Friday, June 19, 2009

Gửi Súng Cho Tao - Nguyễn Cung Thương



Gửi Súng Cho Tao
Nguyễn Cung Thương

Tao cụt một chân một tay
Nhưng còn một tay
Viết thư giùm cho thằng mù hai mắt
Nghe nói ở xứ người chúng mày "cày" như trâu
Nhưng không quên đồng đội
Chia đôla cho chúng tao, như chia máu ngày nào
Tao cũng sớt cho mấy thằng bạn: phế binh Việt Cộng!
Chúng cũng què đui sứt mẻ như nhau
Bởi đảng của chúng bây giờ là lũ đầu trâu...
Có điều tao không thể hiểu
Bao nhiêu năm qua
Chúng mày cứ mãi dặn dò
Thế giới văn minh, đừng làm gì bạo động
Liệu chúng mày có thể hoà hợp được không
Với lũ kênh kênh hổ báo?
Những con thú cực kỳ giàu có
Mang " thẻ đỏ , tim đen "
Nợ Nga, sợ Tầu, lạy Mỹ
Với quan thầy cung cúc tận tụy
Quay về đàn áp dân đen
Chúng đóng đinh Jesus lần nữa
Bịt Miệng Cha, trói Phật, nhốt Sư quản lý chùa
Chúng tao lết lê trên thành phố Cáo Hồ
Nên biết rõ từng tên đại ác
Trên bàn tiệc máu xương dân tộc
Nhà hàng nào chúng cũng ăn nhậu
Bé gái nào cũng bị chúng mua trinh!
Chúng ta sẽ tỉa từng thằng
Đất nước cần nhiều "quốc táng"
Bớt được mạng thằng Cộng Sản nào
Thì địa ngục xã hội chủ nghĩa này
Còn có chút sáng láng hơn
Hãy gửi tiền cho những nhà tu
Để họ mở cửa nhà tù
Còn chúng tao là chiến sĩ
Hãy gửi về cho chúng tao vũ khí
Thằng cụt tay sẽ chỉ cho thằng mù mắt bấm cò
Thằng còn chân sẽ cõng thằng què quặt
Trận chiến sau cùng này sẽ không có Dương Văn Minh!

Nguyễn Cung Thương
Sàigòn, VN



Hữu Loan Và Bài Thơ Màu Tím Hoa Sim - Hữu Loan

Hữu Loan (tự thuật)

Hữu Loan và vợ
Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người.

Lên trung học, theo ban thành chung, tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938, lúc đó cũng đã 22 tuổi, tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện và ... Tôi - Nguyễn Hữu Loan.

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.

Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: 'Em chào thầy ạ' chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một 'bà cụ non'. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt ...

Có lần tôi kể chuyện 'bà cụ non' ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền em nằm lì trong buồn trong, không chịu học hành ... Một hôm, bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ ... Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: 'mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu' Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi .....

Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi:

- Thầy có thích ăn sim không ?

Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt qúa nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ ... Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim.
Những quả sim đen láy chín mọng.

- Thầy ăn đi.

Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ: “Ngọt qúa.”

Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, qủa sim đối với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những qủa sim ngọt đến thế! Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác.Tôi nhìn em, em cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì ... tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi ... Tôi quay đầu nhìn lại ... em vẫn đứng yên đó ... Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa ...

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ .....

Chín năm sau, tôi trở lại nhà, về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẻn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp ...

Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sơ,ï vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm 'soạn kịch bản'.
Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: 'yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả'. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay... lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!

Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ giờ em không còn cô bé Ninh nữa, mà là người bạn đời yêu qúy của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại ... Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mát thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.

Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn( thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi.

Tôi phải giấu kính nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn. Dường như càng kèm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh
Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như yêu người em gái.
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh bết bùn
Đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo

Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê ......
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương.
Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phúp cuối
Không được nghe nhau nói
Không được nhìn nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa.
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa. Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.

Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 02-04-1916 hiện tại đang 'ở nhà trông vườn' ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi gọi là chỗ 'quê đẻ của tôi đấy' thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay, nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu:
Chiều hành quân, qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biếc
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi' hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi'. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi qúa! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ qúa rồi!

Đó là thời năm 1955 - 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng. Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông. Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động.. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?

Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu qúy, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi. Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.

Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mết chuộng sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!

Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954-1955.

Lúc đó còn là chính trị viên của tiểu đoàn, tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản qúa, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền.

Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn ,nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Thế rồi, một hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.

Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ, nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.

Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Qúa xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi ; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.

Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.

Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no. Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con - 6 trai, 4 gái- và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!

Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ. Thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm ra nhập làm gì. Năm 1988, tôi 'tái xuất giang hồ' sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực sự.

Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia 'lộc' cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.

Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.

Hữu Loan (tự thuật)

Vụ thảm sát Tết Mậu Thân năm 1968 - Huy Phương

*** Đây là bài tạp ghi của nhà văn Huy Phương, tác giả của nhiều bài tùy bút và phóng sự chiến trường, về cuộc thảm sát vô cùng tàn bạo và tán tận lương tâm của Cộng sản mà người dân xứ Huế phải gánh chịu trong những ngày đầu Xuân Tết Mậu Thân năm 1968. Xin được nghiêng mình tưởng niệm!!

Huy Phương

Vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968, Phan Văn Tuấn là một thiếu niên ở tuổi 16, đang học lớp Đệ Tam, trường tư thục Nguyễn Du, Gia Hội Huế, nhà ở khu Chợ Xép, sát cửa Đông Ba. Rạng sáng ngày mồng hai Tết, anh cũng như toàn thể dân chúng thành phố Huế nghe nhiều tiếng nổ chát chúa liên hồi, tiếng đạn pháo kích vào thành phố và tiếng súng giao tranh càng ngày càng nhiều.

Lúc đầu, họ chợt choàng tỉnh dậy và tưởng như nghe tiếng pháo mừng Xuân của ai đó chợt nổ giữa khuya, nhưng sau đó vài phút, trưởng thành trong chiến tranh, người dân đều biết rằng thành phố đang bị tấn công và những cuộc giao tranh đang xẩy ra, bây giờ đang ở ngay trong thành phố.

Tất cả đều xuống hầm trú ẩn hoặc ẩn nấp sát dưới sàn nhà, được che chở bởi những chiếc giường hay những chiếc "phản ngựa" bằng gỗ, và lo lắng theo dõi động tĩnh, từ đó cho đến sáng với niềm lo âu, giữa tiếng súng lớn nhỏ khi dồn dập khi thưa thớt trải dài trong đêm tối, giữa một đêm Huế Mùa Xuân khá lạnh. VC phản bội lệnh hưu chiến để đem quân tấn công nhiều thành phố và thị trấn miền Nam.

Vào tờ mờ sáng, từng đoàn dân chúng từ phía ngoài hớt hải chạy vào thành nội theo ngõ cửa Đông Ba và loan tin VC đã về thành phố, ít lâu sau những toán VC khác đã hiện diện trong vùng của Phan Văn Tuấn. VC có hai thành phần, theo trang bị, cán bộ với dép râu, nón cối, quần dài màu olive, áo sơ mi trắng, đeo xắc cột và mang K.54, đứng tuổi. Binh lính VC với đầu trần hay nón tai bèo, dép râu, hầu hết mặc quần ngắn, áo đủ loại, mang ba lô, trang bị AK 47, lựu đạn, bộc phá.

Ngay trưa mồng hai Tết, Phan Văn Tuấn chạy theo đám trẻ, chứng kiến cảnh xử bắn năm người dân tại ngay cửa Đông Ba, nạn nhân bị trói tay, đứng dựa lưng vào vách thành. Trong số thường dân này, có người đang mặc áo quần ngủ, có người còn đi chân đất, Phan Văn Tuấn chỉ nhận ra một người quen, đó là một viên chức cảnh sát trong thành phố đã về hưu. Chỉ huy toán võ trang và ban lệnh hành quyết năm người dân này là ông thầy dạy Việt Văn trước đây của Phan Văn Tuấn tại trường Nguyễn Du: Tôn Thất Dương Tiềm. Năm người bị bắn phơi xác giữa trời nắng, đầy kiến, ruồi và mãi mấy hôm sau gia đình mới lén lút mang về chôn cất.

