Wednesday, August 12, 2009

MỘT CHỨNG TÍCH LỊCH SỬ: XIN CỤ THA CHO CON !

Source: http://hoivanhoanguoiviettudo.com/

Ngô Đình Nhu
* HVHNVTD: Tất cả chúng ta đều có bổn phận phải nói lên sự thật, không phải để kết tội những người vì quyền lợi cá nhân đã gây nên tội ác mà để cảnh tỉnh những ai còn bưng bít che giấu, bóp méo lịch sử cho mưu đồ chính trị bất chính sau nầy.

Trong cuốn băng dài 30 tiếng đồng hồ do thư viện Johson Library ở Austin, Texas, công bố ngày 28.02.2003, Tổng Thống Johnson đã gọi các Tướng miền Nam Việt Nam được Hoa Kỳ thuê làm đảo chánh lật đổ và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm là "một bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa" (agoddam bunch of thugs). Họ là ai và đã làm gì mà bị Tổng Thống Johnson miệt thị như vậy?

Nhận diện những kẻ giết người:

Tướng Trần Văn Đôn cho biết các sĩ quan sau đây đã nằm trong nhóm đứng ra tổ chức đảo chánh: Trung Tướng Dương Văn Minh, Trung Tướng Trần Văn Đôn, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân, Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, Thiếu Tướng Nguyễn Khánh, Thiếu Tướng Lê Văn Kim, Thiếu Tướng Trần Văn Minh, Thiếu Tướng Phạm Xuân Chiểu, Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm, Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, Đại Tá Đỗ Mậu, Đại Tá Dương Ngọc Lắm, Đại Tá Nguyễn Văn Quan, Đại Tá Nguyễn Hữu Có, Đại Tá Trần Ngọc
Huyến, Đại Tá Nguyễn Khương và Đại Tá Đỗ Cao Trí.

Trong một cuộc phỏng vấn, Tướng Khánh có nói với chúng tôi rằng ông là người được CIA tiếp xúc trước tiên khi muốn làm đảo chánh. Nhưng theo tài liệu, CIA đã cho hai điệp viên khác nhau đến gặp Tướng Khiêm và Tướng Khánh cùng một lúc. Điệp viên Lucien Emile Conein đến gặp Tướng Khiêm, một nhân viên CIA, lúc đó là Tham Mưu Trưởng Liên Quân, và cho biết quyết định của Hoa Kỳ muốn lật đổ Tống Thống Ngô Đình Diệm. Tướng Khiêm đồng ý nhận thực hiện kế hoạch đó, nhưng gợi ý nên đi gặp Tướng Dương Văn Minh và Tướng Trần Văn Đôn. Trong khi đó, một điệp viên khác là Al Spera, cố vấn chính trị Bộ Tổng Tham Mưu, đi Pleiku gặp Tướng Nguyễn Khánh, một cộng tác viên khác của CIA, để thảo luận về việc này. Khi Al Spera hỏi Tướng Khánh về tướng Khiêm, Tướng Khánh đã nắm chặt hai bàn tay của mình lại và nói: "Chúng tôi như thế này". Sau khi Tướng Khiêm và Lucien Conein phác họa xong kế hoạch hành động, ngày 02.10.1963 khi Tướng Đôn lên phi trường đi Nha Trang thì Lucien Conein đến gặp và hẹn sẽ nói chuyện với nhau ở Nha Trang. Tối hôm đó, tại Nha Trang, Lucien Conein thuyết phục Tướng Đôn làm đảo chánh và Tướng Đôn đã đồng ý. Ngày 05.10.1963, Lucien Conein lại đến bàn chuyện này với Tướng Dương Văn Minh. Tướng Minh cũng đồng ý. Tướng Đôn được giao cho phối trí lực lượng, còn Tướng Minh lãnh đạo Hội Đồng Cách Mạng. Tất cả nằm dưới sự chỉ đạo của Lucien Conein và Tướng Khiêm.

Vai trò của Lucien Emile Conein:

Chúng tôi chưa tìm được tài liệu nào nói về điệp viên Al Spera, nhưng chúng tôi có khá nhiều tài liệu về điệp viên Lucien Emile Conein. Ông sinh năm 1919 tại Paris, mồ côi cha sớm, lúc mới 5 tuổi được mẹ gởi sang Hoa Kỳ sống với bà dì tại Kansas City thuộc tiểu bang Kansas, nhưng vẫn giữ quốc tịch Pháp. Ông đã từng làm điệp viên cho OSS (tiền thân của CIA) từ năm 1943 với cấp bậc Trung Úy, hoạt động chống Đức Quốc Xả trong Đệ Nhị Thế Chiến ở Âu Châu, rồi qua Bắc Việt khi chiến tranh chấm dứt. Từ 1954 đến 1956 ông đến Việt Nam hoạt động trong toán đặc nhiệm dưới quyền của Đại Tá Edward Lansdale, người đã giúp Tổng Thống Ngô Đình Diệm chống lại nhóm Bảy Viễn và Tướng Nguyễn Văn Hinh. Sau đó, ông trở về Mỹ và tham gia Lực Lượng Đặc Biệt (Special Force), nhưng vẫn còn làm việc cho CIA.

Năm 1961 ông đã xin về hưu, nhưng năm 1962 ông được CIA gọi làm việc trở lại và phong cho chức Trung Tá với bí danh là Lulu hay Black Luigi, rồi gởi qua Sài Gòn làm cố vấn cho Bộ Nội Vụ. Nhưng trong thực tế, Lucien Conein có nhiệm vụ móc nối với các tướng Việt Nam mà ông đã có dịp quen biết khi phục vụ dưới quyền của Đại Tá Lansdale, để chuẩn bị tổ chức đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Đại Sứ Henry Cabot Lodge gọi Lucien Conein là "the indispensable man" (con người rất cần thiết). Còn trong cuốn "Vietnam: A History," sử giaStanley Karnow nói rằng Lucien Conein là "một người lập dị, một người náo nhiệt, một nhân viên tình báo rất nhạy cảm và hoàn toàn chuyên nghiệp, thường không thể kiểm soát được". Sau này, Everette E. Howard Hunt cũng đã dự tính dùng Lucien Conein trong vụ Watergate.

Mỗi lần được phỏng vấn, Lucien Conein thường mở đầu câu chuyện bằng câu: "Bây giờ, đây là sự thật hai mặt, là thứ danh dự của hướng đạo sinh, là sự thật hai mặt" hay "Đừng tin bất cứ điều gì tôi nói; tôi là một tên nói dối chuyên nghiệp" Khi cuộc đảo chánh ngày 01.11.1963 xẩy ra, Lucien Conein đến Bộ Tổng Tham Mưu chỉ đạo trực tiếp. Ông ngồi trên ghế của Tướng Lê Văn Tỵ, đặt hai túi bạc dưới ghế, hai chân gác lên bàn, bên cạnh có khẩu 375 Magnum, chỉ huy các tướng Việt Nam thực hiện. Trong cuốn Việt Nam Nhân Chứng, Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin ông Diệm và ông Nhu đã ra khỏi Dinh Gia Long, Lucien Conein đã hỏi: "Hai ông ấy đi đâu? Phải bắt lại cho kỳ được, vì rất quan trọng". Lucien Conein đã nói với các tướng đảo chánh bằng tiến Pháp: "On ne fait pas d'omelette sans casser les oeufs." (Người ta không thể làm món trứng rán mà không đập bể những cái trứng.) (trang 228) Khi bước xuống thuyền đài ngày 03.06.1998 tại Virginia, Lucien Conei đã ôm theo khá nhiều bí mật của cuộc đảo chánh ngày 01.11.1963.

Trong cuốn "Việt Nam nhân chứng" Tướng Trần Văn Đôn nói rằng trong kế hoạch đảo chánh, ông rất dè dặt với Tướng Khiêm vì tướng này rất được ông Diệm và ông Nhu tin cậy. Vợ ông, bà Đinh Thị Yến, lại có chân trong ban chấp hành Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới Trung Ương của bà Nhu và là dân biểu Quốc Hội, thường đi sát với bà Nhu. Ông nhờ Tướng Minh thăm dò. Qua một người Mỹ "cam kết và tìm hiểu", Tướng Minh cho biết Tướng Khiêm đồng ý tham gia đảo chánh. Khi viết như vậy, Tướng Đôn không biết gì nhiều về sự sắp xếp của CIA trong cuộc đảo chánh này. Ngay cả khi lệnh giết ông Diệm và ông Nhu được CIA truyền xuống, Tướng Đôn cũng không hề được cho biết. Một vài câu chuyện sau đây do một nhân chứng có mặt tại Bộ Tổng Tham Mưu trong suốt thời gian cuộc đảo chánh ngày 01.11.1963 xẩy ra, cũng đủ cho chúng ta thấy vài trò của Tướng Khiêm quan trọng như thế nào:

- Khoảng 1 giờ 25 trưa ngày 01..11.1963, Tướng Khiêm bước ra bước vào nơi ông làm việc. Đúng 1 giờ 30, tin đảo chánh được phổ biến, các tướng lãnh liên miên ra vào văn phòng Tướng Khiêm.

- Sáng 02.11.1963, có người đem bộ complet màu xám sậm đến đứng ở lầu ba chờ. Tuy phái của Tướng Khiêm ra hỏi thì được biết người này đượcgọi đem áo tới cho Tổng Thống Diệm. Khoảng 9 giờ, một đại tá bước vào phòng Tướng Khiêm. Hai phút sau, đại tá này bước ra và bảo người kia đem bộ đồ complet về, vì Tổng Thống đã chết! Trên lầu, nhiều tướng lãnh ra vào phòng Tướng Khiêm rất nhộn dịp. Buổi tối, sau khi xác ông Diệm và ông Nhu được liệm xong, một báo cáo đã được trình lên cho Tướng Khiêm biết.

- Khuya 03.11.1963, khi mọi việc đã xong xuôi, Tướng Khiêm cho gọi Đại Tá Trần Văn Trung, Tham Mưu Phó Nhân Viên, và Đại Tá Đặng Văn Quang, Tham Mưu Phó Tiếp Vận, vào văn phòng ông và ra lệnh: "Hai 'toi' trực ở đây đêm nay, 'moi' về nghỉ.

- Một tuần lễ sau, Tướng Khiêm bước vào ban văn thư và hỏi Đại Úy Phạm Bá Hoa, chánh văn phòng của ông: "Có cho anh em mỗi người lên một cấp chưa? Nếu có gì xảy ra, 'moi' bay đầu thì các anh em cũng không được yên đâu." Đọc thêm cuốn "Đôi dòng ghi nhớ" của Đại Tá Nguyễn Bá Hoa, đọc giả sẽ thấy rõ hơn quyền hành của Tướng Khiêm trong cuộc đảo chánh này.

Lệnh Hành Quyết:

Từ trước đến nay, chúng ta thường tranh luận về ai đã ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Nay cuốn băng của Tổng Thống Johnson đã chính thức xác nhận rằng chính quyền Kennedy (Kennedy administration) đã ra lệnh giết, nên vấn đề này không cần phải tranh luận nữa. Lệnh hành quyết do Washington truyền cho Đại Sứ Lodge ở Sài Gòn. Ông này truyền cho Trần Thiện Khiêm và Dương Văn Minh qua Lucien Conein.

Tướng Minh giao cho cận vệ của mình là Đại Úy Nguyễn Văn Nhung thi hành dưới sự chỉ đạo của Tướng Mai Hữu Xuân. Các sĩ quan khác, kể cả Tướng Đôn, đều không biết gì hết.

Như đã nói ở trước, ngoài Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu, Đại Sứ Henry Cabot Lodge đã quyết định giết thêm Ngô Đình Cẩn và Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt. Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho Nguyễn Văn Nhung đưa Đại Tá Lê Quang Tung ra nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế phía sau Bộ Tổng Tham Mưu đâm chết và vùi thây ở đó. Muốn giết ông Ngô Đình Cẩn, CIA phải lừa ông vào Tòa Lãnh Sự Mỹ ở Huế, nói rằng sẽ cho đi ngoại quốc, sau đó dùng công điện báo cáo láo về Washington nói rằng trong nhà ông Cẩn có hầm chôn người và súng, dân chúng đang biểu tình, rồi giao ông Cẩn cho Tướng Khánh giết. Trong cuốn "Việt Nam Nhân Chứng", Tướng Đôn xác nhận trong nhà ông Cẩn không hề có hầm chôn người hay súng. Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng sở dĩ Tổng Thống Johson đã gọi nhóm tướng lãnh được thuê làm đảo chánh là "một bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa" vì hai lý do: Lý do thứ nhất là cách thức giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu. Chưa một nhà lãnh đạo nào trên thế giới đã bị bọn tay chân bộ hạ thân tín, được hưởng nhiều ơn mưa móc, giết một cách thê thảm như thế trong một cuộc đảo chánh. Lý do thứ haisự tham nhũng và bất tài của nhóm này.

Hành Động Giết Người :

Khoảng 10 giờ ngày 02.11.1963, khi chiếc M113 chở xác ông Diệm và ông Nhu về đến Bộ Tổng Tham Mưu, đậu trên sân cỏ phía tay phải. Mở cửa xe phía sau ra, người ta thấy ông Diệm mặc bộ complet màu xám sậm, ông Nhu mặc bộ complet màu hơi nâu tím. Cả hai bị trói thúc ké tay sau lưng, nằm nghiêng trên sàn xe, máu me dầm dề. Một quân cảnh đứng gác tại đó cho biết, Tướng Dương Văn Minh đã xuống và tự tay vạch quần ông Diệm ra xem có "chim" không! Với các dấu vết trên hai xác chết như vậy, nhiều người đã đặt câu hỏi:

Hai ông đã bị giết như thế nào? Cách tường thuật của mỗi người mỗi khác. Trong cuốn "Assassin in our Time" (Kẻ sát nhân trong thời đại chúng ta) xuất bản năm 1976, ở trang 142, Sandy Lesberg đã mô tả như sau: Ông Diệm và ông Nhu ngồi với hai tay trói sau lưng. Trong khi ông Diệm giữ im lặng, bất thình lình viên thiếu tá dùng dao găm (bayonet) đâm ông Nhu 15 hay 20 lần. Sau đó, hắn ta rút súng lục bắn vào sau đầu ông Diệm. Thấy ông Nhu còn quằn quại trên sàn, viên thiếu tá ban cho ông ta một cú ân huệ bằng cách cũng bắn vào đầu ông ta.

Sandy Lesberg không cho biết ông đã lấy tin này từ ai. Thật ra, lúc đó Nguyễn Văn Nhung còn là Đại Úy, sau này mới được thăng Thiếu Tá. Với cuốn "Les Guerres du Vietnam" (Chiến tranh Việt Nam" xuất bản năm 1985, Tướng Trần Văn Đôn không hề mô tả gì đến cách giết ông Diệm và ông Nhu, mà chỉ mô tả về sự tàn ác của sát thủ Nguyễn Văn Nhung mà thôi.

Bà Ellen J. Hammer, tác giả của cuốn "A Death in November" (Cái chết vào tháng mười một), nói rằng khi chiếc xe chở ông Diệm và ông Nhu dừng lại ở cổng xe lửa đường Hồng Thập Tự, Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa từ trên miệng cửa xe lia một tràng tiểu liên vào hai ông Diệm và Nhu. Đại Úy Nhung rút súng Colt ra bồi thêm mấy phát vào đầu. Nhưng thấy chưa thỏa lòng, Nhung rút dao găm đâm tới tấp vào ngực hai anh em ông Diệm.

Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa phủ nhận lời tường thuật này, ông nói rằng ông không ngồi trên xe chở ông Diệm và ông Nhu lúc đó. Nếu chính ông đã giết ông Diệm và ông Nhu, người ta cũng đã giết ông như giết Nguyễn Văn Nhung rồi. Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa là một đảng viên đảng Đại Việt, thuộc vào loại căm thù nhà Ngô, sau này đã được Tướng Nguyễn Khánh cho ngồi ghế phụ thẩm quân nhân của Tòa Án Các Mạng, xét xứ và tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn theo lệnh của Henry Cabot Lodge, mặc dù không có bằng chứng xác thực. Do đó, nhiều người vẫn tin vào lời tường thuật của bà Sandy Lesberg. Có lẽ Tướng Nguyễn Chánh Thi là người biết rõ Đại Úy Nguyễn Văn Nhung đã giết ông Diệm và ông Nhu như thế nào, vì sau cuộc "chỉnh lý" ngày 30.01.1964, trước khi ra lệnh giết Đại Úy Nhung để phi tang một nhân chứng quan trọng (có lẽ theo lệnh của CIA), ông đã đích thân lấy lời khai của Nhung và còn bắt Nhung ngồi viết lời khai về vụ này. Ông có cho tôi nhìn qua tờ khai này năm 1968 khi đang ở Washington D.C. Nhưng rất tiếc, khi xuất bản cuốn "Việt Nam: Một trời tâm sự", ông đã không cho in nguyên văn tờ khai này, mà tự ý sửa đổi và cắt bớt đi. Tướng Mai Hữu Xuân được đổi thành Tướng Thu, mặc dầu trong Quân Lực VNCH lúc đó không có tướng nào tên là Tướng Thu cả. Theo tờ khai mà Tướng Thi công bố trong cuốn sách nói trên, Đại Úy Nhung đã khai như sau: Khi xe M113 chở ông Diệm và ông Nhu chạy được chừng 500 thước, Thiếu Tướng Thu (tức Mai Hữu Xuân) chạy xe ngược chiều trở lại và đưa lên một ngón tay trỏ. Đang còn ú ớ chưa biết giết ai, ông Diệm hay ông Nhu, họ định chạy qua để hỏi lại cho rõ thì dân chúng ùa ra xem rất đông, không chạy qua được. Bổng Thiếu Tướng Thu đưa hai ngón tay, họ hiểu rằng ông ra lệnh bắn cả hai người. Thiếu tá Nhung liền rút súng Colt 12 bắn mỗi người 5 phát, và sau đó bắn ông Nhu thêm ba phát vào ngực nữa. Tướng Lê Minh Đảo, lúc đó là Đại Úy tùy viên của Tướng Lê Văn Kim, đã cho biết như sau: Sau khi ông Diệm và ông Nhu bị hạ sát ít lâu, Nguyễn Văn Nhung có kể lại chuyện này cho ông nghe. Nhung nói rằng khi được lệnh giết cả hai ông, Nhung đã bắn ông Nhu trước. Ông Diệm thấy thế đã nhắm mắt lại. Nhung liền bắn ông Diệm 5 phát. Sau đó quay qua bắn ông Nhu thêm 3 phát nữa. Điều này phù hợp với lời khai mà Tướng Nguyễn Chánh Thi đã công bố.

Tuy nhiên, sự thật không phải chỉ có thế. Xác ông Diệm và ông Nhu đã được đưa vào bệnh xá của Bộ Tổng Tham Mưu để khám nghiệm. Bác sĩ Huỳnh Văn Hưỡn (hiện nay ở New York), giám đốc bệnh xá này lúc đó, đã khám nghiệm và chứng nhận rằng cả ông Diệm lẫn ông Nhu đã bị bắn từ sau ót ra trước. Xác ông Diệm có nhiều vết bầm, chứng tỏ đã bị đánh đập trước khi bắn. Xác ông Nhu bị đâm nhiều nhát, áo rách nát và đầy máu. Vậy ông Diệm và ông Nhu đã bị trói, đánh đập và đâm lúc nào? Một nhân chứng rất quan trọng hiện đang ở Melbourne, Úc Châu, cho biết ông là người đi trên chiết M113 chở ông Diệm và ông Nhu từ nhà thờ cha Tam về Bộ Tổng Tham Mưu, nên đã chứng kiến những sự việc xẩy ra. Câu chuyện ông kể lại có vẽ hợp lý hơn cả. Theo nhân chứng này, vào trưa 01.11.1963, chi đoàn thiết giáp của ông được lệnh vào Sài Gòn để tăng cường bảo vệ thủ đô. Khi đến Sài Gòn, chi đội này được chia làm hai toán, một toán hợp lực với quân bạn bao vây Dinh Gia Long, một toán làm vòng đai an ninh cho Bộ Tổng Tham Mưu. Nhân chứng ở trong toán đóng tại Bộ Tổng Tham Mưu.

Sáng 02.11.1963, khoảng 6 giờ 15 phút, toán ông được lệnh di chuyển ra khỏi Bộ Tổng Tham Mưu. Khi vừa ra khỏi cổng chính thì thấy có 3 chiếc xe Jeep đang chờ. Chiếc thứ nhất có Tướng Mai Hữu Xuân và 3 cận vệ. Chiếc thứ hai chở Đại Tá Dương Ngọc Lắm, Đại Úy Nguyễn Văn Nhung và Đại Úy Dương Hiếu Nghĩa. Chiếc thứ ba chở 4 người, trong đó có Đại Úy Phan Hòa Hiệp. Sau đó là hai chiếc M113. Nhân chứng ngồi ở chiếc thứ nhì. Cuối cùng là 2 chiếc GMC chở đầy lính có vũ trang đầy đủ. Khi đến Chợ Lớn, gần một nhà thờ, xe chạy chậm lại, các binh sĩ trên hai chiếc GMC được lệnh nhảy xuống, một số bố trí xung quanh nhà thờ, số còn lại bố trí ở vòng ngoài. Xe Tướng Xuân chạy một vòng rồi đậu lại bên kia đường.

Sau cái phất tay của Đại Tá Dương Ngọc Lắm, ba đại úy Nhung, Nghĩa và Hiệp nhảy xuống xe. Đại Tá Lắm ngoắc chiếc M113 có nhân chứng ngồi trên đó đi theo. Nhân chứng cũng nhảy xuống xe. Khi cách Đại Tá Lắm khoảng 2 thước, nhân chứng thấy có 4 người từ trong nhà thờ đi ra. Người đi đầu là Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Người đi tiếp theo là ông Ngô Đình Nhu. Sau cùng là hai tùy viên (Đại Úy Đỗ Thọ và ông Nguyễn Đắc Khá).

Đại Tá Lắm đến chào ông Diệm:

- Thừa lệnh Trung Tướng Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, chúng tôi đến đón cụ và ông cố vấn.

Ông Diệm:
- Ông Đôn và ông Minh đâu hè?

Đại Tá Lắm:
- Thưa cụ, hai ông còn đang bận việc ở Tổng Tham Mưu.
- Thôi được. Thế tôi và ông cố vấn đi cùng xe kia với ông.

Đại Tá Lắm quay người lại chỉ vào chiếc M113 và nói:
- Thưa cụ, xin cụ lên xe này cho.

Ông Nhu khẻ nhíu mày lên tiếng:
- Không thể đón Tổng Thống bằng một chiếc xe như vậy. Để tôi liên lạc với ông Đôn, ông Đính coi xem.

Đại Tá Lắm khẽ nhún vai:
- Tôi không biết. Đây là lệnh của Trung Tướng Chủ Tịch.

Đại Úy Nhung liền oang oang:
- Xin mời hai ông lên xe ngay cho đi.

Mặt ông Nhu đỏ bừng, giọng rất quyết liệt:
- Không được. Để tôi hỏi lại ông Minh, ông Đôn. Tôi đi xe nào cũng được, nhưng còn Tổng Thống ....

Đại Úy Nhung:
- Ở đây không còn Tổng Thống nào cả. !

Ngay lập tức, nhung bảo hai quân nhân chạy đến đẩy hai ông lên xe và hạ cửa xe xuống ...


Xe đi hết đường Nguyễn Trải, vào đường Võ Tánh đến trước Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia thì ngừng lại. Tổng Nha này đã bị chiếm từ ngày hôm trước nên không còn một cảnh sát nào lui tới. Chung quanh, các binh sĩ thuộc Sư Đoàn 5 của Đại Tá Ngưyễn Văn Thiệu canh gác rất cẩn mật. Một Đại Tá từ trên xe Jeep nhảy xuống, bảo các binh sĩ trên xe M113 chở ông Diệm và ông Nhu xuống xe hết. Bảy người trên xe nhảy xuống, nhưng tài xế và anh hạ sĩ xạ thủ được ra lệnh ở lại. Xe được lệnh đi vào Tổng Nha. Khoảng 20 phút sau, chiếc M113 lại từ Tổng Nha chạy ra. Các binh sĩ lúc nảy được lệnh leo lên xe lại. Xe chạy ngược đường Võ Tánh trở lại đường Cộng Hòa. Nhân chứng hỏi hạ sĩ xạ thủ:

- Ông Diệm và ông Nhu đâu ?
- Ở dưới.
- Sao rồi?
- Ông Nhu bị tra tấn khủng khiếp rồi bị xiết cổ chết bằng dây điện. Người ta hỏi ông ta nhiều lần: Vàng, bạc, tiền của cất đâu? Ai giữ? Cơ sở kinh tài gồm những cơ sở nào? Ông Nhu trả lời không biết.
- Còn ông Diệm?
- Ông Diệm bị đè cổ ra trói thúc ké rồi ném vào hầm xe
- Chết hay sống?
- Không biết.

Xe qua khỏi trường Petrus Ký rồi quẹo phải vào đường Hồng Thập Tự thì gặp lại 2 xe Jeep và hai xe chở binh sĩ lúc xuất hành buổi sáng. Xe Đại Tá Dương Ngọc Lắm đi đầu, xe thứ hai có Đại Úy Nhung. Khi đến đường Cao Thắng, bên hông bệnh viện Từ Dũ, xe ngừng lại vì bên kia đang có xe của Tướng Xuân chạy ngược trở lại. Dân chúng ra xem rất đông. Tướng Xuân nhìn Đại Úy Nhung và đưa hai ngón tay trái lên hai lần. Sau đó, ông đưa ngón tay trỏ lên khỏi đầu và co vào duỗi ra đến 4 lần (gióng như bóp cò). Đại Úy Nhung gật đầu rồi đưa tay lên chào.

Khi xe đến gần đường rầy xe lửa thì dừng lại trước cổng xe đã được đóng lại vì đang có đoàn xe lửa đi qua. Đại Úy Nhung từ chiếc xe Jeep nhảy qua chiến M113 có chở ông Diệm và ông Nhu và la lớn: "Xuống! Xuống!" Các binh sĩ trên xe M113 nhảy xuống hết. Nhân chứng vừa nhảy xuống đất thì nghe nhiều tiếng súng nổ. Những lời tiết lộ của nhân chứng này cho chúng ta thêm những yếu tố mới, nhất là đoạn hai ông bị đưa vào Tổng Nha Cảnh Sát để tra tấn và khảo của. Trò khảo của này là một "sở trường" của Tướng Mai Hữu Xuân.

Sự tiết lộ này đã giúp giải thích tại sao hai ông bị trót tay ra phía sau lưng, trên mặt ông Diệm có nhiều vết bầm và trên người ông Nhu có nhiều lát dao đâm. Nguyễn Văn Nhung chỉ leo lên xe M113 trong một thời gian ngắn, không thể gây ra tất cả những thứ đó được. Sau khi thi hành xong lệnh của chủ và lãnh tiền công, "bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa" cấu xé nhau về chức quyền và tiền bạc đưa tới mất mất chủ quyền quốc gia, rồi đến mất nước.

Bây giờ ở nơi các địa tầng "naraca", Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim, Đỗ Mậu, Nguyễn Văn Thiệu, Dương Ngọc Lắm, Nguyễn Văn Quan, Nguyễn Văn Nhung ... đang cùng với hai "ông thầy" Henry Cabot Lodge, Lucien Emile Conein nghiền ngẩm về lời nguyền rủa của Tổng Thống Johnson. Nghe nói trong những năm cuối cùng, Mai Hữu Xuân đã phát điên, thỉnh thoảng quỳ quay vào tường, chấp tay van lạy: "Xin cụ tha cho con!".

Nơi chốn luân hồi, Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang ... không dám bước ra nhìn ánh sáng, Tôn Thất Đính thất thểu như một bóng ma !



HOA NỞ GIỮA LÒNG ĐỊCH - Phùng Ngọc Sa

Phùng Ngọc Sa

Cách đây trên 2350 năm, thiên tài quân sự Tôn Vũ Tử (sinh năm 400 Trước Công Nguyên - Mất năm 330 trước CN) đã để lại cho hậu thế quyển Tôn Tử Binh Pháp (còn gọi là Tôn Ngô Binh Pháp), một tác phẩm bất hũ được xem là một quyển binh thư toàn hảo nhằm mục đích giáo dục các cấp lãnh đạo biết việc ứng dụng nghệ thuật quân sự vào các kế hoạch điều binh; hiện còn được các viện Nghiên Cứu Chiến Lược nổi tiếng trên thế giới dùng, và các chiến lược gia một phần dựa vào đó để soạn thảo kế hoạch tác chiến cho các lực lượng vũ trang quốc gia.

Theo chỉ đạo của chiến lược gia họ Tôn, nếu muốn quân đội chiến đấu hữu hiệu, thâu gặt được nhiều thắng lợi, buộc các cấp lãnh đạo phải biết ứng dụng kỷ thuật tình báo vào các công tác hành binh. Vì thế, Tôn Vũ Tử đã dành trọn cả thiên thứ XIII của bộ Tôn Ngô Binh Pháp để viết, phân tách, giảng dạy và hướng dẫn các nhà quân sự về tình báo với một lời minh xác rõ rệt: «Tri kỷ, tri bỉ, bách chiến bách thắng»; có nghĩa là: «biết mình, biết người trăm trận trăm thắng; trái lại biết mình mà không biết người thì chỉ có thảm bại và trăm trận đều thua». Nói chung, không nắm vững tin tức chính xác và giá trị thì sẽ không bao giờ đoạt kết quả.

Để đạt được hiệu năng nói trên, họ Tôn đã nói cho lãnh đạo các cấp biết, muốn chủ động trên các mặt trận, từ kinh tế, chính trị đến quân sự, thì tiên quyết nhà lãnh đạo phải nắm vững các yếu tố Thiên Thời, Địa Lợi và Nhân Hòa. Tựu trung, muốn có kết quả tốt phải nắm vững các nguồn tin và muốn được vậy thì cần phải có được một hệ thống cán bộ giỏi, can đảm và thông thạo kỷ thuật thâu lượm tin, một là qua các đường lối «thẩm thấu», tức xâm nhập vào hàng ngũ địch (infiltration), hoặc là áp dụng phương pháp cài người (service de noyeautage) mà cán bộ điệp báo (gián điệp+tình báo) văn vẻ gọi là «Hoa Nở Giữa Lòng Địch». Theo ý họ Tôn, dù áp dụng hình thức nào, đòi hỏi người thi hành nhiệm vụ phải có một lý tưởng chiến đấu vững chắc, đặc biệt với những ai được sử dụng vào các điệp vụ cài người; do phải đơn thương độc mã hoạt động giữa lòng địch, phải đối diện với mọi tình huống khó khăn và nguy hiểm, người cán bộ ngoài đức tính bình tĩnh và can đảm, họ buộc phải tiến hành công tác với một niềm tin mãnh liệt giống như các tín đồ của một tôn giáo mới đáp ứng được yêu cầu của vai trò điệp báo.

Xin mời quý độc giả xét vai trò gián điệp trong cuộc chiến Quốc-Cộng vừa qua.

* Vai Trò Điệp Báo Trong Cuộc Chiến Tranh Quốc-Cộng:

Như đọc giả biết, mặc dầu bị Pháp đô hộ hơn 80 năm, toàn dân Việt Nam vẫn bất chấp gian nguy, vẫn kiên trì và không ngừng chiến đấu chống lại bọn đế quốc xâm lược. Hết phong trào Cần Vương rồi đến Văn Thân; hết các chiến công oanh liệt của bộ đội ông Thủ Khoa Huân, quân của tướng Nguyễn Trung Trực ở trong Nam, đến chiến khu kháng chiến của người hùng Yên Thế là ông Đề Thám ở ngoài Bắc, nhân dân ta đâu đã chịu ngồi yên để cho thực dân Pháp an tâm hưởng lợi. Với khí thế toàn dân, toàn diện chiến đấu, cộng với sự hỗ trợ của hệ thống tình báo nhân dân, quân ta nhiều phen giáng trả cho thực dân và thế lực phong kiến nhiều đòn chí mạng, lắm lúc cơ hồ như sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm có hy vọng như ánh sáng cuối đường hầm.

