Saturday, June 27, 2009

Giải Tỏa Huyền Thoại Hồ Chí Minh - Ls. Nguyễn Hữu Thống

Ls. Nguyễn Hữu Thống

Để xây dựng uy tín và thần thánh hóa Hồ Chí Minh, Đảng Cộng Sản đã sử dụng nhiều chiêu bài và ngụy tạo nhiều huyền thoại:

1. Huyền thoại gia đình cách mạng.

2. Huyền thoại lên đường cứu nước.

3. Tiếm danh Nguyễn Ái Quốc.

4. Giả danh Trần Dân Tiên.

5. Giả đoàn kết quốc gia.

6. Giả hiệp ước quốc tế.

7. Ngụy tạo tư tưởng Hồ Chí Minh.

1. HUYỀN THOẠI GIA ĐÌNH CÁCH MẠNG

Các nhà sử học Cộng Sản trình bày rằng Hồ Chí Minh xuất thân từ một gia đình cách mạng. Thân phụ là phó bảng Nguyễn Sinh Sắc hay Nguyễn Sinh Huy là bạn đồng khoa với Phan Chu Trinh và thường giao kết với Phan Bội Châu là người đồng hương. Sau khi được bổ nhiệm tri huyện Bình Khê, Nguyễn Sinh Sắc đã tự ý từ quan để phản kháng chế độ thực dân phong kiến.

Sự thật không phải như vậy. Dầu là một sĩ phu đỗ đại khoa, Nguyễn Sinh Sắc đã không có một đời sống cá nhân đứng đắn. Ông thường say rượu và trong những lúc nóng giận đã có thái độ thô lỗ và đánh đập con cái. Năm 1910, cũng vì say sưa, Nguyễn Sinh Sắc đã quá tay đánh chết một nghi can là Tạ Đức Quang. Cũng vì vậy ông bị triều đình tuyên phạt 100 trượng, giáng 4 cấp, cách chức tri huyện và sa thải khỏi quan trường. Sau này ông được miễn phạt trượng hình. Dầu sao ông đã làm nhục giới nho sĩ vì không biết tu thân trước khi trị quốc. Do sự sỉ nhục này đối với sĩ lâm và bà con lối xóm, ông đã dắt các con rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, đi tha phương cầu thực làm nghề bốc thuốc tại miền Nam.

Sự thật lịch sử này đã được chứng minh bằng một văn thư do Hồ Chí Minh dưới tên Paul Tất Thành viết từ Nữu Ước ngày 15-12-1912 gửi Khâm Sứ Trung Kỳ, xin cho cha được phục chức và được làm thừa biện, giáo thụ hay huấn đạo để có phương tiện mưu sinh.

Và truyền thống gia đình cách mạng của Hồ Chí Minh chỉ là một huyền thoại (Chính Đạo: Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại).

2. HUYỀN THOẠI LÊN ĐƯỜNG CỨU NƯỚC

Các nhà sử học CS còn trình bày rằng năm 21 tuổi Hồ Chí Minh rời Bến Nhà Rồng Saigon xuất dương lên đường cứu nước. Thời gian này, phong trào kháng thuế tại Quảng Nam và các tỉnh miền Trung đã bị dập tắt. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội đã bị thâu hồi giấy phép, và tại Nhật Bản, Phan Bội Châu, Cường Để cùng 200 sinh viên Việt Nam du học đã bị trục xuất. Theo gương Phan Chu Trinh, năm 1911 Hồ Chí Minh tìm đường qua Pháp để học hỏi tinh thần tự do dân chủ, hy vọng có ngày trở về giải phóng đồng bào khỏi ách đế quốc tư bản.

Đây cũng chỉ là một huyền thoại. Do đơn ngày 15-9-1911, Nguyễn Tất Thành xin Bộ Thuộc Địa Pháp đặc cách cho theo học Trường Thuộc Địa "để trở nên người hữu ích cho nước Pháp" (utile à la France). Trường Thuộc Địa là trung tâm đào tạo các cán bộ hành chánh và giáo dục của chế độ thuộc địa. Theo quy chế, các sinh viên phải được sự giới thiệu của nhà chức trách Đông Dương. Nhiều vị khoa bảng và trí thức nổi tiếng đã theo học trường này như Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Thân Trọng Huề, Bùi Quang Chiêu, Bùi Bằng Đòan v.v... Vì không đúng thủ tục, đơn của Nguyễn Tất Thành đã bị bác bỏ.

Và huyền thoại Hồ Chí Minh từ Bến Nhà Rồng xuất dương lên đường cứu nước đã bị giải tỏa.

3. TIẾM DANH NGUYỄN ÁI QUỐC

Từ 1911 đến 1914, Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp tại các tầu buôn của hãng Les Chargeurs Réunis chạy quanh các nước Âu Châu, Phi Châu và Mỹ Châu. Khi Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ, Nguyễn Tất Thành sang Anh làm phụ bếp tại nhà hàng Carlton và trở về Paris năm 1917. Trong thời gian này LS Phan Văn Trường đã thành lập Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước để đấu tranh công khai đòi tự trị và độc lập cho Việt Nam.

Do lời mời của lãnh tụ Đảng Xã Hội Pháp Jean Jaurès (người đã can thiệp với Thủ Tướng Pháp để ân xá cho Phan Chu Trinh), cùng với cụ Phan, LS Phan Văn Trường đã nhiều lần đến điều trần tại Quốc Hội Pháp để trình bày quan điểm về chính sách bảo hộ của Pháp tại Việt Nam và đạo đạt nguyện vọng của người dân Việt Nam lên Quốc Hội.

Sau Thế Chiến Thứ Nhất, năm 1919 tại Paris, dưới bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc, bộ ba Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành, nhân danh Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước đã đệ trình các Chính Phủ Đồng Minh và Chính Phủ Pháp Thỉnh Nguyện Thư của Dân Tộc Việt Nam trong tinh thần hợp tác và thương nghị, nguyên văn như sau:

"Từ sau cuộc chiến thắng của Đồng Minh, các dân tộc bị trị vô cùng xúc động trước những triển vọng tương lai, căn cứ vào những cam kết minh thị và trân trọng của các cường quốc Đồng Minh trước dư luận thế giới trong cuộc đấu tranh vừa qua để bảo vệ Văn Minh chống Dã Man.

Chiếu theo các cam kết này, một Kỷ Nguyên mới của Luật Pháp và Công Lý sẽ khai mở đem lại hy vọng chứa chan cho các dân tộc bị trị.

Trong khi chờ đợi Nguyên Tắc Chủ Quyền Quốc Gia được chấp thuận, trong lý tưởng cũng như trên thực tế, do sự thừa nhận và thực thi Quyền Dân Tộc Tự Quyết thiêng liêng, Dân Tộc Việt Nam trân trọng đệ trình các Chính Phủ Đồng Minh cao quý, cũng như Chính Phủ Pháp khả kính, những thỉnh nguyện khiêm tốn sau đây:

1. Ban hành Đại Xá cho tất cả các chính trị phạm bản xứ.

2. Cải thiện chế độ tư pháp Đông Dương bằng cách ban hành những bảo đảm về quyền bình đẳng trước pháp luật giữa người bản xứ và người Âu Châu. Bãi bỏ toàn bộ và vĩnh viễn hệ thống tòa án đặc biệt được dùng làm công cụ khủng bố và đàn áp các thành phần lương thiện nhất của dân tộc Việt Nam.

3. Ban hành Tự Do Báo Chí và Tự Do Ngôn Luận

4. Ban hành Tự Do Lập Hội và Tự Do Hội Họp.

5. Ban hành Tự Do Di Trú và Xuất Ngoại

6. Ban hành Tự Do Giáo Dục và thiết lập tại các tỉnh những trường kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người bản xứ.

7. Thay thế chế độ cai trị bằng nghị định bằng chế độ pháp trị.

8. Thành lập Phái Bộ Thường Trực dân cử của người bản xứ bên cạnh Quốc Hội Pháp để đạo đạt tới Quốc Hội những nguyện vọng của người bản xứ.

Khi đệ trình những thỉnh nguyện nêu trên, Dân Tộc Việt Nam kỳ vọng vào nền Công Lý Thế Giới của các Cường Quốc và đặc biệt tin tưởng vào sự hào hiệp của Dân Tộc Pháp cao quý hiện đang nắm giữ vận mệnh của Dân Tộc Việt Nam bằng cách đứng ra bảo hộ Dân Tộc Việt Nam nhân danh Cộng Hòa Pháp. Dân Tộc Việt Nam không hổ thẹn được sự bảo trợ của Dân Tộc Pháp, trái lại còn cảm thấy vinh hạnh.

Vì họ biết rằng Dân Tộc Pháp biểu tượng cho Tự Do và Công Lý, và sẽ không bao giờ từ bỏ lý tưởng cao cả của Nghĩa Bác Ái toàn cầu. Vì những lý do đó, trong khi lắng nghe tiếng nói của kẻ bị trị, Dân Tộc Pháp sẽ hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với nước Pháp cũng như đối với nhân loại.

Thay mặt Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước: Nguyễn Ái Quốc".

Luật Sư Phan Văn Trường, tiến sĩ luật, Chủ Tịch Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước là người soạn tài liệu này.

Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriote) là bút hiệu chung của bộ ba Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành. Nguyễn là dòng họ đa số tại Việt Nam và Ái Quốc là phỏng theo tên Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước (Groupe des Patriotes Annamites). Với bút hiệu này, họ đã viết những bài bình luận trên các báo của Đảng Xã Hội như Nhân Loại (L'Humanité), Dân Chúng (Le Populaire) v..v...

Mặc dầu vậy, Hồ Chí Minh đã tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, trong cuốn "Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch". Hồ Chí Minh viết: "Khi chiến tranh chấm dứt, tại Hội Nghị Hoà Bình Véc-Xây, Tổng Thống Mỹ Wilson nói về 14 điều. Các đại biểu các dân tộc bị áp bức đến để yêu cầu độc lập và tự do. Trong số đó, có Nguyễn Ái Quốc (tức là Anh Ba hay Hồ Chí Minh). Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam yêu nước tại Paris và ở các tỉnh khác. Với danh nghĩa của tổ chức này, ông đã đưa yêu cầu 8 điều ra trước Hội Nghị Véc-Xây".

Đây chỉ là một sự mạo nhận. Vì những lý do sau đây:

a. Thỉnh Nguyện Thư được soạn thảo nhân danh Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước, một tổ chức do Phan Văn Trường thành lập năm 1914 tại Paris, khi Nguyễn Tất Thành còn ở Luân Đôn.

b. Thỉnh Nguyện Thư đề cập đến những nguyên tắc pháp lý mà trong thời gian đó (1919) chỉ các luật gia và chính trị gia mới thấu hiểu như quyền bình đẳng trước pháp luật, chế độ pháp trị, chế độ tòa án đặc biệt, quyền dân tộc tự quyết v.v...

c Đề nghị thành lập Phái Bộ Thường Trực Dân Cử Việt Nam tại Quốc Hội Pháp là do sáng kiến của Phan Văn Trường. Từ năm 1911, cùng với Phan Chu Trinh, theo lời mời của Jean Jaurès, ông đã nhiều lần đến điều trần tại Quốc Hội Pháp để đạo đạt những nguyện vọng của nhân dân Việt Nam lên Quốc Hội.

d. Nguyễn Tất Thành chỉ là một học sinh vừa qua bậc tiểu học và không có kiến thức chính trị. "Ông rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là công hội, thế nào là bãi công, và thế nào là chính đảng... Ông không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay... Ông lắng nghe những buổi thảo luận, nhưng không hiểu rõ về chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản v.v... ông nhức đầu vì khó hiểu". Vả lại vốn liếng tiếng Pháp của ông chỉ gồm những chữ thông dụng trong đời sống hằng ngày học từ những cô sen trong giới bình dân (Trần Dân Tiên, sđd).

e. Trần Dân Tiên còn nêu lên yêu cầu bãi bỏ chế độ sưu dịch, thuế đinh, thuế muối và việc bắt ép dân mua muối và thuốc phiện. Các điều khoản này không thấy trong bản Thỉnh Nguyện Thư tiếng Pháp đăng trên báo L'Humanité ngày 18-6-1919. (Chính Đạo: Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại).

Nói tóm lại, trái với lời Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh không phải là tác giả Thỉnh Nguyện Thư của Dân Tộc Việt Nam. Và năm 1919 Hồ Chí Minh cũng chưa phải là Nguyễn Ái Quốc. Đây chỉ là một sự mạo nhận tư cách của Nguyễn Tất Thành, một người ít học nhưng nhiều tham vọng.

Năm 1917, khi từ Luân Đôn trở về Paris, Nguyễn Tất Thành tá túc tại nhà Luật sư Phan Văn Trường số 6 Villa des Gobelins. Năm 1914, Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường bị bắt giam về tội phản nghịch (tình nghi liên lạc với Cường Để tại Berlin). Sau 9 tháng điều tra, hai nhà chí sĩ họ Phan đã được miễn tố (Phan Chu Trinh chủ trương hợp tác với Pháp đánh Đức, cũng như Gandhi hô hào thanh niên Ấn Độ tình nguyện gia nhập quân đội Hoàng Gia Anh).