Ba ngày sau, khi phi cơ của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Đồng Minh bắt đầu can thiệp bắn vào các mục tiêu của CS, thì gia đình Phan Văn Tuấn quyết định chạy về phía đồn Mang Cá tức là Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Họ tránh đi theo các con đường lớn và đi băng qua những khu vườn nhà dân, nhưng đến giữa đường thì bị VC chặn lại, Phan Văn Tuấn bị tách khỏi gia đình và bị bắt dẫn đi cùng với một toán thiếu niên khác khoảng 10 người trở lại vùng chiếm đóng của VC tại chùa Diệu Đế, Gia Hội.

Toán thiếu niên này, dưới sự canh gác cẩn mật của những tên lính VC, tuổi cũng còn rất nhỏ, được dùng trong việc khiêng vác những nhu yếu phẩm như gạo, nước mắm, mì gói từ các hiệu buôn trong thành phố về bộ chỉ huy. Năm ngày sau, toán dân công thiếu niên của Phan Văn Tuấn, vào mỗi đêm, được lệnh mang cuốc đi đào những giao thông hào trong vùng Gia Hội. Toán thiếu niên này đứng theo chiều dọc, đào những chiếc hố bề ngang khoảng hai thước, bề sâu một thước.

Thoạt đầu Phan Văn Tuấn nghĩ đây chỉ là những công sự cho bộ đội VC tránh bom đạn trong thời gian VNCH bắt đầu phản công chiếm lại Huế, nhưng đến đêm giữa ánh đèn chập chờn, VC bắt đầu dẫn ở đâu về từng toán người, cũng như năm người bị giết trong những ngày đầu tại cửa Đông Ba, đều mặc thường phục, có người mang dép, có người đi chân đất. Tất cả đều bị trói tay quặt ra sau lưng và được cột nối liền với nhau như những xâu người bằng những sợi dây điện thoại, dây kẽm hay lạt tre.

Phan Văn Tuấn bắt đầu kinh hoàng khi thấy bọn lính VC, giọng miền Bắc, ra lệnh cho hàng người đứng sát và xoay lưng về phía giao thông hào. Một tên cán bộ bắt đầu đọc bản án tử hình, đại khái cho rằng những người này là "phản bội tổ quốc, phản bội nhân dân". Sau một cái khoát tay, một tràng AK chát chúa nổ, nhưng VC chỉ nhắm bắn vào người đứng ở đầu hàng, trước sức mạnh của loạt đạn bắn gần, ông già bị hất ngửa ra, chới với trong mấy giây và lăn xuống hố. Sức nặng kéo theo người bên cạnh, người tiếp theo cũng đổ nhào, và cứ như thế kéo theo những người khác, tất cả đều ngã xuống giao thông hào.

Giữa tiếng la khóc, van xin, não lòng vang cả một góc trời, bọn VC bắt đầu thúc giục đám dân công của Phan VănTuấn: "Nấp, nấp nhanh lên, nhanh lên! Địt mẹ, nhanh lên!"

Tiếng báng súng AK giọng vào vai, vào đầu, khi toán đào hố ngần ngừ, chậm tay. Phan Văn Tuấn sững sờ, một lưỡi lê đâm sát vào sườn, máu chảy đầm vạt áo. "Nấp đi mày!!". Tiếng khóc la, những cái đầu muốn ngẩng cao hơn, những cái miệng đầy đất cát, nhưng đôi mắt trợn trừng, tức giận, tuyệt vọng, u uất. Những cú nện vào đầu nạn nhân đang vùng vẫy dưới hố, những tiếng chửi rủa tục tằn, thêm một tràng AK tiếp theo. "Nấp nhanh lên!!".

Tiếng ồn ào, kêu gào than khóc. Rồi tất cả trở lại im lặng như địa ngục. Hố sâu đã trở thành mặt bằng, nhưng đất còn cựa quậy, có nơi bỗng sụp xuống. Những người dân Huế dưới hầm mộ kia chưa chết hẳn, trừ ông già xếp hàng đầu, may mắn hưởng tràng AK đầu tiên.

Những lần sau, có lúc sợ ánh sáng từ họng súng khai hỏa sẽ bị phi cơ trinh sát phát giác, không cần dùng đến một viên đạn, tên lính VC chỉ cần trở cán cuốc lại, đánh thẳng vào đầu nạn nhân đứng đầu hàng, người này ngã ngửa ra đằng sau, cứ tuần tự như thế, bị chôn sống từng hố từng hố một. Dưới áp lực của lưỡi lê, báng súng và sự canh gác cẩn mật, Phan Văn Tuấn và bạn bè đã trải qua những giây phút kinh hoàng, đào hố, lấp đất chôn đồng bào ruột thịt của mình. Đó là nỗi đau đớn mà Phan Văn Tuấn phải chịu đựng, mục kích trong hơn chục lần trên mười hố chôn sống người như thế trong vùng đất quê hương hiền lành của Tuấn. Cuối cùng, Phan Văn Tuấn và hai người bạn đồng lứa khác đã trốn thoát được, chạy về phía phòng tuyến quốc gia, ôm chặt lấy người lính đầu tiên mà khóc nức nở.

Sau khi quân đội VNCH chiếm lại Huế, Phan Văn Tuấn và hai người bạn đã đi tìm lại những giao thông hào chôn người cho chính quyền địa phương cải táng. Tất cả những người khác trong toán "dân công" cùng với Phan Văn Tuấn đều đã bị VC thủ tiêu trước khi rút ra khỏi thành phố.

Phan Văn Tuấn lớn lên, vào trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và trở thành một sĩ quan Pháo Binh, năm 1975, bị tập trung trong trại CS và cuối cùng vượt biển sang Úc. Nhưng từ những ngày xẩy ra vụ thảm sát Mậu Thân, anh không bao giờ muốn trở lại Huế, quê hương của mình, không muốn nhìn lại cảnh Huế, nghe tiếng Huế, thưởng thức một dòng nhạc Huế với nỗi ám ảnh và mặc cảm khôn nguôi. Có ai lại ghê sợ chính với quê hương mình.

Phan Văn Tuấn giấu cả với vợ con của anh những gì anh đã xẩy ra tại vùng Gia Hội trong những ngày Tết Mậu Thân tại Huế. Anh muốn quên đi nhưng cơn ác mộng vẫn vò xé tâm hồn anh qua nhiều năm tháng, anh nhớ lại những cái đầu cọ quậy, những cái miệng đầy đất cát, những đôi mắt trợn trừng, van xin hay tuyệt vọng của đồng bào anh.

Năm ngoái, nhân dịp nhớ lại vụ thảm sát Mậu Thân tại Huế, sau gần 40 năm im lặng, Phan Văn Tuấn đã dành cho nhà văn Nam Dao trong chương trình phát thanh "Tiếng Dân Tôi" ở Adelaide, Úc Châu một cuộc phỏng vấn mà qua đó, không những Phan Văn Tuấn đã xúc động vì hồi tưởng, khóc nức nở, mà chính người phỏng vấn cũng nghẹn ngào khóc theo.

Nhắc lại vụ chôn người ở Huế, Phan Văn Tuấn như bị đưa vào một trạng thái mê sảng, điên cuồng, đau đớn như đang ở trong chính cơn ác mộng. Anh hứa rằng anh sẽ không bao giờ nhắc lại câu chuyện này một lần nữa với bất cứ ai, vì không chịu đựng nỗi đau đớn, dày vò đang hành hạ tâm hồn anh khi phải vận dụng trí não để hồi tưởng những câu chuyện cũ.