Rủi thay, đến thập niên 1930, khi đảng CSVN ra đời; chúng nhờ được phong trào cộng sản quốc tế tích cực yểm trợ nên khá mạnh, nhưng bọn họ lại có mưu đồ đánh phá phía quốc gia. Do đó lực lượng của ta bị kẹt giữa hai lằn đạn. Ta không những bị thực dân truy lùng tận diệt, mà còn bị cộng sản tìm cách đánh lén, chỉ điểm, cung cấp tin tức về hoạt động của ta cho Pháp. Cụ thể là trước ngày khởi nghĩa Yên Bái năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Thái Học đã nhiều phen bị khó khăn vì phát giác được chính bọn CSVN chỉ điểm cho Tây biết trước các hoạt động của Việt Nam Quốc Dân Đảng (*). Càng về sau, bọn cán bộ CSVN càng ra mặt phản quốc làm chó săn cho Pháp để đánh phá phía quốc gia; điển hình là Võ Nguyên Giáp, một cán bộ cộng sản cao cấp đã từng xin làm con nuôi cho trùm mật thám Pháp Louis Marty. Về sau, 1945-1946, đàn em của Giáp lại công khai tình nguyện bán tin và chỉ điểm hoạt động quân sự của Mặt Trận Quốc Dân Đảng (gồm Việt NamQDĐ+ĐạiViệt QDĐ) cho Cousseau, một tên đầu sỏ tình báo Pháp để bọn chúng phối hợp lùng diệt ta.

* Tương quan lực lượng tình báo của hai phía Quốc-Cộng:

Cả hai phía Quốc-Cộng đều đặt nặng công tác tình báo hòng thâu lượm được nhiều thắng lợi. Tuy nhiên, cán cân lực lượng nghiêng hẵn về phía cộng sản hơn Quốc Gia vì các lý do sau đây:

a. Phần quốc gia:

Cán bộ không được huấn luyện đủ, riêng về phía các chính đảng thì chỉ dựa vào lòng ái quốc và kỷ luật đảng, và nhờ được trang bị lý tưởng chiến đấu nên sẵn sàng hy sinh tính mạng cho chính nghĩa quốc gia. Tiếc thay, vì không được yểm trợ tài chánh, thiếu phương tiện, nên nếu có đạt được phần nào kết quả chẳng qua là nhờ may mắn, hoặc kinh nghiệm và tài năng cá nhân chứ không phải nhờ đường lối chỉ đạo chung mà có.

Về phía quân đội quốc gia khi được thành lập và trưởng thành thì nói chung, về khả năng và kỹ thuật thâu lượm tin tức cũng như danh tài điệp báo thì chúng ta đâu có thiếu người giỏi. Tiếc thay, phải hoạt động theo một đường lối thư lại; cấp lãnh đạo lại không đủ khả năng vận dụng lòng yêu nước và lý tưởng quốc gia mà chỉ dùng bã danh lợi làm động cơ thúc đẩy. Vì thế, người thi hành nhiệm vụ tình báo không phát huy hết khả năng cũng như tinh hoa của nghiệp vụ... Hơn nữa, từ tài chánh cho đến phương tiện hoàn toàn trực thuộc nguồn viện trợ: Ai chi tiền, người đó chỉ huy.

Trước năm 1954, mọi việc đều dựa vào quân đội Pháp và chỉ có người Pháp mới chủ động công tác tình báo; về sau thì do ta trực tiếp sưu tầm, nhưng lại phải trông nhờ vào phương tiện của Mỹ. Tình hình chung, họ có mở rộng hầu bao, và cung cấp đủ phương tiện thì ta nhờ, bằng không thì phải tự xoay xở lấy; với phương thức hoạt động như thế thì đâu có kết quả tốt. Ví dụ cụ thể, Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, khi người viết phải tạm giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiền Phương Sư đoàn 5 Bộ binh tại Bình Long-An Lộc trong một thời gian ngắn; trong sinh hoạt tham mưu hằng ngày, chúng tôi cố mưu tìm Tin A2, tức là tin tức tối mật từ viên cố Vấn Mỹ đặc trách tình báo để biết và theo dõi hoạt động của các đơn vị CS thường quấy phá Sư Đoàn 5 như các Công trường 5,7,9. Rất tiếc, vì một lý do đặc biệt nào đó liên quan đến việc đi đêm giữa Mỹ-VC tại hòa đàm Paris nên viên cố vấn nầy thường úp mở tìm cách thoái thác không cho biết, hoặc có, thì y nói là đơn vị CS còn cách xa Sư Đoàn trên mấy trăm km. Bất ngờ vào những ngày cuối tháng 3-1972, khi các công trường của địch đã bám sát ta, chỉ còn cách bản doanh độ 30km, nghĩa là vừa tầm đại pháo 130 ly, lúc nầy Mỹ mới tiết lộ. May mà Sư Đoàn đã có chuẩn bị trước, bằng không sẽ vô phương cứu chữa và thất trận ngay lúc đó.

2. Phía CSVN:

Trước hết phải xác nhận, cộng sản là một loại «Tôn Giáo Thế Tục», cán bộ của chúng ắt là những «tín đồ» ngoan đạo; do đó bất cứ hành động nào thấy lợi, cần hy sinh để phục vụ đảng và sự nghiệp của quốc tế vô sản thì bọn chúng sẵn sàng dấn thân. Ngoài việc học tập các giáo điều và được trang bị lý tưởng chiến đấu, CSVN còn được quốc tế cộng sản hỗ trợ tài chánh và kỹ thuật tối đa, lại nữa chúng thu lượm được nhiều kinh nghiệm điệp báo từ Hiến Binh Nhựt, OSS Mỹ, KGB Nga, đến Phòng Nhì Pháp nên có nhiều hiểu biết hơn quốc gia; nhờ đó cộng sản đã mưu đồ thực hiện nhiều điệp vụ hơn ta. Ví dụ: khi Hiệp Định Genève ra đời để tạm chia đôi đất nước; phía CSVN đã có sẵn kế hoạch và đã gài người ở lại miền Nam. Chúng ra lệnh chôn giấu vũ khí để chờ cơ hội tái hoạt động. Trong khi đó về phía quốc gia theo các cấp lãnh đạo cao cấp tình báo từ Sở Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng Thống, cho tới Nha Kỹ Thuật về sau tiết lộ: do không có cơ sở quần chúng tại địa phương, đặc biệt ở miền Bắc lại không có chính quyền quốc gia; hơn nữa thiếu tiên liệu và phương tiện, vì thế chỉ gài được một số hoạt động nhỏ và sau một thời gian ngắn, phần lớn đã bị «bể» phải rút vào bóng tối. Về phía người Mỹ, tuy họ có chủ động bằng cách thuê mướn một số người sắc tộc thiểu số địa phương hoạt động quấy phá tại hậu phương địch, nhưng vì không có chính nghĩa và thiếu kiên nhẫn nên sớm tàn lụi.

Nhận xét chung: Do bản chất cũng như vì nặng đầu óc tiểu tư sản, người quốc gia cứ tự cho mình là «chính nhân quân tử» nên quan niệm rằng, việc tìm tòi, bươi móc dí mũi xía vào chuyện của người khác để tìm kiếm tin tức không phải là một hành động chân chính, mà đó là việc làm của kẻ tiểu nhân; trong khi đó phía CS phần lớn là bọn lưu manh, chúng bất chấp thủ đoạn để «moi tin» vì thế khả năng săn lùng theo dõi và thu lượm tin của ta không bằng phía cộng sản.

* Những Điệp Vụ Cài Người Điển Hình Của CSVN Vào Chiến Tuyến Của Ta:

Có nhiều sách báo, hoặc xuất hiện trên các mạng lưới internet tỉ như «Thép Đen», thỉnh thoảng đã phổ biến một số tài liều về hoạt động tình báo mà CSVN đã gài để phá hoại hàng ngũ quốc gia. Trong khuôn khổ bài viết hạn hẹp, chúng tôi chỉ xin trình bày đến quý bạn đọc vài câu chuyện điển hình xảy ra từ trước dưới đây:

1. Việt Minh cộng sản gài nữ sĩ Thụy-An giết chết ông Đỗ Đình Đạo:

Năm 1953, Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí đề cử ông Đỗ Đình Đạo làm Tổng Giám đốc Đoàn Quân Thứ Lưu Động để bình định các tỉnh phía Bắc. Được biết, ông Đạo là một cấp lãnh đạo của một chính đảng quốc gia; với tài sản to lớn và hùng khí sẵn có, ông đã yểm trợ tối đa cho Đệ Tam Khu Chiến của VNQDĐ trong kế hoạch tiêu diệt cộng sản địa phương. Vốn mang hai dòng máu, nhờ đó ông có được một ngoại hình bảnh trai; ông lại giàu nghệ sĩ tính, sử dụng chiếc clarinette một cách tuyệt vời điệu nghệ, vì thế ông đã lôi cuốn khá nhiều nữ giới. Với tài năng, uy tín và nhiều ưu điểm khác của ông, dưới mắt bọn cộng sản đánh giá cho là nguy hiểm; theo chúng ước tính, nếu người hùng Đỗ Đình Đạo tận dụng hết khả năng điều khiển Đoàn Quân Thứ Lưu Động bình định địa phương thì chắc sẽ chóng thành công, trong tình huống đó thì bọn du kích CS Việt Minh địa phương không còn đất chôn thân. Võ Nguyên Giáp được báo cáo, y thấy nguy hiểm nên ra lệnh phải thủ tiêu ông Đạo. Phản gián CS đã vận động một số nữ giới trong đó có nữ sĩ Thụy An tham gia tổ chức ám sát ông Đạo. Nữ sĩ Thụy An, một nữ lưu tuy không đẹp và xuất sắc bằng phu nhân của ông Đạo, nhưng y thị lại được huấn luyện tình báo nên sở trường về nghệ thuật nữ sắc. Mặt khác, theo đánh giá thì nữ sĩ Thụy An dễ tiếp cận với «đối tượng» hơn các ứng viên khác vì dù sao cũng được tiếng là một nữ văn sĩ; lại nữa, bà ta vốn đã từng «già nhân ngãi non với vợ chồng» với ông Đạo từ trước, nên y thị dễ bám sát con mồi. Quanh ông Đạo chẳng ai chú ý đến chuyện liên hệ nam nữ giữa hai người; họ chỉ để ý đến việc đôi nhân tình quấn quýt nhau, và chỉ phát giác được vụ việc khi thấy thi thể của ông Tổng Giám Đốc bị bầm tím và Thụy-An đã cao bay xa chạy. Về sau khám phá và biết được: Thụy An đã lợi dụng việc phòng the, thừa cơ hội «đối tượng» bị thấm mệt sau cuộc truy hoan liền tự tay chích một mũi độc dược cyanure để giết chết người vừa chăn gối.

Kết quả: Chỉ vài năm sau khi nữ sĩ Thụy An ám sát ông Đỗ Đình Đạo chết, do y thị vô ý nói: «Theo lệnh của anh Văn, (tức Võ Nguyên Giáp), tôi đã chích thuốc giết chết tên Đạo.» Cộng sản cho đó là tiết lộ bí mật công tác, hơn nữa bọn chúng muốn bịt đầu mối nên hạ lệnh «trả công» cho Thụy An bằng cách vô cớ ghép bà vào vụ án Nhân Văn Giai Phẩm và bỏ tù bà 15 năm. Năm 1982, một vài chiến hữu VNCH bị tù đày ở trại giam CS Hà Tây, trong dịp đi lao động đã gặp lại bà với thân hình tiền tụy, bị chột mắt trái, đang ngồi trên một sạp lá gần trại Hà Tây, bán thuốc lào với vài ấm trà nụ vối để độ nhật. Bà cho biết, khi bọn công an tới còng tay, bà kịp lấy ngòi viết đâm vào mắt trái và nói:» Tao chỉ muốn nhìn bọn cộng sản chúng bây bằng một con mắt»

2. Vụ gián điệp Phạm Xuân Ẩn:

Trong dịp ông Phạm Xuân Ẩn, cựu tình báo viên cộng sản qua đời vào sáng 20-09-2006 tại Quân Y Viện 175 Sài Gòn ở tuổi 79, báo chí trong nước và ngoại quốc đã viết rất nhiều về nhân vật nầy.

Nhật báo Nhân dân của CSVN xuất bản vào ngày 21-9-06 đã «đánh bóng» một cách quá lố rằng: »Sau hai mươi năm chiến tranh, Phạm Xuân Ẩn đã làm được những việc ít có nhà tình báo cổ kim đông tây nào làm nổi». Riêng các đài ngoại quốc, đặc biệt đài Á Châu Tự Do phát thanh vào ngày 26-09-2006 đã có bài viết về «cái chết của một siêu điệp viên» (Death of a super spy) của Dan Southerland, Phó Tổng Giám Đốc đài nầy nói: «đối với cộng sản Bắc Việt, siêu điệp viên Phạm Xuân Ẩn là một người yêu nước và một người anh hùng. Đối với nhiều người miền Nam, ông ta là một kẻ phản bội.» Dan Southerland còn trích dẫn lời ký giả của tờ báo The Independent ở London là Bruce Palling đề cao Ẩn, y nói: «Ẩn được coi là một trong điệp viên lớn nhất của thế kỷ 20» (An should rightly be viewed as one of the greatest spies of the 20th century). Theo người viết cũng như một số chiến hữu từng biết và có liên hệ với ông Ẩn đều nhận xét: chỉ có bọn CSVN lẫn cả những kẻ từng chủ trương «bôi đen» hoặc «bi thảm hoá» tình hình Việt Nam Cộng Hòa lúc đó cho xấu đi để vừa ý bọn phản chiến ngụy hòa Mỹ, chúng có cớ tháo chạy bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa; chỉ bọn đó mới lớn tiếng đề cao Phạm Xuân Ẩn. Thực tế ông Ẩn chẳng có gì đáng gọi «super hay siêu» mà chỉ là một gián điệp nhị trùng và là một nhà báo từng đại diện cho các hãng tin ngoại quốc nhu Reuter, đặc biệt là phóng viên chính thức của Tạp Chí Time tới 10 năm; nhưng bọn phản gián đã huyền thoại hóa, hư cấu rồi lợi dụng tên tuổi của Ẩn để phóng đại chiến công của CSVN. Sự đời kẻ thắng thì phét lác mấy mà chả được.

Người viết còn nhớ, vào đầu năm 1954, nhờ được sự giới thiệu của Đại Úy Đinh v T, một bậc đàn anh cùng quê làm chánh văn phòng của Trung tướng Nguyễn V Hinh, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia VN lúc đó tiếng Pháp gọi tắt là EMG, tức État Major Général, tọa lạc tại đại lộ Trần Hưng Đạo (Boulevard Galilénie), chúng tôi mới biết được Thượng Sĩ Phạm Xuân Ẩn, một người thông thạo tiếng Pháp lẫn tiếng Anh đang tùng sự dưới quyền Thiếu Tá Vũ Văn Giai, Trưởng Phòng 5/BTTM. Về sau ông là thông dịch viên tiếng Anh chính thức cho cơ quan TRIM, một bộ phận hổn hợp Mỹ-Pháp có nhiệm vụ soạn thảo tài liệu huấn luyện cho quân đội quốc gia VN. Ông Phạm Xuân Ẩn giải ngũ với cấp bực Chuẩn Úy. Theo lượng giá của Phòng Báo Chí Sở Nghiên Cứu Chính Trị thì có lẽ Ẩn đã cọng tác với CIA và đã trở thành một gián điệp nhị trùng kể từ khi tùng sự tại đó.

Về sau nhờ có liên hệ công tác, chúng tôi lại được tái ngộ với ông Ẩn khi ông nầy phục vụ tại Sở Nghiên Cứu với ông LVT và được biết, Phạm Xuân Ẩn còn có tên khác, sinh năm 1927 tại xã Bình Trước, tỉnh Biên Hòa. Được biết, có một thời gian ngắn đương sự đã theo kháng chiến.