Mặc dầu vậy, hai vị vẫn bị cảnh sát điều tra theo rõi. Mỗi khi có trát đòi Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tất Thành đứng ra nhận trát, tự xưng là Nguyễn Ái Quốc. Ông nói: "Nguyễn Ái Quốc chính là tôi, các ông cứ đưa trát cho tôi, đừng làm phiền chú/bác tôi (ý nói Phan Văn Trường hay Phan Chu Trinh)". Năm 1921, Nguyễn Tất Thành bỏ Đảng Xã Hội để gia nhập Đảng CS dưới tên Nguyễn Ái Quốc.

4. GIẢ DANH TRẦN DÂN TIÊN

Các nhà sử học cho rằng Hồ Chí Minh là người thông minh, nhưng là sự thông minh ngoài phố. Sự khôn ngoan giảo quyệt này đã được biểu lộ rõ nét nhất trong cuốn "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch" của Trần Dân Tiên xuất bản và tái bản nhiều lần từ 1948 đến 1976. Ngày nay ai cũng biết Trần Dân Tiên là Hồ Chí Minh. Trong lịch sử văn học thế giới, không thấy một nhà văn tự trọng nào lại giả danh bằng một bút hiệu để tự đề cao mình. Dùng bút hiệu thật để nói về mình cũng là vạn bất đắc dĩ, vì cái tôi thường đáng ghét. Dùng bút hiệu giả để thần thánh hóa mình thì quả là đáng khinh!

Chúng ta thử đánh giá sự "khiêm tốn" của tác giả:

"Nhiều nhà văn nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng mãi đến nay chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất đơn giản: Chủ Tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình (...). Hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn, rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau 80 năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp đi đã (...). Với đức tính khiêm tốn nhường ấy, và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc làm sao Hồ Chủ Tịch có thể kể lại bình sinh của Người được".

Thế nhưng Hồ Chủ Tịch đã đại ngôn:

"Khi còn là một thiếu niên 15 tuổi, người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh khâm phục các cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám, nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của 3 người, vì:

- Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương.

- Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp, chẳng khác gì đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau.

- Cụ Hoàng Hoa Thám còn nặng cốt cách phong kiến".

Năm 1905, khi Hồ Chí Minh 15 tuổi, cụ Phan Chu Trinh chưa viết Đầu Pháp Chính Phủ Thư (l906), chưa phát động phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục (l907). Vậy mà Hồ Chí Minh đã phê phán chính sách canh tân và giáo dục của cụ là cải lương (mà cải lương thì đã sao?).

Chưa thấy cụ Phan Bội Châu rước cọp vào nhà, chỉ thấy Hồ Chí Minh cõng rắn CS về cắn gà nhà, gây tai hại vô lường cho đất nước và dân tộc.

Năm 1945, khi mới 55 tuổi, Hồ Chí Minh tự phong mình là "cha già của dân tộc". Ông còn tự thần thánh hóa mình, kể rằng "chân dung Hồ Chủ Tịch được treo trên bàn thờ giữa những bình hương hoa đèn nến".

"Hồ Chủ Tịch được nhân dân yêu mến là do lòng hy sinh và lòng nhân từ của Người. Chủ Tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ đến nhân dân (...). Đối với nhi đồng, tên Bác Hồ là như một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoãn".

Vậy mà người cha già (67 tuổi) đã nhẫn tâm để đàn em hạ sát người vợ trẻ đã sinh cho mình đứa con trai là Nguyễn Tất Trung. Năm l957, khi cô Nguyễn Thị Xuân yêu cầu công khai hoá cuộc hôn phối đã kéo dài trên 2 năm, Hồ Chí Minh vẫn ngọt ngào giả lả: "Cô xin như vậy là hợp tình hợp lý, nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được". Do đó, cô đành phải chờ một thời gian. Trong thời gian này, cô đã biến thành chướng ngại vật làm mất uy tín của lãnh tụ. Theo đúng phương châm hành động, tất cả những chướng ngại vật làm cản trở con đường của lãnh tụ sẽ bị thanh toán và vô hiệu hóa.

Thanh toán trước hết bằng cách hạ nhục đối phương, cho viên tướng công an Trần Quốc Hoàn mặc sức hãm hiếp. Rồi cho thủ hạ chùm chăn lên đầu và dùng búa đánh vỡ sọ nạn nhân (như vụ Staline hạ sát Trotsky tại Mexico).

Một người có những thủ đoạn bất nhân như vậy, mà bộ máy tuyên truyền của CS còn đề cao như một vị anh minh kết tinh "đức tính từ bi của Đức Phật, tính công bằng bác ái của Chúa Ki-Tô, sự minh triết của Khổng Tử, sự siêu thoát của Lão Trang".

Ngoài ra, Trần Dân Tiên còn tự sánh mình với Mặc Tử là người đã mòn trán lỏng gót bôn ba khắp nơi để lo cho thiên hạ. Điều đáng nói là, trong khi Mặc Tử chủ trương hòa bình, thì Hồ Chí Minh cổ võ chiến tranh. Trong khi Mặc Tử theo thuyết kiêm ái, yêu dân tộc, yêu nhân loại, thì Hồ Chí Minh gieo rắc căm hờn, thúc dục thú tính để phát động đấu tranh giai cấp và thủ tiêu những lương dân vô tội và những người quốc gia yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc.

5. GIẢ ĐOÀN KẾT QUỐC GIA

Khi hay biết phe Thế Giới Dân Chủ không chịu trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương vì họ không muốn Staline mở rộng Bức Màn Sắt từ Đông Âu qua Đông Á, ngày 11-11-1945 Hồ Chí Minh giả bộ giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương để thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Các-Mác. Để có chính nghĩa đoàn kết quốc gia, Hồ Chí Minh mời Nguyễn Hải Thần thuộc Cách Mạng Đồng Minh Hội và Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng tham gia chính phủ liên hiệp.

Trong Tuyên Cáo Đoàn Kết ngày 24-12-1945, Hồ Chí Minh cam kết tôn trọng sự đoàn kết của các đảng phái quốc gia để tranh thủ độc lập, "Vì độc lập quốc gia là cứu cánh tối hậu cần phải tranh thủ và chỉ có sự hợp tác và hữu nghị chân thành giữa những người Việt Nam mới có thể đạt được độc lập quốc gia". Ông còn lên án mọi hành vi phá hoại tình đoàn kết quốc gia cũng như việc dùng võ lực để tiêu diệt các đảng phái quốc gia.

Vậy mà sau đó Trần Dân Tiên đã vu oan giá họa "bọn phản động Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam được Trung Hoa Quốc Dân Đảng giúp đỡ đã có âm mưu phá hoại và Hồ Chủ Tịch đã phải nhường cho họ 70 ghế quốc hội".

Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny công nhận Việt Nam là một quốc gia tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. 15 ngàn quân Pháp được thay thế quân Trung Hoa, đổ bộ Hải Phòng và đồn trú tại Bắc Việt trong 5 năm.

Tháng 5-1946, Hồ Chí Minh qua Paris thương nghị. Phái đoàn Việt Nam đáng lẽ do ngoại trưởng Nguyễn Tường Tam lãnh đạo, nhưng trước đó: "Bộ Trưởng Tam đã bỏ trốn". Và mùa hè năm đó, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh cũng bỏ trốn sang Tàu để khỏi bị sát hại như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm v.v...

Sau khi tống xuất quân đội Trung Hoa, CS thẳng tay đàn áp và thủ tiêu các cán binh Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội. Như vậy, Tuyên Cáo Đoàn Kết 1945 chỉ nhằm thành lập chính phủ liên hiệp để làm bình phong thương nghị với Pháp. Rồi nhờ Pháp tống xuất Tàu cho Đảng CS rảnh tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia để được độc quyền lãnh đạo.

Trong Thế Chiến Thứ Hai, để được Đồng Minh yểm trợ, Staline đưa ra chính sách thân thiện với Anh Pháp. Đảng CS Pháp phối hợp với Đảng Xã Hội trong Mặt Trận Bình Dân. Phe CS Việt Nam cũng hợp tác với phe Tân Tả Phái của Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch để thành lập Mặt Trận Dân Chủ và xuất bản tờ La Lutte (Tranh Đấu).

Trong những cuộc bầu cử Hội Đồng Đô Thành Saigon và Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, liên danh Tranh Đấu của Tạ Thu Thâu toàn thắng. Đây là giai đoạn đấu tranh công khai, ôn hòa, hợp pháp và bất bạo động. Chiêu bài đoàn kết quốc gia một lần nữa được áp dụng. Nguyễn An Ninh thuộc phe Trung Hoà, Tạ Thu Thâu thuộc phe Tân Tả Phái và Nguyễn Phan Long thuộc phe Lập Hiến, đã đứng ra tổ chức Đông Dương Đại Hội để đạo đạt thỉnh nguyện của nhân dân Việt Nam tới phái đoàn Quốc Hội từ Paris sang.

Vậy mà ngay sau khi cướp được chính quyền, Đảng CS đã phản bội lời giao ước đoàn kết và đã thủ tiêu Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo v.v... là những người quốc gia yêu nước thuộc các nhóm Tân Tả Phái và Lập Hiến.

Về việc hạ sát Tạ Thu Thâu, Hồ Chí Minh còn giả nhân nghĩa tiếc Tạ Thu Thâu là người yêu nước. Nhưng ông lại thêm rằng những ai chống lại chính sách của ông đều sẽ bị vô hiệu hoá. Sau khi Staline thủ tiêu người chiến hữu đàn anh của mình là Trotsky năm 1940, tất cả phe tân tả phái Trotskit đều phải bị thanh toán và triệt hạ uy tín.

Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn cho hạ sát Đức Giáo Chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ và các lãnh tụ các đảng phái quốc gia yêu nước như Trương Tử Anh (Đại Việt), Lý Đông A (Duy Dân), Khái Hưng, Nhượng Tống (Quốc Dân Đảng) v...v...

6. GIẢ HIỆP ƯỚC QUỐC TẾ

Theo sách lược CS ký hiệp ước không phải để thi hành hiệp ước. Vì các hiệp ước ngoại giao chỉ là những phương tiện để thực thi những mục tiêu chính trị:

a. Ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny ngày 6-3-1946 nhờ Pháp tống xuất Tàu để rảnh tay thanh toán các đảng phái quốc gia nhằm giữ độc quyền yêu nước, độc quyền lãnh đạo. Sau đó lại phát động chiến tranh ngày 19-12-1946.

b. Ký Hiệp Định Đình Chiến Genève 1954 để tống xuất Pháp và cướp chính quyền tại Miền Bắc. Sau đó lại tái phát động chiến tranh.

c. Ký Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 để tống xuất Mỹ. Sau đó lại tái phát động chiến tranh để thôn tính Miền Nam.

7. NGỤY TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Sau cuộc Cách Mạng giải thể CS tại Đông Âu, chủ nghĩa CS đã bị nhân dân thế giới vứt vào thùng rác lịch sử. Tại Đức, quê hương của Các-Mác, chủ nghĩa Mác đã bị phủ định và được thay thế bằng chủ nghĩa Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ Xã Hội. Tại Nga, quê hương của Lênin, chủ nghĩa Lênin cũng đã bị phủ định để thay thế bằng chủ nghĩa Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ Xã Hội.

Trước sự phá sản của chủ nghĩa Mác Lê, Đảng CS ngụy tạo cái gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh", một điều mà chính Hồ Chí Minh thời sinh tiền cũng không bao giờ đề cập đến. Ông chỉ nói đến chủ nghĩa Mác Lê, tư tưởng Mao Trạch Đông, và tác phong Hồ Chí Minh. Ông nhìn nhận rằng, về phần tư tưởng, "Bác Mao đã viết cả rồi, tôi không còn gì để viết nữa".

Do đó ông chỉ thực thi trung thành những nguyên lý Mác Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông. Ông hết sức tán tụng Staline và Mao Trạch Đông. Ông viết: "Mao Trạch Đông đã đông phương hóa chủ nghĩa Mác Lê và đã đưa cách mạng Trung Quốc đến thành công. Cách mạng Việt Nam phải học tập và thực sự đã học hỏi rất nhiều từ cuộc cách mạng Trung Quốc. Các nhà cách mạng (CS) Việt Nam phải ghi nhớ điều này và phải biết ơn Mao Trạch Đông về sự đóng góp to lớn này".

Thật vậy, Hồ Chí Minh không có tư tưởng gì đặc sắc. Ông chỉ là người sao chép lại.

Những mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc ghi trong các tiêu đề chánh thức của nhà nước chỉ là phỏng theo 3 cương lĩnh của chủ nghĩa Tam Dân do Tôn Dật Tiên đề xướng trong Cách Mạng 1911: "Dân Tộc Độc Lập, Dân Quyền Tự Do và Dân Sinh Hạnh Phúc".

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập do Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945 cũng là sự sao chép Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ theo đó: "mọi người sinh ra bình đẳng và được Tạo Hóa ban cho những quyền bất khả xâm phạm như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Thêm vào đó là lời mở đầu Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp 1789: "mọi người sinh ra tự do và bình đẳng và luôn luôn được tự do và bình đẳng".

Dùng giả nhân nghĩa là ngụy quân tử. Nhưng khéo ngụy trang Hồ Chí Minh đã viện dẫn các tư tưởng minh triết của Nho Gia trong việc giáo hóa, trị dân và dựng nước như: "Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân; không lo nghèo mà lo không đều; mười năm trồng cây, trăm năm trồng người" v.v....

