Monday, November 16, 2009

Cộng Sản Hà Nội Đi Về Đâu? - Nhã Nam



Nhã Nam

Nếu ai đã đọc 2,000 ngày Trấn Thủ Củ Chi của Xuân Vũ, thì đều biết, qua tác phẩm đó ông đã nêu lên, trong những năm của thập niên 60, tình trạng thật bi đát của cục R, của lực lượng Giải Phóng Miền Nam và qua đó chúng ta thấy được, cuộc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa do Cộng Sản Miền Bắc chủ động giải phóng Miền Nam để thống nhất đất nước, chỉ là chiêu bài hầu che dấu manh tâm của cộng sản Hà Nội là, miền Bắc vào cai trị miền Nam.

Để nhận thức được thực chất miền Bắc trị miền Nam như thế nào, hãy ngược dòng thời gian nhìn lại những nhà trí thức miền Nam, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trần Bửu Kiếm, Dương Quỳnh Hoa, Trịnh Đình Thảo, Tôn Thất Dương Kỵ, Lê văn Hảo … trong thời gian thành lập Mặt Trận Dận Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CPCMLTCHMNVN), họ đã vô cùng phấn khởi khi tin vào lời hứa của Lê Duẩn, sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đảng sẽ để cho CPLTCHMNVN điều hành và quản trị theo thể chế dân chủ cộng hòa, song song với miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa … đến khi toàn dân yêu cầu thống nhất tổ quốc thì sẽ tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Thế nhưng khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng, những nhà trí thức ngây ngô này đã trở thành những vật tế thần đáng thương, khi Trần Bửu Kiếm với tư cách đại diện ủy ban soạn thảo gởi bản dự thảo ra Hà Nội, Lê Duẩn đã phẩn nộ khi nhận được bản dự thảo kế hoạch hậu chiến của CPCHMNVN, triệu tập bộ chính trị và lật lọng nói:” Đảng ta không chấp nhận chủ nghĩa địa phương cục bộ của một số phần tử trí thức miền Nam! Đảng ta cương quyết không dung dưỡng ý thức hai thể chế trong một nước việt Nam thống nhất… phải thống nhất tổ quốc trước năm 1976. Do đó đã bức tử CPCMLTCHMNVN và sáp nhập

MTDTGPMNVN vào Mặt Trận Tổ Quốc để thống nhất đất nước theo chủ nghĩa xã hội vào cuối năm 1975.

Sự thống nhất này đã vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris 1973, làm mất đi sự viện trợ của các nước tư bản cho miền Nam thời hậu chiến, và chính sự vội vã này đã không có đủ thời gian tính để chuẩn bị cho sự hội nhập của hai nền kinh tế khác biệt giữa Bắc và Nam, đã nhanh chóng đẩy nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Hãy nghe lời than uất nghẹn của Nguyễn Văn Trấn trong Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội: ”Nếu đã gấp rút thống nhất về hành chánh hai miến đất nước, thì sự phát triển kinh tế đòi hỏi một sự chỉ đạo chiến lược cho sự phát triển toàn diện …. Tư tưởng địa phương chúa, miền Bắc đối với địa phương chư hầu, miền Nam đã dẫn đến hậu quả rất tai hại: cái miền Bắc xí phần với miền Nam mà cưỡng ép sự thống nhất đã phá hoại môi trường của Chính Phủ Cách Mạng Miền Nam tranh thủ sự giúp đỡ của các nước tư bản, của Asean. Cái thống nhất cùng sánh vai tiến lên xã hội chủ nghĩa, đối ngoại làm xấu đi quan hệ có thể thiết lập được, đối nội thì gây một sự sợ hãi ngay trong lớp trung lưu giàu có và trí thức.”*

Sự lật lọng và phản bội trắng trợn này đã dấy lên mầm mống chống đối ngầm của những cán bộ cách mạng tập kết miền Nam, và Họ chỉ chực chờ cơ hội để bộc phát. Cơ hội đó đã đến, khi Mikhail Gorbachev, đề ra chương trình tái cấu trúc và chính sách cởi mở để cứu vản nền kinh tế khủng hoảng của Nga, thì tại Việt Nam Nguyễn Văn Linh sau khi lên làm Tổng Bí Thư trong những năm giữa thập niên 80 đã theo lối mòn đó, cũng hô hào cởi mở. Lồng theo chính sách cải cách và cởi mở (nửa vời) này, để thể hiện sự phản kháng của mình, những cán bộ miền Nam tập kết điển hình, Nguyễn Văn Trấn, Trần Văn Trà, Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, Đỗ Trung Hiếu … đã tập hợp lại trong Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ (CLBNNKCC) với đặc san Truyền Thống Kháng Chiến (TTKC), họ nhằm mục đích đẩy mạnh phong trào dân chủ hóa, công khai hóa, phản ánh các mặt đấu tranh đòi đổi mới theo nghị quyết đại hội 6. Đặc san này chỉ làm theo tinh thần của nghị quyết của đại hội 6, nhưng họ vẫn bị chụp mũ là biên soạn, phổ biến tài liệu có nội dung xuyên tạc chế độ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Dù đặc san TTKC bị ngưng hoạt động sau đó không lâu nhưng nhóm họ vẫn tiếp tục tranh đấu. Năng nổ nhất trong giai đoạn này là Nguyễn Hộ, chủ tịch CLBNNKCC đã trả thẻ đảng, bị đưa ra tòa, qua vụ án Nguyễn Hộ, bị quản thúc tại gia nhưng vẫn hiên ngang phản kháng cho đến ngày nhắm mắt. Bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam cho rằng, CLBNNKCC là tổ chúc chống đảng sau Nhân Văn Giai Phẩm.

Dư âm chống đảng của CLBNNKCC vẫn còn chưa dứt, nhất là sau biến cố 1991 tại Nga đã kéo theo sự sụp đỗ hoàn toàn chế độ cộng sản tại Nga và tại Đông Âu, thì tại miền Bắc các cựu đảng viên cách mạng lão thành, các cựu chiến binh cao cấp, các nhà trí thức, khoa bảng Bắc, Nam: Trần Độ, Phạm Quế Dương, Bùi Tín, Vũ Tu Hiên, Trần Xuân Bách, Trần Khuê, Nguyển Thanh Giang, Hoàng Minh Chính, Bùi Minh Quốc, Tiêu dao Bảo Cự, Hà Sĩ Phu, Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Đăng Quế, Nguyễn Đình Huy cùng với các lãnh tụ của các đoàn thể tôn giáo: Nguyễn Quang Vinh, Hồ Tấn Khoa, Lê Quang Liêm, Nguyễn Thị Thu, Nguyễn Văn Cội, Trần Đình Ái, Nguyễn Hồng Quang, Nguyễn Văn Lý, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Tuệ Sĩ, Thích Thiện Minh … và được sự hổ trợ của lực lượng người Việt hải ngoại và quốc tế, đã tiếp nối và làm mạnh hơn. Nếu CLBNNKCC chỉ đề nghị thi hành đúng đắn tinh thần nghị quyết của đại hội 6,thì ở giai đoạn này kéo dài cho đến nay, không còn hiền hòa như trước, chỉ đề nghị và yêu cầu, họ đã đi thẳng vào vấn đề, sẽ không thể có sự phát triển kinh tế để theo kịp các nước ở Đông Nam Á nếu cứ vẫn duy trì chính sách kinh tế quái dị, kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó phải có sự thay đổi tận gốc rễ: muốn phát triển kinh tế phải có sự tự do về chính trị, khi đã có sự tự do chính trị thì phải có sự tự do kính tế đi kèm theo. Sau đó họ còn đi xa hơn nữa, chống tham nhũng và đòi hủy bỏ điều 4, nghĩa là đa nguyên, đa đảng.

Nhũng nhân vật chống đối và đòi hỏi quyết liệt trong giai đoạn này là, Trần Độ, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Lê Quang Liêm, Nguyễn Hồng Quang, Nguyễn Văn Lý, Thích Tuệ Sĩ, Thích Thiện Minh …, nhất là Trần Độ, một tướng lãnh về hưu từng giữ những chức vụ quan trọng trong quân Đội và trong đảng, dù bị trù dập, hăm dọa, bắt bớ và khai trừ ra khỏi đảng nhưng ông vẫn tiếp tục tranh đấu tự do, dân chủ cho Việt Nam cho đến chết.

Thử cho rằng, sự đấu tranh của các thành phần kể trên, chẳng qua chỉ vì bị mất mát về quyền lợi của cá nhân hay của đoàn thể? Nếu quả thực như vậy, thì tại sao trong giai đoạn này lại có những người trẻ: Nguyễn Vũ Bình, Phạm Hồng Sơn, Lê Chí Quang, Nguyễn Khắc Toàn, Phương Nam, Đỗ Nam Hải … họ là những người đã được sinh ra và lớn lên trong sự nuôi dưỡng và giáo dục của một nền văn hóa ưu việt được mệnh danh là, đỉnh cao của trí tuệ loài người, nghĩa là đã không bị ảnh hưởng chút nào đến cái nền văn hóa được gọi là “nền văn hóa đồi trụy” của Mỹ – Ngụy, nhưng vì sao họ đã quay lại 180 độ để dấn thân chống lại cái chế độ đã dạy dỗ và cưu mang họ? Phải chăng, họ đã tìm được câu trả lời cho sự dấn thân thân của mình khi nhìn về nước Nhật, từ một nước bại trận năm 1945, đất nước bị tàn phá, nhưng chỉ 30 năm sau năm 1975 dưới chế độ tự do, dân chủ nước Nhật đã trở thành một trong những cường quốc về kinh tế của thế giới. Cũng thời gian 30 năm đó, Viêt Nam thống nhất đất nước năm 1975 với tài nguyên phong phú hơn gấp bội phần, nhưng dưới chế độ cộng sản độc tài đảng trị, đến năm 2005 họ đã đưa đất nước cũng trở thành, thay vì giàu mạnh, trở thành một trong những nước nghèo nhất thế giới!

Cộng sản Hà Nội cũng biết được điều đó nhưng ở họ, chỉ biết quyền lợi của bè nhóm hơn là quyền lợi của đất nước, bất chấp mọi đối kháng để bám lấy quyền lực, và chính điều này đã và đang đưa họ, lâm vào trình trạng khủng hoảng nội bộ. Sự khủng hoảng này đã có từ lâu, nhưng chỉ được nổ mạnh khi Võ Nguyên Giáp, sau đó tướng Nguyễn Nam Khánh cùng với Đồng Văn Cống, Phạm Văn Xô (hai người này là thượng cấp trực tiếp của Lê Đức Anh trước đây ở chiến trường miền Nam), Nguyễn Văn Thi tố đích danh Lê Đức Anh đã khai man lý lịch, về ngày nhập đảng và cũng còn tố cáo tập đoàn Lê Đức Anh – Đỗ Mười đã sử dụng T4, Tổng Cục 2 là công cụ, để lập hồ sơ giả mạo nhằm vu khống để loại bỏ những thành phần không cùng phe, nhóm với mình. Sự khủng hoảng này càng ngày, càng đưa đến trình trạng chia rẻ trầm trọng nội bộ của cộng sản Hà Nội hơn khi Võ Văn Kiệt đăng đàn với những bức thư, chỉ trích mạnh mẽ những sai phạm của chính sách độc tài hiện hành cần phải sửa đổi, và đồng thời góp ý kiến cho kế hoạch 5 năm của đại hội đảng cộng sản lần thứ 10, ông đã nhấn mạnh, muốn phát triển kinh tế của đất nước, thì phải có dân chủ, tự do. Qua đó cho chúng ta thấy, nội bộ đảng cộng sản Hà Nội đã vỡ ra , phe Võ Nguyên Giáp với những cựu tướng lãnh hồi hưu và các nhà cách mạng lão thành cộng với Võ Văn Kiệt cùng với những cán bộ tập kết miền Nam và phe Lê Đức Anh – Đỗ Mười đang cầm quyền.

Dù đang rất bận rộn công du đây đó, Hồ Cẩm Đào đã tìm cách dành thời gian để vội vàng sang thăm Việt Nam lần thứ ba, trong cương vị người quyền lực nhất nuớc Trung Quốc vào cuối tháng 10 năm 2005, trước ngày họp hội nghị trung ương đảng lần thứ 13, để cứu vãn và thêm sức cho phe đàn em tay sai Lê Đức Anh – Đỗ Mười. Nhưng vẫn chưa yên tâm, trước ngày đại hội đảng khoảng tuần lễ, Hồ Cẩm Đào lại phái nhân vật thứ tư của bộ chính trị Giả Khánh Lâm sang để tạo thêm ảnh hưởng trong việc sắp xếp nhân sự trong bộ chính trị và chính phủ qua việc yêu cầu, đồng chí Hồ Cẩm Đào mong muốn đồng chí Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng. Điều này đang báo trước, sẽ có nhiều màn đấu đá và chia rẽ trầm trọng cung đình nội bộ cộng sản Hà Nội trong kỳ đại hội đảng lần thứ 10 được tổ chức vào giữa năm 2006 và sẽ kéo dài trong tương lai.

Khi đã được theo ý muốn không lâu sau đó Hồ Cẩm Đào đã cho 16 chữ vàng để thể diện tình bạn láng giềng thấm thiết: láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai và theo tinh thần 4 tốt, láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.

Thực chất cùa 16 chữ vàng này chỉ là hình thức che dấu sau này về tình trạng chủ tớ hay nói khác đi cung cách thiên tử và chư hầu giữa Trung Quốc và Việt Nam qua nhũng việc: dù nhiều thành phần trong xã hội nhất là Võ Nguyên Giáp đã hai lần gửi thư cho bộ chính trị cảnh giác về mối tai hại khôn cùng về môi sinh cũng như yếu tố rất quan trọng về chiến lược khi cho Trung Quốc khai thác bauxite tại Cao Nguyên Trung Phần (Tây Nguyên) mà không qua một cuộc đấu thầu nào cả, nhưng cộng sản Hà Nội đã bỏ ngoài tai những ý kiến đóng góp đó mà còn cho là, đây là kế hoạch lớn của đảng! 16 chữ vàng không dừng tại đó, đã cưởng chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam để sáp nhập vào huyện Nam Sa, tỉnh Hải Nam và sau đó tự ý khoanh vùng lãnh hải hình lưõi bò mà phần lớn lãnh hải Việt Nam lọt vào vùng lưỡi bò này. Từ đó những tàu, thuyền Việt Nam đánh cá trong vùng lãnh hải của mình nhưng đã bị Trung Quốc tự cho là của họ nên đã ngang nhiên bắn giết hay giam giử các ngư nhân Việt Nam để sau đó đòi tiền chuộc mạng… Với những hành động ngang ngược kể trên, cộng sản Hà Nội chỉ lên tiếng đề nghị thay vì gửi công hàm ngoại giao để quyết liệt phản đối.