Với một số tài liệu trên, chúng tôi cảm biết; Bác sĩ Trần KimTuyến, Giám đốc Sở Nghiên Cứu đã nắm rõ lý lịch của đương sự, và vì thế mới tài trợ cho Phạm Xuân Ẩn đi tu nghiệp báo chí tại Nam California, Hoa Kỳ. Chắc quý độc giả còn nhớ, thời bấy giờ đi du học hay du hành quan sát tại Hoa Kỳ là một việc rất khó khăn; ngay sĩ quan các cấp, không đủ tiêu chuẩn an ninh, có nghĩa từ tứ thân phụ mẫu đến bà con quyến thuộc có liên hệ với CSVN đều bị loại. Sở Nghiên Cứu Chính Trị đã bảo trợ cho ông Phạm Xuân Ẩn đi tu nghiệp thì việc ông ta trở lại phục tại cơ quan chẳng có gì thắc mắc. Điều đặc biệt, khi Bác sĩ Giám đốc Sở bị thất sủng và do áp lực Hoa kỳ, Sở bị giải tán thì ông Ẩn được bố trí làm cho các cơ quan thông tín ngoại quốc cũng là điều hợp lý.
Câu hỏi đặt ra:

1. Nguyên nhân nào mà ông Phạm Xuân Ẩn cố tìm cách cứu BS Trần Kim Tuyến và một số người khác ra khỏi tay CSVN vào phút chót? (Thoát khỏi Sài Gòn ngày 29-4-75) Một số người biết điều đó vội khen ông Ẩn thuộc hạng «trung nghĩa lưỡng toàn». Thật ra, trong điệp vụ chẳng có gì là tình nghĩa, mà đó chỉ là một hành động «bịt đầu mối». Vì nếu để BS Tuyến bị rơi vào tay cộng sản, bị tra khảo chịu không nổi phải tiết lộ bí mật thì số phận của Ẩn mà trước đây từng cộng tác với BS Tuyến sẽ ra sao; do đó ông Ẩn phải bằng mọi giá đưa BS Tuyến thoát khỏi tay CS.

2. Tại sao Ẩn đã đưa gia đình vợ con đi Mỹ, cứu được BS Tuyến vào phút chót mà ông Ẩn chấp nhận ở lại đối diện với CSVN?

Thật ra câu hỏi cũng như đáp số cho đến khi ông qua đời chưa một ai rõ, kể cả những người thân tín nhứt, ông chỉ nói: «Tôi là một đảng viên, mọi việc do đảng quyết định». Phải chăng đó là một lời trung thực của một «tín đồ» ngu dại quá tin vào đảng.

Biết rằng, liền sau khi CSVN chiếm Sài Gòn ông Phạm Xuân Ẩn đã phải:

1. Lập tức nhờ bạn bè sắp xếp để đưa gia đình vợ con trở lại VN, lộ trình từ New York, Mỹ qua Paris, Pháp xuống phi trường Nội Bài và cả gia đình ông Ẩn phải lưu lại tại Hà Nội trong 3 tháng để khai báo và làm kiểm điểm.

2. Bản thân ông Ẩn phải ra Bắc một thời gian để bị tẩy nảo.

3. Cá nhân ông Ẩn bị «quản chế» tại gia; không được xuất ngoại, bị cấm tiếp xúc với bên ngoài, đặc biệt với giới báo chí ngoại quốc. Hình phạt nầy kéo dài cho đến năm 1986 khi Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh ra lệnh mở cửa và «cởi trói», dịp nầy Phạm Xuân Ẩn mới được tiếp xúc đầu tiên với ký giả Dan Southerland. Và sau đó vì nhu cầu giao thiệp với truyền thông nước ngoài, ông Ẩn mới được phép nới rộng liên lạc hòng có lợi cho đảng. Tuy nhiên, ông vẫn dè dặt, không giống như Bùi Tín đã nói trong khi trả lời phỏng vấn một số báo.

Qua phần trình bày sơ lượt trên, chúng tôi ắt quý độc giả đã nghĩ thế nào về mặt trận tình báo giữa ta và CSVN trong cuộc chiến vừa qua, và chắc chắn đã tìm hiểu được một phần nào nguyên nhân thất bại của chúng ta trước kẻ thù cộng sản để rồi rút được bài học kinh nghiệm cho thế hệ tương lai. Quan trọng nhứt là thấy được cái gương nhãn tiền mà bọn Việt Cộng đã đối xử tàn nhẫn với những ai đã vì «lý tưởng cộng sản» mà hy sinh cho chúng. Xin lưu ý, theo nguyên tắc tình báo, đã là nhị trùng thì không thể hoàn toàn tin tưởng được, vì đầu óc bọn lãnh đạo luôn đặt nghi vấn: "không phản bội, không bán đứng đồng chí, không có chuyện trao đổi thì làm sao thâu lượm tin tức tốt?" vì thế, dù có lập công bao nhiêu thì cũng chỉ tin được một phần. Cứ xem gương, từ nữ sĩ Thụy An bị đày đọa, đến Phạm Xuân Ẩn tuy được đề cao, được tuyên dương «anh hùng lực lượng vũ trang», nhưng phải sống trong nổi phập phồng lo sợ, đặc biệt là phải đối diện với một cuộc sống nghèo nàn thiếu thốn đến độ phải nuôi chó bán chim để độ nhật. Thậm tệ nhứt là bọn CSVN đối xử rất dã man và vô nhân đạo với Vũ Ngọc Nhạ; khi bọn CS biết Nhạ đã lộ chân tướng, bị phản giánVNCH lợi dụng thì bọn họ trở mặt đối xử rất tồi tệ với Nhạ. Tuy, được phong quân hàm cấp tướng, nhưng không được trợ cấp, bị túng thiếu đến độ cháu ruột của Nhạ là anh Vũ Ngọc Thưởng sống ở Pháp từng tâm sự với chúng tôi: «Chú tôi túng đến độ nuôi hai đứa con trai không nổi phải nhờ bạn bè gửi chúng nó vào trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, nhưng chẳng may tới đây thì hai đứa nhỏ bị bỏ đói, bà thím cảm thấy lo sợ nên lại xin cho chúng trở lại nhà. Rủi thay vận động chưa xong thì cả hai thằng con trai của Vũ Ngọc Nhạ bị «trúng gió» chết ngay tại trường.» (Phải chăng bọn CS trả thù vì cho Nhạ phản bội nên giết luôn mấy đứa nhỏ).

Trong Tôn Tử Binh Pháp, Tôn Vũ Tử từng viết: « làm chính trị mà không biết tình báo là đui; hành binh mà thiếu tình báo là què». Câu nói của bậc thầy nầy khiến chúng ta cần phải nghiên cứu và suy nghĩ kỹ lại cho đúng hoàn cảnh.

Hiện trạng sinh hoạt chính trị của Người Việt Quốc Gia ở hải ngoại rất nhiễu nhương và phức tạp, không biết đâu là thực đâu là giả; nói chung không khác gì một đám người mù sờ voi: không kế hoạch, thiếu huấn luyện, mạnh ai người đó làm, thậm chí khi hành động không biết mình đã vô tình đi làm tay sai cho bọn CSVN nên đã làm hỏng sự nghiệp chống cộng sản để cứu nước.

Kính mong các đảng phải chính trị, tổ chức hội đoàn đấu tranh hãy mạnh dạn thanh lọc hàng ngũ, đề cao cảnh giác để phòng ngừa sự xâm nhập của bọn gián điệp CS xâm nhập phá hoại hàng ngũ chúng ta.

Phùng Ngọc Sa

* Sách Việt Nam Quốc Dân Đảng của Hoàng Văn Đào

Thư Gởi Ban Trẻ Việt Nam Trong Nước - Chu tất Tiến

Chu tất Tiến

Như các bạn đã biết, tuần lễ cuối tháng 7 năm 2009 có lẽ là thời gian sôi động nhất trong các cuộc xuống đường của dân chúng chống lại sự đàn áp hung tàn của Cộng Sản Việt Nam vừa trắng trợn cướp đoạt tài sản của nhân dân, vửa xử dụng bạo lực trấn áp. Theo ước tính của các linh mục sở tại, có khoảng 250,000 người thuộc giáo xứ Vinh cùng một lúc vừa cầu nguyện trong các nhà thờ vừa cầu nguyện chung quanh nền đất nhà thờ Tam Tòa, vốn thuộc quyền sở hữu của giáo dân từ nhiều thập niên qua. Những người dân chân yếu tay mềm này chỉ đòi hỏi nhà cầm quyền trả lại tài sản của họ để họ tự túc thực hiện các sinh hoạt tôn giáo theo tín ngưỡng của họ. Họ không kêu gọi thực hiện một cuộc Cách Mạng nào, không hề xử dụng chân tay, không cầm đến một cái que nhỏ, vậy mà nhà cầm quyền đã gửi hàng ngàn Công An và bè lũ tới đánh đập họ đến đổ máu, rồi quẳng họ lên xe thùng như những con vật. Linh mục tới hòa giải ư? Đánh cho gục xuống luôn! Đại diện tòa Giám Mục đến khiếu nại ư? Đạp cho vỡ miệng! Đứng ngoài đường mà hát nhạc đạo ư? Quật cho vài hèo rồi tống vào ngục tối! Quan sát viên ngoại quốc đến theo dõi ư? Giật máy ảnh đi, rồi đuổi chúng cút xéo!

Chắc các bạn đã học lịch sử Việt Nam và biết rằng từ cuối thế kỷ 19 sang giữa thế kỷ 20, bọn Tây Thực Dân đô hộ nước mình một cách khắc nghiệt. Chúng xử dụng những tên tay sai Chánh Tổng, Hương Hào, Lý Trưởng, Hương Quản, Trương Tuần để đàn áp dân ta tàn bạo. Nhưng, nói một cách khách quan, những tên cường hào ác bá đó còn thua xa những tay Công An Cộng Sản Việt Nam vào thế kỷ 21. Vì thời đó, các tên cường hào ác bá đó chỉ lợi dụng sự thiếu thông tin, thiếu kiến thức của dân chúng mà đàn áp lẻ tẻ từng cá nhân, từng nhóm nhỏ, và bóc lột trong phạm vi cai trị của mình. Chúng rất sợ báo chí. Một khi bị báo chí nhòm ngó vào, lập tức chúng thay đổi ngay. Còn hiện nay, khi lượng thông tin đã tràn ngập thế giới với hàng tỷ Megabites, khi bất cứ chuyện gì xẩy ra ở bất cứ vùng nào ở Việt Nam, đều có thể được truyền đi từ Đông sang Tây trong nháy mắt, và khi mà dân trí đã lên rất cao, bọn Công An Cộng Sản vẫn coi mạng người như rác. Chúng bất chấp cả Quốc Tế, coi thường mọi kháng thư, mọi phản đối của các chính khách trên thế giới và vẫn ngang nhiên cướp đoạt tài sản nhân dân để xây sân Golf cho ngoại quốc, xây biệt thự cho các quan Tư Bản Đỏ, xây khách sạn 5 và Siêu Sao để phục vụ lợi ích của những trùm tư bản quốc tế, hoặc để làm di sản cho con cháu bọn chúng. (Nếu các bạn đọc báo Người Việt, ngày 30 tháng 7, 2009, mục “Từ mũi Sa Vĩ nhìn về Móng Cái: Trung Quốc làm chủ, Việt Nam làm thuê”, các bạn sẽ thấy Cộng Sản Việt Nam đã lấy đất Tổ gần biên giới để xây sân Golf vĩ đại cho các Cố Vấn Vĩ Đại Trung Quốc.) Để hưởng thụ các tài sản này một cách hoàn hảo, chúng đã lập một hệ thống Công An Trị, khát máu hơn KGB của Liên Xô, ác liệt hơn Công An Trung Quốc, tại khắp hang cùng ngõ hẻm. Bất cứ mầm mống nào chống đối mới mọc lên, chúng đều dập tắt một cách cực kỳ hung bạo. Từ Thái Hà, Tòa Khâm sứ, nay đến Tam Tòa, đâu đâu cũng dầy đặc Công An và bọn côn đồ không mặc trang phục Công An, ứng chiến 24/24 không mệt mỏi. Điều đau đớn và nhục nhã hơn là cũng bọn Công An này đã tận tâm, tận lực bắt, đánh, tra hỏi, nhốt giam, lên án tù những người dân yêu nước, chỉ muốn cất tiếng lên đòi hỏi bảo vệ giang sơn, Tổ Quốc chống lại sự xâm lăng của Trung Cộng.

Chắc các bạn còn nhớ vụ sinh viên biểu tình chống Trung Cộng tại Hà Nội, Sài gòn và các nơi khác? Chắc các bạn còn nhớ một “blogger” bị tù vài năm, chỉ vì anh ta yêu nước? “Blogger” Điếu Cầy, chỉ vì đưa lên mạng những lời yêu nước được truyền lại từ Hai Bà Trưng, đến Lê Lợi, Quang Trung.. mà bị tù giam khốn khổ. Theo lời chị Hải, mới đây, bọn Công An giam tù đã cấm không cho chị thăm nuôi, vì anh phạm tội “không chịu nhận tội”!

Nghịch lý thay! Đau lòng thay! Nhục nhã cho luật pháp Việt Nam! Nhục nhã cho nhóm chữ “Cộng Sản Việt Nam”!

Các bạn thân mến,

Thực tế, nếu các bạn ngừng lại ở nhóm chữ “Cộng Sản Việt Nam” này lâu hơn một chút, các bạn sẽ thấy một nghịch lý còn vĩ đại hơn thế nhiều: Nghịch lý của hai chữ “Cộng Sản” (Communism).
“Cộng Sản” mang ý nghĩa là tập trung tài sản của toàn thể nhân dân vào một đầu mối quản lý: Nhà Nước Cộng Sản! Theo Webster Dictionary, chữ “Communism” có nghĩa là “một giai đoạn lý tưởng của Chủ Nghĩa Xã Hội, sáng tạo từ Karl Max, Engels, Lenin và một số người khác, có đặc tính là không phân chia giai cấp, không ranh giới quốc gia, và sự phân phối hàng hóa đồng đều.” Theo các bài giảng tại miền Nam trong năm 1975, một khi mà Cộng Sản Chủ Nghĩa đã toàn thịnh, thì mọi người sẽ “làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu”. Nghĩa là, anh có khả năng gì, thì làm theo khả năng ấy, nhưng khi thụ hưởng thì anh muốn hưởng bao nhiêu cũng được cung cấp đủ theo nhu cầu của anh, từ quần áo, đến thức ăn, đến chỗ ở, và dĩ nhiên, ái tình nữa! Anh có thể làm thợ vét cống, nhưng anh có nhu cầu ở nhà to, xe láng, Nhà Nước Cộng Sản sẽ cung cấp cho anh đủ những nhu cầu ấy! Điều này dẫn đến sự hiểu ngầm là nếu anh có khả năng sinh lý cao, anh có thể có rất nhiều người cung cấp tình dục cho anh. (*)

Các bạn có tưởng tượng một ngày nào đó, trên thế giới này, có một cái gọi là Chủ nghĩa Cộng Sản được thực hiện một cách an bình không? Có một ngày nào mà chúng ta, 6 tỷ người, sáng sáng thức dậy, đổ xô ra đường, đến các nhà máy, làm việc, ăn cơm chung, rồi về nhà tập thể, nay ngủ với cô vợ này, mai ngủ với cô kia, muốn đến thăm con, thì vào nhà mồ côi, nhìn một lũ con nít giống nhau y hệt???

Thực tế, để thành lập cái xã hội đó, Staline đã giết gần 10 triệu người mà vẫn chưa thành lập được. Mao Trạch Đông cũng giết sơ sơ 30 triệu người, rồi bây giờ bỏ xó chương trình này, sau khi máu người, nếu tích tụ lại, đã thành một cái biển máu trùm cả nửa phần thế giới.

Để giải thích tại sao lại chưa có xã hội Cộng Sản, các nhà lý luận Cộng Sản cho rằng trong giai đoạn chờ để tiến lên Cộng Sản Chủ Nghĩa, thì một xã hội tạm thời làm trung gian giữa Tư Bản Chủ Nghĩa và Cộng Sản Chủ Nghĩa được thành lập: Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa! Cũng theo tự điển Webster, Chủ Nghĩa Xã Hội (Socialism), theo Marx, là một trạng thái của xã hội trung gian giữa Chủ Nghĩa Tư Bản và Chủ Nghĩa Cộng Sản, trong đó, chủ nghĩa “sở hữu cá nhân của các phương tiện sản xuất và sự phân phối được tiêu hủy.”

