Friday, August 7, 2009

Nước Ý và người Việt Tỵ Nạn - Nguyễn Quý Đại


Nguyễn Quý Đại

(Nhân ngày Cộng đồng người Việt Tỵ Nạn ở Ý tổ chức 30 năm người Việt tỵ nạn định cư ở Ý vào ngày 23/08/2009)

Việt Nam chịu ảnh hưởng văn hóa Ý không sâu rộng, trước 1975 sinh viên du học Ý chỉ khoảng 300 người. Tuy nhiên nhiều người VN biết đến quốc gia nầy nhờ có Toà Thánh Vatican, là vùng đất thánh kỳ diệu mà mỗi tín đồ Thiên Chúa Giáo đều mong ước một lần trong đời được hành hương Roma. Vatican diện tích 0.44 km² (44 hectares). Theo các tài liệu thì năm 326, ngôi thánh đường đầu tiên, quảng trường Constantinian, được xây dựng trên mộ của thánh St. Peter. Từ khi xuất hiện thánh đường, bắt đầu có dân cư thưa thớt chung quanh. Nơi ở của Giáo hoàng nằm gần quảng trường được xây dựng từ thế kỷ V. Vatican trải qua nhiều thời kỳ thay đổi của lịch sử.

Mãi cho đến Hiệp ước Lateran (Lateranverträge/Lateran Treaty) Benito Mussolini và Pietro Cardinal Gasparri thay mặt cho vua Victor Emanuel III và Giáo Hoàng Pius XV ký ngày 07.06.1929 Vatican được tự trị, lãnh thổ Vatican bao gồm một vùng đất được xây tường chung quanh dài 3,2 km, nằm giữa thủ đô Roma gọi là “stato della Città del Vaticano”. Đức Giáo Hoàng là người điều hành quốc gia nhỏ bé nầy dưới sự giúp đỡ của Hồng Y Đoàn, Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm Hồng Y giữ chức vụ các bộ trong Tòa Thánh nhiệm kỳ 5 năm. Dân số hơn 1000 người, có quân đội riêng được thành lập ngày 22.01.1506 bởi Giáo hoàng Julius II để bảo vệ và canh gác, hiện nay khoảng 101 người theo truyền thống phải là người Thụy Sỹ. Quảng trường thánh St. Peter, là nơi tập trung tinh hoa của các thời đại, được xây dựng năm 1667 do những nhà kiến trúc, điêu khắc nổi tiếng. Quảng trường được bao bọc bởi vòng cung gồm 284 cột trụ, có thể chứa 25 ngàn người. Trên các cột này khắc 140 tượng thánh, cột trụ đá chính giữa được vận chuyển về từ Ai Cập năm 40 sau công nguyên. Ngoài những cung điện lộng lẫy còn có hơn 20 bảo tàng và thư viện.

Nước Ý nằm về phía Nam Âu Châu dân số 60.054511 người, chưa tính những nguời Ý từ thế kỷ thứ 19 di cư ra nước ngoài lập nghiệp: USA (9 triệu); Nam Mỹ Südarmerika (4,2 triệu); Thụy Sỹ (370.000); Đức (300.000?)… Tổng sản lượng GDP (Gross Domestic Product) tính theo đầu người 38.996$ (2008).

Diện tích 301.336 km², mật độ trung bình 199/ km², biên giới phía bắc là dãy Alpen giáp với Pháp, Thụy Sĩ, Áo và Slovenia. Trong lãnh thổ của Ý có hai quốc gia độc lập là: San Marino và Vatican, còn Campione d‘ italia là vùng đất của Ý nằm trong lãnh thổ Thụy Sĩ.

Ý là một bán đảo dài giống hình „bàn chân“ được bao quanh ở phía tây biển Tyrrhenian và phía đông biển Adriatic. Dãy Alpennin chạy dài giống như xương sống của bán đảo này; và là biên giới phía bắc có nhiều hồ, hồ lớn nhất là Garda (370 km²); Po là sông chính chảy từ dãy Alpen ở biên giới phía tây Ý, xuyên qua đồng bằng Lombardy vào Biển Adriatic. Nước Ý có nhiều đảo, hai đảo lớn nhất là Sicilia (25.708 km²) và Sardinia (24.090 km²). Những thành phố lớn quan trọng: Rom, Mailand, Turin, Genua, Paermo, Bologna, Florenz, Catania, Venedid, Bari, Triest, Messina, Verona, Padua, Cagliari. Các phi trường quốc tế: Rom, Mailand và Venedig và những hải cảng quan trọng: Genua, Neapel, Venedig, Livorno, Palermo và Triest.

Hệ thống giao thông về đường sắt: 19.394 km; đường bộ 654.676 km, hơn 6957 km là xa lộ (nếu xe chạy trên xa lộ phải trả tiền thuế đường) đường sông dài 2400km. Núi Mont Blance (Monte Biano) cao nhất, về phiá Nam còn những núi lửa hoạt động. Ý trải qua thời gian lập quốc cũng lắm phong trần từ thời cổ đại qua nhiều triều đại, sự hiện diện của con người tại đây có từ thời đồ đá khoảng 200.000 năm trước. La Mã cổ đại có nền văn minh phát triển trên báb đảo Ý. Từ thế kỷ thứ 8 trước CN, trở thành một đế chế trải dài theo Điạ Trung Hải. Đế chế nầy đã thống trị toàn bộ các vùng lân cận. Quốc gia Ý độc lập, cũng ôm mộng đế quốc như các quốc gia Âu Châu: Anh, Pháp, Đức, Hoà Lan, Tây Ban Nha từng dùng sức mạnh đánh chiếm các quốc gia chậm tiến. Thế chiến I (1914-1918) Ý đứng về phía liên quân Anh-Pháp. Tháng 11.1918 Ý đánh bại Đế chế Áo-Hung. Trong cuộc chiến này 600.000 người Ý thiệt mạng, nền kinh tế sụp đổ với tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp cao.

Năm 1921 Mussolini được bầu vào nghị viện của nhà nước Phát xít. Năm 1922 B.Mussolili tổ chức Đảng phaxit Ý đi về Roma để biểu dương lực lượng "La marcia di Roma " và sau đó vua Ý Victor Emmanuel III trao quyền hành cho ông ta. Mussolini được gọi là Duce “chỉ huy” giữ vai trò là thủ tướng, Mussolini dần dần chuyển chế độ chính trị sang chủ nghĩa phát xít.. Mussolini là thân hữu của Adolf Hitler (1889-†1945) cùng tạo kế hoạch để Đức tấn công Áo. Năm 1936 Ý xua quân đánh chiếm Ethopien. Năm 1938 Mussolini đồng ý Hitler sát nhập Áo và lập ra hiệp ước Munich. Đệ nhị thế chiến (1939-1945) Mussolini lúc đầu không dám can thiệp cùng phía Đức, vì quân đội Ý còn yếu kém, nhưng tháng 4.1939 Ý chiếm Albania, Bắc Phi (Nordafrika), năm 1940 Pháp bị Đức đánh bại, ngày 23.6.1940 Pháp đầu hàng Đức. Mussolini nghĩ thế cờ đã đến tay nên quyết định tham gia cuộc chiến, hy vọng trục Phát xit Đức-Ý-Nhật sẽ chiến thắng trong một thời gian ngắn. Tháng 10.1940 Ý chiếm Hy Lạp dùng Albania làm bàn đạp nhưng phải rút lui. Sau khi Ý chinh phục Somalia thuộc điạ của Anh năm 1940, bị quân Đồng Minh phản công thiệt hại nặng. Quân Ý bị Đồng Minh đánh bại tại Bắc Phi, và chỉ trụ vững nhờ sự hỗ trợ các quân đội Đức Quốc Xã dưới sự chỉ huy của tướng Erwin Rommel. Năm 1943 Vua Vittorio Emanuele và nhóm đối lập với Mussolini tháng 6.1943 lật đổ chính quyền do Mussolini lãnh đạo, Mussolini bị bắt giữ tháng 7.1943. (sau đó nhờ toán cảm tử quân Đức của Otto Skorzeny giải thoát). Các đảng chính trị chống Phát xít ở Ý trước kia bị cấm được hoạt động trở lại, có các cuộc đàm phán hòa ước bí mật với phe Đồng Minh tháng 9.1943. Ngay lập tức Đức tấn công Ý để ủng hộ Mussolini và trở thành một mặt trận lớn. Phần đất dưới sự chiếm đóng Phát xít, dưới lãnh đạo của Mussolini, nên xảy ra cuộc nội chiến đẫm máu giữa quân du kích Ý và quân đội Phát xít. Ý được giải phóng 25.04.1945. Phe trục Phát xít thua trận, Mussolini (1883-†1945) bị bắt và lập tức được đưa vào toà án binh ngày 28.04.1945 sau đó ông bị treo cổ với vợ Clara Petacci (1912-†1945) tại Giulino di Mezzegra Comer. Cuộc sống của những bạo chúa, độc tài ngang dọc, đến lúc mạc vận, xuôi tay ra đi với hai bàn tay trắng, cát bụi trở về với các bụi. (Bài học trong lịch sử cho thấy chế độ Phatxit, Cộng sản độc tài không thuận lòng dân đều bị đào thải. Thiên đường cộng sản tại Nga sụp đổ năm 1989 kéo theo các nước Đông Âu, nhà độc tài Ceausescu của đảng CS Romania bị lật đổ vợ chồng đều bị giết chết ngày 24.12.1989)

Năm 1949 Ý trở thành một đồng minh của Mỹ qua kế hoạch Marshall, “chương trình phục hưng Châu Âu" (European Recovery Program viết tắt ERP) Mỹ giúp Ý khôi phục nền kinh tế. Mười năm sau Ý phát triển kinh tế mạnh. Ý là quốc gia phát xuất một phần văn hóa Âu Châu, cũng là nơi khởi đầu ra phong trào Phục hưng. Thủ đô Roma từng là trung tâm của nền Văn Minh cổ và là trung tâm của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo. Từ năm 1948 theo hiến pháp nghị viện lưỡng viện (Parlamento), có Viện dân biểu (Camera dei Deputati) và Thượng viện (Senato della Repubblica), một cơ quan tư pháp độc lập, và cơ quan hành pháp có Hội đồng Bộ trưởng (Consiglio dei ministri), do thủ tướng (Presidente del consiglio dei ministri) lãnh đạo. Tổng Thống (Presidente della Repubblica) được nghị viện với một số dân biểu cấp vùng bầu với nhiệm kỳ bảy năm. Tổng thống chỉ định thủ tướng, người đề cử các chức vụ bộ trưởng (được tổng thống chỉ định chính thức). Hội đồng Bộ trưởng phải được sự ủng hộ (fiducia) của cả hai viện. Ý đã gia nhập Liên hiệp quốc năm 1955 và là một thành viên của khối Nato (Tổ chức Hiệp ước Bắc đại tây dương). Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD), Thoả thuận Chung về Thuế quan, Thương mại / Tổ chức Thương mại Thế giới (GATT/WTO), Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu (OSCE) và Hội đồng Âu Châu, từng giữ chức chủ tịch CSCE năm 1994, EU năm 1996 và G8 năm 2001 và nắm chức chủ tịch EU từ tháng 7 tới tháng 12 năm 2003. Ý là quốc gia phát triển hàng thứ 7 trên thế giới trở thành một thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.

Hàng năm có hàng triệu (1) du khách hành hương Roma hay mùa hè tắm biển. Phần lớn người ở miền Nam Đức thường đến Ý nghỉ hè (khoảng cách từ Đức 600 km đến vùng biển Địa trung hải của Ý). Kỹ nghệ nặng sản xuất „made in Italy“ xe hơi Auto gồm có (Fiat Group, Aprila, Piaggio, Ducati, Ferrari, Maserati, Lamborghini, Pagani). Máy bay các loại (Agusta, Alenia, Finmeccanica) tàu thuỷ (Fincantieri). Các loại du thuyền (Ferretti, Azimut). Xuất cảng xe, máy móc, vải sợi, cá, đá cẩn thạch (Marmo), lúa mạch, gạo, bắp, Oliven, rau, trái cây, rượu nho, bò, và các loại giày da, thời trang Armani Valentino,Versace, Benetton, Luxottica ..) dụng cụ điện từ và hoá học … Nhưng phải nhập cảng các nguyên liệu cần thiết cho ngành công nghiệp và nhu cầu năng lượng.

Những nhà bác học như: Galileo Galilei (1564-†1642) sinh tại thành phố cổ Pisa tây bắc Ý, ông bác bỏ lý thuyết của Aristotle cho rằng “vật nhẹ thì rơi chậm, vật mặng thì rơi nhanh”. Galilei thí nghiệm chứng minh rằng nếu không có sức cản của không khí thì các vật rơi xuống cùng một lúc, như vậy vật nặng hay nhẹ đều rơi với vận tốc như nhau. Năm 1609 ông chế viễn vọng kính đầu tiên, ngày 09.01.1610 là lần đầu ông quan sát được thiên văn khám phá thế giới mới cho nhân loại, và chứng minh thuyết của nhà bác học người Balan Nicolaus Copernicus (1473-†1543) rằng: trái đất và các hành tinh khác đều di chuyển theo qũy đạo của mặt Trời là đúng. Năm 1610, khi Galileo xuất bản cuốn Sidereus Nuncius, trong đó nêu quan điểm mặt trời là trung tâm của vũ trụ, ông đã nhận được lời tán thưởng của cả Johannes Kepler, nhà thiên văn học tài ba và Jesuit Clavius, tác giả của lịch Gregorian.

Quan điểm nhà thờ Thiên Chúa thời bấy giờ tin rằng “Trái đất đứng yên” Toà án dị giáo kết án ông đi ngược lại giáo điều? buộc ông phải sám hối để khỏi bị tội tử hình. nhưng ông không bao giờ từ bỏ lý thuyết “trái đất vẫn quay“. Về già ông bị mù mắt. ông được tôn vinh là nhà khoa học thực nghiệm, dù mù nhưng ông vẫn thấy vũ trụ bao la, về Khoa học lý thuyết của Galilei đóng góp cho nhân loại khám phá ra không gian và vũ trụ. Những cố gắng của Giáo hoàng John Paul II (1920-2005) nhằm nối lại hoà bình với khoa học bắt đầu ngay từ lễ nhậm chức của ngài vào tháng 10.1978. Đến ngày 10.11.1979 trong lần tưởng niệm húy nhật thứ 100 của Albert Einstein (1879-†1955) Đức Giáo hoàng yêu cầu các Học giả, Sử gia và các nhà Thần học điều tra vụ án Galileo một cách kỹ lưỡng. Một uỷ ban được thành lập và đưa ra kết luận năm 1992. Đức Giáo hoàng thừa nhận những sai lầm do toà án dị giáo gây ra vì đã buộc tội nhà Thiên văn học. "Hãy thứ lỗi cho chúng tôi về thái độ thù địch ... do sự thiếu nhận thức về sự tự do chính thống trong khoa học". Đánh giá công lao nghiên cứu của Galilei, người ta ghi trên bia mộ: „Ông đã mất thị giác, vì trong thiên nhiên không còn cái gì ông chưa thấy“

- Enrico Fermi (1901-†1954) nhà Vật lý do công việc về phân rã Beta, phát triển của lò phản ứng hạt nhân đầu tiên, và phát triểnlý thuyết lượng tử. Fermi nhận giài Nobel vật lý 1938, công việc gây ra tính phóng xạ.

