Wednesday, August 19, 2009

Tài liệu tham khảo nhân ngày Đại Hội Luật Gia vào Chủ Nhật ngày 23/8/2009 tại California - Ls Nguyễn Hữu Thống

Ls Nguyễn Hữu Thống

Nhân ngày Đại Hội Luật Gia tại California vào Chủ Nhật tới đây, LS Nguyễn Hữu Thống xin gửi quý bạn để tham khảo 2 tài liệu song ngữ có tính lịch sử như sau:

1. Bản Thông Điệp Ngày Quốc Hận 1980 đòi nhà cầm quyền Hà Nội phóng thích các tù cải tạo.
2. Bài Luật Pháp và Trật Tự tại Biển Đông Nam Á kêu gọi các quốc gia Đông Nam Á đề xướng và thực thi Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển theo tinh thần Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.

LUẬT SƯ NGUYỄN HỮU THỐNG GỞI LUẬT SƯ NGUYỄN HỮU THỌ THÔNG ĐIỆP NGÀY QUỐC HẬN 1980

Ls. Nguyễn Hữu Thống
Nhân ngày Quốc Hận 30-04-1980, tại tiền đình Tòa Đô Chánh San Francisco, nhân danh Hội Luật Gia Việt Nam tại California, Luật Sư Nguyễn Hữu Thống đã gởi bản Thông Điệp Ngày Quốc Hận cho Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ, đương kim Chủ Tịch Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Trong chuyến công du và thăm viếng đồng bào tại Thái Lan, để trả lời câu chất vấn của báo chí về việc Đảng Cộng Sản bắt giam trái phép tại các trại cải tạo hàng trăm ngàn trí thức văn nghệ sĩ, quân nhân, công chức và cán bộ Việt Nam Cộng Hòa trong thời gian vừa qua, Luật Sư Thọ đại diện Nhà Nước đã ngụy biện rằng: những phần tử ngụy quân ngụy quyền này đáng lẽ đã bị thanh toán đồng loạt. Tuy nhiên do chính sách khoan hồng của Đảng và Chính Phủ, chúng tôi chỉ tập trung họ trong các trại cải tạo để giáo dục họ về đường lối chính sách của Đảng thay vì phải thẳng tay trừng trị.

Để trả lời luận điệu ngoan cố này, Luật Sư Thống đã gởi Luật Sư Thọ bản Thông Điệp Ngày Quốc Hận, nguyên văn như sau:

Nhân ngày Quốc Hận 30 tháng 4 năm 1980, thay mặt Hội Luật Gia Việt Nam tại California, trụ sở tại Vùng Vịnh Cựu Kim Sơn, Luật Sư Nguyễn Hữu Thống tuyên đọc bản Thông Điệp Ngày Quốc Hận gởi Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam để cảnh giác Luật Sư Thọ và Chính Phủ Hà Nội về một số nguyên tắc pháp lý cơ sở được coi là nền tảng tổ chức và sinh hoạt tại các quốc gia văn minh trên thế giới.

1. QUYỀN ĐƯỢC SUY ĐOÁN LÀ VÔ TỘI

Theo Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, mọi người đều được hưởng quyền suy đoán vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai tại tòa án với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ.

Hơn nữa không ai có thể bị bắt giữ, giam cầm hay lưu đày độc đoán về một tội hình sự do những điều đã làm, nếu những điều này không cấu thành tội hình sự chiếu luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế, luật pháp quốc tế là những nguyên tắc luật pháp tổng quát được thừa nhận bởi cộng đồng các quốc gia văn minh (như Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 1948 hay Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị do Liên Hiệp Quốc biểu quyết thông qua năm 1966 và đã có hiệu lực chấp hành từ 1976).

Đã từng hành nghề, Luật Sư Thọ chưa thể quên nguyên tắc suy đoán vô tội của người dân. Quyền này phải được áp dụng cho hàng trăm ngàn quân cán chánh và trí thức văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Những người này không phạm tội hình sự nào nên không thể bị bắt giam, và làm lao động khổ sai để đọa đày thân xác. Trong chiến tranh vừa qua, họ chỉ thi hành nghĩa vụ công dân là bảo vệ đất nước và chế độ cộng hòa dân chủ chống chiến tranh xâm lược do Quốc Tế Cộng Sản phát động qua Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Nếu vì địa vị hay không tưởng mà lãng quên nguyên tắc này thì Luật Sư Thọ ngày nay là kẻ lầm đường lạc lối và đã phản bội lời tuyên thệ khi gia nhập Luật Sư Đoàn Sàigòn cam kết sẽ thượng tôn Luật Pháp, bảo vệ Công Lý và những nguyên tắc hành nghề căn bản của người luật sư như Chính Trực, Vô Tư và Ôn Hòa.

2. QUYỀN TỰ DO NHÂN THÂN

Cũng theo Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền mọi người sinh ra tự do và bình đẳng và phải đối xử với nhau trong tình bác ái. Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do thân thể và an ninh thân thể. Không ai có thể bị tra tấn hành hạ và bắt giam độc đoán. Không ai có thể bị câu thúc lưu đày hay hành quyết nếu không có bản án chung thẩm kết tội do một tòa án độc lập tôn trọng quyền biện hộ của bị cáo. Những quyền này phải được áp dụng cho các tù nhân chính trị mệnh danh là tù cải tạo.

Khi cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ kết thúc, những người thắng trận Miền Bắc cũng không hành hạ, bắt giam, nhục mạ hay tước đoạt tự do và tài sản của các đồng bào thất trận Miền Nam.

2. QUYỀN TỰ DO ĐI LẠI VÀ XUẤT NGOẠI

Đây là một trong những quyền bất khả xâm phạm của con người được quy định trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền:

Ai cũng có quyền tự do đi lại và cư trú trong lãnh thổ quốc gia. Ai cũng có quyền xuất ngoại và hồi hương.

Hiện nay Chính Phủ Hà Nội đã trắng trợn vi phạm những quyền tự do căn bản này bằng cách tước đoạt quyền sống, quyền tự do xuất ngoại của hàng trăm ngàn đồng bào đã phủ nhận cái sống để cầm cái chết vượt biển ra đi.

Hơn nữa hàng chục ngàn đồng bào khác có thân nhân tại hải ngoại, đã hoàn tất thủ tục đoàn tụ gia đình nhưng hồ sơ của họ vẫn bị Nhà Nước ếm nhẹm hay bác bỏ vô duyên cớ.

VÌ NHỮNG LÝ DO NÓI TRÊN

Chúng tôi, Hội Luật Gia Việt Nam tại California gồm 106 hội viên, bằng Thông Điệp này, long trọng cảnh giác Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam về các nguyên tắc pháp lý, tinh thần và đạo lý nêu trên. Đồng thời khuyến cáo Luật Sư Nguyễn HữuThọ hãy dùng thẩm quyền nếu có của mình để:

1. Tôn trọng Quyền Sống, Quyền Tự Do Thân Thể và An Ninh Thân Thể bằng cách trả tự do cho các lương dân vô tội còn bị câu thúc, giam giữ và lưu đày tại các trại tập trung và lao động cưỡng bách mệnh danh là trại cải tạo.
2. Tôn trọng Quyền Tự Do Đi Lại và Tự Do Xuất Ngoại của đồng bào có thân nhân muốn đoàn tụ gia đình tại quốc ngoại.

Cựu Kim Sơn, ngày 27 tháng 4, 1980
T.M. Hội Luật Gia Việt Nam tại California
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống


TESTIMONIAL FOR PRISONERS OF CONSCIENCE
NGUYEN HUU THONG, ESQ.
MESSAGE FROM ATTORNEY NGUYEN HUU THONG TO ATTORNEY NGUYEN HUU THO ON THE NATIONAL DAY OF SHAME 1980

On April 27, 1980, in commemoration of the National Day of Shame, Attorney Nguyen Huu Thong sent a message from the vestibule of San Franciscos City Hall to Attorney Nguyen Huu Tho, current President of the Socialist Republic of Vietnam, on behalf of the California Vietnamese Lawyers Association, Inc.

During Attorney Nguyen Huu Thos official visit to Thailand, the press corps asked him about the fact that the Vietnamese Communist Party had recently illegally imprisoned hundreds of thousands of intellectuals, writers, artists, military personnel, public servants, and cadres of the Republic of Vietnam in reeducation camps. Attorney Tho, as spokesman for the Government, used specious reasoning to declare that: In fact, these rebellious elements should have been eliminated en masse. However, thanks to the extraordinary leniency of the Government, we have only gathered them in reeducation camps to educate them in the ways of our Government policy instead of punishing them harshly.

In response to this outrageous argument, on April 27, 1980 on behalf of the California Vietnamese Lawyers Association, which is headquartered in San Jose, California Attorney Nguyen Huu Thong openly read the 1980 National Day of Shame Message that he had sent to Attorney Nguyen Huu Tho, President of the Socialist Republic of Vietnam. He did so to raise the awareness of Attorney Tho and of the Hanoi Government regarding several basic legal principles that are considered to be the foundation for the organization and activities of civilized countries around the world.

THE RIGHT TO THE PRESUMPTION OF INNOCENCE

According to the Universal Declaration of Human Rights of the United Nations, all individuals have the right to be presumed innocent until all the evidence of guilt is presented in a public trial to a court, with all the necessary guarantees for the rights of the defense.

In addition, no individual can be arrested, detained, or exiled arbitrarily for alleged criminal acts unless those acts constitute a crime according to national or international codes of law, where international laws are general principles recognized by the international community of nations. These principles include those that are stipulated in the Universal Declaration of Human Rights of 1948 and the International Covenant on Civil and Political Rights which the United Nations passed in 1966 and ratified in 1976.

Having practiced as a lawyer at the Saigon Court of Appeals, Attorney Tho cannot possibly have forgotten the principle of presumption of innocence. This right must be applied to hundreds of thousands of soldiers, cadres, intellectuals, writers, and artists from the Republic of Vietnam. These people have committed no crimes and, therefore, should not be imprisoned or forced to do physically destructive hard labor in reeducation camps. In the recent war, they only carried out their civic duty to protect their country and the regime of the democratic republic against an aggressive invasion by the International Communists acting through the Vietnamese Communists.

Today, because of his position or for utilitarian reasons that have led him to forget this principle, Attorney Tho has lost his way. He has betrayed the pledge he made when he joined the Bar Association of Saigon to uphold the Law, protect Justice, and honor the spiritual principles such as Truthfulness, Impartiality, and Conciliation which guide members of the legal profession.

THE RIGHT TO PERSONAL LIBERTY

The Universal Declaration of Human Rights also stipulates that all individuals are born free and equal and must treat one another in the spirit of fraternity. Everyone has the right to life, the right to liberty, and security of person. No one should be tortured or detained arbitrarily. No one should be detained, exiled, or executed without indictment of the highest instance by an independent court which respects the accused 's right to defend himself. These rights must be applied to all political prisoners in so called reeducation camps.
In the middle of the 19th Century, when the American Civil War ended, the victors from the North did not mistreat, imprison, humiliate, or seize the freedom and properties of the vanquished soldiers from the South.

THE FREEDOM OF RESIDENCE AND MOVEMENT, AND THE FREEDOM TO TRAVEL ABROAD

These freedoms constitute inalienable rights of individuals and were unequivocally stipulated in the Universal Declaration of Human Rights.

Everyone has the right to freedom of residence and movement within the national territory. Everyone is free to travel abroad and to repatriate.

Currently, the Hanoi Government has flagrantly violated these basic rights to freedom by usurping the right to life and the freedom to travel abroad by hundreds of thousands of people who have rejected this government and risked their lives when escaping by boat.

Moreover, tens of thousands of others with relatives abroad have completed the procedures to reunite with their families, but their applications are delayed unnecessarily or rejected without proper justification.

FOR THE REASONS MENTIONED ABOVE

We, the California Vietnamese Lawyers Association, with a total membership of 106 attorneys, by this message solemnly remind Attorney Nguyen Huu Tho, President of the Socialist Republic of Vietnam, about the legal, spiritual, and moral principles listed above. At the same time, we recommend that Attorney Nguyen Huu Tho use his authority, if he has any, to:

Respect the Right to Life and the Right to Liberty and Security of Person by releasing the innocent, law-abiding citizens still detained, imprisoned, and arbitrarily exiled to concentration camps and forced labor camps euphemistically called reeducation camps.

Respect the Right to Freedom of Movement and the Right to Travel Abroad of people who have relatives overseas and want to reunite with their families.

Read from San Francisco, California on April 27, 1980
ON BEHALF OF THE CALIFORNIA VIETNAMESE LAWYERS ASSOCIATION
Attorney Nguyen Huu Thong

---- o0o ----

LUẬT SƯ NGUYỄN HỮU THỐNG GỬI VĂN THƯ CHO TỔNG THỐNG FIDEL RAMOS VỀ VẤN ĐỀ LUẬT PHÁP VÀ TRẬT TỰ TẠI BIỂN ĐÔNG NAM Á

Ngày 14-07-1995, nhân kỳ Đại Hội ASEAN tại Brunei, Luật Sư Nguyễn Hữu Thống, Chủ Tịch Hội Luật Gia Việt Nam tại California đã gửi văn thư cho 7 vị nguyên thủ quốc gia trong Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á là Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Brunei, Tân Gia Ba, Thái Lan và Việt Nam để trình bày về vấn đề giải quyết các vụ tranh chấp tại Biển Đông Nam Á theo những quy luật dự liệu trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982.

Theo các quan sát viên quốc tế, văn thư này đưa ra giải đáp ưu tiên hàng đầu cho vấn đề tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Bằng cách dùng phương thức tranh nghị để đi đến hòa bình. (The Discussion Proceeds for Peace).

Dưới đây là văn thư của Luật Sư Nguyễn Hữu Thống gửi Tổng Thống Phi Luật Tân Fidel Ramos:

Thưa Tổng Thống,

Nhân danh Hội Luật Gia Việt Nam tại California, chúng tôi xin trình bày cùng Tổng Thống vấn đề tranh chấp tại quần đảo Trường Sa.

7 năm trước đây, có trận hải chiến giữa Việt Nam và Trung Quốc tại vùng biển Trường Sa. Trong dịp này Trung Quốc đòi chủ quyền lãnh thổ tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và đã chiếm cứ một số hải đảo gây nên mâu thuẫn và tranh chấp giữa Trung Quốc với Việt Nam và Phi Luật Tân.

Mới đây Trung Quốc còn lấn chiếm một số cồn, đá, bãi toạ lạc tại thềm lục địa Phi Luật Tân như Mischief Reef, Half Moon Shoal, Sabina Shoal và Jackson Bank. Hành động này đe dọa an ninh toàn vùng Đông Nam Á và cản trở sự tự do giao thương tại Biển Nam Hải.

Từ 3 năm trước, Trung Quốc cũng xâm chiếm một vùng biển tại Bãi Tứ Chính (Vanguard Bank) mà họ gọi là Bãi Vạn An (Wanan Bei) để tự tiện nhượng quyền khai thác dầu khí cho Hãng Crestone. Vùng bãi này nằm trong Thềm Lục Địa Việt Nam cách bờ biển 190 hải lý về phía đông nam.

Phía đông Bãi Tứ Chính nơi Hãng Crestone đang khai thác dầu khí là quần đảo Trường Sa, đối tượng tranh chấp giữa Trung Quốc, Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai, Brunei, Nam Dương và Đài Loan.