Thực tế, nhóm chữ “chủ nghĩa Xã Hội” là một tấm màn xiếc do những kẻ muốn thâu tóm thiên hạ vào trong tay đã giăng ra để lừa gạt nhân loại. Bọn xử dụng nhóm chữ này là bọn “treo đầu dê, bán thịt chó”. Chúng làm mờ mắt nhân dân bằng hai chữ “Xã Hội”. Từ chữ “Social”“tiếp vĩ ngữ “al” có nghĩa là “thuộc về xã hội”, chúng sáng tác ra chủ nghĩa “Socialism” rồi tung ra hàng loạt các cuộc tuyên truyền tràn ngập, để cho những kẻ kế thừa cứ thế mà tung hô như vẹt. Nhưng, nếu hỏi chúng, “chủ nghĩa xã hội là gì?”, nhất định chúng sẽ tắc khẩu, vì không thể giải thích, so sánh, và chứng minh được dựa vào thực tiễn xã hội ngày nay.

Thực tế, hiện nay, sở hữu cá nhân của toàn dân trên các phương tiện sản xuất đã được tiêu hủy, nhưng lại tập trung vào trong tay một thiểu số có quan hệ với nhà cầm quyền, với Đảng qua hối lộ, tham nhũng, và qua quan hệ họ hàng, thân thích với Đảng. Toàn bộ các Đảng viên Cộng Sản hiện nay vào Đảng là để được tung hoành thâu tóm phương tiện sản xuất của nhân dân vào tay mình. Các Đảng viên dựa vào Đảng để tùy nghi phân phối các phương tiện sản xuất cho những người nào thân thích, hoặc chia chác, hối lộ. Không còn một người nào vào Đảng để bảo vệ Tự Do và Hạnh Phúc của nhân dân nữa. Tất cả những Đàng viên còn chút nhiệt tâm với đồng bào, đồng hương, đều đã xé thẻ Đảng, ra khỏi Đảng, hoặc bị nhốt trong những nhà tù khổ sai, không thấy ánh sáng mặt trời.

Hãy đi vào các cơ sở kỹ nghệ khổng lồ, các cơ sở lọc dầu, bán dầu, các sân golf siêu quốc gia, các nhà hàng, khách sạn siêu sao (trên 5 sao), các trung tâm du lịch hạng nhất Á Châu, các chủ ngân hàng, các chủ nhân sở hữu phi cơ, xe Roll Royce hàng triệu mỹ kim, hàng chục xe Lamborgini, các nhân vật nắm toàn bộ các “stock” mạnh thì sẽ thấy rằng tất cả các ông, bà “chủ lớn” có gia tài hàng trăm triệu đến hàng tỳ mỹ kim ấy đều là Đảng Viên Cộng Sản, hoặc con cháu, bà con của Ban Chấp Hành Trung Ương, Thành Ủy, Bí Thư, Quân Ủy, Bộ Chính Trị. Hãy hỏi các cháu du học sinh nước ngoài, những cháu có mức tiêu xài trên 100,000 đô la một năm, thì sẽ biết tất cả các cháu đều gọi các lãnh tụ bằng “chú Tư, dì Năm, bác Sáu …”. Hãy hỏi các người vẫn luôn du lịch Hoa Kỳ, hay ngồi uống cà phê ở Bôn-Sa, rồi đi Thụy Sĩ, Thụy Điển, Pháp.. như đi chợ, thì sẽ nghe những người này nói toàn giọng con cháu Bác Hồ cả.

Như thế, thì có cái gọi là “Chủ Nghĩa Xã Hội” hoặc có cái gọi là “Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa” hay không? Thưa: KHÔNG! Tất cả những cái danh từ ấy, như đã viết ở trên, đều là tấm màn xiếc của những kẻ “treo đầu dê, bán thịt chó”, những lãnh tụ Đảng Cộng Sản, một cái đảng được thành lập bằng “bạo lực cách mạng”, dựa trên “bạo lực của đảng Cộng Sản Quốc Tế”, để thâu tóm mọi phương tiện sản xuất của nhân dân vào trong tay mình, rồi cống nộp đất đai Tổ Quốc để trả nợ cho những kẻ đã yểm trợ mình thành công trong việc chiếm đoạt này. Nhưng vì mục tiêu này đi ngược lại nguyện vọng của quần chúng, nên có nhiều cuộc chống đối xẩy ra. Để bảo vệ cho mục tiêu được thi hành trọn vẹn, cái gọi là Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa đã xử dụng bạo lực cách mạng để trấn áp, và nhốt tù mọi tư tưởng không thích hợp với cái nhà nước này. Chúng đã xử dụng một cái màn xiếc thứ hai để trù dập mọi tư tưởng không thích hợp, tấm màn xiếc mang tên “Tội Danh: Phổ biến những quan điểm chống lại Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa.”

Nhưng, như đã lý luận ở trên, chúng ta sẽ tìm thấy một phương trình:
Cộng Sản Chủ Nghĩa = 0. Vậy, Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa = 0.
Vì Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa=0, nên những tội danh “chống lại Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa =0.

Trên phương diện luật pháp, không có ai có thể bị buộc tội vì đã chống lại một con ma, không có thực. Nếu có ai cố tình vu vạ cho một người để bắt giữ người ấy, kẻ vu vạ ấy phải chịu trừng phạt trước pháp luật của Lương tâm Nhân Loại.

Nếu cái gọi là Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa ấy cố tình xử dụng bạo lực cách mạng để đàn áp nhân dân, nhất định sẽ có ngày nhân dân vùng lên, và kết quả thì tùy nơi, hoặc bị xử bắn như ở Hungary, hoặc bị xử tù như ở các nơi khác.
Vài hàng thô thiển, mong các bạn suy nghĩ và tìm thấy sinh lộ của chính mình và cho nhân dân Việt Nam yêu quý.

Chu Tất Tiến

*****

(*) Vào năm 1977, khi năm anh em tù cải tạo chúng tôi đang ngồi lợp tranh trên nóc nhà của một anh Chính Ủy Trung Đoàn tại Cà Tum, anh Trung Đoàn Trưởng, không nhìn thấy chúng tôi, chạy xộc vào nhà và hỏi anh Chính Ủy:
    - Cái nồi của tao đâu rồi?
    Anh Chính Ủy chậm rãi nói:
    - Thì.. đâu đó! Chắc anh em mượn!
    - Mượn cái gì? Muốn mượn thì phải hỏi tao chứ?
    - Chắc anh em vội quá, nên quên!
    - Quên cái con mẹ gì! Muốn chiếm hả?
    Anh Chính Ủy nhỏ nhẹ:
    - Làm cái gì nóng thế, đồng chí? Xã Hội Chủ Nghĩa mà!
    Anh Trung Đoàn Trưởng vặc lên:
    - Xã Hội Chủ Nghĩa cái con c…! Mày có đưa vợ mày cho tao không mà nói Xã Hội Chủ Nghĩa!
    Cả năm anh em chúng tôi, ngồi trên nóc nhà, cười muốn té xuống đất!
    Anh Trung Đoàn Trưởng nhìn lên, thấy hố, vội vã bỏ đi.
    Bảo đảm chuyện thật 100%.

HỌ LÀ AI (?) - Sơn Tùng

Sơn Tùng

Họ là những người đã ra khỏi Việt Nam, bằng cách này hay bằng cách khác, trước hay sau ngày 30.04.1975. Họ đang sống ở hải ngoại, hầu hết với danh nghĩa tỵ nạn cộng sản. Hầu hết, nếu không tất cả, là những người đã có đời sống tự do trên mảnh đất miền Nam trước khi Miền Bắc thắng cuộc phân tranh quốc cộng khiến họ phải bỏ lại tất cả để ra đi.

Tại sao phải ra đi ? Câu trả lời rất đơn giản. Họ đã tự trả lời khi bước chân xuống tàu ra khơi, chấp nhận mọi gian nguy, và sau khi sống sót đặt chân lên bờ đất tự do, nơi các trại tị nạn: họ không thể sống dưới chế độ cộng sản.

Với lý do ấy, họ được một quốc gia trong thế giới không cộng sản, hay “Thế giới Tự do”, nhận cho tái định cư, làm lại cuộc đời. Họ trở thành một phần tử trong cộng đồng người Việt tị nạn ở hải ngoại, dù họ đã nhập quốc tịch Mỹ, Pháp, Canada, hay một nước nào khác, trừ khi họ tự hội nhập hoàn toàn vào quê hương mới và cắt đứt mọi liên hệ với quê hương cũ.

Thế rồi bỗng dưng, vào một lúc nào đó, kẻ trước người sau, họ lên tiếng chỉ trích, khích bác cộng đồng, tách ra khỏi cộng đồng, đả kích những người còn giữ lập trường chống cộng, họ kết thân với những người đang phục vụ chế độ cộng sản ở trong nước.

Hiển nhiên, đây là một hành động nghịch lý mà những bộ óc lành mạnh không thể hiểu. Nhưng, dù sao họ cũng đang sống trong một xã hội tự do, họ có quyền chọn lựa, dù sự chọn lựa có nghịch lý đến đâu. Và sẽ không ai nói đến họ, vì họ chỉ là một số rất nhỏ bé trong các cộng đồng người Việt ở hải ngoại, nếu họ không tự nhận là những người sáng suốt, thức thời, tiến bộ, thậm chí còn nhân danh “đa số thầm lặng”, nhân danh chân lý để làm một đầu cầu cho cán bộ cộng sản xâm nhập, phá hoại cộng đồng.

Vì vậy, họ đã gặp phản ứng chính đáng từ những người không thay đổi lập trường chống cộng trong các cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Và họ đã lên tiếng kêu ca bị “mất tự do”! Nhưng, kêu ca với ai? Kêu ca với cán bộ cộng sản từ trong nước ra!

Có lẽ đây là chuyện khôi hài làm cho người nghiêm nghị nhất cũng khó nín cười, hay người trầm lặng nhất cũng không thể không lên tiếng.

Vì vậy, vừa mới đây, ông Công Tử Hà Đông (bút hiệu viết phiếm của Nhà văn Hoàng Hải Thủy), đã phải lên tiếng để nói về những người này.

Những người này đã thường “giao lưu một chiều” với cán bộ cộng sản ở trong nước nhưng không ai quan tâm vì đó là chuyện riêng của họ, nếu những lời nói quái gở của họ không được cán bộ cộng sản dùng để xuyên tạc sinh hoạt trong các cộng đồng người Việt hải ngoại – như bài viết của ông Tô Nhuận Vỹ phổ biến trên Net sau một chuyến Mỹ du được Công Tử Hà Đông trích đoạn như sau:

“Với nhiều văn nghệ sĩ hải ngoại thì cái mũ ‘cộng sản’ của cộng đồng luôn luôn chực chờ để chụp xuống đầu họ. Báo chí không ít lần đã phải kêu lên về cái thực trạng ‘mũ cối ở đây nhiều hơn ở cả Hà Nội’. Cho nên, các nhà văn luôn phải ‘biểu diễn lập trường’ (chữ của Nguyễn Mộng Giác). Trong nhiều dịp chuyện trò tâm sự, không ít anh em đồng nghiệp ở Mỹ trong khi cho rằng trong nước hoàn toàn chưa có tự do sáng tác với khá nhiều ví dụ thì đồng thời cũng khẳng định lúc này, tại đây, (Hoa Kỳ), cũng chưa có tự do sáng tác như mình ao ước, nên có lúc phải sống hai mặt. Hoàng Khởi Phong viết: Ở ngoại quốc này chúng ta làm chính trị dễ, yêu nước cũng dễ, làm văn chương cũng dễ, lấy nhau cũng dễ, bỏ nhau cũng dễ, làm thương mại cũng dễ, khai phá sản cũng dễ. Nói tóm lại, ở đây cái gì cũng dễ, chỉ trừ có một tấm lòng chân thật là hơi khó chút xíu.”

Và dưới đây là đoạn ông Tô Nhuận Vỹ thuật lại những cuộc tiếp xúc với các ông Nguyễn Bá Chung, Trương Vũ, Nguyễn Gia Kiểng, Lê Xuân Khoa:

Về Nguyễn Bá Chung: - “Chỉ vì mời hai học giả từ Hà Nội là Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi qua tham gia nghiên cứu về văn học và văn hóa cộng đồng người Việt sau chiến tranh và do khởi phát từ một chi tiết trong phần đặt vấn đề của chương trình nghiên cứu của Nguyễn Bá Chung, trong đó có kể chuyện một cháu nhỏ khoe với ông nội lá cờ Việt Nam cháu tìm thấy trong sách nhà trường – cờ đỏ sao vàng thay vì cờ vàng ba sọc đỏ, chỉ bắt đầu từ như thế (một đoạn văn không do Nguyễn Bá Chung viết), mà một cuộc chống lại ồ ạt, ghê gớm bằng từ hàng trăm bài viết không thiếu lời lẽ nhục mạ, đe dọa, các cuộc mít tinh hội họp phản đối, các kiến nghị gay gắt, kiện cả ra tòa án mà khi tòa án bác bỏ thì vu luôn cho thẩm phán, luật sư thiên vị..., mà đánh tới tấp suốt hơn năm năm trời, với phạm vi trên toàn cõi có người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài rằng Trung tâm William Joiner, Kevin Bowen là tiếp tay cho cộng sản, rằng Nguyễn Bá Chung là cộng sản nằm vùng và phải trừng trị anh này. Ở một đất nước tự do mà hành sử như vậy thì hãi quá.”

Về Trương Vũ: - “Nhưng, trong không khí chống cộng cực đoan như thế, không phải không có những người dù không tán thành thể chế trong nước vẫn có cái nhìn trầm tĩnh như Trương Vũ, anh nói: ‘Vào lúc này mà nói chuyện chống cộng với ngôn ngữ, phương thức của ba mươi năm cũ chẳng khác gì chống những hồn ma trong một không gian hồi tưởng. Chẳng khác gì đi đi lại lại trên một lối mòn của tâm thức. Chống những hồn ma không được thì chống nhau. Ai không giống mình thì người đó là cộng sản, phản bội.’”

Về Nguyễn Gia Kiểng: - “Nguyễn Gia Kiểng cho rằng loại thái độ đó chỉ là để biểu lộ và trút bớt sự căm thù đang sôi sục trong lòng chứ không phải để giành thắng lợi. Cuộc đấu tranh vì vậy không khác gì một cuộc lên đồng, những người được ủng hộ nhất là những người tỏ ra táo bạo nhất, lên đồng hay nhất, gây được ấn tượng mạnh nhất.”

Về Lê Xuân Khoa: - “Ông cũng cho biết mình sắp có chuyến về Việt Nam trong những ngày tới. Ông nói: ‘Số cực đoan trong cộng đồng lẫn số bảo thủ quyết liệt trong nước chỉ là số ít mà thôi. Đa số, cho dù tạm thời thầm lặng, vẫn là những con người mong muốn thực sự hòa hợp, hòa giải để xây dựng đất nước dân chủ và giàu mạnh, dù đề xuất giải pháp còn khác nhau.’”

Công Tử Hà Đông đã trả lời những người này với một bài khá dài, và ông nói rằng những người này chưa được làm cộng sản, mà chỉ là một thứ tay sai của cộng sản.

Lê-nin, người thầy vĩ đại của dư đảng Cộng sản tại Việt Nam, có một định nghĩa thực tế về những người này: “Những tên ngốc hữu dụng.”

Ký giả Tú Rua Lê Triết gọi loại người này là những người “hơi hơi chống cộng” để so sánh với chuyện không hề có trong thế gian: “đàn bà hơi hơi mang bầu”.

Vậy thì thực sự, họ là ai?

Có lẽ nhiều người coi họ, và họ cũng tự cho, là những người trí thức, vì họ có bằng cấp đại học, có viết sách, viết báo, để không những nói lên quan điểm của mình, tự đề cao mình, mà còn lên giọng miệt thị người khác.

Nhưng, dường như từ lâu đã có sự lạm dụng danh nghĩa “trí thức” trong xã hội Việt Nam. Có bằng cấp cao chưa đủ để là người trí thức. Có sự hiểu biết chuyên môn về một ngành nghề nào đó không phải là trí thức. Có một số sinh hoạt liên quan đến trí óc cũng chưa phải là trí thức. Trí thức là người, ngoài sự Minh triết, cần có thêm Tâm, Trí, và Dũng.

