Friday, August 21, 2009

BÍ ẨN CHUNG QUANH CHUYỆN HỒ CHÍ MINH BỊ THẤT SỦNG LÚC ĐƯƠNG THỜI - Trần Viết Đại Hưng


Trần Viết Đại Hưng


Từ trước đến nay, ai cũng nghĩ Hồ chí Minh là một lãnh tụ với quyền uy tuyệt đối, xem ra quyền hạn còn hơn ông vua ngày xưa vì cả nước đều bắt buộc phải kính mến ngưỡng mộ ông như một ông thánh sống. Sau khi miền Nam bị cưỡng chiếm năm 1975, Đảng Cộng sản lấy tên ông để đặt cho thành phố Sài gòn và đi đâu người ta cũng thấy khẩu hiệu "Sống, chiến đấu, lao động theo gương Bác Hồ vĩ đại ". Người ta nghĩ ông có một quyền uy tuyệt đối như Kim nhật Thành ở Bắc Hàn hay Fidel Castro ở Cuba. Nhưng rồi dần dà với những bí mật dần dần được tiết lộ ra bởi những đảng viên dưới quyền như Nguyễn văn Trấn, Sơn Tùng với những bằng chứng cụ thể, người ta thấy ông đã bị thất sủng vào lúc cuối đời. Hai nhân vật Lê Duẩn và Lê đức Thọ đã "đì " và ăn hiếp ông đến độ tàn tệ như đã ăn hiếp Võ nguyên Giáp và hai ông họ Lê này đã có lần mưu sát hụt Hồ chí Minh. Vì sao một người chủ tịch Đảng kiêm chủ tịch nước và vốn là một cán bộ Cộng sản gộc do Quốc tế Cộng sản đưa về Việt Nam hoạt động như Hồ chí Minh lại bị thứ đàn em như Lê Duẩn và Lê đức Thọ khống chế đến độ ông coi như không còn một chút quyền hành tối thiểu nào trong những năm tháng cuối đời ? Ông đã phạm những sai lầm nào để đến nỗi thất thế như thế. Bài viết này xin trưng ra những tài liệu do những đảng viên dưới quyền viết để chúng ta có thể suy luận thêm về lý do tại làm sao Hồ chí Minh đã bị tước hết quyền hành bởi Lê Duẩn và Lê đức Thọ ? Nhân đó mà có một cái nhìn trung thực hơn về lịch sử và diễn tiến hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hồ chí Minh và toàn bộ tay sai CSVN Duẩn, Đồng, Chinh, Giáp, Thọ,
trong cuộc họp bàn cướp miền Nam Mậu thân 1968 chúng là đầu
dây mối nhợ cho tai hoa Cộng sản đè đầu dân Việt nam hôm nay
Vào năm 1995, nhà xuất bản Văn Nghệ ở hải ngoại cho xuất bản cuốn sách "Viết cho mẹ & Quốc hội" của Đảng viên cao cấp Nguyễn văn Trấn. Cuốn sách này được coi như "kinh thiên động địa" vì những lời nói thật, nói thẳng của người Đảng viên gốc Nam kỳ này. Trong cuốn sách, Nguyễn văn Trấn có thuật lại một cuộc họp trong đó Lê đức Thọ tỏ ra hống hách và coi Hồ chí Minh không ra cái gì cả. Nguyễn văn Trấn viết:

"Chuyện họp lần thứ 9 này làm sao tôi biết được vài điều muốn khóc?

Ôi ! Người rất thân với tôi là Bùi công Trừng và Ung văn Khiêm (chưa nói đến Lê Liêm và Xuân Thủy, nhà ở cách bứt khó gặp)

Với cái giọng "mẹ đời", Bùi công Trừng nói với tôi:

_ Cái thằng Lê đức Thọ trước giờ họp, nó đi đi, lại lại trong phòng, như thể đội trưởng một tổ pháo đi kiểm tra đốc thúc pháo binh chuẩn bị.

Nó không hút thuốc. Nhưng hôm nay nó cầm lon thuốc Đại Tiền Môn ở tay này, tay kia nó cầm bật lửa thứ như chày giã gạo. Nó đi lựa mặt mà chìa lon. Nguyễn khánh Toàn tay ăn hút thấy thuốc lá Trung Quốc như lân thấy pháo. Nó mở hộp lấy một điếu, ngậm rồi chìa mồm ra. Thằng Thọ đánh bật lửa cái "beng". Đứng xa thấy thằng Toàn gật đầu. Thọ đi đến chỗ thằng Huy. Ce petit – thằng nhỏ nầy bợ hộp thuốc. Lê đức Thọ cũng đánh lửa một cái beng. Thằng Huy khoát mồi lửa, chưa đốt thuốc có lẽ nó đang còn tìm lời văn "Mao nhiều"

Ở một góc phòng thằng Hà huy Giáp đứng, Lê đức Thọ tới, nói cái gì, thằng Giáp nghiêm sắc mặt gật gật đầu.

Ba vị ấy được Lê đức Thọ coi là ba tay có lý luận và mời – biểu – lên tiếng.

Mà trời ơi, dưới triều đại Hồ chí Minh ai được Lê đức Thọ để ý có cảm tình là má thằng đó đẻ nó đêm rằm tháng bảy.

_ Tao nói cho mầy nghe nha, Bùi công Trừng nói tiếp, về chuyện lão Hồ chí Minh. Tao nghe, thằng Thọ âm mưu lật đổ ông già, và lấy Nguyễn chí Thanh thay. Ông lão chỉ còn làm người chuyên nghiên cứu lý luận Mác - Lê nin. Chuyện nước giao cho Nguyễn chí Thanh. Việc Đảng, Statuquo – Lê Duẩn. Cái thằng tự nhiên lại muốn làm Khổng Tử này, khó lật đổ nó lắm. Vì nó có công trạng ở Nam Bộ, và mấy bà má ôm nó chum chủm trong lòng.

Mầy coi, coi nó tội nghiệp không. Đồng chí Hồ chí Minh muôn vàn kính yêu của chúng ta bận bộ đồ lụa gụ, chủ trì hội nghị mà day mặt ra sân. Có lỗ tai tự nhiên nó phải hứng những lời công kích mạt sát Liên Xô. Khi chướng tai quá quay vô, đưa tay để nói, thì thằng Thọ lễ phép Bắc hà, "Bác hãy để cho anh em người ta nói đã mà".

Tao đếm lão Hồ, đưa tay mấy lần, lần nào thằng Thọ cũng kịp ngăn. Cuối cùng ông cũng cho hội nghị nghe, ông nói ca dao bằng tiếng khóc:

Khi thương trái ấu cũng tròn
Khi ghét bồ hòn cũng méo

Và ông nói xụi lơ: thấy lợi người ta cho tên lửa vô; thấy bất lợi người ta rút ra. Có chi mà !

Bùi công Trừng nói với tôi như vậy

Còn Ung văn Khiêm:

_ Trước khi vào hội nghị, tao có tranh thủ nói riêng với ông cụ, là tao sẽ không đưa ra cái nháp bản tuyên bố chung của tao và Novotny, cho ông cụ yên tâm. Vì trong bản thảo ấy ông cụ có thêm mấy chỗ, còn mang tuồng chữ của monsieur Hồ chí Minh rành rành. Tao nghĩ bản thảo ấy đưa ra không phân bua gì cho tao, mà chỉ làm thớt cho Sáu Thọ băm ông cụ.

Và mày coi thằng thủ trưởng khoa giáo của mày (ý nói Tố Hữu). Khi tao đứng tại chỗ phát biểu ý kiến, thằng Huy đi ngang qua, nó phun nước miếng, và đoạn tao nói chủ trương hòa bình là trung thành với Lénine. Tao mỉm cười bụng nói: A, thằng nhỏ mày dám đái đầu ông Xá

Hội nghị 9 này có thông qua cái "nghị quyết 9" và mấy anh ấy nói là cũng có trên 10 ủy viên trung ương không bỏ thăm.

Anh Khiêm lộ bí mật

_ Tao có hỏi mí ông cụ có bỏ thăm không. Ông cụ làm thinh

"Nghị quyết 9" tạo một cao trào trấn áp, khủng bố đảng viên. Nó cho lập ra Ban xét tội và kết án trực thuộc Bộ Chính Trị của Trung ương Đảng. Ban này có mấy ban viên, tôi không nói. Chỉ nói người đứng thớt là Lê đức Thọ, người làm heo là Trần quốc Hoàn (tôi nói giọng thịt luộc Chợ Đệm).

Hai vị này toàn quyền quy kết tội: xét lại chống đảng, âm mưu lật đổ, phản cách mạng, tay sai đế quốc ….. ( Trích "Viết cho mẹ & Quốc Hội" của Nguyễn văn Trấn, trang 327, 328, 329, nhà xuất bản Văn Nghệ, California )

Những ai vốn thường nghĩ là Hồ chí Minh là nhân vật có hoàn toàn quyền sinh sát trong tay trong chuyện điều hành nội bộ Đảng hẳn sẽ rất kinh ngạc khi đọc đoạn văn trên. Nguyễn văn Trấn đã thuật lại lời nói của những người bạn ông trong hội nghị 9, diễn tả cái lối xử sự lấn lướt, hỗn láo của Lê đức Thọ đối với nhân vật thường được nghĩ là có quyền uy tuyệt đối là Hồ chí Minh. Cuộc đời thấy vậy mà không phải vậy. Người ta không thể tưởng tượng ra cái cảnh Lê đức Thọ "ăn hiếp" Hồ chí Minh thô bạo và thô bỉ đến như vậy. Cần phải ghi nhớ là thời điểm xảy ra câu chuyện trên là vào cuối năm 1963.

Mới đây nhà văn Sơn Tùng, vốn là một chuyên gia nghiên cứu về Hồ chí Minh, được mệnh danh là "Nhà Hồ chí Minh học" đến nói chuyện với khóa 40 của lớp "Đào tạo cán bộ quản lý ngành giáo dục" . Ông Sơn Tùng còn tiết lộ thêm nhiều chuyện động trời như vào trận Mậu Thân 1968, Lê Duẩn và Lê đức Thọ đẩy Võ nguyên Giáp sang Hungary "chữa bệnh" và tống Hồ chí Minh sang Trung Cộng cho rảnh mắt. Lúc Hồ chí Minh về nước bằng máy bay, Duẩn và Thọ cho cán bộ phi trường đổi đèn hiệu sân bay để cố tình gây ra tai nạn cho chiếc phi cơ chở Hồ chí Minh, có nghĩa là mượn tai nạn để giết Hồ chí Minh. Có lẽ số mạng còn lớn nên Hồ chí Minh không chết trong cuộc bố trí do Duẩn và Thọ bày ra và tiếp tục sống đến năm 1969.

Bài nói chuyện của Sơn Tùng được ghi thành văn bản và được phổ biến rộng rãi trên Internet làm nhiều người ngạc nhiên. Dĩ nhiên Sơn Tùng nói những âm mưu của Duẩn và Thọ sau khi Duẩn và Thọ qua đời.

Nhà văn Sơn Tùng kể lại chuyện Duẩn và Thọ mưu sát Hồ chí Minh như sau:

" ... Trong bài viết của ông Vũ Kỳ mà ta đọc báo, ta không để ý vì ông ấy viết kín đáo để đăng báo Văn Nghệ, báo Tiền Phong, báo Nghệ An số tết 1998, hồi đó ông chủ trương đăng trên ba tờ báo đó. Nội dung bài báo là: Năm 1967 Bộ Chính Trị mời Bác Hồ đang chữa bệnh ở Trung quốc về để thông qua việc Tổng tiến công 1968. Khi họp lần thứ nhất Bác đã không đồng ý chủ trương Tổng tiến công và nổi dậy. Bác chỉ đồng ý tập kích chiến lược rồi rút ra ngay. Ông Giáp cũng chủ trương như vậy nhưng ở thế thiểu số nên ông đi chữa bệnh ở Hungary. Nhưng sắp đến tết Mậu Thân rồi nên phải thông qua chủ trương đó để đi vào cái tết, nên phải mời Bác về. Ông Vũ Kỳ viết bài báo như sau:

Trên máy bay chỉ có bác, ông Vũ Kỳ và người lái máy bay chuyên cơ từ Trung quốc về. Lúc đó đã báo cho bộ đội phòng không từ giờ này ... đến giờ này ... trên bầu trời nước ta từ hướng này ... phương vị này ... tuyệt đối không nổ súng. Thời đó đang chiến tranh, vào giờ đó là xuất hiện máy bay của ta. Khi máy bay về tới vùng trời Hà nội, sân bay Nội Bài khi đó là sân bay quân sự nên máy bay xuống sân bay Gia Lâm. Người lái báo cáo với anh Vũ Kỳ ngồi bên cạnh (Bác ngồi phía sau hút thuốc):

_ Thưa anh, tín hiệu đường băng lệch 15 độ, bây giờ làm sao đây?

_ Quan sát lại đi! Ông Vũ Kỳ nói.

_ Em là người lái mà lái máy bay cho Bác thì em nhìn sao được ! Người lái nói

Máy bay lượn hai vòng không dám xuống vì theo ông nếu hạ cánh thì máy bay sẽ chạy đến Phố Nổi, thì tan xương chứ.

_ Bây giờ làm thế nào? Quay trở lại không được, xăng hết rồi, giờ quy định cũng đã hết rồi, phòng không nó bắn chết, mà xuống theo tín hiệu thì không an toàn.

_ Phải xuống theo trí nhớ thôi, cậu có xuống được không? Ông Kỳ nói

Cuối cùng xuống theo trí nhớ (của người lái), chứ không xuống theo đèn tín hiệu, vì trên máy bay báo đi báo lại, nhưng dưới sân bay vẫn không thay đổi, trên báo "tín hiệu chệch" dưới vẫn cứ để thế, không sửa.