Lưỡi Rồng Trung Quốc hình chữ U, mà Bắc Kinh gọi là “Đặc Khu Hành Chánh Hải Nam”, chiếm 80% Biển Nam Hải, phía đông giáp Phi Luật Tân, phía tây giáp Việt Nam và phía nam giáp Mã Lai, Brunei và Nam Dương, điểm xa nhất cách Hoa Lục 1,100 hải lý (hay 2000km). Hành động như vậy Trung Quốc coi Biển Nam Hải là nội hải của họ (internal waters), cũng như Đế Quốc La Mã ngày xưa gọi Địa Trung Hải là “Biển Của Chúng Tôi” (Mare Nostrum).

Chiếu Điều 57 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, các quốc gia duyên hải có đặc quyền đánh cá tại Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý (Exclusive Economic Zone).

Chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, các quốc gia duyên hải có đặc quyền thăm dò và khai thác dầu khí tại thềm lục địa (continental shelf) kéo dài từ 200 hải lý đến 350 hải lý, nếu về mặt địa hình, thềm lục địa là sự tiếp nối tự nhiên của nền lục địa (continental margin) từ đất liền ra ngoài biển. Về mặt pháp lý các quốc gia duyên hải đã ký kết hay tham gia Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển đương nhiên được hưởng quy chế thềm lục địa pháp lý 200 hải lý. Đó là trường hợp của các quốc gia Đông Nam Á như Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Brunei, Tân Gia Ba, Thái Lan và Việt Nam (Việt Nam đã đăng ký thềm lục địa pháp lý 200 hải lý từ năm 1982).

Chiếu Điều 77 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển các quốc gia duyên hải có chủ quyền tuyệt đối tại thềm lục địa để thăm dò và khai thác những tài nguyên thiên nhiên. Đây là đặc quyền chuyên hữu theo đó không ai có quyền thăm dò và khai thác dầu khí nếu không có sự ưng thuận minh thị của quốc gia duyên hải. Những quyền này không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm cứ hay công bố minh thị.

Điều 81 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển một lần nữa xác nhận chủ quyền tuyệt đối và đặc quyền chuyên hữu của quốc gia duyên hải trong việc tự mình đứng ra thăm dò và khai thác dầu khí, hay ký hiệp ước cộng tác với các quốc gia đệ tam về những dịch vụ này.

Chiếu nguyên tắc “các hiệp ước quốc tế phải được tôn trọng”, Điều 26 Công Ước Vienna về Luật Hiệp Ước (1969) quy định như sau: “Các hiệp ước có hiệu lực chấp hành buộc các quốc gia kết ước phải ngay tình thi hành hiệp ước”. Ủy Ban Liên Hiệp Quốc về Luật Quốc Tế coi đó là “một nguyên tắc căn bản về luật hiệp ước, có lẽ là nguyên tắc quan trọng nhất trong công pháp quốc tế”.

Chiếu nguyên tắc về giá trị thượng tôn của Luật Quốc Tế đối với Luật Quốc Nội, các quốc gia kết ước phải thực sự thi hành những quyến hạn và nghĩa vụ ghi trong các hiệp ước hay công ước quốc tế . Họ không thể viện dẫn luật quốc nội để khước từ thi hành nghĩa vụ của họ ghi trong các hiệp ước và công ước quốc tế mà họ đã ký kết hay tham gia.

Đó chính là trường hợp của Trung Quốc. Sau khi ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, 10 năm sau, năm 1992, Bắc Kinh ban hành Luật Quốc Gia về Biển (Domestic Law of the Sea) xâm phạm chủ quyền lãnh thổ tại các Thềm Lục Địa Việt Nam và Phi Luật Tân, cũng như tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Những vi phạm luật biển phải được đệ trình Tòa Án Quốc Tế (The Hague) hay các Tòa Án Luật Biển thiết lập do Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.

Muốn giải quyết những mâu thuẫn và tranh chấp về thềm lục địa, về hải phận hay về hải đảo, các quốc gia đương tụng phải, trước hết, tuân hành những phương thức ôn hòa như điều đình, hòa giải, thương nghị hay trọng tài.

Ngoài ra Tòa Án Quốc Tế cũng có thẩm quyền giải thích và áp dụng những điều khoản của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển có hiệu lực chấp hành từ năm 1994.

Sự giải quyết tranh chấp bằng những phương pháp ôn hòa như hòa giải, thương nghị, trọng tài hay tố tụng sẽ giúp cho Đông Nam Á khỏi biến thành vùng tranh chấp thường xuyên như Trung Đông. Với việc sử dụng luật pháp (pháp trị) thay thế việc sử dụng võ lực (phi pháp), Đông Nam Á sẽ có cơ may được hưởng một kỷ nguyên hòa bình, ổn định, hợp tác và phồn thịnh.

Nhân dịp này chúng tôi cũng thỉnh cầu các quốc gia hội viên trong Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á ra quyết định đổi danh xưng Biển Nam Hải thành Biển Đông Nam Á. Danh từ Nam Hải chỉ áp dụng cho Trung Quốc. Đối với Việt Nam nó có tên là Biển Đông. Đối với Tân Gia Ba, Nam Dương, Mã Lai và Brunei nó là Bắc Hải. Đối với Phi Luật Tân nó là Biển Tây.

Hơn nữa danh xưng Nam Hải có thể bị ngộ nhận và giải thích sai lạc là Biển của Trung Hoa về phía Nam.

Hãy trả Caesar những gì của Caesar.
Và hãy trả Biển Đông Nam Á cho các Quốc Gia Đông Nam Á.

Chúng tôi xin cám ơn sự chú tâm của Tổng Thống về vấn đề này.

Kính thư,

Thay mặt Hội Luật Gia Việt Nam tại California
Chủ Tịch,
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống.


Nguyen Huu Thong
[ Home ] [ Up ] [ Covington&Burling ] [ Nguyen Huu Thong ]
In the Matter of Law & Order in Southeast Asian Sea
(Attorney at Law Nguyen Huu Thong)

Editorial Note: Attorney at Law Nguyen Huu Thong, President of the Vietnamese Lawyers Association, Inc. in San Jose, recently sent to leaders of South East Asian governments a letter to urge them to submit the matter South East Asian Sea conflict to an international tribunal. Following is his letter to President Fidel Ramos of the Philippines.

CALIFORNIA VIETNAMESE LAWYERS ASSOCIATION, INC.
San Jose, July 14, 1995

President FIDEL RAMOS
c/o Philippine Consulate General
447 Sutter Street, Sixth Floor San Francisco, CA 94108
RE: Law and Order in Southeast Asian Sea.

Dear Mr. President:

On behalf of the California Vietnamese Lawyers Association, I would like to submit for your consideration on the Spratly conflict.
Seven years ago there was a naval battle between China and Vietnam in the Spratly Islands. China’s declaration of sovereignty over the Paracels and the Spratlys and their occupation by Chinese navy have sparkled conflict with Vietnam and the Philippines.
Recently, the incidents at Mischief Reef, Half Moon Shoal, Sabina Shoal and Jackson Bank on the Philippine continental shelf have threatened the security of the area and the freedom of navigation in the South China Sea.
At Vanguard Bank called Tu Chinh or Wanan Bei, China and Vietnam are claiming a potentially oil rich tract that China awarded to Crestone Corporation three years ago. That tract lies on Vietnam’s continental shelf about 190 nautical miles southeast of Ho chi Minh City.

The Spratly Islands, east of the disputed Crestone contract area, are contested by a number of countries including China, Vietnam, the Philippines, Malaysia, Brunei and Taiwan.
The "U Shaped" area of Nan Hai (South Sea) known as the "Dragon Tongue" claimed by China as "Hainan Special Administration District" encompasses 80% of the South China Sea, eastward to the Philippines, westward to Vietnam and southward to Malaysia, Brunei and Indonesia, the farthest spot having a distance of 1,100 nautical miles (2000 Km) from mainland China. By doing so, China has considered the South China Sea as its "internal waters", the same way as the Roman Empire called the Mediterranean Sea "Mare Nostrum" (our sea).
By international law, pursuant to Article 57 of the United Nations Convention on the Law of the Sea (1982) (LOS Convention), all coastal states, have been granted exclusive fishing rights in the Exclusive Economic Zone extending 200 nautical miles from shore.
Article 76 of the LOS Convention gives coastal states exclusive rights to drill for oil and gas in the continent shelf up to 350 nautical miles from their coasts. The continental shelf comprises the sea bed and subsoil of the submarine areas that extend throughout the natural prolongation of its land territory to the outer edge of the continental margin, or to a distance of 200 nautical miles from the baselines. For those coastal states who have not-declared a continental shelf of up to 200 nautical miles from the baselines, they are entitled to it ab initio, ipso facto and ipso jure under customary international law, and the 1982 Law of the Sea Convention to which they are signatories (See the Libya/ Malta Continental Shelf Case, ICJ Report 1985, 13). These are the cases of the Philippines, Indonesia, Singapore, Malaysia, Brunei and China (Vietnam has declared its continental shelf of 200 nautical miles from the baselines in 1982).
That 200-nautical miles continental shelf is called the Legal Continental Shelf.
Article 77 of the LOS Convention gives sovereign and exclusive rights to the coastal states over the continental shelf:
1. The, coastal State exercises sovereign rights over the continental shelf for the purpose of exploring it and exploiting its natural resources.
2. These rights are exclusive in the sense that if the coastal State does not explore the continental shelf or exploit its natural resources, no one may undertake these activities without the express consent of the coastal State.
3. The rights of the coastal State over the continental shelf do not depend on occupation, or on any express proclamation.
Concerning the drilling on the continental shelf, Article 81 of the LOS Convention provides that "the coastal State shall have the exclusive right to authorize and regulate drilling on the continental shelf for all purposes".

The Rule Pacta sunt servanda applies for the observance of treaties.
Article 26 of the Vienna Convention on the Law of Treaties (1969) declares that "every treaty in force is binding upon the parties to it and must be performed by them in good faith".
The United Nations International Law Commission in its commentaries to this rule, characterized it as a "fundamental principle of the law of treaties, perhaps the most important principle of international law". (See 1966 Report on the I.L.C. reproduced in 61 Am. Int’l L. 248 at 334)(1967).
According to the rule of supremacy of international law, the rights and obligations-which a state has, by international law are, on the international plane, superior to any rights or duties it may have under its domestic law. Article 27 of the Vienna Convention provides that "a party may not invoke the provisions of its internal law as justification for its failure to: perform a treaty". That failure to perform would constitute a breach of international law requesting remedies with provisional measures in case the urgency of the situation required it.
Therefore, China should not invoke its domestic Law of the Sea promulgated in 1992 to encroach upon the Vietnamese and Philippine Continental Shelves and the whole Spratly and Paracel archipelagoes. These violations of the law of the sea should be submitted to the International Court of justice or the International Tribunal For the Law of the Sea for the resolution of disputes in case the parties do not reach an agreement by negotiation and conciliation. The International Court Tribunal has jurisdiction over the matters relating to the interpretation or application of the LOS Convention. Until December 1982, the Convention was signed by 119 states. It has come into force on November 16, 1994 after its ratification by 60 states.

On July 29, 1994, the United States signed the Agreement Relating to the Implementation of Part XI of the LOS Convention. Last October, President Bill Clinton transmitted a letter to the U.S. Senate asking its consent to accession to the LOS Convention.

The settlement of these disputes by peaceful means such as negotiation. conciliation and judicial proceed 9 would keep Southeast Asia from becoming another Middle East. With the rule of law taking the place of the use of force, Southeast Asia may soon experience a period of peace, stability, cooperation and prosperity.

I would like to seize this opportunity to propose that you change the name "South China Sea" to "Southeast Asian Sea'. The appellation of South Sea (Nan Hai) is good only for China; the East Sea (Bien Dong) applies only to Vietnam. As for Singapore, Indonesia, Malaysia and Brunei, it should called North Sea; and for the Philippines, the correct name be West Sea.
Furthermore,, the name South China Sea could be interpreted erroneously as the Sea of China in the South.

Let us give to Caesar what belongs to Caesar, and give Southeast Asian Sea to the Southeast Asian countries.

Thank you for your attention to this matter,

Yours sincerely,
For the California Vietnamese Lawyers Association
The President,
NGUYEN HUU THONG
Attorney at Law.



Tuesday, August 18, 2009

Thử Tìm Hiểu Lý Do Tại Sao Sau 34 Năm Cộng Sản Vẫn Còn Tồn Tại - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Theo Tướng Do Thái Moshe Dayan, ‘Miền Nam muốn thắng cộng sản thì phải trở thành cộng sản trước đã’. Một câu nói có lý vì trước năm 1975, người Miền Nam không hiểu biết gì nhiều về thủ đoạn cai trị cũng như chưa chứng kiến tận mắt hành động cộng sản làm. Nhưng sau khi chính thể Việt Nam Cộng Hòa rơi hẳn vào tay kẻ thù, dù chỉ một thời gian rất ngắn nhưng Miền Nam đã thật sự sáng hẳn mắt ra. Từ ngày đó đến nay, 34 năm, tôi vẫn chờ cảnh tức nước vỡ bờ xảy ra trên quê hương Việt Nam, nhưng buồn thay, đất nước chúng ta vẫn quằn quại dưới gông cùm của chế độ cộng sản.

Trở lại câu nói của tướng Dayan để tìm hiểu lý do tại sao ‘Miền Nam muốn thoát khỏi chế độ cộng sản thì phải trở thành cộng sản’ trước. Phải chăng câu nói của vị tướng nầy muốn ám chỉ rằng người Miền Nam ‘chưa thấy quan tài chưa đổ lệ’. Một đất nước mà chính quyền bị tôn giáo và thành phần phản chiến trá hình bó tay: Ngoài mặt trận người lính chiến đấu ngày đêm chống quân thù cộng sản thì hậu phương dân chúng lại biểu tình chống chiến tranh, đòi trung lập và hòa giải với kẻ thù. Sau năm 1975 người Miền Nam dưới chế độ cộng sản đã ‘thấy quan tài’ ‘đã đổ lệ’, nhưng tại sao trên ba mươi bốn năm qua kẻ thù vẫn còn ngự trị trên đất nước chúng ta ? Đây là ba điểm chính tôi xin trình bày hôm nay.

1. Những lý do đưa đến việc mất nước một cách nhanh chóng

Nhiều người cho rằng chính người Mỹ phản bội chúng ta, giữa đường đóng cửa rút cầu và gấp rút tháo chạy. Đúng, tôi đồng ý những ý kiến nầy nhưng xin phép đi sâu vào vài chi tiết chung quanh tình hình quân sự cũng như chính trị thời đó để tìm ra những lý do khác đưa đến sự sụp đổ nhanh chóng của chính thể Miền Nam Việt Nam.