- Alessandro Giuseppe Antonio Anastasio Volta (1745-†1827) là nhà vật lý. Ông là người đã có công phát minh ra Pin điện và tên của ông được đặt theo đơn vị điện thế volt (ký hiệu V).

- Joseph-Louis Lagrange (1736-1813) là nhà tóan học, thiên văn. Ông đã có những đóng góp quan trọng trong nhiều lĩnh vực giải tích toán học lý thuyết số, cơ học cổ điển và cơ học thiên thể, ông là nhà toán học vĩ đại nhất của thế kỷ thứ 18.

- Leonardo của Pisa (1170-†1250), là nhà tóan học tài ba nhất thời Trung cổ

- Fibonacci (1170-†1250) nổi tiếng có công lan truyền hệ ký số Hindu- Á Rập ở Châu Âu, vào đầu thế kỷ 13 trong cuốn (Liber Abaci) của ông. Dãy số hiện đại mang tên ông, số Fibonacci tuy ông không phải là người khám phá nhưng đã dùng nó làm thí dụ trong cuốn Liber Abaci

- Marchese Guglielmo Marconi (1874-†1937) là người phát minh ra máy điện báo Radio Ông cùng Karl F. Braun là hai người người đồng nhận giải Nobel vật lý 1909 "công nhận những đóng góp của họ cho sự phát triển của ngành vô tuyến"

- Antonio Meucci (1808-†1889) là nhà phát minh một dạng máy liên lạc giọng nói năm 1857. Meucci là người phát minh ra máy điện thoại đầu tiên.

Ngoài những sinh hoạt về khoa học thành công trên, về bản sắc văn hóa nghệ thuật của dân tộc Ý cũng không kém phần quan trọng trong kho tàng văn chương thế giới. Chuyện tình lãng mạn của Romeo và Juliet, hai người yêu nhau nhưng số mệnh không cho họ sống bên nhau, vì hai người là con của hai dòng họ vốn ghét nhau nhiều thế hệ tại thành phố Verona, nhưng hai người vượt qua những định kiến để yêu nhau, và kết thúc cuộc tình là một bi kịch đau thương. Chuyện tình nầy năm 1597 nhà soạn kịch người Anh lừng danh thế giới William Shakespeare (1564-†1916) soạn vở kịch xuất sắc và nổi tiếng trên sân khấu kịch nghệ quốc tế. Năm 1856 nhà văn Gottfried Keller người Thụy sĩ viết tiểu thuyết Romeo und Julia auf dem Dorfe, từ năm 1908-1996 đã có 6 hãng Phim sản xuất phim chuyện tình Romeo và Julia.

Âm nhạc luôn đóng vai trò quan trọng trong văn hóa Ý. Là nơi khai sinh ra Opera truyền thống âm nhạc cổ điển. Nhạc cổ điển hiện tại đều có thể tìm thấy nguồn gốc từ những phát minh dụng cụ ở thế kỷ 16 và 17 (symphony, concerto & sonat). Những nhà soạn nhạc nổi tiếng thời Phục hưng: Giovani Pierluigi, Monteverdi Baroque, Arcangelo Corelli và Antonio Vivaldi các nhà soạn nhạc cổ điển như Niccolò Paganini & Gioacchino Rossi. Các nhà soạn nhạc lãng mạn như: Giuseppe và Giacomo Puccini. Các nhà soạn nhạc Ý hiện đại là: Luciano Berio, Luigi Nono góp phát triển nền âm nhạc của thế kỷ 21.

Họa sĩ tài danh Leonardo da Vinci (1452-†1519) là một thiên tài toàn năng (sinh tại Anchiano Ý nhưng qua đời tại Amboise Pháp).Thời gian từ (1495-1497) Leonardo vẽ một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của ông là “Bữa ăn tối cuối cùng của Chúa Jésu và 12 Tông đồ” trong nhà thờ Santa Maria delle Grazie. Năm 1506 Leonardo hoàn thành bức danh họa Mona Lisa còn gọi (La Gioconda) ngày nay nhiều hoạ sĩ họa lại bức tranh nầy, nhưng không thể vẽ nụ cười của người xưa trong tranh. Hoạ sĩ Sandro Botticelli (1445-†1510) nổi tiếng với bức hoạ mẹ Maria bế Chúa hài đồng cùng các thiên thần. Ngòai ra còn những danh họa: Donatello, Fra Angelico, Tintoretto, Caravaggio, Bernini, Titian, Micchelangelo và Raffaello sanzio….

Những triết gia: Marsilo Ficino (1433-†1499) là nhà nhân chủng học người đầu tiên dịch nguyên bản các tác phẩm của Platon sang latin, Niccolo Machiavelli (1469-†1528) nhà triết học chính trị, nhà ngoại giao nhạc sĩ sau nầy, triết gia Jean-Jacques Rousseau (1712-†1778) ảnh hưởng đến sự phát triển của lý thuyết xã hội, của Niccolo và Giordano Bruno (1648-†1600) triết gia, khoa học gia là Linh mục một trong những nhân vật đầu tiên đưa ra ý tưởng về một Trái Đất vô tận và đồng nhất. Bruno cho rằng vũ trụ bao la, vô tận trong đó có các sinh vật, các hành tinh chưa được khám phá. Bruno bị tòa án La Mã kết tội và bị hỏa thiêu tại Roma 1600. Ông là tấm gương đầu tiên hy sinh cho khoa học.

Các tác giả văn học hiện đại là những người đoạt giải Nobel văn học: nhà thơ quốc gia Giosuè Carducci (1835-†1907) “phong cách mới mẻ và sức mạnh trữ tình trong thơ", nhà văn nữ Grazia Deledda (1871-†1936), nhà văn, nhà soạn kịch Luigi Pirandello (1867-†1936), nhà thơ Sal vatore Quasimondo (1901-†1968) và nhà thơ nhà phê bình văn học Eugenio Montale (1896-†1981)

Người Ý rất hâm mộ thể thao vì từ thưở xa xưa có các trận đấu sĩ thời Roma cổ đại, đấu trường Colosseum là di tích lâu dài, hiện nay có nhiều câu lạc bộ thể thao, đội banh quốc gia được chung kết 16 lần giải túc cầu thế giới (Fußball Weltmeister) giữ chức vô địch 4 lần (1934-1938-1982 và 2006) và năm 1968 vô địch giải Âu Châu (Fußball Europameister). Các môn thể thao mùa đông cũng khá phổ biến, nhiều người Ý tranh tài tại các Olympic. Thế vận Hội mùa đông được tổ chức tại Ý năm 1956 (Cortina d’Ampezzo) và năm 2006 (Torino) Hoạt động thể thao vào các lễ hội ở Ý như Palio cuộc đua Gondola tại Venezia vào ngày Chủ nhật đầu tiên của tháng 9, các bộ môn thể thao không thể thiếu trong đời sống của dân tộc Ý.

Ý phát triển về Khoa học, văn học, âm nhạc, thể thao … ngoài ra có thực phẩm phổ thông là: Pizza, Spaghetti. Theo tài liệu khác nhau cho rằng Pizza nguồn gốc từ Hy Lạp? Spaghetti là loại mì sản xuất tại Trung Hoa? Không cần tranh luận người ta đều biết Pizza ra đời tại Ý vào năm 1889 khi nữ hoàng Margherita Teresa Giovanni, hoàng hậu của vua Umberto đệ nhất đến thăm Napoli. Raffaele Esposito, chủ quán rượu Pietro li Pizzaiolo đã đãi món Pizza là một đặc sản nổi tiếng. Từ đó nhiều loại Pizza ra đời là món ăn nhanh thơm ngon đơn giản. Năm 1905 người Ý tên là Gennaro Lombardi đến New York lập nghiệp mở tiệm Pizza đầu tiên trên xứ Mỹ. Nước Đức tuy gần Ý nhưng cho đến năm 1952 lần đầu tiên tiệm Pirzza „Sabbie di Capri“ mở ở Würzburg thuộc tiểu bang Bavaria. Cho đến ngày nay, Pizza và Spaghetti có mặt ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ở mỗi nơi, người ta làm Pizza hay Spaghetti pha chế thêm bớt gia vị để có đặc trưng ẩm thực riêng. Người Ý có thể làm chả giò Việt Nam, nhưng họ không thể chế nước mắn thơm ngon như các bà nội trợ người Việt.

Nước Ý đào tạo nhiều nhân tài cho nhân loại, nhờ những đại học lâu đời nhất thế giới. Trường Đại học Bologna có từ năm 1088 (mỗi năm theo học 100.000 SV) hiện nay hàng trăm Đại học đủ các ngành ở khắp nơi. Đại học lớn nhất là Sapienza ở Rom có hơn 130.000 sinh viên (so với Việt Nam có lịch sử 4 ngàn năm Văn hiến, nhưng đại học đầu tiên ở Hà Nội thành lập từ năm 1918)

Từ 1989 các quốc gia Đông Âu bỏ chế độ CS, làn sóng di cư từ Đông Âu đến Ý khoảng 1.025.874 người. Ngoài ra còn có các sắc dân khác như: Albania (348.813) người Tàu (127.822) Romania (297.570) Ukraina (107188). Thiểu số người Việt tỵ nạn CS khoảng 3000 người, được Hải quân Ý vớt trên biển đông năm 1979 và tiếp tục thâu nhận theo diện nhân đạo của chính phủ và nhân dân Ý.

Nhìn lại lịch sử Việt Nam trải qua một ngàn năm Bắc thuộc, gần một trăm năm nô lệ giặc Tây, nhưng dân tộc Việt Nam đoàn kết chống ngoại xâm giành độc lập và giữ gìn bờ cõi, không ai muốn rời bỏ quê hương. Biến cố lịch sử ngày 30.4.1975 chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước nhưng hàng triệu người miền Nam tiếp tục bỏ nước, bất chấp phong ba bão tố hay hải tặc cướp của, hảm hiếp, giết người; bất chấp gian khổ khi vượt thoát bằng đường bộ; hay những nguy hiểm đến sinh mạng khi làm kiếp thuyền nhân để đi tìm hai chữ TỰ DO.

Làn sóng vượt biên sôi động nhất từ năm 1978, 1979 thuyền nhân Việt Nam đến các nước láng giềng tại Á Châu bị xua đuổi, chìm tàu, bị hải tặc Thái hãm hiếp đàn bà, trẻ em. Làm chấn động lương tâm Thế giới. Cao Ủy Tỵ Nạn (United Nations High Commissioner for Refugees) kêu gọi các quốc gia tự do mở vòng tay nhân đạo đón nhận người Việt tị nạn. Hội nghị Genève, ngày 20-7-1979, Thụy Sĩ, 65 quốc gia đã nhóm họp để bàn cách cứu Thuyền nhân Việt Nam.

Đoàn Tàu Hải quân Ý vớt thuyền nhân Việt Nam

Ngày 27.06.1979 tàu Vittorio Veneto bỏ neo ở Tolone được lệnh về lại cảng Taranto, chuẩn bị cuộc hành trình dài đến biển Đông tìm vớt thuyền nhân Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên Hải quân Ý sau đệ Nhị Thế chiến (1939-1945) rời biển Điạ Trung Hải hoạt động xa, hải hành dài 12.000 km. Ngày 5.7.1979 lúc 10 giờ từ cảng Taranto, tàu Hải quân dưới sự chỉ huy của Đô đốc Sergio Agostinelli của hạm đội thứ 8 của Ý, phối hợp với các tàu V.Veneto (450 giường), Andrea Doria (270 giường), Stromboli (112 giường), đều được trang bị bệnh viện cấp cứu đầy đủ phương tiện. Lương thực, nước uống đầy đủ để thi hành sứ mệnh nhân đạo. Những thuyền trưởng, thủy thủ đoàn, những người thiện nguyện y tá, bác sĩ với lòng nhiệt huyết tình nguyện làm việc nhân đạo trong đó sinh viên Nguyễn Hữu Phước (tàu Stromboli) và hai linh mục: Domenico Vũ Văn Thiện (tàu Doria) và L.m Philip. Trần Văn Hoài (tàu Veneto) cũng đã có mặt trên đoàn tàu làm thông dịch.

Đoàn tàu đến Singapore với hải trình dài 2640 hải lý (tìm kiếm) thuyền nhân VN trên vùng biển rộng khoảng 250.000 km². Thời gian hoạt động các hải quân Ý trên biển đông vớt được những ghe, tàu vượt biên trong cơn “thập tử nhất sinh” tổng số 907 thuyền nhân. Chiều ngày 02.08.1979 đoàn tàu trở về cố quốc mang theo toàn thể thuyền nhân Việt Nam. Buổi sáng thứ Hai ngày 21.08.1979 đến Venezia, được đón mừng nồng nhiệt, các phái đoàn đại diện chính phủ lên tàu thăm chúc mừng thuyền nhân là Bộ trưởng Quốc phòng, phó bí thư bộ ngoại giao Zamberletti, tướng tư lệnh bộ quốc phòng, tư lệnh Hải quân, Giám đốc văn phòng bộ trưởng, Đức giám mục, các cơ quan truyền thông báo chí.

Chúng ta đến xứ sở nầy với đôi bàn tay trắng, vượt qua những khó khăn thử thách để hội nhập và làm nên sự nghiệp. Kinh nghiệm sống là một bài học, một di sản vô giá cho thế hệ mai sau. Có „ôn cố“ mới có „tri tân“. Người không có quá khứ là người bị bứng gốc trong hiện tại và trở thành vô định trong tương lai. Người Việt dù sống ở bất cứ nơi nào trên thế giới, đều ý thức được việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc Việt, duy trì ngôn ngữ Việt, cùng một tâm trạng, một nỗi niềm về quá khứ với nhiều biến động đau thương của một thời để cùng chia xẻ, gần gũi với nhau hơn. Đã 30 năm trôi qua nhưng chúng ta nhớ lại kỷ niệm và không quên tri ân cứu tử của chính quyền và nhân dân Ý. Chúng ta rời Việt Nam lúc tóc hãy còn xanh, nhưng sau 30 năm thì tóc đã bạc màu thời gian. Nhìn lại sinh hoạt của Cộng Đồng Người Việt tại hải ngoại nói chung, đặc biệt tại Ý hội nhập và trưởng thành trên mọi phương diện. Nhưng sinh hoạt của người Việt tại Ý hơi trở ngại, vì người Việt ở rải rác khắp nơi. Muốn tổ chức ngày hội ngộ có 500 người tham dự rất khó. Tuy nhiên ngày 22.08.2009 Hội Người Việt tại Ý để thể hiện tinh thần „đoàn kết“ và „ăn trái nhớ kẻ trồng cây“, không phân biệt người đến trước người đến sau, cố gắng cùng tổ chức „Hội Ngộ 30 Ngưòi Việt Tỵ Nạn Cộng Sản Tại Ý“ và phát hành Bản Tin „Cuộc Hành Trình Vượt Biển, được biết ban BTC đã liên lạc với Bộ Quốc Phòng, Bộ tư lệnh Hải Quân mời các thuyền trưởng và thủy thủ đoàn của những chiếc tàu đã cứu sống người Việt chúng ta trên biển cả, cảm ơn chính quyền, những nhà bảo trợ ân nhân người Ý.