Về mặt kiến thức, Hồ Chí Minh thú nhận ông không am tường chính trị và nhức đầu khi nghe nói về những vấn đề lý thuyết chủ nghĩa. Ông chỉ là người cán bộ thừa hành trung thành và tận tụy của Staline và Mao Trạch Đông. Nhờ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền, ông nổi danh vì bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc. Từ đó, ông được giới thiệu với các lãnh tụ Xã Hội và CS Pháp như Léon Blum, Marcel Cachin v..v... Từ một tiểu trí thức, ông đã bước lên địa vị một cán bộ CS quốc tế, phụ trách vùng Đông Nam Á.

Trong khi các lãnh tụ CS Á Châu khác như Roy tại Ấn Độ hay Malaka tại Nam Dương đều bị thất sủng dưới bàn tay sắt của Staline vì họ có những tư tưởng hướng về chủ nghĩa Dân Tộc và chủ thuyết Hồi Giáo, thì Hồ Chí Minh vẫn một lòng một dạ chung thủy với Quốc Tế CS.

Dầu không có tư tưởng chính trị đặc sắc nhưng Hồ Chí Minh đã thành công trong việc:

Dùng ngụy trang dối trá (ngụy chủ nghĩa Dân Tộc);

Lấy giả nhân giả nghĩa (bằng các chiêu bài độc lập, tự do, hạnh phúc, đoàn kết, hòa giải, hòa hợp);

Để giành chính nghĩa (giải phóng dân tộc, giải phóng lao động);

Và cướp chính quyền (để không chia quyền với bất cứ ai).

L.S. Nguyễn Hữu Thống

http://nguyenhuuthong.blogspot.com/


4 Tội Phản Bội Tổ Quốc Của Đảng Cộng Sản Việt Nam - Luật Sư Nguyễn Hữu Thống

4 Tội Phản Bội Tổ Quốc Của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Luật Sư Nguyễn Hữu Thống

"… Bằng kế hoạch thôn tính 4 bước, đế quốc Bắc Kinh buộc Hà Nội hiến dâng toàn thể hải phận Việt Nam từ Vịnh Bắc Việt đến vùng biển Hoàng Sa Trường Sa …"

- Năm 1999 Đảng Cộng Sản Việt Nam ký Hiệp Định Biên Giới Việt Trung để nhượng đất biên giới cho Trung Quốc.
- Năm 2000, Đảng Cộng Sản Việt
Nam ký Hiệp Định Phân Định Vịnh BắcBộ để bán nước Biển Đông cho Trung Quốc.
- Cũng trong năm này Đảng Cộng Sản Việt
Nam ký Hiệp Định Hợp Tác Nghề Cá để dâng cá dâng dầu cho Trung Quốc.
- Và năm 1958, bằng văn thư của Phạm Văn Đồng, Đảng Cộng Sản Việt
Nam đồng ý chuyển nhượng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
cho Trung Quốc.


Những hành vi này cấu thành 4 tội phản bội tổ quốc bằng cách "cấu kết với nước ngoài nhằm xâm phạm chủ quyền của quốc gia, xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc và xâm phạm quyền của quốc dân được sử dụng đầy đủ những tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước".
Đây là bản đồ nguyên gốc từ .... phương bắc:



I. TỘI NHƯỢNG ĐẤT BIÊN GIỚI CHO NƯỚC NGOÀI

Năm 1949, sau khi thôn tính lục địa Trung Hoa, mục tiêu chiến lược của Quốc Tế Cộng Sản là nhuộm đỏ hai bán đảo Đông Dương và Triều Tiên.

Qua năm sau, 1950, với sự yểm trợ của các chiến xa Liên Xô và đại pháoTrung Quốc, Bắc Hàn kéo quân xâm lăng Nam Hàn. Mục đích để giành yếu tố bất ngờ. Tuy nhiên âm mưu thôn tính không thành do sự phản kích của quân lực Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc.

Từ 1951 cuộc chiến bất phân thắng bại đưa đến hòa đàm. Hai năm sau Chiến Tranh Triều Tiên kết thúc bởi Hiệp Định Đình Chiến Bàn Môn Điếm tháng 7, 1953.

Thất bại trong chiến tranh Triều Tiên, Trung Cộng tập trung hỏa lực và kéo các đại pháo từ mặt trận Bắc Hàn xuống mặt trận Bắc Việt.

Để tiếp tế võ khí, quân trang, quân dụng, cung cấp cố vấn và cán bộ huấn luyện cho Bắc Việt, các xe vận tải và xe lửa Trung Cộng đã chạy sâu vào nội địa Việt Nam để lập các căn cứ chỉ huy, trung tâm huấn luyện, tiếp viện và chôn giấu võ khí. Thừa dịp này một số dân công và sắc dân thiểu số Trung Quốc kéo sang Việt Nam định cư lập bản bất hợp pháp để lấn chiếm đất đai.

Trong Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai khởi sự từ 1956, với các chiến dịch Tổng Công Kích, Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân (1968) và Mùa Hè Đỏ Lửa (1972), Bắc Việt huy động toàn bộ các sư đoàn chính quy vào chiến trường Miền Nam. Thời gian này để bảo vệ an ninh quốc ngoại chống sự phản kích của quân lực Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ (như trong Chiến Tranh Triều Tiên), Bắc Việt nhờ 300 ngàn binh sĩ Trung Quốc mặc quân phục Việt Nam đến trú đóng tại 6 tỉnh biên giới Bắc Việt. Trong dịp này các binh sĩ, dân công và sắc dân thiểu số Trung Hoa đã di chuyển những cột ranh mốc về phía nam dọc theo lằn biên giới để lấn chiếm đất đai.

Trong Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba khởi sự từ 1979, để giành giật ngôi vị bá quyền, Trung Quốc đem quân tàn phá 6 tỉnh biên giới Bắc Việt. Và khi rút lui đã gài mìn tại nhiều khu vực rộng tới vài chục cây số vuông để lấn chiếm đất đai.

Ngày nay, dưới áp lực của Bắc Kinh, Hà Nội xin hợp thức hóa tình trạng đã rồi, nói là thể theo lời yêu cầu của các sắc dân thiểu số Trung Hoa đã định cư lập bản tại Việt Nam.

Năm 1999 họ đã ký Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung để nhượng cho Trung Quốc khoảng 800 km2 dọc theo lằn biên giới, trong đó có các quặng mỏ và các địa danh như Ải Nam Quan, Suối Phi Khanh tại Lạng Sơn và Thác Bản Giốc tại Cao Bằng...

II. TỘI BÁN BIỂN ĐÔNG CHO NƯỚC NGOÀI

Kinh nghiệm cho biết các quốc gia láng giềng chỉ ký hiệp ước phân định lãnh thổ hay lãnh hải sau khi có chiến tranh võ trang, xung đột biên giới hay tranh chấp hải phận.

Trong cuốn Biên Thùy Việt Nam (Les Frontières du Vietnam), sử gia Pierre Bernard Lafont có viết bài "Ranh Giới Hải Phận của Việt Nam" (La Frontière Maritime du Vietnam). Theo tác giả, năm 1887, Việt Nam và Trung Hoa đã ký Hiệp Ước Bắc Kinh để phân chia hải phận Vịnh Bắc Việt theo đường kinh tuyến 108 Đông, chạy từ Trà Cổ Móng Cáy xuống vùng Cửa Vịnh (Quảng Bình, Quảng Trị). Đó là đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa tại Vịnh Bắc Việt. Vì đã có sự phân định Vịnh Bắc Việt theo Hiệp Ước Bắc Kinh, nên "từ đó hai bên không cần ký kết một hiệp ước nào khác." Do những yếu tố địa lý đặc thù về mật độ dân số, số hải đảo, và chiều dài bờ biểnViệt Nam được 63% và Trung Hoa được 37% hải phận.

Năm 2000, mặc dầu không có chiến tranh võ trang, không có xung đột hải phận, bỗng dưng vô cớ, phe Cộng Sản đã ký Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ để hủy bãi Hiệp Ước Bắc Kinh 1887.

Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ là một hiệp ước bất công, vi phạm pháp lý và vi phạm đạo lý.

Bất công và vi phạm pháp lý vì nó không tuân theo những tiêu chuẩn của Tòa Án Quốc Tế, theo đó sự phân ranh hải phận phải căn cứ vào các yếu tố địa lý, như số các hải đảo, mật độ dân số và chiều dài bờ biển. Ngày nay dân số Bắc Việt đông gấp 6 lần dân số đảo Hải Nam, và bờ biển Bắc Việt dài gấp 3 lần bờ đảo Hải Nam phía đối diện Việt Nam. Ngoài ra Việt Nam có hàng ngàn hòn đảo trong khi Hải Nam chỉ có 5 hay 6 hòn. Tại miền bờ biển hễ đã có đất thì phải có nước; có nhiều đất hơn thì được nhiều nước hơn; có nhiều dân hơn thì cần nhiều nước hơn. Vì vậy hải phận Việt Nam phải lớn hơn hải phận Trung Hoa (63% và 37% theo Hiệp Ước Bắc Kinh). Và cũng vì vậy vùng biển này có tên là Vịnh Bắc Việt.

Ngày nay phe Cộng Sản viện dẫn đường trung tuyến để phân ranh hải phận với tỉ lệ lý thuyết 53% cho Việt Nam. Như vậy Việt Nam đã mất ít nhất 10% hải phận, khoảng 12.000 km2. Tuy nhiên trên thực tế phe Cộng Sản đã không áp dụng nghiêm chỉnh đường trung tuyến. Họ đưa ra 21 điểm tiêu chuẩn phân định Vịnh Bắc Việt theo đó Việt Nam chỉ còn 45% hải phận so với 55% của Trung Quốc. Và Việt Nam đã mất 21.000 km2.

Bất công hơn nữa là vì nó không căn cứ vào những điều kiện đặc thù để phân định Vịnh Bắc Việt. Tại vĩ tuyến 20 (Ninh Bình, Thanh Hóa), biển rộng chừng 170 hải lý, theo đường trung tuyến Việt Nam được 85 hải lý để đánh cá và khai thác dầu khí (thay vì 200 hải lý theo Công Ước về Luật Biển). Trong khi đó, ngoài 85 hải lý về phía tây, đảo Hải Nam còn được thêm 200 hải lý về phía đông thông sang Thái Bình Dương. Theo án lệ của Tòa Án Quốc Tế, hải đảo không thể đồng hóa hay được coi trọng như lục địa. Vậy mà với số dân chừng 7 triệu người, đảo Hải Nam, một tỉnh nhỏ nhất của Trung Quốc, đã được hưởng 285 hải lý để đánh cá và khai thác dầu khí. Trong khi đó 42 triệu dân Bắc Việt chỉ được 85 hải lý. Đây rõ rệt là bất công quá đáng. Bị án ngữ bởi một hải đảo (Hải Nam) người dân Bắc Việt bỗng dưng mất đi 115 hải lý vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá và thềm lục địa để khai thác dầu khí. .

Hơn nữa, Hiệp Ước này còn vi phạm đạo lý vì nó đi trái với những mục tiêu và tôn chỉ của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền như Công Lý, Bình Đẳng, Hữu Nghị, không cưỡng ép, không thôn tính và không lấn chiếm.

III. TỘI DÂNG CÁC TÀI NGUYÊN VÀ NGUỒN LỢI THIÊN NHIÊN CHO NƯỚC NGOÀI

Cùng ngày với Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ, Đảng Cộng Sản Việt Nam còn ký Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá.

Ngày 15-6-2004, Quốc Hội phê chuẩn Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ. Tuy nhiên, trái với Điều 84 Hiến Pháp, Hiệp Ước Đánh Cá không được Quồc Hội phê chuẩn, chỉ được Chính Phủ "phê duyệt".

Theo Hiệp Ước sau này, hai bên sẽ thiết lập một vùng đánh cá chung rộng 60 hải lý, mỗi bên 30 hải lý, từ đường trung tuyến biển sâu nhiều cá, khởi sự từ vĩ tuyến 20 (Ninh Bình, Thanh Hóa) đến vùng Cửa Vịnh tại vĩ tuyến 17 (Quảng Bình, Quảng Trị).

Tại Quảng Bình biển rộng chừng 120 hải lý, theo đường trung tuyến Việt Nam được 60 hải lý. Trừ 30 hải lý cho vùng đánh cá chung, ngư dân chỉ còn 30 hải lý gần bờ. Trong khi đó Hải Nam được 290 hải lý để đánh cá.

Tại Ninh Bình, Thanh Hóa, biển rộng chừng 170 hải lý, theo đường trung tuyến, Việt Nam được 85 hải lý. Trừ 30 hải lý cho vùng đánh cá chung, ngư dân chỉ còn 55 hải lý gần bờ. Trong khi đó Hải Nam được 315 hải lý.

Hơn nữa, theo nguyên tắc hùn hiệp, căn cứ vào số vốn, số tàu, số chuyên viên kỹ thuật gia và ngư dân chuyên nghiệp, Trung Quốc sẽ là chủ nhân ông được toàn quyền đánh cá ở cả hai vùng, vùng đánh cá chung và vùng hải phận Trung Hoa.