Tình trạng Miền Nam trước năm 1975:

Trên địa bàn chiến lược, Mỹ đang đối đầu với sự bành trướng của khối cộng sản. Liên Bang Sô Viết lúc bấy giờ đang thống trị các nước Đông Âu cũng như âm mưu hướng về phía Đông-Nam-Á, thì vì quyền lợi, Mỹ phải âm thầm bắt tay với Trung cộng để chia đôi thế lực khối cộng ra làm hai. Chính điểm nầy, Việt Nam là con bài phải xử dụng để dứt điểm một cuộc chiến tranh vừa xa xôi tốn kém vừa phí phạm nhân lực trước sự chống đối mãnh lực của dân chúng cũng như quốc hội Mỹ. Trong lúc đó các phong trào phản chiến tại Mỹ, Châu-Âu cũng như giới truyền thông thế giới gây áp lực chính phủ Mỹ đối với Việt Nam càng ngay càng lan rộng và Washington thì cần phiếu của cử tri cho các cuộc bấu cử sắp đến, do đó Mỹ phải quyết định ra đi vội vàng trong danh dự bằng cách vừa bán cái chiến trường cho chính phủ Việt Nam và vừa cột tay QLVNCH giữa lúc tình hình quân sự đang đến hồi quyết liệt trên các trận địa. Nhưng giải pháp tồi tệ và vô trách nhiệm của Mỹ là cắt viện trợ và buộc Việt Nam Cộng Hòa ngồi ngang hàng với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đồng thời còn áp lực chính phủ Nguyễn Văn Thiệu phải nhận ký vào hòa thỏa ước ngưng bắn mà lợi thế nghiêng hẳn về phía Hà Nội cũng như đám bù nhìn tại Miền Nam của chúng. Ngoài ra theo tôi, còn một lý do thầm kín nữa mà người Mỹ vì bảo vệ danh dự họ mà không nói thẳng ra, đó là chính một số người Miền Nam đã công khai xuống đường đuổi người Mỹ và Đồng Minh ra khỏi Việt Nam đồng thời mở đường để đón cộng sản vào.

Về mặt quân sự, ngoài mặt trận, bộ đội chính quy cộng sản Bắc Việt đã có mặt trên các vùng chiến thuật qua các trận đánh quy mô cấp số quân đoàn. Tại thôn quê, du kích cộng quân xuất hiện trong các vùng thiếu an ninh hoặc len lỏi vào nơi đông người, pháo kích đặt mìn khủng bố gây ra tình trạng bất ổn từ thôn quê đến thành thị. Gốc của thành phần du kích nầy đa số người trong Nam, là dân tại các vùng quê bị cộng sản lừa bịp và áp bức đưa ra Bắc. Hà Nội huấn luyện họ trở thành những con thiêu thân, cưới vợ gã chồng với người địa phương rồi vào đưa trở lại Miền Nam với mục đích bám vào máu mủ tình thân ruột thịt cũng như liên hệ gia đình để hoạt động trong các vùng xôi đậu. Ngoài mặt trận người lính không an tâm đánh giặc, tại hậu phương cảnh sát, công an, dân vệ và các lực lượng chuyên ngành khác bị cầm chân vì thành phần du kích và các thành phần cộng sản nằm vùng. Quân chính quy có mặt tại chiến trường Miền Nam hay du kích quấy phá tại hậu phương thật ra chưa phải là vấn đề then chốt để đưa đất nước rơi vào tay cộng sản một cách nhanh chóng. Điều quan trọng nhất là chính một số dân Miền Nam gây rối, ăn phải bã cộng sản hoặc nhận ân huệ, tiền bạc của ngoại bang để phá hoại chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Đây chính là hậu phương đã dùng hàng ngàn hàng vạn ngọn giáo đâm ngay vào lưng những người đang ngày đêm bảo bệ tổ quốc và an dân cho đồng bào.

Những lát dao chính trị do cộng sản và ngoại bang điều khiển thể hiện dưới nhiều hình thức như sau:

- Một số sĩ quan theo cộng sản đồng thời ngữa tay nhận tiền của ngoại bang để đảo chánh, giết hại các vị lãnh tụ, thông đồng với địch trả tự do cho những tên gián điệp cũng như bọn nằm vùng bị bắt. Cuối cùng chính số sĩ quan nầy âm mưu giao nền Cộng Hòa Việt Nam vào tay quân thù cộng sản.

- Tại quốc hội thì một số dân biểu theo cộng sản, đối lập hung hăng, phá thối chính nghĩa, đòi các lãnh tụ Miền Nam từ chức và giao chính quyền cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để mở đầu chương trình bắt tay với cộng sản Hà Nội. Ngoài ra phải kể đến một số trí thức đỏ ruột và thành phần bất mãn vì thất sũng đã chạy vào bưng theo mặt trận giải phóng, phong trào cứu quốc của Hà Nội.

- Thành phần nằm vùng đầy dẫy trong giới trí thức và điệp viên cộng sản được gài sẳn ngay trong chính quyền miền Nam. Hai nhóm nầy, mặt ngoài khuấy động chính trị, mặt trong cung cấp các tin tức tình báo cho địch mà chính CIA là chiếc dù che giấu đở đầu cho thành phần nầy vừa đánh phá các chính phủ vừa áp lực đòi hỏi yêu sách của Hoa Thịnh Đốn.

- Tôn giáo đóng vai chính nổi bật và hữu hiệu nhất mà cộng sản dựng lên để lùa con chiên, tín đồ, Phật tử xuống đường nhằm mưu đồ lật đổ các chính phủ Miền Nam. Người ta còn nhớ thời bấy giờ cha-thầy lợi dụng con chiên Phật tử để xua bà già trầu và con nít còn mặc quần giây thung xuống đường cản chân cảnh sát, công an và các chiến sĩ áo đen đang truy lùng các cán bô cộng sản, bọn nằm vùng và khủng bố đang lợi dụng sự tự do của chế độ Miền Nam để gây rối hậu phương.

- Thành phần trí thức chạy theo chiêu bài trung lập hoặc chủ trương theo đường lối cộng sản, ủng hộ những tổ chức trá hình như phong trào cứu quốc, phong trào đòi dân chủ, phong trào đời trung lập, phong trào bảo vệ đạo pháp, phong trào chống tham nhũng cũng như tổ chức bù nhìn của Hà Nội là chính phủ lâm thời Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

- Một số chủ báo, ký giả hô hào lật đổ chính phủ, ‘bị gậy’ xuống đường ăn mày theo các cuộc biểu tình của sinh viên và tôn giáo do cộng sản chủ mưu.

- Các sinh viên theo cộng sản cầm đầu xuống đường thường xuyên từ Sàigòn ra Huế để đòi hỏi từ yêu sách nầy đến điều kiện khác. Nhưng chung quy những việc biễu tình của thành phần trẻ nầy cũng loanh quanh trong vấn đề phá hoại chính thể Việt Nam Cộng Hòa, nối giáo cho giặc, làm nản lòng những người cầm súng ngoài mặt trận và đồng minh đang chiến đấu bảo vệ tự do bên cạnh chúng ta.

Như vậy từ một số ít sĩ quan trong QLVNCH, dân biểu đại diện dân, cha thầy các tôn giáo, trí thức khoa bảng, truyền thông báo chí đến sinh viên học sinh đều ăn phải bã cộng sản, ngày đêm xuống đường phá rối công cuộc chống cộng của toàn dân thì dù Mỹ có tận tình giúp đở Việt Nam chống cộng cũng phải nản lòng và kiếm cách rút lui trong danh dự. Vậy trước tiên chúng ta hãy bình tĩnh và tự trách mình, phải biết kiểm điểm những gì đã xảy ra trước năm 1975 để rút ra một bài học cho cộng cuộc tranh đấu của chúng ta ngày hôm nay.

Những lời nói của tôi trên đây không có mục đích bênh vực hay chạy tội cho chính quyền Mỹ, nhưng khi đứng trước bức tường ghi danh trên 50 ngàn lính Mỹ đã hy sinh cho đất nước Việt Nam, tôi nghĩ rằng người Mỹ họ rút khỏi Việt Nam cũng có cái lý của họ. Hàng tỷ mỹ kim bỏ ra, hàng trăm ngàn binh sĩ vừa chết vừa bị thương nhưng người Mỹ đã được lợi gì khi Việt Nam, nơi hằng ngày xảy ra những cuộc biểu tình phá thối, ủng hộ cộng sản mà họ là đồng minh quan trọng nhất hy sinh từ tiền của đến tánh mạng để bảo vệ đất nước chúng ta. Ngoài ra những cuộc xuống đường đuổi quân đội Mỹ ra khỏi nước để bắt tay với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và cộng sản Bắc Việt chính là một cái tát vào mặt người Mỹ. Điều nầy làm cho cả thế giới và ngay trong nội bộ người Mỹ đều lên tiếng phản đối mạnh mẽ về sự can thiệp của chính phủ của họ vào Việt Nam. Vậy thành phần phá hoại Miền Nam trước năm 1975 mục đích làm gì và làm cho ai, Việt Nam Cộng Hòa, nước Mỹ hay là cho cộng sản Hà Nội ?

Vậy có thể kết luận rằng, chính chúng ta đã làm mất nước chứ đừng đổ lỗi cho bất cứ một lý do nào khác.

2. Mặc dù dân Việt Nam đã sáng mắt nhưng lý do nào đã giúp cho đảng cộng sản vẫn còn tồn tại ?

Ngay những ngày đầu khi quân cộng sản tràn vào Miền Nam, chúng đã lộ mặt ra chính là một đảng cướp không hơn không kém. Hà Nội dùng các phương tiện chuyển vận để đưa về Bắc tài sản tiền của quốc gia như một bọn cướp biển tìm được kho tàng, ngày đêm chở về Bắc từ tất cả vàng bạc của ngân khố quốc gia cho đến các thứ nhỏ nhặt trong các bảo tàng viện cũng không bỏ sót. Thậm chí những tác phẩm nghệ thuật văn hóa cố định như các tượng đồng công viên thành phố ở đường Duy Tân (Sàigòn), lư đồng, súng thần công trong Đại Nội (Huế) chúng cũng bứng đem về Bắc. Binh lính cán bộ nhà nước thì tự nhiên xem tài sản của dân Miền Nam là chiến lợi phẩm, hí hững vào nhà dân ngang nhiên vừa mang vừa vác đưa về làm của riêng. Những hình ảnh ‘cướp ngày’ nầy cho phép dân Miền Nam sáng mắt ra và thấy rằng đó là mục đích ‘giải phóng dân tộc’ và chủ trương ‘thống nhất đất nước’của cộng sản !

Rồi dùi cui súng đạn và kẽm gai được dựng lên để bóc lột, trả thù, đồng thời hăm dọa buộc dân Miền Nam phải thuần phục chế độ cộng sản. Thanh lọc thành phần dân chúng là việc chúng áp dụng đầu tiên để cai trị ; hàng trăm ngàn người phải vào tù và hàng triệu người phải giao nhà cửa đất đai ruộng vườn cho chúng để đi vùng kinh tế. Tiếp đến là thủ đoạn dùng bao tử để cai trị bằng hình thức đổi tiền hạn chế theo đầu người và hộ khẩu, chúng chỉ bán thực phầm cho những ai biết vâng lời và phục tùng chế độ …Do đó hàng triệu người đã đánh đổi mạng sống và nhào ra biển đi tìm tự do…

Đến lúc nầy thì không còn người Miền Nam nào, dù là những tay ‘ba mươi’, những tên trước đây vào bưng ủng hộ … cũng tìm đường chạy trốn cộng sản. Một câu nói của dân chúng phản ảnh rõ ràng tình trạng xã hội thời đó ‘nếu trụ đèn biết đi, chúng cũng kiếm đường vượt biên’.

Để trấn áp dân, cộng sản đã dùng những thủ đoạn dã man để trấn áp dân Miền Nam. Ngoài việc dùng bao tử làm phương tiện chỉ huy con người, cộng sản còn lập ra hàng loạt trại tù, trại cải tạo để nhốt vào đó những người chống đối cũng như bất cứ ai mà chúng cho rằng không có lợi hay thích hợp cho chế độ. Từ đó hình ảnh đói khát, kẽm gai, trại cải tạo, súng đạn, tra tấn, tù tội là nỗi sợ hải ngày đêm ám ảnh thành phần dân chúng bị trị.

2.1. Đối với người dân tại Quốc nội:

- Sợ hãi và thụ động:

Như đã trình bày ở trên, dưới chế độ cộng sản, người dân luôn sống trong cảnh lo âu sợ sệt vì những hình thức khủng bố từ vật chất đến tinh thần. Tay chân phải hoạt động kiếm ăn từng bữa, đầu óc căng thẳng không biết giờ nào công an hỏi thăm sức khỏe và ngày đêm lo lắng không biết khi nào vào tù hay đi cải tạo. Đòn hỏa mù chính trị do cộng sản tung ra chi phối sự xét đoán của những người yêu nước, hàng chục tổ chức, hàng trăm người tranh đấu xuất hiện nhưng không biết ai thật ai giả. Đời sống tinh thần phải tự mình kiểm soát từng giây phút, hành động phải canh chừng từ lời ăn tiếng nói, vì không biết chung quanh vợ con, bạn bè, hàng xóm ai là công an chìm, ai là nhân viên chỉ điểm. Nếu sơ hở thì xem như cuộc đời sẽ kết túc giữa các hàng rào kẽm gai ! Chính cộng sản tạo ra những nỗi sợ hải của người dân bằng mọi hình thức, sự sợ hải nầy sẽ đưa đến việc thụ động đúng theo chủ trương của cộng sản. Do đó người ta không ngạc nhiên chủ trương văn hoá của cộng sản chỉ có mục đích nhằm tạo cho mọi người chỉ biết thụ động ăn uống và hưởng thụ. Một khi con người trở thành súc vật thì không còn trí óc để phán đoán và hèn nhác trong tư tưởng. Từ đó người dân trong nước đã ngủ một giấc khá dài trong lo âu, trong sợ hải và trong an phận.

Nhưng may mắn thay cho vận nước, từ những năm vừa qua nhiều nhà tranh đấu đã can đảm vượt ra khỏi bóng tối sợ hải, đứng lên tranh đấu đòi dân chủ, nhân quyền cho người dân. Dù bị giam cầm nhưng họ vẫn một mực kiên tâm chấp nhận tù đày để nêu sáng ngọn cờ chính nghĩa. Hành động anh dũng nầy đã vực dậy cơn say ngủ của người dân đồng thời đảo lộn sự sợ hải ngược lại cho cộng sản ! Cũng vì sợ hải nên đầu óc của tập đoàn đảng cộng sản trở nên u muội khi chúng bán đất nhượng biển cũng như trải thảm mời Tàu cộng vào xâm chiếm Việt Nam. Đây là tử lộ của cộng sản vì chúng khơi động sự bất mãn giới trẻ, đồng thời làm sống lại tinh thần dân tộc và lòng yêu nước mà chính chúng đã đầu độc cả dân tộc Việt Nam bằng những liều thuốc ngủ từ lâu.

- Các tôn giáo chưa đồng loạt đứng lên:

Đối với Việt Nam, ngoại trừ đảng viên cộng sản, còn lại đến gần 95% dân chúng đều theo một tôn giáo nào đó. Đa số thờ Phật, Thượng Đế hoặc Tổ Tiên Ông Bà. Để giải quyết trở ngại vấnn đề tín ngưỡng mà cộng sản cho là mối đe dọa chế độ, chúng đã tạo ra nhiều giáo hội quốc doanh khác nhằm mục đích xé các tôn giáo ra làm hai và dùng các tổ chức quốc doanh nầy để trấn áp những giáo hội chân chính. Trong công cuộc tranh đấu chung cho đất nước dân tộc, chúng ta không cần nhắc đến thành phần lãnh đạo tôn giáo thuộc tổ chức quốc doanh được cộng sản tuyển chọn và đào tạo theo khuôn mẫu ‘công an-mật vụ-tuyên-truyền’ với những ân huệ dành cho người phàm tục, vì thành phần nầy chỉ có bổn phận duy nhất là bảo vệ chế độ. Điều mà tôi tha thiết kêu gọi là những vị lãnh đạo các tôn giáo chân chính hãy cùng nhau đứng lên hiệp lực và tiếp tay với tín đồ, phật tử, sinh viên học sinh…để cùng nhau tranh đấu giải thể bạo quyền cộng sản. Các vị là những nhà lãnh đạo có uy quyền, có khả năng thì không thể núp trong bóng tối, phú mặc cho con chiên-tín đồ-Phật-tử của mình xuống đường mà tự chính mình phải dấn thân, chia sẻ đau khổ thể xác và ước vọng tinh thần với những tín hữu trung thành đồng thời sẵn sàng hy sinh vì đại nghĩa.