Trên tàu 30 năm trước vẫn còn vang vọng dư âm Lm. Philip Trần Văn Hoài (sau nầy lên Đức Ông) đại diện người Việt-Nam phát biểu: “Kính thưa Đô-đốc, Hạm trưởng, các Sỹ-quan, các Hạ-sĩ-quan, các Thủy-thủ: Cám ơn vì đã cứu vớt chúng tôi Cảm ơn tất cả những ai với tấm lòng của tín đồ Thiên-chúa-giáo đã hy sinh cho chúng tôi suốt đêm-ngày … Người Ý các vị có trái tim thật tốt, không ai có thể đối xử với chúng tôi tốt đến vậy …Chúng tôi đã “chết-đi-sống-lại” bởi lòng tốt của các vị … Sáng nay trên phi đạo chúng tôi đã ngắm nhìn bờ biển Ý một làn gió nhẹ ngọt ngào mơn-man trên mặt như dấu hiệu chào đón và làm đầy sự vui sướng trong tim chúng tôi … Các vị khác hẳn mọi dân khác: với các bạn có một đồng loại bất hạnh và vì lẽ đó các bạn phải xả thân..“ (2)

Nhớ lại những ngày đầu đến Ý còn xa lạ, ngỡ ngàng nhưng bây giờ là quê hương thứ 2. Con cháu trưởng thành như một người bản xứ, nhiều người đi làm có đời sống ổn định mua nhà riêng, nhiều người đã về hưu non, vui hưởng tuổi già suy ngẫm về nhân tình thế thái, cõi nhân sinh và hãnh diện con cháu thành đạt. Viên mãn cuộc sống, là điểm dừng của tham vọng, để tâm hồn thanh thản, không bao giờ quên những ân tình của đời đã trao.

(Thân chúc Nguyễn Văn Hoàng bạn một thời Phan Châu Trinh Đà Nẵng, năm 1971 du học Ý. Bà xã Hoàng là Tô Cẩm Hoa được tàu Hải quân Ý vớt năm 1979. Tổ chức ngày Hội ngộ 30 năm tại Ý thành công).

Nguyễn Quý Đại

Tài liệu tham khảo:

- Universal Lexikon Faktum Lexikon Institut
- Lexilon der Gesichte Faktum Lexikon Institut
- 5 hình trên nguồn từ Internet

(1) khoảng 43 triệu du khách đến Ý. Vatican được gọi là đất Thánh, nhưng rất tiếc không „hiền“ thành phần xấu lợi dụng vùng đất nầy để móc túi, giật xách, trộm xe…Du khách phải cẩn thận tránh những buồn phiền có thể xảy ra …

(2) Sứ mạng cho Việt Nam của Đức ông Luigi Callegaro & Cappellano

Thursday, August 6, 2009

Những thước phim của sự thật - Lê minh


Lê Minh

Ngày Thứ Bảy ngày 11 tháng 7, 2009 cuốn DVD “Sự thật về Hồ Chí Minh” lần đầu tiên đã được Phong Trào Quốc dân Đòi Trả tên Sài Gòn ra mắt tại Little Saigon, California. Kể từ “phát súng” này, tính cho đến nay đã có đến 9 buổi ra mắt tại nhiều tiểu bang của Hoa Kỳ. Tại mỗi chặng đường vừa qua, đông đảo đồng hương tỵ nạn Việt Nam đã nhiệt liệt ủng hộ, đón nhận sự ra mắt của cuốn DVD này. Và chặng đường kế tiếp sẽ là 2 thành phố lớn tại Úc Châu: Sydney và Brisbane, rồi đến các thành phố lớn ở Âu Châu.

Việc ra mắt của cuốn DVD này đương nhiên đã “chạm nọc” Đảng CSVN không ít. Cay cú với cuốn DVD này, mới đây tờ báo điện tử ĐCSVN nhận chỉ thị tung lên một bài viết mang tựa đề “Những thước phim trái sự thật, trái đạo lý“ của nhà báo láo mang bút hiệu Chính Nghĩa (Đảng?).
    Source:http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30296&cn_id=353757

    Những thước phim trái sự thật, trái đạo lý
    17:17 | 05/08/2009

    Chính Nghĩa

    (ĐCSVN) - Gần đây, nếu để ý, người ta thấy trên một số trang web có địa chỉ nước ngoài xuất hiện những đoạn video với cái tiêu đề khá câu khách “Sự thật về Hồ Chí Minh” nhằm bịa đặt, bôi nhọ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh, người con ưu tú của dân tộc Việt Nam được cả thế giới ca ngợi, ngay cả kẻ thù cũng phải kính nể chắc chắn không thể hao tổn một chút uy tín nào trước sự vu cáo của những kẻ làm phim “Sự thật về Hồ Chí Minh”.

    Bộ phim được tung ra vào đúng dịp Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đang được sự hưởng ứng nhiệt liệt của đồng bào trong nước và nước ngoài đồng thời cũng là dịp toàn Đảng, toàn dân ta đang kỷ niệm 40 năm thực hiện bản di chúc lịch sử của Người. Mục đích của những người làm phim đã rõ ràng, đó là thông qua việc xuyên tạc, bôi nhọ Hồ Chí Minh, họ hi vọng có thể làm suy yếu, đi đến làm sụp đổ Đảng Cộng sản Việt Nam, thay đổi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Theo họ, trên thế giới hiện nay có 2 người cộng sản đã trở thành huyền thoại, có sức lôi cuốn mạnh mẽ mọi người, đó là Chê Ghêvara và Hồ Chí Minh. Họ rùm beng rằng sở dĩ Đảng Cộng sản Việt Nam chưa sụp đổ vì còn dựa vào huyền thoại Hồ Chí Minh (?), nếu đánh đổ được huyền thoại này thì Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ sụp đổ theo (?). Tuy đó chỉ là ý đồ hoang tưởng của những kẻ cố tình quay lưng lại trước sự thật và chắc chắn sẽ thất bại, nhưng phim đã được tán phát lại đang được một số người ra sức tô son trát phấn. Bởi thế, cũng cần phải làm rõ những người làm phim là ai và họ đã nói gì?

    Vậy những người đứng ra chủ trương làm phim video này là những ai? Họ là những người chống Cộng ai cũng rõ mặt. Nhiều năm nay, với tư tưởng thù hận, cay cú, họ đã không từ một việc làm nào hòng nói xấu Đảng Cộng sản Việt Nam, xuyên tạc hình ảnh và tình hình thực tế tại Việt Nam, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc Việt Nam. Dưới chiêu bài “Phong trào quốc dân đòi trả tên Sài Gòn” một tổ chức do họ nặn ra, Nguyễn Hữu Lễ, Trần Quốc Bảo và một số người khác đã dành hàng năm trời để kiếm tiền, chiêu binh mãi mã cho “bộ phim tài liệu” mà họ đặt vào đó rất nhiều kỳ vọng này.

    Kịch bản bộ phim được họ dàn dựng dựa trên những tư liệu và vấn đề không có gì mới, chỉ có thể lừa mị những người chưa biết. Hầu hết các vấn đề được “các tác giả” “mông má” lên như là rất mới, thực ra đã được giải quyết từ lâu, có những vấn đề quan trọng về thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam kết luận và công khai cho nhân dân biết đã hàng chục năm nay, đơn cử như ngày sinh và ngày mất của Người, trước các tác của Người, những vấn đề căn bản trong hệ thống tư tưởng của Người v.v... Cố tình xuyên tạc sự thật, nhóm những người làm phim lập lờ, tìm cách bưng bít những kết luận và thông tin đã được giới sử học trong và ngoài nước xác nhận rồi lu loa lên bằng những “bằng chứng” bịa đặt, không có căn cứ.

    Với dụng ý xấu như vậy, cho dù số tiền dành cho phim không ít, việc triển khai khá công phu, cuốn phim vẫn không được sự hưởng ứng của những nhà sử học, nhà nghiên cứu văn học nghiêm túc, có trách nhiệm. Để che lấp khoảng trống chết người này, nhóm làm phim đã tìm đến không ít người để “tổ chức phỏng vấn ghi hình” mong người xem nghĩ rằng họ khách quan, khoa học. Họ đã tìm đến ai ? Trước hết là những kẻ đào tẩu khỏi Tổ quốc, phản bội lý tưởng đã theo đuổi, nhiều chục năm nay không ngừng viết sách, viết báo, lên các đài phát thanh vu cáo, bôi nhọ; đã được các thế lực xấu khai thác đến mòn nhẵn như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Minh Cần … Những điều xuyên tạc về Hồ Chí Minh chẳng qua là sự lặp lại đến nhàm chán điều họ đã vu cáo Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những cuốn sách của mình nhưng hàng chục năm nay chẳng lừa được ai. Loại người thứ 2 là những “thây ma chính trị” như ông Bùi Diễn, từng là đại sứ tại Mỹ; ông Tôn Thất Thiện, từng là tổng trưởng thông tin trong chế độ cũ. Loại người thứ 3 là những người hoạt động chống cộng khét tiếng hoặc những người có quan điểm chống cộng, lâu nay không ai biết là ai, đột nhiên được dựng lên, được khoác áo nhà nghiên cứu, nhà biên khảo này nọ như các ông Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Văn Trần, Trần Gia Phụng, Minh Võ, Trần Nhân Tuân, Vũ Ngự Chiêu cùng một số người khác, trong đó có một vài nhà báo nước ngoài. Được ghi hình, được nói một vài phút hẳn những người này mãn nguyện nhưng rồi họ chắc sẽ phải xấu hổ vì những điều họ nói để tiếng xấu về sau.

    Hồ Chí Minh, người con ưu tú của dân tộc Việt Nam được cả thế giới ca ngợi, ngay cả kẻ thù cũng phải kính nể chắc không thể hao tổn một chút uy tín nào trước sự vu cáo của những người làm phim “Sự thật về Hồ Chí Minh”. Tư tưởng Hồ Chí Minh, di sản Hồ Chí Minh mãi mãi vẫn là ngọn đuốc sáng soi dọi con đường đi tới của toàn dân tộc, đó là chân lý. Rất tiếc cho nhóm làm phim đã cố tình chối bỏ chân lý đó để tung lên mạng những thước phim vừa trái sự thật vừa trái đạo lý thông thường với một vĩ nhân.
Bài báo này cho biết cuốn DVD “Sự thật về Hồ Chí Minh” đã được “tung ra” vào đúng dịp nhà nước CSVN bắt đầu “cuộc vận động và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Như vậy nhà báo Chính Nghĩa đã gián tiếp thừa nhận rằng sự ra mắt của cuốn phim này đã đánh trúng tử huyệt của “Bác”, đúng lúc đúng thời. Có điều ông Chính Nghĩa này cũng bậy thật. Ai đời, báo chí “lề phải” luôn xưng tụng “Bác” là “vị cha già của dân tộc”, thế nhưng ông Chính Nghĩa đã thay cách gọi “Bác” là “người con ưu tú của dân tộc”. Sao lại bắt “Bác” vừa làm “Cha”, vừa làm “Con”, thật là lộn xộn. Nhưng chắc chắn là làm “Cha” thiên hạ thì sướng hơn rồi.

Phải nói rằng, không kể đến cuốn phim này thì vẫn còn có biết bao câu chuyện đời, chuyện lịch sử rành rành có liên quan đến Hồ Chí Minh, một nhân vật muôn mặt, nhiều tên lắm họ và cũng lắm mưu gian. Chỉ nội tên họ thì Hồ đã có ít nhất là 16 cái tên, từ lúc sanh ra cho tới khi chết.

Việc sử dụng nhiều tên gọi khác nhau để “đi làm cách mạng” thì cũng chẳng phải là cái gì ghê gớm lắm, nếu đó chỉ là chuyện tạm thời. Nhưng nếu dùng luôn cái tên “đi làm cách mạng” để rồi hãnh diện và cho rằng mình tự khai sanh ra mình bằng một cái tên họ hoàn toàn mới lạ là một chuyện trái với đạo lý văn hóa Việt Nam, đáng bị lên án. “Hồ Chí Minh” không phải là cái tên cúng cơm do ông bà cha mẹ đặt ra cho Nguyễn Sinh Cung khi còn nhỏ, hay Nguyễn Tất Thành khi đã trưởng thành. Ấy thế mà cậu bé Sinh Cung ngày ấy sau khi đã bố láo, cả gan đổi tên cúng cơm do cha mẹ đặt thành Nguyễn Tất Thành, rồi tiếp tục nữa là Nguyễn Ái Quốc.

Chưa dừng lại ở đó, Sinh Cung đã liên tục thay tên đổi họ hơn chục lần nữa trong suốt thời gian ở hải ngoại. Vào thời điểm 1945, Sinh Cung lần đầu tiên xuất hiện với một cái tên rất lạ, nghe rất là Tàu và rất.... oai: “Hồ Chí Minh”. Đây là cái tên cuối cùng mà Sinh Cung lượm được trên đường từ Tàu về nước và vì có lẽ yêu thích cái tên mang màu sắc Tàu có vẻ “chí cao, thông thái” mà Sinh Cung lưu giữ lại cho đến chết.

Lạ thật, sinh ra mang họ Nguyễn, mà khi chết thì mang họ Hồ. Bỏ qua tất cả các tội ác do Hồ gây ra, thì chỉ nội điều này thôi cũng đã đủ để Hồ phải quỳ trước bàn thờ tổ tiên họ Nguyễn để chịu tội rồi. Có phải xưa nay vì “học tập tấm gương đạo đức” của Hồ nên rất nhiều con cháu trong hàng ngũ lãnh đạo đã thay tên đổi họ như Võ Văn Kiệt, Trường Chinh, anh em nhà Lê Đức Thọ - Mai Chí Thọ, Nguyễn Văn Linh,... Trong lịch sử Việt Nam từ cổ chí kim, có lẽ việc thay tên đổi họ chỉ xảy ra vào những thời kỳ thay ngôi đổi chủ, truy bắt gắt gao, hoặc giả là được nhà Vua ân sủng ban ơn mang họ mới mà thôi. Nhưng khi có điều kiện thì ai ai cũng muốn quay trở về với họ gốc của mình. Nhưng Sinh Cung thì khác, cho đến khi chết đã rất an lòng với cái tên “Hồ Chí Minh”.

Đó là một trong nhiều “tấm gương đạo đức” (giả) của Hồ mà hiện nay ĐCSVN đang phát động, bắt các đảng viên học tập và làm theo. Như thế thì có cần phải xuyên tạc “tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” không, hay là khi sự thật được phơi bày thì cái mặt nạ của Hồ Chí Minh và ĐCSVN cũng sẽ rớt theo.

Mà lạ thật, Hồ Chí Minh làm gì có tư tưởng. Di sản Hồ Chí Minh thì càng tàn tệ nữa. Không nói đâu xa, hãy nhìn sang các nước chung quanh thôi, họ chẳng có “di sản” của ông bà lãnh đạo nào cả, mà sao đất nước dân tộc họ vẫn thừa hưởng một di sản hơn hẳn “Di sản Hồ Chí Minh” xa lắc. Người Việt Nam thường hay nói đùa “con đường Bác đi là con đường bi đác”. Mà bi đác thật bác ạ. Kể từ ngày bác du nhập cái thuyết ngoại lai Mác-Lê Nin rồi Mao-Xếnh Xáng vào Việt Nam, thì đất nước Việt Nam điêu tàn bất hạnh.