Khi các chế độ cộng sản tại Liên bang Sô-viết và các nước Đông Âu đứng trước sự chống đối ngày một gia tăng từ bên trong, cũng đã có một số người tự nhận là tiến bộ, là thức thời, là ôn hòa, là thay mặt cho đa số thầm lặng, cho rằng các chế độ độc tài tàn bạo ấy có thể sửa đổi để mang một bộ mặt nhân bản và tồn tại, mà không cần xóa bỏ và cũng không thể xóa bỏ. Nhà văn Alexandr Solzhenitsyn đã dõng dạc nói: “Chủ nghĩa cộng sản không thể cải thiện, chỉ có chết.”

Những gì xảy ra sau đó tại Đông Âu và Liên Sô đã chứng minh nhận định của Solzhenitsyn. Nhà văn Nga ấy là một trí thức chính danh.

Dưới chế độ cộng sản tại Việt Nam ngày nay cũng đang có những trí thức chính danh như Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Đan Quế, Đỗ Nam Hải, Lê Thị Công Nhân, Trần Khải Thanh Thủy, và nhiều người khác nữa.

Những người trí thức ấy có Tâm, có Trí, có Dũng và sẽ đẩy bánh xe lịch sử tiến tới, tới nơi mà các dân tộc Đông Âu đã tới từ hai mươi năm trước.

Những người cộng sản đang nắm quyền tại Việt Nam ngày nay cũng không khác những người cộng sản đã nắm quyền ba, bốn mươi năm trước, là những kẻ phản động trước trào lưu dân chủ trên thế giới. Những kẻ ấy, dù ngoan cố tới đâu, cũng không thể cứu được cái chế độ cổ quái đã đi đến chỗ tận cùng của mục nát.

Một nhóm nhỏ người Việt ở hải ngoại giao du với một người tên Tô Nhuận Vỹ nào đó để được nói đến tên và được khen là thức thời, là tiến bộ, là ôn hòa ... là loại người mà thời nhiễu nhương nào cũng có.

Đó chỉ là vài con rối lăng xăng trên cái sân khấu không có vai trò nào dành cho họ.
    Họ không là gì cả.
Sơn Tùng


Ban Biên Tập Vietland Trả Lời Thư Bà Triều Giang Nancy Bùi về việc nhà văn Đỗ Văn Phúc - Đặng Quỳnh Như

Source: http://www.vietland.net/main/showthread.php?s=5771029717d8bbf5c456e96dc80bd0d1&t=8202
    Kính thưa bà Triều Giang Nancy Bùi
Chúng tôi nhận được lá thư của bà gửi cho báo chí ngày 12 tháng 8 năm 2009 nêu lên về phiên tòa mà bà cho rằng những điều mà nhà văn Đỗ Văn Phúc viết về bà là không đúng sự thật.

Trong lá thư bà có nêu lên một câu mà theo chúng tôi bà đã nói láo một cách trắng trợn như sau:

"Chúng tôi tha thiết mong mỏi quý vị hãy tìm hiểu cặn kẽ vấn đề trước khi đi đến kết luận. Vì nếu không, quý vị vô tình tiếp tay với ông Phúc trong việc đánh phá người quốc gia một cách vô tội vạ, khi cần lãnh trách nhiệm lại tìm cách kéo cộng đồng vào để lãnh trách nhiệm thay thế cho ông. Chúng tôi tin tưởng vào sự sáng suốt và công minh của các vị trưởng thượng, quý đồng hương, quý cơ quan truyền thông người Việt Hải ngoại và sự cộng bằng của luật pháp Hoa Kỳ".

Bà tự cho bà là người quốc gia trong lá thư và nhiều lần bà cho rằng bà không liên hệ hay buôn bán gì với các doanh thương "nhà nước CSVN".

Chúng tôi có bằng chứng bà là người buôn bán trực tiếp với doanh thương CSVN để chuyển Càfê từ Việt Nam qua Mỹ.

(1) Bà Nancy Bùi là CEO của Doanh Thương Triumph Coffee Inc ở Austin Texas, vào năm 2003 trong lúc đảng CSVN đang tìm cách đưa thương hiệu, sản phẩm của họ ra nước ngoài, bà là người giúp đưa Càfê từ doanh thương VC ra nước ngoài. Bà Nacy Bùi liên hệ với công ty Trách Nhiệm Hữu Hạn A&B của CSVN tại Gò Vấp để trực tiếp đem loại Càfê của công ty nầy qua đường giây của doanh thương của bà là Triumph Coffee Inc.

(2) Năm 2004 Bà Nacy Bùi tiếp tục làm công việc chuyển hàng cho doanh thương VC ra nước ngoài qua một công ty khác là công ty Bamboo O, công ty cà phê rang xay đóng hộp tại Saigon.

(3) Gia đình bà trước năm 1975 có những vườn trồng càfê rộng lớn tại Miền Trung Việt Nam, vào khoảng tháng 10 năm 1990 gia đình bà đã được CSVN trả lại một số vườn Càfê tại Trung Phần với một kế ước là cho gia đình bà thuê 99 năm trên những mảnh đất đó.

Kính thưa bà Nacy Bùi, bà tự cho bà là người Quốc Gia và còn cho rằng nhà văn Đỗ Văn Phúc là đánh phá "người quốc gia". Nếu bà cho bà là người Quốc Gia thì xin bà hãy trả lời những việc làm của bà mà chúng tôi đã nêu lên trên đây.

Chúng tôi dám chắc với bà lần nữa là chúng tôi có bằng chứng về những điều chúng tôi nêu trên về những hoạt động của bà trước đây. Lá thư nầy BBT Vietland sẽ phổ biến rộng rãi trên báo chí truyền thông.

Chúng tôi sẽ gửi những bằng chứng đã nêu trên tới tòa khi thấy cần thiết.

Kính thư

Đặng Quỳnh Như
Vietland Editor
*****

Source: http://vietland.net/main/showthread.php?t=8183

  • Thư Kêu Gọi Ủng Hộ Quỹ Pháp Lý Đỗ Văn Phúc
    • Kính thưa quý đồng hương Người Việt Tỵ Nạn,
      Kính thưa quý Chiến Hữu QLVNCH, quý Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam ,
      Kính thưa quý đồng nghiệp truyền thông tại hải ngoại.

      Về Việc: Thư Kêu Gọi Ủng Hộ Quỹ Pháp Lý Đỗ Văn Phúc.
    Ông Đỗ Văn Phúc, một cựu tù nhân chính trị, một nhà văn, nhà báo dấn thân, một người hoạt động chống cộng tích cực tại Austin, Texas, mà tên tuổi đã quen thuộc trong giới truyền thông và đấu tranh ở hải ngoại trong hai mươi năm nay.

    Đỗ Văn Phúc
    Đỗ Văn Phúc hiện đang trở thành mục tiêu của một cố gắng nhằm bịt miệng những người muốn nói lên sự thật để lột mặt nạ những kẻ vừa nhân danh “lãnh tụ” người Việt tỵ nạn cộng sản nhưng lại vừa có những liên hệ với cộng sản tại Việt Nam.

    Hai năm trước, ông Đỗ Văn Phúc đã viết bài nêu nghi vấn về việc bà Nancy Bui, vừa là hội trưởng Hội Bảo tồn Văn hóa Người Mỹ gốc Việt (VAHF), lại vừa đi về Việt Nam đầu tư, có công ty chế biến thực phẩm tại Gò Vấp. Người hội phó, Luật sư Trần Mộng Vinh, hội phó - cánh tay mặt của bà hội trưởng - cũng là một người từng công khai mạ lị quân lực VNCH và tôn vinh chiến binh CSVN.

    Tháng 5 vừa qua, bà Nancy Bùi đã đệ đơn kiện ông Đỗ Văn Phúc tại Tòa án hạt Travis, Texas, cho rằng ông Phúc đã vu khống bà ta là cộng sản, gây thiệt hại cho công việc làm ăn của bà ta. Vì không nhận được giấy tờ gì của tòa án nên ông Phúc đã vắng mặt trong phiên xử và đã bị tuyên án khiếm diện và phải bồi thường bà Nancy Bui một triệu mỹ-kim.

    Đây là một bản án không công bằng với ông Đỗ Văn Phúc, và mặt khác sẽ là một đe dọa với quyền tự do báo chí tại Hoa Kỳ, và giới truyền thông của cộng đồng người Việt nói riêng. Vì vậy ông Đỗ Vă n Phúc đã thuê luật sư để yêu cầu tòa án xử lại theo thủ tục đối tịch, có mặt cả hai bên nguyên cáo và bị cáo để công lý được sáng tỏ.

    Vì ông Đỗ Văn Phúc là một cựu tù cải tạo đến Mỹ trong chương trình Tái Định Cư Cựu Tù Nhân Chính Trị (thường gọi là HO), vừa tái ổn định cuộc sống, không có khả năng tài chánh để tự trả tiền luật sư, chúng tôi, một nhóm thân hữu trong giới truyền thông vùng Hoa Thịnh Đốn quyết định lập một Quỹ Pháp Lý để giúp ông Phúc tự vệ trước một đối phương giàu tiền nhiều bạc.

    Vụ án này không chỉ liên quan đến ông Đỗ Văn Phúc mà sẽ có ảnh hưởng lớn đến quyền tự do báo chí và đến công cuộc bảo vệ chính nghĩa quốc gia trong các cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ.

    Chúng tôi thiết tha mong đợi sự đáp ứng quảng đại của quý đồng hương. Tiền trong Quỹ Pháp Lý chỉ để trả tiền luật sư và các chi phí liên quan đến vụ kiện. Sau khi vụ kiện kết thúc, tiền còn lại, nếu có, sẽ được sử dụng vào việc công ích và công bố trên báo chí.

    Chi phiếu xin đề:
      Quy Phap Ly Đo Van Phuc (hay viết tắt Quy phap ly)
      Gửi về địa chỉ:
      PO BOX 150682
      Alexandria, VA 22315
    Chúng tôi xin chân thành cảm ơn quý vị và tin tưởng rằng chính nghĩa sẽ thắng lợi.

    Đại diện nhóm thành lập
    Quỹ Pháp Lý Đỗ Văn Phúc

    Bùi Dương Liêm

    *****

    Thư Của Triều Giang Nancy Bùi:
    Triều Giang Nancy Bùi

      Austin, ngày 12 tháng 8 năm 2009

      Kính thưa Các Bậc Trưởng Thượng trong Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại,

      Kính thưa Quý Đồng Hương Người Việt Tị Nạn,

      Kính Thưa Quý Vị trong ngành Truyền Thông Hải Ngoại.

      Thưa Quý vị,
    Tôi là Nancy Bùi bút hiệu Triều Giang và còn là Hội trưởng Hội Bảo Tồn Lịch Sử và Văn Hoá Người Mỹ Gốc Việt. Hơn hai năm qua, tôi đã là nạn nhân của vụ vu khống mạ lỵ, phỉ báng và chụp mũ là Cộng Sản của ông Đỗ Văn Phúc còn được gọi là Phúc Đỗ và Michael Do. Bằng điện thư, internet, website, báo chí và in thành sách, ông Phúc đã tố cáo tôi với rất nhiều tội danh. Tôi xin xác nhận tất cả những điều tố cáo này là không đúng sự thật.

    Ngày 18 tháng 5 năm 2009, tôi đã nhờ luật sư mời ông Phúc ra toà án quận Travis, Texas, để trả lời về những lời tố cáo này và yêu cầu ông đưa bằng chứng để chứng minh những lời tố cáo của ông là đúng sự thật, nhưng ông đã không ra toà để nhận trách nhiệm của ông.

    Ngày 7 tháng 7 vừa qua, trong phiên xử khiếm diện, toà đã phạt ông Phúc 1 triệu đô la. Ngày 6 tháng 8 vừa qua, ông Phúc đưa đơn kháng án và xin một phiên tòa khác (motion for new trial) với lý do “không hiểu luật pháp Hoa Kỳ”. Tòa án quận Travis đã nhận đơn của ông và cho ông được trình bày trước tòa vào ngày 1 tháng 9 sắp tới, trước khi quyết định cho ông một phiên tòa mới hay không.

    Trong mấy ngày vừa qua, ông Phúc và một số người nghe theo lời của ông đã đưa ra những bức thư gửi tới đồng hương trên toàn thế giới bằng điện thư, website, internet, kêu gọi đồng hương góp tiền vào “Quỹ Pháp Lý Đỗ Văn Phúc” để giúp tài chánh cho ông theo đuổi vụ kiện. Những bức thư này nêu lý do ông Phúc không ra tòa vì “không hề nhận được trát tòa” và tiếp tục dùng những luận điệu vu khống, chụp mũ và đặc biệt là nhân danh “bảo vệ quyền tự do báo chí”, bảo vệ chính nghĩa quốc gia để tiếp tục đánh lừa dư luận.

    Chúng tôi tha thiết mong mỏi quý vị hãy tìm hiểu cặn kẽ vấn đề trước khi đi đến kết luận. Vì nếu không, quý vị vô tình tiếp tay với ông Phúc trong việc đánh phá người quốc gia một cách vô tội vạ, khi cần lãnh trách nhiệm lại tìm cách kéo cộng đồng vào để lãnh trách nhiệm thay thế cho ông. Chúng tôi tin tưởng vào sự sáng suốt và công minh của các vị trưởng thượng, quý đồng hương, quý cơ quan truyền thông người Việt Hải ngoại và sự cộng bằng của luật pháp Hoa Kỳ.

    Một trong những lý do của việc rời bỏ quê hương, nơi chôn nhau, cắt rốn của chúng ta là vì chúng ta không chấp nhận một nền luật pháp nhân trị (rule-of-man) để đến sống tại Hoa Kỳ với nền luật pháp pháp trị (rule-of-law); một nền luật pháp không có ai có thể đứng ngoài luật pháp, kể cả Tổng Thống. Những ngày tháng vừa qua là những ngày dài và thật khó khăn cho cá nhân và gia đình tôi. Phán quyết của tòa nêu trên là một phán quyết công minh đối với chúng tôi. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các bậc trưởng thượng, thân hữu xa gần đã hỗ trợ chúng tôi bằng cách này hay cách khác. Chính những hỗ trợ quý báu này đã giúp chúng tôi có đủ sức để vượt những khó khăn. Riêng đối với ông Phúc, toà cũng đã xử công bằng, bằng cách cho ông một cơ hội nữa vào ngày 1 tháng 9 sắp tới. Chúng tôi rất mong mỏi được gặp ông Phúc ở toà để được hiểu vì sao một người đã từng làm việc với tôi và chịu ơn của tôi, lại có những việc làm không thể hiểu được như ông đã và đang làm trong hai năm qua.

    Một trong những nhân quyền căn bản được tôn trọng trong xã hội Hoa Kỳ là quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí. Nhưng tự do báo chí của Hoa Kỳ luôn phải đi kèm với trách nhiệm của người cầm bút. Riêng quyền tự do ngôn luận chưa bao giờ và không bao giờ được định nghĩa là quyền tự do nói láo, vu khống, mạ lỵ, phỉ báng làm tổn hại danh dự của người khác chỉ vì không ưa thích họ hoặc bất đồng ý kiến với họ. Một điều chắc chắn rằng luật pháp Hoa Kỳ bảo vệ tất cả mọi người chúng ta kể cả ông Đỗ Văn Phúc. Thử hỏi nếu có ai đó vu khống, mạ lỵ, phỉ báng ông Đỗ Văn Phúc là người gian dối, thiếu lương thiện và chụp cho ông cái mũ là CS, tay sai CS, CS trá hình, thì ông Phúc sẽ suy nghĩ và phản ứng ra sao? Chuyện xảy ra cho tôi hôm nay, có thể xảy ra cho bất kỳ ai trong cộng đồng chúng ta ngày mai, và nếu không có luật pháp Hoa Kỳ bảo vệ, thì việc chạy trốn Cộng sản, để phải rời xa quê cha, đất tổ sống tha hưong tại xứ người của chúng ta, liệu có còn ý nghĩa gì hay không?