Vòng một vòng và máy bay hạ cánh chạm đất an toàn, thở đánh phào một cái. Bác vẫn ngồi ung dung hút thuốc. Ở dưới sân bay vẫn yên tĩnh

_ An toàn rồi anh ơi !

Mừng quá, nói to lắm nhưng Bác làm như không nghe thấy.

Ra khỏi máy bay (ông Vũ Kỳ tả) thì thấy đồng chí Lê Duẩn, Lê đức Thọ ra đón, một lúc thì thấy ông Đồng, chỉ có thế thôi, không còn ai đón Bác cả.

Phải nhận thấy ông Vũ Kỳ (nguyên là người luôn ở bên cạnh Hồ chí Minh) rất khéo léo khi trình bày vấn đề máy bay gặp vấn đề đáp vì đèn hiệu dưới sân bay chệch hướng. Mới đọc thì người ta tưởng đây là một sự trục trặc thường tình về chuyện kỹ thuật đáp của máy bay. Vì vậy bài báo kể chuyện này mới được ba tờ báo đăng. Nhưng nếu đọc và suy luận kỹ thì ta thấy ông Kỳ đã khéo léo tố cáo âm mưu giết Hồ chí Minh của Lê Duẩn và Lê đức Thọ bằng cách ra lệnh cho đèn hiệu dưới sân bay trệch hướng để phi công không đáp được theo kỹ thuật phi hành. Dấu hiệu rõ rệt nhất cho chuyện mưu sát là khi người phi công thấy đèn chệch hướng không đáp được (có lẽ đáp vào ban đêm), ông ta tìm cách liên lạc với bên dưới bằng vô tuyến nhưng bên dưới không trả lời ! Vũ Kỳ sau khi kể chuyện này trên báo thì bị bộ chính trị kêu lên "hỏi thăm sức khỏe" ngay. Có lẽ vì quá uất ức vì chuyện mưu sát Hồ, mà nếu hôm ấy máy bay bị tai nạn thì Vũ Kỳ cũng đã tan xác theo với Hồ vì Vũ Kỳ có mặt trên chuyến máy bay ấy !

Số Hồ chí Minh chưa chết nên viên phi công đã đáp máy bay chở ông và Vũ Kỳ theo trí nhớ và đã bình an chứ không gây ra tai nạn. Trước đây cựu chiến binh Trần dũng Tiến cũng đã viết bài lên tiếng về vấn đề này (có lẽ sau khi đọc và suy luận về bài viết của Vũ Kỳ). Dĩ nhiên Trần dũng Tiến cũng chỉ mạnh dạn lên tiếng âm mưu hãm hại Hồ chí Minh bằng tai nạn phi cơ của Duẩn và Thọ sau khi Duẩn và Thọ qua đời. Mới đây Trần dũng Tiến cũng mới bị bắt vào tù, nối gót theo nhà tranh đấu Phạm quế Dương và Nguyễn đan Quế cũng vừa bị bắt vì bị tố cáo là chuyển e-mail này nọ. Cộng sản nghĩ là khi ruồng bố những người đấu tranh như thế thì chế độ chúng sẽ an toàn hơn, nhưng những chuyện chúng làm chỉ càng ngày càng làm cho giọt nước tràn ly và báo trước những xáo động lớn trong những ngày sắp tới.

Trở lại chuyện Lê Duẩn và Lê đức Thọ. Hai ông này đều hoạt động ở miền Nam và khi ra Bắc thì hai ông liên kết với nhau để khống chế quyền lực trong Đảng. Cựu Đại tá Bùi Tín, trong những cuốn sách xuất bản ở hải ngoại, đã kể nhiều chuyện cụ thể hai ông phối hợp với nhau để "đì" Võ nguyên Giáp như thế nào. Trong đó có chuyện hai ông đẩy cho Giáp chức "cai đẻ", Giáp phải cắn răng mà nhận vì không dám chống đối để rồi làm trò cười cho nhân dân vì không ai có thể tưởng tượng nổi chuyện một ông đại tướng cầm quân giờ đây đi lo chuyện đẻ đái của phụ nữ ! Giáp không dám đương đầu với liên minh Thọ – Duẩn ngay từ lúc đầu vì yếu thế và điều này làm cho Duẩn, Thọ coi thường và hạ nhục Giáp thêm. Bùi Tín chỉ nói đến chuyện Duẩn, Thọ "làm tình, làm tội" Võ nguyên Giáp thôi chứ không hề đề cập đến chuyện Duẩn, Thọ "ăn hiếp" luôn cả Hồ chí Minh. Có lẽ Bùi Tín không biết và không tưởng tượng nổi một nhân vật trông có vẻ có quyền uy tuyệt đối như Hồ chí Minh lại bị phe Duẩn, Thọ khống chế. Người ta nói Duẩn, Thọ ghen tức về cái hào quang Điện biên Phủ mà Võ nguyên Giáp và Hồ chí Minh có được trước mặt nhân dân và thế giới nên cố làm một chuyện vĩ đại tương tự là xâm chiếm cho được miền Nam. Trở lại chuyện Tổng công kích tết Mậu Thân 1968 thì thấy uy lực của Duẩn Thọ đã quá rõ ràng. Mặc dù cả Võ nguyên Giáp và Hồ chí Minh phản đối chuyện tổng công kích vì thấy khó thành công nhưng phe Duẩn, Thọ vẫn cứ tiến hành chuyện đánh Mậu Thân. Giáp lúc ấy là Bộ trưởng quốc phòng thì bị đẩy qua Hungary "chữa bệnh", Hồ chí Minh thì bị tống qua Trung Cộng sau khi đọc một bài thơ xuân cổ động cho việc tấn công.

(Đó là mấy câu thơ: Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua. Thắng trận tin vui khắp nước nhà. Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ. Tiến lên ! Toàn thắng ắt về ta ).Một trận đánh lớn như trận tết Mậu Thân mà Bộ trưởng quốc phòng Võ nguyên Giáp bị đẩy đi xa, chủ tịch nước kiêm chủ tịch Đảng Hồ chí Minh cũng bị đẩy ra khỏi nước thì đủ thấy phe Duẩn, Thọ đã hoàn toàn nắm quyền sinh sát trong Đảng.

Trong cuốn hồi ký "Đêm giữa ban ngày" , nhà văn Vũ thư Hiên có kể lại chuyện mẹ của Vũ thư Hiên có ý trách ông Hồ, trong chức vụ chủ tịch nước, đã tỏ ra bội bạc và vô tình không can thiệp cứu giúp khi phe Lê Duẩn và Lê đức Thọ bắt giữ giam cầm ông Vũ đình Huỳnh (là chồng bà cũng như là thân phụ ông Hiên) . Ông Huỳnh là bí thư cho ông Hồ trước đây. Lời trách cứ đó không đúng lắm vì ở giai đoạn bắt ông Vũ đình Huỳnh thì Lê Duẩn và Lê đức Thọ đã tước hết quyền hành của ông Hồ rồi thì làm sao ông Hồ có thể ra tay cứu giúp người bí thư cũ của ông là cụ Vũ đình Huỳnh được.

Nhà văn Sơn Tùng còn có dịp nói chuyện với Đại tá cựu chiến Binh Cao Nham và được Đại tá Cao Nham tiết lộ thêm về chi tiết Lê Duẩn đòi giành công đánh trận Mậu Thân như sau:

"Đầu năm 2001, tôi (Sơn Tùng) có dịp nói chuyện với Đại tá cựu chiến binh Cao Nham. Trong câu chuyện có một chi tiết tôi không thể quên, theo lời đồng chí Cao Nham về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968, ông Lê Duẩn nói với Bác Hồ, "Đề nghị Bác để tôi đánh trận này, nếu không thắng tôi xin từ chức Tổng bí thư nhưng với điều kiện Bác phải cách chức Võ nguyên Giáp" (không nói lý do ?)

Và trận đánh kết quả không như ý ông Duẩn, vào đợt 2 ông Duẩn lại nói với Bác cũng với đề nghị trên, kết qủa cũng không đạt như ý ông, tiếp đến đợt 3 một lần nữa ông Duẩn lại nhắc lại đề nghị trên, nhưng kết quả không hơn gì các đợt trước.

Vậy là cả 3 dợt của Tổng tiến công và nổi dậy như ông Duẩn chủ trương không đạt như ý định, đương nhiên ông phải " từ chức " như ông tự xác định với Bác chứ ("quá tam" mà) nhưng không thấy ông tỏ thái độ nào cả (trong câu chuyện kể của đồng chí Cao Nham)

Tuy nhiên (có thể theo tôi hiểu) Bác Hồ cũng không muốn có sự xáo trộn nhân sự xảy ra khi sự nghiệp giải phóng miền Nam chưa hoàn thành, nên (vẫn đồng chí Cao Nham kể), Bác nói:

_ Chú Duẩn có uy tín với đồng bào miền Nam thì chú cứ làm Tổng bí thư, còn chú Giáp giỏi quân sự thì cứ để chú ấy làm Bộ trưởng Quốc Phòng.

Về chủ trương Tổng tiến công và nổi dậy, Bác Hồ và ông Giáp không tán thành nhưng vì thiểu số nên phải phục tùng, phải chấp hành, nhưng vì lợi ích không để tổn thất lớn cho lực lượng ta nên Bác đặt vấn đề và hỏi ông Giáp:

_ Có cách nào làm giảm thiệt hại ?

Ông Giáp nói:

_ Chỉ còn cách đánh vào các căn cứ gần giới tuyến để kéo bớt lực lượng địch ra ngoài này.

Vì thế ta mới thấy có các trận đánh ác liệt dọc đường 9, Cồn Tiên, Dốc Miếu, Khe Sanh, A Sao, A lưới. Địch phải kéo ra 4 sư đoàn để đối phó với ngoài này, và Tổng thống Giôn-sơn đã có một câu tuyên bố nổi tiếng, "Phải tử thủ với Khe Sanh" chính là vào lúc đó.

Thật ra, câu trả lời của Đại tá Cao Nham cho rằng ông Hồ và Võ nguyên Giáp đứng về phía thiểu số nên đành phải theo lệnh của Lê Duẩn tiến hành cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968 là một giải thích không hợp lý. Nếu ông Hồ có toàn quyền uy lực chính trị trong tay thì Lê Duẩn làm sao dám cãi lời ông. Chuyện Hồ chí Minh và Võ nguyên Giáp không cản nổi quyết định đánh trận Mậu Thân do Lê Duẩn chủ trương cho thấy Hồ và Giáp đã tỏ ra "lép vế" trước quyền lực của Lê Duẩn rồi. Cho nên sau này chuyện Lê Duẩn và Lê đức Thọ làm những hành động thô bỉ nhằm hạ nhục Võ nguyên Giáp như Bùi Tín đã kể và chuyện Thọ và Duẩn đi đến quyết định tạo dựng tai nạn máy bay để dứt điểm Hồ chí Minh là điều tất yếu phải xảy ra và cũng dễ hiểu thôi. Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao hai nhân vật có uy thế lừng lẫy trong và ngoài nước như Hồ chí Minh và Võ nguyên Giáp lại bị thất thế trước phe nhóm Lê Duẩn và Lê đức Thọ. Hồ và Giáp đã phạm sai lầm nghiêm trọng nào chăng? Điều này chưa thấy ai đưa ra câu trả lời hợp lý và rốt ráo. Có thể Võ nguyên Giáp biết rõ chuyện này vì ông là người trong cuộc nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, ông chẳng thể lên tiếng để biện minh cho sự thất thế của Hồ chí Minh và của chính ông trước phe Duẩn, Thọ. Khi lên tiếng thì coi như ông đã phá tan huyền thoại đoàn kết keo sơn của cấp lãnh đạo Đảng và chắc chắn nhóm cầm quyền hiện nay sẽ không để ông yên ổn sống nốt những ngày cuối đời.

Chỉ sau khi Duẩn, Thọ qua đời mới có những bài viết phê phán sự độc đoán chuyên quyền của hai nhân vật này. Riêng Nguyễn văn Trấn thì phê phán Lê đức Thọ từ lúc y còn sống trong cuốn sách "Viết cho mẹ & quốc hội" nhưng cuốn sách của Nguyễn văn Trấn chỉ được lưu hành ở hải ngoại và đương nhiên là bị cấm xuất bản trong nước. Còn Trần dũng Tiến, Sơn Tùng chỉ mới phê phán Duẩn Thọ sau khi cặp bài trùng này qua đời.

Cách đây không lâu, một cán bộ cao cấp trong Mặt Trận Giải phóng Miền Nam là Lữ Phương, có viết một bài về Hồ chí Minh nhan đề, " Huyền Thoại Hồ chí Minh " cũng đã nói lên chuyện phe Lê Duẩn – Lê đức Thọ đã thật sự khống chế phe Hồ chí Minh – Võ nguyên Giáp như sau:

"... Không biết có khi nào suy ngẫm lại những cái đã qua, ông cảm thấy những bất ổn trong những vở kịch do mình tạo ra hay không, nhưng từ bên ngoài, nhiều người đã thấy khá nhiều những bực bội, buồn phiền gây ra cho ông bởi chính cái đám âm binh cách mạng của ông. Có nhiều chuyện không vui vẻ lắm, nhưng chuyện ông bị cho ra rìa suốt trong quãng đời còn lại trước khi ông mất là đáng chú ý nhất. Sau cải cách ruộng đất năm 1956 ở miền Bắc, do nhập từ Trung Quốc, quá thất đức và sai lầm, ông đưa Võ nguyên Giáp, uy tín như cồn sau Điện Biên Phủ, ra thay mặt Đảng xin lỗi nhân dân, sau đó định sẽ lên thế chỗ Trường Chinh làm Tổng bí thư. Lúc bấy giờ ở Liên Xô, Krushchev đang thắng thế với đường lối hòa bình, trong Đảng Việt Nam cũng có xu hướng ấy. Nhưng tình hình Việt Nam lại không thuận lợi để phát triển. Do cường độ cuộc chiến tranh ở miền Nam đã lên cao, đường lối quyết liệt dùng bạo lực để giải quyết chiến tranh thắng thế đã đưa cánh Lê Duẩn – Lê đức Thọ lên nắm quyền.