Sự thật rành rành ra đó, cho nên càng chối, càng la làng thì càng làm cho dư luận chú ý thêm hơn vào vấn đề và muốn tìm hiểu ngọn ngành. Do đó, vô hình dung bài viết trên trang báo điện tử ĐCSVN đã “mat-ket-tinh” dùm cho cuốn phim “Sự thật về Hồ Chí Minh”. Cũng giống như việc Trung Cộng ăn thua đủ tới cùng với bà Rebiya Kadeer, đánh phá ban tổ chức của Melbourne International Film Festival đã làm cho nhiều người dân Úc càng chú ý đến hơn nữa bộ phim “Mười điều kiện tình yêu” (“Ten Conditions of Love”) và ban tổ chức đã phải trình chiếu hai xuất thay vì một xuất như dự tính ban đầu.


Như vậy bài viết của ông Chính Nghĩa đã có tác dụng ngược là quảng cáo dùm cho bộ phim “Sự thật về Hồ Chí Minh”. Đối với người dân trong nước, ngoài việc bị bắt buộc phải “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” thì từ nay sẽ có được dịp tìm hiểu “Sự thật về Hồ Chí Minh”.

Để tìm hiểu sự thật về Hồ Chí Minh, xin mời quý đọc giả trong và ngoài nước hãy ghé vào trang web của Phong Trào Quốc dân Đòi Trả tên Sài Gòn (http://www.saigonforsaigon.org)để biết chương trình ra mắt bộ phim tại các thành phố, hoặc những ai ở xa không có điều kiện, đặc biệt là đồng bào ở trong nước thì có thể vào xem bộ phim này trên YouTube.

Lê Minh
Sydney, ngày 06/08/2009

* Ghi chú:
12 đoạn phim của “Sự thật về Hồ Chí Minh” trên YouTube:
    1. http://www.youtube.com/watch?v=eM3sM4n5UKM
    2. http://www.youtube.com/watch?v=yY9-NT4GX7s
    3. http://www.youtube.com/watch?v=MS99czWO7Nk
    4. http://www.youtube.com/watch?v=60C1FvUsDlw
    5. http://www.youtube.com/watch?v=EHg8tCWNPCE
    6. http://www.youtube.com/watch?v=RGFtY6vO6DY
    7. http://www.youtube.com/watch?v=h5d72hiEcIc
    8. http://www.youtube.com/watch?v=ViAIdYQ8hp4
    9. http://www.youtube.com/watch?v=Q0McpD_7ndM
    10. http://www.youtube.com/watch?v=rZ2fv6w84GI
    11. http://www.youtube.com/watch?v=uvT9y2BrH9Y
    12. http://www.youtube.com/watch?v=nwmVyIuhx4U



Wednesday, August 5, 2009

Đụng Độ Trên Biển Đông - Trần Nam


Trần Nam

Phi Trường trên đảo Woody
Cuộc trạm chán giữa Hải quân Mỹ và Trung Quốc hồi tháng 3 năm 2009 tại biển Đông là giọt nước làm tràn ly. Tàu Hải quân Trung Quốc đã tìm cách khiêu khích, chận đường tàu thám hiểm Hải quân Mỹ USNS Impeccable, buộc tàu Mỹ phải khẩn cấp tránh để khỏi bị đụng độ. Sau vụ thử thách đó, Mỹ đã trở nên cứng rắn. Hoa Thịnh Đốn đưa ngay tàu khu trục USS Chung-hoon đi dò đường và hộ tống tàu thám hiểm hải quân Mỹ, không để cho tình trạng khiêu khích xảy ra nữa. Tàu khu trục hạm này gồm 275 thủy thủ đoàn, có trang bị ngư lôi và hoả tiễn định hướng. Sự hiện diện của khu trục hạm tại Biển Đông đã làm Bắc Kinh tức giận nhưng bỏ hẳn thái độ khiêu khích vì sợ đụng độ. Đối với Mỹ thì Hải quân Trung Quốc vẫn chưa phải là đối thủ.

Sự kiện này đã làm thức tỉnh giới chức ngoại giao và quân sự Mỹ trước dã tâm và tham vọng bành trướng chủ quyền của Trung Quốc. Trung Quốc đang thử “nắn gân” Hải quân Mỹ và gửi tín hiệu cho các quốc gia vùng về vai trò của mình. Trung Quốc muốn nhắn nhủ “biển đông thuộc chủ quyền của Trung quốc, Mỹ không nên tạo ảnh hưởng làm gì”. Đừng có lộn xộn trong vùng đó, nó thuộc chủ quyền của chúng tôi. Đó là nội dung Trung quốc muốn chuyển cho Mỹ và các quốc gia Á Châu.

Dĩ nhiên tín hiệu đó Hoa Thịnh Đốn đã nắm từ trước. Nhưng bận bịu với những biến động ở Trung Đông, Mỹ không dành ưu tiên cao cho mặt trận Á Châu. Dù vậy, Mỹ cũng không thể làm ngơ khi thấy Trung quốc làm mưa làm gió và tìm mọi cách chận đứng vai trò của Mỹ ở Châu Á. Nếu ảnh hưởng Mỹ bị co cụm, và Trung quốc trổi dậy như một thế lực nguy hiểm, đầy tham vọng thì khả năng một cuộc chiến tranh ở Châu Á khó tránh khỏi. Lúc đó, Mỹ có muốn can thiệp, trở tay cũng không kịp vì tình thế đã vượt ra khỏi tầm ảnh hưởng của Mỹ.

Thái Độ Của Trung Quốc

Rõ ràng Trung Quốc đang tìm mọi cách bành trướng vị trí chiến lược của họ về mặt quân sự. Những đòi hỏi thô bạo, tham lam, không căn cứ về chủ quyền ở biển Đông. Những trạm chán, áp bức và thái độ hiếu chiến với Việt Nam cho thấy dã tâm của Trung quốc. Hiện nay, không những đường biển của Việt Nam bị co cụm mà một số quốc gia khối ASIAN cũng bị áp lực, trước sự hiện diện căn cứ quân sự Trung quốc tại các khu vực đang tranh chấp.

Tại đảo Woody (Phú Lâm) nằm trong quần đảo Trường Sa, Hải quân Trung quốc đã thiết lập một hải cảng chừng 350 mét với đường băng dài 2500 mét dành cho máy bay, chiến đấu cơ, tàu quân sự của Quân đội Nhân dân Trung Quốc. Tin giới nghiên cứu tiết lộ, Trung Quốc muốn biển đảo Woody thành một căn cứ quân sự, từ đó hướng tầm kiểm soát và làm nhiệm vụ yểm trợ các hoạt động tại biển Đông, nhất là khu vực đảo Trường Sa nếu chiến tranh xảy ra. Tại đây, các trạm lưu trử dầu, vũ khí, đạn dược đã được xây cất và đang đi vào quy trình hoạt động. Nhiều hỏa tiễn Silkworm có mục tiêu chống tàu chiến cũng đã đặt tại căn cứ này. Với tầm bắn gần 60 dặm tại Woody, hoả tiển Silkworm có thể răn đe các tàu chiến dám lảng vảng trong các khu vực thuộc phạm vi kiểm soát của Trung Quốc. Hơn nữa, một trạm thu nhận tín hiệu tình báo đã được thiết lập tại đảo Rocky, nằm về phiá bắc của Woody. Đảo Rocky là đảo có độ cao nhất, dễ dàng làm nhiệm vụ quan sát các tàu chiến và những di chuyển trong vùng biển Đông.

Chiến đấu cơ Su-30MK2
Trong quan hệ ngoại giao, Mỹ đã tái khẳng định chính sách cũa Mỹ đối với tranh chấp tại biển Đông là “các bên không nên dùng vũ lực để chiếm chủ quyền về lãnh hải, ngăn chận giao thông thuộc khu vực biển Đông và nằm trong lãnh vực hàng hải quốc tế.” Thực ra, bên cạnh đường biển, Mỹ cũng rất quan tâm đến đuờng trời nằm trong khu vực biển Đông. Vì ngoài cuộc trạm chán tại hồi đầu năm 2009, trước đó, không quân Mỹ -Trung quốc cũng đã từng đụng độ. Tháng 4 năm 2001, máy bay chiến đấu cơ F-8/J8II của hải quân Trung Quốc và EP-3E của Mỹ đã đụng nhau tại biển Đông. Chiến đấu cơ Trung quốc đã bám đuôi máy bay thám sát Mỹ để khiêu khích, vì bay qua gần, F-8/J8II đã mất khả năng kiểm soát, đụng vào phần cánh máy bay Mỹ, F-8/J8II rớt xuống biển, phi công Trung Quốc bị thiệt mạng. Máy bay EP-3E của Mỹ đã phải hạ cánh khẩn cấp tại đảo Hải Nam, toàn bộ phi hành đoàn 24 người đã bị Trung Quốc bắt giữ, 11 ngày sau Trung Quốc mới chịu giao trả lại cho Mỹ.

Phản Ứng Của Mỹ

Cuộc trám chán lần thứ nhất ở trên không, Trung Quốc muốn khẳng định với Mỹ và các quốc gia Á Châu là chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông gồm cả vùng biển lẫn vùng trời. Tuy nhiên, phải đợi đến lần đụng độ thứ hai, khi tàu dân sự thám hiểm Mỹ USNS Impeccable bị tàu chiến Trung Quốc khiêu khích, thì Hoa Thịnh Đốn thấy rỏ phải có thái độ, để Trung Quốc bớt hung hăng và hiếu chiến.

Tại Hội nghị các quốc gia thuộc khối ASIAN (Association of Southeast Asian Nations) tại Thái hôm tháng 7, 2009, bộ trưởng Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton đã tham dự và trao đổi với lãnh đạo các quốc gia ASEAN. Tại đây, bà ngoại trưởng Mỹ cũng đã ký kết thoả ước hữu nghị và hợp tác TAC (Treaty of Amity and Cooperation in Southeast Asia) với khối ASEAN, một thoả ước tương đối lỏng lẻo trong thiết lập quan hệ đối thoại về an ninh và hợp tác vùng, chủ trương tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ và không can thiệp vào nội bộ. Đây là thoả ước mà thời tổng thống Goerge W. Bush, phía Mỹ đã từ chối ký kết.

Hồi năm 2007, bà Ngoại trưởng Condoleezza Rice thay vì tham dự hội nghị thường niên của ASEAN thì lại bay qua Trung Đông. Lúc đó Mỹ đặt mối quan tâm Trung Đông quan trọng hơn Á Châu. Lần này, phát biểu tại Bang kok, bà Tân Ngoại trưởng Hillary Clinton cho biết “chúng tôi đã trở lại”. Bà muốn ám chỉ đến chính sách bỏ rơi Á Châu từ thời cựu Tổng thống George W. Bush. Tình thế hiện nay đã khác sau khi Hoa Kỳ thay đổi lãnh đạo cùng với chính sách mới về Á Châu. Điều này cho thấy, Hoa Thịnh Đốn đã gửi thông điệp rất mạnh mẽ cho Trung Quốc và ASEAN. Hoa Kỳ không thể để Trung Quốc “múa gậy vườn hoang” tại biển Đông.

Những biến động tại Biển Đông với viễn ảnh Trung Quốc kiểm soát đường biển là điều không thể chấp nhận về mặt chủ quyền, không những đối với các quốc gia đang trong vòng tranh chấp gồm Việt Nam, Mã Lai Á, Philipine, Đài Loan ..v..v… mà ngay cả đối với quyền lợi Hoa Kỳ cũng bị ảnh hưởng. Nói cách khác, nếu điều đó xảy ra, hải chiến giữa Trung Quốc và các quốc gia dành chủ quyền trên biển Đông khó tránh khỏi. Lúc đó, Hoa kỳ không thể đứng bên lề hoặc làm đồng minh của Trung Quốc, vì như vậy Hoa Kỳ tự triệt hạ vai trò và quyền lợi chiến lược của mình tại Á châu. Chiến tranh trên biển Đông xảy ra, điều khủng hoảng nhất đối với Mỹ và thế giới là gần 30% đường dẫn dầu quốc tế bị đình động, hơn 50% hàng hoá vận chuyển bằng đường thủy trên toàn thế giới bị gián đoạn. Lo ngại hơn nữa, nếu Trung Quốc kiểm soát các vùng tranh chấp, khả năng các đường lưu thông trên biển sẽ bị Hải quân Trung Quốc ngăn chận. Vì vậy, sự hiện diện của Mỹ tại biển Đông vô cùng quan trọng, vừa có thể cầm chân thái độ khiêu khích, hiếu chiến của Trung Quốc, vừa làm trọng tài để giải quyết những tranh chấp trong vùng, vừa làm chổ đối trọng cho các quốc gia khối ASEAN, nhằm tránh một cuộc chiến tranh thế giới có thể xảy ra.

Về mặt thực tế, nếu có trạm chán quân sự, chiến tranh giữa Trung Quốc với Đài Loan hoặc Việt Nam là những đối tác có nguy cơ dẫn đến tác động lớn nhất.

Trung Quốc Và Đài Loan

Chiến đấu cơ Su-30MK2
Trung Quốc đã hăm he dùng vũ lực để giải quyết Đài Loan. Nếu không có Hiệp ước bảo vệ giữa Mỹ và Đài Loan, Trung Quốc đã chiếm Đài Loan từ lâu. Mỹ không khuyến khích Đài Loan đi vào quy chế độc lập vì như vậy sẽ khiêu khích Trung Quốc, nhưng Mỹ cũng khẳng định, nếu Trung Quốc đánh Đài Loan, quân Mỹ sẽ không khoan tay đứng nhìn. Tham vọng của Trung Quốc vẫn là phải chiếm Đài Loan và làm chủ toàn bộ khu vực biển Đông. Muốn vậy, Trung Quốc phải triệt hạ Việt Nam.

Hồi tháng 10 năm ngoái, Mỹ đã bán cho Đài Loan 6.4 tỷ mỹ kim vũ khí quân sự gồm 300 Patriot III chống hoả tiển, 30 máy bay trực thăng tấn công Apache, 32 hoả tiển Harpoon và 182 hoả tiển Javelin chống tăng. Hiệp ước Đài Loan 1979 (Taiwan Relations Act 1979) cho phép Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan để “tăng cường khả năng phòng thủ và tự vệ của quốc gia này”. Hiệp ước cũng khẳng định “nếu dùng bất cứ các phương tiện quân sự, hoặc bao vây, tảy chay Đài Loan nhằm áp chế Đài Loan tức là cố ý khiêu khích gấy chiến và làm mất quân bình trong vùng, đều dẫn đến mối quan tâm sâu xa của Mỹ”.