Ngày nay Trung Quốc là quốc gia ngư nghiệp phát triển nhất thế giới. Trên mặt đại dương, trong số 10 tàu đánh cá xuyên dương trọng tải trên 100 tấn, ít nhất có 4 tàu mang hiệu kỳ Trung Quốc. Như vậy trong cuộc hợp tác đánh cá với Trung Quốc, Việt Nam chỉ là cá rô, cá riếc sánh với cá mập, cá kình:

a. Trong số 17 quốc gia ngư nghiệp phát triển trên thế giới có tàu đánh cá lớn trọng tải trên 100 tấn, một mình Trung Quốc chiếm hơn 40 % số tàu, so với 5% của Hoa Kỳ, 3% của Nhật Bản và 2% của Đại Hàn, (Việt Nam không có mặt trong số 17 quốc gia này).

b. Các tàu đánh cá lớn này có trang bị các lưới cá dài với tầm hoạt động 60 dặm hay 50 hải lý. Do đó đoàn ngư thuyền Trung Quốc không cần ra khỏi khu vực đánh cá chung cũng vẫn có thể chăng lưới về phía tây sát bờ biển Việt Nam để đánh bắt hết tôm cá, hải sản, từ Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh tới Quảng Bình, Quảng Trị. Chăng lưới đánh cá tại khu vực Việt Nam là vi phạm hiệp ước. Tuy nhiên các đội tuần cảnh duyên hải Việt Nam sẽ ngoảnh mặt làm ngơ. Là cơ quan kinh tài của Đảng, họ sẽ triệt để thi hành chính sách thực dụng làm giàu với bất cứ giá nào, kể cả bằng sự cấu kết với ngoại bang vi phạm luật pháp và hiệp ước.

Trong cuộc hùn hiệp hợp tác này không có bình đẳng và đồng đẳng. Việt Nam chỉ là kẻ đánh ké, môi giới mại bản, giúp cho Trung Quốc mặc sức vơ vét tôm cá hải sản Biển Đông, để xin hoa hồng (giỏi lắm là 10%, vì Trung Quốc có 100% tàu, 100% lưới và 95% công nhân viên).

c. Rồi đây Trung Quốc sẽ công nhiên vi phạm Hiệp Ước Hợp Tác Đánh Cá cũng như họ đã thường xuyên vi phạm Công Ước về Luật Biển. Chiếu Công Ước này các quốc gia duyên hải có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý để đánh cá. Nhưng cũng có nghĩa vụ phải bảo toàn và dinh dưỡng ngư sinh để dành hải sản cho biển cả và các thế hệ tương lai. Trung Quốc đã trắng trợn và thường xuyên vi phạm Công Ước về Luật Biển trong chính sách "tận thâu, vét sạch và cạn tàu ráo máng" áp dụng từ thời Đặng Tiểu Bình. Đó là chính sách thực dụng mèo đen mèo trắng, làm giàu là vinh quang, làm giàu với bất cứ giá nào.

Từ hơn 1/4 thế kỷ theo kinh tế thị trường, với sự phát triển công kỹ nghệ, thương mại, đánh cá và khai thác dầu khí, ngày nay tại vùng duyên hải Trung Hoa, các tài nguyên, hải sản và nguồn lợi thiên nhiên như tôm cá, dầu khí đã cạn kiệt. Trong khi đó nhu cầu canh tân kỹ nghệ hóa và nạn nhân mãn (của 1 tỉ 380 triệu người) đòi hỏi Trung Quốc phải mở rộng khu vực đánh cá và khai thác dầu khí xuống Miền Nam.

d. Với hơn 25 năm kinh nghiệm trong nghề cá, Trung Quốc đã huấn luyện được một đội ngũ công nhân viên đông đảo gồm các kỹ thuật gia, chuyên viên điện tử, và ngư dân có tay nghề. Trong khi đó về phía Việt Nam chỉ có một số công nhân không chuyên môn để sai phái trong các công tác tạp dịch hay công tác vệ sinh như rửa cá, rửa tàu v...v... Và rồi đây, bên cạnh các lao động nô lệ xuất khẩu tại Đông Nam Á , chúng ta sẽ có thêm một số lao động nô lệ tại Biển Đông trên các tàu đánh cá xuyên dương Trung Quốc.

IV. TỘI CHUYỂN NHƯỢNG CÁC QUẦN ĐẢO HOÀNG SA TRƯỜNG SA CHO NƯỚC NGOÀI

Với đà này Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ nhượng nốt các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng. Họ đã nhiều lần công bố ý định này:

1. Ngày 15-6-1956, ngoại trưởng Ung Văn Khiêm minh thị tuyên bố: "Hà Nội nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa".

2. Ngày 14-9-1958 qua lời Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch Nước, xác nhận chủ quyền hải phận của Trung Quốc tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

3. Để biện minh cho lập trường của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, sau khi Trung Cộng tiến chiếm Trường Sa hồi tháng 3-1988, báo Nhân Dân, cơ quan chính thức của Đảng Cộng Sản trong số ra ngày 26-4-1988 đã viết: "Trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược thì Việt Nam phải tranh thủ sự gắn bó của Trung Quốc, và ngăn chặn Hoa Kỳ sử dụng 2 quần đảo nói trên". Đây chỉ là lời ngụy biện. Vì tại Thái Bình Dương, Hoa Kỳ có Đệ Thất Hạm Đội nên không cần đến các hải đảo Trường Sa và Hoàng Sa để làm căn cứ xuất phát hay địa điểm chỉ huy.

4. Và hồi tháng 5-1976, báo Saigon Giải Phóng trong bài bình luận việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng võ lực đầu năm 1974, đã viết: "Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí, mà còn là người thầy tin cẩn đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy chủ quyền Hoàng Sa thuộc Việt Nam hay thuộc Trung Quốc cũng vậy thôi".

Từ 1956, mục tiêu chiến lược của Đảng Cộng Sản Việt Nam là "giải phóng Miền Nam" bằng võ lực. Để chống lại Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Đồng Minh, Hà Nội hoàn toàn trông cậy vào sự cưu mang nhiệt tình của người thầy phương Bắc. Vì sau cái chết của Stalin năm 1953, Lien Xô chủ trương chung sống hòa bình với Tây Phương, trong khi Mao Trạch Đông vẫn tuyên bố "sẽ giải phóng một ngàn triệu con người Á Châu khỏi ách Đế Quốc Tư Bản".

Mà muốn được cưu mang phải cam kết đền ơn trả nghĩa. Ngày 14-9-1958, qua Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch Nước cam kết chuyển nhượng cho Trung Quốc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Qua năm 1959, Đảng Cộng Sản phát động chiến tranh Giải Phóng Miền Nam.

Có 3 lý do được viện dẫn trong cam kết này:

a. Vì Hoàng Sa, Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 17-7 (Quảng Trị-Cà Mâu) nên thuộc hải phận Việt Nam Cộng Hòa. Đối với Hà Nội nhượng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc trong thời điểm này chỉ là bán da gấu! (không phải tài sản của mình).

b. Sau này do những tình cờ lịch sử, nếu Bắc Việt thôn tính được Miền Nam thì mấy hòn đảo san hô tại Biển Đông đâu có ăn nhằm gì so với toàn thể lãnh thổ Việt Nam?

c. Giả sử cuộc "giải phóng Miền Nam" không thành, thì việc Trung Cộng chiếm Hoàng Sa Trường Sa thuộc lãnh hải Việt Nam Cộng Hòa cũng có tác dụng làm suy yếu phe quốc gia về kinh tế, chính trị, chiến lược và an ninh quốc phòng.

Bản đồ "chín gạch" về "biển lưỡi rồng"
do Trung quốc áo đặt từ 1949


KẾ HOẠCH THÔN TÍNH BIỂN ĐÔNG CỦA TRUNG CỘNG

Năm 1982, với tư cách ngũ cường thuộc Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết, Trung Cộng hoan hỷ ký Công Ước về Luật Biển. Ký xong Công Ước, Bắc Kinh mới thấy lo! Theo Công Ước các quốc gia duyên hải chỉ có 200 hải lý, vừa là vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá, vừa là thềm lục địa để khai thác dầu khí. Trong khi đó Hoàng Sa tọa lạc ngoài lục địa Trung Hoa 270 hải lý, và Trường Sa cách Hoa Lục 750 hải lý, nên không thuộc hải phận (thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế đánh cá) của Trung Quốc.

Vì vậy, cuối năm 1982, Bắc Kinh tập hợp 400 học giả Trung Hoa ngày đêm nghiên cứu thảo luận ròng rã trong suốt 10 năm, để kết luận rằng "Nam Hải là Biển Lịch Sử của Trung Quốc từ thời Hán Vũ Đế ".

Đây là thái độ trịch thượng võ đoán của phe đế quốc, cũng như Đế Quốc La Mã thời xưa coi Địa Trung Hải là "biển lịch sử của chúng tôi!"

Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc nằm sát bờ biển, cách Quảng Ngãi 40 hải lý, cách Nam Dương 30 hải lý, cách Mã Lai và Phi Luật Tân 25 hải lý. Nó bao gồm toàn thể vùng biển Hoàng Sa Trường Sa và chiếm trọn 3 túi dầu khí đang khai thác là Tứ Chính (Vanguard) của Việt Nam, Natuna của Nam Dương và Cỏ Rong (Reed Bank) của Phi Luật Tân.

Tuy nhiên về mặt pháp lý, nếu Ấn Độ Dương không phải là đại dương của Ấn Độ, thì Nam Hải cũng không phải là biển của Trung Hoa về phía Nam.

Vả lại theo Tòa Án Quốc Tế La Haye, biển lịch sử chỉ là nội hải. Hơn nữa Thuyết Biển Lịch Sử của Trung Quốc cũng bị Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển bác bỏ trong Điều 8: "Biển lịch sử hay nội hải của một quốc gia tọa lạc trong lục địa hay đất liền, bên trong bờ biển hay đường căn bản" (đường căn bản là lằn mực thủy triều xuống thấp).

Do đó Biển Nam Hoa hay Nam Hải không phải là Biển Lịch Sử của Trung Quốc vì nó là ngoại hải và cách lục địa Trung Hoa hơn 2000 cây số.

Và công trình 10 năm nghiên cứu của 400 học giả Trung Hoa chỉ là công "dã tràng xe cát Biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì"!

Thất bại trong thuyết Biển Lịch Sử, Trung Cộng đề ra kế hoạch 4 bước để xâm chiếm Biển Đông về kinh tế:

1. Ký kết Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ năm 2000 để hủy bãi Hiệp Ước Bắc Kinh 1887 (theo đó Việt Nam được 63% và Trung Hoa được 37%. Nếu theo đường trung tuyến, hai bên được chia đều 50%. Tuy nhiên trên thực tế, Trung Cộng không theo đường trung tuyến và đã đề ra 21 điểm tiêu chuẩn phân định theo đó Việt Nam chỉ còn 45% so với 55% của Trung Hoa.

2. Ký kết Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá năm 2000 để thiết lập Vùng Đánh Cá Chung 60 hải lý. Và Việt Nam chỉ còn 25% tại vĩ tuyến 17, và 32% tại vĩ tuyến 20. Với các tàu đánh cá viễn duyên, với các lưới cá dài 50 hải lý, và nhất là với sự cấu kết đồng lõa của đội tuần cảnh duyên hải Việt Nam, toàn thể Vịnh Bắc Việt sẽ biến thành khu đánh cá tự do cho đội kình ngư Trung Quốc mặc sức tận thu, vét sạch, và cạn tàu ráo máng.

3. Từ đánh cá chung đến hợp tác khai thác dầu khí chỉ còn một bước. Trong Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt có điều khoản quy định rằng, khi dầu khí được phát hiện, hai bên sẽ khởi sự hợp tác khai thác dầu khí. Dầu khí là do các chất hữu cơ kết tụ trong các thủy tra thạch kết tầng dưới đáy biển. Các chất hữu cơ này được nước phù sa Sông Hồng Hà từ Vân Nam và Sông Cửu Long, con sông dài nhất Đông Nam Á, từ cao nguyên Tây Tạng đổ ra Biển Đông từ cả triệu năm nay. Do đó dầu khí nếu có, là do các chất hữu cơ từ lục địa Việt Nam, chứ không phải từ Hoa Lục. Mặc dầu vậy, tại Vịnh Bắc Việt, Trung Quốc đã đề ra nhiều dự án thăm dò và khai thác dầu khí, như "Dự Án Quỳnh Hải" bên bờ đảo Hải Nam và "Dự Án Vịnh Bắc Bộ" phía Bắc vĩ tuyến 20. (Khi dùng danh xưng "Vịnh Bắc Bộ", Trung Quốc mặc nhiên nhìn nhận rằng đó là Vịnh của Việt Nam về phía Bắc. Vì nếu là củaTrung Hoa thì phải gọi là Vịnh Nam Bộ mới đúng địa lý).

4. Với chính sách vết dầu loang, sau khi thành tựu kế hoạch đánh cá và khai thác dầu khí chung tại Bắc Việt, hai bên sẽ tiến tới việc hợp tác đánh cá và khai thác dầu khí chung tại miền duyên hải Trung và Nam Việt. Điều đáng lưu ý là vùng lãnh hải này thuộc thềm lục địa và khu đặc quyền kinh tế đánh cá 200 hải lý của Việt Nam nên thuộc chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam. Ở đây không có sự trùng điệp hay chồng lấn hải phận như trường hợp Vịnh Bắc Việt.

Không ai ngu dại gì cho người nước ngoài đến đánh cá và khai thác dầu khí chung tại thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế riêng của nước mình. Chiếu Điều 77 Luật Biển, thềm lục địa thuộc chủ quyền tuyệt đối của quốc gia duyên hải. Mọi sự chiếm cứ bất cứ từ đâu tới cũng đều vô hiệu, nhất là chiếm cứ võ trang (trường hợp Trung Cộng dùng võ trang chiếm Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa từ năm 1988).