Về Võ nguyên Giáp thì kết quả ai cũng nhìn thấy: bị quy là kẻ cầm đầu chủ nghĩa xét lại và bị trù dập suốt một thời gian dài, đến khi Lê Duẩn chết mới thôi. Còn về Hồ chí Minh thì dường như chẳng có gì, nhưng thật sự cũng đã chịu số phận chung với tướng Giáp. Bên ngoài thì vẫn đi đây đi đó, chỉ đạo việc này việc kia..nhưng bên trong đã dần dà bị cô lập, chỉ giữ vai trò của một ngọn cờ tượng trưng, không có ảnh hưởng gì lắm tới những quyết định lớn. Theo một bài viết của Vũ Kỳ (đăng trên một số báo Văn Nghệ Xuân cách đây vài năm), công lao của Hồ chí Minh trong cuộc "Tổng tấn công và nổi dậy 1968" vỏn vẹn chỉ có bài thơ, "Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua. Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà ..." Sau khi ghi âm bài thơ này thì ông được đưa đi nghỉ. Vũ Kỳ thuật rằng ông Hồ chỉ biết ngày giờ cuộc "Tổng tấn công và nổi dậy" nổ ra qua Đài phát thanh nghe được ở nơi ông được gửi đi nghỉ là Bắc Kinh – cùng với giọng đọc của ông, ra rả suốt ngày về bài văn vần nói trên. Nhiều người đã nói đến nhiều khuynh hướng đối nghịch nhau trong Đảng Cộng sản Việt Nam thời chiến tranh; nhưng qua câu chuyện trên, ta thấy có hai xu hướng chính trong suốt một thời gian dài: Lê Duẩn – Lê đức Thọ đối đầu với Hồ chí Minh – Võ nguyên Giáp.

Dù sao chế độ vẫn cần sự thiêng liêng của ông để tạo ra sự thiêng liêng cho chính mình nên cái chết của ông cũng đã được cánh Lê Duẩn / Lê đức Thọ khai thác triệt để để "xài" một cách thoải mái. Ngày chết của ông là 2-9 vì trùng với ngày Quốc Khánh nên người ta dời lại 3-9-1969. Trong di chúc cuối cùng, ông muốn được hỏa táng và đem tro rải xuống biển hoặc chôn vào một vùng đất nào đó, người ta lại bỏ không biết bao nhiêu tiền bạc ra ướp xác và xây lăng nghìn đời cho ông."

Như vậy rõ ràng cánh Lê Duẩn – Lê đức Thọ đã hoàn toàn khống chế cánh Hồ chí Minh – Võ nguyên Giáp. Trong trận Tổng tấn công Mậu Thân, Hồ bị đưa đi nghỉ ở Bắc Kinh, Giáp bị tống qua Hungary (gọi là "chữa bệnh" !) vì phe Duẩn –Thọ muốn giành công hoàn toàn nếu cuộc Tổng tấn công thành công. Đúng ra, Hồ chí Minh trong chức vụ chủ tịch nước và Đảng, Võ nguyên Giáp với cương vị Bộ trưởng quốc phòng, Hồ và Giáp phải ở Hà Nội để góp phần chỉ huy và điều động cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968. Sự thật phũ phàng cho thấy Hồ và Giáp bị phe Duẩn – Thọ tống cổ đi xa ra khỏi nước để Duẩn và Thọ rảnh tay mà điều động mọi chuyện. Điều đó cho thấy không còn nghi ngờ nữa là phe Lê Duẩn – Lê đức Thọ đã khống chế hoàn toàn phe Hồ chí Minh và Võ nguyên Giáp. Vì uy tín của Hồ chí Minh quá lớn trước nhân dân và quốc tế nên Duẩn - Thọ vẫn núp bóng Hồ chí Minh để điều hành công việc nhưng bên trong thì Hồ chí Minh bị phe Duẩn – Thọ tước hết quyền hành. Riêng Võ nguyên Giáp thì phe Duẩn – Thọ không coi ra gì cả, và có lúc đã đẩy cho Giáp giữ chức vụ "cai đẻ" để làm nhục Giáp. Giáp ngoan ngoãn nhận chức vụ "cai đẻ" làm trò cười cho nhân dân vì không dám cãi và chống lại quyền sinh sát đang nằm trong tay Duẩn – Thọ.

Có người cho rằng Lê Duẩn có viết vài cuốn sách trong đó Duẩn hết lời ca tụng, kính mến Hồ như thánh sống thì làm sao có chuyện Lê Duẩn lấn át quyền hành Hồ chí Minh được? Muốn trả lời câu hỏi khó khăn này thì phải đọc mấy cuốn sách của cựu Đại tá Bùi Tín viết ra ở hải ngoại. Bùi Tín có kể Duẩn có lần gặp đám nhà báo như Bùi Tín, Duẩn huênh hoang khoe khoang là tài năng của Duẩn hơn Hồ xa, Hồ thì luôn luôn khúm núm, trọng vọng Mao còn Duẩn thì khi qua Bắc Kinh, dám nói chuyện tay đôi với Mao. Nếu Lê Duẩn thực lòng kính mến Hồ chí Minh thì không đời nào lại có cách ăn nói "phạm thượng" như thế. Chuyện Duẩn ca tụng Hồ trong sách của Duẩn chỉ là một vở kịch mà Duẩn đóng quá khéo trước mặt nhân dân Việt Nam và thế giới mà thôi.

Năm 1997 ông Nguyễn minh Cần (nguyên Phó chủ tịch ủy ban hành chính thành phố Hà Nội) đã tung ra bài viết "Vài mẫu chuyện về cuộc đời Hồ chí Minh" trong đó ông nêu lên một chuyện động trời là có một cô gái người Nùng tên Nông thị Xuân, ăn nằm với Hồ chí Minh có một đứa con trai rồi sau đó bị giết bằng búa bủa vào đầu, được ngụy trang dưới hình thức một tai nạn ô tô. Ông Nguyễn minh Cần đã kể lại câu chuyện tàn bạo, thê thảm này với những chi tiết cụ thể như sau:

"Sau khi rời Hà Nội đi Moskva( Mạc tư khoa)theo học ở Trường đảng cao cấp của Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô hồi năm 1962, và nhất là sau khi tôi đã ra khỏi hàng ngũ đảng cộng sản hồi đầu tháng 6 năm 1964, trong lòng tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi một câu chuyện mà càng ngày tôi càng thấy rõ có cái gì đây đầy oan khuất, đầy mờ ám, rất là nghiêm trọng, mà bây giờ ở ngoài nước, trong hàng chục năm, lắm lúc tôi cảm thấy bó tay không thể nào tìm hiểu được. Chuyện thế này: hồi cuối những năm 50 đầu những năm 60, tôi là Phó chủ tịch ủy ban hành chánh thành phố Hà Nội, nên thường ngày tôi xuống các cơ sở. Nhưng sáng hôm đó, tôi nhớ là vào đầu xuân, tôi phải đến thường trực tại ủy ban, thì anh Nguyễn quốc Hùng, ủy viên trong ủy ban, phụ trách văn phòng, bước vào phòng tôi, hồi hộp nói, "Báo cáo anh có một việc xảy ra, có một người đàn bà bị ô tô cán ở đoạn đường Nhật Tân phía đi lên Chèm.." Tôi đưa mắt nhìn Quốc Hùng, có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng không nói gì. Ngạc nhiên vì trong óc thoáng một ý nghĩ, xe ô tô cán người ở Hà nội, chẳng phải là chuyện gì hiếm, sao anh ấy lại báo cáo với mình. Tôi im lặng chờ đợi. Quốc Hùng nói tiếp, "Nhưng mà, anh à, theo sự điều tra thì không phải là xe cán người, mà đây là làm ra vẻ xe cán người…" Dừng lại một lúc, anh nói thêm, "Mà ... theo báo cáo thì chiếc xe ấy chạy từ Chủ tịch phủ ra.." Mấy tiếng cuối cùng " từ Chủ tịch phủ ra " đã gây cho tôi một cảm giác thật mạnh. Nhưng lúc đó, thật ra, tôi không hề có mảy may ý nghĩ là việc này có liên quan gì đến vị Chủ tịch nước mà hồi đó, tôi chân thành kính yêu và tin tưởng. Một ý nghĩ thoáng qua trong óc: hay là bọn phục vụ ở Chủ tịch phủ đã làm bậy bạ cái gì đây với chị kia, rồi giết đi và bày trò cán xe ? Suy nghĩ một lúc, tôi nói, "Theo quyết định của cấp trên, mọi vấn đề thuộc về công an, tòa án thì do bí thư Thành ủy giải quyết, nhất là những chuyện có dính dấp đến trên, việc này không thuộc thẩm quyền của ủy ban hay Thành ủy, vậy hôm nay, anh đến gặp anh Tuyên báo cáo ngay cho anh ấy biết để giải quyết thì hơn."

Hôm sau, gặp lại, tôi hỏi thì Quốc Hùng cho biết: đã báo cáo rồi và anh Tuyên bảo anh sẽ trực tiếp làm việc với anh Thân (tức Lê quốc Thân, hồi đó là Giám đốc Sở công an Hà nội, về sau được thăng chức Thứ trưởng Bộ công an). Khoảng một tuần sau, nhân gặp Trần danh Tuyên, bí thư Thành ủy kiêm Phó chủ tịch ủy ban hành chính thành phố, tôi tranh thủ hỏi về vấn đề đó, thì anh ta lạnh lùng gạt đi, "Thôi, việc đó xong rồi" . Biết là không thuận lợi cho một cuộc trao đổi cởi mở, nên tôi im. Khi đã ở nước ngoài, trong nhiều năm tôi cứ băn khoăn mãi về chuyện đó.

Hồi tháng 7 năm 1993, khi gặp nhà văn Vũ thư Hiên, một người "cùng cảnh ngộ", tức là cùng bị dính vào "vụ án xét lại – chống đản ", đã sang được Moskva, tôi mới đem chuyện đó kể ra. Hiên bật người lên, vui mừng ra mặt, dường như anh được thêm một người nữa biết cái chuyện "thâm cung bí sử" này và chuyện tôi kể cho anh lại một lần nữa xác nhận điều mà cụ thân sinh của anh, ông Vũ đình Huỳnh, đã dặn dò anh. Hiên nói liền, "Nhưng không phải ô tô từ Chủ tịch phủ phóng ra đâu, anh ạ. Mà từ phố Hàng Bông Nhuộm đi lên Nhật Tân.." Tôi đáp lời, "Chính là Quốc Hùng nói với tôi thế ! " Rồi Hiên thủng thẳng tâm sự với tôi, "Có một hôm, ông cụ tôi bảo tôi lên xe, chúng tôi đi lên Hồ tây, rồi theo đường Quảng Bá đi lên đường Nhật Tân, chỗ làng đào, anh biết chứ ?" Tôi trả lời theo kiểu dân Bắc, "Biết quá đi, chứ lị ! Từ năm 1951, tôi phụ trách ngoại thành cơ mà." Yên trí là tôi biết rõ địa thế vùng này, anh kể tiếp: Dừng xe lại, hai bố con ra xe, ông cụ dẫn anh đến một đoạn đường, hình như một bên có rặng ổi, rồi bảo, "Con ơi, con nhớ những lời bố dặn đây ! Tới đây, đánh dấu một vụ án mạng, một vụ oan khuất khủng khiếp mà Trần quốc Hoàn (ủy viên bộ chính trị, bộ trưởng công an ) là chính danh thủ phạm. Con hãy ghi nhớ, khi có dịp thì nói lên sự thật..."

Câu chuyện đại để thế này: Có một chị nữ thanh niên người Nùng ở Cao Bằng, tên là Nông thị Xuân, được đưa đến " phục vụ "Bác Hồ, cô Xuân đưa em gái là Nông thị Vàng và một cô em họ nữa về Hà nội. Sau đó, cô Xuân đẻ cho Bác một đứa con trai, được đặt tên là Nguyễn tất Trung, và còn có tin đồn, có thêm một đứa con gái nữa tên Nguyễn thị Trinh..Thế rồi Trần quốc Hoàn hiếp cô Xuân tại nhà phố Hàng Bông Nhuộm, sau đó giết chết, rồi bày trò xe ô tô cán người ở đường Nhật Tân để lấp liếm tội ác. Sau khi cô chị bị giết, cô em chạy về Cao Bằng, rồi cũng bị giết nốt để " bịt đầu mối " , và người em họ cô Xuân cũng không thoát khỏi bàn tay đẫm máu. Người yêu của cô Vàng đã viết thư tố cáo hung thủ. "

Qua câu chuyện cô Nông thị Xuân, người ta thấy những vấn đề khúc mắc cần phải làm sáng tỏ như sau :

Chuyện Hồ chí Minh cho đem cô Nông thị Xuân về " phục vụ" chứng tỏ ông ta cũng có một đời sống tình cảm và sinh lý của một người đàn ông bình thường. Ông không được lấy cô Nông thị Xuân vì bị phe Duẩn, Thọ chống đối, họ muốn ông làm một biểu tượng cao cả, suốt đời hy sinh cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Ở miền Bắc, người ta có lưu truyền một ý kiến cho rằng, " Sở dĩ Bác Hồ không lấy vợ vì Bác đóng vai Bác của toàn dân, nay nếu Bác lấy một người dân làm vợ, hóa ra Bác mà lấy cháu làm vợ hay sao ! " Đây là một ý kiến nhằm thần thánh hóa con người Hồ chí Minh, coi ông như một vị thánh, một siêu nhân, không có một đời sống tình cảm nhục dục thông thường như mọi người.