Không, anh Phan Văn Tuấn ơi! anh phải can đảm để sống và nhớ lại những gì anh đã trải qua, không phải riêng để cho những bà con xứ Huế, cho đồng bào mình, mà cả nhân loại cần có những nhân chứng như anh, để nói lên sự độc ác của con người, trong đó có sự độc ác từ bản chất, không thể tha thứ được của những con người CS, mà ngày nay chế độ này đang còn ngự trị, làm tình làm tội cả dân tộc của chúng ta. Những con người này không còn lương tri, sống trong dối trá, nên Huế ngày nay mới có những con đường tủi nhục mang tên Mậu Thân, mang tên 68, để chúng cười cợt như lũ quỷ đói trên những linh hồn oan khuất của hàng nghìn đồng bào Huế vô tội của chúng ta.

Xin đừng bao giờ quên vụ thảm sát Mậu Thân!!

Tạp ghi Huy Phương
(Những ngày đầu năm Kỷ Sửu, Tháng Giêng 2009)


Tìm được xác chồng tại một hố chôn tập thể,
ghi theo thứ tự là 106


Khi nhận ra xác cha bị trói quặt khuỷu tay ra sau lưng bằng dây kẽm gai,
người con gái khóc thảm thiết


Bới tìm xác thân nhân bị vùi chôn dưới cát

Vợ và con nạn nhân đứng bên cạnh nơi vùi lấp xác
(nạn nhân bị trói quặt tay ra sau bằng dây kẽm gai)





Đưa Em Đi Đào Xác


Đưa em đi đào xác
Chiều Gia Hội âm u
Trời mây đen vần vũ
Nước sông Hương lặng lờ
Đưa nhau hồn lạnh buốt
Em quấn vành khăn tang
Xác chồng chưa tìm được
Lệ nhỏ thầm hoang mang
Bên hố chôn tập thể
Từng mảng người rưng rưng
Nhặt những xác vữa nát
Còn vương trói dây thừn
Chiếc sọ nào nguyên vẹn
Sau nhát cuốc hãi hùng
Những người dân vô tội
Chết xấp mặt phơi lưng

Đưa em đi đào xác
Hai mươi mấy ngày trời
Thành phố Huế thoi thóp
Với đớn đau mặt người
Ơi thịt xương từng nhúm
Gói ghém bọc ni lông
Nằm tố cáo tội ác
Trong bốn tấm ván thông
Những ngọn nến leo lắt
Như đóm mắt hồn ma
Nhìn hắt hiu chủ nghĩa
Qua nhang khói nhạt nhòa
Đưa em buồn chất ngất
Mưa se sắt mặt mày
Em khoác tấm vải nhựa
Di ảnh chồng trong tay

Không rõ tên tác giả
(Để tưởng nhớ biến cố Tết Mậu Thân 1968)



Phạm Tội Ác, Vẫn Còn Vênh Váo !!! - Bằng Phong Đặng Văn Âu


Bằng Phong Đặng Văn Âu

Trên trang mạng của ông Đào Hiếu mang tên Lề Bên Trái, có nghĩa rằng đây là một trang mạng có xu hướng đối lập với “Lề Bên Phải” – chủ trương chỉ đạo báo chí của Đảng Cộng Sản Việt Nam – tôi thấy xuất hiện bài viết của ông Hoàng Phủ Ngọc Phan dưới tựa đề “Trịnh Công Sơn và những hoạt động nằm vùng” để phản bác lại những gì do Thiếu tá Liên Thành vừa tiết lộ về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ông Đào Hiếu là một người quê quán ở Bình Định, theo cộng sản vì ông cho rằng Hồ Chí Minh là nhà cách mạng tranh đấu cho độc lập dân tộc; còn Ngô Đình Diệm chỉ là viên quan lại triều Nguyễn và sản phẩm của Đế quốc Mỹ. Ông Đào Hiếu cũng tiết lộ cho độc giả biết thân sinh của ông khuyên ông đừng đi theo cộng sản, nhưng ông vẫn không vâng lời. Vì “cá không ăn muối”, ông Đào Hiếu đã nhận ra là mình “Lạc Đường” khi chứng kiến những tráo trở, lật lọng, nhớp nhúa, gian tham, cướp bóc của cộng sản. Độc giả hải ngoại thích đọc những bài viết của Đào Hiếu vì ông ta tỏ ra phản tỉnh. Thiết nghĩ, là con người, ai cũng có thể phạm sai lầm. Dũng cảm xác nhận mình sai lầm, bỏ chỗ tối để ra chỗ sáng hoặc cải tà quy chánh là điều đáng khen ngợi. Không phân biệt quốc gia hay cộng sản.

Viết lời giới thiệu huê dạng về văn tài sắc sảo, bút pháp tinh tế, pha trộn tài tình giữa hài hước và sự uyên bác của ông Hoàng Phủ Ngọc Phan, ông Đào Hiếu cố tình hướng dẫn độc giả đánh giá bài viết dưới đây là một tác phẩm văn học có giá trị, trước khi độc giả đọc trọn bài.

Mở đầu bài viết, ông Hoàng Phủ Ngọc Phan tỏ lòng biết ơn ông Đào Hiếu, có lẽ vì được ông Đào Hiếu khen ngợi bằng lời giới thiệu huê dạng như tôi vừa nêu trên. Sau đó, tác giả viết tiếp:

“Thú thật tôi không hề có nhu cầu và hứng thú tranh luận với những người như ông Liên Thành vì giữa tôi và những người như ông ấy có quá nhiều khác biệt. Nhưng vì bài viết của ông ấy chứa không ít sai lầm - đặc biệt là những sai lầm về nghiệp vụ chuyên môn của nghề làm cảnh sát quốc gia. Lại nhờ những sai lầm đó mà ông ta được chính quyền cũ đề bạt lên giữ những chức vụ quan trọng và gây thêm những hậu quả nghiêm trọng hơn. Nay nếu một người trong cuộc như tôi mà cứ im lặng mãi thì bạn bè và bạn đọc trong và ngoài nước sẽ không hiểu được sự thật.”

Con người uyên bác Hoàng Phủ Ngọc Phan (viết tắt: HPNP) tỏ ra trịch thượng “không có nhu cầu và hứng thú tranh luận với những người như ông Liên Thành vì giữa tôi và những người như ông ấy có quá nhiều khác biệt”. Ông HPNP không hiểu ý nghĩa hai chữ “tranh luận” nên mới nói không thèm tranh luận với người có quá nhiều khác biệt. Chính vì sự khác biệt nên cần phải tranh luận để chứng minh điều gì đúng, điều gì sai, điều gì phải, điều gì trái. Còn đã “nhất trí” như trong Đảng Cộng sản rồi thì tranh luận làm “cái con mẹ” gì nữa? Do người cộng sản HPNP hiểu chữ “tranh luận” như thế, tôi cũng không dại gì tranh luận với ông ta trong bài viết này. Tôi chỉ có vài nhận xét về bài viết của ông HPNP với tư cách một độc giả. Hơn nữa, tôi chả có văn tài sắc sảo, bút pháp tinh tế như cái kiểu của ông HPNP !

Vừa xác nhận không có nhu cầu tranh luận, ông HPNP tương ngay chữ “NHƯNG” tiếp theo đó để có lý do phản bác chứng cớ Liên Thành viết hai anh em HPNT & HPNP trốn ra bưng từ nhà của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là sai sự thật. Ông HPNP viết: “Sự thực là chúng tôi không hề ghé nhà Trịnh Công Sơn ở đầu cầu Phú Cam mà ghé nhà anh Nguyễn Kim Sơn ở gần Bưu Điện Thành Phố Huế. Nguyễn Kim Sơn là kỹ sư tốt nghiệp ở Mỹ, từng dẫn đầu đoàn biểu tình đọc tuyên cáo bằng tiếng Anh trước khi đốt tòa Tổng lãnh sự Mỹ ở Huế vào ngày 23-01-1965. Cho đến lúc ấy và cả đến hôm nay, Nguyễn Kim Sơn chưa hề ở trong một tổ chức nào của cách mạng. Hiện anh sinh sống ở CHLB Đức và trước sau như một-là một phật tử thuần thành”.