Trứơc thái độ ương hèn và khiếp nhược của cộng sản Hà Nội qua việc khai thác Bauxite, Trường Sa, Hoàng Sa và vùng lãnh hải lưởi bò, nhân dân trong nước (kể cả hải ngoại) không thể chấp nhận nên họ đã biểu lộ lòng công phẩn đối với cộng sản Hà Nội và qua đó thể hiện lòng yêu nước của mình chống giặc ngoại xâm tiêu biểu: Nguyễn xuân Nghĩa, Nguyễn Hữu Tín, Nguyễn Mạnh Sơn, Nguyễn Văn Túc, Nguyễn Kim Nhàn, sinh viên Ngô Quỳnh, Phạm Văn Trội, nhà giáo Vũ Hùng, Blogger Mẹ Nấm, Blogger Người Buôn Gió, Phạm Ðoan Trang Cộng sản Hà Nội chẳng những đã không hổ trợ mà còn nêu lý do, đã bị bọn xấu, diễn tiến hòa bình giựt dây chống lại nhà nước để trù dập, bắt bớ, đưa ra tòa và tù tội.

Trước tình trạng bất ổn ở trong nước: một nội bộ mâu thuẫn và chia rẽ, các đoàn thể tôn giáo đòi hỏi tự do tôn giáo, các cao trào đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền đang nở rộ trong nước và nhất là bản chất bán nước chỉ vì quyền lợi của phe nhóm.

Với tình huống đó đã đẩy tương lai của cộng sản Hà Nội sẽ đi về đâu? Câu trả lời không thể nào khác hơn là, chắc chắn sẽ đi đến tình trạng cáo chung.

Đến đây câu hỏi được đặt ra, lực lượng người Việt hải ngoại phải làm gì để hổ trợ cho Nguời Dân trong nước nổi dậy làm cuộc cách mạng để đẩy sự cáo chung đến sớm hơn.

Nhã Nam


Câu chuyện “chữ hiếu” của Ngô Ngọc Hùng VNHN - Đặng Phúc

Đặng Phúc

Nghe câu chuyện “chữ hiếu” của Ngô Ngọc Hùng đem mẹ đến văn phòng Đài VNHN tá túc, cảm động như chuyện tên dân chủ cuội, lưu manh trong nước “ăn cắp xe đạp” vì chữ hiếu không làm chính trị (ở nhà gái gú) cho đến thởi gian thuận tiện khi đảng chỉ thị cho phép thì chạy ra hô hào dân chủ (cuội) quyên tiền thu đô la tiếp.

Cũng vì “chữ hiếu” mà Lưu Lệ Ngọc và Dương Văn Hiệp, và con của hai ông bà đều tuần tự, từng đợt đi về Việt Nam. Nói như vậy là Cộng Sản Việt Nam rất nhân từ, nhân bản, quý trọng những người có hiếu, còn hải ngoại đối xử tệ với những người đang có hiếu sao? Thì chuyện vận động Quốc Hội, xin chữ ký thỉnh nguyện thư phản đối việt gian Cộng Sản không có nhân quyền là phản tác dụng với trường hợp ông bà Lưu Lệ Ngọc và Dương Văn Hiệp.

Chữ hiếu của Giám Đốc Đài VNHN quả thật xóa tội ác của những tên như Trường Chính vào thời điểm đấu tố Cải Cách Ruộng Đất được đảng tuyên truyền rầm rộ.

Bà Ngô Thị Hiền (thứ 3 từ trái qua)

Không biết bà Ngô Thị Hiền “Đôi Tám Đôi Năm” chuyên viên mua bán địa ôc, thành công nhât trong vùng, ở nhà khu sang trọng, nhiều lần tiếp đãi cả trăm thực khác tại nhà, là nơi vận động cho nghị sĩ, dân biểu Quốc Hội Hoa Kỳ, lo ăn ở, đi lại cho Lạc Đà Hoàng Duy Hùng như cậu em trai thân quý, lại không thể trả hiếu cho bà cụ già sao? Tại sao hai bà Ngô chị, Ngô em làm ngơ chuyện bà cụ sống vất vưởng lang thang ăn nhờ, ở đậu tại Đài VNHN sao? Hay Ngô Ngọc Hùng và Ngô Thị Hiền cùng cha khác mẹ mới có cảnh “mẹ cậu”, chẳng phải là “mẹ chị”? hay đây là” mẹ vợ” của Ngô Ngọc Hùng ?. Nguyên tắc truyền thông: Nói chi ½ thôi còn ½ kia có trời mới biết. Vũ khí truyền thông quyền lực ghê gớm thế sao?. Còn một điều nghịch lý nữa là Chương trình phát thanh Đài VNHN năm này qua tháng nọ dài 12 năm nay quảng cáo về xã hội, chính trị, tin tức nào là “Hội Người Già”, Hội Săn Sóc Sưc Khỏe, Hội Cố Vấn Pháp Lý, Hội Bảo Vệ Quyền Làm Người, Bảo vệ Nhân Công Lao Động v..v… lại thiếu phương tiện giúp cho một bà cụ già lang thang khổ sở đến thế sao? Có lý do nào các cơ quan dịch vụ giúp đỡ người Việt do chính phủ Hoa Kỳ tài trợ của vùng DC và Virginia bị đuổi việc, đóng cửa văn phòng hết rồi?

Chỉ cần ông Ngô Ngọc Hùng quá bộ qua văn phòng S.O.S tức là văn phòng “khẩn cấp” do chính phủ Hoa Kỳ tài trợ hàng triệu đô la hàng năm có đại diện khắp nơi các tiểu bang Hoa Kỳ, họ bao thầu việc làm từ A đến Z … Giám Đốc Ếch- Sờ -Ô- Ếch -Sờ cũng là chỗ thân tình với bà Ngô Thị Hiền, dù có tuyên bố bằng văn kiện thống kê là người đi biểu tình đừng cầm cờ vàng nữa, nhưng vẫn là người chống lưng cho Dân Biểu Cao thì đâu lý nào lại phủi tay chuyện bà cụ già lang thang thế kia?

Ngoài ra, các nhân viên bộ xã hội thăm viếng, săn sóc người già chưa nghe tin tức nói nhân viên chinh phủ bị layoff toàn bộ ? nên không lẽ nào không biết chuyện bà cụ lang thang ?. Câu hỏi đầu tiên của nhân viên xã hội là Bà có thân nhân không ? Thân nhân bà ở đâu ? điều kiện đời sống của bà ra sao? Không lẽ con cái ở biệt thự sang trọng còn mẹ già đi xin nhà housing, hay lang thang ăn nhờ ngủ đậu ở văn phòng đài phát thanh?

Trở lại chuyện “giao du với Việt gian Cộng Sản”

Một người bình thường lấy tư cách gì được giao du với cán bộ Cộng Sản ? bao nhiêu người dân tỵ nạn được bọn cán bộ Tòa Đại Sứ Việt cộng đến nhà thăm? Chưa kể việc lộ ra trong gia đình sẽ bị gia đình, bạn bè kinh tởm, lánh xa. Còn chuyện Giám Đốc Đài VNHN công khai lên tiếng trên đài xác nhận đã nhiều lần giao du với Việt gian Cộng Sản. Chưa thấy ai gọi vào đài lên tiếng đòi biểu tình phản đối như báo Người Việt Cộng Sản “Đỗ Ngọc Yến giao du với việt gian Cộng Sản” mới là chuyện lạ. Điều này cho thấy ông Chủ tịch cộng đồng ĐHA "con kiến, con bò" cưỡi ngựa xem hoa nên chuyện hai cây trụ cờ quan trọng hơn chuyện chống cộng, vạch mặt bọn giao du, kết tình với Tòa Đại Sứ Việt cộng ở Hoa Thịnh Đốn. Các ông ôm cột cờ có tiếng, có miếng làm chủ tịch cộng đồng , chờ danh kiếm lợi chớ có đấu tranh đấu ngói gì đâu? Đấu tranh mà mời tên gà nuốt giây thung kêu ót ót trên Đài VNHN vào họp về việc đài có giao du với Việt gian Cộng Sản không ? Cấm luôn bản tin của bà Tuyết Mai về buổi họp của Cộng Sản ?… Đúng là NQ36, đụng vào là bị chụp mũ “phản động” không khác gì tư cách của tên gà nuốt giây thung từ mồng cho tới lưỡi đều tái như thịt thối đang được các anh Ba Tàu đầu cơ tích trữ bán công khai ở Việt Nam

Trở lại chuyện Đài VNHN giảo du với Việt gian Cộng Sản.

Những người lãnh tiền già, hay làm lương đồng ba cọc, nhịn ăn nhịn thuốc, nhịn tiền chợ để hàng tháng đóng tiền cho đài vì nặng nợ với Đài VNHN đã đến lúc các vị thính giả nên đến tận đài Đài VNHN treo cờ trương biểu ngữ “đả đảo Đài VNHN giao du với việt gian Cộng Sản”, “đả đảo Đài VNHN lừa bịp thính giả”. Đó là thái độ chính đáng nhât. Vì Giám Đốc Đài VNHN đã lừa bịp, lợi dụng lòng tin của thính giả nghe đài trong nhiều năm qua.

Yêu cầu Giám Đốc Đài VNHN mở buổi họp báo để giải thích nguyên nhân nào Giám Đốc của Đài Giao Du với Việt gian Cộng Sản ,và Tòa Đại Sứ Cộng Sản?

Nguyễn Đăng Tuấn

Nếu có sự có mặt của Chủ tịch Hội Văn Bút Nguyễn Đăng Tuấn, Sơn Tùng càng tốt, vì chúng tôi đang chờ nghe ông Nguyễn Đăng Tuân giải thích lý do việc Giám Đốc Đài VNHN giao du với Việt gian Cộng Sản không là đề tài quan trọng? cũng như các ông cựu chủ tịch của Hội Văn Bút Lạc Đà Hoàng Duy Hùng và Nhà báo Sơn Tùng có liên quan đến tên gián điệp văn hóa “chủ động điếm Quán Bà Mau” Ali Baba Nguyễn Chí Thiện không là quan trọng?. Các ông chủ tịch Văn Bút Hải Ngoại làm ngơ những chuyện tày trời của việt gian Cộng Sản xâm nhập vào cộng đồng hải ngoại. Ngược lại VBHN còn có nhiều việc làm tiếp tay việt gian Cộng Sản như bài viết của ông Sơn Tùng về Thằng Hèn Tô Hải, hay tiếp tay với “chủ dộng điếm Quán Bà Mau” Ali Baba Nguyễn Chí Thiện. Còn nhiều chuyện của Hội Văn Bút chưa kể ra đây đã nhiều lần làm thối các diễn đàn Internet. Hình trắng đen của Ngô Ngọc Hùng Giám Đốc đài, và Kiều Mỹ chụp chung với "chủ động điếm Quán Bà Mau" Ali Baba Nguyễn Chí Thiện khi mới đến phi trường được Nguyễn Chí Thiện lồng vào sách không biết bao giờ các nhân vật có liên hệ trả lời cho cộng đồng không ?









Tôi nghĩ ông Ngô Ngọc Hùng "nói thật". Vậy kính xin mọi người đóng góp tiền:
    1. Nuôi bà cụ thay về gửi về VN nuôi cộng sản.
    2. Giúp ông NNH có phương tiện mua vé máy bay về VN "chiêu hồi" cộng sản.
Ai phản đối đề nghị sẻ bị ông Nguyễn Tường Thược chủ tịch cộng đồng sòng bac New Jersey viết bài lên án là VC phá hoại "đàn két cuốc ra"

Đặng Phúc

Về bài viết TƯỚNG TRẦN THIỆN KHIÊM - Phạm Bá Hoa

    Về bài viết TƯỚNG TRẦN THIỆN KHIÊM
    Cơn lốc rối loạn Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam
    của Tác Giả Trần Ngọc Giang (Xin xem nguyên văn dưới cuối bài)
Phạm Bá Hoa

Tôi, Phạm Bá Hoa, xin phép tác giả Trần Ngọc Giang. Vì có nhiều bạn chuyển đến tôi bài viết của tác giả, kèm theo câu tóm tắt chung là “muốn tôi cho biết ý kiến”. Lúc đầu, tôi có trả lời rất vắn tắt riêng cho 4 bạn, nhưng vì càng nhiều bạn chuyển bài này đến tôi và muốn biêt ý kiến, nên tôi thấy cần trình bày chi tiết thêm vào từng đoạn thích hợp trong bài viết của tác giả để tiện trả lời chung. Vào đầu bài:

“Cơn Lốc Rối Loạn Đệ Nhất Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam”, tác giả có y như “trần tình” với người đọc với dòng chữ “… sau nhiều lần suy nghĩ, trăn trở vẫn phải cầm viết hầu phơi bày một sự thật để phần nào giúp các sử gia sau này có những sự kiện quan trọng đưa vào dòng định mệnh của Lịch Sử Việt Nam”.

Cũng vì vậy, một lần nữa, tôi xin phép tác giả để viết lại những lệnh mà tôi nhận, những việc mà tôi làm, những gì mà mắt tôi thấy trực tiếp, tai tôi nghe trực tiếp, cùng nét nhìn của tôi từ những điều đó và từ những dòng chữ của tác giả, còn đánh giá như thế nào xin tùy quí vi hữu, quí độc giả.

Xin thưa, trong cuộc đảo chánh 1/11/1963, tôi là Đại Úy chánh văn phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Trong bài này, phần chữ nghiêng tôi viết và save dưới dạng pdf.

* * *

Kể từ biến cố lịch sử năm 1975 đến nay đã có nhiều sách báo, đoàn thể, tôn giáo cũng như hầu hết đồng bào Việt Nam đều quy trách những nhà lãnh tụ miền Nam như Tổng thống Diệm, tuớng Minh, Đôn, Thiệu, Kỳ v.v… đều là những người đã một phần chịu trách nhiệm để Cộng sản thôn tính miền Nam. Sự quy trách này trên bình diện chính trị, truyền thông đương nhiên không ai phủ nhận, nhưng trên phương diện lịch sử thì thật là phiến diện. Do đó tiện giả sau nhiều lần suy nghĩ, trăn trở vẫn phải cầm cây viết hầu phơi bày một sự thật để phần nào giúp các sử gia sau này có những sự kiện quan trọng đưa vào dòng định mệnh của Lịch sử Việt Nam.

Ngược dốc thời gian năm 1958, Đại tá Trần Thiện Khiêm là một trong những sĩ quan được Tổng thống Diệm ưa thích vì vậy Đại tá Khiêm đã được bổ nhiệm Tư lệnh Sư đoàn 4BB. Thời gian này Đại tá Khiêm có hai người bạn thân nhất là Đại tá Nguyễn Khánh và Trung tá Nguyễn Văn Thiệu, bất cứ cuối tuần nào, Đại tá Khiêm đều lái xe đến thăm Đại tá Khánh tại đồn điền trà J’Ring, sau đó 2 người kéo lên Đà Lạt thăm Trung tá Thiệu đương là Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.

Tôi không biết Thiếu Tướng Khiêm thân với Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu từ lúc nào, mà tôi chỉ biết – theo lời của bà Trần Thiện Khiêm – Đại Tướng Khiêm, Đại Tướng Nguyễn Khánh, và Đại Tướng Cao Văn Viên, thân nhau khi 3 vị cùng là Đại Úy và cùng chiến đấu trong quân đội Liên Hiệp Pháp tại mặt trận Na Sản trên đất Lào.