Đài Loan rất muốn trang bị tàu ngầm tối tân của Mỹ nhưng vì sợ Đài Loan khiêu khích Trung quốc, Mỹ đã từ chối bán. Đối với Trung Quốc, một Đài Loan trang bị tàu ngầm tối tân được coi như thái độ thách thức, làm cho tình thế thêm rối rắm và căng thẳng. Trước đây, Đài Loan từng mua 2 chiếc tàu ngầm của Phần Lan, sự kiện này đã dẫn đến việc Trung Quốc triệu hồi đại sứ Trung Quốc tại Phần lan. Áp lực, quan hệ ngoại giao hai nước đã xấu đi trong suốt nhiều năm trời. Với số quân chừng 350 ngàn so với hơn 2.5 triệu quân của Trung Quốc, trang bị vũ khí yếu so với tầm vóc hiện đại của quân Trung Quốc, Đài Loan hoàn toàn không khả năng tự vệ khi Trung Quốc mở cuộc tấn công bất ngờ. Vì vậy, nếu bất cứ lý do gì Hiệp ước Đài Loan năm 1979 không còn giá trị, đảo Đài Loan thuộc vào tay Trung Quốc chỉ còn là thời gian.

Việt Nam Trước Viễn Ảnh Chiến Tranh

Trước thái độ Trung Quốc leo thang, ngang ngược xâm chiếm lãnh thổ. Việt Nam giữ thái độ ngậm bồ hòn. Dù vậy, thời gian gần đây, có dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang từng bước tân trang quân đội để chuẩn bị đối đầu. Kinh nghiệm cuộc chiến tranh biên giới 1979, khi Trung Quốc đánh bất ngờ vẫn còn chưa phai nhạt đối với các lãnh tụ cộng sản Hà Nội. Và viễn ảnh của chiến tranh Việt – Trung sẽ xảy ra để giải quyết các mối bất đồng là điều “không thể tránh khỏi”.

Tàu ngầm Kilo
Từ tháng 4 năm 1999 Hà Nội đã trang bị nhiều hoả tiển Scud của Bắc Hàn với tổng số lên đến cả trăm triệu mỹ kim. Việt Nam cũng đã chi ra 300 triệu mỹ kim để mua hệ thống hoả tiển phòng thủ trên không S300 PMU1 của Nga. Đây là loại hỏa tiển bắn các mục tiêu bay thấp. Hà Nội cũng bày tỏ ý định muốn mua S300 PMU2, một loại hoả tiển phòng không trang bị đầu đạn có định hướng dùng để ngăn chận hoả tiển bắn từ xa, tốc độ S300 PUM2 là 10,000 km một giờ và có thể bắn xa đến 200 km, thay vì chỉ có 150 km như S300 PMU1.

Tháng 3 năm 2001, Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố khi có mặt tại Hà Nội “Việt Nam không những phải tái chỉnh trang thiết bị quân sự cũ mà cần mua thêm nhiều trang thiết bị quân sự tối tân của Nga nữa”. Năm 1995 Hà Nội mua sáu chiếc phản lực Sukhoi Su-27 trị giá 150 triệu mỹ kim, đồng thời đặt mua thêm 6 chiếc Su-27 nữa cho năm 1997. Những năm sau đó, Hà Nội liên tiếp mua máy bay Su-30, nhiều hoả tiển, hoả tiển chống tàu chiến Mosquito có khả năng điều khiển bay ở độ thấp, bắn mục tiêu xa 120 kilometer và trang bị thêm 4 trạm kiểm soát sóng radar để phát hiện máy bay “Trung Quốc” xâm nhập. Cuối tháng 11 năm 2007, Nga chuyển giao 2 tàu tuần tra Molniya có gắn đầu hoả tiển, sau đó trong năm 2007 Nga giúp Việt Nam tự sản xuất thêm 20 chiếc tuần tra loại này. Tất cả những kỷ thuật quốc phòng cho công nghệ chế tạo tàu Molniya đã được Nga chuyển giao cho Việt Nam với phí tổn gần 1 tỷ dollars. Chưa an tâm, Việt Nam bỏ ra thêm 300 triệu mỹ kim để mua lại công nghệ chế tạo hoả tiển Yakhont chống tàu chiến. Năm 2009, Việt Nam đã mua thêm 12 chiếc phản lực loại cực tối tân Su-30MK2 và 6 chiếc tàu ngầm Kilo của Nga, tổng giá tiền gần 2.5 tỷ dollars.

Chưa bằng lòng với các trang thiết bị quân sự của Nga, Việt Nam cũng tìm cách mua thêm các vũ khí hiện đại khác của Ấn Độ. Việt Nam ngõ ý mua hoả tiển Brahmos, có tầm bắn xa 300 km. Nhưng vì đây là loại hoả tiển tối tân nhất của Ấn, bị ràng buộc về thoả thuận không tiết lộ bí mật kỷ thuật, nên Ấn không thể bán cho Hà Nội. Giới chức ngoại giao Ấn tiết lộ, họ nghĩ Ấn có thể bán cho Hà Nội loại hoả tiển có tầm kỷ thuật thấp hơn, đó là loại hoả tiển đối không Prithvi với chức năng không thua gì hoả tiển Brahmos.

Việt nam cũng đang có ý tìm kiếm những vũ khí tối tân khác, trong đó khai dụng “nguyên tử” như một lá chắn trước áp lực và dã tâm của Trung quốc. Năm ngoái, ông Christopher Hill, trưởng phái đoàn Mỹ đặc trách về “nguyên tử” tường trình trước Thượng viện Mỹ về chuyến đi Á châu, nhằm chuẩn bị cho cuộc thương thuyết về nguyên tử với Bắc Hàn. Khi Thượng Viện Mỹ đặt vấn đề liệu Việt Nam có đi theo con đường của Bắc Hàn không? Ông Christopher Hill trả lời một cách tự tin là “Việt Nam chưa có khả năng nghiên cứu về nguyên tử và không có tham vọng sở đắc vũ khí nguyên tử như Bắc Hàn, chúng ta có thể tin điều này”.

Nói vậy chứ không phải vậy, vì liệu Mỹ có thể tin cậy được những lời hứa hẹn của Hà Nội. Quan hệ mật thiết với Bình Nhưỡng, Hà Nội có thể tìm kiếm trợ giúp về mặt kỹ thuật để xây dựng lò "hạt nhân nguyên tử" và điều này đã nằm trong vòng quan tâm của lãnh đạo Hà nội, trước tình trạng láng giềng khổng lồ chực “ăn tươi nuốt sống”. Điều cản trở Việt Nam không phải là Bình Nhưỡng mà chính là Bắc Kinh, vì không đời nào Bắc Kinh cho phép Bình Nhưỡng giúp Việt Nam thủ đắc khả năng phòng ngừa “lá chắn nguyên tử” để chống lại họ. Vì vậy, Việt Nam đã tìm đến Ấn Độ như một nguồn cung cấp kỹ thuật “nguyên tử” sau Bình Nhưỡng.

Tháng 10 năm 2005, Trung tướng Nguyễn Thịnh, chủ nhiệm Trung tâm Nghiên cứu Quốc phòng dẫn đầu phái đoàn quân sự đến thăm Viện Nghiên cứu Quốc phòng Ấn. Tại đây, ông Thịnh đã bày tỏ mong muốn được Ấn Độ giúp Việt Nam kỷ thuật để xây dựng cơ sở chế tạo hoả tiển. Việt Nam cũng muốn mua hoả tiển điểu khiển tối tân Brahmos, có tầm bắn xa 300km của Ấn. Ông Thịnh cho biết, Việt Nam cần hoả tiễn có tầm bắn xa để bảo vệ biển Đông và cầm chân hải quân Trung quốc. Hoả tiển Brahmos của Ấn Độ là sản phẩm quân sự chung Nga và Ấn. Brahmos là viết tắt của chữ Brahmaputra, tên một dòng sông Ấn và Moscow. Đây là hoả tiển bay nhanh nhất thế giới ở tốc độ vượt âm thanh. Với kích thước nặng từ 2500kg đến 3000kg tuỳ theo dàn phóng, dài 8.4 m, đường kính 0.6m, Brahmos có thể bắn mục tiêu xa 290km. Điều tiện lợi của hoả tiển này là có thể bắn trên tàu chiến, tàu ngầm, mặt đất và cả máy bay. Đặc biệt, Brahmos có thể tái chỉnh trang để gắn cho các chiến đấu cơ Su-30 và Su-30MK2 của Nga mà Hà Nội đang có.

Hỏa tiễn Brahmos
Mặc dù việc mua bán này sẽ không thuận thảo vì Ấn Độ không thể chuyển giao công nghệ quốc phòng tối tân cho Việt Nam, nhưng Ấn cũng đã tìm cách giúp Việt Nam huấn luyện chuyên viên về tàu ngầm. Hiện tại, Ấn cấp hơn 500 học bổng cho du học sinh Việt Nam và Ấn cũng đang huấn luyện Việt Nam về kỹ thuật nguyên tử chỉ “dùng cho dân sự”. Điều cần lưu tâm là nếu Việt Nam đồng ý cho Ấn sử dụng cảng Cam Ranh, việc chuyển giao kỹ thuật cao của hoả tiễn Brahmos và cả công nghệ “hạt nhân nguyên tử” cho Việt Nam, có thể là những vấn đề mà cả Trung quốc, Hoa Kỳ, Nhật và các nước Đông Nam Á sẽ bị bất ngờ.

Chiến tranh Việt – Trung sẽ phải xảy ra để giải quyết những tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Nhân dân Việt Nam không thể chấp nhận lãnh thổ càng lúc càng bị co cụm và nhục nhã trước tình trạng bị mất đất, mất biển. Đồng thời, dù lãnh đạo đảng CSVN có nhịn nhục, khiếp sợ đến cỡ nào thì Trung Quốc cũng phải chiếm các vùng biển Đông, vì nhu cầu chiến lược quân sự và tham vọng bá quyền. Hiện nay, Việt Nam đang nhịn nhục để mua thời gian, hiện đại hoá quân đội, chuẩn bị cho giai đoạn thử lửa, đối đầu và đánh trả nếu không còn sự chọn lưạ. Trung Quốc với tổng số chi tiêu cho ngân quỹ quốc phòng hàng năm trên 150 tỷ dollars và 2.5 triệu quân chính quy, nửa triệu quân Việt Nam không đủ vai vế để đương cự nếu chiến tranh bùng nổ. (*)

Sau cuộc chiến Việt - Trung 1979, Việt Nam đã bỏ mất cơ hội hiện đại hoá quân đội. Giờ mới bắt đầu thì đã muộn. Phải mất một thời gian dài, tốn nhiều tiền của, công sức, trí tuệ, quan hệ và sự khôn ngoan để Việt Nam đưa quân đội xứng với tầm cở thể kỷ 21. Tuy nhiên, đảng CSVN cần hiểu rằng quân đội chỉ có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, khi quân đội “hy sinh để bảo vệ Tổ quốc chứ không bảo vệ đảng”, nhất là đảng đang “phản bội và đi ngược lại quyền lợi” của dân tộc.

Nếu chỉ dựa vào vũ khí quân sự tối tân thì vài chục năm sau Việt Nam cũng không đủ sức đối đầu với Trung quốc. Hiểm hoạ bị hán hoá trên nhiều lãnh vực, kể cả lãnh thổ là điều khả thi nếu Hà Nội chỉ biết bám vào sức mạnh của quân đội. Từ ngàn xưa, Trung Quốc luôn mạnh hơn Việt Nam nhưng Đại Hán vẫn không thể nuốt nổi An Nam. Chính nhờ vào lòng yêu nước, ý chí quật cường và tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng của Vua tôi nước Nam mà Việt Nam còn hiện hữu đến hôm nay. Chiếm thành dễ, nhưng giữ thành khó. Đảng CSVN đã chiếm được đất nước Việt Nam nhưng không bao giờ giữ được lòng dân. Chế độ độc tài Hà nội cai trị dân dựa vào bạo lực, mất đi sức mạnh của trấn áp, chế độ công an trị sẽ bị đổ nhào. Kẻ chơi dao, chết vì dao. Chế độ bạo lực sẽ là nạn nhân của bạo lực. Lịch sữ đã minh chứng như vậy đối với các chế độ độc tài, bạo ngược, cuồng vọng như Tần Thủy Hoàng, Hitler, Mussolini, Ceausescu ..v.v…

Hiện nay, Hà nội không thể huy động lòng yêu nước, ý chí quật cường và sức mạnh dân tộc để chống ngoại xâm. Một chế độ độc tài, đảng trị, mất lòng dân, không đủ khả năng bảo vệ Tổ Quốc khi bị ngoại xâm. Cho dù mưu toan thay tên, đổi đảng hay bỏ hẳn luôn mục tiêu xây dựng Chủ nghĩa xã hội, để được làm đồng minh của Mỹ, Nhật, Ấn cho thế trận Trung - Việt..v.v… vẫn không thể giải quyết được yếm thế của Hà Nội. Tứ bề thọ địch, ngoại công nội kích, chế độ độc đảng Hà nội khó tồn tại lâu dài trước nhiều áp lực. Chỉ có một nước Việt Nam Tự do, Dân chủ mới có thể giữ được sự toàn vẹn lãnh thổ. Điều này chính là mục tiêu mà Nhân dân Việt Nam đang đấu tranh và những người yêu nước trong đảng CSVN cũng như các thế lực quốc tế không thể xem thường.

Trần Nam
California, tháng 8 năm 2009
Source: http://dangdcnd.blogspot.com/2009/08/tuong-lai-bien-ong.html
---------
(*) Military analysts can make an educated guess, however, and most say that China's real defense spending is two to four times what is officially stated. Beijing has announced an outlay of 351 billion yuan, or about US$45 billion for 2007, which means the real defense budget could be as high as US$180 billion. (The true about China’s Military)

Một lá thư lịch sử làm đau nhói tim can của một cường quốc


Từ trái qua phải: Sisowath Sirik Matak,
Lon Nol, and In Tam.

Vào tháng 4 năm 1975, khi quân đội Cộng sản đang trên đường tiến vào Nam vang thì người Mỹ đã mời Thủ tướng Sirik Matak và toàn bộ chính phủ Miên nên ra đi, vì ở lại thì sẽ bị Khờ Me Đỏ sát hại.

Ngày 16 tháng 4 năm 1975, Thủ tướng Sirik Matak đã viết một lá thơ vô cùng cảm động gởi cho Đại sứ Mỹ tại Nam Vang là ông John Gunther Dean. Lá thư đầy nghĩa khí và tiết tháo của một người anh hùng “sinh vi tướng, tử vi thần” như sau:


Phỏng dịch:
    Thưa Ngài và Bạn,

    Tôi thành thật cảm tạ ngài đã viết thư và còn đề nghị giúp tôi phương tiện đi tìm tự do. Than ôi ! Tôi không thể bỏ đi một cách hèn nhát như vậy !
    Với Ngài (đại sứ John Gunther Dean) và nhất là với xứ sở vĩ đại của Ngài, không bao giờ tôi lại tin rằng quý vị đã nhẫn tâm bỏ rơi một dân tộc đã lựa chọn tự do.


    Quý vị từ chối bảo vệ chúng tôi và chúng tôi chẳng thể làm được gì hết.
    Ngài ra đi, tôi cầu chúc Ngài và xứ sở của Ngài được hạnh phúc dưới bầu trời này.
    Nhưng xin Ngài nhớ cho rằng nếu tôi phải chết ở đây và ở lại đất nước tôi yêu dấu thì tuy đó là điều tệ hại, nhưng tất cả chúng ta đều sinh ra và cũng sẽ chết vào một ngày nào đó.