Trong hồi ký Hoàng Phủ Ngọc Tường, tuyển tập số 3 do nhà xuất bản Trẻ vào năm 2002, ở trang 161 Hoàng Phủ Ngọc Tường – anh ruột của HPNP – viết như sau: “...Tôi và Phan biết ngay đã tới hồi "nguy biến" bèn quyết định đánh bài chuồn. Nhân hồi ức nhỏ nầy, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với anh chị Khánh Quỳnh, chủ hiệu sách ở ngã tư Anh Danh trong gia đình thầy Dương Kỵ và gia đình bác Chính (ở 66 Phan chu Trinh-Xí nghiệpDược bây giờ) là những cơ sở của thành ủy đã bố trí để che chở anh em tôi khi bị địch lùng bắt. Chúng tôi vào nhà bác Chính, ẩn náu chờ giải pháp. Tối hôm ấy tôi sang nhà Trịnh Công Sơn ở bên kia cầu phủ Cam (chỗ tôi ở bây giờ) ăn bữa cơm chia tay với gia đình, nhờ Sơn thưa lại với ba mẹ tôi rằng chúng tôi sẽ ra đi kháng chiến ...”

Những gì ông anh của HPNP tiết lộ trong Tuyển Tập Hồi Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường đều đúng như những gì Thiếu tá Liên Thành đã viết trong bài về Trịnh Công Sơn vừa rồi. Vậy Sự Thật ở về phía nào? Ông anh nói sự thật hay ông em nói sự thật? Chỉ riêng vấn đề này thôi, tôi nghĩ rằng ông HPNP không tranh luận với Thiếu tá Liên Thành là đúng, vì hai anh em họ Hoàng Phủ chưa …“nhất trí”. Từ điểm này trở đi, những gì ông HPNP viết đều vô giá trị về sự kiện lịch sử. Phải chăng ông Đào Hiếu cũng biết anh em nhà họ Hoàng Phủ nói dối, cho nên ông Đào Hiếu mới giới thiệu đây là một bài có giá trị văn học nhờ bút pháp sắc sảo; chứ không có giá trị chuẩn xác về sự kiện lịch sử?

Tôi không nhớ vào năm nào xảy ra sự kiện ông Hoàng Phủ Ngọc Tường được cái Hội Yêu Huế gì đó ở Pháp mời một số nhân vật tên tuổi của Huế sang thăm Paris. Khi Hoàng Phủ Ngọc Tường ra sân bay Nội Bài để đi Pháp thì tòa Đại sứ Pháp thu hồi Visa của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, vì một bài báo của giáo sư Lê văn Hảo tố cáo bàn tay dính máu của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Tết Mậu Thân. Hư thực thế nào, anh em nhà họ Hoàng Phủ, ông Lê văn Hảo là những người còn sống sót có dám đủ can đảm công khai nói sự thật hay không? Ông Lê văn Hảo dạy Đại học Huế, theo cộng sản phá họai Miền Nam. Rồi khi va chạm thực tế thì ông Hảo mới mở mắt, phải cầu cứu người Pháp để rời Việt Nam.

Nhân nói đến Hội Yêu Huế ở Pháp, tôi xin nhắc đến một nhân vật trí thức hiền hòa của Huế, vì nhân vật này cũng được Hội Yêu Huế mời sang Pháp đến hai lần. Đó là giáo sư Bửu Ý. Trong một cuộc họp ở Huế sau 1975, Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng anh Bửu Ý thường chê ông Tường chạy theo cộng sản. Bửu Ý nghe thế, bèn tỏ vẻ sợ sệt quyền hành của Tường, đi lên phía micro nhỏ nhẹ nói: “Dạ thưa anh Tường, anh nói như rứa là oan cho tui quá! Xin quý vị lắng nghe cho rõ tui đã nói về anh Tường như ri nì: “Anh Hoàng Phủ Ngọc Tường là người luôn luôn chạy theo liếm đít cộng sản”. Cũng bằng cử chỉ rụt rè, Bửu Ý đi về chỗ ngồi với vẻ mặt bình thản. Cả hội trường đều phục cái can đảm của Bửu Ý, trong khi đó Tường chết trân vì xấu hổ, mà không biết cách gì phản ứng. Bửu Ý sang Paris được bạn bè thông cảm hoàn cảnh túng thiếu, nên họ quyên góp giúp anh ta một số tiền khoảng ba, bốn ngàn đô la. Từ Pháp trở về Việt Nam, trước khi về Huế, Bửu Ý ở chơi tại nhà Trịnh Công Sơn tại Sài Gòn mấy bữa để kể chuyện đường xa, kể chuyện bạn bè tình nghĩa có lòng giúp đỡ. Khi rời Sài Gòn để trở về Huế, Bửu Ý mới khám phá số tiền bạn bè ở Pháp quyên giúp nhét dưới gối kê đầu ở nhà Trịnh Công Sơn tự nhiên không cánh mà bay mất tiêu. Thế là tiền Bửu Ý mang về nuôi vợ con thành mây khói. Câu chuyện này được các nghệ sĩ truyền miệng nhau từ Sài Gòn ra tới Huế, không ai là không biết. Từ ngôi nhà của nhạc sĩ thiên tài Trịnh Công Sơn có lắm giai thoại vui lắm. Nếu ai không tin điều tôi kể, xin cứ việc kiểm chứng với nhà trí thức Bửu Ý thì sẽ rõ.

Trong bài phản bác những gì Thiếu tá Liên Thành nêu ra, ông HPNP đều cố gắng trình cho độc giả thấy hai anh em nhà Hoàng Phủ là những người hiền lành, nhân đức, có súng chỉ để đó không bao giờ dùng, bàn tay không hề vấy máu đồng bào Huế như người ta cáo buộc. Tôi không ở Huế lúc bấy giờ, không có bằng chứng chính xác để buộc tội hai ông. Nhưng qua câu trả lời của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường với ký giả Stanley Karnov – tác giả VietNam: A History – khi được hỏi về nạn thảm sát hàng ngàn người dân vô tội ở Huế, ông Tường đáp với đại ý như sau: “Giết những người (nạn nhân) đó cũng giống như giết những con rắn độc”. Nếu là con người hiền lành thì không bao giờ trong đầu óc lại coi việc giết người vô tội cũng giống như giết con rắn độc, ông Tường có hiểu điều đó không?

Ông HPNP kể mấy thước phim ghi lại sinh hoạt gia đình của Nguyễm Kim Sơn có hình ảnh anh em nhà họ Hoàng trong đó, không đủ sức thuyết phục, vì băng thu hình thời bấy giờ chưa có kỹ thuật số để xác định thời điểm thu. Ông HPNP lại nói ông Nguyễn Kim Sơn là người đốt Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ cũng không đúng. Vì theo chỗ tôi biết, Đảng Đại Việt nhận thấy Hoa Kỳ không nhìn ra sự gây rối của Trí Quang là nhằm mục đích đuổi Mỹ về nước, nên Đảng phải cài đảng viên của mình là Trần Mậu Tý vào phong trào tranh đấu, ra lệnh cho Trần Mậu Tý đốt Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ thì mới làm cho Mỹ hiểu rằng phong trào tranh đấu này chống cả Mỹ nữa, chứ không phải chỉ chống chính phủ Sài Gòn mà thôi. Khi thấy ngọn lửa bùng lên ở Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ, Trí Quang rên rỉ khóc than: “Thầy lạy các con, các con làm như thế là chết thầy rồi!” Trí Quang tưởng đệ tử hăng tiết vịt làm bậy, chứ không hề biết đó là âm mưu của Đại Việt. Sau khi Tòa Lãnh sự bị đốt, Mỹ mới chịu nghiêng về phía chính phủ Sài Gòn. Về sau phong trào tranh đấu biết được Trần Mậu Tý là đảng viên Đại Việt nằm vùng trong tổ chức của họ, do đó Nguyễn Đắc Xuân đã giết Trần Mậu Tý vào hồi Tết Mậu Thân để trả thù.

Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Phan vẫn có luận điệu xấc láo gọi người lính VNCH như thời chiến tranh “chống Mỹ cứu nước” là quân của Thiệu – Kỳ. Chỉ có lính cộng sản mới hãnh diện làm Bộ Đội Cụ Hồ, quân nhân Miền Nam đi lính để bảo vệ chế độ tự do của Miền Nam, chứ không bao giờ tự nhận mình là lính của ai cả. Chủ trương miệt thị đối phương là ngón nghề của Việt Cộng, để biến đối phương thành phi nghĩa và giành chính nghĩa về phía quân xâm lược.

HPNP liệt kê ra một danh sách gồm: Nguyễn Khắc Từ, Hoàng Văn Giàu, Trần Xuân Kiêm, Thái Kim Lan, Vĩnh Kha, Trần Anh Tuấn, Thái Thị Ngọc Dư … để nói rằng những người này chỉ là những Phật tử thuần thành (!), chứ không phải là Việt Cộng nằm vùng cũng không có giá trị khả tín, vì đó là lời nói thoát ra từ miệng lưỡi … Việt Cộng! Rồi HPNP cho biết Ngô Kha chỉ là một người phản chiến như những người phản chiến trên thế giới. Bọn phản chiến thế giới không hiểu nguyên nhân vì sao có cuộc chiến tranh Quốc – Cộng. Còn làm người Việt Nam, lại có ăn có học thì phải biết rằng sở dĩ có chiến tranh là vì cộng sản ở Miền Bắc giương lên lá cờ giải phóng dân tộc để đánh lừa dư luận thế giới hầu có chính nghĩa xâm lăng. Bọn Việt phản chiến này, nếu không là đảng viên cộng sản thì cũng là công cụ của cộng sản trong mục tiêu xâm lăng Miền Nam. Chúng còn nguy hiểm hơn. (Chú thích của người viết: Ngô Kha là anh em thúc bá với Tướng Ngô Du, chứ không phải em ruột như HPNP viết).

Bọn nội loạn buôc tội Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo là bọn lưu manh, dối trá. Tôi là một đoàn viên gia đình Phật tử Chơn Tuệ ở Chùa Ba La, dưới sự lãnh đạo của anh Hồ Viết Lợi và Bác Thị Loan cố vấn. Những khuôn hội Phật giáo mọc ra như nấm, chùa chiền được trùng tu nhiều hơn nhà thờ Công giáo, trường Bồ Đề tự do giảng dạy giáo lý. Cái gọi là đàn áp Phật giáo là do Võ Đình Cường (một cán bộ cộng sản tuyên thệ vào đảng từ năm 1943) và do Trí Quang âm mưu phịa ra để người Mỹ sai bọn Tướng lãnh tôi tớ lật đổ chế độ. Phật tử thuần thành cái quái gì mà mang bàn thờ Phật xuống đường để không cho quân đội di chuyển, gìn giữ an ninh cho dân chúng?

Tôi mới bắt liên lạc được với bác sĩ Nguyễn Tuấn Anh ở tiểu bang Louisiana, sau nhiều năm xa vắng. Bác sĩ Tuấn Anh là thầy thuốc riêng của cố Tổng thống Diệm. Bác sĩ Tuấn Anh cho biết ông Diệm chỉ thị cho bác sĩ Trần Kim Tuyến bảo ông mỗi tuần hai lần đến chăm nom sức khỏe cho ông Hà Thúc Ký, người lập chiến khu Ba Lòng chống ông Diệm và cũng là người âm mưu ám sát ông Diệm. Ngoài ra, ông Diệm còn mật lệnh cho ông Cao Xuân Linh, em ông Cao Xuân Vĩ (hiện sống ở Orange County, California) ngầm giúp đỡ tài chánh cho bà Hà Thúc Ký để có phương tiện cho các con ăn học. Khi ông Hà Thúc Ký ra tù, được biết nghĩa cử của ông Ngô Đình Diệm thì lấy làm cảm động vô cùng, nhưng không có cách gì để đền ơn ân nhân! Đối xử với một người tù âm mưu ám sát mình, lập chiến khu Ba Lòng chống mình mà nhân đức như thế thì làm sao dám bảo ông Ngô Đình Diệm là Cần Lao ác ôn? Thử hỏi ở Miền Bắc một người nào dám hành động phản nghịch chống lại Hồ Chí Minh mà toàn mạng và gia đình không tan nát? Chỉ cần sơ ý phát biểu một câu “nghịch nhỉ” cũng đủ tàn mạt suốt cả một đời. Người thi ân cho cách mạng như bà Nguyễn thị Năm ở Hải Phòng, cũng bị Hồ Chí Minh giết!

Năm 1959, cụ Hoàng văn Chí cho xuất bản cuốn sách Trăm Hoa Đua Nở Trên Đât Bắc, chắc hẳn anh em nhà họ Hoàng Phủ đã đọc, đã biết số phận của những văn nghệ sĩ nổi danh từng có công với Việt Minh cỡ như Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang, Phùng Quán, Hữu Loan, Văn Cao còn bị đày đọa thể xác, bị chà đạp nhân phẩm như thế nào chứ? Vậy mà họ vẫn đi theo cộng sản để đem “Bộ Đội Cụ Hồ” về tàn sát người dân vô tội của xứ Huế là vì trong con người họ mang bản chất ÁC, coi mạng người dân giống như rắn độc cần phải giết! Đáng lý ra hai anh em nhà họ Hoàng Phủ và những kẻ phạm tội khác như Nguyễn Đắc Xuân phải tự sám hối, thực tâm bày tỏ sự ăn năn thì đồng bào Huế sẽ tha tội. Đừng tìm cách chối quanh càng làm cho cái nghiệp “hiếu sát” thêm nặng nề.

Ông Ngô Đình Diệm không phải là người có đầu óc gia đình trị. Bộ trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục Nguyễn Dương Đôn đổi tên trường Quốc Học thành trường Ngô Đình Khả – phụ thân của Tổng thống – để lấy điểm ông Diệm. Tôi còn nhớ lõm bõm mấy câu thơ đầu như sau:

“Trường Quốc Học ấy ai xây dựng,
Mấy mươi năm vẫn đứng giữa trời?
Đế đô nhắc nhở tên Người
Cụ Ngô Đình Khả muôn đời tiếng thơm
Lòng yêu nước gặp cơn suy bỉ
Lo bảo tồn quốc túy quốc hoa
Một nền giáo dục gồm ba …”

Đến khi biết được điều này, ông Ngô Đình Diệm ra lệnh Bộ Quốc Gia Giáo Dục lấy lại tên Quốc Học cho trường. Vậy thì, nếu có xảy ra sai phạm trong chế độ là do cấp dưới thuộc loại “bảo hoàng hơn vua” thi hành. Khác với Miền Bắc, Hồ Chí Minh phạm vào tội ác trong Cải Cách Ruộng Đất long trời lở đất, truất chức Tổng Bí thư của Trường Chinh Đặng xuân Khu chiếu lệ để yên lòng bá tánh, thì liền gieo ngay tội ác xuống đầu văn nghệ sĩ chỉ khép nép xin lãnh đạo nới lỏng kiểm soát tư tưởng trong vụ án Nhân văn Giai Phẩm. Giới văn nghệ không đòi lật đổ chính quyền mà đã bị trừng phạt tối đa.