Năm 1960 trong vụ đảo chánh do Trung tá Vương Văn Đông cầm đầu bị thất bại, bởi Đại tá Khiêm Tư lệnh SĐ 21BB từ miền Tây kéo về giải cứu Tổng thống Diệm, và kể từ đó Đại tá Khiêm được Tổng thống Diệm tín cẩn tuyệt đối, thăng cấp Thiếu tướng và được bổ nhiệm Tham mưu trưởng Liên quân Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

(1) Sau khi Đại Tá Nguyễn Chánh Thi thất bại cuộc đảo chánh 11/11/1960, Đại Tá Khiêm gọi tôi đến gặp ông tại Bộ TTM – lúc ấy tôi đang học lớp tham mưu tại trường đại học quân sự đồn trú trong khuôn viên trại Trần Hưng Đạo, tức Bộ TTM. Trước khi đi học, tôi là Trưởng Ban Hành Quân Phòng 3/SĐ21BB- Đại Tá Khiêm chỉ nói: “Ông Khánh sẽ cho di chuyển trường đại học lên Đà Lạt. Phần chú, mãn khóa là chú về lại Phòng 3 SĐ, tôi có việc cho chú”. Ngày hôm sau, Đại Tá Khiêm trở về Quân Khu 5 đồn trú tại Cần Thơ, ông vẫn kiêm nhiệm Tư Lệnh SĐ21BB đồn trú tại Sa Đéc. Tháng 4/1962, giải thể các Quân Khu, các Quân Đoàn Sư Đoàn được trao thêm nhận trách nhiệm an ninh lãnh thổ với danh xưng kèm theo là Vùng Chiến Thuật, Khu Chiến Thuật, Đại Tá Khiêm vẫn là Tư Lệnh SĐ21BB/Khu Chiến Thuật Hậu Giang, và SĐ21BB di chuyển từ Sa Đéc sang Cần Thơ. Ngày 6/12/1962, Đại Tá Khiêm thăng cấp Thiếu Tướng, được cử giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân/Bộ Tổng Tham Mưu, và ông nhận chức ngày 17/12/1962. Lúc ấy tôi Đại Úy chánh văn phòng Tư Lệnh SĐ21BB, tôi cũng được lệnh thuyên chuyển đến bộ TTM, và Thiếu Tướng Khiêm cử tôi giữ chức chánh văn phòng TMT Liên Quân cũng từ ngày ấy (17/12/1962). Danh xưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mới sử dụng từ 1/4/1964 thời Trung Tướng Nguyễn Khánh, sau văn kiện hệ thống hóa “QLVNCH gồm: Hải Quân, Không Quân, Lục Quân, Địa Phương Quân & Nghĩa Quân” (2) Trong cuộc sống nhất là trong sinh hoạt chính trị, tôi không tin là có sự “tín cẩn tuyệt đồi”, vì thật ra không có gì tuyệt đối trong đời sống chúng ta cả.

Sau khi nắm chức vụ trên và nhất là được sự tin tưởng của Tổng thống, Thiếu tướng Khiêm đã đề cử Trung tá Thiệu làm Tư lệnh Sư đoàn 5BB và Thiếu tướng Khánh làm Tư lệnh vùng 2 Chiến thuật. Tóm lại tất cả các chức vụ quan trọng trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa vào thới điểm này nếu có sự đề bạt của Thiếu tướng Khiêm chắc chắn sẽ được Tổng thống Diệm chấp thuận, ngoài ra TT Khiêm hơn hẳn các tướng lãnh khác là được cả ông Cố vấn Ngô Đình Nhu mến phục. Bởi vậy tiếng nói của Thiếu tướng Khiêm với hai nhân vật then chốt của nền Đệ Nhất Cộng Hòa có một tác dụng gần như tuyệt đối, các tướng lãnh và tư lệnh quân binh chủng trong QLVNCH biết như vậy nên mọi lệnh của TT Khiêm, Tham mưu trưởng Liên quân đưa ra đều được thi hành đầy đủ, chính xác.

(1) Thiếu Tướng Khánh bàn giao chức vụ Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu cho Thiếu Tướng Khiêm trước khi ông đi Pleiku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn 2/Vùng 2 Chiến Thuật. Như vậy, tôi nghĩ, không phải Thiếu Tướng Khiêm đề cử Thiếu Tướng Khánh sau khi Thiếu Tướng Khiêm nhận chức. Chức TMT Liên Quân là chức vụ mới thiết lập và Thiếu Tướng Khiêm là người đầu tiên nhân chức vụ này. (2) Có phải Thiếu Tướng Khiêm đề cử Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu giữ chức Tư Lệnh SĐ5BB hay không, điều này tôi không biết. (3) Các đơn vị thi hành lệnh của Bộ TTM ngang qua TMT Liên Quân ký thừa lệnh Tổng Tham Mưu Trưởng là hành động bình thường trong quân đội.

Từ trước tới nay đã có nhiều sử gia và nhân vật chính trị đề cập đến cuộc đảo chánh ngày 1-11-63 nhưng nhiều sự kiện vẫn còn thiếu sót và không chính xác vì chưa ai nêu đúng nhân vật chủ chốt, hầu hết đều cho rằng các tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính là những nhân tố chính. Nhưng mặt trái bên trong hậu trường thì không phải vậy, Trung tướng Đôn mặc dù là Quyền Tổng Tham mưu trưởng nhưng không được các Tư lệnh quân binh chủng tin tưởng, Tướng Minh không có thực lực trong tay còn lại Tướng Đính chỉ trong phạm vi Tổng trấn Sài Gòn mà thôi.

Đầu tháng 3/2007 trong lúc nói chuyện với cựu Đại Tướng Khiêm sau khi đón ông và gia đình từ phi trường IAH sau chuyến du lịch Pháp quốc trở về Houston, nhân lúc vui vẻ, tôi hỏi: “Thưa anh Tư, hồi đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963, bắt đầu từ phía Hoa Kỳ hay từ phía Việt Nam mình anh Tư?” “Từ phía Hoa Kỳ”. “Vậy ai là người nối vào Việt Nam mình anh Tư?” “Ông S.”. “Ông ấy nối vào ai vậy anh Tư?” “Nối vào anh, nhưng anh thấy việc lớn quá nên giới thiệu với Trung Tướng Minh (Dương Văn)”. Cựu Đại Tướng Khiêm có nói tên đầy đủ của người Mỹ này, nhưng ông không muốn tôi nêu tên ông ấy dù ông S. đã chết rồi. Trong năm 1963, tôi có dịp nói chuyện với ông S. này trong những lúc ngồi chờ vào gặp Thiếu Tướng Khiêm. Ông ta trong ngành tình báo, nói tiếng Pháp sành sỏi. Với những gì tôi biết, Thiếu Tướng Khiêm là một trong những vị quan trọng trong cuộc đảo chánh chớ không phải là “nhân vật chủ chốt”. Trong một đoạn bên dưới, tôi trình bày rõ hơn về điểm này.

Đến đây tiện giả xin trình bày diễn tiến cuộc đảo chánh 1-11-63 để quý vị độc giả có thể thấu hiểu ai là người đã soạn thảo, móc nối và thi hành kế hoạch đảo chánh.

Khoảng đầu tháng 10-1963 Thiếu tướng Khiêm gọi Thiếu tá Giang lên văn phòng cho biết sẽ có đảo chánh để lật đổ chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa vì Thiếu tướng Khiêm được biết ông Ngô Đình Nhu đã có liên lạc với phía Việt Cộng. Đến đây tiện giả xin mở dấu ngoặc. Sở dĩ Thiếu tướng Khiêm tiết lộ cuộc đảo chánh cho Thiếu tá Giang vì Thiếu tá Giang đã từng là Chánh Văn phòng của Thiếu tướng Khiêm, và ngay sau nhậm chức Tham mưu trưởng Liên quân Thiếu tướng Khiêm đã yêu cầu Nha An ninh quân đội đưa Thiếu tá Giang sang giữ chức vụ Trưởng phòng An ninh Quân đội Bộ Tổng Tham mưu.

(1) Nếu tôi nhớ không lầm, lúc đảo chánh 1/11/1963, tác giả là Đại Úy chớ chưa là Thiếu Tá. Tôi còn nhớ văn phòng của tác giả trong Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu, building bên trái từ cổng số 1 vào. Tác giả có trách nhiệm xét cấp “Thẻ” ra vào cổng Tổng Tham Mưu cho quân nhân viên chức phục vụ trong khuôn viên Bộ TTM. Tôi cũng được cấp thẻ đó. Tác giả nói đầu tháng 10/1963, Thiếu Tướng Khiêm gọi tác giả lên văn phòng cho biết có đảo chánh, nhưng những gì tôi biết thì những buổi họp tối mật giữa Thiếu Tướng Khiêm với các vị đảo chánh là từ trung tuần tháng 10/1963. Chứng minh: Khoảng 17 hay 18/10/1963, Thiếu Tướng Khiêm bắt đầu có những lần rời khỏi nhà ban đêm (sau đảo chánh tôi mới biết là ông đến nhà Thiếu Tướng TT Đính) mà không cho xe hộ tống theo sau, cho phép suy đoán là chuyện đảo chánh được thảo luận từ đó.

(2) Về phần tôi, 7 giờ sáng 1/11/1963 (hôm ấy là lễ Các Thánh Tử Đạo) Thiếu Tướng Khiêm gọi tôi đến nhà ông, sau khi ngồi ở góc sân mà từ đó nhìn thấy chung quanh để biết chắc là không ai nghe thấy, trước khi ra lệnh ông nói thế này” “Đây là chuyện tối mật, chú không được nói với bất cứ ai kể cả vợ chú và chú Có, nếu bị tiết lộ thì chú đứt đầu trước tôi.” Chù Có mà Thiếu Tướng Khiêm nói ở đây là Trung Úy Nguyễn Hữu Có, sĩ quan tùy viên của ông. Tôi nghĩ, nếu tác giả được tín cẩn đến mức được Thiếu Tướng Khiêm cho biết trước đảo chánh một tháng, ắt hẳn tác giả phải là nhân vật rất quan trọng trong cuộc đảo chánh 1/11/1963, nhưng trong thực tế chừng như không phải vậy, vì tôi không nhận thấy “người thật việc thật” liên quan đến cuộc đảo chánh. Tôi nói “rất quan trọng” vì đây là hành động ảnh hưởng trực tiếp đến binh nghiệp và mạng sống của những vị tham gia đảo chánh. Hơn ai hết, ngành an ninh biết rõ điều này ít nhất là sau vụ 11/11/1960.

(3) Những gì ở Sư Đoàn 4 Dã Chiến liên quan đến tác giả, tôi có nghe Trung Úy Nguyễn Hữu Có – sĩ quan tùy viên lúc ấy – nói lại, nhưng vì chưa đủ lý lẽ để tôi tin nên tôi xem như không biết gì hết.

Ngày 20-10-1963 Thiếu tướng Khiêm chỉ thị Thiếu tá Giang qua gặp Đại tá Đỗ Mậu, Giám đốc Nha An ninh quân đội để cho Đại tá Mậu biết là ông Cố vấn Ngô Đình Nhu vừa ra lệnh cho Thiếu tướng Khiêm tạm giữ Đại tá Mậu vì ông này đang vận động đảo chánh; và Thiếu tướng Khiêm dặn Thiếu tá Giang nói với Đại tá Mậu tạm thời lánh mặt để Thiếu tướng Khiêm dễ dàng trình lên ông Cố vấn. Cũng trong thời gian này Thiếu tướng Khiêm tiết lộ với Thiếu tá Giang về phía tướng lãnh Thiếu tướng Khiêm đã tranh thủ được hầu hết, chỉ còn có Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao, Tư lệnh vùng 4 là chưa hội ý, riêng Tướng Khánh và Đại tá Thiệu hoàn toàn đồng ý với Thiếu tướng Khiêm, ngoài ra các Tư lệnh quân binh chủng đã có hứa là sẽ sát cánh với Thiếu tướng Khiêm. Nói tóm lại việc vận động, tổ chức cũng như hoàn tất kế hoạch đảo chánh hầu như do Thiếu tướng Khiêm chủ động vì chỉ có tướng Khiêm hội đủ mọi yếu tố để cho các tướng lãnh và tư lệnh quân binh chủng tin tưởng.

(1) Những ngày cuối tháng 10/1963, một buổi tối sau khi Thiếu Tướng Khiêm ra khỏi nhà một lúc, Trung Tá Phạm Thư Đường – chánh văn phòng ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu – điện thoại tôi, hỏi TT Khiêm đi đâu và tôi trả lời TT Khiêm vừa đi đâu đó tôi không biết. Trung Tá Đường nói lệnh của ông Cố Vấn bảo tôi trình với Thiếu Tướng Khiêm là sau giờ làm việc không nên ra khỏi nhà, vì lúc này bọn đặc công Việt cộng tìm ám sát các Tướng Lãnh. Điều này cho thấy ông Cố Vấn Nhu theo dõi hoạt động của Thiếu Tướng Khiêm (và có thể những vị khác nữa) chớ không phải lòng tín cẩn. Tôi chứng minh thêm. Tháng 4/1962, khi ông Cố Vấn xuống Vĩnh Long quan sát trắc nghiệm Ấp Chiến Lược, Đại Tá Khiêm – Tư Lệnh SĐ21BB/Khu Chiến Thuật Hậu Giang – có mặt tại phi trường nhỏ đón ông Cố Vấn, nhưng khi lên xe đi thăm ACL thì Đại Tá Khiêm vẫn ngồi trên xe của ông chớ không đi theo phái đoàn. Trung Tá Lê Văn Phước -Tỉnh Trưởng Vĩnh Long- đến tận xe mời Đại Tá Khiêm cùng ngồi xe với ông Cố Vấn, Đại Tá Khiêm nói: Anh đưa ông Cố Vấn đi thăm ÂCL, tôi vào nhà anh ngồi chờ”. Sở dĩ tôi nghe được câu trả lời và nhìn thấy thái độ của Đại Tá Khiếm, vì tôi vừa là chánh văn phòng Tư Lệnh SĐ21BB vừa trách nhiệm theo dõi trắc nghiệm ACL tại các tỉnh Hậu Giang, và lúc ấy tôi đứng cạnh Đại Tá Khiêm. (2) Trong quân sự, lệnh phải “ngắn gọn, rõ ràng, chính xác”. Ở đây, Thiếu Tướng Khiêm ra lệnh cho tác giả bảo Đại Tá Đỗ Mậu “tạm thời lánh mặt” dường như lệnh này không rõ nghĩa. Xin thưa, mỗi lần Thiếu Tướng Khiêm ra lệnh cho tôi, bao giờ ông cũng hỏi: “Chú có gì cần hỏi không?” Trường hợp tôi hiểu không rõ là tôi hỏi lại ngay. Với lệnh bảo Đại Tá Đỗ Mậu “tạm thời lánh mặt” phải hiểu thế nào để chuyển lệnh cho đúng? (3) Chính tôi điện thoại liên lạc Thiếu Tướng Khánh (ở Pleiku) nhưng ông không nhận điện thoại, mãi đến gần sáng 2/11/1963 ông mới lên tiếng ủng hộ đảo chánh, chứng tỏ Thiếu Tướng Khánh không tham dự từ đầu, vì nếu tham dự từ đầu thì Thiếu Tướng Khiêm đâu cần ra lệnh cho tôi điện thoại hỏi TT Khánh.