Còn chuyện cô Xuân bị dùng búa đánh vỡ sọ rồi sau đó phi tang bằng một tai nạn ô tô thì vấn đề đặt ra ở đây là: Ai đã ra lệnh cho Bộ trưởng công an Trần quốc Hoàn giết cô Xuân? Có phải vì muốn đóng vai thánh mà Hồ chí Minh ra lệnh cho Trần quốc Hoàn làm chuyện giết người tàn bạo khủng khiếp này không? Và Trần quốc Hoàn, sau khi nhận lệnh từ Hồ chí Minh, đã cưỡng bức cô Xuân trước khi giết vì tội gì mà không hưởng một đóa hoa tuyệt sắc trước khi tiêu diệt thì "phí của trời " đi. Và Trần quốc Hoàn coi như chỉ làm theo lệnh của Chủ tịch Hồ chí Minh nên không sợ những vấn đề liên lụy, rắc rối khi thi hành tội ác giết cô Xuân. Nếu lý luận này đúng thì Hồ chí Minh đã đi đến tận cùng của sự tàn nhẫn độc ác. Ăn nằm với một người đàn bà rồi cho đàn em thủ tiêu để bảo vệ " thanh danh" của mình.

Có thể lệnh giết cô Xuân đến từ phe Duẩn, Thọ và ông Hồ đang đứng thế yếu, đành phải chấp nhận chuyện đàn em thủ tiêu vợ mình mà không dám lên tiếng một lời để phản đối. Hy vọng với thời gian sẽ còn nhiều nhân chứng lên tiếng để làm sáng tỏ vụ án nhiều oan khuất này. Nếu theo lý luận này, thì Trần quốc Hoàn cũng chỉ thi hành lệnh của cấp trên và không sợ những sự rắc rối sau ngày án mạng xảy ra. Nếu lý luận này đúng thì một lần nữa chứng tỏ quyền hành sinh sát của phe Duẩn, Thọ, đã không coi Hồ chí Minh ra gì và sẵn sàng ra tay làm những điều tổn hại đau đớn đến tình cảm của Hồ.

Chắc chắn với chức vụ bộ trưởng Công an, không bao giờ Trần quốc Hoàn dám giết cô Nông thị Xuân nếu không có lệnh của cấp trên. Vấn đề ở đây là Hồ chí Minh ra lệnh hay phe nhóm Duẩn Thọ cho phép thi hành chuyện giết người kinh tởm này ? Đó là điều chúng ta phải tìm hiểu và đưa ra lời kết luận chính xác, công bình và vô tư.

Tóm lại, qua những tài liệu rõ ràng, cụ thể do Nguyễn văn Trấn, Nguyễn minh Cần và Vũ thư Hiên đưa ra thì quả thật Hồ chí Minh đã bị thất thế trước phe Duẩn Thọ. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao một người sáng lập Đảng như Hồ chí Minh lại bị thứ đàn em như Duẩn Thọ khống chế một cách thô bạo như vậy. Thời điểm Hồ chí Minh bị thất sủng của Hồ chí Minh xảy ra từ đầu những năm 1960. Phải chăng vì hậu quả của cuộc cải cách ruộng đất mà Hồ chí Minh bị mất uy tín và bị đàn em lấn lướt, ăn hiếp như những chuyện đã kể ở trên? Ở đây cũng cần nhắc lại là sau vụ cải cách ruộng đất kinh hoàng đẫm máu, Tổng bí thư Trường Chinh bị mất chức Tổng bí thư, nhường lại chức này cho Lê Duẩn từ miền Nam ra nắm lấy. Phải chăng Hồ chí Minh cũng bị một số phận tương tự như Trường Chinh sau vụ cải cách ruộng đất sai lầm nghiêm trọng ?

Những học giả Tây phương sau này biên soạn về cuộc đời Hồ chí Minh đều thú nhận cuộc đời Hồ chí Minh có những bí mật, những uẩn khúc không giải thích nổi vì bản thân ông muốn che giấu cũng như bộ máy tuyên truyền của nhà cầm quyền muốn bưng bít những chi tiết lịch sử không có lợi cho họ . Hy vọng sau Nguyễn văn Trấn, Vũ Kỳ, Sơn Tùng, Nguyễn minh Cần, Vũ thư Hiên sẽ còn thêm nhiều nhân chứng khác lên tiếng để vén cái màn " thâm cung bí sử " của con người Hồ chí Minh. Nếu được như thế, người ta sẽ hiểu rõ vị thế, uy quyền của Hồ chí Minh rõ ràng hơn trong những năm cầm quyền để từ đó có thể có những nhận định trung thực hơn nữa về lịch sử Việt Nam cận đại.

Trần Viết Đại Hưng



Thư cảm Tạ 37 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ đã yêu cần CSVN trả tự do cho LM Nguyễn văn Lý

Đăng 1 trang màu trên nhật báo Examiner
ngày 21/08/2009 tại San Francisco
    Thư Cảm Tạ
Bắc Cali, ngày 18 tháng 8 năm 2009

Cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại Bắc California và nhiều đoàn thể tại đây xin chân thành cảm tạ TNS Barbara Boxer, TNS Sam Brownback và 35 vị TNS khác đã gởi thư yêu cầu ông Nguyễn Minh Triết và nhà cầm quyền CSVN phải lập tức trả tự do cho Linh Mục Thadeus Nguyễn Văn Lý, người đã bị CSVN giam cầm qua một phiên xử thiếu công lý và rõ ràng đã vi phạm công pháp quốc tế.

Chúng tôi cũng chân thành cảm tạ TNS Barbara Boxer đã đệ trình dự luật nhân quyền Việt Nam S.1159 năm 2009. Chúng tôi thiết tha yêu cầu các thành viên trong Quốc Hội, và đặc biệt là các vị trong Ủy Ban Đối Ngoại Thượng Viện, hãy thông qua dự luật S.1159 này để mang lại Tự Do, Nhân Quyền cho Việt Nam.

Chân thành cảm tạ quý vị.
    • Cộng Đồng Việt Nam Bắc Cali
    • Liên Đoàn Cử Tri Ngưòi Việt Bắc Cali
    • Khối 8406 Bắc Cali
    • Lương Tâm Công Giáo
    • Ủy Ban Billboard Dân Chủ
****

    Thank You
Aug 18, 2009

The Vietnamese American Community of Northern California and affiliated organizations would like to express our most sincere gratitude to Senators Barbara Boxer, Sam Brownback and 35 of their colleagues for requesting Mr. Nguyen Minh Triet and the Socialist Republic of Vietnam regime to act in a manner consistent with Vietnam’s own legal obligations and that of international law by immediately freeing Father Thadeus Nguyen Van Ly, who has been imprisoned for many years without a fair trial.

We also would like to specifically thank Senator Barbara Boxer for her introduction of S.1159, the Vietnam Human Rights Act of 2009. We encourage and implore all members of Congress; and in particular, members of the Senate Foreign Relations Committee, to promote freedom and human rights in Vietnam through the passage of S. 1159.

Respectfully Yours,
    • Vietnamese American Community of Northern California (VAC NorCal).
    • Viet–American Voters of Northern California.
    • Bloc 8406 of Northern California (Human Rights and Democracy for Vietnam).
    • Vietnamese Catholic Conscience .
    • Billboard for Democracy


Buổi công bố thư cảm tạ 37 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ
Diễn ra trưa ngày 21/08/2009 trước toà Thị Chính Thành Phố San Francisco


Linh mục Nguyễn Văn Lý thử thách lớn với một chế độ - Nguyễn Duy Thành


Nguyễn Duy Thành

Trong bài diễn văn nhậm chức của Tổng Thống Bush có đoạn: "...Tất cả những ai sống trong chế độ độc tài tàn bạo và những ai sống trong vô vọng , có thể biết là Hoa Kỳ sẽ không làm ngơ trước các sự áp bức, hoặc bào chữa cho kẻ áp bức. Khi quý vị đứng lên tranh đấu cho sự tự do của quý vị . Chúng tôi sẽ đứng vào hàng ngũ của quý vị ...".

Những ai đang bị áp bức trên thế giới, trong đó có hơn 80 triệu người dân Việt Nam đều cảm động, và hy vọng vào đoạn văn hùng hồn của vị Tổng Thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.

Nhưng cũng hơn ai hết. Người Việt Nam thất vọng nhiều nhất khi thấy chính vị Tổng Thống này đã đi ngược lại lời cam kết của mình. Bởi, trước khi đến Việt nam để tham dự Hội Nghị Thượng Đỉnh Diễn Đàn Hợp Tác Kinh Tế Á Châu Thái Bình Dương (APEC) ngày 17 -11- 2006, ông Bush đã ra lệnh lấy tên Việt Nam ra khỏi danh sách CPC.

Nhận xét về sự kiện bất ngờ này. Xin mượn lời than van của Hòa Thượng Thích Quảng Độ để kết luận:

- "Bây giờ ông ấy đến Việt Nam không đứng chung với chúng tôi. Ông ấy đứng chung với những người đàn áp chúng tôi ..." .

Cũng từ thời gian đó, Việt Nam liên tiếp nhận được hàng loạt ân huệ do Hoa Kỳ ban phát, mà món quà lớn nhất là trở thành hội viên không chính thức của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, và mối bang giao quan hệ Việt - Mỹ được xem như là sáng sủa nhất kể từ ngày hai quốc gia không còn là cựu thù nữa. Giới quan sát chính trị cũng phải chóng mặt để phân tích, vì xen kẽ giữa mối quan hệ này là sự tiếp cận của Trung Cộng, đáp trả những cuộc ngoại giao cấp cao của Hoa Kỳ đến Hà Nội thăm viếng, thì Trung Cộng cũng gởi những yếu nhân có cấp tương đương đến Việt Nam viếng thăm. Hay Hải Quân Hoa Kỳ cặp bến Sài Gòn, thì Chiến Hạm Trịnh Hòa cũng cặp bến Đà Nẵng, những cuộc ngoại giao đan chéo vào nhau, khiến Việt Nam trở nên một vị trí chiến lược quan trọng, trong tầm ngắm của các nhà hoạch định chính sách thuộc hai siêu cường quốc. Trong chừng mức nào đó để nhận xét, người ta đều nhận ra chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam cũng không có gì mới mẽ, nghĩa là vẫn một bài bản Cây Gậy Và Củ Cà Rốt để muốn Việt Nam cải thiện về nhân quyền và dân chủ. Nhưng phía Việt Nam đã không tỏ thiện chí cải cách, mà còn bắt bớ giam cầm nhiều hơn đối với các nhà đấu tranh dân chủ. Trong đó có Linh Mục Nguyễn Văn Lý bị chính giới chức an ninh Việt Nam dùng tay bịt miệng không cho nói trước phiên tòa xét xử công khai, hình ảnh này đã tạo nên một sự ghê sợ của thế giới đối với chính quyền Cộng Sản Việt Nam. Cùng lúc, chính sách của Trung Cộng đối với lãnh đạo Việt Nam chẳng có gì lạ, tuy bức màn ngoại giao chính trị chưa được vén lên nên xem chừng như bí mật, nhưng sự thiếu trong sáng, sự cúi phục ươn hèn của đảng Cộng Sản Việt Nam đã cho người ta thấy. Họ đã bị rơi vào cạm bẫy của tiền bạc hay mỹ nhân kế, mà những kế lược hạ đẳng này, tổ tiên của người Phương Bắc vẫn thường áp dụng qua đường lối quân sự và chính trị trong thời cổ sử.

Rút cuộc, kế lược hạ đẳng áp đạt cho kẻ hạ cấp của Trung Cộng, xem bộ đã thắng thế hơn sách lược sòng phẳng mà Hoa Kỳ đã áp dụng với Việt Nam, bằng chứng là từ tháng 8 năm 2008 đến nay, mối quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ chỉ dừng lại ở thang bậc Đại Sứ. Trong khi quan hệ Việt - Trung ngày một thắt chặt, nếu không muốn nói là bóp chặt cổ hơn để cho những nguyên thủ quốc gia Việt Nam đương thời, tự mình biến thành những ông quan huyện ngồi chờ chiếu chỉ từ vua truyền xuống. Tệ trạng chính trị này đã biến nhóm lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam mất hết chủ quyền, không dám lên tiếng khi ngư dân bị bắn chết trên ngư trường của tổ quốc mình, hay công nhân Trung Cộng được phép tự do hành nghề, trong khi người lao động Việt Nam thất nghiệp gia tăng. Giới trí thức nhận ra hiểm họa này đã lên tiếng đấu tranh, thì Trung Cộng ra lệnh lãnh đạo Việt Nam giam cầm, mà đợt bắt bớ vô cớ gần đây của công an cộng sản đã khiến giới chính trị của Hoa Kỳ phải quan tâm về mặt nhân quyền.