Ông Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc chân chính nên mới từ chối đòi hỏi của Hoa Kỳ đưa quân bộ chiến vào Việt Nam. Ông Ngô Đình Nhu là người đa mưu túc trí, chắc chắn ông cũng biết khuyên anh nhượng bộ đòi hỏi của Hoa Kỳ để rảnh tay tiêu diệt bọn Trí Quang và các sư sãi cùng Phật tử tranh đấu rồi tính sau, giống như Hồ Chí Minh ký hiệp ước chấp nhận Thực dân Pháp trở lại Đông Dương để có thì giờ diệt các đảng phái Quốc gia. Nhưng ông Diệm, ông Nhu quyết giữ vững lập trường không chấp nhận cho qnân đội Hoa Kỳ vào Việt Nam để khỏi bị hậu thế kết tội mãi quốc cầu vinh. Hai anh em đã bị giết bởi những bàn tay bọn phản phúc của Tướng lãnh. Phật Giáo dù được cộng sản yểm trợ tối đa cũng không thể nào đủ sức lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Chỉ có Hoa Kỳ dùng tiền mua chuộc mấy Tướng lãnh phản chủ mới có khả năng lật đổ mà thôi. Ngày nay bọn văn nô, bồi bút cộng sản bôi bẩn ông Ngô Đình Diệm là để tôn vinh Hồ Chí Minh là Cha Già Dân Tộc … Việt Cộng. Nhưng thực tế ngày nay, Trung Cộng lấn đất, lấn biển, chiếm đảo mà bọn cầm quyền dùng vũ lực đàn áp nhân dân phản đối thì đó là thành quả cách mạng suốt một đời hoạt động của Hồ Chí Minh không thể chối cãi.

HPNP phủ nhận tin đồn bị “đối phương” cáo buộc ông ta là thủ phạm giết các bác sĩ người Đức dạy Đại Học Y Khoa Huế. Vậy HPNP là người trong cuộc, chắc chắn phải biết thủ phạm giết các vị giáo sư là ai chứ, thế thì tại sao không nói ra để giải oan cho mình? Nhờ có học vấn, ông HPNP có khá nhiều mưu mẹo để qua mắt độc giả. Ông ta thách thức nếu ai có hình ảnh ông giết người như Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn tên đặc công Bảy Lốp, thì ông sẵn sàng tự tử ngay tức khắc. HPNP biết không ai có thể có tấm hình ông giết người để chứng minh, vì Việt Cộng chẳng bao giờ cho ký giả đi theo hành quân để chụp hình nên mới thách thức. Hoặc nếu có ký giả đi theo chăng nữa mà chụp những tấm hình bất lợi cho tuyên truyền của Cách Mạng (!) là cái Mạng của ký giả sẽ bị … Cắt ngay.

Minh chứng anh em nhà Hoàng Phủ vô tội trong vụ thảm sát Huế xong, ông HPNP nói đến tại sao Miền Nam thua trận thư hùng với Miền Bắc, bằng cách dẫn chứng lời của cựu Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, Mc Namara như sau: “chúng ta thua vì đã đánh giá thấp lòng yêu nước của người Việt nam.” Ông Mc Namara có thể là một nhà tài chánh giỏi, một nhà quản trị tài ba, nhưng ông không thể nào hiểu được sự gian manh láu cá của cộng sản Việt Nam. Ông Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Phan theo đuổi sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, nhưng nay thấy câu nói của ông Mỹ có lợi cho mình là vồ lấy ngay. Miền Bắc thắng Miền Nam là nhờ lừa bịp giỏi và tàn ác hơn Miên Nam, chứ không vì yêu nước.

Sau tháng Tư năm 75, người anh Cả của tôi ở Miền Bắc là một bác sĩ vào Miền Nam thăm ông em – một người anh khác của tôi – ở Miền Nam, mang theo mấy cái bát, mấy đôi đũa, gói nhỏ đường, bột ngọt để cho em, vì nghe nói ở Miền Nam bị đế quốc Mỹ bóc lột đến độ không có lấy một cái bát để ăn. Khi vào đến sân nhà người em thì ông anh Cả tôi thấy một biệt thự nguy nga ở đường Tú Xương với chiếc xe Hoa Kỳ lộng lẫy đậu. Ông anh Cả bèn len lén ném mấy cái bát, gói đường, gói bột ngọt vào thùng rác, trước khi bấm chuông cửa. Hồi chưa mất nước, anh em chúng tôi ở Sài Gòn thường mua vợt, giày, áo quần Tennis gửi sang Paris, rồi nhờ người quen chuyển các thứ ấy về Hà Nội. Tất nhiên ông anh Cả phải hiểu rằng các em mình ở trong Nam phải khá giả lắm mới có thể tiếp tế cho mình các thứ hàng “xịn” đó. Nhưng sự nhồi sọ của cộng sản giỏi đến độ biến một người bác sĩ không có nổi cái suy luận tối thiểu. Nhà văn Dương Thu Hương là một chiến sĩ yêu nước tình nguyện lên đường chống Mỹ, tới khi bà đặt chân vào Sài Gòn, ghé vào Nhà sách Khai Trí bày đủ các loại tác phẩm cộng sản trên giá sách thì bà ngồi phệch xuống lề đường, rồi ôm mặt khóc nức nở vì biết mình bị lừa. Tù binh cộng sản xuất phát từ Miền Bắc cung khai: “chúng em tình nguyện vào Nam chiến đấu vì được phát quần áo bộ đội và gia đình đỡ một miệng ăn”. Nếu bảo cán binih cộng sản yêu nước thì tại sao phải dùng dây xích sắt khóa chân của lính vào ghế ngồi chiến xa?

Là nhà văn có bút pháp sắc sảo và tinh tế, HPNP hư cấu cái chuyện ông Nguyễn Kim Sơn chứng kiến cảnh tượng binh sĩ Hoa Kỳ sàm sỡ khám xét thân thể các cô gái khiến cho một nông dân long mắt lên sòng sọc lộ vẻ căm thù thì cũng giống như Trần Huy Liệu hư cấu chuyện cậu bé Nguyễn văn Tám tẩm xăng vào người biến thành ngọn đuốc chạy vào kho đạn Thực dân Pháp thôi! Đó là ngón nghề vẽ rắn thêm chân của văn công bồi bút Việt Cộng, chỉ có kẻ nào ngây thơ mới tin.

Theo tôi, một lý do rõ ràng nhất để khiến Miền Nam thua Miền Bắc, vì Miền Nam giữa lúc đánh nhau một mất một còn chống kẻ thù mà nhân đạo quá! Nếu Miền Nam thi hành một chính sách phi nhân như Miền Bắc thì cái thứ như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân không bao giờ có chỗ dung thân, đừng nói tới có cái may mắn bước chân vào Đại Học để làm loạn.

Cuối bài, HPNP viết: “Tại trung tâm lưu trữ Aix-en Provence ở Pháp có một bức thư bằng chữ Hán được mật thám Pháp dịch ra tiếng Pháp, gần đây đã được các nhà nghiên cứu sử học dịch ra tiếng Việt như sau: Ngày 17 tháng 12 năm 1931.