Sáng sớm ngày 31-10-1963 Thiếu tướng Khiêm gọi Thiếu tá Giang lên văn phòng; khi Thiếu tá Giang bước vào thì thấy Đại tá Nguyễn Hữu Có ở đó, Thiếu tướng Khiêm chỉ thị cho Thiếu tá Giang cầm công điện hỏa tốc đi cùng với Đại tá Có xuống Mỹ Tho để bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn hiện do Đại tá Đạm là tư lệnh. Sở dĩ Thiếu tướng Khiêm ra lệnh cho Thiếu tá Giang đi với Đại tá Có là để Đại tá Đạm tin tưởng là lệnh thật do chính Thiếu tướng Tham mưu trưởng ký vì Đại tá Đạm từng biết sự thân cận giữa Thiếu tướng Khiêm và Thiếu tá Giang.

(1) Vào thời gian ấy, cử vào chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn phải là Sắc Lệnh của Tổng Thống, đâu thể nào chỉ do một công điện mà là công điện của vị Tham Mưu Trưởng Liên Quân lại đủ thẩm quyền thay cho một Sắc Lệnh? Thêm nữa, những tài liệu thuộc loại mật và tối mật trong văn phòng TMT Liên Quân, hoàn toàn do tôi đánh máy, cho số, vào phong bì, dán kín mới gởi, cũng như lưu giữ trong tủ sắt ngay sau lưng tôi, không một sĩ quan nào có trách nhiệm này. Nhưng tôi hoàn toàn không biết gì về công điện mà tác giả nói ở trên. (2) Tôi có chút thắc mắc: “Tại sao phải có mặt tác giả bên cạnh Đại Tá Nguyễn Hữu Có để chứng minh công điện đó là thật”. Như vậy phải hiểu rằng, nếu không có tác giả thì Đại Tá Có chẳng có giá trị gi hết, nếu không nói lúc ấy “Đại Tá Có chỉ là cái bóng của tác giả”. Với lại những gì tôi biết về Đại Tá Đạm, ông là người rất chính chắn bình tỉnh trong mọi vấn đề, nên tôi tự hỏi: Chẳng lẽ Đại Tá Đạm biết tác giả được sự tín cấn của Thiếu Tướng Khiêm đến mức chỉ cần sự có mặt của tác giả đã đủ để ông tin tưởng cái lệnh tối mật đó là thật sự của Thiếu Tướng Khiêm? Chẳng lẽ Đại Tá Đạm lại chấp nhận cái công điện đó của vị TMT Liên Quân có thẩm quyền thay cho Sắc Lệnh của Tổng Thống? Dù gì thì trên quyền của TMT Liên Quân còn có Trung Tướng Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng nữa mà. Phải chăng tác giả hàm ý tác giả là biểu tượng của Thiếu Tướng Khiêm do tác giả từng là chánh văn phòng của Đại Tá Khiêm khi ông giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Dã Chiến đồn trú tại Biên Hòa. (tùy theo thời gian, tôi dùng cấp bậc đúng vào lúc ấy)

Đến 11 giờ sáng cùng ngày Thiếu tá Giang trở về Bộ Tổng Tham mưu và được Thiếu tướng Khiêm cho biết đúng 12 giờ trưa Thiếu tướng Khiêm sẽ chủ tọa buổi họp các tư lệnh quân binh chủng, và sau buổi họp nếu ai chống lại đảo chánh thì thiếu tá Giang phải giữ lại trong phòng họp Bộ Tổng Tham mưu chờ lệnh của Thiếu tướng Khiêm. Buổi họp vừa chấm dứt; trong lúc lộn xộn thì Đại úy Nhung sĩ quan cận vệ của Trung tướng Minh tự ý bắt Đại tá Lê Quang Tung, Tư lệnh Lực lượng đặc biệt dẫn đi đâu không rõ, sau đó Đại úy Nhung trở lại định bắt Đại tá Cao Văn Viên, Tư lệnh Sư đoàn nhảy dù và ông Lê Văn Tư, Giám đốc Cảnh sát Đô Thành, nhưng Thiếu tá Giang đã ngăn chặn kịp thời. Đại úy Nhung báo lên Trung tướng Minh và Trung tướng đến hỏi lý do cản trở Đại úy Nhung thì Thiếu tá Giang trả lời là thi hành lệnh Tướng Khiêm.

(1) Ngày 31/10/1963, hoàn toàn không có buổi họp nào tại Bộ TTM do TT Khiêm chủ tọa cả. (2) Ngày 1/11/1963, lúc 7 giờ sáng (hôm ấy nghỉ lễ buổi sáng), Thiếu Tướng Khiêm đưa tôi hai danh sách và ra lệnh: Thứ nhất. Mời quí vị trong danh sách 1 đến câu lạc bộ Bộ TTM trước 12 giờ để dùng cơm, thật ra là buổi họp của những vị tham gia đảo chánh trước khi lên phòng làm việc của Thiếu Tướng Khiêm. (2) Mời quý vị trong danh sách 2 đến họp tại phòng họp số 1 (tầng 1 tòa nhà chánh) và yêu cầu có mặt trước lúc 1 giờ trưa, thật ra là cầm chân trong phòng họp. Đúng 1 giờ trưa, đóng cửa lại và cho Quân Cảnh gác, không một ai trong số đó được ra vào. Lúc ấy tác giả không phải là thành viên của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, cũng không phải là sĩ quan thừa hành của bất cứ vị nào trong đó, tôi nghĩ, tác giả làm sao ngăn chận Đại Úy Nhung là người nhận lệnh của Trung Tướng Chủ Tịch Hội Đồng. Thật ra – theo lời của cựu Đại Tướng Cao Văn Viên – nói với tôi trong bữa ăn tại nhà anh chị Lý Thanh Tâm ở Virginia trưa ngày 6/9/2003, chính Thiếu Tướng Đính bảo Đại Úy Nhung tháo còng ra (lúc ấy mới còng 1 tay). (3) Tôi ngạc nhiên ở điểm, tác giả không phải là Trung Tướng Minh, cũng không phải là Đại Úy Nhung, làm sao biết được Đại Úy Nhung “tự ý” bắt Đại Tá Tung? Sự kiện mà tác giả nêu lên là sự kiện lịch sử, vì vậy mà sự suy đoán nhất là suy đoán theo chủ quan, tôi nghĩ là nên tránh. (4) Nhẩy Dù lúc ấy là Lữ Đoàn chớ chưa là Sư Đoàn. (5) Ngay Đại Tá Nguyễn Đức Thắng Trưởng Phòng 3 TTM, Đại Tá Đặng Văn Quang Trưởng Phòng 4 TTM, cũng không vào được, tác giả làm sao vào bản doanh HĐQNCM để nhận lệnh của Thiếu Tướng Khiêm. Xin mời đọc thêm đoạn cựu Đại Tướng Khiêm từ Virginia điện thoại tôi ở Houston vào tối 21/10/2003 (bên dưới) để nhận ra điều mà tác giả nói Thiếu Tướng Khiêm ra lệnh cho tác giả ngăn chận hành động Đại Úy Nhung, “điều đó có thể có hay không”.

Khoảng 2 giờ trưa ngày 31-10-63 Đại úy Lê Quang Triệu, em ruột của Đại tá Tung dẫn 1 đại đội lực lượng đặc biệt cùng với 4 chiến xa đến cổng Bộ Tổng Tham mưu để hỏi tình trạng Đại tá Tung, ngay khi đó Đại úy Nhung chạy ra gặp Đại uý Triệu và yêu cầu Đại úy vào trình diện Thiếu tướng Khiêm, Đại úy Triệu nghe lệnh trình diện Thiếu tướng Khiêm nên Đại úy không nghi ngờ gì do đó mới bị chết thảm.

Ngày 31/10/1963, không có chuyện Đại Úy Triệu đẫn quân đến hỏi tình trạng Đại Tá Tung.

Khi tiếng súng đảo chánh nổ trưa 31-10-63 Thiếu tướng Khiêm đã chủ động qua các diễn trình như:

Ngày 31/10/1963, đâu có cuộc đảo chánh nào mà nổ súng. Đảo chánh ngày 1/11/1963, ngày này không phải riêng Việt Nam mình mà nhiều quốc gia trên thế giới đều biết, nhưng theo tài liệu của tác giả là ngày 30/10/1963. Viết nhầm con số chăng? Tôi e không phải, vì ngày 1 chỉ có một con số nhưng tác giả lại gõ vào số 3 trước rồi đến số 1. Còn con số tháng 10 khác xa với con số tháng 11. Muốn viết số 11 thì gõ hai lần số 1 tận cùng bên trái, nếu gõ nhầm số thứ nhì phải là số 2 hay số 3, chớ đâu thể nào gõ nhầm vào số 0 ở gần tận cùng bên phải của hàng số. Nếu được tác giả giải thích điều này thì rõ nghĩa.

- Ra lệnh cho Đại tá Có điều động Sư đoàn 7 ngăn chặn lực lượng tiếp viện từ vùng 4 chiến thuật.

Lệnh của HĐQNCM (không phải lệnh của Thiếu Tướng Khiêm) cử Đại Tá Nguyễn Hữu Có xuống SĐ7BB (Mỹ Tho) khống chế Đại Tá Đạm án binh bất động. BTL Quân Đoàn 4 tại Cần Thơ và SĐ9BB đồn trú tại Sa Đéc, hai đại đơn vị này cũng bị khống chế án binh bất động như vậy.

- Lệnh cho Đại tá Thiệu, Tư lệnh Sư đoàn 5 điều quân về Sài Gòn để làm chủ lực tấn công Lữ đoàn phòng vệ Phủ Tổng thống và Dinh Gia Long.

- Cô lập tất cả Tư lệnh Quân binh chủng nào xét ra chống lại cuộc đảo chánh.

Lúc 1 giờ trưa, tôi xuống lầu chuyển lệnh cho Quân Cảnh đóng cửa phòng họp số 1 và Quân Cảnh đứng gác. Tôi thấy tận mắt để biết chắc là lệnh đã được thi hành, rồi trở lên văn phòng trình Thiếu Tướng Khiêm.

- Ra lệnh cho Tướng Khánh, Tư lệnh vùng 2 và Tướng Trí vùng 1 chiến thuật thi hành những biện pháp cần thiết.

Tối 1/11/1963, tôi điện thoại lên Quân Đoàn 2 để chuyển lời của Thiếu Tướng Khiêm hỏi TT Khánh có ủng hộ hay không, nhưng TT Khánh không nhận điện thoại. Như vậy, Thiếu Tướng Khánh không được biết cuộc đảo chánh ít nhất cho đến sau 1 giờ trưa (giờ G của cuộc đảo chánh). Trường hợp Thiếu Tướng Đỗ Cao Trí có công điện ủng hộ ngay sau 1 giờ trưa ngày 1/11/1963. Tôi có trách nhiệm nhận các công điện do Truyền Tin Bộ TTM đưa đến và mang vào trình Thiếu Tướng Khiêm, cũng có nghĩa là trình cho HĐQNCM. Ngay sau đó, những công điện ủng hộ được chuyển sang đài phát thanh để phát trên làn sóng. Tôi cũng được lệnh bảo Truyền Tin Bộ TTM “chận bắt” tất cả công điện gởi về Phủ Tổng Thống và trình ngay vào Hội Đồng.

- Riêng các Tướng Minh, Đôn, Kim, Nghiêm, Xuân v.v… có mặt tại Tòa nhà chánh bộ Tổng Tham mưu chỉ có tính cách phụ giúp hơn là thực quyền vì tất cả mọi lệnh và điều hành đảo chánh đều diễn ra trong phòng làm việc của tướng Khiêm.

Tôi có mặt trong văn phòng từ sáng sớm ngày 1/11/1963 liên tục ngày đêm đến chiều ngày 3/11/1963 mới về nhà, tôi không thấy tác giả có mặt trong phòng Thiếu Tướng TMT Liên Quân, tức bản doanh của HĐQNCM. Đúng là mọi diễn biến đều diễn ra trong phòng làm việc của Thiếu Tướng Khiêm và điều này trong Bộ TTM ai cũng biết cả, nhưng thực quyền thì không phải vậy. Bằng chứng. Khoảng 5 giờ chiều 1/11/1963, khi tôi vào cầm ống nói điện thoại đưa Thiếu Tướng Khiêm và mời ông tiếp chuyện với Tổng Thống, Thiếu Tướng Khiêm chưa kịp phản ứng thì Trung Tướng Minh giựt ống nói trên tay tôi và nói chuyện với Tổng Thống. Vài phút sau đó, cũng điện thoại từ Đại Úy Bằng, sĩ quan tùy viên của Tổng Thống, yêu cầu tôi mời Thiếu Tướng Khiêm tiếp chuyện với Tổng Thống, nhưng Trung Tướng Minh cũng giựt ống nói và đặt xuống máy chớ không nói chuyện. Thiếu Tướng Khiêm với thái độ bình thản, im lặng. Thêm nữa, lúc 7 giờ tối, Trung Tướng Minh gọi các vị vào họp, lúc ấy có thêm Trung Tá Đỗ Khắc Mai (Không Quân) mới đến. Ông ra lệnh: “Đến 7 giờ sáng mai (2/11/1963) nếu dinh Gia Long chưa đầu hàng, Không Quân cho nhiều phi tuần khu trục đánh bom, sau đó Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Giáp tấn công vào …..” Chỉ vài sự kiện đó thôi, tôi nghĩ, cũng đủ cho thấy vị nào thực sự nắm quyền.

Tiếng chuông của chiếc điện thoại được reo đúng 3 giờ 17 phút, Thiếu tướng Khiêm nghe, đầu giây bên kia người đối thoại không ai khác là Tổng thống Diệm. Sau cuộc điện đàm Thiếu tướng Khiêm quay qua tướng Minh, Đôn nói “Tổng thống nói với các tướng lãnh đến dinh Gia Long nói chuyện. Moi trả lời để hội ý rồi sẽ trình lại Tổng thống sau” nhưng sau đó tướng Minh, Đôn, Kim và cả Khiêm không đồng ý đến gặp Tổng thống Diệm. Tuy nhiên khoảng 4:30 chiều 31-10-63 Thiếu tướng Khiêm tự ý điện thoại cho Tổng thống Diệm với đề nghị đưa Tổng thống cùng toàn thể gia đình ông Nhu ra ngoại quốc với sự bảo đảm an ninh do chính Thiếu tướng Khiêm hứa. Khoảng 6 giờ chiều Tổng thống Diệm gọi cho tướng Khiêm để cho biết là T.T. đồng ý đề nghị nói trên nhưng khi tướng Khiêm hội ý với tướng Minh, Đôn, Kim thì tướng Minh nói ngay “Giờ này quá trễ rồi, chúng ta cứ tiếp tục”. Qua các cuộc điện đàm kể từ lúc tiếng súng bắt đầu nổ cho đến khi Tổng thống Diệm chạy đến nhà thờ Cha Tam, Tổng thống Diệm chỉ có gọi điện thoại cho Thiếu tướng Khiêm mà thôi.