Mặc dầu, từ năm 2006 đến nay, tuy Việt Nam không bị Thượng viện Hoa Kỳ đưa trở lại danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt (CPC). Nhưng sự kiện 37 vị Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đồng ký tên lần này, để yêu cầu Cộng Sản Việt Nam trả tự do cho Linh Mục Nguyễn Văn Lý là dấu hiệu khác thường, mà có thể Hoa Kỳ đang muốn áp dụng ngay vào thời điểm lãnh đạo Việt Nam nghiêng hẳn về phía Trung Cộng. Sự kiện này suy xét lướt qua thì thấy bình thường như những lời kêu gọi trước đây, nhưng suy luận trong góc độ quan hệ Việt - Mỹ hiện tại, thì sự vụ này sẽ tạo cho giới lãnh đạo Việt Nam một sự lúng túng, vì việc đòi hỏi đưa Việt Nam vào CPC đang chờ Thượng Viện Hoa Kỳ thông qua. Nếu Việt Nam không chịu đáp ứng đòi hỏi này thì kết quả sẽ ra sao ? Quan hệ Mỹ - Việt sẽ như thế nào trong tương lai ? Vì thế, lá thư đề ngày 1 tháng 7 năm 2009 gởi đến người đứng đầu nhà nước Việt Nam là Nguyễn Minh Triết, đã được 37 vị Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ chiết tính và lượng định đúng đắn, những điểm sai sót mang tính vi hiến và bất công mà nhóm Thượng Nghị Viện nêu ra trong lá thư, đã hoàn toàn diễn tả đúng thực tế phiên tòa xét xử Linh Mục Nguyễn Văn Lý. Cho nên, nếu Cộng Sản Việt Nam không đáp ứng đòi hỏi này, thì khả thi chỉ số Thượng Viện Hoa Kỳ thông qua để đưa Việt Nam vào CPC là khá khả tín. Mặt khác, 37 vị Thượng Nghị Sĩ nắm khá rõ chi tiết thủ tục pháp lý về ân xá, đặc xá của Bộ Nội Vụ Việt Nam đối với tù nhân. Bởi, lá thư gởi ngày mồng 1 tháng 7 năm 2009, tức chỉ còn đúng 2 tháng, tức nhằm ngày 2 tháng 9 là Lễ Quốc Khánh của nước CHXHCNVN. Đây là ngày Bộ Nội Vụ Việt Nam luôn luôn có quy lệ giảm án hay tha bổng cho tù nhân, xét theo quy định thì Linh Mục Nguyễn Văn Lý đã thụ án được một phần ba mức án tính từ ngày bị bắt, rất hợp lệ để tha bổng với một lý do gì đó ! Nếu nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam biết khôn ngoan và tính toán, thì chớ nên tạo sự rắc rối và bất hòa trong mối quan hệ Mỹ- Việt, vì quan hệ song phương này dựa trên tinh thần sòng phẳng, có lợi hỗ tương, không bị mất lãnh hải, lãnh thổ như mối quan bất chính với Trung Cộng hiện nay. Cho nên, sự kiện đòi trả tự do cho Linh Mục Nguyễn Văn Lý trong thời điểm này, là một thử thách với giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam.

Ngõ hầu giúp đỡ cho các nhà đấu tranh dân chủ chân chính. Rất mong, quý cá nhân, quý hội đoàn nhanh chóng hành động thúc đẩy, hay ngỏ lời cám ơn với Thượng Viện Hoa Kỳ. Để Linh Mục Nguyễn Văn Lý sớm được trả tự do.

Trân trọng cầu nguyện và kính chúc Linh Mục Nguyễn Văn Lý khỏe mạnh, vững chí và may mắn.

Nguyễn Duy Thành


Xướng ca vô loài - Nguyễn Dư

Nguyễn Dư

Sách vở thường nói rằng xã hội Việt Nam ngày xưa có "Sĩ, nông, công, thương". Như vậy là còn thiếu. Người ta đã cố ý không kể một hạng người là bọn xướng ca vô loài vì không biết sắp xếp bọn này vào đâu cho ổn.

Xướng ca bị coi là vô loài, bị khinh rẻ không thua gì thằng mõ.
Bị khinh từ năm xửa năm xưa, từ thời vua Lê Nhân Tôn (1447) xa tít.

"Dân Thanh Hóa thấy vua đến, trai gái đem nhau hát rí ren ở hành tại. Tục hát rí ren một bên con trai, một bên con gái, dắt tay nhau hát, hoặc tréo chân tréo cổ nhau, gọi là cắm hoa kết hoa, thói rất là xấu. Đài quan Đồng Hanh Phát bẩm với thái uý Khả rằng: "Lối hát ấy là thói dâm tục xấu, không nên cho người hát nhảm ở trước xa giá". Khả liền sai cấm hẳn." (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử kí toàn thư, tập 3, Khoa Học Xã Hội,1968, tr. 139).

Trai gái bá vai bá cổ nhau ca hát là thói dâm tục rất xấu, cấm không được nhảm nhí trước kiệu vua. Muốn tốt đẹp, trang nghiêm thì ... vào cung vua mà múa với hát!

Năm 1462, vua Lê Thánh Tôn quy định rằng "Nhà phường chèo con hát và những kẻ phản nghịch, ngụy quan, có tiếng xấu, bản thân và con cháu đều không được đi thi, nếu mang sách hay mượn người làm hộ, thì trị tội theo luật." (Đại Việt sử kí toàn thư, sđd, tr.183).

Phường chèo, con hát được bỏ cùng một rọ với đám phản nghịch, ngụy quan, có tiếng xấu. Cứ đà này thì có ngày mất mạng như chơi chứ chẳng đùa. Luật lệ nghiêm khắc và vô lý của Lê Thánh Tôn đã đẩy một số người trở về làng cũ học cày cho xong, học chữ thánh hiền chỉ tổ toi cơm tốn gạo.

Phường chèo, con hát bị vùi dập có lẽ chỉ vì:

"Xã hội ta xưa quan niệm lũ xướng ca vô loài là một tầng lớp vô luân. Họ bị coi là vô luân không phải vì họ sa đọa, chính sự sống của họ cũng không phải là sa đọa, mà chỉ vì những vai trò của họ đóng khi xướng hát: họ bị coi là vô luân ở đây vì người con có thể đóng một vai vua và người cha đóng vai bày tôi quỳ lạy, anh em ruột có thể đóng đôi vợ chồng, và vợ chồng lại có thể đóng vai mẹ con hoặc cha con... Tất cả cái vô luân là ở đây, ở đấy luân thường đã không còn nữa, mặc dầu chỉ trong những lúc trình diễn." (Toan Ánh, Phong tục Việt Nam, Khai Trí, 1969, tr. 429).

Mặc dù bị vua quan và nhà nho khinh ghét, mặc dù không được đi thi để ra làm quan lớn, bọn phường chèo, con hát vẫn tiếp tục hành nghề và vẫn được nhiều người dân thường ưa thích.

"Khoảng năm Cảnh Hưng, phường hát chèo bội mới pha thêm lối tuồng, cũng đóng vai trò vẽ mặt ra múa hát đùa cợt, không khác gì ở hý trường. Các nhà tang gia hay đua nhau mượn phường chèo đóng tuồng để khoe khoang. Các quan chính phủ ghét hung lễ lại dùng lẫn lộn cả cát lễ, bèn nghiêm cấm, đã hơn mười năm. Đến năm Canh Tuất (1790) lại thấy dân gian bày trò hát bội ấy. Các con nhà lương gia tử đệ có người bỏ cả chức nghiệp đi theo học hát, khăn áo dáng bộ như đàn bà, thường khi ở nhà cũng nghêu ngao tập hát chèo, trước mặt khách cũng không thẹn thò gì cả. Lại còn trò đánh bạc chọi gà sinh ra nhan nhản. Tập tục đến thế thật đáng buồn!" (Phạm Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút, Văn Học, 1972, tr. 57).

May thay ... cơ trời vần xoay, rồi cũng đến một ngày mai sáng sủa hơn.

"Lệ cũ, cứ con nhà hát xướng không được vào nhà học hiệu, thi đỗ ra làm quan. Tiếc rằng không mở rộng đường cho kẻ tuấn dị tiến thân, để thu lấy nhân tài xuất chúng. Từ khi Lộc Khê Hầu (Đào Duy Từ) là con nhà hát xướng, vì không được ra thi, mới lẻn vào giúp nhà Nguyễn ở trong Nam, bấy giờ những kẻ đương sự mới hối rằng cái cách tìm kiếm nhân tài như thế là không rộng. Nhưng cũng chưa công nhiên bãi bỏ lệ cũ. Từ khi bà Trương quốc mẫu, người Như Kinh, là kẻ hát xướng được tuyển vào cung hầu Tần Quang Vương, sinh ra Trịnh Nhân Vương (Trịnh Cương), Biện trưởng cung, người Á Lữ, sau lại đắc sủng với Nhân Vương, nên các họ về giáo phường mới được kể bằng hàng với các họ nhà lương gia. Sau này các họ nhà đại khoa hiển hoạn cũng thường có người do giòng họ hát xướng mà phát đạt lên, nên những kẻ sĩ phu cũng cùng họ giao du tự nhiên, và rồi những nhà hát xướng cũng quên hẳn thế hệ nhà mình tự đâu mà ra. Xem đó thì biết thế vận phong tục mỗi ngày một khác." (Vũ trung tùy bút, sđd, tr. 79-80).

Phải công nhận là ... mê gái cũng có cái hay! Bên trên mê gái thì bên dưới cũng được nhờ! Vua chúa một khi quen hơi đào hát thì bao nhiêu cái nhảm nhí ngày xưa bỗng chốc được dẹp qua một bên. Luật lệ được tẩy xóa. Xin cảm ơn và tuyên dương cô đào hát họ Trương! Giọng ca tiếng hát và có lẽ cả thân hình của cô đã cảm hóa được lòng người, phá bỏ được bất công. Nhờ cô mà con cháu mở mày mở mặt.

Nhưng thói đời, bia miệng thì cứ trơ trơ. Mặc dù vua chúa đã thôi lấy thịt đè người, đè con hát từ lâu rồi, nhưng thành kiến xướng ca vô loài vẫn cứ bám rễ trong đầu nhiều người đến tận đầu thế kỷ 20. Mẹ và em gái Tản Đà bất đắc dĩ phải "đắp đổi tháng ngày bằng điệu phách câu ca", bị "người ta hùa cả nhau vào bài xích việc xướng ca là việc giăng hoa đĩ bợm." (Nguyễn Mạnh Bổng, 1944).

Bỗng dưng xướng ca lại được tặng thêm hỗn danh đĩ bợm. Tại sao vậy? Xướng ca có liên hệ gì với đĩ à?

Vậy đĩ là gì, là ai?

Trong văn học, người Tàu gọi các cô làm nghề xướng ca là kỹ nữ. Kỹ nữ nguyên nghĩa chỉ là người con gái làm nghề ca xướng, múa hát. Chữ kỹ (bộ nữ) của tiếng Hán được ta đọc Nôm thành đĩ. Kỹ nữ của Tàu trở thành Con đĩ của ta. Kỹ nữ và con đĩ là hai chị em ruột. Con đĩ ngày xưa chỉ có nghĩa là người con gái làm nghề hát xướng chứ không phải là con đĩ làm nghề mại dâm như ngày nay!

Thật hay đùa vậy?

Xưa kia, trước khi làng mở hội cho mọi người vui chơi thì các vị chức sắc phải tổ chức tế lễ ngoài đình. Có rước phụng nghênh hồi đình (rước long kiệu từ miếu về đình) rất long trọng. Nghi trượng gồm nào cờ quạt, voi ngựa, nào bát bửu, cờ biển. Rồi đến phường đồng văn đánh trống, gõ thanh la, theo sau là mấy người con gái, đôi khi là con trai giả gái, vừa vỗ trống vừa múa hát gọi là con đĩ đánh bồng. Theo sau con đĩ đánh bồng là cờ vía, lọng vàng, lệnh kiếm, phường bát âm, long đình, kiệu thánh ... và sau cùng là bô lão, chức sắc của làng. (theo Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Tổng Hợp Đồng Tháp, 1990, tr. 96-100).

Xem vậy thì vai trò của con đĩ ngày xưa cũng không có gì là tệ lắm, được múa hát diễn hành trước cả long đình, kiệu thánh, các bô lão, chức sắc của làng.

Nếu chỉ múa hát thôi thì chẳng có gì là xấu. Có xấu chăng là kể từ ngày các con đĩ bị giới trưởng giả, mấy ông trí thức mời về nhà hát. Chính những vị tai mắt, khoa bảng, đã mở đường hoặc tiếp tay làm biến chất, làm hư các con đĩ.

Buổi hát ban đầu rất lịch thiệp. Các quan ăn uống vui chơi, các cô hầu rượu, múa hát những bài do các quan yêu cầu.
    Hồng Hồng Tuyết Tuyết
    Mới ngày nào còn chửa biết chi chi
    Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì
    Ngảnh mặt lại đã đến kỳ tơ liễu (...)
    (Dương Khuê, Hồng Tuyết)
Những chầu hát cô đầu dần dần bị những người thiếu tư cách biến thành nơi cợt nhả, bá vai gối đùi.
    Nhân sinh quý thích chí
    Còn gì hơn hú hí với cô đầu
    (...)
    Chơi cho thủng trống tầm bông.
    (Trần Tế Xương, Chơi ả đào)
Rồi chẳng bao lâu, buổi hát chỉ còn là cái cớ cho những trận trác táng, tằng tịu, dâm loàn.
    Cũng ra đĩ rạc
    Bấy lâu nay đã toác toạc toàng toang
    Chán chê rồi về đến đầu làng
    Toan tấp tểnh những đường tu lý (...)
    (Trần Tế Xương, Đĩ rạc đi tu)
Con đĩ vốn chuyên nghề hát xướng dần dần trở thành gái làng chơi.
    Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ
    Trời sinh ra cũng để mà chơi
    Dễ mấy khi làm đĩ gặp thời
    Chơi thủng trống long dùi âu mới thích
    (...)
    Mai sau này giỗ có văn nôm
    Cha đời con đĩ cầu Nôm.
    (Nguyễn Khuyến, Đĩ cầu Nôm)
Các nhà hát tư mọc lên, lập thành xóm cô đầu. Vàng thau lẫn lộn, khó mà phân biệt được con hát thật với con gái làng chơi. Từ đây trở đi người ta đồng hóa đĩ với gái làng chơi, gọi gái làng chơi là đĩ.