Gửi đồng chí Nguyễn Ái Quốc
Tôi vừa được biết đồng chí đang ốm nặng tại Hồng Kông và tin này làm tôi vô cùng lo lắng.
Cho phép tôi gửi đồng chí kèm theo đây 300 yên để đồng chí mua thuốc men. Mong đồng chí tích cực chữa bệnh. Điều đó cần cho sự nghiệp của tổ quốc.
Chúc đồng chí sớm bình phục.
PHÚC ĐAN

Phúc Đan là tên hiệu của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, nội tổ của Thiếu tá Liên Thành. HPNP trích đăng mẩu thư trên để có ý nói rằng đến Ngài Kỳ Ngoại Hầu Cường Để còn trân qúy “Cụ Hồ” như thế, mà tại sao hàng hậu duệ Liên Thành lại chống Cộng quá vậy? Nhưng qua sự trích dẫn của Hoàng Phủ Ngọc Phan, chúng ta càng thấy rằng người quốc gia vốn có lòng nhân, dù không đồng chính kiến vẫn nghĩ đến sự giúp đỡ lẫn nhau. Cũng giống như Thủ tướng Trần Trọng Kim được ông Đại sứ người Nhật đề nghị giúp tiêu diệt trọn vẹn tập đoàn cộng sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo vào năm 1945, mà cụ Trần trọng Kim đã phản đối, vì không muốn người Việt bị ngọai nhân giết. Lòng nhân đạo của phe Quốc Gia đôi khi dùng không đúng chỗ, cho nên đã đưa đến “Chánh Thua Tà”. Nhưng rút cục, Tà cũng sẽ bị sức mạnh của SỰ THẬT tiêu diệt thôi.

Nhân đây, người viết bài này cũng có một câu chuyện bên lề do một nhà danh họa gốc Miền Nam thường ăn ở, giao du trong cái Tuyệt Tình Cốc của anh em nhà họ Hoàng Phủ, kể lại:

Vào khoảng năm 1976 hay 1977 gì đó, hai vợ chồng Việt Kiều Yêu Nước từ Canada mang hai đứa con về Việt Nam, chồng tên là Nguyễn tấn Phục và vợ là Hoàng thị Ngọc Thủy. Bà Hoàng thị Ngọc Thủy này là em gái của Hoàng tá Thích, em rể Trịnh Công Sơn. Trước kia, Hoàng Phủ Ngọc Phan và Hoàng thị Ngọc Thủy yêu nhau, nhưng chàng HPNP theo Việt Cộng vào bưng biền, còn nàng được học bổng Colombo du học Canada. Dù đã có chồng và có hai mặt con, bà Hoàng thị Ngọc Thủy gặp lại người yêu cũ là HPNP từ rừng về, nên tình xưa bén lại. Nàng muốn ly dị chồng để se duyên cùng chàng Việt Cộng, nhưng Hoàng Tá Thích ra tay can thiệp, vì biết em mình mà lấy ông Việt Cộng mặt xanh nanh vàng thì cuộc đời không khá được. Cuối cùng, Hoàng Tá Thích phải kiếm một giải pháp dung hòa bằng cách để cho em gái mình hưởng “một ngày hạnh phúc” với người “chiến sĩ cách mạng HPNP” từ sáng sớm đến hoàng hôn trong một gian phòng đóng kín cửa không ai được phép héo lánh đến gần. Ngôi nhà đó là của gia đình nhạc sĩ Trịnh Cộng Sơn, tọa lạc tại số 47 C đường Phạm Ngọc Thạch (tức là đường Duy Tân cũ) ở Sài Gòn. Trong khi đó, người chống của bà Hoàng thị Ngọc Thủy là ông Nguyễn Tấn Phục đi lang thang ngoài phố đến chiều mới quay về nhà Trịnh Công Sơn để đón vợ xong xuôi cuộc truy hoan với người yêu cũ là HPNP. Chuyện nhà danh họa kể, có lẽ không phải là chuyện phịa, vì tôi từng đọc những bài viết của danh họa thường hay ca tụng anh em nhà họ Hoàng Phủ và nhạc sĩ Trịnh công Sơn, thì không lý do gì nhà danh họa phịa ra để làm mất uy tín của HPNP. Ý của nhà danh họa là muốn nói lên một điều: Cộng sản cũng chỉ là con người, cũng ham hưởng khoái lạc, chỉ làm bộ đạo đức giả bề ngoài thôi. Nay HPNP phản bác bài viết của Liên Thành là hành động một công hai việc, vừa để bào chữa tội lỗi cho anh em mình không hề nhúng tay vấy máu đồng bào vô tội Huế, vừa bào chữa cho nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không phải là cộng sản như một hình thức cám ơn anh em gia đình họ Trịnh đã dàn xếp cho mình hưởng một chầu “khoái lạc” với người tình xưa. Âu cũng là một cách ân đền, oán trả cho đúng luật chơi giang hồ! Đó là đạo đức xã hội chủ nghĩa!

Rời xa Huế tính đến nay đã non nửa thế kỷ, tôi vẫn còn nhớ khuôn mặt của ông HPNP mà hồi đó bạn bè trong trường Quốc Học thường mô tả anh ta có tướng mạo Việt Cộng: môi thâm, mắt trắng, da xám bủng như mặt Việt Cộng được lôi lên từ hầm bí mật. Đặc biệt, anh ta có nụ cười vừa mới nở ra liền tắt ngay. Theo tướng học, đó là loại người có máu lạnh, giết người không gớm tay. Dù anh ta cứ chối bay, chối biến không hề nhúng tay vào máu, thì nội cái việc dẫn đường cho cán binh Việt Cộng về thành phố Huế để giết hàng ngàn lương dân vô tội cũng đủ cho anh ta bị đọa xuống chín tầng địa ngục. Tấm hình của HPNP trên trang mạng Đào Hiếu đã được kỹ thuật photoshop sửa sang cho dễ nhìn thôi.

Hiện nay, Hòa thượng Quảng Độ bị quản chế bởi cái chế độ bất nhân thì chẳng thấy các Phật tử thuần thành theo Việt Cộng tranh đấu vì Đạo Pháp ngày xưa đâu cả! Bất công xã hội ngày nay bằng vạn lần dưới thời VNCH, cũng chẳng thấy các Phật tử thuần thành tranh đấu, đệ tử của Trí Quang, dám hé môi nửa tiếng. Phải chăng lương tâm của chúng bị rụng hết răng hay sao mà không thấy cắn rứt?

Thiết nghĩ anh em nhà Hoàng Phủ và phe nhóm nếu không thể nói lời sám hối, thì nên im lặng là hơn. Bao lâu các ông còn cố gắng chạy tội, tôi tin chắc rằng sẽ có nhiều người biết hơn tôi những “thâm cung bí sử” của những kẻ đứng núi này trông núi nọ “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản” tởm lợm gấp trăm lần những gì tôi tường thuật.

Bằng Phong Đặng Văn Âu


Tỵ Nạn Văn Hóa - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Vấn đề tỵ nạn chính trị của các chủng tộc đã xảy ra liên tục trên hành tinh nầy từ hàng chục thế kỷ nay, chẳng có gì mới lạ để nói đến. Có chăng là, những đợt tỵ nạn chính trị vĩ đại mang tính cách lịch sử vừa xuất hiện trong vòng nửa thế kỷ nay mà loài người không bao giờ quên. Đó là việc hàng triệu người đã rời Việt Nam đi tìm tự do ! Chuyện đã xảy ra hai lần, năm 1954, một triệu đồng bào phải bỏ nhà cửa ruộng vườn chay vào Nam khi cộng sản vừa cướp xong chính quyền phía Bắc, và lần thứ hai năm 1975, cũng trên một triệu dân phải rời tổ quốc quê hương đi tìm tự do ngay lúc Hà Nội lùa quân vào cướp miền Nam với chiêu bài sặc mùi đểu giả là ‘giải phóng’ và ‘thống nhất’ đất nước !