Trong Bộ TTM vào ngày 31/10/1963, tình hình vẫn bình thường như những ngày trước đó. Chuyện mà tác giả nói ở đây, tôi không biết xảy ra ở đâu. Cứ cho rằng cuộc đảo chánh diễn ra ngày 31/10/1963 như tác giả viết, vậy thì đúng 3 giờ 17 phút, lúc 4 giờ 30 phút, và khoảng 6 giờ chiều mà tác giả viết trong tài liệu, liệu tác giả có mặt trong phòng Thiếu Tướng Khiêm vào những lúc ấy hay không mà viết rất rõ giờ phút? Vế phần tôi, tôi thấy tận mắt Trung Tướng Minh cầm ống nói nói chuyện với Tổng Thống khoảng 5 giờ chiều và tôi nghe tận tai Trung Tướng Minh thuật lại cuộc nói chuyện đó với các vị ngồi trong phòng Thiếu Tướng Khiêm lúc ấy, nhưng không phải ngày 31/10/1963 mà là ngày 1/11/1963. Đây là vấn đề lịch sử, mà lịch sử phải là khách quan, trung thực!

Đọc hết đoạn trên chắc độc giả đã nhận ra vai trò của tướng Khiêm từ tiền đảo chánh đến khi cuộc cách mạng 1-11-63 thành công, nếu tướng Khiêm không được Tổng thống Diệm tin dùng, nếu không có sự hợp tác với tướng Minh, Đôn v.v… chắc chắn là cuộc đảo chánh không thể xảy ra được vì trên cương vị Tham mưu trưởng Liên quân lại được sự tín cẩn của Tổng thống vì vậy các Tư lệnh Quân Binh Chủng đã không có phản ứng nên cách mạng 1-11-63 mới thành công một cách dễ dàng. Ngược lại nếu tướng Minh, Đôn, Đính ra lệnh cho các đơn vị chắc chắn sẽ bị chống đối hoặc không thi hành, nhất là 2 lực lượng nồng cốt do chính Thiếu tướng Khiêm điều động với SĐ7 có nhiệm vụ ngăn chặn tiếp cứu của vùng 4, và Sư đoàn 5 chủ yếu tấn công Lữ đoàn Liên Binh phòng thủ phủ Tổng thống với dinh Gia Long.

Thưa quý vi hữu và quí độc giả, sau 12 năm 3 tháng bị nhốt trong 4 trai tập trung của cộng sản tại miền Nam và miền Bắc, tôi đến Hoa Kỳ ngày 5/4/1991 trong đợt HO5. Sau mấy năm làm nhiều việc khác nhau, cuộc sống ổn định. Năm 2003, tôi lên Virginia thăm cựu Đại Tướng Khiêm và cựu Đại Tướng Viên. Sau đó, thỉnh thoảng điện thoại qua lại. Tối 21/10/2003, cựu Đại Tướng Khiêm từ Virginia điện thoại tôi ở Houston, ông nói một số điểm liên quan đến cuộc đảo chánh 1/11/1963. Đây là vài điểm trong số đó: “Trước ngày đảo chánh, Anh (tức cựu Đại Tướng Khiêm) nói như một điều kiện liên quan đến Tổng Thống Diệm rằng: “Phải để Tổng Thống bình yên và xuất ngoại”. Lúc đó Trung Tướng Dương Văn Minh đồng ý, Thiếu Tướng Lê Văn Kim cũng đồng ý. Sở dĩ Anh nói với Trung Tướng Minh và Thiếu Tướng Kim, vì hai ông này là hai nhóm riêng chớ không phải là một nhóm đâu nghe chú. Khi biết ông Diệm cùng với ông Nhu bị giết, Đại Tá Quyền (Hồ Tấn Quyền) bị giết, Đại Tá Tung (Lê Quang Tung) cũng bị giết, đến em của ông Tung là Lê Quang Triệu cũng bị lừa rồi giết chết. Ông Viên (Cao Văn Viên) thì bị còng tay. Họ hành động lén nên Anh với chú có hay biết gì đâu. Mấy ổng ngồi bên phòng của Đại Tướng Tỵ quyết định với nhau. (Lúc ấy Đại Tướng Tỵ dưỡng bệnh ngoài Vũng Tàu, Trung Tướng Trần Văn Đôn Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng). Ngưng một chút, ông tiếp: “Chú thấy chưa? Nhóm ông Minh với nhóm ông Kim độc ác quá! Ông Diệm gọi điện thoại bảo cho xe đến đón, tức là ổng đầu hàng rồi, tại sao lại giết người đầu hàng? Trước đó, ông Minh ông Kim đồng ý với Anh là để ông Diệm bình yên và lưu vong, tại sao lại giết? Cho nên từ đó Anh bất mãn với ông Minh ông Kim”. Với lời của cựu Đại Tướng Khiêm trên đây, cho thấy lúc ấy ông trong thế bị động, cho nên không hay biết gì về Đại Tá Tung bị đưa ra khỏi phòng họp số 1, Đại Tá Viên bị còng tay, thì làm sao ông ra lệnh cho tác giả ngăn chận hành động của Đại Úy Nhung như tác giả viết ở một đoạn bên trên.

Sau cuộc cách mạng 1-11-63 thành công vai trò nổi bật là những tướng Minh, Đôn, Kim, Đính, Xuân. Riêng tướng Khiêm với chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng hữu danh vô thực, ngoài ra tiếng nói của tướng Khiêm trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng hầu như bị lãng quên do đó cuộc chỉnh lý mới bùng nổ mà nguyên nhân chính là do sự bất mãn của tướng Khiêm.

(1) Chiều ngày 2/11/1963, Thiếu Tưóng Khiêm thăng cấp Trung Tướng (cùng với nhiều vị khác nữa) và vẫn giữ chức Tham Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Chức vụ đó là chính xác, vì tôi vẫn là chánh văn phòng. (2) Ngày 1/1/1964, bàn giao chức TMT Liên Quân cho Trung Tướng Lê Văn Kim, và ngay chiều hôm ấy sang nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn 3/Vùng 3 Chiến Thuật. Cả hai cuộc bàn giao không có vị nào chủ tọa, mà chỉ có 2 vị “bên giao bên nhận” và các sĩ quan tham mưu liên hệ. Tôi và các sĩ quan cùng nhân viên văn phòng TMT Liên Quân đều thuyên chuyển sang Quân Đoàn 3, cộng thêm Đại Úy Lê Văn Tuấn (về sau anh Tuấn là Đại Tá Giám Đốc Nha An Ninh Hành Chánh khi Đại Tướng Khiêm giữ chức Tổng Trưởng Nội Vụ). Tôi nghĩ, tác giả được tín cẩn đến mức được Thiếu Tướng Khiêm cho biết trước một tháng về cuộc đảo chánh 1/11/1963, nhưng tiếc là tác giả không biết gì về chức vụ của Trung Tướng Khiêm sau cuộc đảo chánh. Mời quý vị xem lại đoạn trên để thấy cựu Đại Tướng Khiêm thố lộ một chút tâm trạng của ông sau ngày 1/11/1963. (2) Nếu chỉ cho rằng, vì Trung Tướng Khiêm bất mãn do chức Tổng Trưởng Quốc Phòng hữu danh vô thực, tại sao trong bản doanh của các vị Chỉnh Lý ngày 30/1/1964 có mặt một viên chức tình báo Hoa Kỳ? (viên chức này khác với viên chức Hoa Kỳ trong cuộc đảo chánh 1/11/1963). Chẳng lẽ Hoa Kỳ chỉ đơn thuần ủng hộ sự bất mãn của Trung Tướng Khiêm mà không có quyền lợi của Hoa Kỳ?

Người tổ chức, thảo kế hoạch do tướng Khiêm chủ động với sự trợ giúp của tướng Khánh và tướng Thiệu cùng 1 số đông các Tư lệnh quân binh chủng. Tuy nhiên vì sở trường của tướng Khiêm là không bao giờ muốn lộ mặt nên tướng Khánh được tướng Khiêm chỉ định coi như lãnh đạo cuộc chỉnh lý. Trên thực tế tướng Khánh không có thực lực, không được ai tin tưởng cho nên nếu không có tướng Khiêm đẩy ra sân khấu chắc chắn không bao giờ tướng Khánh mơ tưởng được làm Chủ tịch Hội đồng Quân nhân, Thủ tướng v.v…

Đến đây tác giả viết đến cuộc chỉnh lý ngày 30/1/1964. Lúc bấy giờ Trung Tướng Khiêm Tư Lệnh Quân Đoàn/Vùng 3 Chiến Thuật, Trung Tướng Khánh Tư Lệnh Quân Đoàn 1/Vùng 1 Chiến Thuật. Xin nhắc lại, sau cuộc đảo chánh 1/11/1963, nhiều vị Tướng Lãnh thăng cấp và giữ chức vụ mới. Trong số đó, HĐQNCM cử Trung Tướng Trí Tư Lệnh QĐ1/V1CT đồn trú ở Đà Nẳng, Trung Tướng Khánh Tư Lệnh QĐ2/V2CT đồn trú ở Pleiku, hai vị hoán chuyển chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn. Cũng lúc ấy, tôi là Thiếu Tá, chánh văn phòng Tư Lệnh QĐ3/V3CT. Từ giữa tháng 1/1964, Trung Tướng Khiêm với Trung Tướng Khánh thường liên lạc nhau bằng điện thoại, đôi khi dùng tiếng Pháp. Chiểu ngày 26 hoặc 27/1/1964, Trung Tướng Khiêm bảo tôi lái xe của ông lên phi trường nhưng bên bãi đáp quân sự đón Trung Tướng Khánh. Đừng cho ai biết tin này. Những đêm sau đó, 2 vị cùng ngồi chung xe đi đâu đó, tương tự như trước ngày 1/11/1963 vậy.

Ngày 29/1/1964, sau giờ làm việc chiều về nhà (thuở ấy là việc từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều), Trung Tướng Khiêm gọi tôi đến tư dinh và cho biết: “Tôi, Trung Tướng Khánh, và Đại Tá Viên, lật đổ nhóm ông Minh ông Đôn, vì các ông này có kế hoạch đưa Việt Nam đến trung lập. Sau giờ này, chú đưa xe truyền tin hành quân của Quân Đoàn về đậu sau nhà chú. Đích thân chú liên lạc với Thiếu Tướng Thiệu và Thiếu Tướng Có, khi liên lạc được rồi phải giữ máy thường trực cho tôi. Công tác này chú phải xong trước 2 giờ sáng. Đúng 3 giờ sáng, chú đón tại cổng số 1, mời Đại Tá Viên vào nhà Trung Tướng Khánh (bên phải sau khi vào cổng sổ 1) và hướng dẫn Tiểu Đoàn Dù bố trí chung quanh tòa nhà chánh. Phần an ninh trại Trần Hưng Đạo, chú với Trung Tá Luông lo như lần trước. Chú còn gì cần hỏi thêm không?” Tôi không có gì phải hỏi. Cuối cùng, ông bảo tôi chỉnh lại đồng hồ theo đồng hồ của ông. Và rồi Chỉnh Lý (tôi vẫn gọi đảo chánh) thành công.

Khoảng 12 giờ trưa 30/1/1964, Sau một lúc thảo luận với viên chức Hoa Kỳ đã có mặt từ sớm, Trung Tướng Khánh mời Trung Tướng Khiêm và Đại Tá Viên vào bàn họp. Một số sĩ quan quan tâm hay hiếu kỳ, đang đứng lóng ngóng trong nhà để theo dõi tin tức, được mời ra sân, đang có khá đông sĩ quan các quân binh chủng và một số phóng viên báo chí. Lúc bấy giờ trong nhà Trung Tướng Khánh, ngoài 3 vị tại bàn họp, chỉ còn người Việt Nam có vẻ là thân tín của Trung Tướng Khánh, một viên chức Hoa Kỳ, và tôi. Trung Tướng Khánh lên tiếng trước như là người chủ tọa: “Thôi, mọi việc xong rồi. Bây giờ thì anh Khiêm làm đi”. Trung Tướng Khiêm xoay qua Đại Tá Viên, vừa cười vừa nói: “Phần tôi đến đây là đủ rồi. Tôi không thích chính trị đâu, hay là anh Viên nhận đi”. Đại Tá Viên với nụ cười không hết miệng như lúc nào: “Thôi. Hai anh tính với nhau đi, ai làm cũng được mà. Tôi không thích lao vào chính trị. Phần tôi đến đây là xong. Tôi muốn ở Lữ Đoàn Dù với anh em”. Trung Tướng Khánh cười cười: “Các “toa” không nhận thì “moa” đành nhận thôi”.

Mục tiêu của cuộc chỉnh lý không ngoài mục đích của tướng Khiêm là vô hiệu hóa hết quyền hành các tướng Minh, Đôn, Kim v.v…để trả thù lại sự vô ơn của các tướng đối với tướng Khiêm sau cách mạng 1-11-63 và luôn thể đưa những người bạn thân nhất nắm chính quyền là tướng Khánh, tướng Thiệu v.v… Do đó ngay khi cuộc chỉnh lý thành công tướng Khiêm không muốn ở vị thế lãnh đạo nên đẩy tướng Khánh ra thay thế tướng Minh, đưa tướng Thiệu nắm chức Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH.

Sau Chỉnh Lý, Trung Tướng Khánh nhận chức Chủ Tịch HĐQNCM hành sử chức năng Quốc Trưởng, Trung Tướng Khiêm nhận chức Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng, Thiếu Tướng Thiệu nhận chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân.

Nhưng khi tam đầu chế Minh, Khánh, Khiêm thành hình thì tướng Khánh ham quyền lực, quên đi người đã gây dựng sự nghiệp cho mình là tướng Khiêm, nên tướng Khánh một mặt củng cố uy quyền mặt khác loại bỏ những người thân cận của tướng Khiêm. Tiện giả còn nhớ câu của tướng Khánh nói với tướng Khiêm khi tướng Khánh tống tướng Khiêm đi làm Đại sứ tại Đài Loan như sau: “Anh phải dời VN trong vòng 48 tiếng, nếu không tôi sẽ không bảo đảm tính mạng của anh”.

(1) Có tổ chức “tam đầu chế” vì theo các tổ chức chính trị mít tinh biểu tình “cáo giác” Hiến Chương Vũng Tàu là sản phẩm của Trung Tướng Khánh phảng phất tính độc tài. Trung Tướng Khánh đưa ra “sáng kiến” kết hợp Đại Tướng Khiêm (thăng cấp trước ngày ban hành Hiến Chương), Trung Tướng Minh, và Trung Tướng Khánh vào tổ chức này, nhưng quyền hành vẫn trong tay Trung Tướng Khánh. (2) Ngày 13/9/1964, Trung Tướng Dương Văn Đức, Tư Lệnh QĐ4/V4CT cùng Đại Tá Tồn Tư Lệnh SĐ7BB, thực hiện cuộc Biểu Dương Lực Lượng cảnh cáo Trung Tướng Khánh. Có lẽ khi hoàn thành công tác cảnh cáo nên viên chức tình báo Hoa Kỳ ra lệnh rút quân về Mỹ Tho và Cần Thơ. Trung Tướng Khánh buộc Đại Tướng Khiêm lưu vong vì ông cho rằng Đại Tướng Khiêm đứng sau lưng những vụ xáo trộn chống đối ông. Trong bữa ăn trưa ngày 30/9/1964 tại tư dinh Đại Tướng Khiêm do Trung Tướng Khánh bắt buộc, chỉ có Đại Tướng Khiêm & phu nhân, và Trung Tướng Khánh. Nhóm an ninh của Đại Tướng Khiêm – có tôi – và nhóm cận vệ của Trung Tướng Khánh gần như ghìm nhau chung quanh bên ngoài. Sau khi Trung Tướng Khánh ra về, tôi hỏi: “Thưa Đại Tướng, điều gì xảy ra mà Trung Tướng Khánh to tiếng vậy Đại Tướng? “Ông Khánh “muốn” (hàm chứa ý nghĩa một mệnh lệnh) tôi phải ra ngoại quốc, nếu không thì tánh mạng tôi khó an toàn”. “Đại Tướng nghĩ sao? “Tôi quyết định đi. Chú lo thủ tục cho tôi và gia đình tôi càng sớm càng tốt. Chú với chú Châu, nếu được thì cùng đi với gia đình tôi”.