    Tôi chỉ ân hận một điều là đã quá tin và chót tin ở nơi quý vị, những người bạn Hoa Kỳ ! Xin Ngài nhận những cảm nghĩ chân thành và thân hữu của tôi.

    Sirik Matak

Chứng Tích Lịch Sử - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Tờ Jakarta Post ra ngày 30.07.2009 cho hay chính quyền địa phương - Tỉnh Rian, Indonésia - phản đối việc đóng cửa trại tỵ nạn Galang. Trại Galang ngày nay đã trở thành một trung tâm du lịch nổi tiếng dành cho nước ngoài nhưng vì lý do gì chính phủ Nam Dương ra lệnh cho chính quyền địa phương phải đóng cửa ?

Phát Ngôn Viên của BIDA (Cơ quan Phát triển Công nghệ Batam), ông Dwi Djoko Wiwoho, đã tuyên bố thẳng thừng “nhà cầm quyền Việt Nam đã công kích vấn đề này”. Lời tuyên bố của ông Dwi là một minh chứng hùng hồn từ giới hữu trách Batam rằng, Hà Nội đang can thiệp vào nội bộ doanh nghiệp của Indonesia, Hà Nội đang áp lực chính phủ Indonesia phải dẹp bỏ trại tỵ nạn cũ của người Việt Nam và người Kampuchia tại đảo Galang. Ông cũng giải thích thêm ‘’Vì theo dụng ý chính trị của Việt Nam không muốn cho mọi người thấy hình ảnh trại Galang là vạch rõ lịch sử đen tối của Việt Nam và như vậy là có phương hại đến bang giao của hai nước !

Tuy nhiên nhà cầm quyền địa phương đã chống lại lệnh trung ương với lý do du lịch, vì đây là địa điểm thu hút số lượng rất lớn du khách nước ngoài. Đối với Nam Dương, họ quyết giữ lại địa đểm du lịch nầy vì vấn đề thương mãi, nhưng đối với chúng ta, những người Việt Tỵ Nạn thì đây là một vấn đề cần phải lên tiếng với chính quyền Jakarta đồng thời vạch rõ âm mưu cộng sản trong kế hoạch xóa sạch tội lỗi của chúng.

Đây là lần thứ hai cộng sản Hà Nội vừa lợi dụng đường lối ngoại giao vừa hăm dọa chính quyền Jakarta phải dẹp bỏ di tích của người Việt Tỵ nạn trên lãnh thổ Indonésia. Hình ảnh tấm bia tưởng niệm cũng như các trại tỵ nạn trên đất Nam Dương là những bằng cớ có tính cách lịch sử tố cáo tội ác của cộng sản Việt Nam. Hà nội muốn hủy tất cả chứng tích tội ác ở nước ngoài đối với quốc tế trong âm mưu chạy tội hầu quảng cáo cho việc hòa giải hòa hợp để. Trái lại chính chúng duy trì những hình ảnh ‘tội ác Mỹ Ngụy’ tại quốc nội để gây căm thù với chế độ cũ. Hàng ngàn nơi trưng bày ‘tội ác Mỹ Ngụy’ được đưa vào chương trình du lịch, bán vé cho người vào xem không ngoài mục đích đánh lận con đen, bóp méo sự thật lịch sử đồng thơi khơi động lòng căm thù đối với Việt Nam Cộng Hòa cũ.

Đọc bản tin trên và so với những lời tuyên bố của ngụy quyền tỉnh Đồng Hới vừa qua về ngôi thánh đường Tam Tòa thì đúng là hành động cũng như lời nói xảo quyệt vô liêm sỉ và vô học của loài quỷ đỏ. Đối với Nam Dương chúng lợi dụng mọi hình thức để áp lực xứ nầy hủy bỏ từ tấm bia tưởng niệm trước đây vài năm và nay là trại tỵ nạn Galang. Ngược lại trong nước, chúng vẫn ngang nhiên trưng bày, thêu dệt một vài hậu quả chiến tranh (phải xảy ra trong thời chiến) để rêu rao cho rằng đó là ‘tội ác Mỹ Nguy’. Từ hầm địa đạo ‘biến chế’ tại Củ Chi, các hố bom tự tạo, các bảo tàng viện sắt máu đến nhà thờ Tam Tòa của người công giáo ở Đồng Hới được cộng sản đưa vào địa danh chứng tích lịch sử để bán vé vào cửa cho du khách. Đây không hẳn là hành động kinh tế mà chính là âm mưu gây căm thù, nhồi sọ người Việt Nam sinh sau năm 1975 và dùng làm phương tiện lừa bịp móc tiền du khách quốc tế.

Từ lâu cộng sản ra lệnh cho cò mồi đàn em ở hải ngoại hô hào quên đi quá khứ, hãy tha thứ cho nhau và bắt tay hòa giải hòa hợp để xây dựng đất nước …. không ngoài mục đích kêu gào người Việt hải ngoại gởi tiền về nuôi chế độ. Nhưng hãy nghĩ xem, cộng sản đã làm gì để tỏ thiện chí hay vẫn bỉ ổi duy trì những chứng tích chiến tranh bằng cách bôi xấu và gây căm thù với chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Những bằng chứng không thể chối cãi khi chúng hướng dẫn khách du lịch đi thăm những nơi gọi là ‘tội ác Mỹ-Ngụy’ mà chính du khách đã ghi lại bằng tiếng nói và hình ảnh, không mang chút gì có tính cách văn hóa lịch sử mà toàn là những lời tuyên truyền láo khoét phô trường chế độ và che giấu một sự căm thù sặc mùi máu của con người cộng sản.

Hôm nay vấn đề Tam Tòa đang dồn đảng cộng sản trước tình trạng không lối thoát thì chúng âm mưu tạo ra một biến cố mới để hướng nguồn dư luận của người Việt tỵ nạn cũng như của người nước ngoài quay qua một vấn đề khác : chúng bày ra trò áp lực với Nam Dương để xóa bỏ tàn tích tội các của chúng ở trại tỵ nạn Galang. Đây là trò cố hữu của cộng sản, một tập đoàn ù lì, xảo trá, bịp bợm với bộ óc chưa phát triển của người tiền sử, chúng chỉ bịp được với những tên cò mồi đón gió và thành phần dính máu ăn phần ‘hòa giải hòa hợp’ chứ không thể qua mặt được tập thể người Việt tự do hải ngoại.

Qua văn bản của tập đoàn cầm quyền cộng sản, nhà thờ Tam Tòa là nơi trưng bày ‘tội ác Mỹ-Ngụy’ (dù là chuyện thần thoại do cộng sản dựng lên) thì tôi cũng đặt ngược một câu hỏi với chúng như sau: Tập đoàn cộng sản Việt Nam có dám đập nát, đào xới các nghĩa trang kẻ thù Tàu cộng mà Hà Nội đã dựng bia tôn thờ ở phía Bắc, đồng thời thay vào đó bằng những tấm bảng như sau: ‘ĐÂY LÀ CHỨNG TÍCH TỘI ÁC XÂM LĂNG CỦA TÀU CỘNG’ không ?

Một khi Hà Nội dám làm việc nầy thì xem như đảng cộng sản Việt Nam đã vượt qua được bước đầu tiên trong tiến trình hóa từ ‘vượn lên người’ của chúng và từ đó mới có cơ may nói chuyện hòa giải với cộng đồng người Việt tự do trên tthế giới.

Đinh Lâm Thanh
Ngày 04.08.2009

Tuyên Cáo khẩn của CDNVTD/UC - Nhà cầm quyền CSVN yêu cầu Chính phủ Indonesia huỷ di tích của trại Tỵ nạn Galang

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu
Vietnamese Community in Australia
PO Box 2115 Footscray VIC 3011
Email: vietnamesecommunityinaustralia@gmail.com


TUYÊN CÁO KHẨN CỦA CỘNG ÐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO ÚC CHÂU

V/V: NHÀ CẦM QUYỀN CSVN YÊU CẦU CHÍNH PHỦ INDONESIA
PHÁ HUỶ DI TÍCH CỦA TRẠI TỴ NẠN GALANG

Thể theo tin loan báo trên tờ Jakarta Post ra ngày 30-07-2009, Chính phủ Indonesia đang cứu xét việc nhà cầm quyền Cộng Sản VN yêu cầu phá huỷ mhững di tích duy nhất còn sót lại của trại tỵ nạng Galang hiện đang được chính quyền và cư dân địa phương của thành phố Batam trùng tu và bảo quản như một di tích lịch sử và địa điểm thu hút khách hành hương và du lịch.

Sau khi áp lực phá huỷ tượng đài thuyền nhân Việt Nam tri ân đất nước và người dân Indonesia tại Galang vào năm 2005, nay bạo quyền Cộng Sản Việt Nam lại một lần nữa, tìm cách xoá bỏ di tích lịch sử tỵ nạn duy nhất còn sót lại tại Indonesia đó là trại Galang, Batam nơi đánh dấu sự trốn chạy chế độ Cộng Sản tàn ác và vô nhân đạo của người dân Việtnam.


Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Úc Châu:

Cực lực lên án và phản đối hành động vi phạm trắng trợn chủ quyền của CSVN trên nội bộ và quyền tự quyết của chính phủ và người dân Indonesia.
Ủng hộ những quyết định đúng đắn, nhân đạo và hợp lý của chính quyền, các thương nghiệp và người dân Batam, Indonesia trong việc bảo tồn và phát triển trại tỵ nạn Galang.

Thỉnh cầu chính phủ Indonesia tiếp tục bảo trì trại Galang như là một biểu tượng thiêng liêng của tấm lòng nhân đạo và văn hoá tốt đẹp của đất nước và người dân Indonesia đối với thế giới và người tỵ nạn VN.

Kêu gọi các cộng đồng và tập thể người Việt tỵ nạn khắp nơi trên thế giới đồng thanh lên án hành vi vô liêm sĩ và tán tận lương tâm này của CSVN. Ðồng thời tận dụng mọi phương tiện có được để vận động chính phủ Indonesia, bằng mọi giá, bảo vệ và bảo tồn di sản văn hoá, lịch sử và lòng nhân đạo lớn lao này của đất nước và người dân Indonesia cho các thế hệ mai hậu.

Úc châu, ngày 04-08-2009

Ðồng ký tên
    Nguyễn Thế Phong, Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu
    Ls. Võ Trí Dũng, Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do New South Wales
    Ô. Nguyễn Văn Bon, Phó Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Victoria
    Bs. Bùi Trọng Cường, Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Queensland
    Ông Ðoàn Công Chánh Phú Lộc, Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Nam Úc
    Ông Phạm Lê Hoàng Nam, Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Tây Úc
    Ông Lê Công, Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do ACT
    Ông Lê Tấn Thiện, Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Bắc Úc
    Bà Trần Hương Thuỷ, Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Wollonggong.
---o0o---

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu
Vietnamese Community in Australia
PO Box 2115 Footscray VIC 3011
Email: vietnamesecommunityinaustralia@gmail.com.

To:
    His Excellency the Hon. Susilo Bambang Yudhoyono
    President of the Republic of Indonesia
    C/o His Excellency the Ambassador of Indonesia

      Indonesian Embassy
      8 Darwin Ave
      Yarralumla – ACT 2600
Dear Mr President,
    Re: The reported consideration of the Indonesian Government to close the former Galang Refugee Camp
Our Vietnamese Community in Australia was profoundly shocked to learn that the Government of the Republic of Indonesia is reportedly considering a plan to close the last remaining of the former Indochinese refugee camps on Galang Island. Disappointingly, we have also learned that this planned closure of the Galang Refugee Camp was initiated at the request of the Government of the Socialist Republic of Vietnam.

We, the overseas Vietnamese and the Vietnamese-Australian communities, are indebted to the Indonesian Government for its noble humanitarian efforts in providing invaluable shelter to the Vietnamese refugees from the late 1970’s till the time the Galang Camp was closed in the mid 1990’s. The Camp indeed has a significant humanitarian value, and more importantly, a high historical value not only for Indonesia and its people but also for the ASEAN region. The Galang Camp epitomizes the generosity of the Indonesian people and therefore should be retained as part of Indonesia’s proud tradition for its future generation.

We noted the media comments made by the Chairman of the Association of Indonesia Tour and Travel Agencies in Batam, “…it is a popular tourist attraction for both domestic and foreign visitors…closing the former camp is equal to lowering the wages of Batam tour operators” (The Jakarta Post, Batam 30 July, 2009; “Closure of Former Refugee Camp Stirs Protest”)

We strongly believe that, for economic, humanitarian and historical reasons, the Indonesian Government together with the Batam Industrial Development Authority should work together to promote the Galang Camp as a “must to visit” place in Indonesia.

Last but not least, we note that it was the Vietnamese Government which has requested the closure of the camp. For whatever reasons, such a request by a foreign government may constitute a violation of the Indonesian sovereignty and interference into its internal affairs.

We strongly and respectfully appeal to the Indonesian Government to preserve this former refugee camp on Galang Island for its unique cultural, historical and humanitarian values and for the economic benefits that the camp has generated and continue to do so for the local Indonesians.

We are anxiously awaiting your government’s reply and thanking you in advance for your time and careful consideration on our community’s heartfelt request. We can be contacted on + 61 3 9547 7939 or at vietnamesecommunityinaustralia@gmail.com This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it

Yours respectfully,

Phong Nguyen
Federal President
On behalf of the Vietnamese Community in Australia

Co-signatories:
    Mr. Tri Vo, President, Vietnamese Community in Australia – New South Wales Chapter
    Mr. Bon Nguyen, Vice-President, Vietnamese Community in Australia – Victoria Chapter
    Dr. Cuong Bui, President, Vietnamese Community in Australia – Queensland Chapter
    Mr. Loc Doan, President, Vietnamese Community in Australia – South Australia Chapter
    Mr. Nam Pham, President, Vietnamese Community in Australia – Western Australia Chapter
    Mr. Cong Le, President, Vietnamese Community in Australia – Australian Capital Territory Chapter
    Mr. Thien Le, President, Vietnamese Community in Australia – Northern Territory Chapter
    Ms. Teresa Thuy Tran, President, Vietnamese Community in Australia - Wollongong Chapter.

Cuộc tấn công Mùa Hè Đỏ Lửa và chiếc cầu ở Đông Hà



Richard Botkin – Giang chuyển ngữ

Vào giữa trưa ngày 30 tháng Ba, 1972, Bắc Quân bất ngờ phóng ra cuộc tấn công lớn nhất trong cuộc chiến Việt Nam. Lớn hơn cả về tầm vóc và mức độ của cuộc tổng công kích Mậu Thân, lần nầy Bắc Quân gần như đánh một trận đánh quy ước.

Với viện trợ rộng rãi và vô giới hạn về đạn pháo, xe tăng Liên Xô và các vũ khí phòng không mới nhất, Bắc quân đã đạt nhiều thắng lợi. Bộ tổng tham mưu Nam Việt Nam và các cố vấn Mỹ ở mãi tận Sài Gòn đã không tin nổi các báo cáo về sức mạnh và những thắng lợi của Bắc quân trong những ngày đầu tiên.