Đưa ra vấn đề trên không phải tôi phủ nhận những gương sáng tù đày của các nhà tranh đấu, của các cha các thầy hiện nay, mà phải thưa rằng những hy sinh nầy chưa đủ yếu tố để trấn an sự sợ hải của người dân cũng như chưa đủ dung lượng để vực dậy tinh thần yêu nước của giới trẻ. Điều cần thiết là phải cần sự hiện diện của các lực lượng tôn giáo lớn và các chính đảng chống cộng thì mồ hôi, xương máu của các nhà tranh đấu sẽ không phí phạm và bị mai một. Tôi nghĩ rằng người trong nước đang tranh đấu trong đơn độc, trong sợ hải trước bạo quyền cộng sản thì các vị lãnh đạo đảng phái, lãnh đạo tinh thần, các tổ chức tranh đấu ‘thật’ không nên khoanh tay ngồi trong bóng tối chờ thời mà hãy cam đảm đứng dậy ngay từ bây giờ, xông vào thế trận làm đầu tàu để đẩy mạnh cuộc tranh đấu của toàn dân chóng đến ngày thành công.

2.2. Đối với người tỵ nạn hải ngoại:

Không chấp nhận chế độ cộng sản nên người Việt phải chấp nhân bỏ nước ra đi. Tôi nói chấp nhận ra đi vì thực sự không một ai dám liều lẫn lấy mạng sống để thách đố với rủi ro, không có ai muốn từ bỏ quê cha đất tổ, mồ mả ông bà và bạn bè đồng đội để hy vọng làm lại cuộc đời ở một một vùng trời xa lạ nào đó. Nhưng một khi bình yên ra đến xứ ngoài, tất cả mọi người đều tâm nguyện rằng họ phải làm một cái gì cho đất nước để giành lại giang sơn gấm vóc trong tay kẻ thù và mai kia còn có ngày quay về với mảnh đất thân yêu. Do đó những người tỵ nạn cộng sản đã đóng góp công sức và âm thầm trở về phục quốc ngay sau thời hậu mất nước. Máu của anh hùng Trần Văn Bá và những người trở về phục quốc cùng thời đã đổ xuống sau một phiên tòa man rợ của cộng sản chính là ngọn lửa tạo khí thế tranh đấu mãnh liệt ở hải ngoại. Nhưng rồi những thực tế đau buồn đã làm cho người Việt nước ngoài vì những lý do sau:

- Vì mất niềm tin:

Đơn cử thí dụ, một phong trào kháng chiến rầm rộ trở về giải phóng đất nước thời đó đã đáp ứng sự nôn nóng mong đợi của toàn dân trong cũng như ngoài nước. Người Việt hải ngoại đã góp công góp của để nuôi dưỡng phong rào nhưng khi khám phá ra tổ chức nầy thực lực không có mà lợi dụng hình thức phao tin và thổi phồng những chuyện giả tưởng để thu hút tiền bạc…thì từ đó người Việt hải ngoại mất hẳn niềm tin khi nghe đề cập đến vấn đề phục quốc. Bây giờ nếu có tổ chức nào lên tiếng cổ võ yểm trợ, đóng tiền giúp các tổ chức tranh đấu từ hải ngoại đến quốc nội đề gặp phải sự thờ ơ của những người đã mất niềm tin. Đây chính là một hình thức chính mình đã tự giết mình.

- Vì phản bội của một số người trong cộng đồng:

Ngoài việc gài thành phần cán bộ và cò mồi ‘xanh vỏ đỏ lòng’ trà trộn giữa các cộng đồng người Việt hải ngoại, Cộng sản còn dựng lên một nhóm người hai mặt vừa ‘quốc’ vừa ‘cộng’, hôm đánh phá, hôm ủng hộ, lúc ngã bên nầy lúc nghiêng bên kia, tạo ra một thế hỏa mù lẫn lộn giữa trắng đen, giữa thiện ác…làm cho những người có tâm huyết mất hết niềm tin đồng thời tạo nghi ngờ lẫn nhau, nhất là đối với những người tranh đấu nhiệt tình.

- Vì quên hẳn nguồn gốc:

Phải nói rằng một số đông người tỵ nạn cộng sản đã quên hẳn nguồn gốc của mình. Xin chứng minh bằng một ví dụ nhỏ: Người Việt hải ngoại đi về Việt Nam thường bị cộng sản đưa vào con đường tự nguyện thực hiện nghị quyết 36, hòa giải hòa hợp một cách nhẹ nhàng, thật hiệu nghiệm nhưng tiếc rằng họ không hay biết ! Cộng sản tạo điều kiện thoải mái và cho phép người Việt nước ngoài về Việt Nam vui chơi trong thời gian du lịch với một điều kiện rất dễ dàng : Đừng hoạt động chính trị ! Nghĩa là cộng sản đã biến những người Việt về du lịch trở thành những người quên quá khứ đau buồn ngày trước và chỉ biết hưởng thụ tối đa. Không có hành động chống đối chế độ nhưng những người nầy lại tự động trở thành cái loa tuyên truyền không công cho cộng sản. Khi du lịch trở về họ thường tuyên bố rằng, bây giờ cộng sản mở cửa thật thoải mái, muốn ăn muốn chơi gì cũng được miễn là đừng có âm mưu hoặc hành động nào vi phạm an ninh trật tự của chính quyền ! Đúng, điều đó họ nói thật ! Nhưng suy nghĩ cho kỹ thì đây là những cái loa tuyên truyền không công cho cộng sản đồng thời nồng nhiệt cổ võ cho những người khác đi về Việt Nam. Ngoài ra phải nói thêm, những người về Việt Nam buôn bán, du hí, thăm vợ hờ, kiếm bồ nhí thì thường có mặc cảm với lương tâm, gia đình bạn bè cũng như những chung quanh. Từ những trường hợp mặc cảm nầy cộng đồng mất dần từ người nầy đến người khác trong các sinh hoạt tranh đấu.

- Vì tranh dành danh lợi:

Một tệ trạng nhỏ, thật nhỏ trong cộng đồng nói ra thì buồn lòng tất cả nhưng phải công nhận rằng nó cũng phân hóa cộng đồng và làm sứt mẻ tình đoàn kết. Vì chút hư danh mà một số nhỏ người lập ra nhiều hội đoàn mang tên thật kêu, thật bề thế nhưng thực chất chẳng ra gì rồi kèm cựa, ganh tỵ, bôi bác và chụp mũ nhau, tạo tình trạng chia rẽ thì đúng cộng đồng chúng ta đã đi vào quỹ đạo của cộng sản. Người dấn thân tranh đấu phải biết đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên cá nhân gia đình đảng phái của mình. Nhưng nhóm người nầy vô tình đã hạ thấp danh dự cộng đồng người Việt xuống khi tranh chỗ ngồi, dành chức vụ và tự tố cáo lẫn nhau trước mắt người địa phương cũng như giới quan sát quốc tế.

Điều tốt nhất, các đoàn thể chính trị cần thu góp chung lại thành một khối, dẹp bỏ những tổ chức trùng tên và cùng chung hướng hoạt động trong một thành phố, một vùng hay một tiểu bang. Mang danh đảng phái hội đoàn làm gì khi thực lực không có, nhân sự chỉ một hai người rồi đi lừa người nầy dối đoàn thể khác. Cái kim dù giấu kỹ trong túi nhưng có ngày cũng lòi ra thì xin hãy tự trọng giữ lấy nhân cách con người.

Đến bao giờ con người biết nghĩ đến quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên cá nhân gia đình đảng phái của mình, bao giờ con người biết đặt danh dự của người Việt Nam lên trên tất cả thì thời gian đánh đổ cộng sản tự nhiên sẽ rút ngắn trở lại.

- Vì thái độ thầm lặng, chờ thời và ỷ lại:

Tôi đọc nhiều bài viết của một nhóm người gọi là ‘khối thầm lặng’ và phải nói rằng những vị nầy cũng có tinh thần yêu nước qua những tác phẩm mà họ thường tỏ ra xót xa cho thân phận quê hương cũng như những người còn sống dưới chế độ cộng sản. Nhưng tại sao chỉ đứng ngoài nhìn xem, và tôi xin hỏi, nhìn xem đến bao giờ ? Người xưa có câu, một khi giặc đến nhà thì đàn bà cũng phải đánh huống gì là thành phần tỵ nạn đã tức tưởi bỏ nước ra đi và mong cơ hội để góp phần xây dựng lại cơ đồ ! Có thể thành phần nầy cho rằng cộng đồng là những tập hợp ồn ào, thiếu tổ chức và chưa làm được gì trọng đại. Nhưng lúc nầy thời điểm đã chín mùi, mong những vị thường cho mình tài đức đừng chần chờ gì nữa mà hãy xuất hiện đóng góp công sức với những người đang ngày đêm tranh đấu tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.

Phải thành thực nói rằng thái độ thầm lặng, chờ thời và ỷ lại thì cũng là một hình thức mất niềm tin. Tại hải ngoại, nhiều vị có khả năng nhưng còn ẩn mình và giữ thái độ thầm lặng hoặc tệ hơn nữa là ngồi trong bóng tối phê phán, bới lông tìm vết những người dấn thân thì những hành động của họ có khác gì thành phần đón gió đầu cơ chính trị ! Ngoài ra còn một số người chỉ trông đợi vào ngoại bang, họ thành lập hội đoàn và kiên nhẫn chờ Nhà Trắng trao nhiệm vụ hoặc bật đèn xanh cho phép trước khi giục trống thúc quân ! Thái độ ỷ lại vào ngoại bang làm suy giảm uy tín về tinh thần đoàn kết và khả năng tranh đấu hiện nay của người Việt nước ngoài. Hành động dựa vào ngoại bang là tự mình tình nguyện lệ thuộc ngoại quốc thêm một lần nữa và tự đặt tương lai đất nước dưới một hình thức ràng buộc mới.

3. Những điểm nào có thể khắc phục để góp phần giải thể chế độ cộng sản:

Trong phạm vi buổi nói chuyện hôm nay, xin phép đề cập đến hai điểm và hy vọng những thiển ý nhỏ bé của tôi sẽ đóng góp với những người bạn trên đường tranh đấu, như một giọt nước, như một ngọn nến nhỏ, để vượt qua những khó khăn đang cản trở con đường tranh đấu.

- Bị chia rẽ và tự chia rẽ:

Cộng sản sợ chúng ta hai điểm : Sự đoàn kết của toàn dân và quyết tâm của người Việt nước ngoài trong việc cắt đứt nguồn tiếp tế, hà hơi giúp sức cho chế độ cộng sản. Lo ngại trước sức mạnh của cộng đồng, cộng sản Việt Nam đã vội vàng đưa ra nghị quyết 36 và nâng chương trình kiều vận lên thành một bộ trong ngụy quyền của chúng để giải quyết hai vấn đề trên. Một mặt đánh phá chia rẽ cộng đồng và mặt khác thì kêu gọi khúc ruột ngàn dặm hòa giải hòa hợp, đem công sức về phục vụ quê hương. Tinh thần đoàn kết của người Việt hải ngoại thật cao nhưng hành động đoàn kết của cộng đồng đang ở thế ‘bị chia rẽ’ bởi âm mưu của kẻ thù và ‘tự chia rẽ’ do chính chúng ta gây ra.

Cộng đồng người Việt hải ngoại bị cộng sản chia rẽ và hậu quả như thế nào thì nhiều người đã đề cập đến và chúng ta đều hiểu rành mạch. Đây là một đòn độc rất lợi hại để chia cộng đồng chúng ta ra nhiều tổ chức, nhiều nhóm, nhiều khuynh hướng để phiá cộng sản dễ dàng giật dây. Đồng thời chính chúng ta xem trọng ‘cái tôi’ cũng như ‘quyền lợi cá nhân’ và nhất định không chịu ngồi chung lại với nhau. Nếu tất cả không nhìn thấy hậu quả của sự phân hóa nầy thì chúng ta sẽ hiễu rằng dù có tranh đấu đến đâu cũng không bao giờ đạt được kết quả.

Vấn đề ‘tự chia rẽ’ của chúng ta có thể xem là một chuyện nhỏ, ví như viên sỏi xuất hiện trong guồng máy cộng đồng. Nhưng dù bé nhỏ thế nào đi nữa, một khi viên sỏi rơi vào ngay giữa các bánh xe dây chuyền thì việc xây dựng đoàn kết cũng bị trở ngại vì chính do bàn tay chúng ta đã tạo ra.

- Sai lầm binh pháp:

Một vấn đề lớn đã đề cập từ nhiều năm nay là chúng ta đã chiến đấu sai lầm binh pháp:

1. Chúng ta đã quên câu ‘Biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng’: Trước tiên ta ít biết hoặc không muốn biết về ta, thường chủ quan và khinh thường địch. Địch ở đây không chỉ là tập đoàn cộng sản gồm gần ba triệu đảng viên đang cai trị dân Việt Nam từ trung ương xuống đến địa phương, đang nắm quyền kinh tế từng từ nhỏ đến lớn trong nước và ngày đêm rình rập người dân từ trong gia đình ra đến thôn xóm. Địch chúng ta cần phải biết và phải đánh là những người đang ở chung quanh, lẫn lộn giữa chúng ta trong các cộng đồng tại hải ngoại. Chính thành phần nầy mới nguy hiểm cho công việc tranh đấu của chúng ta hơn là những tên cộng sản trong quốc nội. Chúng đánh ta ngày đêm bằng tuyên truyền, địch vận, văn hóa vận với những âm mưu chia rẽ, gây xáo trộn cộng đồng, chụp mũ thành phần chống cộng để phân hóa tập thể cộng đồng người Việt hải ngoại ra nhều phe nhóm theo nghị quyết 36 của Hà Nội. Có can đảm làm sạch cộng đồng, loại hẳn thành phần nằm vùng, cò mồi đón gió, hòa giải hòa hợp chủ trương van xin kẻ thù thì cuộc chiến sẽ thông suốt và công cuộc tranh đấu của chúng ta có cơ may rút ngắn thời gian.

2. Từ lâu người Việt hải ngoại bỏ ngoài tai một lời kêu quan trọng. Vậy từ nay phải can đảm chấm dứt một sai lầm lớn là chúng ta ‘Vừa đánh vừa tiếp tế cho định’ : Binh pháp dạy rằng một khi đã ‘công đồn’, thì phải ‘cắt lương thực’. Đây là một điều khẳng định, nếu áp dụng đúng thì sớm muộn gì địch cũng phải bỏ thế thủ để đầu hàng. Nhưng thực tế chúng ta công đồn cộng sản từ mấy chục năm nay nhưng mỗi năm vẫn vui vẻ gởi về hàng tỷ mỹ kim để nuôi dưỡng kẻ thù ! Bởi vậy con đỉa cộng sản hằng ngày càng mập ra và đừng ngạc nhiên khi tài sản của những tên trong tập đoàn cộng sản có hàng trăm tỷ ngoại tệ trong các ngân hàng nước ngoài. Thử nhớ lại, trong những ngày hấp hối, Miền Nam chúng ta cần 3 trăm triệu mỹ kim để tiếp tế đạn dược cho tiền tuyến nhưng người bạn đồng minh đã thẳng tay từ chối. Bây giờ đáp lời đường mật của kẻ thù, người Việt nước ngoài hàng năm vui vẽ gởi về năm bảy tỷ mỹ kim. Thế mới biết rằng tại sao chúng ta chống kẻ thù từ 34 năm qua nhưng cộng sản vẫn còn đó !