Tôi thắc mắc: Lúc ấy tác giả đứng đâu mà nghe câu ấy? (3) Đại Tướng Khiêm lưu vong dưới danh nghĩa đi cám ơn các quốc gia Âu Châu đã ủng hộ VNCN chống cộng sản chớ không phải đi làm Đại Sứ ở Đài Loan như tác giả viết trong tài liệu. Thật ra, Đại Tướng Khiêm giữ chức Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ, sau đó mới chuyển sang Đài Loan, và từ Đài Loan về nước tham gia chánh phủ.

Mặc dù sau khi tướng Khánh loại được tướng Khiêm, nhưng từ Đài Loan tướng Khiêm vẫn âm thầm tổ chức để lật đổ tướng Khánh, do đó mới có những cuộc binh biến xảy ra liên miên cầm đầu bởi tướng Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát, Đại tá Tồn, Trang v.v… Tuy nhiên, tướng Khiêm ít nhất vẫn được người bạn trả ơn đàng hoàng là tướng Thiệu, vì ngay khi tướng Thiệu đắc cử Tổng thống thì tướng Khiêm, đương kim Đại sứ Hoa Kỳ được gọi về giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội Vụ và sau đó là Thủ tướng cho đến sát biến cố 4-1975.

(1) Xin lặp lại. Biểu Dương Lực Lượng do Trung Tướng Đức thực hiện dẫn đến trường hợp Đại Tướng Khiêm lưu vong, chớ không phải Đại Tướng Khiêm từ Đài Loan điều khiễn cuộc Biểu Dương Lực Lượng. (2) Cuộc đảo chánh ngày 19/2/1965 do Thiếu Tướng Lâm Văn Phát lãnh đạo để lật đổ Trung Tướng Khánh, nhưng bị Hội Đồng Quân Đội (đã cải danh từ HĐQNCM) buộc rút quân về căn cứ, đồng thời HĐQĐ buộc Trung Tướng Khánh lưu vong với chút an ủi là Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu thăng cấp Đại Tướng cho Trung Tướng Khánh. Xin nói thêm. Trong cuộc điện đàm tối 21/10/2003, có đoạn liên quan. Sau khi ông hỏi tôi những chi tiết trong cuộc đảo chánh này, tôi liền hỏi lại ông: “Thưa anh Tư, xin anh cho biết vụ Thiếu Tướng Phát đảo chánh ngày 19/2/1965, theo lời Trung Tá Lê Hoàng Thao nói thì Trung Tá Phạm Ngọc Thảo từ Hoa Kỳ về tham gia, nếu thành công thì anh Tư về cầm quyền. Điều đó có đúng không?” Cựu Đại Tướng Khiêm trả lời: “Bây giờ chú hỏi Anh mới biết là tại sao lúc đó mấy anh nhà báo của Mỹ nhất là tờ Washington Post theo phỏng vấn Anh về cuộc đảo chánh đó. Anh trả lời là Anh không biết gì hết, và đang chờ tin tức từ Việt Nam. Còn cái vụ ông Thảo về Việt Nam là do ông Khánh (Trung Tướng Khánh) gởi công điện gọi ông Thảo về gấp đó mà không nói lý do. Sau đó Anh mới biết ông Khánh phái người chận bắt ông Thảo đem đi giết, nên người đó giúp ông Thảo chạy trốn. Về sau, bị nhóm nào đó bắt được và giết chết”. Rồi ông nói tiếp: “Chú có biết là tại sao ông Phát đảo chánh ông Khánh bị thất bại, mà ông Khánh lại lưu vong hông? Ông Phát thua thì phải rồi, còn ông Khánh tại sao thua? Hồi ông Khánh qua ở đây với Anh (Đại Tướng Khánh có đến nhà Đại Tướng Khiêm khi ông Khiêm giữ chức Đại Sứ tại Hoa Kỳ), Anh có hỏi ổng: “Tại sao ông Phát thua mà Anh cũng thua nữa? Ông Khánh “cười cười mà không trả lời”. Im lặng một lúc, cựu Đại Tướng Khiêm nói tiếp: “Anh có gặp Thiếu Tướng Phát khi ổng qua Mỹ này, Anh hỏi ổng tại sao ổng đảo chánh hồi năm 1965. Ông Phát trả lời thật ngắn là “Mỹ xúi”. Anh thấy chuyện đời mà buồn! Chú có biết là Anh (tức cựu Đại Tướng Khiêm), ông Khánh, ông Đức (Dương Văn), và ông Phát, bốn đứa Anh cùng học một khoá không? Vậy mà khi lên Tướng lại quay mặt đánh nhau! Chú có thấy chính trị nó làm mất tình cảm giữa anh em bè bạn với nhau không!”

Xuyên qua những sụ kiện trình bày trên tiện giả chỉ với mục đích duy nhất là đóng góp nhỏ nhoi vào kho tàng lịch sử biến động nhất của 2 nền Cộng hoà mà tiện giả nghĩ rằng nhân vật Trần Thiện Khiêm dù muốn dù không đã nắm giữ một vai trò tích cực có tính cách xoay chuyển cục diện của miền Nam v.v….

Tôi không có ý kiến.

Tiện giả cũng nghĩ rằng nếu không có Trần Thiện Khiêm sẽ không có đảo chánh 1-11-63, không có chỗ cho vai trò của tướng Khánh trên sân khấu chính trị “cải lương” nhất trong giòng lịch sử Việt và chắc chắn sẽ không có một Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống nền Đệ nhị Cộng hòa, người phải chịu hoàn toàn trách nhiệm làm tan rã QĐVNCH trong một thời gian kỷ lục cũng như đau khổ, tủi nhục cho hàng triệu gia đình Việt Nam.

Xin nhớ rằng, theo lời của cựu Đại Tướng Khiêm thì cuộc đảo chánh 1/11/1963 bắt nguồn từ ông S. viên chức tình báo Hoa Kỳ tại VNCH, chớ không phải tự ông tổ chức (mời xem lại trang 2 bên trên). Trong cuộc Chỉnh Lý 30/1/1964, cũng có một viên chức tình báo Hoa Kỳ bên cạnh các vị lãnh đạo Chỉnh Lý.

Đến đây xin hết phần góp ý của Phạm Bá Hoa.
Xin cám ơn quý vi hữu và quý độc giả.

Ngày 11 tháng 11 năm 2009

* * *
    TƯỚNG TRẦN THIỆN KHIÊM
    Cơn lốc rối loạn Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam
Trần Ngọc Giang

Kể từ biến cố lịch sử năm 1975 đến nay đã có nhiều sách báo, đoàn thể, tôn giáo cũng như hầu hết đồng bào Việt Nam đều quy trách những nhà lãnh tụ miền Nam như Tổng thống Diệm, tuớng Minh, Đôn, Thiệu, Kỳ v.v… đều là những người đã một phần chịu trách nhiệm để Cộng sản thôn tính miền Nam. Sự quy trách này trên bình diện chính trị, truyền thông đương nhiên không ai phủ nhận, nhưng trên phương diện lịch sử thì thật là phiến diện. Do đó tiện giả sau nhiều lần suy nghĩ, trăn trở vẫn phải cầm cây viết hầu phơi bày một sự thật để phần nào giúp các sử gia sau này có những sự kiện quan trọng đưa vào dòng định mệnh của Lịch sử Việt Nam.

Ngược dốc thời gian năm 1958, Đại tá Trần Thiện Khiêm là một trong những sĩ quan được Tổng thống Diệm ưa thích vì vậy Đại tá Khiêm đã được bổ nhiệm Tư lệnh Sư đoàn 4BB. Thời gian này Đại tá Khiêm có hai người bạn thân nhất là Đại tá Nguyễn Khánh và Trung tá Nguyễn Văn Thiệu, bất cứ cuối tuần nào , Đại tá Khiêm đều lái xe đến thăm Đại tá Khánh tại đồn điền trà J’Ring, sau đó 2 người kéo lên Đà Lạt thăm Trung tá Thiệu đương là Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.

Năm 1960 trong vụ đảo chánh do Trung tá Vương Văn Đông cầm đầu bị thất bại, bởi Đại tá Khiêm Tư lệnh SĐ 21BB từ miền Tây kéo về giải cứu Tổng thống Diệm, và kể từ đó Đại tá Khiêm được Tổng thống Diệm tín cẩn tuyệt đối, thăng cấp Thiếu tướng và được bổ nhiệm Tham mưu trưởng Liên quân Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

Sau khi nắm chức vụ trên và nhất là được sự tin tưởng của Tổng thống, Thiếu tướng Khiêm đã đề cử Trung tá Thiệu làm Tư lệnh Sư đoàn 5BB và Thiếu tướng Khánh làm Tư lệnh vùng 2 Chiến thuật. Tóm lại tất cả các chức vụ quan trọng trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa vào thời điểm này nếu có sự đề bạt của Thiếu tướng Khiêm chắc chắn sẽ được Tổng thống Diệm chấp thuận, ngoài ra TT Khiêm hơn hẳn các tướng lãnh khác là được cả ông Cố vấn Ngô Đình Nhu mến phục. Bởi vậy tiếng nói của Thiếu tướng Khiêm với hai nhân vật then chốt của nền Đệ Nhất Cộng Hòa có một tác dụng gần như tuyệt đối, các tướng lãnh và tư lệnh quân binh chủng trong QLVNCH biết như vậy nên mọi lệnh của TT Khiêm, Tham mưu trưởng Liên quân đưa ra đều được thi hành đầy đủ, chính xác.

Từ trước tới nay đã có nhiều sử gia và nhân vật chính trị đề cập đến cuộc đảo chánh ngày 1-11-63 nhưng nhiều sự kiện vẫn còn thiếu sót và không chính xác vì chưa ai nêu đúng nhân vật chủ chốt, hầu hết đều cho rằng các tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính là những nhân tố chính. Nhưng mặt trái bên trong hậu trường thì không phải vậy, Trung tướng Đôn mặc dù là Quyền Tổng Tham mưu trưởng nhưng không được các Tư lệnh quân binh chủng tin tưởng, Tướng Minh không có thực lực trong tay còn lại Tướng Đính chỉ trong phạm vi Tổng trấn Sài Gòn mà thôi.

Đến đây tiện giả xin trình bày diễn tiến cuộc đảo chánh 1-11-63 để quý vị độc giả có thể thấu hiểu ai là người đã soạn thảo, móc nối và thi hành kế hoạch đảo chánh.

Khoảng đầu tháng 10-1963 Thiếu tướng Khiêm gọi Thiếu tá Giang lên văn phòng cho biết sẽ có đảo chánh để lật đổ chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa vì Thiếu tướng Khiêm được biết ông Ngô Đình Nhu đã có liên lạc với phía Việt Cộng. Đến đây tiện giả xin mở dấu ngoặc. Sở dĩ Thiếu tướng Khiêm tiết lộ cuộc đảo chánh cho Thiếu tá Giang vì Thiếu tá Giang đã từng là Chánh Văn phòng của Thiếu tướng Khiêm, và ngay sau nhậm chức Tham mưu trưởng Liên quân Thiếu tướng Khiêm đã yêu cầu Nha An ninh quân đội đưa Thiếu tá Giang sang giữ chức vụ Trưởng phòng An ninh Quân đội Bộ Tổng Tham mưu.

Ngày 20-10-1963 Thiếu tướng Khiêm chỉ thị Thiếu tá Giang qua gặp Đại tá Đỗ Mậu, Giám đốc Nha An ninh quân đội để cho Đại tá Mậu biết là ông Cố vấn Ngô Đình Nhu vừa ra lệnh cho Thiếu tướng Khiêm tạm giữ Đại tá Mậu vì ông này đang vận động đảo chánh; và Thiếu tướng Khiêm dặn Thiếu tá Giang nói với Đại tá Mậu tạm thời lánh mặt để Thiếu tướng Khiêm dễ dàng trình lên ông Cố vấn. Cũng trong thời gian này Thiếu tướng Khiêm tiết lộ với Thiếu tá Giang về phía tướng lãnh Thiếu tướng Khiêm đã tranh thủ được hầu hết, chỉ còn có Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao, Tư lệnh vùng 4 là chưa hội ý, riêng Tướng Khánh và Đại tá Thiệu hoàn toàn đồng ý với Thiếu tướng Khiêm, ngoài ra các Tư lệnh quân binh chủng đã có hứa là sẽ sát cánh với Thiếu tướng Khiêm. Nói tóm lại việc vận động, tổ chức cũng như hoàn tất kế hoạch đảo chánh hầu như do Thiếu tướng Khiêm chủ động vì chỉ có tướng Khiêm hội đủ mọi yếu tố để cho các tướng lãnh và tư lệnh quân binh chủng tin tưởng.

Sáng sớm ngày 31-10-1963 Thiếu tướng Khiêm gọi Thiếu tá Giang lên văn phòng; khi Thiếu tá Giang bước vào thì thấy Đại tá Nguyễn Hữu Có ở đó, Thiếu tướng Khiêm chỉ thị cho Thiếu tá Giang cầm công điện hỏa tốc đi cùng với Đại tá Có xuống Mỹ Tho để bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn hiện do Đại tá Đạm là tư lệnh. Sở dĩ Thiếu tướng Khiêm ra lệnh cho Thiếu tá Giang đi với Đại tá Có là để Đại tá Đạm tin tưởng là lệnh thật do chính Thiếu tướng Tham mưu trưởng ký vì Đại tá Đạm từng biết sự thân cận giữa Thiếu tướng Khiêm và Thiếu tá Giang.

Đến 11 giờ sáng cùng ngày Thiếu tá Giang trở về Bộ Tổng Tham mưu và được Thiếu tướng Khiêm cho biết đúng 12 giờ trưa Thiếu tướng Khiêm sẽ chủ tọa buổi họp các tư lệnh quân binh chủng, và sau buổi họp nếu ai chống lại đảo chánh thì thiếu tá Giang phải giữ lại trong phòng họp Bộ Tổng Tham mưu chờ lệnh của Thiếu tướng Khiêm. Buổi họp vừa chấm dứt; trong lúc lộn xộn thì Đại úy Nhung sĩ quan cận vệ của Trung tướng Minh tự ý bắt Đại tá Lê Quang Tung, Tư lệnh Lực lượng đặc biệt dẫn đi đâu không rõ, sau đó Đại úy Nhung trở lại định bắt Đại tá Cao Văn Viên, Tư lệnh Sư đoàn nhảy dù và ông Lê Văn Tư, Giám đốc Cảnh sát Đô Thành, nhưng Thiếu tá Giang đã ngăn chặn kịp thời. Đại úy Nhung báo lên Trung tướng Minh và Trung tướng đến hỏi lý do cản trở Đại úy Nhung thì Thiếu tá Giang trả lời là thi hành lệnh Tướng Khiêm.

