Trung Quốc đã cung cấp cho Việt Nam sự giúp đỡ to lớn và quý giá. Những lời tuyên bố của các đồng chí lãnh đạo của chúng tôi (Phạm Văn Đồng/Ung Văn Khiêm) lúc đó là cần thiết!”.

- 1999-2000: Lãnh đạo đảng và nhà nước âm thầm ký kết với TQ các hiệp định bất bình đẳng về biên giới và lãnh hải, bất cần/bất chấp ý kiến của nhân dân hay thậm chí của cơ quan nghiệp vụ đóng dấu là quốc hội; bất cần/bất chấp cả việc công bố các văn kiện/bản đồ liên hệ.

- 2005-2009: Hà Nội im lặng trước hàng chục sự kiện hải quân TQ ngăn chận/bắt giữ/đòi tiền chuộc/tịch thu ghe tàu/đánh đập/cướp bóc/thậm chí bắn chết ngư dân Thanh Hóa/Quảng Ngãi mưu sinh trên lãnh hải VN. Các bản tin tiếng Việt chỉ được viết mơ hồ là do “tàu lạ” đâm chìm. Ngoài ra, các hãng dầu khí BP, Exxon bị TQ đuổi ra khỏi vùng khai thác trên hải phận VN cũng đã diễn ra âm thầm trong bóng tối của truyền thông VN.

- 2007: Quốc vụ viện TQ ra quyết định ngày 02/12/2007 thành lập huyện lỵ hành chánh Tam Sa, bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa. Hà Nội chỉ lập cập lên tiếng ở cấp rất thấp/không đáng kể là người phát ngôn Bộ Ngoại giao. Đồng thời, lại ồn ào lệnh cho nhà trường ra thông cáo chính thức cấm sinh viên tụ tập, và lệnh cho công an triệt để đàn áp các cuộc biểu tình tuần hành phản đối của sinh viên/thanh niên VN trước đại sứ quán và tổng lãnh sự quán TQ tại Hà Nội và Sài Gòn, tuyệt đối thực thi nghiêm chỉnh huấn thị/khuyến cáo của Bộ Ngoại giao TQ là: “Trung Quốc đang quan chú cao độ và hy vọng chính phủ VN có thái độ đầy trách nhiệm, làm những hành động thiết thực, ngăn chặn những diễn tiến, để tránh tổn hại quan hệ giữa hai nước”. Để hồi đáp, chính TT Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ thị cho cán bộ đảng viên cả nước dồn sức tổ chức cuộc rước đuốc thế vận 2008 hết mực trọng thị và an toàn bằng một thành Hồ rợp cờ TQ.

- 2009: Là cao điểm độ hèn của lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN, thông qua hàng chục sự kiện và những phát ngôn được bình bầu là cực kỳ ấn tượng trong năm. Đặc biệt là các hiển thị không thể nào nhục hơn được nữa trên trang báo điện tử chính thống của đảng CS và của bộ Công thương VN.

Tôn Quốc Tường đã củng cố vững chắc vị trí Thái Thú tại VN là nhờ vào các trụ đồng vững chắc nói trên do lãnh đạo CSVN trồng lấy. Một vài tay dân báo mê nhạc Trịnh đã mạn phép tác giả sửa lời một dòng nhạc để tặng mừng lãnh đạo ta: “Quyết tâm làm đá cuội, nguyện lăn theo gót hài…” Thái Thú.

Bùn Khô, Lông Ngỗng Bay Đầy

Với một bản đồ Nam Hải hình lưỡi bò (nhen nhúm hình thành từ giữa thế kỷ trước), rõ ràng là TQ nhất quán kiểu TQ mà tây phương vẫn thường mô tả là một vương quốc đứng giữa gầm trời chỉ có chư hầu chứ không có láng giềng. Đại diện cho nó, Tôn Quốc Tường rõ là xấc láo, nhưng chưa hẳn đáng căm bằng những kẻ bồi đắp cho nó mọi điều kiện để xấc láo.

Với một thái độ rón rén/khúm núm/cúi đầu/cong gối của lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN, cho dù Hiệp ước 1874 tuyên bố chấm dứt quan hệ mẫu quốc–chư hầu giữa TQ với VN, rõ ràng là giới cầm quyền đương thời của ta vẫn cố sức nhất quán theo kiểu CSVN: Tự nguyện gia công tiếp tục vị trí vai trò chư hầu, chỉ nhằm để báo ơn TQ trợ giúp họ cướp chính quyền và giữ rịt quyền. Rõ ràng lãnh đạo ta nhất thiết/nhất quán/nhất định/nhất trí thế chấp đất nước để tiếp tục cai trị và bòn rút nhân dân theo một chủ nghĩa phi nhân/lỗi thời/lạc hậu đã bị đào thải vào nhà xí khắp nơi trên thế giới.

Với một con tim nhân bản và tấm lòng nhiệt thành mơ ngày Việt Nam cất cánh, mỗi người trong chúng ta hẳn cũng đã nhất quán phân định rõ ràng đâu là chân tướng nội thù trước mặt, đâu là nguy cơ ngoại xâm sau lưng. Muốn giữ nguyên bờ cõi và tránh một giai đoạn Bắc thuộc khác, hãy cùng nhau góp sức trước tiên chấm dứt thời đại của những con bạc bịp đê hèn vừa sẵn sàng thế chấp đất nước vừa lén rắc lông ngỗng dẫn đường cho giặc.

Hoàng Sa và Trường Sa muôn đời là của Việt Nam!

9/1/2010 – Chào mừng ngày Truyền thống Học sinh – Sinh viên.

Đinh Tấn Lực

Source: http://dinhtanluc.multiply.com/journal/item/516/516