Sự biến chất này cũng tương tự như ý nghĩa của từ Thanh lâu (lầu xanh) và Hồng lâu (lầu hồng). Lầu xanh lúc đầu dùng để chỉ nhà sang trọng. Đến khoảng đời Đường thì được dùng để chỉ nơi ở của kỹ nữ. "Như vậy thì ngày nay Thanh Lâu không còn có nghĩa là nhà cao cửa đẹp mà chỉ có nghĩa là nhà kỹ nữ." (Diên Hương, Thành ngữ điển tích, Phương Lai, 1954), và cuối cùng trở thành:
    Lầu xanh có mụ Tú bà,
    Làng chơi đã trở về già hết duyên
    (Nguyễn Du, Kiều)
Lầu xanh rõ ràng đã trở thành nơi chứa gái làng chơi, gái giang hồ.
    Ngảnh mặt lại lầu xanh thương những kẻ
    Trầm luân chưa khỏi kiếp hồng nhan
    (Tôn Thọ Tường, Đĩ già đi tu)
Từ điển Génibrel (1898) và Gustave Hue (1937) cũng chép lầu xanh là maison de prostitution (nhà đĩ, nhà thổ).

Lầu hồng xưa kia là chỗ ở của con gái nhà giàu:
    Đêm ngày lòng những giận lòng
    Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên
    (Kiều)
Sau này lầu hồng cũng bị trở thành maison des chanteuses (nhà chứa con hát), và sau cùng là nhà chứa đĩ.
    Giang hồ từ thủa mười lăm,
    Đến năm mười chín còn nằm trông xuân,
    Xuân kia còn độ mấy lần,
    Tấm thân phơi chốn bụi trần mà thương (...)
    (Hoàng Ngọc Phách, Giọt lệ hồng lâu)
Nhà chứa đĩ thời Tây được gọi là nhà đỏ, nhà thổ. Chữ thổ không phải là chữ Hán, cũng không phải là chữ Việt. Thổ là âm của tiếng Pháp tolérance (cũng như thổ mộ là âm của tombereau). Nhà thổ tức là maison de tolérance (nhà chứa đĩ) của Pháp. Xã hội ta thích ứng thật nhanh chóng với mọi hoàn cảnh!
    Vị Xuyên có Tú Xương
    Dở dở lại ương ương
    Cao lâu thường ăn quỵt
    Thổ đĩ lại chơi lường.
Tú Xương đã nắm bắt được chuyển biến của xã hội đương thời, đưa một dịch vụ ăn khách là thổ đĩ vào văn học.

Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê) định nghĩa "nhà chứa" là nơi nuôi gái mãi dâm, tổ chức cho gái mãi dâm hành nghề, trong xã hội cũ. Đúng ra thì phải gọi là gái mại dâm (gái bán dâm), các ông đi chơi gái thì gọi là khách mãi dâm (khách mua dâm). Nhầm lẫn người mua với người bán âu cũng là thói quen đã có từ lâu. Nhưng nếu phân biệt được chủ với khách, người cho với kẻ nhận thì vẫn hơn. Nhất là trong thời buổi nhiễu nhương có cả các cậu, các ông bán dâm cho người cùng phái.

Người Hà Nội gọi các cô gái điếm thời Tây là đượi. Có người cho rằng đượi là nói trại của đười (con đười ươi, cùng họ với khỉ, tườu) vì các cô điếm đầu tóc bù xù, nửa người nửa ngợm, nửa đười ươi. Giải thích này nghe không xuôi tai vì phần đông các cô đượi đều ăn mặc hấp dẫn, son phấn, đầu tóc chải chuốt, phi dê (frisés). Có như vậy mới mong câu được khách chứ. Đầu bù tóc rối như đười ươi (mà đã có ai được thấy đầu tóc đười ươi chưa nhỉ?), thì đến tượng đồng đen, cột nhà cháy nó cũng chê, thì làm sao mà bán trôn nuôi miệng được? Có lẽ đượi chỉ là biến âm của đĩ mà thôi. Đọc trại với ý khinh bỉ và phân biệt. Đượi là me tây, đĩ là me ta. Đượi và đĩ còn có tên là gái ăn sương. Tên nghe khá lãng mạn, nói lên được nỗi vất vả lúc đêm khuya thanh vắng.

Kiếm ăn chung với các cô đượi là bọn ma cô (maquereau), bọn bồi xăm (chambre). Thời Pháp còn có nhà Lục xì. Vũ Trọng Phụng viết tiểu thuyết Làm đĩ (1936) và phóng sự Lục xì (1937) nhưng tiếc rằng Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (Văn học, 1987) không đăng những truyện này nên rốt cuộc vẫn không biết Lục xì là gì. Cái phiền của tuyển tập là vậy! Người khác chọn giùm mình. Cho đọc cái gì thì đọc cái ấy! Tra tìm trong từ điển Hán, Nôm thì không thấy Lục xì. Từ điển Gustave Hue có từ Lục xì nhưng lại không giải thích, chỉ cho biết Lục xì là một từ phon. (tôi đoán phon. là viết tắt chữ phonétique, nghĩa là đọc theo âm). Nếu vậy thì Lục xì có thể là âm cuối của chữ syphilis (bệnh hoa liễu, còn gọi là giang mai, nôm na là bệnh lậu hay tim la). Nhà Lục xì là nơi khám bệnh hoa liễu cho các cô điếm thời Tây.

Thực dân Pháp đem vào nước ta một loại kỹ nữ mới là vũ nữ, các cô gái nhảy, ca ve (cavalière). Gái nhảy phải biết ... nhảy đầm, không cần biết hát. Các cô hành nghề tại các đăng xinh (dancing). Ông nào chồn chân muốn nhảy thì mua vé, chọn gái nhảy. Nhiều cô ... làm thêm giờ phụ trội, nhảy cả tại phòng riêng.

Trở lại với các nàng kỹ nữ.

Chữ kỹ ban đầu còn có nghĩa, còn được dịch là ả đào, đào hát, con nữ phường chèo. Sau này được dịch thẳng là đĩ, con gái mại dâm (Đào Duy Anh), con đĩ nhà thổ (Thiều Chửu).

Kỹ nữ và con đĩ, tuy là đồng hội đồng thuyền, cùng là xướng ca vô loài nhưng cũng được phân biệt đối xử. Những lúc hứng bốc lên dạt dào thì thi sĩ gọi bọn này là kỹ nữ nghe cho thanh tao, lãng mạn! Nói đến kỹ nữ là người ta liên tưởng đến những số phận long đong, lỡ làng. Một kỹ nữ gảy khúc tỳ bà đã làm xúc động ông tư mã Giang Châu. Một kỹ nữ lênh đênh trên sông Hương ngợp ánh trăng đã làm mềm lòng nhiều thế hệ:
    Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa;
    Vội vàng chi, trăng sáng quá, khách ơi!
    Đêm nay rằm: yến tiệc sáng trên trời
    Khách không ở, lòng em cô độc quá.
    Khách ngồi lại cùng em! Đây gối lả
    Tay em đây mời khách ngả đầu say,
    Đây rượu nồng. Và hồn của em đây
    Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử.
    ...
    Lời kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt.
    Cuộc yêu đương gay gắt vị làng chơi.
    Người viễn du lòng bận nhớ xa khơi
    Gỡ tay vướng để theo lời gió nước.
    Xao xác tiếng gà. Trăng ngà lạnh buốt.
    Mắt run mờ, kỹ nữ thấy sông trôi
    Du khách đi.
    - Du khách đã đi rồi!
    (Xuân Diệu, Lời kỹ nữ)
Người ta dễ thông cảm, xót thương cho số phận các nàng kỹ nữ và dửng dưng thậm chí khinh bỉ các nàng kỹ nữ nhập tịch Việt Nam, trở thành con đĩ bình dân!

Thành ngữ, ca dao của ta có rất nhiều câu ám chỉ bọn gái đĩ già mồm. Sau những trận chơi cho thủng trống tầm bông, cho toác toạc toàng toang, các ông không quên núp sau lưng vợ, lên mặt đạo đức khuyên các cô làm đĩ chín phương, để một phương lấy chồng.

Kẻ ít học cũng a dua nói leo vài câu vô nghĩa:
    Đĩ xơ đĩ xác, đĩ xạc đĩ xờ
    Đĩ ở trên bờ, đĩ lặn xuống ao
Cũng có người thành thực hơn, ra mặt chê nhưng đúng hơn là ganh tị với đĩ:

Làm đĩ có tàn, có tán, có hương án thờ vua, có chuông chùa niệm Phật.

Toàn là chê, chửi, trách đĩ. Tha hồ cho sướng miệng!

Ngày xưa người ta gọi trẻ con là thằng cu, cái đĩ. Cu là dương vật. Đĩ là gái làng chơi. Cu và đĩ mang nghĩa xấu, được mê tín ngày xưa dùng với mục đích để ma quỷ chê đứa bé, không ám hại nó.

Ngôn ngữ hiện đại có từ kép đĩ điếm. Điếm nghĩa là cái kho, cái nhà chứa đồ. Đĩ điếm là từ kép nửa Việt nửa Hán, có nghĩa là nhà chứa đĩ hay là ổ mại dâm. Gái làng chơi có thêm tên gọi tắt là gái điếm.

Cuộc đời ba chìm bảy nổi đã hóa thân nàng kĩ nữ thành con đĩ, con điếm.

Người xưa đồng hóa con hát với đĩ điếm và gọi bọn này là xướng ca vô loài.

Năm 1945, bộ trưởng bộ Giáo Dục-Mĩ Thuật Hoàng Xuân Hãn đã làm một cuộc cách mạng văn hóa, đưa hát xướng vào chương trình bậc trung học. Hát xướng trở thành môn học bắt buộc. Xướng ca chính thức thoát khỏi cái nhục vô loài.

Ngày nay nước ta có trường dạy âm nhạc, kịch, tuồng, chèo, cải lương. Đủ các bộ môn xướng ca. Nghệ sĩ xuất sắc được tặng danh hiệu, gắn huân chương. Ai dại mồm dại miệng tuyên bố xướng ca vô loài chắc sẽ bị cả triệu người tát cho vỡ mặt.

Như vậy là nước ta hết đĩ rồi chăng?

Hết làm sao được! Ngày nào còn các cậu, các ông lang bang, thèm của lạ thì ngày đó còn các cô, các bà làm cái nghề xưa nhất trên mặt trái đất này! Xướng ca vừa được phục hồi danh dự, được tôn vinh thì xã hội lại đẻ ra các nàng sờ nách ba (snack bar), bia ôm, mát xa (massage) ... Có người mua thì có kẻ bán, còn người bán thì còn kẻ mua. Ngoạn mục thay cái đèn cù của kinh tế thị trường!

Có điều lạ và bất công là phường chèo, gánh hát có cả kép hát nhưng ngôn ngữ bình dân gần như bỏ quên bọn này. Sách vở của ta chỉ đả động đến con đĩ chứ không nói đến thằng đĩ. Không biết xã hội phong kiến ngày xưa có kỹ nam không? Ngày nay thì nhiều nước có. Không những có kỹ nam mà còn có cả kỹ sư ! Ấy chết, xin đừng vội hiểu lầm là các ông các bà kỹ sư là ... bậc thầy của đĩ ! Chữ kỹ (bộ thủ) của kỹ sư viết khác chữ kỹ (bộ nữ) của kỹ nữ. Kỹ sư là người có tài năng, chuyên về một kỹ thuật gì.

Các cô kỹ nữ, các ông kỹ nam tân thời có tên gọi đáng yêu là ca sĩ. Sĩ này được trọng vọng hơn cả sĩ của "Sĩ, nông, công, thương". Thần tượng của vô số người. Dưới ánh đèn mờ, khói thuốc âm u, nhạc dìu dặt, mơ màng nghe các cô hát, các cô ca, các cô la, thỉnh thoảng được ngắm một cái ngoáy, một cái ưỡn thì chao ôi ... xướng ca quả là sướng quá!