Bằng kế hoạch thôn tính 4 bước, đế quốc Bắc Kinh buộc Hà Nội hiến dâng toàn thể hải phận Việt Nam từ Vịnh Bắc Việt đến vùng biển Hoàng Sa Trường Sa theo lời cam kết của Hồ Chí Minh (Phạm Văn Đồng chỉ là kẻ thừa sai, bất lực, vô quyền, không có cả quyền bổ nhiệm một thứ trưởng theo lời tự thú của đương sự).

Như vậy, Thuyết Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc từng bị Công Ước về Luật Biển và Tòa Án Quốc Tế bác bỏ, nay sẽ trở thành hiện thực do kế hoạch 4 bước thôn tính Biển Đông của Trung Cộng. Vì quyền lợi riêng tư, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã táng tận lương tâm nhượng đất, bán nước, dâng cá dâng dầu và dâng các hải đảo cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.

Hành động như vậy Đảng Cộng Sản Việt Nam đã 4 lần phản bội Tổ Quốc.

Vì những lý do nêu trên:

Thay mặt đồng bào trong nước không còn quyền được nói
Trước Tòa Án Quốc Dân và Tòa Án Lịch Sử
ỦY BAN LUẬT GIA BẢO VỆ DÂN QUYỀN
KẾT ÁN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ 4 TỘI PHẢN BỘI TỔ QUỐC

Luật sư Nguyễn Hữu Thống

Nguồn:http://nguyenhuutho ng.blogspot. com/

Người thiếu phụ uổng tử - Nguyễn Ðạt Thịnh

Người thiếu phụ uổng tử có đủ sức lật đổ chế độ độc tài Iran không?

Nguyễn Ðạt Thịnh
Neda Agha-Soltan
Thiếu phụ uổng tử là cô Neda Agha-Soltan, 26 tuổi, người Iran; ông bố cô và cậu hôn phu của cô nói cô không bênh vực một ứng cử viên nào cả; cô chỉ thèm khát tự do, tự do cho cô, tự do cho mọi người Iran đồng chủng của cô. Chiếc xe du lịch chở cô bị kẹt trên một con đường nhánh, sau một đoàn xe khác, đoàn xe tìm cách vào trục giao thông chính nơi hàng chục ngàn người biểu tình đang giao tranh sôi nổi với cảnh sát Iran.

Cảnh sát bắn hơi cay, đi xe mô tô lao vào đám đông, và sử dụng gậy gộc đánh người biểu tình, ngược lại đoàn biểu tình cũng dùng đá ném cảnh sát.

Không khí trong xe nóng bức, cô Agha-Soltan mở cửa bước ra; một tiếng súng, cô ngã xuống đường và nói “viên đạn đốt cháy tôi.” Viên đạn do một tay bắn xẻ núp trên nóc nhà gần đó, bắn vào những chiếc xe đưa “viện binh” đến cho lực lượng biểu tình.

Người cùng đi với cô trên xe là vị giáo sư dạy nhạc cho cô. Cô thích hát, nhưng Hồi Giáo cấm không cho nữ giới ca hát trước chốn công cộng nên việc cô đi học hát có tính cách lén lút.

Vị giáo sư âm nhạc quỳ xuống bên cạnh cô tìm cách cứu thương, nhưng ông cũng chỉ vụng về bất lực, một bác sĩ chạy đến xem xét rồi nói, “vô phương, đạn trúng ngay tim”; một thanh niên dùng cái cell phone quay hoạt cảnh ngắn không đầy một phút từ lúc cô trúng thương tới lúc cô tắt thở.

Vài tiếng đồng hồ sau, hình ảnh cái chết oan uổng của người thiếu phụ Iran được truyền hình thế giới.

Hình ảnh cái chết oan uổng của Neda Agha-Soltan
được truyền hình loan tải khắp thế giới

Tờ Whasington Post nói người Iran có tập tục kính trọng những người tử đạo, và cô Agha-Soltan lập tức trở thành thần tượng của cuộc đấu tranh chống độc tài.

Tổng thống Hoa Kỳ Obama nói, “Cảnh một thiếu phụ bước xuống xe và lập tức bị bắn chết cho thấy bạo lực đã cao đến mức không thể chấp nhận. Không thể đàn áp những người đấu tranh cho công bằng; lúc nào họ cũng đứng về phía phải của lịch sử.”

Chính giới Hoa Kỳ cho lời chỉ trích của ông là dè dặt, là nhút nhát, không dám nói lên lý tưởng yêu chuộng tự do cao đẹp của Hoa Kỳ. Nhiều nghị sĩ, dân biểu Cộng Hòa nhắc lại rằng chính lời thách thức Nga Sô phá tuờng Bá Linh của tổng thống Ronald Reagan làm bức tường ô nhục này bị phá.
Obama không để những thôi thúc đó đẩy ông đi xa hơn thái độ “trung lập” mà ông cố giữ. Ông nói, “Tôi biết có những người theo dõi tin tức Iran từng giờ, từng phút; tôi không theo dõi. Tôi biết chắc chắn là không có bàn tay sắt nào ngăn chặn được cuộc đấu tranh cho công lý.”

Obama cố giữ thái độ trung lập để không cung cấp cho Mahmoud Ahmadinejad, vị tổng thống đang bị người Iran tố cáo là gian lận bầu cử, một lập luận rất mạnh mà trước đây Việt Cộng thường xử dụng là mọi việc đều do Mỹ chủ truơng.

“Ðộc tài không đàn áp được sức mạnh của những việc đang xẩy ra trên đường phố Tehran” , Obama nói. “Tôi không muốn tạo môi trường giúp chúng có thể diễn dịch là Bạch Cung và CIA đạo diễn cuộc nổi dậy đó, trong lúc cuộc nổi dậy đang diễn ra trên đường phố chỉ cụ thể hoá thái độ bất mãn của nguời Iran.”

Cuối cùng quốc hội Hoa Kỳ cũng hiểu thái độ khôn ngoan của tổng thống Obama. Dân biểu Cộng Hoà Ron Paul của bang Texas nói, “Tôi ngưỡng mộ thái độ thận trọng của tổng thống Obama về tình hình Iran, và tôi hy vọng Hạ Viện cũng ngưỡng mộ ông.”

Phát ngôn viên của Hội Ðồng Bầu Cử Iran, ông Abbasadi Kadkhodai xác nhận là tại 50 đơn vị trong tổng số 366 đơn vị bầu cử, số phiếu đếm được nhiều hơn tổng số cử tri địa phuơng.

Trong lịch sử Iran, chưa bao giờ người Iran đi bầu nhiều như lần này. Họ chán ghét thể chế chính trị do tôn giáo ngự trị, và họ đi bầu đông là để mưu tìm việc thay đổi thể chế. Chính con số đông đúc cử tri đó giải thích số hàng triệu người đang xuống đường đòi hỏi công lý.

Tôi hy vọng cái chết của người thiếu phụ yêu chuộng tự do Agha-Soltan tạo xúc động mạnh làm gia tăng phẫn uất của người Iran; tôi cũng hy vọng tổng thống Obama tiếp tục “đứng ngoài” để không tiếp đạn “chính nghĩa quốc gia” cho ông tổng thống gian lận Ahmadinejad của Iran. Chính nghĩa giờ này đang nằm trong tay những người nổi dậy, nhưng chỉ cần được Mỹ “yểm trợ” chính nghĩa nổi dậy của người Iran sẽ yếu đi.

Nguyễn Ðạt Thịnh

Friday, June 26, 2009

Tiananman Square protest 1989

In this video never before released publicly
Muriel Southerland remembers life in Beijing
during the historic events of May and June 1989
Source: http://www.rfa.org/english/news/

Phim tài liệu Việt Nam Việt Nam được dấu kín 37 năm

Bút Sử
Vào tháng 8 năm 2008, bộ phim tài liệu gồm nhiều tập được phổ biến tại Hoa Kỳ có tựa "Vietnam A Retrospective" trong đó có tập "Vietnam Vietnam!" "Vietnam Vietnam" dài 58 phút, do John Ford làm ra, người diễn đạt là tài tử Charlton Heston. Nội dung chính bao gồm hai phần: phản chiến tại Hoa Kỳ và tranh luận (debate) giũa các tổng thống, thống đốc, dân biểu quốc hội.



Có người đưa ra thắc mắc tại sao phim thực hiện xong từ 1971 mà đến gần cuối 2008 mới đưa ra phổ biến? Một nhận xét cho rằng giai đoạn 1971 đang là phong trào phản chiến cao độ, xao động cả toàn dân Mỹ đến độ chính phủ phải đưa ra giải pháp "rút quân." Việc "Pentagon Papers" của Daniel Ellsberg là một bất lợi vô cùng to lớn đối với chính sách đương đầu với phe cộng sản tại Việt Nam. Nguyên là nhân viên của Bộ Quốc Phòng từ thời chiến tranh lạnh,1964, đến một chức vụ dân sự trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tại Việt Nam sau đó, ông Ellsberg lúc nào cũng bi quan về sự chiến thắng trong cuộc chiến và nghiêng về phía cộng sản. Trong "Pentagon Papers" Ellsberg đã tung ra những bí mật của Bộ Quốc Phòng, rất nhiều trang được đăng trên New York Times 1971. Hiện tượng này châm ngòi thêm cho phong trào phản chiến, và cũng đi từ những nguyên do này mới có hiện tượng "Watergate" và đưa đến việc tổng thống Nixon phải xin từ chức.


Phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ khởi nguồn từ đầu thập niên 60, bùng dậy càng ngày càng mạnh vào đầu thập niên 70. Trong những tổ chức, nhóm chống chiến tranh kêu gọi "hoà bình" phải kể: nhóm "khủng bố nội địa" Weather Underground, Black Panthers (Mỹ da đen ủng hộ cộng sản), Đảng Cộng Sản Hoa Kỳ, Malcolm X, May 19 Organization, Saul Alinsky, tài tử Hollywood, nhóm hoạt động chính trị điển hình như Bill Clinton, Hillary Rodham Clinton, John Kerry, kể cả mục sư Martin Luther King đã ví quân đội Mỹ tham gia tại Việt Nam cũng giống như quân Đức Quốc Xã tại Âu Châu, v.v...Nặng nề hơn hết là sự sách động sinh viên của hằng chục trường đại học như Berkley ở California, Harvard và Boston ở Massachusetts.

Tài liệu cho thấy trong giai đoạn này, hằng năm quốc tế cộng sản đã chi ra riêng cho Hoa Kỳ 3 tỷ US dollars lo việc tổ chức biểu tình phản chiến. Tài liệu cũng đưa ra cái gọi là "toà án nhân dân" của quốc tế phán tội người Mỹ tại Việt Nam được tổ chức tại Sweden và Denmark vào các năm 1966-1968, do hai nhân vật chống chiến tranh mệnh danh là triết gia Bertrand Russell và Jean-Paul Sartre. Phần tài chánh lớn chi phí cho việc thực hiện "toà án" này lại do chính tiền từ Hà Nội gửi sang (Financing for the Tribunal came from many sources, including a large contribution from the North Vietnamese government after a request made by Russell to Ho Chi Minh -Source from Wikipedia).

Năm 1968, khi nằm trong tù tại miền Bắc, nghe đài Hà Nội loan tin ca ngợi "toà án nhân dân quốc tế," ngục sĩ Nguyễn Chi Thiện đã làm bài thơ "Gửi Bertrand Russell":
Ông là một bậc triết nhân. Nhưng về chính trị ông đần làm sao. Ông bênh Việt Cộng ồn ào. Nhưng ông hiểu chúng tí nào cho cam. Mời ông tới Bắc Việt Nam. Xem nô lệ đói phải làm ra sao. Mời ông tới các nhà lao. Xem bò lợn được đề cao hơn người. Không ai kêu nổi một lời. Mồm dân Đảng khoá đã mười mấy năm. Xem rồi ông mới hờn căm. Muốn đem bọn chúng ra bằm ra văm. Tuổi ông ngót nghét một trăm. Nhưng thua cậu bé mười lăm đói gầy. Về môn "cộng sản học" này!

Nói như thế để chúng ta thấy nguyên do chính của sự bỏ rơi đồng minh Việt Nam Cộng Hoà và dọn đuờng cho cộng sản Bắc Việt ồ ạt dùng vũ khí đạn dược Nga Tàu cưỡng chiếm miền Nam. Do vậy mà miền Nam thua là thua chính trị tại Washington chứ không phải thua tại trận chiến. Vũ khí đâu để đối đầu với lực lượng súng đạn của Nga Tàu? Việc sắp đặt rút khỏi Việt Nam để nhường cho cộng sản rõ ràng nhất qua hiệp định Paris ngày 27/01/ 1973, mặc dù trong đó đã ghi rõ miền Bắc không thể dùng vũ lực để xâm lăng miền Nam, nhưng không ai có thể tin cộng sản thực thi.


Như vậy thì lý luận cho rằng sở dĩ phim "Vietnam Vietnam" bị "cất kín" hơn 37 năm qua vì nhu cầu của sự "tuyên truyền" thông tin chính nghĩa không còn cần thiết nữa khi Quốc Hội Hoa Kỳ đã đang bàn luận bỏ rơi Việt Nam Cộng Hoà xem ra cũng có lý. Hơn nữa, Ủy Ban gọi là USIA (United States Information Agency) có thẩm quyền cho ra hay không phim Vietnam Vietnam họ đã có quyết định.