Khoảng 2 giờ trưa ngày 31-10-63 Đại úy Lê Quang Triệu, em ruột của Đại tá Tung dẫn 1 đại đội lực lượng đặc biệt cùng với 4 chiến xa đến cổng Bộ Tổng Tham mưu để hỏi tình trạng Đại tá Tung, ngay khi đó Đại úy Nhung chạy ra gặp Đại uý Triệu và yêu cầu Đại úy vào trình diện Thiếu tướng Khiêm, Đại úy Triệu nghe lệnh trình diện Thiếu tướng Khiêm nên Đại úy không nghi ngờ gì do đó mới bị chết thảm.

Khi tiếng súng đảo chánh nổ trưa 31-10-63 Thiếu tướng Khiêm đã chủ động qua các diễn trình như:

- Ra lệnh cho Đại tá Có điều động Sư đoàn 7 ngăn chặn lực lượng tiếp viện từ vùng 4 chiến thuật.
- Lệnh cho Đại tá Thiệu, Tư lệnh Sư đoàn 5 điều quân về Sài Gòn để làm chủ lực tấn công Lữ đoàn phòng vệ Phủ Tổng thống và Dinh Gia Long.
- Cô lập tất cả Tư lệnh Quân binh chủng nào xét ra chống lại cuộc đảo chánh.
- Ra lệnh cho Tướng Khánh, Tư lệnh vùng 2 và Tướng Trí vùng 1 chiến thuật thi hành những biện pháp cần thiết. Riêng các Tướng Minh, Đôn, Kim, Nghiêm, Xuân v.v… có mặt tại Tòa nhà chánh bộ Tổng Tham mưu chỉ có tính cách phụ giúp hơn là thực quyền vì tất cả mọi lệnh và điều hành đảo chánh đều diễn ra trong phòng làm việc của tướng Khiêm.

Tiếng chuông của chiếc điện thoại được reo đúng 3 giờ 17 phút, Thiếu tướng Khiêm nghe, đầu giây bên kia người đối thoại không ai khác là Tổng thống Diệm. Sau cuộc điện đàm Thiếu tướng Khiêm quay qua tướng Minh, Đôn nói “Tổng thống nói với các tướng lãnh đến dinh Gia Long nói chuyện. Moi trả lời để hội ý rồi sẽ trình lại Tổng thống sau” nhưng sau đó tướng Minh, Đôn, Kim và cả Khiêm không đồng ý đến gặp Tổng thống Diệm. Tuy nhiên khoảng 4:30 chiều 31-10-63 Thiếu tướng Khiêm tự ý điện thoại cho Tổng thống Diệm với đề nghị đưa Tổng thống cùng toàn thể gia đình ông Nhu ra ngoại quốc với sự bảo đảm an ninh do chính Thiếu tướng Khiêm hứa. Khoảng 6 giờ chiều Tổng thống Diệm gọi cho tướng Khiêm để cho biết là T.T. đồng ý đề nghị nói trên nhưng khi tướng Khiêm hội ý với tướng Minh, Đôn, Kim thì tướng Minh nói ngay “Giờ này quá trễ rồi, chúng ta cứ tiếp tục”. Qua các cuộc điện đàm kể từ lúc tiếng súng bắt đầu nổ cho đến khi Tổng thống Diệm chạy đến nhà thờ Cha Tam, Tổng thống Diệm chỉ có gọi điện thoại cho Thiếu tướng Khiêm mà thôi.

Đọc hết đoạn trên chắc độc giả đã nhận ra vai trò của tướng Khiêm từ tiền đảo chánh đến khi cuộc cách mạng 1-11-63 thành công, nếu tướng Khiêm không được Tổng thống Diệm tin dùng, nếu không có sự hợp tác với tướng Minh, Đôn v.v… chắc chắn là cuộc đảo chánh không thể xảy ra được vì trên cương vị Tham mưu trưởng Liên quân lại được sự tín cẩn của Tổng thống vì vậy các Tư lệnh Quân Binh Chủng đã không có phản ứng nên cách mạng 1-11-63 mới thành công một cách dễ dàng. Ngược lại nếu tướng Minh, Đôn, Đính ra lệnh cho các đơn vị chắc chắn sẽ bị chống đối hoặc không thi hành, nhất là 2 lực lượng nồng cốt do chính Thiếu tướng Khiêm điều động với SĐ7 có nhiệm vụ ngăn chặn tiếp cứu của vùng 4, và Sư đoàn 5 chủ yếu tấn công Lữ đoàn Liên Binh phòng thủ phủ Tổng thống với dinh Gia Long.

Sau cuộc cách mạng 1-11-63 thành công vai trò nổi bật là những tướng Minh, Đôn, Kim, Đính, Xuân. Riêng tướng Khiêm với chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng hữu danh vô thực, ngoài ra tiếng nói của tướng Khiêm trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng hầu như bị lãng quên do đó cuộc chỉnh lý mới bùng nổ mà nguyên nhân chính là do sự bất mãn của tướng Khiêm.

Người tổ chức, thảo kế hoạch do tướng Khiêm chủ động với sự trợ giúp của tướng Khánh và tướng Thiệu cùng 1 số đông các Tư lệnh quân binh chủng. Tuy nhiên vì sở trường của tướng Khiêm là không bao giờ muốn lộ mặt nên tướng Khánh được tướng Khiêm chỉ định coi như lãnh đạo cuộc chỉnh lý. Trên thực tế tướng Khánh không có thực lực, không được ai tin tưởng cho nên nếu không có tướng Khiêm đẩy ra sân khấu chắc chắn không bao giờ tướng Khánh mơ tưởng được làm Chủ tịch Hội đồng Quân nhân, Thủ tướng v.v…

Mục tiêu của cuộc chỉnh lý không ngoài mục đích của tướng Khiêm là vô hiệu hóa hết quyền hành các tướng Minh, Đôn, Kim v.v… để trả thù lại sự vô ơn của các tướng đối với tướng Khiêm sau cách mạng 1-11-63 và luôn thể đưa những người bạn thân nhất nắm chính quyền là tướng Khánh, tướng Thiệu v.v… Do đó ngay khi cuộc chỉnh lý thành công tướng Khiêm không muốn ở vị thế lãnh đạo nên đẩy tướng Khánh ra thay thế tướng Minh, đưa tướng Thiệu nắm chức Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH.

Nhưng khi tam đầu chế Minh, Khánh, Khiêm thành hình thì tướng Khánh ham quyền lực, quên đi người đã gây dựng sự nghiệp cho mình là tướng Khiêm, nên tướng Khánh một mặt củng cố uy quyền mặt khác loại bỏ những người thân cận của tướng Khiêm. Tiện giả còn nhớ câu của tướng Khánh nói với tướng Khiêm khi tướng Khánh tống tướng Khiêm đi làm Đại sứ tại Đài Loan như sau: “Anh phải dời VN trong vòng 48 tiếng, nếu không tôi sẽ không bảo đảm tính mạng của anh”.
Mặc dù sau khi tướng Khánh loại được tướng Khiêm, nhưng từ Đài Loan tướng Khiêm vẫn âm thầm tổ chức để lật đổ tướng Khánh, do đó mới có những cuộc binh biến xảy ra liên miên cầm đầu bởi tướng Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát, Đại tá Tồn, Trang v.v… Tuy nhiên, tướng Khiêm ít nhất vẫn được người bạn trả ơn đàng hoàng là tướng Thiệu, vì ngay khi tướng Thiệu đắc cử Tổng thống thì tướng Khiêm, đương kim Đại sứ Hoa Kỳ được gọi về giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội Vụ và sau đó là Thủ tướng cho đến sát biến cố 4-1975.

Xuyên qua những sụ kiện trình bày trên tiện giả chỉ với mục đích duy nhất là đóng góp nhỏ nhoi vào kho tàng lịch sử biến động nhất của 2 nền Cộng hoà mà tiện giả nghĩ rằng nhân vật Trần Thiện Khiêm dù muốn dù không đã nắm giữ một vai trò tích cực có tính cách xoay chuyển cục diện của miền Nam v.v…

Tiện giả cũng nghĩ rằng nếu không có Trần Thiện Khiêm sẽ không có đảo chánh 1-11-63, không có chỗ cho vai trò của tướng Khánh trên sân khấu chính trị “cải lương” nhất trong giòng lịch sử Việt và chắc chắn sẽ không có một Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống nền Đệ nhị Cộng hòa, người phải chịu hoàn toàn trách nhiệm làm tan rã QĐVNCH trong một thời gian kỷ lục cũng như đau khổ, tủi nhục cho hàng triệu gia đình Việt Nam.

Trần Ngọc Giang


Biểu tình chống cuộc triển lãm Meet Vietnam ngày 15/11/2009 tại City hall san Francisco

Đông đảo cộng đồng người Việt biểu tình phản đối Meet Vietnam tại San Francisco 15-11-2009












Cali Today News – Ngày hôm nay, 15 tháng 11, 2009, ngày chính thức Meet Việt Nam do chính phủ CSVN phối hợp cùng tòa lãnh sự CSVN và tòa thị chính thành phố San Francisco tổ chức ngay tại tòa thị chính thành phố San Francisco.

Phó thủ tướng CSVN là Trương Vĩnh Trọng đích thân hướng dẫn Meet Việt Nam, nhằm mục đích giới thiệu Việt Nam và kêu gọi đầu tư thương mại của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Một phái đoàn đông đảo từ Việt Nam qua để kêu gọi đầu tư vào VN và trong phái đoàn còn có những nghệ sĩ trình diễn nhằm giới thiệu văn hóa truyền thống của Việt Nam.

So với Việt Expo 1993, Meet Việt Nam 2009 là một sự kiện quy mô do nhà nước CSVN tổ chức tại thành phố San Francisco trong hai ngày 15 và 16 tháng 9, 2009.

San Francisco là một thành phố lớn của Hoa Kỳ, nằm trên bờ Thái Bình Dương, nhưng có ít người Việt tại đây. Cộng đồng Việt Nam tại miền Bắc California tập trung đông đảo ở San Jose và các thành phố phụ cận, và sau đó là các thành phố Sacramento, Oakland, Stockton,… Chính vì vậy, việc nhà nước tổ chức Meet Việt Nam tại San Francisco cũng đã gây khó khăn cho nhiều người Việt đến đây biểu tình phản kháng, vì phải di chuyển khá xa.

Tuy vậy, cũng đã có gần 1 ngàn người đã đến từ các nơi thật xa như Nam California, Sacramento, San Jose để hỗ trợ cộng đồng người Việt tại San Francisco tổ chức phản đối Meet Việt Nam…

Sáng thứ bảy, số người biểu tình bằng những chuyến xe bus từ nhiều nơi đổ về tòa thị chánh San Francisco và họ chờ ở đó vài tiếng đồng hồ. Những biểu ngữ được giăng lên và chờ đợi đến lúc ra quân.

Phải nói rằng việc tổ chức biểu tình thật là khó. Nhiều nơi phải thuê xe bus để đưa người đi biểu tình vì thành phố San Francisco xa xôi, địa điểm khó tìm và chỗ đậu xe hết sức khó khăn, và xe bus sẽ phải lên đường về vào lúc 4 giờ chiều, trong lúc Meet Vietnam họp từ lúc 6 giờ chiều đến tối. Chính vì thế, khi xe bus chở một số người về thì số người đi xe riêng sẽ tiếp tục ở lại cho đến 9 giờ tối, giữa lúc thời tiết San Francisco rất lạnh và đầy gió.

Khi những chiếc xe bus chở người của phái đoàn Meet Việt Nam đến tòa thị chánh, thì đó là cao điểm của cuộc biều tình. Gần cả ngàn người phất cờ vàng và hô vang hàng chục khẩu hiệu khác nhau như “VC Go Home”, “VC bán nước cho Trung Cộng”. “Down with communists”,… và những khẩu hiệu được giương cao như “Meet Vietnam oppressed people”, “No human rights, No trade”, “Meet Vietnam: No democracy, All Lies”, “Communist Evils”, “Meet Vietnam: All corruption, all Lies”,…

Những tiếng hô vang dội đã diễn ra liên tục khi phái đoàn Meet Vietnam xuống xe bus và bước vào bên trong tòa thị chánh.

Thỉnh thoảng có một số người bước ra khỏi các hàng rào cản của cảnh sát có dòng chữ “SF PD – Police line, do not cross” thì cảnh sát yêu cầu phải bước vào khu quy định dành cho người biểu tình.

Sau khi phái đoàn Meet Vietnam bước vào bên trong tòa thị chánh thì không khí náo nhiệt của cuộc biểu tình xuống dần và nhiều người bắt đầu ra về.

Một số ký giả Hoa Kỳ đến gặp những người biểu tình để phỏng vấn, và một số đã giải thích vì sao họ phản đối phái đoàn Meet Vietnam. Chắc rằng trên các trang báo Anh ngữ sẽ có những bài viết và hình ảnh biểu tình của ngày hôm nay.

Theo nhiều người tham dự cả hai cuộc biểu tình Viet Expo năm nào và Meet Vietnam năm nay, thì tuy cuộc biểu tình năm nay không quy mô như lần trước, thế nhưng con số người tham dự biểu tình năm nay là lớn và thành công ngoài dự tính, gây được tiếng vang.

Nhóm phóng viên Cali Today và webcast truyenhinhvietnam.tv đã ghi nhận được những thước phim biểu tình và sẽ phát đi vào ngày mai thứ hai. Mời qúy độc/khán giả theo dõi.

Trần Việt Phương tường trình từ San Francisco.

http://www.calitoday.com/news/view_article.html?article_id=a2e1becbf1a4b925ff8fcfb9a30507e5
Picture source: http://picasaweb.google.com/andykimtruong/Bieutinh#











Cái Chết của một Tờ báo - Nguyễn Thiếu Nhẫn




Nguyễn Thiếu Nhẫn

“Ốc mượn hồn” theo tự điển của Lê Văn Đức do Lê Ngọc Trụ hiệu đính có nghĩa là: “loại tôm đầu có râu, có mắt, có càng, có que, nhưng mình là một cục thịt mềm không vỏ cứng, phải chui vào vỏ ốc trống mà ở để trốn các thủy tộc khác, thịt ăn được, thường được ví với người thiếu căn cơ, sống tạm bợ, hoặc với người hay quên, lo ra.”

Chuyện một tờ báo Việt ngữ ra mắt rồi sau đó âm thầm đóng cửa không phải là chuyện lạ ở Bắc California, nếu không muốn nói là ở hải ngoại.

Chuyện tờ tuần báo Việt Mercury mà nhiều năm trước đây có người gọi là tờ báo “ốc (Mỹ) mượn hồn (Việt)” đã được báo mẹ là tờ nhật báo San José Mercury News “tưng bừng khai trương” cách đây 7 năm, nay lại “om sòm dẹp tiệm” quả là chuyện lạ - cứ y như chuyện “cáo tồn” của ông Trần Bình thời Pháp thuộc. Ông Trần Bình vốn người theo Hán học. Gặp lúc giao thời ông học thêm chữ Quốc ngữ rồi ra làm quan với Pháp.