Tuy nhiên những điều tôi vừa đề cập không phải là mộ bi quan trầm trọng vì cộng sản là những con đỉa càng ngày càng mập ra, một khi bụng đã căng đầy máu thì tự động chúng sẽ ngã lăn ra và rơi xuống. Nói vậy để xác định một điều rằng, những sự kiện gì một khi đã tiến lên đến tột đỉnh thì chính nó tự động tuột xuống theo định luật tự nhiên. Như vậy những điểm yếu mà tôi vừa đưa ra ở phần trên chỉ là những vần đề nhỏ có thể khắc phục trong một thời gian rất ngắn nếu chúng ta có ý chí và quyết tâm thực hành.

Vậy, chúng ta đã làm mất nước thì chính chúng ta có thể cứu lại đất nước vì lịch sử đã chứng minh rằng trước đây tiền nhân của chúng ta đã ngàn lần đánh thắng đại quân Hán phương Bắc là nhờ ý chí và sức mạnh của toàn dân. Ngày nay ‘Thiên thời’ đã giúp cho nhân loại nhận ra bộ mặt thật tội ác của cộng sản cũng như thế giới đã ủng hộ chúng ta tranh đấu để dành lại quê hương dưới bàn tay của loài quỷ dữ. ‘Địa lợi’ đã đến bằng các hành động do chính tay cộng sản đào hố tự chôn mình như ; bán đất nhượng biển cho giặc phương Bắc, mở rộng cửa cho kẻ thù truyền kiếp vào khai thác bauxite và đồng lõa biến nước Việt Nam trở thành một tỉnh lỵ của Tàu cộng ! Chỉ còn một điểm là ‘Nhân hòa’ là chúng ta có đủ yếu tố cần thiết xô chúng xuống vực thẳm để giải thể tập đoàn cộng sản khát máu. Muốn thực hiện điều kiện ‘Nhân hòa’ thì thật ra không có gì khó khăn : Đó chính là sự đoàn kết của mọi người, mọi giới từ trong nước ra đến hải ngoại và cộng đồng người Việt nước ngoài phải có thái độ dứt khoát với thành phần nằm vùng và chủ trương hòa giải hòa hợp với cộng sản đồng thời chấm dứt ngay vấn đề gởi tiền về nuôi chế độ. Như vậy không còn lý do gì để bi quan mà hãy đặt niềm tin vào tương lai dân tộc cũng như vận mệnh Đất Nước.

Để chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay, tôi xin lặp lại lời nói của một nhà chính trị Việt Nam: Nếu chính phủ nầy bị lật đổ, chỉ cần một chu kỳ thì cộng sản sẽ thôn tính miền Nam. Và sau đó, phải đến ba chu kỳ nữa thì nhân dân Việt Nam mới thoát được ách cộng sản. Vậy, chúng ta hãy hy vọng và chờ đợi.

Xin Ơn Trên và Hồn Thiêng Sông Núi phù hộ cho dân tộc Việt Nam.

Đinh Lâm Thanh
Cuối tháng 7 năm 2009

(*) Lời tuyên bố của ông Ngô Đình Nhu vào năm 1963, năm ông bị Dương Văn Minh giết với người anh là Tổng Thống Ngô Đình Diệm. (Một chu kỳ là 12 năm và VNCH đã rơi vào tay cộng sản năm 1975. Ba chu kỳ nữa có thể tính từ năm 2010 trở đi)



Monday, August 17, 2009

BỐN NHÓM VIỆT KIỀU ĐƯỢC PHÉP MUA NHÀ Ở VIỆTNAM

Theo Báo Effet tháng 8.2009

‘Ủy Ban Về Người Việt Nước Ngoài’ ngày 22.07.2009 vừa qua có ra một thông cáo hướng dẫn thiết lập một số giấy tờ cần thiết để Việt Kiều được mua nhà trong nước. Bộ Công An sẽ tích cực giúp đở về thủ tục cư trú của Việt Kiều theo ‘Luật Nhà Ở’.

Dưới đây, Ép-phê đăng tải những Việt Kiều thuộc ‘4 nhóm đối tượng’ sẽ được ân huệ của chính phủ cho mua nhà. Xin bạn đọc hãy đọc thật kỹ, trước khi có quyết định, để không bị lừa thêm một lần nữa:

1. Thành phần thứ nhất: Là những người có chiến công, có thành tích chiến đấu với lập trường vững chắc, phụng sự chủ nghĩa xã hội, yêu đảng, hoặc phục vụ lâu năm trong nghành ngoại giao, công tác ở nước ngoài (thành phần nằm vùng, cò mồi …. ghi chú của HVNVTD) .

2. Thành phần thứ hai: Những người làm thương mãi, bỏ vốn đầu tư (từ 1.000.000 $US trở lên), thành lập cơ sở sản xuất, công ty kinh doanh làm ăn lâu dài tại Việt Nam.

3. Thành phần thứ ba: Những người trí thức, có tư tưởng tiến bộ, sáng tác những tác phẩm lớn, có tác dụng giáo dục quần chúng, đi vào con đường hạnh phúc của chủ nghĩa xã hội.

4. Thành phần thứ tư: Những nhà khoa học lớn, tốt nghiệp ở nước ngoài, với lập trường chính trị theo khuynh hướng chủ nghĩa xã hội (kèm theo chứng từ kiểm tra tư tưởng của Sứ quán sở tại), có khả năng sáng chế hay phát minh những lợi ích thiết thực về khoa học.

Xin lưu ý: ‘Luật Nhà Ở’, ban hành ngày 04.09.1976 (vẫn có hiệu lực), điều 22 quy định: Nếu chủ nhà rời khỏi ViệtNam quá 90 ngày thì nhà nước sẽ tiếp thu và quản lý, ngoai trừ có giấy phép đi công tác nước ngoài.

Ngoài ‘4 nhóm’ kể trên, không có Việt Kiều nào được phép mua nhà hoặc đứng sở hữu chủ bất động sản trên nước Việt Nam. Từ 34 năm qua, cứ lâu lâu, chính phủ cho tung tin ‘giựt gân’ một lần rằn: ‘Sắp sửa cho mua nhà’, rồi im lặng luôn không nghe nhắc nhở gì tới nữa ! Sự thật, tuy không nói ra, trong thâm tâm cho đến chết, đảng vẫn coi khối người Việt hải ngoại là ‘một thế lực thù nghịch’, một loại ‘kẻ thù không đội trời chung’, không bao giờ tha thứ. Cho nên, chuyện ‘cho đứng tên mua nhà trong nước’ vẫn là chuyện ngàn năm thần thoại. Nếu tin đó là chuyện thật thì tiền mất tật mang là điều không thể tránh khỏi.

(Ghi chú của HVHNVTD: Vậy những người đã được mua nhà, được trả lại các cơ sở sản xuất làm ăn hay đươc phép đầu tư dài hạn tại Việt Nam đều nằm một trong 4 nhóm người có cộng tác với chế độ và được cộng sản ưu ái ban ơn. Điều nầy nhắc nhở cho những ai ở trong các nhóm trên thì đừng bao giờ vỗ ngực tự xưng là người quốc gia, là thành phần chống cộng !)

Source: http://www.hoivanhoanguoiviettudo.com/

Vinh Danh Người Lính Mồ Côi - Vũ Quý Hạo Hiên

Người thượng sĩ mồ côi yên nghỉ thầm lặng ở Wesminter


Vũ Quý Hạo Hiên

WESTMINSTER (NV) - Trong 41 năm, người chiến binh được tưởng thưởng huy chương cao nhất Hoa Kỳ đã nằm yên nghỉ trong một mộ phần gần như vô danh, không một lời tưởng niệm. Cho đến khi một cựu chiến binh khác tình cờ biết chuyện, đã vận động thành phố Westminster và binh chủng thủy quân lục chiến làm một buổi lễ long trọng vinh danh người anh hùng của chiến cuộc Việt Nam.

Cố thượng sĩ Kenneth Lee Worley
Người lính không thân nhân với mộ phần trong nghĩa trang Westminster Memorial Park là cố Thượng Sĩ Kenneth Lee Worley. Anh đã thiệt mạng khi lấy thân mình nhảy đè lên một quả lựu đạn, cứu cả một nửa tiểu đội thoát chết.

Chính phủ Hoa Kỳ đã truy tặng huy chương Medal of Honor, Huy chương Danh dự, là huy chương cao nhất của quân đội Hoa Kỳ. Anh cũng được nhận huy chương Purple Heart, dành cho người bị thương trong chiến đấu.

Nhưng rồi chuyện của anh đã rơi vào quên lãng. Thi hài anh được đưa đến chôn tại Westminster vì quân đội không tìm ra thân nhân. Phải hơn bốn mươi năm sau, một người nghiên cứu sử nghiệp dư tình cờ nhắc đến anh khi nói chuyện với một cựu chiến binh lớn tuổi, người ta mới nhớ ra anh là ai.

Người nghe được chuyện Thượng Sĩ Worley là ông B.J. Savage, một cựu phó cảnh sát trưởng Westminster và cũng là một cựu chiến binh nhưng không tham chiến tại Việt Nam. Ông Savage đã vận động được thành phố Westminster tài trợ một buổi lễ vinh danh người anh hùng, và gắn một tấm bảng đồng tưởng niệm trong khuôn viên tòa thị chính.

Khi hy sinh, Thượng Sĩ Worley chỉ một thân một mình. Sinh ra và lớn lên tại Farmington, New Mexico, nhưng ngay cả thành phố nơi anh sinh ra cũng không có ai để biết đến hành động hy sinh anh hùng của anh. Phải tới ngày hôm nay, người ta mới biết và đang gây quỹ để làm bia tưởng niệm.

Ông Savage nói với Người Việt, “Anh ta mồ côi cha mẹ từ nhỏ, ở với họ hàng xa, học tiểu học ở Farmington. Rồi đến trung học, anh học ở Truth Or Consequences, New Mexico.”

Ông ngừng lại và bật cười, “Tên thành phố như vậy đó, Truth Or Consequences.”

Ðến lúc đăng lính vào thủy quân lục chiến, Worley đã đăng lính ở Fresno. Khi đó, người thanh niên này đang sống với gia đình Feyerherm, một gia đình nuôi.

Một người em gái trong gia đình này viết về anh trên trang web American Valor: “Kenny đến ở trong gia đình chúng tôi ở Modesto, California khi anh 17 tuổi. Anh sống với chúng tôi cho tới khi anh gia nhập thủy quân lục chiến. Anh là người anh của tôi theo tất cả các nghĩa của chữ đó và chúng tôi yêu anh hết sức,” bà Donel Swisher viết.

Hiện sống tại Escondido, bà Swisher dự định sẽ đến dự buổi lễ vinh danh người anh nuôi. Bà viết thêm, “Khi anh đến ở trong gia đình chúng tôi, tôi chỉ mới 13 tuổi và tôi dám khẳng định là khi quân đội bảo chúng tôi là anh được truy tặng Huy chương Danh dự, chúng tôi không ai ngạc nhiên. Anh là một người hùng từ ngày đầu tiên anh đến với chúng tôi.”

Tuy Thượng Sĩ Worley từng ở với gia đình Feyerherm, nhưng theo luật pháp, một gia đình nuôi kiểu foster family không được xem là thân nhân như gia đình nuôi kiểu adoption. Vì vậy, khi thiệt mạng, anh được xem là người lính không thân nhân.

Cá nhân ông B.J. Savage cũng từng là thủy quân lục chiến, giải ngũ năm 1963. Ông làm cảnh sát Westminster trong 30 năm, lên đến chức phó cảnh sát trưởng cho tới khi về hưu. Năm nay 68 tuổi, ông nói:

“Mối liên hệ duy nhất giữa người anh hùng Worley và Westminster là ngôi mộ này đây. Mộ phần này là một miếng đất được tặng.”

Ông Savage kể: “Khi mất, anh không có thân nhân. Lúc đó, nghĩa trang này thuộc về gia đình McWhinney. Gia đình McWhinney đã hiến tặng phần đất này cho quân đội để chôn cất anh Worley.”

Ông kể vì sao ông tìm ra được ngôi mộ này: “Có một nhà nghiên cứu sử nghiệp dư ở Newport Beach. Ông ấy đang nghiên cứu đề tài khác thì tìm ra ngôi mộ này. Anh phải biết là ở nước Mỹ không có mấy người được trao huy chương Medal of Honor đâu. Nên tình cờ nói chuyện, ông ấy mới bảo tôi là trong nghĩa trang Westminster Memorial Park có một ngôi mộ của một người được Medal of Honor, tôi mới tìm hiểu thêm.”

Tìm được ngôi mộ Thượng Sĩ Worley, ông Savage bèn lên Internet tìm hiểu thêm về người này. Văn bản khi truy tặng Huy chương Danh dự cho Thượng Sĩ Worley viết về sự việc xảy ra ngày 12 Tháng Tám năm 1968 khi toán quân của ông Worley đóng chốt qua đêm trong một căn nhà ở xã “Bo Ban” tỉnh Quảng Nam. Văn bản viết tiếp:

“Vào mờ sáng, các chiến sĩ thủy quân lục chiến giật mình thức giấc khi trung đội trưởng lên tiếng báo động ‘lựu đạn’... Dù biết hậu quả của việc mình làm, Thượng Sĩ Worley, trong một hành động anh dũng cao độ, liền lập tức nhảy chồm lên trên quả lựu đạn gần đồng đội mình nhất, lấy thân mình chịu hết sức nổ cực lớn của trái lựu đạn.”

Worley hy sinh, cứu sống 5 người đồng đội đang ngủ trong cùng phòng. Huy chương Danh dự đã được truy tặng cho anh trong một buổi lễ tại Tòa Bạch Ốc năm 1970.

Một thân một mình, ông Savage gom góp tài liệu về người thượng sĩ anh hùng, viết một lá thư và gởi đến cho Hội Ðồng Thành Phố Westminster.

Ông Savage muốn có một buổi lễ đặt bảng tưởng niệm trong khuôn viên tòa thị chính, ngay chỗ cột cờ, nơi hiện đang có nhiều bảng tưởng niệm từ các cuộc chiến khác. Ông dự trù sẽ có mặt của dàn nhạc và đoàn cờ danh dự Sư Ðoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến từ Camp Pendleton, là sư đoàn nơi Thượng Sĩ Worley từng phục vụ. Nhưng có dàn nhạc, có đoàn cờ, là có chi phí. Chưa kể những phí tổn khác.
Ông B. J. Savage và tấm mộ bia
Ông ước tính chi phí cho một buổi lễ và một tấm bảng tưởng niệm là $7,000, và ông đến buổi họp hội đồng thành phố để xin tài trợ số tiền này. Trong buổi họp Tháng Tư 2009, hội đồng thành phố đã đồng loạt bỏ phiếu chấp thuận yêu cầu của ông, chuẩn chi $7,000.