Nguyễn Dư
-----------------------------------
    XƯỚNG CA LÀ LOẠI VÔ LOÀI
    Lính Già Lăng Cha Cả

    Tùy người tùy hạng trên đời mà thôi
    Mỹ Tâm xứng đáng vang trời
    Tay rờ đầu “bác” mỉm cười khinh khi
    Từ chối rước đuốc xưa kia (rước đuốc ở thành Hồ mừng thế vận hội của TC)
    Đồng sàng dị mộng Tâm chê không làm
    Nước ngoài hèn mạt gian tham
    Lệ Thu, Thái Thảo vợ hiền Ngọc Trâu (đầu trâu mặt ngựa)
    Khánh Hà chị ruột cùng tầu
    Về quê hái “hỏng” dép râu chê cười
    Hương Lan khế ngọt ngon sơi
    Chế Linh, tố Cộng ngay nơi quê người
    Rằng là: “lũ Vẹm tanh hôi”
    ‘Dân Chàm hãm hại tôi thời bye bye’
    ‘Năm Hợi chót lỡ đua đòi ‘
    ‘Tôi về bái lậy chúng nơi thành Hồ’
    Trường Vũ, Chí Tài nhi nhô
    Phạm Duy nhạc sĩ côn đồ nhố nhăng
    Bú mồm em vợ hung hăng
    Úi giời đã quá “thụt” tăng ngon lành
    Nhà Bè Nước chẩy trong xanh
    “Ăn chè” xả láng em anh tỏ tình
    Đức Huy khoái tỷ cốm chanh
    Đau như bò đá nhãi ranh lừa kìa (*)
    Ý Lan vác cái mặt xia
    Giả vờ từ thiện đi về lấy le
    Elvis Phương cũng yêu nghề
    Câm như miệng hến hát thuê dưỡng già
    Trịnh Hội có số đào hoa
    Gái cưng cán Cộng thả ga nắn rờ
    Nhạn Gò Công cũng trở cờ
    Nổi danh Góc Trọ Buồn so gái bần
    Phương Dung bái lậy Cộng quân
    Chỉ vì lợi nhuận khổ thân em mà
    Nguyễn Hưng nhẩy nhót qua loa
    Cũng về hái “hỏng” tổ cha Hưng hèn !
    Tuyết Mai heo nái ngứa quen
    Hồi xuân khó chịu về làm Phở Ta
    Chồng kế “bài trả” thua Kỳ
    “Khóc ngoài quan ải mỗi khi tụt quần
    Phú Nhuận trai tráng rất gân
    Trời ơi kích ngất trai tân đã đời
    Thợ nói (MC) khoái tỷ lả lơi
    Chi ra dăm triệu cuộc đời lên hương
    Đơn Dương tên Vẹm chơi lường
    Thanh Lan hình chụp “cởi truồng” to hô
    Phu nhân Hạnh Phước bây giờ
    Kết hôn với giặc bất ngờ khổ đau
    Nhiều bà mạnh phụ qua cầu
    Mắc mưu nghị quyết nào đâu có ngờ
    Hoài Linh nay cháu già Hồ
    Đảng Cộng kết nạp ma cô rẻ tiền
    Còn nhiều tên nữa bon chen
    Rảnh rang post tiếp khắp miền đọc chơi
    Đại hội ca nhạc vé mời
    Hiện diện chúng nó nghỉ chơi không thèm.
    Don Hồ khí phách đáng khen
    Xưa kia vượt biển không quên Cộng thù
    Mười mấy thợ hát quá ngu
    Ra đường cúi mặt rút dù dzọi nhau. (không muốn nhìn ai vì mắc cỡ)
(*). Cô Ca sĩ trẻ măng tên KHÔI mới 22 tuổi trả lời báo chí tỉnh bơ “Tôi đã trường thành, ông Huy đã 62 tuổi. Không ai cầm tay ông Huy đặt vào tay tôi và ngược lai. Tôi phải đánh đổi thân xác của tôi mấy năm nay rồi là quá đủ”. (trích Web. Viễn Xứ)



Phiếm: Chiến tranh hay quả lựu đạn màu ... Bùm! - Nguyễn Duy Thành

Nguyễn Duy Thành

Vẫn chưa kiểm chứng được nguồn tin xuất phất từ đâu mà ngày 18-08-2009, trên các báo điện tử xuất hiện nhiều hình ảnh và tin tức cho rằng Việt Nam và Trung Cộng sắp bùng nổ chiến tranh, và từ đó “đồng bào trên mạng” xôn xao chạy qua chạy về như “chạy giặc” để hỏi han nhau.Vậy, xin làm “Ông Cò Quận 9” cầm “xúp lê” thổi tuýt ... tuýt để bà con đứng lại mà cùng nhau lạm bàn cho “ra nhẽ”, vì chuyện gì trên đời này cũng đều là “cu tý”, nhưng chuyện quốc gia đại sự thì không thể bỏ qua, phải không bà con đọc giả?

Trước hết, xin đặt ra 2 vấn đề để nói.

Phía Việt Nam: Giới quân sự Hà Nội đang ra lệnh tổng động viên và tái ngũ thành phần tuổi từ 18 đến 50, tất cả phải tập trung thao dợt quân sự và học tập chính trị.

Vậy, Việt Nam chuẩn bị quân sự để làm gì, đánh Trung Cộng?

Câu hỏi này cũng là một lập luận, nhưng khả thi hiện thực để cấu thành lý do khởi động cho một cuộc chiến tranh thì không thể, bởi vì Việt Cộng luôn quan niệm con Kiến thì dại gì đấu với con Voi, nếu có cũng là “Gà què ăn quẹt cối xay”, nhất là mọi phương diện của quân đội CSVN hiện nay rất nghèo nàn, hay nói cách khác Việt Cộng không đủ sức mạnh và ý chí để chủ động khai hỏa trong cuộc chiến này, dù là phát súng được bắn đi dưới ý thức và tinh thần bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa khi có “tàu lạ” xuất hiện. Do đó, không cần bàn thêm lập luận này.

Phía Trung Cộng: Tức là Trung Cộng quyết định đánh Việt Nam, nghĩa là dạy cho Việt Nam một bài học thứ hai, bởi từ ngày 17 tháng 2 năm 1979 đến nay chưa đánh đứa đệ tử này lần nào, bây chừ phải đánh cho nó nhớ, để nó thần phục suốt đời. Lý luận này nghe qua rất có lý, nhưng thật thừa thãi, bởi lẽ Trung Cộng có tốn phát đạn nào đâu mà Việt Nam vẫn bị mất Hoàng Sa- Trường Sa và Biển Đông! Sướng hơn nữa là họ không cần máy bay, xe tăng , đại bác nhưng vẫn làm chủ được Tây Nguyên, lại còn viết bảng tiếng Tàu thông báo “Khu vực cấm”. Bố tiên sư thằng nào vào đây thì chết! Mọi chuyện sáng như bóng đèn 500 “ki lô oát”, thì có chi nữa mà đấm đá cu cò, hơn nửa Trung Cộng không dại dột gì chủ động khai mở cuộc chiến vào lúc này, vì:

1. Chủ động mở cuộc chiến tranh với Việt Nam nghĩa là Trung Cộng tự cô lập hóa chính mình, là tự động hiến dâng một đàn em đồng minh tin cậy, một đệ tử trung thành cho đối thủ Hoa Kỳ, nghĩa là tự làm đổ bể luôn kế hoạch bành trướng về khu vực Đông Nam Á, bởi 3 mặt Đông, Tây, Bắc còn lại của Trung Cộng đều bị đồng minh của Hoa Kỳ bịt kín, phần còn lại là sa mạc và đồng khô cỏ cháy, duy nhất họ chỉ phát triển ra phía Việt Nam và biển khơi. Đây là lý do vô cùng quan trọng mà bằng mọi giá Trung Cộng phải bám vào CSVN Việt Nam, dưới chiêu thức vừa dọa vừa ôm, vì lãnh đạo bên “mô” cũng sướng.

2. Hiện tại kinh tế của Trung Cộng phát triển, có khi vượt qua Hoa Kỳ và Nhật Bản. Vì thế, vô cớ đánh Việt Nam là vi phạm công ước quốc tế, chiến tranh sẽ tác động, dẫn đến sự nguy hại và giảm sút quyền lợi của Hoa Kỳ, cũng như các quốc gia có quyền phủ quyết tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, vì các nước này đều đang là đối tác thương mại với Việt Nam, và tác động này cũng ảnh hưởng đến các nhà đầu tư tại quốc nội Trung Cộng. Cho nên, quân phương Bắc chẳng dại gì đập vở chén cơm đang ngon miệng của mình.

3. Cục tình báo Hoa Nam của Trung Cộng đang cấy sâu trong Bộ chính trị của đảng Việt Cộng, họ thừa hiểu nội tình của quốc dân Việt Nam đang muốn lật đổ chế độ Cộng Sản để dân chủ hóa thể chế chính trị, nếu mở cuộc chiến tranh lúc này nghĩa là Việt Nam có cơ hội dân chủ hóa để đi đến thể chế Cộng hòa, khi đó sẽ vô hiệu hóa hết các sự kiện Hoàng Sa - Trường Sa - Biển Đông và Bauxite Tây Nguyên. Xa hơn nữa, sự thay đổi về thể chế chính trị của Việt Nam, sẽ là ngọn lửa thắp lên cho phong trào đòi dân chủ của các sắc tộc tại Tây Tạng-Tân Cương - Vân Nam, tất cả Mông - Hồi- Mãn - Hán xông lên đòi tự trị, và sẽ xé Trung Hoa ra từng mảnh nhỏ như Liên Bang Xô Viết trước đây, cái đại họa căn này là sự lo sợ lớn nhất của chính trị bộ Trung Cộng. Bởi thế, nhóm đầu não Bắc Kinh không dại gì châm lửa để tự đốt mình. Nếu ai đó lập luận theo thời điểm của cuộc chiến Việt-Trung năm 1979, thì thế chiến lược hiện thời xét theo yếu tố chủ quan hay khách quan, nay đã khác xa, xa như ... 30 năm rồi.

Có vô vàn lý do, nhưng chỉ đưa ra 3 điểm căn bản nói trên để thấy rằng, bất cứ một cuộc chiến tranh nào từng xảy ra trên thế giới, đều có các yếu tố là: tất yếu, chọn lựa, chủ động và bị động để tạo thành khói lửa. Xét theo mối quan hệ Việt Trung hiện thời, sự tất yếu hay chọn lựa để mở ra một cuộc chiến tranh đều không nằm ở hai phía, và sự chủ động tất nhiên là nằm ở Trung Cộng. Bởi, phía Việt Nam thì tháng nào cũng có một ông “Quan” trong chính trị bộ đi qua Bắc Kinh, để gặp “Hoàng Thượng” và hô .. vạn tuế .. thì cớ gì họ chủ động bóp cò ... bùm ... bùm ... pằng ... pằng …

Nếu phân tích như trên thì chắc chắn sẽ có câu hỏi đặt ra là:

Tại sao 2 đảng Cộng Sản Việt Nam và Trung Cộng đều chuẩn bị về quân sự? Để trả lời như Bà già chơi bài Tứ Sắc. Vì, không chỉ Việt Nam mà nội tình chính trị của Trung Cộng cũng chẳng êm ấm gì!

Riêng Việt Nam thì có 2 điểm nổi bật nhất là:

Đối Nội: Hơn 60 năm độc đảng cai trị, thì chưa bao giờ Việt Cộng lâm vào tình trạng bị công chúng phản kháng như hiện nay, nỗi lo sợ này có thể kìm hãm và dập tắt bằng bạo lực, nhưng nguy cơ đáng sợ nhất mà chính Việt Cộng tự thú nhận là sự tự thoái hóa của đảng và đoàn viên, từ đó dẫn đến sự “tự diễn biến” trong guồng máy quyền lực. Vì thế, nếu không có sự chỉnh đốn, tăng cường về nhân sự, cũng như biện pháp và cách thức giáo dục về đường lối và chủ trương của đảng, thì rất sớm hệ thống cầm quyền sẽ bị phân hóa và tan rã mỗi khi có biến động, dù là biến động chính trị nhỏ nhất, mặt khác Việt Cộng nhận thức ra được sự đàn áp của họ không thể dập tắt phong trào đấu tranh ôn hòa của Công Giáo đang xảy ra, cũng như các thành phần khác sẽ bùng nổ lớn trong tương lai, việc trá hình dùng “xã hội đen” chỉ tạo ra sự hỗn loạn trong xã hội, có khi sự binh biến xuất phát từ sự bất mãn của quân đội hay công an, hoặc một nhóm cựu lãnh đạo nào đó được sự ủng hộ từ phía người đấu tranh! Bởi thế, lợi dụng ngay vào thời điểm phản kháng, phản đảng đang lên cao. Bộ chính trị ra lệnh xuống Quân ủy quyết định đưa ra chiêu bài yêu nước là có thể giải tỏa, giải độc mọi vấn đề, mọi thành phần. Việt Cộng có được chiêu thức thâm cao, mưu ma chước quỷ này, thì cũng học được từ cha ông của người Trung Cộng, Trong Binh Pháp Tôn Tử có ghi rõ, là đang trong thế bị động có thể biến hóa qua thế làm chủ bằng 4 phương pháp:

1. Làm chủ chí khí; 2. Làm chủ nhân tâm; 3. Làm chủ nhân lực; 4. Làm chủ sự biến đổi.

Xin lấy một ví dụ thực tế để chứng minh và cam đoan nó sẽ xảy ra trong tương lai là. Khi bộ chính trị Việt Cộng nhận được mật báo là ngày G sẽ có một cuộc biểu tình lớn của Công giáo, hay Phật giáo, hay tổ chức đối kháng nào đó, thì lập tức từ trung ương lệnh xuống địa phương phải chọn đúng ngày G, để ra lệnh triệu tập lứa tuổi từ 18 đến 50 phải tập trung học tập chính trị hay thao dợt quân sư, như vậy cuộc biểu tình chỉ còn là người già và đàn bà con gái, vận dụng cách này Việt Cộng không bị mang tiếng với thế giới là dùng “xã hội đen”, nhưng vẫn bẻ gãy được cuộc biểu tình, vì trong tâm lý người ta có thể vắng mặt trong buổi biểu tình, nhưng nhà nước sẽ phạt tù nặng cho những ai chống lại nghĩa vụ quân sự, vì đây là trọng tội, có thể tạm thời tiên đoán trong tương lai gần, các thanh niên, thiếu nữ dưới dạng tuổi này mà thuộc thành phần Công giáo hay Phật giáo, chắc chắn sẽ được nhà nước “ưu tiên mời” tham gia nghĩa vụ quân sự nhiều hơn, thâm độc hết chỗ nói!

Cũng từ chiêu bài bảo vệ đất nước này, Việt Cộng giải tỏa được nhiều dư luận lâu này chỉ trích là đảng yếu hèn, qua đó họ cũng làm suy yếu đi nhân lực của thành phần đối kháng, và điểm quan trọng là họ khéo léo dụ dỗ được nhiều người vào đảng- đoàn cộng sản nhiều hơn.