Ba ngày rưỡi đầu tiên của cái mà về sau được gọi là cuộc tấn công Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 hầu như chỉ toàn là tháo lui. Yếu tố bất ngờ của lực lượng chiến đấu quy ước của Bắc Quân đã gây tổn thất nặng cho lực lượng bạn. Những trận pháo không phân biệt mục tiêu, dữ dội như những trận pháo mà các chiến binh kỳ cựu từng trải qua, đã gây thiệt hại cho từng đoàn nông dân, giờ đã trở thành dân di tản ở tỉnh Quảng Trị. Thời tiết xấu và tầm nhìn bị giảm đã hoá giải lợi thế về không lực của miền Nam. Thật không ngờ tình hình có thể xấu đi trong một khoảng thời gian ngắn đến thế.

Ngay từ đầu thị trấn Đông Hà rõ ràng đã là một mục tiêu chiến lược của Bắc Quân. Biết được rằng chiếc cầu duy nhất ngang qua Cam Lộ – sông Cửa Việt, với khả năng chịu được sức nặng của xe tăng T-54, có thể được dùng với hiệu quả khổng lồ, quân địch cần chiếm được chiếc cầu này còn nguyên vẹn. Kiểm soát được chiếc cầu này sẽ mở được cánh cửa phía Nam cho các lợi thế về sau. Ít nhất, nếu chiếm được Đông Hà thì chắc chắn sẽ chiếm được các tỉnh phía bắc.

Đơn vị đồng minh duy nhất gần vùng bão tố đang vần vũ ở Đông Hà là Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam. Như định mệnh đã an bài, Đại Úy John Ripley người cố vấn của đơn vị, ngày hôm ấy chuẩn bị bước vào đấu trường.

Cho đến năm 1971, John Ripley đã thực hiện hầu như tất cả những gì mà một đại úy có thể hoàn thành để xứng đáng với cương vị của mình. Sau khi đã phục vụ thành công ở Việt Nam trong cương vị một cấp chỉ huy đại đội vào năm 1967, trong khoảng thời gian này Ripley bị thương và được tưởng thưởng huân chương, sau đó ông lần lượt phục vụ với lực lượng thám sát của Thủy Quân Lục Chiến và là sĩ quan trao đổi trong lực lượng Thuỷ Quân Lục Chiến của Hoàng Gia Anh (những chức vụ trong Thủy Quân Lục Chiến của Hoàng Gia được tuyển chọn vô cùng khó khăn, và thường chỉ có các sĩ quan có nhiều triển vọng mới đạt được). Có một gia đình hạnh phúc và là bố của ba đứa con thơ, Ripley không cần phải trở lại Việt Nam. Thế mà ông đã trở lại.

Sự dữ dội của cuộc tấn công của Bắc Quân đã gây ra đủ thứ vấn đề về chỉ huy và kiểm soát của đồng minh. Vì tình hình vô cùng khẩn cấp, Trung Tá Gerry Turley, người vừa đặt chân đến để phục vụ với chức vụ cố vấn trưởng của vùng phía bắc, được lệnh chỉ huy tạm lực lượng tiền phương của sư đoàn 3 bộ binh. Ý thức được việc phá hủy cây cầu là một điều cần thiết, mặc dù thượng cấp ở bộ chỉ huy (vì không nhận ra được tình hình đang tan rã về mặt chiến thuật) đã ra lệnh cho ông không được làm việc này, Turley vẫn ra lệnh. Ông biết chắc rằng ông đang đưa Đại Úy Ripley vào cõi chết.

Đại úy John Ripley và "Ripley Raider" trung sĩ Chuck Goggin, Cà Lũ, 1967. Nguồn: wnd.com
Với hỏa lực bảo vệ của Tiểu Đoàn Ba Thủy Quân Lục Chiến và sự hỗ trợ của Thiếu Tá Bộ Binh John Smock, Đại Úy Ripley hoàn thành được điều coi như không thể thực hiện được: Ông xông tới và giựt xập chiếc cầu.

Không thể dùng một hình ảnh tương tự nào về thể thao để so sánh với việc Ripley làm. Không giống như chạy 1 mile (1.6 km) chỉ có 3 phút, hay là cử được quả tạ 700 lb (317.5 kg) hay là lật ngược tình thế dành được chiến thắng giải vô địch Super Bowl. Không có đám đông ngưỡng mộ. Điều Ripley làm đơn giản là điều không thể thực hiện được. Giả sử như ông thất bại trong khi cố gắng làm việc ấy, nhiều lắm các đồng đội của ông chỉ nghĩ về ông như là một người mã thượng và can đảm.

Giá trị của việc phá hủy đúng lúc chiếc cầu ở Đông Hà không nói sao cho hết – cả về tinh thần anh dũng của cá nhân Ripley và ảnh hưởng của nó đối với toàn bộ cuộc tấn công của cộng sản. Đối với những người thích suy tưởng về những hoàn cảnh lịch sử khác nhau, họ có thể lý luận một cách dễ dàng rằng nếu như Bắc Quân chiếm được chiếc cầu và thị trấn vào lúc ấy, cái đoạn kết kém may mắn của Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 30 tháng Tư, 1975 có thể đã đến sớm hơn.

Được xây dựng bởi lực lượng công binh Seebees của Hải Quân Hoa Kỳ vào năm 1967, chiếc cầu dài 200 mét, bằng bê tông cốt thép. Sự phá hủy chiếc cầu nầy đòi hỏi sự chuẩn bị chu đáo, thông minh và gan dạ. Mà gan dạ là chính. Ripley cần phải có cả ba để có thể gài 500 lb (227 kg) chất nổ vào gầm cầu.

Phải mất hơn một chục lần di chuyển qua lại giữa bờ sông phía nam và gầm cầu, mỗi lần ông mang khoảng 40 lb (10 kg) chất nổ, đánh đu dưới gầm cầu, chuyền bằng tay đến những nhịp cầu và những đà ngang khác nhau, phơi mình cho hỏa lực của đối phương từ bờ sông phía bắc. Công việc đạt chất nổ và gài dây nổ mất hơn hai tiếng đồng hồ.

Khi việc gài chất nổ đã xong, không kèn không trống, Smock và Ripley cho nổ tung chiếc cầu.

Kỳ công của Ripley ngày hôm ấy vẫn còn tiếp tục làm say mê lòng người. Đây không phải là hành động của một người bình thường. Sự can đảm của ông không phải là một phản ứng liều lĩnh hay là cú đấm trả đũa sau khi bị ăn đấm của kẻ thù. Hành động của ông trong cái khung thời gian ba tiếng ấy – trong khi thế giới đang sụp đổ chung quanh ông – là có ý thức, có chủ tâm, có chủ định trước. Toàn bộ tinh thần và thể xác của ông được tập trung cho việc hoàn thành nhiệm vụ. Chỉ cần thiếu đi một chút là ông đã thất bại. Ngay cả trước khi bắt đầu ông đã mệt mỏi lắm, đến khi hoàn thành xong nhiệm vụ ông ở trong trạng thái không phải là trống rỗng, mà còn hơn thế nữa.

Nhờ sự phá hủy chiếc cầu, cuộc tấn công của cộng sản bị khựng lại, nhưng giao tranh vẫn tiếp diễn. Luôn luôn được giao cho những nhiệm vụ khó khăn, Tiểu Đoàn Ba Thủy Quân Lục Chiến – còn có biệt danh là Sói Biển – là một đơn vị được truyền tụng nhiều trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam. Trong khi hành động của Ripley vào ngày chủ nhật năm 1972 đã biến ông thành huyền thoại giữa các cố vấn và các quân nhân chuyên nghiệp cùng thời, ít nhất cũng có một nhân vật ngang ngửa với ông, người chỉ huy của Sói Biển.

Thiếu Tá Lê Bá Bình là “Thủy Quân Lục Chiến của Thuỷ Quân Lục Chiến”. Trong 18 năm lịch sử của binh chủng, ông đối với binh chủng Thủy Quân Lục Chiến giống như Chesty Puller, Dan Daly và Pappy Boyington cộng lại trong lịch sử 196 năm của Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Trạc tuổi với người bạn thân tín John Ripley, Bình đã từng thụ huấn tại The Basic School ở Quantico (Virginia) nơi mà tất cả các thiếu úy Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ được huấn luyện quân sự. Bị thương hàng chục lần, ông đã được trao thưởng huân chương 7 lần trước khi xảy ra cuộc tấn công mùa hè đỏ lửa.

Bình là một cấp chỉ huy quân sự chuyên nghiệp. Luôn luôn ở phía trước khi giao tranh đang ác liệt nhất, ông được các binh sĩ kính trọng và ông sẵn sàng chấp nhận gian khổ để đánh bại những người cộng sản mà ông căm ghét. Với thế giới quanh ông và các binh sĩ của ông đang sụp đổ và khả năng chiến đấu kém cỏi của nhiều đơn vị Việt Nam Cộng Hòa của vùng 1, ông vẫn giữ ý định tuân theo mệnh lệnh mà ông đã nhận được – giữ vững vị trí bằng mọi giá.

Các trận đánh bên trong và chung quanh trị trấn Đông Hà chỉ là một phần của cuộc tấn công rộng lớn của cộng sản. Trong khi nhiều đơn vị của quân đội Việt Nam Cộng Hoà lúc đầu sụp đổ trước áp lực của Bắc Quân, những tiểu đoàn của lực lượng Thuỷ Quân Lục Chiến Việt Nam, cùng với các cố vấn, đã chiến đấu kiên cường và bất đắc dĩ mới chịu lui quân.

Đối diện với cả sư đoàn gồm 20000 quân và khoảng 200 xe tăng, hơn 700 người của Tiểu Đoàn Ba Thủy Quân Lục Chiến đã giữ được Đông Hà trong bốn ngày, cho đến khi họ hoàn toàn bị vây kín và buộc phải chiến đấu để mở đường rút lui ra khỏi khu vực. Gần một tháng sau, khi những người lính còn sống sót đứng nghiêm để nghe diễn từ của cấp chỉ huy tại bộ chỉ huy vùng ở Huế, Thiếu Tá Bình chỉ đọc lên được tên của 52 người sống sót. Hai đại đội bắn bảo vệ cho Ripley khi ông và Đại Úy Smock phá hủy chiếc cầu, rồi ở lại cố thủ, chiến đấu với xe tăng và bộ đội của Bắc Quân, đã bị xóa tên cho đến người lính cuối cùng.

Cuộc tấn công mùa hè đỏ lửa chấm dứt với sự thất bại của Bắc Quân, một phần không nhỏ nhờ vào những nỗ lực của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam và các cố vấn trung kiên của họ. Bất hạnh thay, gần ba năm sau sự tự do ở vùng Đông Nam Á bị kết liễu. Trong lúc đó các cố vấn Gerry Turley, John Ripley, George Philip và các người khác nữa trở về nhà, hội nhập trở lại binh chủng Thủy Quân Lục Chiến và xã hội Hoa Kỳ.

Không có chuyện trở về nhà – không có chuyện hết hạn luân phiên phục vụ – cho những người như Thiếu Tá Bình và các binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến của ông. Họ chiến đấu với cộng sản cho đến ngày 30 tháng Tư, 1975. Lê Bá Bình không được may mắn như một số ít người tìm được một chỗ trên những chiếc trực thăng bốc người vào những ngày cuối tháng Tư. Bị bắt, ông bị tống giam vào các trại tù “cải tạo.”

Trong một khoảng thời gian dài hơn sáu lần thời gian Mỹ tham dự Thế Chiến II, Bình lao động khổ sai trong các trại. Trong suốt nhiệm kỳ của năm tổng thống Mỹ, Bình lao động khổ sai. Khi thị trường chứng khoán nhảy vọt năm 1982, Bình lao động khổ sai. Trong khi đa số những người từng phục vụ ở Việt Nam sống tiếp đời mình và hướng tới tương lai, Bình vẫn kẹt lại trong những khu rừng tre tù ngục. Rồi thị trường chứng khoán sụp đổ năm 1987, vụ Thiên An Môn, sự xụp đổ của Liên Bang Sô Viết, cuộc chiến vùng Vịnh, qua biết bao những thăng trầm của thế sự, Bình vẫn cứ lao động khổ sai. Luôn luôn ngạo nghễ, không bao giờ khuất phục. Những chủ nhân ông của đám nô lệ chỉ hoài công.

Thiếu tá Lê Bá Bình ở Quảng Trị trước khi bị thương lần thứ 9 (1972). Nguồn: wnd.com
Niềm Vui

Bất cứ khi nào tôi ở bên cạnh những người lính Thuỷ Quân Lục Chiến, dù là những người bạn thâm giao hay là những người bạn mới quen, những lúc ấy tôi cảm thấy một cảm giác dễ chịu và hạnh phúc rất lạ lùng. Tôi không thể nào diễn tả thành lời được. Nó khác hẳn với những khoái cảm khi được làm cha, và hơn cả những sự thích thú và sự vui sướng hồn nhiên khi tôi hồi tưởng thuở còn là một đứa bé đang chờ mong ông già Noel đến cho quà. Tôi sẽ chỉ biết gọi tên tình cảm này là vui sướng. Khi tôi kề cận các anh em Thủy Quân Lục Chiến, tôi thấy vui … vui sướng … hân hoan. Chỉ đơn giản có thể thôi. Tất cả chỉ đơn giản có thế thôi.

Trong ba ngày tôi được kề cận, đắm mình trong ánh hào quang của hàng tá những anh hùng mà tên tuổi và công trận của họ hàng triệu người Mỹ và Việt Nam sẽ không bao giờ biết đến. Những cố vấn trẻ nhất giờ đây cũng gần 60. Đa số thì già hơn, và ngoài trừ những sợi tóc bạc, tất cả vẫn còn phong độ, dáng vẫn hiên ngang, lửa vẫn còn trong mắt. Những điều đó cho thấy họ vẫn còn là – và chỉ là – Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.

Những nhân viên tuyển mộ cho lực lượng đã bỏ quên một lợi khí quảng cáo lớn nhất, mà hiệu quả của nó không thể lường hết được. Cứ mỗi lần tôi gặp các bạn TQLC, những điều hiển nhiên ấy lại tràn ngập lòng tôi. Đó là cái đám TQLC cùng với những người vợ, và nhờ những người vợ, trông rất thành công. Các hàng huy chương của các cố vấn vẫn không bằng các bà vợ, những người đã giữ gìn tất cả. Đây không những chỉ là những người đàn bà đẹp. Họ quả là những người đàn bà đẹp. Nhưng đây còn là những người đàn bà mà nghị lực, can đảm và nhiệt tình có khi còn hơn cả những ông chồng của họ. Đây là những người vợ có cá tính, tin tưởng vào chồng, và chính nghĩa mà chồng họ đã phục vụ, trong khi rất ít những bà vợ khác giữ được niềm tin như vậy.

Quả là một tập thể đáng để gần gũi. Rồi còn những con người Việt Nam nữa chứ.

Tôi không nghĩ rằng tôi là kẻ duy nhất nhìn lịch sử qua cái nhìn duy ngã của “kinh nghiệm của nước Mỹ” – Kinh nghiệm của Mỹ trong đệ nhị Thế Chiến, kinh nghiệm của Mỹ ở Đại Hàn, Việt Nam, chiến tranh Lạnh … hoặc bất cứ nơi nào khác. Hiếm khi nào tôi nghĩ đến đồng minh, nhất là đồng mình từ một đất nước và chính quyền đã không còn chính thức tồn tại. Thế mà họ đang có mặt ở đây với chúng tôi, hay chúng tôi đang có mặt cùng họ cũng thế. Tất cả những người lính TQLC Việt Nam, vợ con họ, đều có vẻ hãnh diện, sung túc và thành đạt. Cũng như các cố vấn anh em, những người lính TQLC Việt Nam, với bộ quần phục rằn ri, trong vẫn oai hùng, vẫn còn toát ra vẻ nhiệt tình, sẵn sàng vì nhiệm vụ.