Nghị Viên Tạ Ðức Trí nói với báo Người Việt, “Ðây là một điều rất tốt, thành phố nên làm. Ðây là một người đã tham chiến tại Việt Nam, thành phố được sự ủng hộ tuyệt đối của hội đồng thành phố để tưởng nhớ sự hy sinh này.”

Ðến ngày 12 Tháng Tám, ông Savage tính lại, xin được Sư Ðoàn 1 cho giảm bớt chi phí vận chuyển, xin được công ty làm bảng tưởng niệm giảm bớt giá thành.

Thấy tiết kiệm được vài ngàn, ông lại trở lại thành phố. Phát biểu trước hội đồng thành phố, ông nói “Bây giờ buổi lễ chỉ cần $5,000 thôi, xin chỉnh lại chi phí.” Hội đồng thành phố lại bỏ phiếu, lại đồng ý chuẩn chi bớt xuống còn $5,000.

Ông cho báo Người Việt biết, “Buổi lễ sẽ có Thẩm Phán Liên Bang David O. Carter, cũng là một cựu chiến binh Việt Nam; sẽ có Thiếu Tướng Richard Mills là sư đoàn trưởng Sư Ðoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến.”

“Qua chừng này năm, đã đến lúc anh Worley được nhận sự vinh danh xứng đáng.”

Vũ Quý Hạo Hiên


VIỆT NAM: DỤ VIỆT KIỀU NUÔI ĐẢNG - Phạm Trần

Phạm Trần

Hoa Thịnh Đốn: - Vào lúc niềm tin vào đảng của một số không nhỏ cán bộ, đảng viên sa sút nghiêm trọng nhất từ trước tới nay, Bộ Ngoại giao Cộng sản Việt Nam tung ra kế họach tổ chức Hội nghị Người Việt Nam Ở Nước Ngoài (NVNONN) vào tháng 11/2009 tại Hà Nội để dụ Việt kiều tiêm thuốc hồi sinh nuôi đảng.

Nhà nước CSVN cho biết Hội nghị này dự trù quy tụ 1000 người kể cả 300 người trong nước và 650 đại biểu kiều bào, tất nhiên phải là thành phần có cảm tình hay ủng hộ đảng CSVN ở nước ngoài.

Theo chỉ thị từ Uỷ ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài thuộc Bộ Ngoại giao Hà Nội, các đối tượng sau đây sẽ được móc nối về nước tham dự Hội nghị :

- “Lãnh đạo và những người hoạt động trong các hội đòan hướng về đất nước: hội người Việt Nam, hội doanh nghiệp, hữu nghị, câu lạc bộ, các tổ chức từ thiện, nhân đạo NGO (Non-Government Organizations, Phi Chính phủ), giới, ngành nghề.

- Trí thức, chuyên gia, doanh nhân kiều bào làm ăn thành đạt, Thanh niên, sinh viên, tài năng trẻ.

- Cá nhân tiêu biểu hoạt động trong các lĩnh vực v8an hóa-nghệ thuật, thể dục thể thao, xã hội, tôn giáo.

- Những nngười hoạt động trong lĩnh vực truyền thông.

Những nhân vật mới nổi hoạt động trong chính quyền địa phương; những nhân vật cao cấp trong chế độ cũ có tinh thần dân tộc, muốn tham gia Hội nghị trong tinh thần xây dựng và hòa hợp dân tộc.”

MỤC TIÊU HỘI NGHỊ

Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao - Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài cho Báo chí trong nước biết: “Hội nghị sẽ có những hội thảo chuyên đề về 4 lĩnh vực: Đại đoàn kết dân tộc, Phát triển và bảo tồn bản sắc văn hoá Việt Nam, Tri thức kiều bào với việc phát triển kinh tế Việt Nam và Doanh nhân kiều bào đối với sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước.”

Chi tiết hơn, trong Thư gửi Ban Lãnh đạo Hội người Việt Nam tại Pháp, Tòa Đại sứ Hà Nội tại Paris đã không ngần ngại nói rõ kế họach khai thác tiềm năng và trí tuệ Việt kiều của Hội nghị này, đó là:

1. “Xây dựng Cộng đồng Người Việt Nam Ở Nước Ngoài (NVNONN) đoàn kết vững mạnh, thành đạt và hướng về quê hương, đất nước”, nội dung: Các chính sách, biện pháp hỗ trợ cộng đồng tăng cường đòan kết và nâng cao vị trí trong xã hội sở tại. Xây dựng và phát triển các tổ chức hội đòan tích cực trong cộng đồng NVNONNN, khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động từ thiện, nhân đạo hướng về quê hương, đất nước. Thực hiện chính sách đại đòan kết dân tộc, đấu tranh với các hoạt động đi ngược kại lợi ích của cộng đồng và đất nước. Công tác tuyên truyền, vận động thế hệ trẻ kiều bào hướng về quê hương, đất nước.

2. “Gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc trong cộng đồngg NVNONN”, nội dung: Chính sách và biện pháp giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc trong cộng đồng; đẩy mạnh công tác tiếng Việt trong cộng đồng NVNONN. Phát huy vai trò là cầu nối, quảng bá hình ảnh và văn hóa Việt Nam với thế giới. Chính sách và biện pháp tăng cường công tác thông tin đối với cộng đồng NVNONN.
Thời đại Hồ Chí Minh

3. “Doanh nhân kiều bào góp phần vào sự nghiệp chấn hưng đất nước”, nội dung: đánh gía tiềm năng, thế mạnh kinh tế của doanh nghioệp, doanh nhân kiều bào; phát huy vai trò cầu nối cho kinh tế trong nước với thế giới của doanh nghiệp, doanh nhân kiều bào; các chính sách thu hút đầu tư, tài chính, kiều hối, kinh doanh dịch vụ … Kinh nghiệm quản lý kinh tế vĩ mô; dự báo chiến lược; các biện pháp đồi phó với các tác động tiêu cực của khủng hỏang kinh tế thế giới đồi với kinh tế Việt Nam.”

Ngoài ra Nguyễn Thanh Sơn cũng không giấu diếm dự kiến thầm kín của đảng khi tuyên bố tại Hà Nội ngày 2/6/2009 rằng: “Đây không chỉ là diễn đàn cho kiều bào ta trên khắp thế giới được bày tỏ quan điểm với Lãnh đạo Đảng, Nhà nước mà còn để trao đổi với nhau về những tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của mình để có ý kiến đóng góp thiết thực nhất cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn đánh giá cao tiềm năng chất xám của kiều bào ở nước ngoài, hy vọng thông qua Hội nghị NVNONN toàn thế giới lần thứ nhất này, sẽ có những bài phát biểu, tham luận, những chuyển giao công nghệ quý báu từ trí thức kiều bào, các nhà khoa học người Việt ở các quốc gia tiên tiến trên toàn thế giới nhằm góp phần thực hiện thành công những chương trình phát triển kinh tế của đất nước.”

Vẫn theo Báo chí trong nước, Sơn còn cho biết: “Các đại biểu kiều bào sẽ được Ban tổ chức đài thọ toàn bộ kinh phí ăn ở, đi lại trong thời gian tham dự Hội nghị. Đây là cố gắng rất lớn của Đảng và Chính phủ với mong muốn đưa tinh thần đại đoàn kết dân tộc đến với tất cả kiều bào và có những hội nghị thực sự biểu dương sức mạnh tri thức của NVNONN.”

Nhưng từ trước tới nay, người Việt ở nước ngòai đã có thái độ ra sao với đảng và nhà nước CSVN, Sơn khoe: “Các chính sách đối với kiều bào như: Luật quốc tịch, Luật cư trú đi lại, chính sách nhà ở, đầu tư, Những quy định về chế độ hồi hương, thăm thân, những thuận lợi trong việc chuyển kiều hối về nước ... cũng đáp ứng được sự mong mỏi và đem lại niềm tin rất lớn cho bà con. Lượng kiều bào trở về quê hương ngày càng đông trong thời gian gần đây, cho thấy bà con ngày càng gắn bó với quê hương, mong muốn xây dựng một cộng đồng vững mạnh.”

Sơn còn nói thêm: “Sự đoàn kết nhất trí hướng về quê hương, đất nước và niềm tin tưởng ngày càng lớn hơn vào sự lãnh đạo, quan tâm của Đảng và nhà nước với kiều bào góp phần cô lập, đẩy lùi sự hung hãn của các thế lực thù địch ở bên ngoài cũng như trong cộng đồng NVNONN.”

TẠI SAO PHẢI TỔ CHỨC

Nếu đã thành công “vẻ vang” như thế thì cần gì phải bỏ tiền ra tổ chức Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài để mưu tìm sự ủng hộ tinh thần và vật chất của những người muốn làm ăn hay giúp đỡ đảng CSVN ?

Có mấy lý do để giải thích:

Thứ nhất, kể từ khi đảng CSVN tung ra Nghị quyết 36-NQ/TW: "Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài", ngày 26 tháng 3 năm 2004, nhà nước Việt Nam tiếp tục thất bại ê chề trong công tác chủ động sinh họat của người Việt Nam ở nước ngòai (NVONN), kể cả số công nhân lao động của Hà Nội tự ý ở lại nước ngòai sau khi Liên bang Sô Viết sụp đổ năm 1992 , hay được gửi đi lao động ở nước ngoài sau năm 1975.

Thứ nhì, tuy số tiền của NVONN, đa số là người Việt tị nạn Cộng sản, gửi về giúp cho gia đình hàng năm từ 4 đến 6 tỷ Mỹ kim, nhưng số người Việt bỏ tiền ra đầu tư vào Việt Nam hay trở về Việt Nam sinh sống vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay, dù cho đảng CSVN đã thay đổi Luật Quốc tịch, chủ trương Miễn thị thực và giản dị hóa các thủ tục mua nhà, tậu đất đối với NVONN.

Theo một báo cáo trong nước cho đến nay, có khoảng 3.000 dự án của NVONN đầu tư về nước với tổng vốn gần 2 tỉ Mỹ kim nhưng phần đông vào các lĩnh vực dịch vụ như Du lịch, Nhà đất hay Cơ sở làm ăn nhỏ.

Thứ ba, con số Trí thức 300 ngàn người, phần lớn thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tị nạn mà đảng và nhà nước CSVN rất thèm muốn đã tiếp tục lạnh nhạt trước mánh khóe mồi chài muốn họ mang “chất xám” về giúp nước nên đảng CSVN, trong mấy năm gần đây đã bỏ tiền ra tổ chức vài Hội nghị, hay lập ra Câu Lạc Bộ Khoa học-Kỹ thuật Việt kiều (CLB KHKTVK) ở Sài Gòn tháng 12/2005 để câu khách mà vẫn bị bỏ rơi.

Lý do đơn gỉan vì đảng CSVN vẫn chỉ muốn rút ruột NVONN, trong khi giới Lãnh đạo vẫn chưa gột tẩy được mặc cảm thua kém, không chịu học hỏi và tiếp tục nghênh ngang, hống hách với chiếc “nón Cối đảng viên” để nghi kỵ người Việt ở nước ngòai trở về, dù có nhiều trí thức ở tuổi cuối đời muốn thật lòng cống hiến khả năng để nâng cao đời sống cho người dân trong nước.

Thứ tư, cho dù Nghị quyết 36 chủ trương “luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”, hay như họ minh thị trong Điều I, Chương II của Nghị quyết 36 rằng: “Cơ sở của sự đoàn kết là ý thức dân tộc và lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và mục tiêu chung của mọi người Việt Nam là giữ vững nền độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai”, nhưng đảng CSVN đã chứng minh họ không bao giờ muốn “hòa giải” với người Việt bỏ nước ra đi sau biến cố 1975 mà chỉ muốn NVONN tự ý bồng bế nhau về đứng xếp hàng sau cán bộ để “hòa hợp” vào chế độ. Nói cách khác là phải chấp nhận quyền cai trị độc tài, độc tôn, phản dân chủ của một nhà nước tiếp tục bám lấy Chủ nghĩa lỗi thời Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh.

Thứ năm, về công tác thông tin – tuyên truyền thì đảng CSVN đã hoàn tòan bị các Cơ quan truyền thông của người Việt tỵ nạn chôn vùi không ngóc đầu lên nổi. Chủ trương đem sách, báo trong nước ra phổ biến ở nước ngoài không thành công; kế hoạch phủ sóng Truyền hình và Truyền thanh trong các Cộng đồng người Việt cũng thất bại.

Ngay cả chuyện đem lá cờ Đỏ Sao Vàng của đảng để cạnh tranh với Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của Việt Nam Cộng Hòa ở nước ngoài cũng bị phủ nhận, hoặc có làm cũng chỉ lén lút nên nỗ lực phô trương thế lực của Ban Tuyên giáo đã hòan tòan thất bại ở nước ngòai.

Ngòai ra cũng phải kể đến các Cuộc biểu tình của NVONN chống những cán bộ cầm đầu đảng và nhà nước đi ra nước ngòai ở khắp nơi, nhất là tại những quốc gia có đông người Việt tị nạn Cộng sản như Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Pháp, Úc, Tân Tây Lan v.v...

MỤC TIÊU CHÍNH TRỊ

Ngòai những lý do đã có chứng minh nêu trên, cũng cần nói đến lý do thầm kín của việc Tổ chức Hội nghị Người Việt Nam Ở Nước Ngoài (NVNONN) tháng 11/2009.

Trước tiên là sự ra đời tại Hà Nội ngày 10/08/2009 của Tổ chức gọi là “Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài” do Hà Nội thành lập.

Theo tin của Báo Điện tử đảng CSVN: “Đăng ký tham dự Đại hội có gần 300 doanh nhân, doanh nghiệp kiều bào đến từ gần 40 quốc gia, vùng lãnh thổ; hơn 40 đại biểu của các cơ quan trung ương và địa phương; gần 80 đại diện lãnh đạo các tập đoàn, tổng công ty, hiệp hội ngành nghề và doanh nghiệp trong nước.”

Phạm Gia Khiêm, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao nói rằng: "Việc thành lập Hiệp hội doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài hôm nay là cột mốc đầu tiên rất quan trọng trên con đường xây dựng một mạng lưới đại đoàn kết, tập hợp doanh nghiệp Việt Nam trên toàn thế giới, hướng tới một cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài hùng mạnh, có vị thế xứng đáng, góp phần làm rạng danh dân tộc Việt Nam với bạn bè quốc tế và đóng góp thiết thực vào sự phát triển chung của đất nước.”

Theo báo của đảng thì “Hiệp hội là một tổ chức xã hội nghề nghiệp của cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân VNONN nhằm huy động năng lực của cá nhân và tập thể doanh nghiệp vì lợi ích của doanh nghiệp, cộng đồng và của đất nước Việt Nam.”

Như vậy là rõ như ban ngày Tổ chức này sẽ được đảng và nhà nước CSVN sử dụng để giúp đảng tồn tại về mặt kinh tế.

Bằng chứng đã viết trong Điều lệ của Hội như sau:

Điều 2. Tôn chỉ, mục đích:

1. Hiệp hội doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài là một tổ chức xã hội nghề nghiệp của cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài, nhằm huy động năng lực của cá nhân và tập thể doanh nghiệp vì lợi ích của doanh nghiệp, cộng đồng và của đất nước Việt Nam.