Đối ngoại: Dùng chiêu bài yêu nước này để “thấu cáy” với đàn anh Trung Cộng, vì lời tuyên bố của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ là “US is back to Asia”, cũng như cuộc viếng thăm quan trọng của Thượng Nghị Sĩ Chủ tịch Đông Á – Thái Bình Dương là Jim Webb có vợ Việt Nam đến thăm quê Bà Xã, chẳng lẽ vị khách thuộc cựu chiến binh Việt Nam này không thuộc cái câu “vuốt mặt phải nể lổ mủi” hay “nhất vợ nhì trời”. Chỉ cần một chút dựa hơi như vậy, thì mấy ông “Quan” Việt Cộng đánh “Xí Tố” với “Hoàng Thượng” Bắc Kinh rồi, với câu nói thẳng thừng “Hoàng Thượng ép “chơi” em vừa vừa thôi, coi chừng chịu không nỗi thì em ly dị theo thằng Mỹ mà khốn đời”. Chuyện chánh sự quốc gia thực sự nó cũng như chuyện nhà, suy luận nôm na là như “Rứa đó”

Từ đó có thể kết luận rằng, chỉ số khả tín để tin có cuộc chiến tranh Việt – Trung ở mức độ rất thấp, có khi là không. Những dấu hiệu qua hình ảnh hay tin tức rò rỉ qua công luận chỉ là một quả Lựu Đạn màu mà thỉnh thoảng Việt Cộng thường ném ra cho nổ ... Bùm ... để giải tán đám đông và cũng cố chế độ, màn kịch này chẳng khác nào tấn tuồng “họp khẩn cấp” để bắt LS Lê Công Định (họp khẩn cấp gì mà trên bàn họp mỗi công an đều có một Ly Bia, mà đã có thời gian ngồi nhậu thì làm sao gọi là khẩn cấp).

Tuy nhiên, đã là con dân nước Việt ly hương khắp bốn phương trời, nay nghe cố quốc sắp có loạn binh đao thì ai mà không thao thức động lòng. Cũng chính vì nắm bắt được yếu tố tâm lý này, mà Việt Cộng hay ném Lựu Đạn màu ra hải ngoại. Nếu vậy, thì đồng bào hải ngoại cũng nên hướng về đảng để “ủng hộ”, bằng cách gởi Email hay điện thoại thông báo cho con cháu, thân nhân và bằng hữu nên viện dẫn mọi lý do an toàn để bất hợp tác với chế độ, cũng nên giải thích cho họ biết là tiếp tay cầm súng chiến đấu cho Việt Cộng là kéo dài sự bất công và tăm tối, ngoài ra các cuộc biểu tình nên tập trung khơi gợi, kêu gọi quốc nội hãy Bài Trung Giải Cộng, khi mọi người chỉa mũi nhọn đấu tranh bắt buộc Việt Cộng cắt đứt quan hệ ngoại giao với Trung Cộng, nghĩa là đánh trúng “Tử Huyệt” cả hai, và tự để họ xâu xé với nhau. Đó cũng là cách “phản pháo” tốt nhất của cộng đồng hải ngoại chống lại những quả Lựu Đạn màu do Việt Cộng ném ra.

Hoặc, đặt một giả định rất xấu rằng, nếu có cuộc chiến Việt - Trung xảy ra, thì biết đâu chính đây là sinh lộ cho tổ quốc và dân tộc Việt Nam! Đồng niệm rằng nhân sinh tự cổ chí kim, mấy ai mong chờ quốc tán gia ly. Nhưng chiến tranh là chiến tranh, tất cả do Việt Cộng gây ra, bây giờ họ phải đối diện. Biết đâu hai anh Cộng đánh nhau thì Việt Nam có thể chế: Cộng Hòa.

Bà con đọc Báo đồng ý không? Xin cho tràng pháo tay để vui ngày giải Cộng.

Thỉnh thoảng tập làm “Gia Cát Lạng” để gởi đến đọc giả đôi lời “đoán Hưu đoán Vượn”, với hy vọng Việt Nam mãi mãi thanh bình, sớm được độc lập và dân chủ.

Kính chúc quý vị yên tâm-vui khỏe.

Nguyễn Duy Thành
(20/08/2009)



Việt Nam: Tư Tưởng Lung Lay, Đảng Bầy Nhầy - Phạm Trần


Phạm Trần

Hoa Thịnh Đốn: - Sau 79 năm họat động, đảng Cộng sản Việt Nam đã tự mãn đến kiêu căng thắng hai Cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhưng xem ra lại đang tự hủy diệt bởi những kẻ nội thù “tự diễn biến” ngay trong lòng Chế độ.

Sự việc này đã được chứng minh bởi chính Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung Ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung Ương và những cán bộ đứng đầu ngành Tư tưởng và Văn hóa của đảng CSVN.

Rứa viết trên Báo Nhân Dân ngày 030/8 (2009) rằng một trong những nhiệm vụ hiện này là phải: “Chủ động phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, bác bỏ các luận điệu tuyên truyền phản động, làm thất bại âm mưu, hoạt động "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn, lật đổ, hình thành lực lượng đối lập của các thế lực thù địch.”

Trước đó tại Hội nghị tổng kết công tác tuyên giáo năm 2008 và triển khai nhiệm vụ năm 2009 (02/03/2009), Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung Ương Đảng cũng yêu cầu cán bộ ngành Tư tưởng phải: “Chủ động phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, bác bỏ các luận điểm tuyên truyền phản động, làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng.”

Đáng chú ý là tuy hai người nói cách nhau 5 tháng, nhưng lại cùng sử dụng một câu giống nhau nên không biết ai viết cho ai, hay có cán bộ nào đó đã mớm lời cho cả hai cùng nói như con Vẹt ?
Sự trùng hợp này không quan trọng bằng việc đảng đã nhìn nhận trong nội bộ hiện nay đang có những cán bộ, đảng viên “tự diễn biến”“tự chuyển hướng”, hay nói cách khác là đã “tự ý đi chệch hướng” ra khỏi lối mòn tụt hậu, lỗi thời và bảo thủ rã rệu của đảng dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh.

Tình trạng tư tưởng trong đảng viên ngày một xuống dốc đã được Sang cảnh giác tại Hội nghị tháng 3/2009: “Hội nghị Trung ương 9 (khoá X) đã thẳng thắn nhắc nhở: “Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, chưa nắm chắc tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là những việc mới phát sinh để kịp thời xử lý. Chỉ đạo, quản lý và hoạt động của báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ còn nhiều hạn chế, yếu kém, việc khắc phục còn chậm. Một số mặt tiêu cực về tư tưởng có biểu hiện phức tạp và nghiêm trọng hơn, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị - xã hội. Các vấn đề văn hoá, giáo dục, đào tạo chưa được quan tâm đúng mức”.

“.... Dự báo tình hình năm 2009 và một vài năm tới có thể sẽ khó khăn hơn năm 2008. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước, sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta quyết liệt hơn. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, những hạn chế, yếu kém trên một số lĩnh vực kinh tế, xã hội chưa được khắc phục, gây khó khăn cho sự ổn định và phát triển đất nước.”

Năm tháng sau, Tô Huy Rứa cũng báo động trên Báo Nhân Dân (3/8/2009): “Xu thế hình thành thế giới đa cực với những tương quan chính trị - kinh tế - quân sự mới ngày càng rõ. Trong bối cảnh đó, cùng với tăng cường hợp tác giải quyết những vấn đề toàn cầu, xu hướng cạnh tranh giữa các nước, nhất là các nước lớn sẽ ngày càng gay gắt, quyết liệt hơn, đặc biệt trên các địa bàn chiến lược, trong đó có Biển Đông. Tình hình mới đó sẽ tác động nhiều mặt đối với nước ta cả tích cực và tiêu cực trong thời gian tới. Dự báo tình hình vài ba năm tới có thể sẽ còn khó khăn hơn do kinh tế thế giới còn tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, do nước ta đã hội nhập sâu vào kinh tế thế giới. Hàng loạt những vấn đề mới, phức tạp đặt ra cần tỉnh táo xử lý trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, mặt khác, các vấn đề an ninh chính trị, an ninh nội bộ, an ninh tư tưởng sẽ diễn biến phức tạp hơn nếu ta không có giải pháp kịp thời, phù hợp. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước sẽ lợi dụng để tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước ta ...”

CÔNG TÁC TRƯỚC MẮT
Bài viết của Rứa được đưa ra để đánh dấu kỷ niệm 79 năm Ngày truyền thống ngành Tuyên giáo (1/8/1930 - 1/8/2009), nhưng đã xẩy ra vào lúc có “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên muốn vượt ra khỏi gông cùm Cộng sản hủ lậu.

Vì vậy, Rứa mới hô hào: “Công tác tư tưởng trong tình hình hiện nay cần tập trung thực hiện có hiệu quả cao mục tiêu vừa cơ bản, vừa cụ thể là góp phần vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng, củng cố, tăng cường sự thống nhất về tư tưởng, chính trị trong Đảng, sự đồng thuận về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tiếp tục giữ vững và mở rộng trận địa tư tưởng của Đảng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy mạnh mẽ sức mạnh của nền dân chủ XHCN. Công tác tư tưởng phải góp phần trực tiếp, tích cực thực hiện có hiệu quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, các tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, phấn đấu từ nay đến Đại hội XI của Đảng ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, khắc phục một bước quan trọng tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.”

Tình trạng suy thoái, mất phẩm chất của nhiều cán bộ, đảng viên còn được cụ thể hóa tại Cuộc hội thảo về “Những giải pháp và điều kiện thực hiện phòng chống suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên” do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức ngày 21-04-2009 tại Hà Nội.

Tạp chí Tuyên giáo viết: “Gần 10 ý kiến trao đổi, thảo luận thẳng thắn những vấn đề đòi hỏi cả lý luận và thực tiễn cần lý giải để tìm ra nguyên nhân căn bệnh suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay. Các ý kiến thảo luận tập trung vào những vấn đề: Những đánh giá trong các văn kiện của Đảng về tình trạng sa sút phẩm chất chính trị, đạo đức của cán bộ, đảng viên; những biểu hiện của sự suy thoái, mức độ, tính chất của sự suy thoái; những điều kiện để phòng, chống suy thoái; đặc biệt các ý kiến thảo luận khá sôi nổi về các nguyên nhân và giải pháp nhằm khắc phục sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên...”

Trước tình trạng suy thoái tư tưởng trong nội bộ đảng CSVN nghiêm trọng như thế này thì cán bộ ngành tuyên truyền phải làm gì ?

Lương Khắc Hiếu, Phó Giao sư, Tiến sỹ ngành Tư tưởng trả lời trên Tạp chí Tuyên giáo ngày 19/07/2009: “Là người trực tiếp truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chính trị của giai cấp công nhân, cán bộ tuyên giáo phải có hiểu biết sâu sắc về lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và khả năng vận dụng chúng vào thực tiễn cách mạng nhà nước. Nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng và những đóng góp sáng tạo của Đảng ta vào kho tàng lý luận cách mạng, hiểu biết những kinh nghiệm lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Có thế giới quan khoa học và niềm tin tư tưởng vững chắc, biết đánh giá đúng đắn các hiện tượng và quá trình xã hội đang diễn ra theo lập trường của giai cấp công nhân và của Đảng.

Cần có những hiểu biết cần thiết về những quan điểm tư tưởng khác nhau và đấu tranh không khoan nhượng với quan điểm tư tưởng đi ngược lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và trái với hệ tư tưởng Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có dũng khí đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, không dao động trước sự tấn công của kẻ thù tư tưởng, trước âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.”

Phản ảnh về tình trạng yếu kém của ngành tuyên truyền hiện nay, Phùng Hữu Phú, Ủy viên TƯ Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung Ương nhìn nhận với Báo Điện tử Trung ương đảng ngày 31/7 (2009): “Tuy có nhiều thành tựu đóng góp vào sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước nhưng trong những năm qua, ngành Tuyên giáo vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót so với yêu cầu, so với mong muốn của Đảng.

Đội ngũ Đảng viên còn nhiều yếu kém, bất cập, độ nhanh nhạy còn hạn chế. Có những lúc chúng ta còn bị động trước những tình huống nảy sinh trong thực tiễn. Chúng ta chưa đủ sức lý giải một cách thuyết phục những vấn đề phức tạp nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày. Chúng ta đấu tranh chưa đủ mạnh, chưa đủ sức thuyết phục với những luồng tư tưởng trái chiều và những luận điệu xuyên tạc, vu khống của những thế lực thù địch, cho nên trên chặng đường phía trước, chúng ta còn rất nhiều việc phải làm, rất nhiều việc phải phấn đấu.”

Chẳng có ai thèm vu khống cho đảng CSVN với những hành động áp bức, hãm hại dân do chính cán bộ, đảng viên gây ra. Cũng chẳng có “thế lực thù địch”, hay “diễn biến hòa bình” nào có thể ngụy tạo ra được những hành động gây chia rẽ, hận thù giai cấp do đảng CSVN chủ động.
Và ngòai bản thân tham nhũng, thối nát của đảng, không ai có khả năng tạo được “những luồng tư tưởng trái chiều và những luận điệu xuyên tạc” để lũng đọan, tha hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Vì vậy nếu có nhiều đảng viên đang “tự diễn biến” , “tự chuyển hóa” thì cũng là chuyện bình thường. Ngay trong lòng đảng mà đã rỗ như tổ Ong thì còn chỗ nào lành để không hòa tan ? .

Phạm Trần