Khi tôi được cho biết về những gì mà những gia đình này – nay đã là công dân Hoa Kỳ- phải trải qua để đặt chân đến nơi đây, những bài nói chuyện của họ, những lời kể lại của họ về tình đồng đội, sự dũng cảm và hy sinh, bằng tiếng Anh hoàn hảo hơn cái tiếng Việt của tôi nhiều, bỗng dưng trĩu nặng những ý nghĩa.

Trong toàn thể dân số của Hoa Kỳ, nhiều lắm chỉ có chừng một triệu người đã từng chiến đấu, xáp lá cà, bằng lưỡi lê, không lùi bước để bảo vệ tự do. Trong toàn thể những người sinh trưởng nơi đây, ngoại trừ những người bị bắt làm tù binh, không một người nào bị tước mất tự do của mình. Ngay cả giữa những chiến binh của chúng ta, đa số chưa từng bị nguy hiểm tới bản thân để bảo vệ tổ quốc. Với người Mỹ tự do là chuyện đương nhiên.

Tôi tự hỏi không hiểu tự do ngọt ngào như thế nào, không hiểu một người đến từ Hungary vào năm 1957, Cuba vào năm 1962, Đông Âu và Đông Nam Á sau năm 1975 yêu quý đất nước này như thế nào và hiểu như thế nào về những phước lành mà chúng ta đang thụ hưởng. Lê Bá Bình hiểu.

Sống lại với nhau những giây phút chỉ có hai người, Ripley và Bình dạo bước trong sảnh đường trống rỗng của The Basic School nơi họ có những kỷ niệm chung dù từ những thời gian khác nhau. Bao bạn bè đã ra đi. Biết bao là hy sinh. Thân thiết còn hơn là anh em, họ không cần phải giao tiếp bằng lời. Xưng hô với nhau vẫn như thời 1972, không phải vì kỷ cương quân cách nhưng phát xuất từ lòng quý mến và kính trọng, đối với Ripley thì Bình bao giờ cũng vẫn là “Thiếu Tá.”

Bình, người đã hoàn thành quá nhiều, đã từng nhìn thấy quá nhiều, đã từng trải qua tất cả những cảnh đời, là một người ít nói. John Ripley đã không thể diễn tả hết những câu trao đổi ngắn gọn sau cùng, mà không phải ngừng lại để dằn nỗi xúc động. Dừng bước để quay lại nhìn quang cảnh một lần cuối trước khi từ giã, Bình bày tỏ với người cố vấn của mình: “Ripp-lee. Tôi hạnh phúc.”

“Quả là tuyệt, Thiếu Tá. Tôi cũng sung sướng nữa”

“Không, không, không phải vậy, Ripp-lee” – như thế muốn nói với Ripley rằng ông vẫn chưa hiểu gì cả. Vỗ vỗ lên ngực mình, Bình tiếp tục. “Tôi hạnh phúc … ở tận đây. Tôi hãnh diện.”

Lê Bá Bình, chúng tôi hân hạnh ông có mặt nơi này.

Mừng ông đã về nhà, Thiếu Tá. Mừng ông đã về nhà.


Nguồn: http://www.wnd.com/news/article.asp?ARTICLE_ID=34046

(1) The Easter Offensive and the bridge at Dong Ha. World Net Daily, 12 August 2003
(2) "Mùa Hẻ Đỏ Lửa" là tựa đề của một cuốn sách của nhà văn Phan Nhật Nam, nói về cuộc tấn công của quân đội chính quy Bắc Việt vào địa đầu giới tuyến của miền Nam năm 1972.
(3) Chức vụ cuối cùng của ông Lê Bá Bình là Trung tá binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.


*****
    The Easter Offensive and the bridge at Dong Ha
By Richard Botkin

Editor's note: The following commentary is the conclusion to yesterday's column, King Kong lives!

At midday on March 30, 1972, almost by complete surprise, the North Vietnamese Army launched its single biggest assault of the Vietnam War. Larger in size and scale than the very costly but politically effective 1968 Tet Offensive, the NVA this time were fighting an almost conventional battle.

Generously supplied with seemingly unlimited artillery, Soviet armor and the latest air-defense weapons, reports of the NVA strength and battlefield successes were, for the first few days, not believed by the South Vietnamese general staff and their senior American advisers way down yonder in Saigon.

The first three and a half days of what came to be known as the Easter Offensive of 1972 were a near rout. The shock value of the new conventional NVA juggernaut was wreaking havoc with friendly forces. Indiscriminate artillery barrages, as intense as any experienced by the old hands, were especially deleterious for the uncounted masses of peasants turned refugees in Quang Tri Province. The poor weather and low visibility temporarily neutered the South's advantage in air power. It was hard to believe things could turn so negative in such a short time.

It was clear early on that the town of Dong Ha was a strategic target for the NVA. Offering the only bridge over the Cam Lo-Cua Viet River capable of supporting the heavy T-54 tanks now being used with such tremendous effect, the enemy needed to take it intact. Control of that one bridge would open the South for further exploitation. At a minimum, the turnover of Dong Ha would assure the loss of the northern provinces.

The allied unit closest to the gathering storm at Dong Ha was the Vietnamese Third Marine Battalion. As fate would have it, Capt. John Ripley was the covan (the Vietnamese name "co-van" for U.S. Marine Corps advisers means "trusted friend") that day about to enter the arena.

By 1971, John Ripley had done almost everything a Marine captain could accomplish commensurate with his rank. Having already successfully served in Vietnam as an infantry company commander in 1967, during which time Ripley was decorated and wounded, he had had subsequent tours with Marine Force Recon and as an exchange officer with the British Royal Marines. (Postings with the Royal Marines are extremely competitive and go only to the most promising officers.) Happily married and the father of three very young children, Ripley did not really need to be back in Vietnam. But he was.

The ferocity of the NVA offensive caused all manner of problems with allied command and control. Due to the extreme emergency, Lt. Col. Gerry Turley, who had recently arrived to serve as the senior covan in the northern region, was ordered to also assume control of the Third ARVN Division Forward. Recognizing the need to destroy the bridge, even though higher headquarters (who were unaware of the deteriorating tactical situation) ordered him not to, Turley gave the order. He was certain he was sending Capt. Ripley to his death.

With some cover fire provided by the men of the Third Marine Battalion and aided by U.S. Army Maj. John Smock, Capt. John Ripley accomplished what was not possible: He went out and blew up the bridge.

There is no sports analogy for what Ripley did. It was not like running a three minute mile, bench pressing 700 pounds, or pulling out a come-from-behind Super Bowl upset victory. There were no adoring crowds. What Ripley did was simply impossible. Had he failed while attempting to do it, his peers would have only thought him noble and brave for trying.

The significance of the timely destruction of the bridge at Dong Ha cannot be overstated – both in terms of Ripley's personal heroism and the impact it had on the entire communist offensive. Those who ponder alternative history could easily argue that had the NVA been able to secure the bridge and the town at that time, the unfortunate end of the Republic of Vietnam on April 30, 1975, might have been markedly speeded up.

Built by U.S. Navy Seabees in 1967, the bridge was a 200-meter concrete and steel leviathan. Its destruction required deliberate planning, intellect and guts. Mostly guts. Ripley would provide all three as he needed to distribute 500 pounds of dynamite on the structure's underside.

Making a dozen-odd trips between the southern bank of the river and the belly of the bridge, each time he shuttled roughly 40 pounds of explosives as he swung, hand-over-hand, out to the various spans and stringers, all the while exposed to enemy fire from the northern side. Placement of the dynamite and requisite wiring took more than two hours.

With the rigging complete, and without fanfare, Smock and Ripley blew the bridge. (For a superbly chronicled read of the entire action, see "The Bridge at Dong Ha" by Ripley friend and fellow covan U.S. Marine Corps Col. John Miller. For the view from the senior adviser who effectively ran the entire show during this period of the war, pick up Col. Gerry Turley's compellingly honest and painstakingly fair "The Easter Offensive." Both available at the U.S. Naval Institute or the Marine Corps Association.)

Ripley's performance that day continues to fascinate. These were not the deeds of a regular man. His bravery was not some gut reaction or counterpunch to a blow struck by an enemy. His actions in that three-hour window – with the world collapsing around him – were deliberate, willful, premeditated. Every ounce of his spiritual and physical fiber was focused on mission accomplishment. Anything less and he surely would have failed. Exhausted prior to the start, when he was finished he was way past empty.

With the bridge's destruction, the communist offensive was blunted but the fighting continued. Always seeming to draw tough assignments, the Third Marine Battalion – known as the Soi Bien or "Wolves of the Sea" – was a storied unit within the Vietnamese Marine Corps. While John Ripley's actions on Easter Sunday of 1972 would make him a legend among his brother covans and professional contemporaries, he was at least evenly matched with the man who led the Soi Bien.

Major Le Ba Binh was a Marine's Marine. He was to the Vietnamese Marine Corps, in its by-then 18-year history, what Chesty Puller, Dan Daly and Pappy Boyington combined were to the by then 196-year history of the U.S. Marine Corps. About the same age as his trusted friend John Ripley, Binh had even served as a student at The Basic School in Quantico where all American Marine lieutenants are schooled in the warrior arts. Wounded at least a dozen times, he had already been decorated for valor on seven separate occasions when the Easter Offensive began.

Binh was the consummate combat leader. Always out front where the action was heaviest, he was revered by his men and would endure any burden to defeat the hated communists. With the world crumbling around his Marines and the generally poor showing being put forth by most ARVN units in Military Region 1, he intended to follow the orders he received – to hold at all costs.

The battles in and around Dong Ha were only part of the much larger communist offensive. While many other ARVN units initially collapsed under NVA pressure, the various battalions of the Vietnamese Marine Corps, along with their covans, fought with tenacity and gave ground grudgingly.

Facing an entire 20,000 man division with an estimated 200 tanks, the 700-plus men of the Third Marine Battalion held Dong Ha for four days, until they too were completely surrounded and were forced to make a fighting withdrawal from the area. Less than a month later, as those who remained stood in formation to be addressed by their commandant at the regional headquarters in Hue, Maj. Binh would muster only 52 survivors. The two companies which had provided Ripley with cover fire while he and Major Smock destroyed the bridge, and then remained in place to battle the NVA armor and infantry, had been wiped out to the last man.

The Easter Offensive ended in failure for the NVA, in no small part thanks to the efforts of the Vietnamese Marine Corps and their faithful advisers. The unfortunate demise of freedom in Southeast Asia would come nearly three years later. In the meantime, covans Gerry Turley, John Ripley, George Philip and all the others headed home to be reabsorbed back into the regular Marine Corps and American society in general.

There was no going home – no rotation date – for Major Binh or his Marines. They fought the communists right up until and past April 30, 1975. Le Ba Binh was not among the fortunate few able to secure spots on the extraction helicopters that last day of April. Captured, he was sentenced to the "re-education camps."

In a time period six times longer than America's involvement in World War II, Binh labored in the camps. Through the terms of five American presidents, Binh labored. When the Great Bull Market lifted off in 1982, Binh labored. While most who served in Vietnam moved on and pressed ahead, Binh was stuck in the bamboo gulag. Through the stock market crash of 1987, Tiananmen Square, the collapse of the Soviet Union, the Gulf War, the ups, the downs – through it all, Binh labored. From 1975 up until the time of his release in 1998 and subsequent movement to the United States, Binh labored. Ever defiant, never broken, his slave masters toiled in vain.

Joy

Whenever I am with Marines, whether long-time friends or new acquaintances, there is a peculiar level of comfort and happiness unique always to those times. I am not quite able to reduce those feelings to words. It is different than the pleasure that comes from being a father, and exceeds the delight and youthful exuberance I recall as a little boy awaiting Santa's arrival. I would describe it simply as joy. When I am with brother Marines, I feel joy ... joyful ... joyous. That's it. That's all.

For three days I was allowed to hang with, to bask in the reflected glory of several dozens of heroes whose names and deeds the many millions of Americans and Vietnamese they served will never know. The youngest covans are now in their late 50s. Most are older, and except for a touch of graying hair they all – to a man – have that same comportment, the ramrod-straight bearing, the fire in their eyes that identifies them still as – only as – U.S. Marines.

Recruiters for the Corps have left one of their greatest, unquantifiable marketing tools completely off the table. Each time I am with Marine friends, the evidence overwhelms me yet again – that is how well Leathernecks do with and by the women they marry. More impressive even than the array of valor and Purple Heart medals among the covan warriors were the wives who kept it all together. These were not just women who look good. They do. These are women equal to or greater than their men in terms of grit and pluck and spirit. Women of character who kept the faith in their men and the cause they served when few others did.

What a group to be around. And then there were the Vietnamese.

I doubt I am unique in my viewing of history always from the solipsism of the "American experience" – the American experience in World War II, the American experience in Korea, Vietnam, the Cold War ... wherever. Rarely is my consideration for allies, especially allies from a country and government which no longer officially exists. Yet, here they were with us, or we with them. All these Vietnamese Marines, their wives and children, looking proud, prosperous, accomplished. Like their covan brothers, the Vietnamese Marines, clad in their signature tiger-striped uniforms, still formidable, retain that eager-for-action, lock-and-load aura.

When I was told what so many of these now-American families had been through to get here, their speeches, their testimonies of comradeship and bravery and sacrifice, in English far more perfect than my Vietnamese, became heavy with meaning.

In the entire American population there are, at most, a million men living who have actually really fought the up-close and personal, fixed bayonets, give no quarter fight for freedom. Of the entire native born, except maybe for those who have been prisoners of war, there are none who have had their freedom taken from them. Even among our own warriors, most have never had to risk more than their own lives in our nation's defense. For Americans, freedom is a given. It is assumed.

I wonder how sweet freedom must seem and how much someone who came from Hungary in 1957, Cuba in 1962, Eastern Europe or Southeast Asia after 1975 must love our country and truly know the blessings we enjoy. Le Ba Binh knows.

Spending time alone together, Ripley and Binh toured the hallowed halls of The Basic School where they had common memories from different times. So many friends gone. So much sacrifice. More familiar with one another than brothers, the communication was mostly non-verbal. Referring to each other as they did in 1972, not because of rigid formality but out of love and respect, Binh is still "Thieu Ta" – Vietnamese for "Major" – to Ripley.

Binh, who has done so much, seen so much, experienced it all, is a man of few words. John Ripley cannot describe their brief, final exchange without pausing to acknowledge his own emotions. Stopping to look back one last time before leaving, Binh reflected to his covan: "Ripp-lee. I am happy."

"That is good Thieu Ta. I am happy too."

"No, no, no Ripp-lee" – as if to tell John Ripley he did not quite get it all. Tapping his fingers over his own heart, he continued. "I am happy ... in here. I am proud."

Le Ba Binh, we are glad you are here.

Welcome home, Thieu Ta. Welcome home.