2. Tạo môi trường để hợp tác và trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp, doanh nhân, các hiệp hội trong và ngoài nước nhờ đó thúc đẩy mối quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, khoa học và công nghệ, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

3. Liên kết, phối hợp và hỗ trợ các hội viên nhằm tạo điều kiện thuận lợi góp phần vào sự ổn định, phát triển và thành đạt của các hội viên trong các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh, thương mại và dịch vụ tại Việt Nam và ở nước ngoài.

Điều 3. Tư cách pháp nhân:

1. Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài (Hiệp hội) có tư cách pháp nhân, có con dấu, logô, tài sản và tài khoản riêng.

2. Hiệp hội đặt trụ sở tại Hà Nội, thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và có các chi hội, chi nhánh văn phòng đại diện ở trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.

Điều 4. Nguyên tắc và phạm vi hoạt động :

1. Hiệp hội hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ về tài chính, tuân thủ luật pháp Việt Nam.

2. Hiệp hội có phạm vi hoạt động trên toàn lãnh thổ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và tại các nước có người Việt Nam sinh sống và làm việc. Hoạt động của Hiệp hội chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Ngoại giao và các Bộ, ngành khác về lĩnh vực có liên quan.
Chính Mi:thằng việt gian dâm đản họ Hồ

3. Hiệp hội doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài hội là thành viên tập thể của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.

Thứ hai là do nhu cầu khẩn trương của tình chính trị ở trong nước. Hội nghị NVNONN được tổ chức để thu hút sự chú ý của người Việt trong và ngòai nước vào lúc đảng CSVN chuẩn bị Đại hội đảng kỳ thứ XI, dự trù vào trung tuần tháng 1/2011, và đang phải đối phó với tình trạng suy thóai tư tưởng nghiêm trọng trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên.

Kề từ Hội nghị 9 của Ban Chấp hành Trung ương đảng X tổ chức đầu tháng 1/2009, Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư đảng và các cấp lãnh đạo đảng đã thay phiên nhau báo động về tình trạng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” đang lan rộng trong nội bộ đảng.

Các lời báo động này đã để lộ ra một tình trạng chia rẽ, mất tin tưởng vào đường lối chính trị tiếp tục kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh của đảng.

Tình hình này xem ra đang ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của đảng trên nhiều lĩnh vực, nhưng quan trọng nhất là sự hòai nghi, mất tin tưởng của nhân dân và không ít đảng viên về thái độ khiếp nhược trước hành động bành trướng chủ quyền lãnh thổ của Trung Hoa trên đất liền và ở biển Đông và việc đảng CSVN nhượng quyền khai thác Bauxite cho Bắc Kinh tại Tây Nguyên.

Vi vậy, bất kỳ việc gì nhằm giảm đi áp lực nội bộ để lấy lại niềm tin trong nhân dân vào lúc này như việc tổ chức Hội nghị Người Việt Nam Ở Nước Ngoài cũng có lợi cho đảng CSVN.

Vấn đề đặt ra là liệu dư âm của Hội nghị bù nhìn này sẽ tồn tại được bao lâu ?

Phạm Trần


Sunday, August 16, 2009

Hiểm họa của dân tộc Việt - Lê Thành Nhân

    Trung Cộng khai thác mỏ bauxite Tây Nguyên!
    Hiểm họa của dân tộc Việt
Lê Thành Nhân

Trong những ngày qua, dư luận đồng bào trong và ngoài nước lên án đảng CSVN, đứng đầu là Nguyễn Tấn Dũng bất chấp dư luận đồng bào, không quan tâm đến ý kiến đóng góp của các nhà khoa học chuyên môn, lờ đi những bản lên tiếng của những người đã từng giữ chức vụ cao trong đảng CSVN như cựu Đại Tướng CSVN Võ Nguyên Giáp, và cựu Đại Sứ CSVN tại Trung Cộng từ năm 1974-1989, Nguyễn Tấn Vĩnh. Bộ chính trị đảng CSVN vẫn cao ngạo cho rằng: “việc khai thác quặng bauxite tại Tây Nguyên là dự án lớn của nhà nước và Bộ Chính Trị đã ba lần nghe, kết luận và nhà nước đã phê chuẩn dự án này”... trước sự quyết định độc tài đảng trị ấy, dư luận xôn xao trong quần chúng rằng: “....Tây Nguyên sẽ chết vì khai thác bauxite”, “Khai thác quặng bauxite ở Tây Nguyên nhiều nguy cơ, chưa có giải pháp”... nhiều nhà khoa học phân tích cặn kẻ có tính thuyết phục đưa lên các trang điện trong và ngoài nước, người am tường chính trị quân sự thì cho rằng “lâm nguy an ninh của tổ quốc vì cho Trung Cộng đến Tây Nguyên”, nhà văn hoá thì cho rằng “phá hủy nền văn hóa đa dạng của Tây Nguyên”, “báo chí không được đăng tin về bauxite”.... tất cả đó tạo một không khí nặng nề, ngột ngạt trong người dân Việt Nam hiện nay. Là người Việt quan tâm đến tình hình đất nước chúng ta không thể không tìm hiểu một biến cố lớn như thế đối với đất nước Việt Nam.

I. Bauxite Tây Nguyên nằm ở đâu trên nước Việt Nam?

Đắc Nông, trước đây là vùng đất thuộc tỉnh Đắc Lắc, từ năm 2004 đã tách rời thành một tỉnh riêng, thủ phủ đặt tại thị xã Gia Nghĩa. Tỉnh Đắc Nông nằm phía Nam Cao Nguyên Trung Phần, Bắc giáp với tỉnh Đắc Lắc, Đông giáp với tỉnh Lâm Đồng, Tây giáp với biên giới Cambodia, và Nam giáp với tỉnh Bình Phước. Diện tích 6514.5 km2 và dân số khoảng 400,000 (năm 2006), gồm người Việt (Kinh), Ê Đê, Nùng M’Nông và người Tày. Nguồn lợi kinh tế chính của tỉnh Đắc Nông là trồng cafe, tiêu, cao su. Đắc Nông cũng là vùng hứa hẹn của nền du lịch với những thác nước rất đẹp trong cảnh thiên nhiên hùng vĩ như thác Ba Tầng, thác Diệu Thanh, thác Dray Nur, thác Dray Sáp, Thác Trinh Nữ, đồi thông Nam Nung. Khí hậu tỉnh Đắc Nông rất ôn hòa và lý tưởng, trung bình 24 độ C.

Đắc Nông có nền văn hoá truyền thống cổ truyền đa dạng của nhiều dân tộc mang bản sắc riêng. Nơi đây còn lưu giữ nhiều pho sử thi truyền miệng rất độc đáo như sử thi Đam San dài hàng ngàn câu. Các tập tục xưa cổ, kiến trúc nhà sàn, nhà rông và tượng nhà mồ còn chứa bao điều huyền bí hấp dẫn. Các loại nhạc cụ dân tộc từ lâu đời đã trở nên nổi tiếng và là niềm tự hào của cả vùng Tây Nguyên, của văn hoá dân gian Việt Nam. Bộ đàn đá của người M'Nông, bộ chiêng đá phát hiện tại huyện Đăc R'lâp cách đây ngàn năm, đàn T’rung, đàn K’lông Pút, đàn Nước, Kèn, Sáo ... Nếu đúng dịp, du khách sẽ được tham dự những lễ hội độc đáo còn nguyên chất dân gian. Trong lễ hội, cả buôn làng cầm tay nhau nhảy múa xung quanh đống lửa theo nhịp của tiếng cồng,tiếng chiêng.

Với vùng đất cây xanh, cảnh đẹp, không khí trong lành, nhiệt độ ôn hòa, nền văn hoá đa dạng như thế ở dưới tầng lớp đất Bazin màu mở ấy khoảng 0.5-1m có quặng bauxite là một nguyên liệu chế ra chất nhôm dùng trong các loại kỹ nghệ.

Theo tài liệu BAUXITE MINING, POST ENVIRONMENTAL & SOCIAL IMPACT CONCERNS By: Consultancy on Development (CODE) – Vietnam, thì mỏ bauxite được tìm thấy ở tỉnh Đắc Nông có khả năng sản xuất từ 6500-7600 triệu tấn, lớn hàng thứ 4 trên thế giới. Đắc Nông là vùng đất cao nguyên nơi đầu nguồn của hai con sông lớn Đồng Nai và Serepok. Đảng CSVN cho phép các nhà đầu tư Trung Cộng mở 4 cơ xưởng khai thác quặng bauxite ở tỉnh Đắc Nông.
Theo tài liệu của Tập Đoàn Công Nghiệp Than và Khoáng Sản Việt Nam (TKV) tháng 7/2007 thì Đắc Nông có 6 vùng có mỏ bauxite với diện tích tổng cộng là 1971 km2 chiếm 1/3 diện tích tỉnh Đắc Nông ở các địa điểm như sau:

- Tuy Đức: 354 km2
- Đắc Song: 300 km2
- Bắc Gia Nghĩa: 329 km2
- Nhân Cơ: 510 km2
- 1 tháng 5: 197 km2
- Quảng Sơn: 159 km2

Mỏ beauxit còn tìm thấy ở Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng và hiện nay đang khai thác, mặc dù mỏ bauxite này không lớn như ở tỉnh Đắc Nông.

II. Những tác hại, rủi ro, nguy hiểm khi khai thác mỏ bauxite ở Tây Nguyên:

Lớp đất trên cùng tại Tây Nguyên là phù sa Bazine (Topsoil 0-2m), sau đó đến lớp mõ bauxite từ (2-12m)

Mỏ beauxit ở Đắc Nông nằm dưới mặt đất từ 0.5-1m, trong tiến trình khai thác người ta phải lấy đi lớp đất xốp ở trên mặt, sau đó lấy phần đất/đá có chất bauxite đưa vào nhà máy để biến chế thành chất alumina. Nhớ rằng, Alumina không phải là Aluminium (nhôm), mà alumina là một hợp chất gồm nhôm và oxy với ký hiệu hóa học là Al2O3. Khai thác mỏ beauxite ở Đắc Nông chỉ chế biến từ quặng bauxite ra Alumina rồi đem bán cho ngoại quốc chứ không phải luyện nhôm ròng (aluminium) để xử dụng cho kỹ nghệ hoặc bán nhôm với giá cao. Trung bình cứ hai tấn bauxite thì biến chế một tấn alumina, và cứ 2 tấn alumina thì làm ra một tấn Aluminium (nhôm). Hiện nay, Alumina trên thị trường giá vào khoảng $350-370 USD/ tấn. Tiến trình biến chế từ bauxite đến alumina có 5 giai đoạn, mỗi một giai đoạn phải xử dụng rất nhiều nước thêm với các hóa chất cần thiết để luyện kim, và sau đó thải ra một loại nước mang theo chất độc hoá học. Trong các giai đoạn luyện chất alumina, nguy hiểm nhất là nó để lại một chất cực kỳ độc hại đó là “bùn đỏ” (red-mud). Theo những tài liệu ngoại quốc và những chuyên viên chuyên ngành trong nước thì việc khai thác bauxite ở Đắc Nông trong khi chưa có những giải pháp đúng đắn để bảo vệ môi trường, để bảo vệ nguồn nước, để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên thì nó sẽ là một tác hại lâu dài cho tương lai của người dân Tây Nguyên và dân cư sống ở hạ nguồn hai sống Đồng Nai và Serepok. Cao Nguyên Trung Phần là “lá phổi” của Việt Nam, nếu lá phổi bị ô nhiễm trầm trọng chẳng khác nào Việt Nam bị bệnh ho lao.

Đối với việc khai thác mỏ bauxite, sự tác hại này đe doạ thường trực đến cả muôn đời sau.

1. Tác hại thứ nhất: xử dụng quá nhiều diện tích đất đai tây nguyên, muốn khai thác bauxite, phải cần khoảng 500 km2 chung quanh cơ xưởng bauxite để di chuyển lớp đất thừa trong tiến trình chế biến alumina. Đắc Nông có 4 nhà máy như vậy tốn gần 2000 km2, thêm với 1971 km2 beauxite tổng cộng gần 4000 km2, chiếm gần 2/3 diện tích tỉnh Đắc Nông (6514 km2). Sự di chuyển đất này sẽ tạo những lớp bụi mù tung bay trong không khí, ảnh hưởng môi trường sống của con người. Thân và lá cây vùng Tây Nguyên bị phủ đầy bụi hóa chất màu đỏ không thể nào phát triển được. Còn con người thì luôn luôn hít thở không khí với chất độc bụi đỏ vào phổi, lâu rồi sẽ sinh bệnh ung thư đường phổi.

Trong ngành khai thác quặng mỏ, bauxite là phương pháp khai thác chiếm nhiều diện tích đất đai nhất. Quặng bauxite trải rộng trên mặt đất, vì vậy sự khai thác bauxite tác hại hủy diệt cây cối, hoa màu, chim muông cầm thú. Tây nguyên là rừng, khi khai thác bauxite thì rừng bị phá hủy trung bình 30-50 ha/triệu tấn bauxite. Diện tích bề mặt cần xử dụng để lấy bauxite trung bình 150 ha / triệu tấn, và diện tích mặt bằng cần để sản xuất alumina là 450 ha/triệu tấn. Với số đất được trưng dụng lớn lao như vậy, thử hỏi có bao nhiêu nhân công từ bỏ nông nghiệp trồng cafe, hạt tiêu, cao su được đưa vào làm việc trong nhà máy bauxite ở Đắc Nông (****) Tính trung bình phải mất 2.5 ha mới tạo ra một việc làm .... 2.5 ha để trồng cây xuất cảng như trà, cafe, tiêu, cao su .... sẽ giúp cho một người dân có đời sống sung túc hơn khi phải xây công ty luyện bauxite. Và liệu những người dân ở đó có trình độ để được thu nhận vào làm việc trong công ty khai thác bauxite hay không?

2. Tác hại thứ hai: Làm kiệt quệ nguồn nước ở Tây Nguyên. Trong tiến trình luyện kim, việc loại bỏ những chất thừa thải để rửa sạch kim loại sẽ tốn rất nhiều nước, các giai đoạn lọc bauxite và giai đoạn chế biến từ bauxite sang alumina cần 14,832 triệu m3 nước/năm, trong khi nước để tiêu dùng cho sinh hoạt người dân Đắc Nông là 0.432 triệu m3/năm mà thôi. Như vậy những xưởng bauxite sẽ vơ vét nước trên các sông hồ, và cả nguồn nước ngầm ở dưới lòng đất của Tây Nguyên mới đủ. Tình trạng khan hiếm nước ở Tây Nguyên vì xử dụng quá đà cho kỹ nghệ khai mỏ bauxite sẽ làm cho một Cao Nguyên cây cối xanh tươi, thác nước thơ mộng, chim chóc đầy đàn ... sẽ trở thành sa mạc khô cằn trong những năm tháng tới. Vì thiếu nước, vì cây cối bị ủi láng bình địa để lấy bauxite, vì bụi mù đỏ tung bay dầy trời và mang đầy hoá chất trải khắp vùng trời Tây Nguyên....Tây Nguyên sẽ trở thành vùng đất chết đầy chất độc hại môi trường sống.