Tài liệu này đã đưa ra hai mặt: chống và ủng hộ cuộc chiến. Như thế để người xem tự tìm ra đâu là sự thật, đâu là chính nghĩa, tại sao Hoa Kỳ phải nhúng tay vào Việt Nam. Truớc cuộc chiến bùng nổ, người Mỹ đã chụp bằng satellite nhiều hình ảnh nơi vũ khí đạn dược Nga Tàu được cộng sản chôn giấu trong Nam để chuẩn bị cuộc chiến xâm lăng. Hình ảnh rất linh động, cảnh cộng sản thảm sát đồng bào vào Tết Mậu Thân 1968, những mồ chôn tập thể tại Huế, qua chủ trương "tiêu thổ kháng chiến," cộng sản đốt nhà dân trước khi rút quân làm phụ nữ và trẻ con chết loạn xạ v.v.

Ở đây chỉ điểm qua một vài nét nói lên tội ác của cộng sản Việt Nam mà nhân loại ngay thời điểm đó đã không quan tâm đúng mức. Hằng ngàn nạn nhân bị cộng sản tàn sát tại Huế thì không được bàn luận phổ biến rộng rãi, trong khi sau đó vài tháng, hiện tượng Mỹ Lai chỉ có trên bốn trăm nạn nhân thì quân đội Hoa Kỳ bị kết án nặng nề, mặc dù cá nhân viên sĩ quan phi công dội bom đã bị đưa ra toà án quân đội xử lý công minh. Truyền thông phản chiến cũng là công cụ góp phần đưa đẩy việc bỏ rơi miền Nam.


Hình ảnh những sinh viên tại Hoa Kỳ biểu tình rần rộ với cờ đỏ sao vàng và cờ xanh đỏ của cộng sản miền Nam. Một người đàn ông tị nạn cộng sản gốc Hungary có mặt trong buổi biểu tình tại Saigon có một số sinh viên Mỹ. Cũng như Nguyễn Chí Thiện đã cho ông Russell một bài học nhỏ về môn học cộng sản trong lời thơ, ông Hungary này đã ít nhất đưa ra một vài ý niệm về bản chất của chế độ cộng sản. Ông tức giận bày tỏ với đám đông xung quanh:

Các người thật là ngu ... Tôi là một chiến sĩ tự do ... Một điều rất là sỉ nhục khi các người đang làm những chuyện đối với chính quốc gia mình. Tôi cảm thấy nhục cho nước Mỹ. Tôi không phải là một người Mỹ. Tôi là người Hung Gia Lợi. Người ta phải chết cho con cháu, cho tương lai con cháu, cho tự do của con cháu. Các người bị hướng dẫn sai lầm. Trong tận cùng, các người là những thành phần tốt, có lương tâm. Các người muốn sự nhân đạo tuyệt vời, nhưng nhân đạo bị chấm dứt trong những quốc gia dưới chế độ cộng sản. Hãy tới nước Hungary, Chezlovakia ... Những người đang đấu tranh cho tự do dân chủ, những người Việt đó xứng đáng được tuyên dương, và mỗi người Mỹ đang chiến đấu chống cộng sản là một anh hùng.
(You are stupid, idiot, you know ... I am a freedom fighter ... It's disgraceful for what you are doing here for your own country. I am ashamed for America. I am not an American. I am a Hungarian. People have to die for their children, for their future, for their freedom. You are mislead. Deep inside you, you are very very decent people. You want the best humanity, but humanity is finished in the communist countries. Go to Hungary, Chezlovakia ... The people are fighting for freedom, every Vietnamese should get a medal and every American who fights communist is a hero ...)
Phim đã đưa ra hình ảnh và những phát biểu của các chính trị gia Hoa Kỳ: một số tán đồng rút quân, cũng như thành phần tiếp tục ủng hộ cuộc chiến chính nghĩa. Đặc biệt hơn hết là thống đốc California, 1967-1975, ông Ronald Reagan. Ông đưa ra lời tuyên bố:


Tất cả chúng ta không thể thay thế giá trị to lớn của người dân của chúng ta. Ai có thể đưa ra lằn ranh để định giá sự sống của một người Mỹ, nếu bằng cách bảo vệ một mạng sống người Mỹ khi có thể hằng ngàn người Việt Nam phải chết? Mạng sống con người là mạng sống con người. Một thực thể hiển nhiên nhất đã xảy ra là gần 2 triệu người dân miền Bắc đã rời bỏ chạy về miền Nam để xa lánh chế độ cộng sản. Đó có phải dấu hiệu rằng chính phủ này đã không đại diện nguyện vọng của dân chúng? Chấm dứt sự xung đột mâu thuẫn không thể đơn giản chỉ là ra lệnh ngừng chiến và trở về nhà, bởi vì cái giá phải trả cho loại hoà bình đó có thể là hằng ngàn năm của tăm tối hay tăm tối cho những thế hệ chưa sinh ra đời.
(All of it can’t replace the great value of our own people ... But ... Can you really draw a line to whether it ‘s worth one American life ... if that by saving an American life, you subject to probably thousands of Vietnamese to death?... Human life is human life. The very fact is practically two millions of the North Vietnamese fled to South Vietnam to escape the communist regime. Is it indication that this government did not represent the will of the people?... Ending the conflict is not so simple as just calling it off and coming home, because the price for that kind of peace could be a thousand years of darkness or generations yet unborn.)
Nhân đạo bị chấm dứt trong những quốc gia dưới chế độ cộng sản! Nhắc lại lời phát biểu của người tị nạn cộng sản Hungary để ứng dụng ngay trong đất nước Việt Nam! Nhiều vụ cộng sản bắt bớ bỏ tù, trù dập những nhà đấu tranh cho nhân quyền chỉ vì họ còn lương tâm làm người trước thảm trạng quốc biến gia vong.Thấm thía hơn khi nghe lại lời tuyên bố của thống đốc Reagan. Những người mang biểu ngữ, khẩu hiệu "hoà bình" chẳng qua là dấu hiệu cho sự tàn sát đẵm máu sau đó. Tổng thống Nixon đã có lần nói: Khi hai bên ký ngưng chiến có nghĩa là chúng ta ngưng (cease), còn cộng sản thì đánh (fire). Hoà bình rồi mà số nạn nhân chết dưới chế độ cộng sản còn cao gấp hai, gấp ba lần khi có chiến tranh! Chết vì vượt biên, chết vì bị bệnh và đói trong nhà lao, chết vì bệnh và thiếu ăn ngoài nhà tù lớn, bị xử tử v.v.. Những thành phần phản chiến lại im re khi nhìn những hiện tượng này, mặc dù trước đó họ xuống đường kêu gọi hoà bình, cho rằng rút quân chấm dứt chiến tranh là hết chết chóc.

Việt Nam đã có ngàn năm nô lệ Tàu. Hơn ba thập niên qua, dưới chế độ cộng sản, có thể là giai đoạn đầu của một thời kỳ dài tăm tối mà thống đốc Reagan đã tiên đoán chăng? Đã có hai thế hệ sống trong tăm tối sau lời phát biểu của ông. Lớp trẻ này không có quyền lựa chọn khi họ được sinh ra đời, nhưng có phải kết quả đó một phần là do thái độ của những người đi trước, mà chính ông Reagan đã bén nhạy nhận biết, trong khi ông cũng bất lực trước ván cờ. Ngay thời điểm này, những ai quan tâm về tình hình chính trị tại Việt Nam đều thấy rằng cái hoạ nô lệ Trung Cộng càng ngày càng rõ nét. Tập đoàn cộng sản tại Hà Nội là một phần tử của Trung Cộng, bị sự chỉ huy của Trung Cộng, ngoan ngoãn thi hành chính sách của Trung Cộng đề ra trên đất nước Việt Nam.

Bài học lịch sử từ lời tuyên bố của ông Reagan cho ta thấy kẻ đi trước có trách nhiệm với người sau, không thể phó thác cho dòng đời đến đâu thì đến. Quan trọng là sự hiểu biết, đi sâu vào tâm lý quần chúng, nhận ra sự thật khi xung quanh có quá nhiều "lộng giả thành chân." Mặc dù cho rằng vấn đề Việt Nam luôn còn là đề tài bàn cãi, phim "Vietnam Vietnam" cho người xem thấy rằng nó ra đời với mục đích nêu rõ âm mưu, thủ đoạn của người cộng sản, cái vô nhân bản trong chính sách, và sự lừa dối là chủ trương, cũng như dùng cứu cánh để biện minh cho phương tiện tàn bạo của họ. Hiểu ra như vậy để không lầm lẫn dễ tin theo những tuyên truyền hoa mỹ, để không bị sách động dễ dàng. Niềm tin con người nên đặt đúng chỗ, nhất là kinh nghiệm lịch sử bằng xương máu mà thế hệ cha anh đã để lại phải coi đó là thước đo lường. Người đi trước, ông Nguyễn Chí Thiện, đã trải qua kinh nghiệm dạn dày để nhận ra rằng:
Nếu nhân loại mọi người đều biết
Cộng sản là gì tự nó sẽ tan đi
Thứ sinh thành từ ấu trĩ ngu si
Sự hiểu biết sẽ là mồ huỷ diệt
Bút Sử
Mùa Quân Lực 19/6/2009
(You can buy "Vietnam A Retrospective" DVD on www.amazon.com)

*
* *
Đạo diễn John Ford
Phim đang phổ biến trên mạng tên "Vietnam! Vietnam" được cho là cuốn phim cuối cùng của nhà đạo diễn gạo cội hàng đầu của Hoa Kỳ John Ford (1894-1973), ông đoạt tất thảy 4 giải Oscars vào năm 1973 ông nhận giải AFI Life Achievement Award cùng năm Ford was awarded the Presidential Medal of Freedom by President Richard Nixon). Phim bắt đầu quay vài tháng sau cuộc tổng công kích Mậu Thân (1968) và cho đến khi cuộn phim được hoàn tất vào cuối năm 1971.

Vào lúc đó luật pháp liên bang của Hoa Kỳ ngăn cấm chuyện trình chiếu bất cứ một phim ảnh nào do Cơ quan Truyền Thông Hoa Kỳ (United States Information Agency), trong đó có phim "Việt Nam! Việt Nam!" Cho nên phim tài liệu cuối cùng của ông John Ford đã được khóa kín trong két sắt 27 năm trời cho đến khi luật pháp được thay đổi cho phép phim được chiếu cho công chúng xem.

Đây là một phim tài liệu rất có giá trị về sự thật của chiến tranh VN, với cái nhìn công bằng và khách quan của người Mỹ.

Nó cho thấy lý do mà Hoa Kỳ đổ quân vào VN vì thấy rõ ý đồ của Hà Nội là muốn xâm chiếm miền Nam bằng vũ lực với sự giúp đỡ của Trung cộng. Nó cho thấy hình ảnh gian ác của cộng sản VN bằng lời kể của viên phi công Mỹ ở buổi họp báo khi được trả tự do là ông bị đành đập và tra tần khi bị bắt và bị buộc phải nói láo là được Hà nội đối xữ tử tế.

Họ cho thấy hình ảnh nhân đạo của người lính Việt nam Cộng Hòa khi chăm sóc vết thương của các tù binh việt cộng, mà nói xin lổi, mặt mày coi rất hung ác và ngu dốt, không có vẽ vì là người có văn hóa hết so với hình ảnh của người lính miền Nam. Rồi họ còn cho thấy cả một làng bị việt cộng tàn sát, xác đàn bà trẻ con nằm ngổn ngang.

Rồi trong cảnh đám biểu tình chống chiến tranh ở Sài gòn do bọn phản chiến Mỹ và việt cộng nằm vùng tổ chức, thì có một người Hung Ga Ry nhào lại đám phóng viên truyền hình chưởi vào mặt bọn phản chiến như sau: ''Tụi bây là đồ ngu dốt mới làm chuyện này, bỡi vì tụi bây không biết gì về cộng sản hết. Mọi người dân miền Nam VN đáng được hường một huy chương vì đang đấu tranh chống bọn cộng sản, và cả mọi ngừơi Mỹ đang chiến đấu nữa''. Bọn biểu tình đứng chung quanh im ru không dám nói một lời.

Phần 2 nói về sự tranh luận của quốc hội HK và dư luận về có nên tiếp tục viện trợ cho miền Nam VN hay không? Thì có người nói chiến tranh VN là một cuộc chiến tranh không thể thắng được vì Mỹ không hiểu được người VN và nếu có thắng được HN thì liệu TC có để yên?

Tôi thích nhất lời nói nhân đạo của TT Regan là ''Liệu chúng ta có thể vẻ một lăn ranh giữa sinh mạng con người? Một sinh mạng là một sinh mạng, không thể nói 1 sinh mạng người Mỹ có thể thay thế 1000 sinh nạng người Việt'', khi ông muốn nói việc Mỹ muốn rút lui để tự quân đội miền Nam chống cộng sản. và phần kết luận là câu hỏi của lương tâm người Mỹ là ''Liệu miền Nam VN có thể chiến đấu để bảo vệ tự do sau khi HK rút quân khi mà những họng súng của CS trong miền Nam không bao giờ ngửng nổ''.

Nên nhớ cuốn phim này được thực hiện vào lúc Hoa Kỳ đang rút quân khỏi VN, và vì vậy đã bị bộ thông tin của MỸ cấm chiếu vì không muốn dân Mỹ thấy đây là một cuộc chiến thật sự chống chế độ cộng sản giửa HK và nhân dân miền Nam VN và cộng sản bắc Việt, vì đã lở nói xa lầy rồi...