Về già bị bệnh bướu, bác sĩ thời ấy bó tay. Ông chỉ còn chờ chết. Có vị thầy bói kia, bói rằng, đến tháng 8 năm nay là ông ấy hết số. Ông tin, và nằm nhà đợi chết. Nào ngờ sang tháng 9 mà ông vẫn còn chưa mệnh hệ gì. Ông liền làm một bài thơ đăng lên báo Trung Bắc Tân Văn. Bài thơ có tựa là “Cáo Tồn”, nội dung như sau:

Bướu mọc càng thêm ruột xót đau,
Thà rằng vui trước khỏi nhơ sau.
Sinh ra nước Việt làm tôi Pháp,
Lỡ tại người Nam học chữ Tàu.
Kiếp nặng chữa tan kềnh một giấc,
Đời thừa còn sống góp năm châu.
Đã qua tháng tám mà không chết
Thầy số năm xưa cũng lắc đầu.

Tờ báo mẹ San Jose Mercury News loan tin sẽ “cắt cổ” tờ báo con Việt Merccury vào ngày 11-11-2005 nhưng cho biết là có người đã “mua lại” để tờ báo con Việt Mercury tiếp tục … sống!

Viết về tin báo tử để “cáo tồn” tờ Việt Mercury, thì ký giả của tờ báo này là Đức Hà (tên thật là Hà Minh Đức, anh em tù đặt tên là Đức Gù) cho rằng đây chỉ là tờ báo đứng “trước bước ngoặc mới” và đã viết như sau: “Tuy không vào tháng Tư nhưng một số người cho rằng đó là tin hoang báo, còn với nhiều người thì đó là đợt cuồng phong thổi ngang San Jose với trung tâm bão ngay tại tòa soạn Việt Mercury”

Sau đó, ông ký giả này đã “cường điệu” về tờ báo mình cộng tác như sau: “Tin tức về số phận của Việt Mercury được loan báo thứ Sáu vừa qua đã làm chấn động toàn thể người Việt khắp thế giới vì lần đầu tiên người Việt mua lại một sản phẩm truyền thông từ người Mỹ.” (Trước bước ngoặt mới, Đức Hà - Việt Mercury số 353, 28-10-2005)

Ông bà ta có câu: “Thố tử hồ bi!”. Câu này đem áp dụng vào trường hợp của tờ Việt Mercury thì không đúng chút nào. Lúc tờ báo được chủ Mỹ khai sinh thì nhiều ký giả của các tờ báo Việt ngữ tại San Jose đã viết bài công kích dữ dội vì tờ Việt Mercury đã “lấy thịt đè người” bằng cách hạ giá quảng cáo. Và chính ký mục gia Bùi Bảo Trúc đã viết thư cho nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng là Tổng thư ký của tờ báo này thông báo ngưng cộng tác. Chủ báo Mỹ lúc đó là Jay T. Harris còn làm cộng đồng Việt Nam nổi giận vì đã cho đăng một lá thư với lời lẽ “cảnh cáo những ai ăn cắp báo Việt Mercury thì cảnh sát sẽ truy tố (sic!).”

Khi báo mẹ San Jose Mercury loan tin “khai tử” tờ báo con thì cũng nhiều người viết bài lên tiếng về chuyện này.

Ông Giao Chỉ Vũ Văn Lộc thì ví von chuyện này cũng giống như chuyện Mỹ tham chiến và rút khỏi Việt Nam. Và đặt tựa bài viết của ông ta là: “Mỹ lại bỏ Việt Nam: Việt Nam hóa ‘Viet Mercury’”.

Ông Giao Chỉ chắc vì muốn nhắc tới quá khứ vàng son của ông “nghĩa quân kiểng” Vũ Bình Nghi, chủ nhiệm, chủ bút tờ Thời Báo San Jose nên đã ví von: “… tờ Việt Mercury vững chãi như một pháo đài, hỏa lực mạnh như Sư đoàn Khinh Kỵ Hoa Kỳ. So sánh với tòa soạn Thời Báo ốm yếu như đồn Dân Vệ mong manh ở bìa rừng cao su xứ Tân Mai, Biên Hòa. Tưởng như dễ dàng bị địch quân tràn ngập bất cứ lúc nào.

Nhưng ngày qua, Thời Báo vẫn tiếp tục cắt dán và đưa đến cho bà con Việt Nam một nhật báo vững vàng nhất tại San Jose. Cũng ra tòa nhiều lần, cũng chịu đựng chống đối nhưng luôn luôn vượt qua tất cả các trở ngại từ trong ra ngoài.

Trong khi đó, tờ Việt Mercury còn nhiều giới hạn đáng kể khác về nghề báo mà không vượt qua được…” (Thời Báo số 4178, Thứ Bảy, Chủ Nhật 5,6-11-2005). Ông Giao Chỉ so sánh việc miền Nam bị Hoa Kỳ bức tử với việc tờ Việt Mercury bị báo mẹ San Jose Mercury News “cắt cổ”, và viết tiếp như sau: “… Nếu giới lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa ngày xưa được toàn dân ủng hộ và tìm cách chống lại được chính sách của chính quyền Hoa Kỳ và tách rời ảnh hưởng Mỹ từ sớm thì có lẽ sẽ có một chút cơ hội mong manh.

Cũng như quý vị Việt Nam trong tòa soạn Việt Mercury, nếu chinh phục được cộng đồng Việt Nam để dùng làm hậu thuẫn và đối thoại được với chủ nhân Mỹ để tạo ảnh hưởng hoặc tìm cách tự lập thì có lẽ không bị bức tử… Quý vị chỉ là các cây bút công chức hiền lành mà không phải là các nhà báo cách mạng …” (do tác giả bài này in đậm)(TB số đã dẫn). Ông Giao Chỉ quả xứng danh Nhạc Bất Quần! Phần trên, ông đã viết: “ Tờ Việt Mercury được sinh thành trong vòng tay báo mẹ rất tốn kém …Tiền lương nhân viên trả theo giá biểu nghiệp đoàn với đầy đủ phụ cấp”; phần dưới ông lại bảo: “Quý vị chỉ là các cây bút công chức hiền lành mà không phải là các nhà báo cách mạng (sic!)”.

Ngay trang 2 của tờ báo, Việt Mercury có ghi “Tôn chỉ của tuần báo Việt Mercury” như sau: “Nỗ lực của Việt Mercury là thực hiện nghiệp vụ thông tin cho độc giả Việt ngữ một cách công bằng, vô tư, chính xác. Chủ trương của Việt Mercury là những người làm báo và các độc giả Việt ngữ đều phải được hưởng quyền thông tin như tất cả các nhóm chủng tộc khác tại Hoa Kỳ. Chúng tôi sẽ cố gắng để những biến cố quan trọng được tường trình, những bất công không bị che đậy. Chúng tôi sẽ nỗ lực để trình bày những quan niệm và suy tưởng khác nhau về bất cứ đề tài nào, để bảo vệ cho quyền của chúng tôi được thực hiện tất cả những điều đó”. Những nhà văn, nhà báo, nhà dịch thuật Việt Nam trong tờ Việt Mercury có tôn chỉ làm báo “cách mạng”cao cả như thế mà ông Giao Chỉ lại “phán” rằng họ chỉ là “các cây bút công chức hiền lành” thì đâu có khác gì ông Giao Chỉ mắng khéo là các vị này chỉ viết và dịch bài theo lệnh của chủ Mỹ!

Theo bài viết của tác giả Bùi Văn Phú, ông Nguyễn Xuân Nam chủ nhiệm báo Cali Today có ý kiến như sau: “Tờ báo muốn sống được phải có sự ủng hộ của cộng đồng, phục vụ quyền lợi của cộng đồng và người thiểu số muốn sự phát triển truyền thông thiểu số phải do họ làm chủ”. (Thời Báo số 4179, Thứ Ba 8-11-2005) và ông Vũ Bình Nghi, chủ nhiệm tờ Thời Báo cho rằng: “Tờ Việt Mercury thường hay chọc giận cộng đồng, lại có phóng viên thường trực nguyên là phóng viên báo trong nước nên bị ghét”. (TB số đã dẫn).

Đọc các ý kiến của hai ông chủ báo khiến người ta nhớ đến việc tờ Việt Mercury trước đây đã đăng tải bài viết của tác giả Trần Mộng Tú đã viết bài “HO và Sinh phần” xúc phạm nặng nề tới các anh em HO như sau:

“… Họ là những cựu Phó Quận, Phó Tỉnh, Trung Tá, Thiếu Tá, Thiếu Uý, Thượng Sĩ v.v… có chút uy quyền trong tay, có nghị lực, có tấm long, hay có người là sâu dân, mọt nước, tham nhũng, ỷ quyền, thì tựu chung họ cũng cùng một số phận tù đày như nhau …

“… họ chỉ còn là những con người bệnh hoạn, vô dụng cho vợ con và cho chính bản thân mình.

“Những con người nầy cạn hết vốn liếng tuổi trẻ và nghị lực. Nhưng lại dư thừa bệnh tật. Đã được cộng sản hào phóng tăng không cho nước Mỹ dưới danh nghĩa nhân đạo.

“Có đến hơn 50 phần trăm người tỵ nạn HO bị viêm gan, và thứ đến là lao phổi … “Nhưng những con vi trùng thì không. Chúng định cư vĩnh viễn trong những cơ thể mong manh đó. Bây giờ những người tủ cải tạo họp mặt nhau ở đây. Cùng nhau tìm một chỗ định cư kế tiếp (cũng là chỗ cuối cùng) cho những con vi trùng nầy …” (Trích trang 33 số 14, tuần báo Việt Mercury ngày 07 tháng 05 năm 1999).

Ông Đào Văn Bình lúc đó là Chủ Tịch Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam đã viết thư gửi Jay T. Harris, chủ nhiệm và Trần Đệ, chủ bút tuần báo Việt Mercury để phản đối và yêu cầu báo nầy lên tiếng xin lỗi tập thể cựu tù nhân về bài viết của bà Trần Mộng Tú nhưng những người nầy đã rất xấc xược chẳng trả lời, trả vốn gì cả.

Đọc trả lời của hai ông chủ báo CaliToday và Thời Báo cũng khiến người ta nhớ đến chuyện một trong những ông nhà văn mà ông Giao Chỉ gọi là viết những bài viết có “những kiến thức vàng ngọc” của tờ Việt Mercury là nhà văn Nguyễn Bá Trạc đã từng viết bài kêu gọi người Việt Quốc Gia tỵ nạn cộng sản hãy cùng với ông ta “Tháng Tư cà nhỏng chợ trời!”.

Người ta cũng không quên các ông chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, phóng viên của tờ Việt Mercury đã từng bị cộng đồng người Việt Quốc Gia tỵ nạn cộng sản Bắc California công khai lên án về những việc đăng tải những bài viết gây chia rẽ trong cộng đồng.

Theo một bài báo trên chính tờ Việt Mercury thì đa số ý kiến độc giả đều cho rằng tờ Việt Mercury không được cộng đồng ủng hộ vì đã loan tải tin tức cứ như là các tờ báo ở trong nước (!). Lúc nào cũng “thành phố Hồ Chí Minh”, “Thủ Tướng Việt Nam Phan Văn Khải” v.v…

Chuyện lạ là khi tờ báo mẹ San Jose Mercury News loan tin “cắt cổ” tờ báo con Việt Mercury thì tờ báo này cũng loan tin là có một nhóm người Việt sẽ mua lại tờ báo này. Khi tin này được loan tải thì có dư luận đồn đãi là Hà Nội là người mua lại tờ Việt Mercury.Vì không có đủ dữ kiện về việc này nên chúng tôi không dám có ý kiến về việc này.

Về chuyện này, tác giả Bùi Văn Phú có viết như sau:

“… Khi tin tức sang nhượng tờ Việt Mercury đang thua lỗ cho nhóm người Việt - đại diện là ông Jimmy Chinh Nguyễn - được loan truyền, với giá có thể bạc triệu, cộng đồng người Việt vùng Vịnh San Francisco rất xôn xao, nhất là trước những nỗ lực ngoại vận của nhà nước trong vài ba năm qua với Nghị quyết 36.

Ông Jimmy Chinh Nguyễn thì không xa lạ gì với những phát triển giao thương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Khi còn làm trong ủy ban mậu dịch quốc tế của thành phố San Francisco ông đã điều phối chuyến tham quan San Francisco của phái đoàn Phó Thủ Tướng Trần Đức Lương, vào tháng 5 năm 1994. Tháng 9 năm đó, ủy ban cùng với Phòng Thương Mại (lúc đó do Vũ Đức Vượng làm chủ tịch - tác giả bài này chú thích ) và Công Nghệ Việt Nam đã tổ chức VietExpo đầu tiên trên đất Mỹ cũng tại San Francisco. Ông Chủ tịch Đoàn Duy Thành và hơn 100 thương nghiệp Việt Nam đã tham dự VietExpo. Có một thời gian ông làm giám đốc thương vụ quảng cáo cho Việt Mercury. Những năm gần đây ông thường có mặt trong các buổi gặp gỡ quan chức trong nước ra hải ngoại tiếp xúc với doanh nhân Vùng Vịnh.” (Thời Báo, số đã dẫn).

Chẳng có ông Jimmy Chinh Nguyễn hay ai đó mua tờ cái xác tờ tuần báo “ốc (Mỹ) mượn hồn (Việt)” với giá bạc triệu cả. Nhưng … cũng lại chữ “nhưng” quái ác nầy, tờ tuần báo của chủ Mỹ đã bỏ ra hàng chục triệu Mỹ kim mướn những nhà văn, nhà báo Việt Nam để ra tờ báo Việt ngữ, tìm mọi cách đánh phá, gây lũng đoạn trong cộng đồng người Việt tại Bắc California, xấc xược đến cả việc đòi “đại diện cộng đồng người Việt tỵ nạn” đã chết tức tưởi dù ông ký giả Đức Hà đã cố khua chiêng, gióng trống trước khi tờ báo nhắm mắt lìa đời lại giống như Phạm Nhan: Sau khi chủ Mỹ San Jose Mercury News tự cắt cổ tờ báo con Việt Mercury thì những ông nhà văn, nhà báo Việt được chủ Mỹ thuê mướn trước đây lại cho ra đời hai tờ báo khác cũng mang tên nửa Mỹ, nửa Việt: tờ tuần báo VTimes, do ông chủ bút “người Việt gốc … Mỹ” Trần Đệ đứng tên chủ nhiệm, chủ bút. Ông phóng viên Lâm Văn Sang đứng tên Tổng Thư Ký. Tờ báo thứ hai là tờ tuần báo Việt Tribune do bà Trương Gia Vy đứng tên chủ nhiệm và ông cựu Tổng Thư Ký Nguyễn Xuân Hoàng của tờ Việt Mercury đứng tên “chủ biên”. Tưởng cũng nên biết bà Trương Gia Vy là phu nhân của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng.

Tờ Viet Tribune tuần trước đã đăng tải bài viết khóc lóc thảm thiết về chuyện du sinh Hồ Phương bị ăn đòn của cảnh sát vì đã dám hăm dọa giết người và chống cự lại cảnh sát của bà chủ báo Trương Gia Vy.

Tờ VTimes tuần rồi công khai thách thức cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Bắc California bằng cách đăng nguyên trang quảng cáo cái gọi là “Meet Vietnam” tại San Francisco.

Xem ra cái chết của tờ báo “ốc Mỹ mượn hồn Việt” Viet Mercury để lại di căn cho cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản không phải là nhỏ!

Nguyễn Thiếu Nhẫn