3. Tác hại thứ ba: Gây ô nhiễm trong nước uống và sinh hoạt hằng ngày: Nước dùng trong tiến trình luyện alimina sẽ bị thải ra mang chất độc hóa học, với kỷ thuật khái thác vô trách nhiệm của chế độ CSVN hiện nay, nước thải đó sẽ tan biến vào lòng đất hòa với nguồn nước thiên nhiên làm cho nước trên ao hồ, sông, suối, giếng bị ô nhiễm chất hoá học tác hại khôn lường cho sức khoẻ của người dân. Trong tiến trình chế biến từ bauxite đến alumina sản sinh ra hàng hà sa số chất toxic (chất độc), đây là một loại hoá chất tác hại cho nguồn nước và cần phải có kỷ thuật cao để chận đứng sự tác hại do chất toxic gây ra ở hai thượng nguồn sông Đồng Nai và Serepok. Người dân sống dưới hạ hạ nguồn đều phải gánh chịu hậu quả này.

Chúng ta còn nhớ công ty Vedan của Đài Loan không có hệ thống lọc nước sau tiến trình sản xuất đã gây ô nhiễm sông Thị Vải để lại bao nhiêu độc chất trên đó, và cả giòng sông Thị Vải giờ đây như là một giòng nước trộn sửa, nhưng đây không phải là giòng sửa mẹ là là một giòng độc dược. Những độc chất thải ra trong khi biến chế Alumian còn độc hại gấp bội lần so với vụ chất độc giòng sông Thị Vải.

4.Tác hại thứ tư: Bùn đỏ (red-mud) nguy nhất, tác hại tột cùng: Bùn đỏ là chất thải ra nhiều nhất trong tiến trình tinh luyện từ bauxite đến Alumina đó là một loại pha trộn chất độc hóa học mang màu đỏ sền sệt như bùn cho nên gọi là bùn đỏ. Phân chất trong bùn đỏ này thì nó chứa những hoá chất độc hại như: 30-60% Helmatic-Fe2O3, 10-20% Trihydrate Aluminium-Al2O2, 3-50% Silicon Dioxide-SiO2, 2-10% Sodium Oxide-Na2O, 2-8% Calcium Oxide-CaO, 2-50% Titanium Dioxide-TiO2 .... cùng một số chất hóa học khác nữa như, Nitrogen, Potasium, Chromium, Zinc ...... (1) Đặc biệt bùn đỏ này không khử trừ được, không tiêu diệt được, nó tồn tại mãi mãi, nó trơ ra, nhưng mà hễ nó đụng vào đâu là hủy diệt môi trường sống ở đó.

Hiện nay trên thế giới chưa có một quốc gia tân tiến nào có thể giải quyết chất bùn đỏ này kể cả Hoa Kỳ cũng chưa có cách hủy diệt nó, cho nên Hoa Kỳ có những mỏ bauxite ở nhiếu tiểu bang nhưng họ không khai thác vì sợ ô nhiễm môi trường sống. Người Mỹ chỉ đi mua Alumina của thế giới đem về tinh chế ra nhôm (aluminium) để dùng trong kỹ nghệ. Hiện nay Úc Đại Lợi là nước khai thác mỏ bauxite lớn nhất thế giới và có độ an toàn cao, vì họ có nhiều lợi thế để cất dấu lớp bùn đỏ độc hại đó, nhờ địa hình của nước Úc bằng phẳng, ở dưới có lớp đá ngầm bảo vệ, dân cư những vùng có mỏ bauxite rất thưa thớt cho nên thuận lợi cho việc chế biến Alumina từ bauxite tại chỗ. Một vài quốc gia khác thì dùng những phương pháp dấu bùn đỏ cạnh bờ biển, và những hố chôn bảo vệ kỹ lưỡng.

Còn tại Việt Nam thì công ty bauxite làm ngay tại Đắc Nông và hàng triệu tấn bùn đỏ này sẽ được chôn cất trong lòng đất Tây Nguyên. Như vậy với những hoá chất trộn lẫn đó có tác hại như một lại bom bẩn hủy hoại con người và môi trường sống. Lượng bùn đỏ ở Tây Nguyên thẩy vào hố chứa trung bình là 1733 tấn/1 ngày (****)

Dự án Tân Rai có lượng bùn đỏ thải ra môi trường: 826.944m3/năm, lượng bùn oxalate thải ra môi trường 28.800m3/năm, lượng nước độc thải ra từ nhà máy 4,625 triệu m3/năm. Khối lượng quặng bauxite khai thác của dự án này lên tới 2,32 triệu m3/năm, dẫn đến nguy cơ tổng lượng bùn đỏ phải tích tụ trên cao nguyên cả đời dự án Tân Rai 80-90 triệu m3. Nhưng tổng dung tích của hồ chứa của dự án chỉ có 20,25 triệu m3, số bùn đỏ còn lại không biết chứa ở đâu?” (****) chắc chắn rằng sẽ chảy vòng vòng trên miền Cao Nguyên Trung Phần hoặc theo sông Đồng nai và sông Serepok về dưới hạ nguồn nuôi sống người dân!

5. Tác hại thứ năm: Vế phương diện khai thác với tham vọng chính trị hơn là khoa học và kinh tế: Trong tiến trình khai thác mỏ bauxite chế thành Alumina, cần một nhà máy nhiệt-điện (Thermo-Electricity) tại chỗ có đủ công suất cao để làm việc, đằng này kế hoạch dùng nhà máy nhiệt-điện từ Quảng Ninh câu dây cáp lên Đắc Nông, với khoảng cách quá xa như vậy, liệu rằng những dây cáp điện có đủ sức chịu đựng trong tiến trình sản xuất hay không?

Đặc tính ít học độc tài của chế độ CSVN dẩn đến tai hoạ nguy hiểm hủy diệt đời sống con người, người dân Tây Nguyên hạnh phúc sống với núi rừng thiên nhiên trồng trọt, nay những đất sinh sống ấy bị cấm đóan đẩy họ đi vào những vùng được chỉ định, đầy bụi mù vi khuẩn, luôn luôn bị canh chừng vì sợ nổi loạn .... như vậy hành động này chắng khác gì hủy hoại tài nguyên “rừng vàng, biển bạc” và phá hủy vùng đấy Bazine màu mở Tây Nguyên.

Dân số Đắc Nông hiện nay 400,000 nhưng sau khi biến thành khu kỹ nghệ bauxite, hàng trăm công xưởng phụ sẽ mọc lên để đáp ứng nhu cầu, dân số sẽ tăng lên gấp bội, môi trường sống càng phức tạp, liệu rằng bộ chính trị đảng CSVN có bao giờ nghĩ đến vấn đề này hay không? hay sống chết mặc bây tiền thầy bỏ túi?

Tệ hại hơn nữa là dự án chẳng có kế hoạch nào để đem lại đất đai sau khi đã khai thác quặng bauxite. Sự mất mát lớp đất xốp trên bề mặt sẽ rất dễ tạo nên lũ lụt, trụt đất, chuồi đất ở vùng Tây Nguyên nơi chưa bao giờ xẩy ra những thiên tai này.

6. Tác hại thứ sáu: Thiệt hại cuộc sống người dân: Hiện nay, muốn khai thác hảng bauxite phải cạo lớp đất ở trên, ủi rừng, phá 2/3 diện tích tỉnh Đắc Nông, bao nhiêu nguồn lợi sinh sống của dân cư bị san bằng phá sạch, liệu rằng nhà cầm quyền đảng CSVN có tìm kế sinh nhai cho những người dân bất hạnh này không? Hay vẩn dùng hệ thống quy hoạch cướp nhà cướp đất, cướp ruộng, cướp vườn, ăn chận, ăn bớt của CSVN đối với người dân Tây Nguyên. Trong chương trình khai thác không thấy có kế hoạch nào sau khi khai thác xong sẽ biến những vùng đất đó thành đất có thể canh tác trở lại. Hay là sau khi khai thác xong, trở thành những căn cứ quân sự của Tàu Cộng đang đổ người (lính trá hình) sang khai thác bauxite. Nếu không có kế hoạch để hồi sinh đất lại thì chẳng khác nào tỉnh Đắc Nông trở thành vùng đất chết không có môi trường sống như ở những nơi bị bom nguyên tử.

III. Một vấn đề nguy hại hơn cả mọi vấn đề: Tàu Cộng khai thác mỏ Bauxite Tây Nguyên
Điểm "xanh" trên tổ quốc Việt Nam,
địa điểm chiến lược tại sao đảng CSVN
đem "kẻ thù Bắc Phương truyền kiếp vào đây?"
Ngày 9/04/2007 nhật báo Nhân Dân Trung Cộng (People Chinese) đăng bản tin tựa đề: Một công ty của Trung Cộng đang đầu tư vào khai thác bauxite tại Việt Nam (2), bài báo viết: “Chalo, một công ty dẫn đầu về khai thác quặng mỏ của Trung Cộng, đang “chờ” cấp môn bài để xây cất công ty khai thác mỏ bauxite ở Đắc Nông Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam ..... và nó trở thành một dự án lớn nhất đầu tư tại Việt Nam của Trung Cộng”

Điểm "xanh" trên tổ quốc Việt Nam, địa điểm chiến lược tại sao đảng CSVN đem "kẻ thù Bắc Phương truyền kiếp vào đây?"

Những tin đồn trong những ngày gần đây, cho rằng hiện nay Trung Cộng đem nhân viên kỹ thuật, đem lính canh đến bảo vệ tại vùng Đắc Nông. Như chúng ta đã biết, Trung Cộng đã thiết lập căn cứ hải quân tối tân ở Tam Á thuộc đảo Hải Nam mục đích để mở rộng ảnh hưởng ra biển Đông Thái Bình Dương, trước mắt thanh toán hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Nay để Trung Cộng khai thác mỏ bauxite tại Tây Nguyên thì chẳng khác gì mở đường cho họ đem hàng ngàn, hàng vạn người Trung Cộng, hoặc lính Trung Cộng trá hình đến cư trú và làm việc tại nơi đây. Sau này trở thành một Chợ Lớn thứ hai ở Tây Nguyên, hoặc có thể biến thành một căn cứ quân sự quan trọng nằm trên cột xương sống Việt Nam.

Ai cũng biết rằng hiện nay Trung Cộng đang xâm lăng nước ta về mọi mặt kinh tế, chính trị, quân sự, an ninh ... họ muốn Việt Nam thành một tỉnh lỵ của Tàu mà không cần đem quân xâm lấn mà, chỉ dùng những đòn phép ma mãnh chủ trương từng bước và có kế hoạch nhất định: bước một, tạo chính quyền bù nhìn CS Việt Nam làm thừa sai của Trung Cộng, nay nhân dân đã thấy Việt Cộng đóng vai rất được việc Trung Cộng muốn. Bước hai, xâm lấn theo kiểu tằm ăn dâu, lấn tới một ngày một ít, được đằng chân lân đằng đầu, được vùng đất biên giới thì đến hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bây giờ tiến vào Tây Nguyên. Song song với kế hoạch tằm ăn dấu ấy, Trung Cộng dùng biện pháp xâm lăng kinh tế làm cho nền kinh tế vốn yếu kém của nước ta càng kiệt quệ, dân ta phụ thuộc hàng hoá Tàu càng nhiều càng tốt. Đến khi điều kiệnchín mùi, Việt Nam hoàn toàn bị tê liệt, thì Trung Cộng sẽ tuyên bố những điều mà chúng ta không ngờ trước được, như năm 2007 Trung Cộng đùng một cái tuyên bố Trường Sa và Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của huyện Tam Sa .... và lịch sử của Trung Cộng đang dạy học con cái của họ xem Việt Nam là huyện của Tàu ....

Hiện nay không ai có thể đến tại vùng Đắc Nông để xem ai là người thực sự xây dựng công trình chế biến mõ bauxite, các ngõ đường vào công trình xây dựng khai thác mỏ bauxite đều canh gác nghiêm ngặt ... sự canh gác nghiêm ngặt như vùng cấm địa chẳng khác nào người dân không được bén mảng vùng Ải Nam Quan và các vùng đất biên giới đã mất. Sự cấm ngặt không cho bất cứ người dân nào đến các công trình bauxite ở Đắc Nông chắc chắn có gì thật bí ẩn trong đó .... có thể đó là bí mật an ninh quốc gia tức là Nguyễn Tấn Dũng thuần phục cho lính Trung Cộng đến Tây Nguyên khai thác tài nguyên bauxite.

Đài RFA trong chương trình phát thanh ngày 06/03/2009 vừa qua có đưa tin Trung Quốc đã có mặt trên Tây Nguyên như sau: “Vấn đề an ninh đất nước như thủ tướng (CSVN) Dũng hứa đã bị dư luận nghi ngờ khi phát hiện một số lớn công nhân người Trung Quốc đã có mặt tại khu vực có quặng mỏ, mặc dù chính quyền (CSVN) đánh tiếng cho rằng họ là công nhân sẽ làm việc trong các công ty Trung Quốc nhưng hình như thông tin này không làm dư luận an tâm. (điều này đã xác nhận có người Trung Cộng ở Tây Nguyên)

Nhà văn hóa Nguyễn Huệ Chi, lên tiếng về vấn đề này cũng đồng tình với những lo ngại mà nhiều người cho là trước mắt:

- Việc khai thác sẽ gây xáo trộn cho người dân tộc trên vùng Tây Nguyên nhưng nghiêm trọng hơn là người ta đem những người mà dân tộc Việt Nam cảnh giác từ hàng ngàn năm nay vào đấy khai thác mới đáng nói.

Tiến Sĩ Khoa Học Nguyễn Văn Khải cũng tỏ ra quan ngại khi để cho người nước ngoài khai thác khi nhà nước không có một kiến thức nào về vấn đề này: - Nhà nước không làm được việc thì chờ cho thế hệ sau này làm, chứ giao cho nước ngoài thì con cháu chúng ta còn gì?

Trong việc để Trung Quốc khai thác quặng bauxite tại Tây Nguyên chúng ta thử đặt một số vần đề với nhà cầm quyền CSVN như sau:

Một là, cách đây vài thập niên, nghĩa là vào năm 1980 Việt Nam có đề nghị khai thác mở bauxite ở Cao Nguyên Trung Phần và nhờ khối COMECON hợp tác (thời đó COMECON là khối cộng sản Đông Âu đứng đầu là Liên Sô). Sau khi nghiên cứu họ thấy không có lợi cho môi trường sinh thái cao nguyên nên họ đã đề nghị trồng cafe, tiêu, hạt điều và cao su có lợi hơn .... vậy tại sao năm 2009, bộ chính trị CSVN lại cho Trung Cộng đến khai thác và hủy diệt mọi nhu cầu sinh thái tại tây nguyên ... áp lực nào của Trung Cộng đối với bộ chính trị đảng CSVN?

Hai là, hiện nay Trung Cộng cũng có nhiều mỏ bauxite, tại sao họ không khai thác ngay trên đất nước của họ mà đến để khai thác tại Việt Nam, có phải đây là âm mưu thả chất độc đối với dân tộc Việt Nam trong những bước thâm độc xâm lăng của Trung Cộng hay không?

Ba là, nhìn chung việc khai thác mỏ bauxite ở Đắc Nông và Tây Nguyên không đem lại kinh tế cho cho Việt Nam, vậy thì Bộ Chính trị Đảng CSVN vẫn bất chấp mọi dư luận để Trung Cộng vào khai thác, như vậy có phải bộ chính trị Đảng CSVN âm thầm cấu kết với ngoại bang để chấp nhận sự hiện diện của lính Trung cộng ở Tây Nguyên hay không?

Việc khai thác mỏ bauxite ở Tây Nguyên đảng CSVN có đem đến nguồn lợi kinh tế bào cho người dân Việt Nam hay chỉ nghe theo sự mua chuộc của Trung Cộng để hợp thức hoá Trung Cộng hiện diện ở Tây Nguyên Việt Nam?

Lê thành Nhân