Vì vậy không thể nói đây là phim tuyên truyền láo khoét giồng như những phim của các chế độ cs.

Source: http://vimeo.com/3177499

Canada: NGÀY 19 THÁNG 6 NĂM 2009

Image

Image

Image

Image

Sự thật về vụ án Luật sư Lê Công Định - Hoàng Duy Hùng

Hoàng Duy Hùng

Trung tuần tháng 6/2009, trường hợp Việt Nam, báo chí trong và ngoài nước chú ý việc nhà cầm quyền CSVN bắt giam 5 người đó là ông Trần Huỳnh Duy Thức (bút hiệu Trần Đông Chấn), luật sư Lê Công Định, ông Lê Thăng Long, cô Lê Thị Thu Thu và Trần Thị Thu. Việc bắt giữ 5 người này, nhất là luật sư Lê Công Định, đã tạo một làn sóng phản kháng từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cho đến các sinh viên Việt Nam ở trong nước. Sau hơn 34 năm cưỡng chiếm được toàn thể đất nước, có lẽ đây là hiện tượng hiếm hoi mà ĐCSVN phải đối phó.

Đứng trước sự phản kháng quy mô này, ngày 18/6/2009, tức là chỉ 5 ngày sau khi mở chiến dịch bắt giam, Trung Tướng phó cục trưởng Tổng Cục An Ninh CSVN Lê Hải Triều công bố với báo chí Ls. Lê Công Định “đã cúi đầu nhận tội và xin nhà nước khoan hồng.” Tổng Cục An Ninh CSVN cho phổ biến video clip trên mạng với những lời đọc của Ls. Lê Công Định và chữ viết “nhận lỗi và xin khoan hồng.” Nhưng nhiều người tin rằng “vụ án” không ngừng tại đó vì còn có nhiều uẩn khuất đàng trong mà cả ĐCSVN và phía luật sư Lê Công Định chưa muốn bạch hóa. Vậy, sự thật của “vụ án” này như thế nào?

I. Hiện Tượng

Trước khi bắt giam những người nêu trên, dư luận tố cáo Thủ Tướng CSVN nhận 150 triệu Mỹ Kim của Bắc Kinh, và dầu cho cả nước phản đối, Nguyễn Tấn Dũng vẫn để cho Trung Cộng khai thác mỏ Bauxite ở Đắc Nông với lời tuyên bố chắc nịch: “Khai thác Bauxite là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà Nước.”

Hành vi này của Nguyễn Tấn Dũng nhắc nhở nhiều người nhớ lại tuồng tích của Lê Khả Phiêu, vào năm 2000, với tư cách Tổng Bí Thư ĐCSVN, đã nhận khoảng 2 tỷ Mỹ Kim cùng với việc ăn ở với cô Trương Mỹ Linh để nhắm mắt ký vào 2 hiệp ước bán nước Phân Định Biên Giới và Phân Chia Lãnh Hải. Hai Hiệp Ước này làm cho Việt Nam mất đi khoảng hơn 700 km2 ở biên giới 6 tỉnh Việt – Hoa và khoảng 15,000 km2 lãnh hải ở Vịnh Bắc Bộ. Và, người ta cũng không quên năm 1958 Phạm Văn Đồng cũng đã ký văn bản nhượng đứt 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung Cộng để CSVN có sự giúp đỡ vũ khí của Bắc Kinh tấn công Nam Việt Nam.

Biển Đông và phía bắc Việt Nam đã bị Trung Cộng khống chế hoàn toàn, nay lại thêm xương sườn Tây Nguyên bị Bắc Kinh cấy sinh tử phù nên những người trẻ trí thức trong nước trăn trở quyết tâm tìm ra một phương pháp mới trong đấu tranh. Luật sư Cù Huy Hà Vũ ở Hà Nội lập kế hoạch đưa Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng ra tòa về vịệc vi phạm Hiến Pháp CHXHCNVN và luật sư Lê Công Định dự định nộp hồ sơ kiện Trung Cộng ở Tòa Án Quốc Tế.

Trung Cộng và Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng không thể tha cho những người yêu nước can đảm này, họ mở chiến dịch triệt hạ. Họ bắt giam nhóm của luật sư Lê Công Định trước vì nhóm này đụng trực tiếp đến Trung Cộng, và họ đang chuẩn bị ráo riết để bắt giam nhóm của luật sư Cù Huy Hà Vũ.

II. Lê Công Định, Ông Là Ai?

Ngày 13/6/2009, ĐCSVN phải cử một vị Trung Tướng Tổng Cục Phó An Ninh đi cùng với nhiều công an mặc đồ dân sự đến bắt luật sư Lê Công Định cho thấy nội vụ của vụ án và “tầm vóc” của luật sư Lê Công Định ở trong và ngoài nước. Sau khi bắt giam ông, CSVN tung ra một bản tin lý lịch của luật sư Lê Công Định. Hư thật lý lịch này như thế nào?

Theo tin tức 13/6 của công an CSVN, luật sư Lê Công Định là đảng viên Đảng Dân Chủ do ông Hoàng Minh Chính tái sinh hoạt lại năm 2006. Công an không nêu rõ ông Trần Huỳnh Duy Thức có phải là đảng viên của Đảng Dân Chủ hay không.

Công an CSVN công bố ông Trần Huỳnh Duy Thức, một trung niên, đã từng viết những tài liệu học tập với bút danh Trần Đông Chấn. Bút danh Trần Đông Chấn cho thấy có sự liên hệ chặt chẽ với những viên chức trong Bộ Chính Trị CSVN. Công an không nói rõ, nhưng ai cũng đoán ra có một hay vài nhân vật trong Bộ Chính Trị ĐCSVN âm thầm hỗ trợ cho việc làm của nhóm Luật Sư Lê Công Định và ông Trần Huỳnh Duy Thức. Có phải họ đã học được bài học của Trần Xuân Bách ở Việt Nam vào cuối thập niên 1980s hoặc vụ Tổng Bí Thư Triệu Tử Dương của Trung Cộng nên kỳ này họ khéo léo tinh vi hơn nhiều? Họ là ai? Rõ ràng họ không phải là Nguyễn Tấn Dũng và Nông Đức Mạnh. Nông Đức Mạnh và Nguyễn Tấn Dũng đang đối đầu với một thế lực ngay trong Bộ Chính Trị mà bề nổi có nhóm của Luật sư Lê Công Định và Trần Huỳnh Duy Thức.

Theo tin của công an CSVN, Luật sư Lê Công Định sinh năm 1968, năm nay 42 tuổi, đã từng du học ở Hoa Kỳ, đã tiếp xúc với nhiều luật sư và các vị dân cử nước ngoài, và tổ hợp của ông rất thành công ở Việt Nam, lợi tức hàng năm cả triệu Mỹ Kim. Ls. Lê Công Định đã từng đại diện cho các vị luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân trong vụ án đấu tranh cho tự do và dân chủ. Vợ của luật sư Lê Công Định là cựu hoa hậu Nguyễn Ngọc Khánh. Nói chung, luật sư Lê Công Định và nhóm của ông là những người trẻ thành công.

Cũng theo bản tin này, sau khi ông Hoàng Minh Chính qua đời năm 2008, hiện nay Đảng Dân Chủ được điều động bởi ông Nguyễn Sĩ Bình ở Bắc California với bí danh là “chị Hai,” ông Trần Huỳnh Duy Thức với bí danh là “chị Ba” và luật sư Lê Công Định có bí danh “chị Tư.” Công an CSVN cũng loan tin những vị này ở trong Ban Thường Vụ của Đảng Dân Chủ, nhưng không nói rõ Đảng Dân Chủ có bao nhiêu người trong Ban Thường Vụ cũng như bao nhiêu thành viên ở trong và ngoài nước.

Một điểm khá mơ hồ trong bản tin của công an là họ nhắc nhở đến ông Nguyễn Sĩ Bình và bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi với tư cách là sáng lập viên lãnh đạo Đảng Nhân Dân Hành Động và họ xào trộn chung Đảng Nhân Dân Hành Động với Đảng Dân Chủ. Đài BBC loan tin khi truy cập trang nhà của Đảng Nhân Dân Hành Động thì đã biết hai ông Nguyễn Sĩ Bình và bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi không còn sinh hoạt trong Đảng Nhân Dân Hành Động nữa, mà chỉ còn sinh hoạt trong Đảng Dân Chủ, và hai ông lúc nào cũng hỗ trợ cho Con Đường Việt Nam mà Đảng Nhân Dân Hành Động theo đuổi.

Công an CSVN có biết việc này hay không? Chắc chắn họ đã nắm vững nhưng vẫn tung tin hỏa mù lập lờ biến Đảng Nhân Dân Hành Động là một với Đảng Dân Chủ để cố tình gây phân hóa nội bộ trong Đảng Dân Chủ. Lý do đơn giản, sau khi ông Hoàng Minh Chính tái lập sinh hoạt Đảng Dân Chủ, nhiều cá nhân và một số thành viên của các tổ chức đấu tranh tham gia vô Đảng Dân Chủ, trong đó có cả ông Nguyễn Sĩ Bình và bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi. Công an tung tin những người như ông Nguyễn Sĩ Bình đã từng lãnh đạo Đảng Nhân Dân Hành Động nay lại lãnh đạo Đảng Dân Chủ để gây sự hoang mang tạo hiểu lầm trong Đảng Dân Chủ đó là Đảng Nhân Dân Hành Động thao túng Đảng Dân Chủ.

Như thế, ông Trần Huỳnh Duy Thức, Luật Sư Lê Công Định và nhóm của hai ông không phải là thành viên của Đảng Nhân Dân Hành Động. Mới đây, luật sư Nguyễn Tường Bá, quyền chủ tịch Đảng Nhân Dân Hành Động ra một bản lên tiếng Đảng Nhân Dân Hành Động và Đảng Dân Chủ là hai thực thể khác nhau, và luật sư Lê Công Định không phải là thành viên của Đảng Nhân Dân Hành Động.

Ban Thường Vụ Đảng Dân Chủ cũng ra một Bản Lên Tiếng xác nhận đảng tịch của luật sư Lê Công Định. Họ còn tuyên bố công khai mở văn phòng Đảng Dân Chủ ở trong nước để chuyển biến thế đấu tranh trực diện với Đảng Cộng Sản, và ở Hà Nội, ông Trần Anh Kim, một cựu Trung Tá của Quân Đội Nhân Dân đã rời bỏ khỏi ĐCSVN và đã gia nhập Đảng Dân Chủ, được đề cử làm Phó Tổng Thư Ký sẽ điều hợp văn phòng của Đảng Dân Chủ tại nơi này.

Cũng chính trong bản tin ngày 13/6 và các bản tin sau này, công an CSVN lại công bố hai ông Trần Huỳnh Duy Thức và Luật Sư Lê Công Định thành lập hai đảng đối lập là Đảng Xã Hội và Đảng Lao Động và đang lãnh đạo hai đảng này. Đảng Lao Động chính là danh xưng của Đảng Cộng Sản Việt Nam trước năm 1976, và Đảng Xã Hội là một đảng ngoại vi được Đảng Cộng Sản cho phép hoạt động ở những thập niên 1940s-1980s.

Công an cho rằng hai ông Trần Huỳnh Duy Thức và luật sư Lê Công Định đang hoạt động lật đổ nhà nước vi phạm điều 88 Hiến Pháp CHXHCNVN với một hình thức tinh vi hơn, tìm cách xé ĐCSVN ra 2 hoặc 3 mảnh một cách “ngôn thuận.” Lý do, nhiều đảng viên CSVN bất mãn với đảng, có những đảng viên cao cấp và có thể ngay trong Bộ Chính Trị, họ không thể xé rào nhảy qua bên phía người Quốc Gia chống lại đảng của họ thì nay có những đảng đã từng là cật ruột hay họ hàng với họ thì họ an tâm vào để có tiếng nói. Công an CSVN cho rằng hình thức bám trụ đấu tranh lấn sân giành đất này của nhóm luật sư Lê Công Định và ông Trần Huỳnh Duy Thức còn nguy hiểm cho ĐCSVN hơn là hình thức đấu tranh của những đảng phái Quốc Gia, nhất là những tổ chức ở hải ngoại. Công an CSVN không muốn có một Gorbachev, một Boris Yeltsin, hay một Triệu Tử Dương ở Việt Nam .

Thế nhưng công an CSVN lại lúng túng khi viết “thế lực nước ngoài” vì họ không thể định nghĩa nổi ai là “thế lực nước ngoài.” Cách viết của họ không coi nặng các tổ chức người Quốc Gia, nhưng họ nói xa nói gần để ám chỉ CIA đứng đàng sau luật sư Lê Công Định vì ông đã từng tham gia những khóa huấn luyện do các tổ chức phi chính phủ (non-governmental organizations viết tắt là NGO) huấn luyện ở Mỹ. Ai cũng hiểu nhiều tổ chức NGOs hoạt động cho tình báo của quốc gia họ.

Đây có phải là một đòn cân não của công an CSVN để tìm ra hư thực luật sư Lê Công Định và nhóm của ông được tình báo Hoa Kỳ hỗ trợ đàng sau?