    Chân thành cảm ơn quý vị đã dành thì giờ quý báu và quan tâm trong việc tìm hiểu sự thật của vấn đề. Mọi thắc mắc xin liên lạc bằng điên thư qua địa chỉ:

    NancyNguyenBui@yahoo.com

    Kính thư,
    Triều Giang Nancy Bùi


    Tuesday, August 11, 2009

    Sydney: Chào mừng Thiếu Tướng Lê Minh Đảo viếng thăm Úc Châu tháng 8 năm 2009 - Trần Văn Thinh



    Buổi nói chuyện Thứ Bảy ngày 8 tháng 8 năm 2009 với chủ đề Vị trí trận chiến Xuân Lộc trong Quân Sử VNCH do gia đình Sư Đoàn 18BB tại Úc Châu tổ chức lúc 2 giờ chiều tại: TTVHSHCĐ/NVTD/NSW 6-8 Bibbys Road, Bonnyrigg Sydney NSW.

    Chính thức khai mạc: Ban tổ chức Ls Hoàng Lập Chí kính mời mọi người đứng lên Chào quốc kỳ việt nam cộng hòa - Việt Úc và phút mặc niệm.

    Sau nghi thức: Ban tổ chức chào mừng quan khách quý đồng hương, và giới thiệu phái đoàn đến từ Hoa Kỳ, Canada Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Bảo Định Nguyễn Hữu Chế và tại Úc Châu: NT Trần Văn Quan, Đỗ Trung Chu, ông sơ lược vị Trí trận chiến Xuân Lộc trong Quân Sử VNCH.

    Tiếp theo với sự tham dự:

    Ông Mai Đức Hòa Chủ Tịch Tổng Hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Úc Châu
    Ông Trương Công Hải Chủ Tịch Hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Sydney NSW.
    Ông Nguyễn Việt Long: Chủ Tịch Hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Victoria,
    Ls Võ Trí Dũng: Chủ Tịch Cộng Đồng NgườI Việt Tự Do Sydney NSW
    Chiến Sĩ Võ Đại Tôn
    Ông Đoàn Bá Cang: nguyên Đại Sứ VNCH
    Ông Lưu Trường Quang: nguyên Giám Đốc SBS Radio Việt ngữ Úc Châu
    và có sự hiện diện tham dự các gia đình quân binh chuẩn thuộc QLVNCH

    Ngoài ra còn có các Hội đoàn Đoàn Đoàn thể, các cơ quan truyền thông Việt ngữ và qúy đồng hương người Việt tỵ nạn cộng sản, trong bầu không khi mọi người lắng nghe Thiếu tướng Lê Minh Đảo, diễn gỉa trận đánh cuối cùng Xuân Lộc tháng 4 năm 1975, đồng hương đón nhận qua sự tình bày của Thiếu tướng Lê Minh Đảo, được tán thưởng bằng nhiều tràng pháo tay kính trọng gởi đến chiến sĩ VNCH Sư Đoàn 18 Bộ Binh thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

    Buổi nói chuyện được chấm dứt vào lúc 5:giờ 40 phút chiều cùng ngày, nhiều mgười nán lại chụp hình lưu niệm với Thiếu tướng Lê Minh Đảo và phái đoàn.

    Trần Văn Thinh
    Sydney 08/08/2009

    Phóng sự hình ảnh














    NGUY CƠ MẤT NƯỚC VÀ MẤT DÂN TỘC VIỆT NAM - Phạm Đình Hưng

    Cựu Thẩm phán Phạm Đình Hưng

    Bài thuyết trình tại Dại Hội Thường Niên Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Nam Cali ngày 19-07-2009.

    Tình hình đất nước Việt Nam hiện nay vô cùng bi đát về mọi mặt. Dưới quyền cai trị độc tài chuyên chính và toàn trị của đảng Cộng sản Việt Nam từ 34 năm nay, nước Việt Nam thống nhất hiện là một trong 10 nước nghèo nhứt trên thế giới và đang tự nguyện đưa đầu vào ách thống trị của Trung Quốc.

    Hôm nay, tôi xin nói về một chủ đề nóng bỏng. Đó là Nguy Cơ Mất Nước và Mất Dân Tộc Việt Nam đang ló dạng trên quê hương thân yêu của chúng ta. Mới đây, trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Đinh Quang Anh Thái, ông Hà Sĩ Phu Nguyễn Xuân Tụ ở Đà Lạt cũng đã nói lên nguy cơ “Mất nước và Mất dân tộc” giống như tôi.

    (Đinh Quang Anh Thái/Người Việt, “Mất dân tộc còn tệ hơn mất nước”, Người Việt số 8616 ngày 10 tháng 7, 2009, California, Hoa kỳ).

    Nội dung bài thuyết trình của tôi hoàn toàn căn cứ vào các sự kiện cụ thể, các sách báo đứng đắn, các sử liệu chính xác và các nguồn tin khả tín của Trung Quốc.

    Ngay từ năm 1962, chánh trị gia Ngô Đình Nhu, Cố vấn chánh trị của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã có một nhận định chính xác về tương lai của nước Việt Nam. Trong quyển sách biên khảo rất công phu tựa đề “Chánh Đề Việt Nam”, tác giả Ngô Đình Nhu đã khẳng định rằng trong cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt giữa Bắc Việt cộng sản (nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) và Miền Nam tự do (nước Việt Nam Cộng Hòa), nếu Bắc Việt thắng thì cả nước Việt Nam sẽ lệ thuộc Trung Quốc. Lời tiên đoán nầy của nhà chánh trị Ngô Đình Nhu ngày nay đã trở thành một sự thật đau lòng cho tất cả người Việt, ở trong nước và ngoài nước.

    I. Nguyên nhân sâu xa của hai cuộc chiến tranh Việt Nam

    Hai cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài 30 năm từ 1945 đến 1975 đã xảy ra trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh (Cold War) giữa Thế giới Tự do và hệ thống các nưóc xã hội chủ nghĩa. Theo tác giả Ngô Đình Nhu, nguyên nhân sâu xa của hai cuộc chiến tranh thảm khốc nầy là sự xung đột lâu đời của nước Nga với các nước Tây Âu và sự thù hận của Trung Quốc đối với các nước trong bác quốc liên quân đã tấn công và xâu xé nước Trung Hoa trong thế kỷ 19. Thua kém các nước Tây Âu và Bắc Mỹ về mặt khoa học kỹ thuật, hai đế quốc cộng sản Liên xô và Trung Quốc đã lợi dụng chủ nghĩa cộng sản của hai người Đức ở Tây Âu (Karl Marx và Frederic Engels) như một phương tiện để đánh phá các nước Tây phương từ trong nội bộ của các nước tư bản và từ các thuộc địa của các nước nầy ở châu Á và châu Phi.

    Riêng tại Việt Nam, Liên xô và Trung Quốc đã sử dụng một cán bộ cộng sản đệ tam quốc tế từ năm 1924 là Hồ Chí Minh để tiến hành chiến tranh đánh phá Pháp và Hoa Kỳ nhằm mục đích bành trướng chế độ cộng sản trên khắp ba nước Đông Dương và Đông Nam Á. Hai cuộc chiến tranh gọi là “giải phóng dân tộc” và “thống nhất đất nước” thật sự là hai cuộc chiến tranh “ủy nhiệm” do hai đế quốc cộng sản Nga-Hoa chỉ đạo và viện trợ vì quyền lợi của họ. Trong hai cuộc chiến tranh Việt Nam, vai trò và ảnh hưởng của Trung Quốc lớn hơn Liên xô vì các lý do sau đây:

    1. Giáp giới Việt Nam, Trung Quốc là một đại quốc luôn luôn có tham vọng xác lập địa vị mẫu quốc đối với Việt Nam. Nhưng Trung Quốc đã mất ảnh hưởng đối với Việt Nam từ giữa thế kỷ 19. Giúp đỡ cho đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành chiến tranh sau đệ nhị Thế chiến tức là giúp đỡ cho Trung Quốc tái lập ảnh hưởng đối với Việt Nam.

    2. Để tránh đụng chạm với Pháp, Liên xô từ 1945 đến 1950 đã không công nhận chánh quyền Hồ Chí Minh; Josef Stalin năm 1951 chỉ đồng ý cho Trung Quốc viện trợ đảng Cộng sản Việt Nam đánh Pháp nhưng từ chối viện trợ trực tiếp cho Hồ Chí Minh. Trái lại, ngay sau khi thống nhứt nước Trung Hoa năm 1949, Mao Trạch Đông đã lập tức công nhận chánh quyền Hồ Chí Minh năm 1950 và viện trợ dồi dào cho đảng Cộng sản Việt Nam về võ khí, lương thực, thuốc men, nhân lực (cố vấn chánh trị, cố vấn quân sự, binh sĩ) và huấn luyện đào tạo các cấp chỉ huy Việt Minh Viện trợ quân sự của Trung Hoa đã “giải tỏa Việt Minh khỏi vòng vây của quân đội Pháp”. Giải phóng quân Trung Quốc còn chủ động tham gia các trận đánh lớn ở Đông Khê, Thất khê và Điện biên phủ dưới quyền chỉ huy của hai tướng Trần Canh và Vi Quốc Thanh. Chiến thắng Điện biên phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954 đã giúp cho đảng Cộng sản Việt Nam chiếm được nửa nước Việt Nam.

    (Xem tập tài liệu “Ghi Chép Thực Về Việc Đoàn Cố Vấn Quân Sự Trung Quốc Viện Trợ Việt Nam Chống Pháp”, Nhà Xuất bản Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bắc kinh, 2002)

    Trong cuộc chiến tranh gọi là “chống Mỹ, cứu nước” từ năm 1956 đến năm 1975, Trung Quốc đã tăng cường viện trợ vô cùng hùng hậu cho Bắc Việt cộng sản về phương tiện chiến tranh và chuyên viên phòng không, đồng thời cho quân Tàu trú đóng tại các tỉnh biên giới Việt-Trung để gìn giữ an ninh lãnh thổ giúp cho quân đội Bắc Việt điều động xuống chiến trường miền Nam Việt Nam. Liên xô chỉ viện trợ (có hoàn lại) cho Bắc Việt một số võ khí nặng ( phi cơ, chiến xa, đại pháo) trị giá 10 tỷ đô la.

    3. Từ khi từ Moscowa về Diên An (thủ đô của Hồng quân Trung Quốc) năm 1938 đầu quân Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh đã tận tình phục vụ Trung Quốc nhiều hơn Liên xô vì Ông ta đã bị thất sủng trong một thời gian dài từ 1932 đến 1938 và suýt bị Stalin giết chết năm 1935. Theo tiết lộ của một nhân vật Tình báo Tàu trong một cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 Việt Nam, Hồ Chí Minh đã gia nhập đảng Cộng sản Trung Quốc. Khi trở về hoạt động tại Hoa Nam và trong hang Pác Bó ở tỉnh Cao Bằng, ông Hồ đã thi hành công tác của một đảng viên do đảng cộng sản Trung Quốc giao phó. Ngoài viên chánh ủy Tổng Cục Tình báo Hoa Nam, một nhân vật cao cấp trong phái đoàn thương thuyết của Trung Quốc về ranh giới mới trên đất liền và biển cả giữa Trung Quốc và Việt Nam còn đe dọa Trung Quốc sẽ công bố các cam kết bí mật của Hồ Chí Minh với đảng Cộng sản Trung Quốc để làm tiêu tan sự nghiệp (legacy) của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam

    II. Tham vọng bá quyền của Trung Quốc và các hành động bán nước của đảng Cộng sản Việt Nam

    Từ ngàn xưa, Hán tộc luôn luôn nuôi tham vọng bành trướng xuống phía Nam và tìm đường đi ra biển từ hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây. Nhưng họ đã vấp phải sự đối kháng mãnh liệt và hữu hiệu của dân tộc Việt Nam, một dân tộc thông minh và kiêu dũng trong dòng Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử đã bẻ gãy tất cả các cuộc xâm lăng võ trang từ phương Bắc để bảo tồn độc lập của nước Việt Nam.

    Trước tham vọng bành trướng xuống phía Nam của Trung Quốc hiện nay, Việt Nam là nạn nhân đầu tiên của thiên triều Bắc kinh. Từ xưa đến nay, người Tàu luôn luôn xem nước Việt Nam là một quận, huyện của Trung Quốc. Trải qua 2000 năm lịch sử, nước Việt Nam chúng ta đã phải hứng chịu nhiều đau khổ và tũi nhục trong 1000 năm Bắc thuộc trước khi Ngô Quyền tranh thủ được nền độc lập của nước nhà năm 938. Tổ tiên chúng ta đã bao lần anh dũng chống ngoại xâm từ phương Bắc để gìn giữ độc lập của nước nhà và duy trì sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam. Tinh thần quốc gia dân tộc của tổ tiên chúng ta rất vững mạnh và kiên cường. Thành tích giữ nước vẻ vang của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi và Quang Trung Nguyễn Huệ đã nhắc nhở người Việt Nam chúng ta đương thời nhiệm vụ chiến đấu để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam chống lại âm mưu thôn tính của Trung Quốc với sự tiếp tay của bọn tay sai bán nước là đảng Cộng sản Việt Nam.

    Trong thời đại ngày nay, Trung Quốc đã áp dụng một chiến lược thôn tính Việt Nam rất tinh vi và hiểm độc. Để thực hiện dễ dàng tham vọng bành trướng xuống phía Nam của Trung Quốc, người Tàu cần phải phá tan tinh thần đoàn kết của người Việt Nam và tiêu diệt sinh lực của dân tộc Việt. Nhằm mục đích thâm độc nầy, đảng Cộng sản Trung Quốc đã sai khiến Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam liên tục tiến hành chiến tranh trong 30 năm để tàn phá nặng nề đất nước Việt Nam, giết chết cả chục triệu người dân Việt và chia rẽ dân tộc Việt về ý thức hệ, thành phần giai cấp, địa phương, tôn giáo và đảng phái. Cuộc xâm lăng Việt Nam của Trung Quốc đã thật sự bắt đầu từ năm 1950 với kế hoạch viện trợ cho Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Viêt Nam đánh Pháp để chiếm đoạt quyền lãnh đạo quốc gia. Trong thời gian viện trợ cho Việt Cộng gây nội chiến dưới chiêu bài đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Trung Cộng đã có đủ thời giờ điều nghiên các vị trí chiến lược trọng yếu của Việt Nam và bố trí cán bộ gốc Hoa và thân Tàu vào các chức vụ chỉ huy trong Quân đội, Công an, Tình báo, bộ máy Nhà nước và các cấp ủy đảng để sẵn sàng thực hiện âm mưu thôn tính Việt Nam. Đồng thời với việc âm thầm chỉ đạo Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam, Trung Quốc đã áp dụng chiến lược “Diễn Biến Hòa Bình” để từng bước lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam thay vì sử dụng võ lực tấn công ồ ạt như đã làm trong quá khứ. Với sự hợp tác tự nguyện của Hồ Chí Minh, hậu duệ của ông ta và tập đoàn lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam, kế hoạch tầm ăn dâu nầy của Trung Quốc đã đạt nhiều kết quả trong âm mưu đô hộ Việt Nam. Theo lịnh của Trung Quốc, Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam đã đả kích chủ nghĩa quốc gia dân tộc là cục bộ địa phương cần phải gạt bỏ và thay thế bằng chủ nghĩa quốc tế đại đồng. Để phục vụ thiên triều Bắc kinh, Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngần ngại dâng hiến quan thầy Tàu một phần đáng kể lãnh thổ do tiền nhân chúng ta dầy công xây đắp và bảo vệ. Các hành động bán nước kể sau của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam cần phải được phơi bày ra trước ánh sáng để lịch sử và các thế hệ trẻ Việt nam sanh sau năm 1975 cùng thế giới văn minh phán xét:

    1. Chuyển nhượng cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

    Do quyết định của Hồ Chí Minh và bộ Chánh trị đảng Cộng sản Việt Nam, Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (miền Bắc cộng sản), Phạm văn Đồng đã chánh thức gởi đến Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Chu Ân Lai giác thư ngày 14 tháng 9 năm 1958 ủng hộ bản Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Quốc xác định chủ quyền của nước nầy trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vào thời điểm nầy, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam tự do) vì nằm dưới vĩ tuyến 17. Khi Hải quân Trung Quốc tiến chiếm quần đảo Hoàng Sa và bị Hải quân Việt Nam Cộng Hòa chận đánh ngày 19 tháng 1 năm 1974 để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ Việt Nam, Hà nội đã giữ thái độ im lặng hoàn toàn. Quyết định bán nước và thái độ bàng quang của Hà nội đã chứng minh Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đặt quyền lợi của Cộng sản quốc tế trên quyền lợi quốc gia. Đây là hành động phản bội Tổ quốc đầu tiên của đảng Cộng sản Việt Nam đã phạm trong thời bình để trả nợ chiến tranh cho Trung Quốc và đền đáp ơn nghĩa của Trung Quốc đã giúp đỡ Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam lên ngai vàng tại Bắc bộ phủ và ngự trị trên miền Bắc Việt Nam sau chiến thắng Điện biên phủ nhờ sự trợ giúp của tướng Trung Quốc Vi Quốc Thanh và pháo binh Trung Cộng. Tham vọng quyền lực đã thúc đẩy Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam tích cực phục vụ Trung Quốc, mở đường cho Hán tộc bành trướng xuống Đông Dương và Đông Nam Á, tiến chiếm biển Đông (South China Sea), đặt căn cứ hải quân trên quần đảo Hoàng Sa, khống chế con đường đi ra hải phận quốc tế của Việt Nam và kiểm soát giao lưu hàng hải quốc tế giữa Thái bình dương và Ấn độ dương. Quyết định chuyển nhượng âm thầm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc chứng tỏ đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nhân thật sự của đất nước Việt Nam có quyền cho không hay bán một phần lãnh thổ mà không cần phải thông báo Quốc Hội hay xin Quốc Hội phê chuẩn

    Hậu quả của giác thư Phạm văn Đồng năm 1958 vô cùng trầm trọng. Hiện nay, chúng ta không thể biết ngày nào có thể thâu hồi quần đảo Hoàng Sa về Tổ quốc Viêt Nam. Ngày đó chỉ đến sau khi đế quốc cộng sản Trung Hoa tan rã.