Đã nói đến tình báo, nhất là những tình báo viên chiến lược, thì vấn đề bí mật là tối hậu, sau khi xuống tuyền đài nhiều năm tháng rồi cũng chưa chắc được bạch hóa. Nhưng có những hiện tượng để mọi người cân nhắc. Sau khi Ls. Lê Công Định và nhóm của ông bị bắt, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, từ Ngoại Trưởng Hilary Clinton cho đến Đại Sứ Michael Michalak, từ Dân Biểu Liên Bang Lorretta Sanchez đến Human Rights Watch, nhanh chóng lên tiếng phản đối và yêu cầu trả tự do. Khó mà có một nhân vật thứ hai được sự quan tâm nhanh chóng và rầm rộ như vậy.

Sau 5 ngày bắt giam Luật Sư Lê Công Định, công an CSVN tung ra bản tin có những điểm mâu thuẫn với kỳ trước nói rằng Luật Sư Lê Công Định là thành viên của Đảng Việt Tân, đã qua bên Thái Lan vào tháng 3 năm 2009 để Đảng Việt Tân huấn luyện khóa đấu tranh bất bạo động!!!

Đã nói Việt Tân huấn luyện đấu tranh bất bạo động mà lại kết tội Việt Tân là đảng khủng bố thì độc giả ôm bụng phì cười!!

Kỳ này Đảng Việt Tân cũng rất sòng phẳng, phát ngôn viên Đảng Việt Tân là ông Hoàng Tứ Duy và Tổng Bí Thư Lý Thái Hùng tuyên bố như đinh đóng cột Đảng Việt Tân hỗ trợ cho các tổ chức và cá nhân đấu tranh cho tự do và dân chủ, nhưng trường hợp của luật sư Lê Công Định thì ông ấy không phải là thành viên của Đảng Việt Tân.

Vậy mà công an CSVN vẫn dày mặt không chịu đính chính. điều đó cho độc giả nhìn ra cuộc đấu đá ở hậu trường chính trị giữa những vị trong Bộ Chính Trị ĐCSVN đỡ đầu cho ông Trần Huynh Duy Thức và Luật Sư Lê Công Định đã tới hồi khá gây gắt và kịch liệt, cả hai đã đi đến một sự thỏa thuận, và sự thỏa thuận đó là mang Đảng Việt Tân ra để làm chiêu bài hưu chiến giữa họ với nhau.

III. Chiêu Bài Vi Phạm Điều 88 Luật Hình Sự Không Ăn Khách
Cụ Sào Nam Phan Bội Châu
Sống

Sống tủi làm chi đứng chật trời?
Sống nhìn thế giới hổ chẳng ai?
Sống làm nô lệ cho người khiến?
Sống chịu ngu si để chúng cười!
Sống tưởng công danh không tưởng nước!
Sống lo phú quý chẳng lo đời.
Sống mà như thế đừng nên sống!
Sống tủi làm chi đứng chật trời.

Chết

Chết mà vì nước, chết vì dân.
Chết đấng nam nhi trả nợ trần.
Chết buổi Đông Chu hồn thất quốc,
Chết như Tây Hán lúc Tam Phân.
Chết như Hưng Đạo hồn thành thánh,
Chết tựa Trưng Vương, phách hóa thần.
Chết cụ Tây Hồ danh chẳng chết,
Chết mà vì nước, chết vì dân.

Phan Bội Châu
Trong những năm qua, con số những người trẻ trưởng thành trong cái gọi là XHCN Việt Nam ngày càng tham gia vô cao trào đấu tranh cho tự do và dân chủ. Họ là những người mà cụ Sào Nam Phan Bội Châu đã mô tả.

Đã mấy chục năm nay, mỗi lần bắt giam một vụ án chính trị, ĐCSVN gán ghép cho những người đứng lên đấu tranh cho tự do & dân chủ là âm mưu lật đổ nhà nước CHXHCNVN. Những người trẻ trưởng thành trong chế độ này, họ xoay chuyển một cách khéo léo, họ “lách” trong đấu tranh để khi bắt họ, chính công an CSVN là người vi phạm luật pháp của ngay cái gọi là CHXHCNVN hơn là chính những người đấu tranh. Đây là một hình thức đấu tranh mới mà Hoa Kỳ hỗ trợ hết mình. Có lẽ hình thức này còn xa lạ hoặc có nhiều ngộ nhận với những người Quốc Gia. Thật ra sách lược này cổ nhân của chúng ta đã có, đó là tựa gió bẻ măng, gậy ông đập lưng ông, hoặc nửa lượng đẩy ngàn cân.

Điều 4 cái gọi là Hiến Pháp CHXHCNVN quy định ĐCSVN là đảng lãnh đạo duy nhất của đất nước. Nhưng, trên giấy trắng mực đen, điều này không cấm đoán những người khác lập đảng, lập hội, hoặc tham gia vô đảng hay vô hội. Trên giấy trắng mực đen, điều này cũng không cấm đoán những cá nhân hoặc tổ chức phê phán “cái gọi là sự lãnh đạo của ĐCSVN.” Điều này cũng không cấm đoán nay mai toàn dân Việt Nam có quyền bỏ phiếu thay đổi hoặc tu chính điều này. Nhất là, từ điều 1 đến điều 3 của Hiến Pháp này cho phép công dân Việt Nam có quyền lên tiếng để bảo toàn chủ quyền lãnh thổ.

Nếu điều 4 không cấm đoán việc lập đảng, lập hội, hoặc phê phán những việc làm của ĐCSVN thì bất cứ những ai lập đảng, tổ chức, hội, hoặc tham gia vô các tổ chức này đều không vi hiến. Đặc biệt, khi họ bày tỏ quan điểm về chủ quyền lãnh thổ theo như các điều 1-3 của Hiến Pháp đó thì họ đang biểu dương lòng yêu nước và kỷ luật, và nếu ĐCSVN và công an bắt giam họ thì chính ĐCSVN và công an là những kẻ chà đạp cái gọi là hiến pháp mà họ công bố, càng lột trần bộ mặt của ĐCSVN là một tổ chức bịp bợm không tôn trọng ngay chính luật pháp mà họ ban hành.!

Nếu Điều 4 Hiến Pháp CHXHCNVN không ngăn cấm việc thành lập và tham gia các tổ chức chính trị cũng như góp tiếng nói về chủ quyền Quốc Gia thì tất nhiên Điều 88 Bộ Luật Hình Sự không thể áp dụng cho những người đấu tranh bất bạo động để xây dựng một nước Việt có tự do và dân chủ. Như thế, kẻ đáng bị ra lệnh truy bắt khẩn cấp chính là Nông Đức Mạnh và Nguyễn Tấn Dũng vì đã âm mưu gây sự thiệt hại của chủ quyền Quốc Gia vi phạm ngay chính Hiến Pháp của cái gọi là CHXHCNVN.

Luật sư Cù Huy Hà Vũ ở Hà Nội nộp hồ sơ kiện Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng là đúng, và luật sư Lê Công Định kiện Trung Cộng xâm phạm chủ quyền Việt nam là hoàn toàn đúng với Luật Quốc Tế và ngay cả luật của CSVN.

IV. Hãy Bắt Tôi Đi

Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, người đã từng lên trên trang nhà của Đại Sứ Hoa Kỳ dịch tác phẩm Dân Chủ Là Gì từ tiếng Anh sang tiếng Việt và đã bị CSVN bắt giam vài năm trời, sau khi nghe công an bắt Luật Sư Lê Công Định, ông viết một bài hùng ca ngắn gọn và kết luận công an CSVN nếu muốn thì cứ bắt ông đi vì dân tộc Việt Nam không thể nào cúi mình ươn hèn nhục nhã như thế nữa để cho Trung Cộng cỡi đầu cỡi cổ xâm lấn chủ quyền Quốc Gia.

Hầu như tất cả những nhà đấu tranh cho tự do dân chủ đều có đồng quan điểm như vậy với bác sĩ Phạm Hồng Sơn. Điều đáng khích lệ vô cùng đó là quá nhiều sinh viên ở Đại Học đã lên tiếng ủng hộ cho luật sư Lê Công Định và như bác sĩ Phạm Hồng Sơn, họ sẵn sàng bị bắt để bảo toàn chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Thế hệ trẻ lớn lên sau năm 1975 đã nhập cuộc, lòng dân đã chuyển, và chính thế hệ này là “đối tượng” kinh hoàng nhất cho sự độc tôn của ĐCSVN.

V. Nhận Tội - Trò Cười Cho Các Nước Văn Minh


Ngày 18/6, công an CSVN đưa các clip trên mạng lời đọc nhận tội của Luật Sư Lê Công Định. Ai mà không biết công an đã phải hù dọa vợ con, gia đình, thân nhân của luật sư Lê Công Định! Thêm vào đó, một luật sư đang hành nghề, có nhiều thân chủ nước ngoài, nếu không trở về hành nghề kịp thì có thể bị các hãng nộp hồ sơ kiện vi phạm hợp đồng, phải trả lại hàng chục triệu Mỹ Kim. Có thể vì trước nhiều áp lực, Luật Sư Lê Công Định quyết định “bảo toàn lực lượng” để nhận tội.

Nhưng cũng chưa chắc, vì đàng sau luật sư Lê Công Định còn là sự tranh chấp của các vị trong Bộ Chính Trị, và biết đâu luật sư Lê Công Định muốn “ngưng” tại đây để khỏi “bứt mây động rừng” ngõ hầu cường độ biến chuyển của những ngày tháng tới sẽ còn mạnh hơn nhiều!!!

Những vị đã từng bị CSVN bắt giam, nhất là các vị HO, đều biết rằng cái gọi là nhận tội trong nhà tù CSVN chỉ là một trò hề.

Theo luật, nhận tội chỉ có hiệu lực khi người ta không bị áp lực. Trong nhà tù CSVN có quá nhiều áp lực từ tinh thần cho đến thể xác thì chuyện nhận tội chỉ là một trò trơ trẽn của công an CSVN mà thôi.

Lời Kết

Phát biểu trong Lễ Tang Yên Bái ở Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Houston & Phụ Cận, tôi quảng diễn ý tưởng của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học “không thành công cũng thành nhân” như sau:

“Không ai ban cho chúng ta chính nghĩa, chính nghĩa tự trong lòng mỗi người. Đó chính là chính khí Việt. Tôi đã từng tâm sự với các anh em, đi đấu tranh mà được người ta ca ngợi là có lòng yêu nước thì còn dễ. Đi đấu tranh mà bị người ta dựng chuyện vu khống là tay sai Cộng Sản, là gian ác cũng như mọi thứ tồi tệ nhất trên đời, mình vẫn đấu tranh vì biết chính nghĩa ở đâu, vì biết chính khí lửa Việt thắp trong lòng mình thì đó mới là đi đấu tranh thiệt. Vàng thật không sợ lửa thì những người con yêu của Mẹ Việt Nam quyết đấu tranh cho tự do dân chủ không được chùn bước trước bất kỳ cản trở nào.

Người ta hỏi tôi Lễ Tang Yên Bái thường có ý nghĩa riêng cho Việt Nam Quốc Dân Đảng thì tại sao Cộng Đồng lại đứng ra cùng chung tổ chức. Tôi trả lời những vị hy sinh cho Tổ Quốc và Mẹ Việt Nam không phải cho riêng gia đình và tổ chức của họ, mà là cho cả chung dân tộc Việt Nam thì mọi con dân Việt Nam phải có bổn phận ghi nhớ và tạ ơn họ. Nhà cách mạng Nguyễn Thái Học và các liệt sĩ Yên Bái đấu tranh chống lại thực dân Pháp không phải cho riêng Việt Nam Quốc Dân Đảng mà cho toàn dân tộc Việt Nam.

Cũng thế, những nhà cách mạng khác như cụ Phan Chu Trinh, cụ Phan Bội Châu, ông Trương Tử Anh, Lý Đông A, v.v... họ đã mở ra trang sử cho dân tộc Việt Nam thì chúng ta có bổn phận tưởng nhớ và ghi ơn họ. Ngũ đại tướng Việt Nam Cộng Hòa tuẫn tiết năm 1975 không phải cho riêng gia đình và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mà toàn dân Việt Nam, Cộng Đồng phải tưởng niệm và ghi công họ.

Tương tự, những người trẻ trong nước đang dấn thân đấu tranh cho tự do dân chủ như luật sư Lê Công Định, Ls. Nguyễn Văn Đài, Ls. Lê Thị Công Nhân, Ls. Lê Chí Quang, Ls. Cù Huy Hà Vũ, ký giả Trương Minh Đức, Lm. Nguyễn Văn Lý, bác sĩ Phạm Hồng Sơn, v.v, chúng ta phải hỗ trợ họ hết mình vì họ là những chiến sĩ đang xông pha tiền tuyến cho tương lai của một nước Việt thịnh trị tươi sáng trong cơ chế dân chủ và tự do.

Những biến chuyển từ xưa đến giờ cho thấy dân tộc Việt là dân tộc yêu chuộng hòa bình nhưng kiên tâm trong tự do, dân chủ, và công bằng. Có nhiều con sông và con suối nhưng tất cả đều đổ ra biển cả. Có nhiều phương thức và con đường đấu tranh, nhưng tất cả chỉ nhằm đến mục tiêu thịnh trị, thái bình, dân chủ và tự do cho dân tộc Việt Nam.

Xin mỗi người một bàn tay giúp đỡ để cho con đường đấu tranh sớm được thành công.

Houston ngày 21/6/2009
Hoàng Duy Hùng