    2. Cắt đất ở biên giới Việt-Hoa dâng cho Trung Quốc

    Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, đảng Cộng sản là một nhà cầm quyền đã dám cắt một phần đất của Tổ Quốc để dâng cho ngoại bang bất chấp luật pháp nghiêm minh của tiền nhân: trong Quốc Triều Hình Luật do Nguyễn Trải soạn thảo có một điều khỏan phạt tử hình người dân bán đất thuộc quyền sở hữu của mình cho ngoại nhân.

    Sau chuyến đi năm 1992 của bộ ba Đỗ Mười-Lê Đức Anh-Phạm văn Đồng đến Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, cầu hòa và dập đầu xưng thần với thiên triều Bắc kinh, đảng Cộng sản Việt Nam đã chuẩn bị một cống phẩm đầu tiên để lấy lòng quan thầy: dâng hiến Trung Quốc một phần đất liền dọc theo sáu tỉnh biên giới Việt-Hoa coi như trả một phần món nợ viện trợ của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ hai để đánh chiếm miền Nam, đào sâu thêm hận thù dân tộc và giết chết thêm cả chục triệu người Việt Nam vô tội. Cống phẩm nầy đã được dâng lên Bắc kinh bằng việc ký kết hiệp ước phân định lại biên giới Việt Hoa ngày 30-12-1999 theo chỉ thị của Lê Khả Phiêu, người lãnh tụ số 1 của đảng Cộng sản Việt Nam đã bị Bắc kinh sai khiến một cách dễ dàng vì đã lở dại sa vào mỹ nhân kế của người Tàu. Được Quốc Hội bù nhìn phê chuẩn nhanh chóng, hiệp ước bán nước nầy đã chuyển nhượng cho Trung Quốc trên 1,000 kí lô mét vuông đất liền ở biên giới Việt Hoa, tách rời khỏi lãnh thổ Việt Nam một số địa danh quan trọng như phía Bắc Sa Pa, ãi Nam Quan, thác Bản Giốc. Không màng đến trọng tội bán nước, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã cùng với Trung Quốc tổ chức liên hoan ăn mừng việc hoàn thành công tác cắm cọc biên giới mới có lợi cho Trung Quốc.

    3. Phân chia lại Vịnh Bắc Việt (Golf of Tonkin)

    Hiệp ước 1887 ký kết giữa đại diện Pháp quốc Patenotre và đại diện Đại Thanh Lý Hồng Chương đã phân chia Vịnh Bắc Việt theo tỷ lệ như sau: Việt Nam: 63%, Đại Thanh: 37%. Nhưng năm 2000, Trung Quốc đòi phân chia lại Vịnh Bắc Việt theo tỷ lệ 50/50. Dưới tác động và ảnh hưởng của Trung Quốc, Tổng Bí thư đảng Lê Khả Phiêu, Chủ tịch nước Trần Đức Lương và Chủ tịch Quốc Hội Nông Đức Mạnh đã thỏa hiệp ký kết hiệp ước về Vịnh Bắc Việt ngày 25-12-2000 để đáp ứng yêu sách của Trung Quốc nhưng chỉ muốn xin lại 6% mà thôi. Theo hiệp ước mới nầy, Việt Nam mất 14,000 kí lô mét vuông biển trong Vịnh Bắc Việt. Trước sự ngoan ngoản của các lãnh đạo Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam, Thủ tướng Chu Dung Cơ của Trung Quốc, người thay thế Lý Bằng, thông báo sẽ chuyển giao cho Việt Nam cộng sản 2 tỷ Mỹ kim dưới hình thức đầu tư. Số tiền lớn nầy được Trung Quốc xem như tiền mua một phần biển của Việt Nam trong Vịnh Bắc Việt. Một sự thật không thể chối cải là Cộng sản Việt Nam đã bán biển cho Trung Quốc để lấy 2 tỷ Mỹ kim và đã không bảo vệ quyền lợi của quốc gia Việt Nam bằng nhà cầm quyền thực dân Pháp. Vì vụ bán nước lần thứ ba nầy quá lớn, Quốc Hội bù nhìn của Cộng sản Việt Nam đã trì hoản đến năm 2004 mới âm thầm phê chuẩn hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt. Trong khi gia tăng áp lực đối với đảng Cộng sản Việt Nam để nhanh chóng ký kết hiệp ước bán biển trong Vịnh Bắc Việt, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Bằng đã nhiều lần bộc lộ cảm tình với Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc Hội Việt Nam cộng sản, và bày tỏ ý muốn Nông Đức Mạnh sẽ là Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam. Nông Đức Mạnh là hậu duệ của Hồ Chí Minh được Trung Quốc hậu thuẫn mạnh mẽ để tiếp nối sự nghiệp bán nước của cha y.

    4. Hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên của biển cả

    Các cống phẩm “dâng đất biên giới, hiến biển Vịnh Bắc Việt” của tập đoàn lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam vẫn chưa thỏa mãn tham vọng thôn tính Việt Nam của Trung Quốc. Bộ Chánh trị đảng Cộng sản Việt Nam lại nhận thêm một yêu sách mới: Chuyển nhương cho Trung Quốc 22,000 (hai mươi hai ngàn) kí lô mét vuông biển Việt Nam từ Quảng Ninh đến Quảng Ngải dưới hình thức hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên của biển cả giữa hai nước Trung Quốc và Việt Nam. Đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc, một hiệp ước thứ ba đã được bí mật ký kết năm 2000 để giao cho Trung Quốc trọn quyền kiểm soát và khai thác biển Đông nằm trong lãnh hải, vùng tiếp cận lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở phía Bắc Quảng Ngải (vĩ tuyến 15). Căn cứ vào hiệp ước nầy, Trung Quốc đã ngang nhiên cấm đánh cá trong các vùng biển của Việt Nam, bắn giết và bắt phạt ngư dân Việt Nam vi phạm các biện pháp hành chánh của họ, xua đuổi hai công ty British Petrolium và Exxon-Mobile không được hợp tác với Việt Nam cộng sản thăm dò và khai thác dầu khí trong các vùng biển của Việt Nam. Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam không dám phản đối Trung Quốc để bảo vệ quyền lợi của quốc gia và ngư dân Việt Nam.

    Hiệp ước hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên ký kết với Trung Quốc năm 2000 đã được nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam xem như một hợp đồng nên khỏi cần được Quốc Hội bù nhìn phê chuẩn. Hiệp ước nầy đã mở đường cho đế quốc cộng sản Trung Hoa chiếm hữu biển Đông và công bố bản đồ “Lưỡi Bò”bao gồm 80% biển Đông và thu hẹp lãnh hải Viêt Nam dưới 12 hải lý.

    Để chánh thức hóa sự chuyển nhượng vĩnh viễn cho Trung Quốc quần đảo Hoàng Sa (nằm trên vĩ tuyến 17) và các vùng biển Việt Nam ở phía Bắc vĩ tuyến 15 (Quảng Ngải), nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã không đệ nạp Liên Hiệp Quốc hồ sơ thềm lục địa Việt Nam ở phía Bắc vĩ tuyến 15 và tuyên bố không có tranh chấp trong vùng biển nầy (vì đã chuyển nhượng cho Trung Quốc)

    5. Hợp tác khai thác bô xít (bauxite) tại Cao nguyên Trung Phần

    Dưới hình thức hợp tác khai thác bô xít để lấy Alumina, Trung Quốc đã và đang tiến hành âm mưu xâm chiếm Cao nguyên Trung phần, một vị trí chiến lược sanh tử của Việt Nam. Sau khi khống chế các vùng biển của Việt Nam ở phía Đông, Trung Quốc có khả năng thành lập một khu tự trị của người Hoa và người sắc tộc thiểu số trên Cao nguyên Trung phần ở phía Tây và tách rời nước Việt Nam ra hai miền để làm suy yếu sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Kế hoạch “Diễn Biến Hòa Bình” sẽ giúp cho Trung Quốc thôn tính và Hán hóa Việt Nam với sự tiếp tay của tập đoàn lãnh đạo Cộng sản Việt Nam hiện nay do Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang cầm đầu. Dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản, Việt Nam đang đứng trước hiểm họa Bắc thuộc lần thứ hai.

    Hậu quả về an ninh quốc gia của vấn đề Trung Quốc khai thác bô xít trên cao nguyên Trung phần nghiêm trọng hơn vấn đề ô nhiễm môi sinh và nhiễm độc nguồn nước của các con sông Là Ngà, Đồng Nai, Sông Bé và Sài gòn cung cấp nước tiêu dùng cho dân cư các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai và thành phố Sài gòn. Hai hâu quả tai hại nầy sẽ quyết định sự sinh tồn của đất nước và dân tộc Việt Nam. Mặc dầu có sự chống đối của một số cựu tướng lãnh cộng sản như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên và một số đông trí thức trong nước do giáo sư Nguyễn Huệ Chi đứng đầu, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn nhứt quyết tiến hành dự án khai thác bauxite tại Cao nguyên Trung phần vì theo lời của viên chánh ủy cơ quan Tình báo Hoa Nam “tiền đã trao, cháo phải múc”.

    III. Âm mưu sáp nhập nước Việt Nam vào Trung Quốc và Hán hóa dân tộc Việt Nam

    Tham vọng thôn tính Việt Nam của Trung Quốc đã được bộc lộ rõ rệt trong một cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 Việt Nam. Tài liệu mật về cuộc họp nầy đã được công bố trên Internet và đăng tải trên nhựt báo Sài gòn Nhỏ số 226 ra ngày 03-07-2009.

    Tổng kết cuộc họp, viên Chánh ủy Tổng Cục Tình báo Hoa Nam đã nêu ra một số ý chánh, trích dẫn nguyên văn như sau:

    - Hội nghị đã “bàn về chuyện hợp nhất hai quốc gia trong tương lai”

    - “Hợp kết Trung Quốc Việt Nam có thể là một mốc lịch sử vĩ đại trên đường phát triển

    của tổ quốc”

    - “Trong tình thế hiện nay, Việt Nam không còn chọn lựa nào khác, không còn con đường nào khác hơn là trở về với Tổ quốc Trung Hoa vĩ đại”

    - “Việc Việt Nam trở về với tổ quốc Trung Hoa vĩ đại là việc trước sau sẽ phải đến. Không sớm thì muộn. Mà sớm thì hơn muộn. Trong lịch sử, Việt nam từng là quận, huyện của Trung Quốc, là một nhánh của cây đại thụ Trung Hoa.”

    - “Sự lựa chọn (giữa Trung Quốc và Hoa kỳ) chỉ còn có một. Và ở đây, các đồng chí Việt Nam tỏ ra có lựa chọn đúng. Ngày nay, Trung Quốc vĩ đại phải dành lại vị trí đã có của mình. Có Việt Nam nhập vào, Trung Quốc đã vĩ đại lại càng thêm vĩ đại.”

    - “Trong tướng lĩnh, phần nhiều là người của ta, do ta đào tạo, cất nhắc. Công nầy là nguyên chủ tịch Lê (tức là Lê Đức Anh), người rất biết nhìn xa trông rộng”.

    - “Tăng cường viết và nói hằng ngày, hằng giờ, biện luận cho dân thấy cái lợi của việc sát nhập”.

    - “Một khi Việt Nam đã nhập vào Trung Quốc thì vùng Tây nguyên của Việt Nam là của chung nước ta”.

    - “Phải trấn an các cán bộ các cấp, từ trung ương đến địa phương để họ thấy rằng sau khi hợp nhất, mọi vị trí, quyền lợi, bổng lộc của họ không bị suy suyển. Các đơn vị hành chánh sẽ được giữ nguyên trong một thời gian dài trước khi áp dụng mô hình hành chánh chung của toàn quốc”.

    - “Trong thời đại hiện nay ., sự sát nhập trở lại của Việt nam và toàn bán đảo Đông Dương tiếp theo là điều tất yếu”.

    - “Việc cuối cùng là mô hình quản trị Việt nam trong tổ quốc thống nhứt. Tỉnh hay khu tự trị”.

    Trong khi tổng kết hay hiểu thị, viên chánh ủy Tàu họ Lương còn tiết lộ hai bí mật liên quan đến Hồ Chí Minh và Nông Đức Mạnh, nguyên văn như sau:

    1. “ Trung Quốc và Việt Nam là một. Đó là chân lý đời đời. Đó cũng là lời của Hồ đồng chí (tức là Hồ Chí Minh) trong lễ tuyên thệ gia nhập đảng Cộng sản Trung Quốc. Hồ đồng chí tôn kính còn dạy: Trung Quốc và Việt Nam như môi với răng. Môi hở thì răng lạnh. Có nghĩa là hai nước là hai bộ phận trong cùng một cơ thể”.

    2. “Nông đồng chí (tức là đồng chí Nông Đức Mạnh) từng tự hào nhận mình là người Choang (Zhuang) trong cuộc gặp gở các đại biểu trong Quốc vụ viện. Mà dân tộc Choang là gì? Là một bộ phận của đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”.

    Nông Đức Mạnh là con tư sinh của Hồ Chí Minh đã có với người nữ cán bộ hộ lý tên Nông thị Ngác bí danh Nông thị Trưng trong thời gian ẩn trú trong hang Pác Bó ở Cao Bằng năm 1940.

    Nói tóm lại, nếu bản tổng kết cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 Việt Nam sẽ được Trung Quốc thực hiện nay mai với sự cộng tác của các Thái thú Trung Quốc trong đảng Cộng sản Việt Nam thì nước Việt Nam sẽ bị xóa tên trên bản đồ thế giới, dân tộc Việt sẽ bị Hán hóa và trở thành một dân tộc thiểu số trong đế quốc cộng sản Trung Hoa giống như Tây Tạng, Mông Cổ, Mãn Châu và Hồi Cương dưới quyền thống trị của Hán tộc. Đồng bào người Việt ở trong nước và ngoài nước có lưu ý đến các vụ nhà cầm quyền Trung Quốc thẳng tay đàn áp và giết người dã man đã và đang xảy ra tại Tây Tạng và Tân Cương hay không? Đứng trước nguy cơ mất nước và mất dân tộc hiện nay, chỉ có Nhân dân Việt Nam mới có đủ sức mạnh cứu nước và dân tộc ra khỏi đại họa thống trị và đồng hóa của đế quốc cộng sản Hán tộc. Đã đến lúc toàn dân Việt ở trong và ngoài nước phải dũng cảm đứng dậy liên kết chiến đấu đập tan họa nội xâm và họa ngoại xâm, thành lập nền Đệ Tam Cộng Hòa Việt Nam trên nền tảng dân chủ pháp trị để bảo vệ sự sinh tồn của Tổ quốc và Dân tộc Việt Nam

    Phạm Đình Hưng
    California, ngày 19 tháng 7 năm 2009