Đối với người dân miền Nam, một khi thấy nón-cối-dép-râu với lá cờ máu sao vàng thì hồn vía đã lên tận mây xanh, họ phải bỏ của cải gia tài, chấp nhận may rủi, chen nhau xuống ghe tàu chạy ra biển để bảo vệ lấy tính mạng. Có thể nói, thành phần tỵ nạn chính trị là người đã chứng kiến những gì cộng sản đã làm cũng như chính họ đã trải qua những giây phút hãi hùng của các cuộc đấu tố, chém giết, khủng bố, ám sát, trói tay, chặt đầu và chôn sống tập thể giữa con người với con người, giữa người Việt Nam cùng một mẹ, cùng chung dòng máu ! Tội ác cộng sản Việt Nam đối với đồng chủng chẳng những dã man hơn cả loài thú mà còn khốn nạn độc ác hơn các cuộc tàn sát tập thể của người Đức với dân Do Thái trước kia. Do đó, đã là người tỵ nạn chính trị, trừ một số nhỏ ăn phải ‘bùa mê thuốc lú’ của Hà Nội, còn bất cứ ai cũng mang một tâm trạng giống nhau : Không thể sống chung với loài quỷ đỏ. Dù ngày nay, sau 34 năm, những người trong nước nếu có cơ hội và phương tiện thì tất cả cũng bỏ xứ ra đi ! Đây là điểm nổi bật dưới chế độ cộng sản mà vấn đề tỵ nạn chính trị của Việt Nam đã chiếm kỷ lục thế giới.

Bước qua chuyện tỵ nạn kinh tế, tuy Việt Nam được xếp sau một vài xứ Phi Châu, nhưng không thể bỏ qua mà phải đề cập đến những chuyện xấu xa mà những thành phần vô loại, lợi dụng lòng nhân đạo của thế giới tự do để chui xuống tàu bỏ xứ.ra đi vì vấn đề bao tử. Thành phần nầy ra nước ngoài vinh thân phì gia nhờ sống bám vào cộng đồng người Việt nhưng lại trở mặt làm tay sai cho cộng sản. Đó là đám ‘chệt Chợ Lớn’ và dân ‘Cầu Muối chợ trời’. Đám ‘chệt’ ăn chia với quân cướp, đóng thuyền mua ghe, tổ chức ‘bán chính thức’ đưa cả gia đình dòng họ vượt biên một cách an toàn. Ra xứ ngoài khởi đầu từ việc bán ‘bánh tiêu - chầu quảy - hột vịt muối’ để rồi ngày nay trở thành những tên trọc phú ‘bánh ngọt - bánh mì’. Chúng mang ơn cộng sản, gom góp tiền bạc trở lại nuôi chế độ và làm kinh tài cho Hà Nội. Đây là những cái gai lớn mà cộng đồng cần phải nhổ đi ! Ngoài ra còn nhiều chuyện đau lòng khi đề cập đến dân ‘Cầu Muối chợ trời’. Chúng vượt biên được là nhờ móc nối, tổ chức, lừa bịp, quỵt vàng, giựt bạc, cướp tình của những người đi chui. Bây giờ nhà cao cửa rộng nhưng mỗi khi mở miệng ra thì vênh váo rằng ‘Nhờ ơn cộng sản vào giải phóng và thống nhất đất nước mà ngày nay mới có được cái nhà cao, chiếc xe đẹp’. Do đó người ta không lạ gì khi đám nầy hăm hở ‘áo gấm về làng’ khoe của, dằn mặt bạn bè lối xóm, trả thù đời cho những ngày đói rách trước kia !!! Thành phần nầy gom góp tiền của từ những nghề làm ăn phi pháp như giựt hụi, trồng cần sa, rửa tiền dơ đem về đầu tư giúp Việt cộng để xin cái ô danh ‘Việt kiều gương mẫu’ và ‘công dân ưu tú Xã hội chủ nghĩa’ !

Bây giờ trở xin về điểm chính là vấn đề ‘tỵ nạn văn hóa’ của chế độ cộng sản. Đây là một hình thức tỵ nạn độc đáo có một không hai của nhân loại từ trước đến nay.

Sau ngày 30.4.1975, cộng sản Hà Nội ra lệnh xóa bỏ toàn bộ văn hóa nhân bản mà chúng gọi ‘văn hóa đồi trụy’ để áp đặt lên đầu dân miền Nam một quái thai ‘văn hoá đỏ’. Thời đó trẻ con miệng còn hôi sữa, được cộng sản xử dụng như một thành phần nòng cốt, đến từng nhà, khu phố, cơ sở để thu góp tất cả văn hóa phẩm mà chúng gọi là sách báo đồi trụy. Bất cứ tác phẩm văn chương nào dù ca ngợi quê hương, tình yêu cũng bị liệt vào loại sách báo nhạc vàng trong âm mưu tẩy xóa tàn tích chế độ cũ. Đối với việc giáo dục, nhất là chương trình sử, cộng sản thay thế tức khắc môn học nầy bằng những bài học chính trị láo khoét, huênh hoang vô tưởng để ca tụng một cách ngu xuẩn cái vinh quang thần thánh và cao ngạo nặng mùi xú uế bởi những danh từ ‘đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào’ ! Trong lãnh vực văn chương, những gì có liên quan đến chế độ tư bản hay mang màu sắc văn hóa nước ngoài đều bị thay thế ngay bằng những bài học của những ‘tên ngu đần viết cho đám mù chữ’ mà chế độ cộng sản thường rêu rao là sản phẩm đỉnh cao trí tuệ phát xuất từ ‘cái nôi văn hóa nhân loại’ ! Nhưng rồi chẳng bao lâu, chính bọn cán bộ, từ những tên vừa bập bẹ đánh vần đến những tay văn nô phải bươi thùng rác, lục lọi đi tìm những sách báo đồi trụy cũng như những bản nhạc vàng mà chúng vừa thủ tiêu để đưa về gối đầu giường nghiền ngẫm.

Người ta còn nhớ, một số ít dân miền Nam ít học cũng như đám đón gió, cò mồi và bọn ‘ba mươi’ hăm hở đổ xô ra đường hoan hô cách mạng nhưng chỉ trong vòng một thời gian ngắn thì chúng đã bật ngửa ra rằng cộng sản kéo quân vào Nam không ngoài mục đích cướp của giết người và cái văn hóa đỏ mà chúng bắt dân chúng học tập ngày đêm chính là chủ trương ‘vô tổ quốc’ ‘vô gia đình’ và ‘vô tôn giáo’. Rồi xã hội miền Nam đạo đức đang tốt đẹp bỗng nhiên biến thành địa ngục của lừa lọc, tráo trở, cướp bóc, đâm chém. Nhân phẩm rủ áo ra đi, tình người đâm đầu tháo chạy để nhường chỗ cho sức mạnh của đồng tiền vật chất và sự dối trá lật lọng của xã hội chủ nghĩa. Trong nhà đâm chém nhau, ra đường thì cướp giật, mở miệng đã chưởi thề, thấy của là ‘chôm’ ngay …đó là sản phẩm của xã hội chủ nghĩa với nền văn hóa đỏ, là đỉnh cao trí tuệ của loài người mà cộng sản đã hăm hở đưa từ Bắc vào. Bậc phu huynh đau lòng khi bạo quyền áp đặt việc giáo dục để biến thế hệ trẻ thành những con thiêu thân trụy lạc, dốt nát, mù quáng và cuồng tín để rồi chỉ biết phục vụ và sống chết cho đảng !

Con cháu gia đình nào may mắn vượt biên thành công, hoặc ra đi theo diện đoàn tụ hay theo chương trình HO đều xem như thoát được cái văn hóa rừng rú dơ bẩn và xấu xa do Việt cộng nhồi sọ. Đa số người gốc miền Nam còn bị kẹt lại, nếu còn chút phương tiện đều phải bán nhà, bán đất gom góp tiền của để gởi con ra nước ngoài hầu tránh nọc độc của nền văn hóa đỏ của cộng sản. Đây chính là hình thức ‘tỵ nạn văn hóa’. Đối với cán bộ đảng viên cũng như bọn tỷ phú đỏ, dĩ nhiên chúng đều biết cái văn hóa do chúng đẻ ra là một âm mưu độc hại, dùng để ‘ngu muội hóa’ dân tộc Việt Nam đồng thời ‘thần tượng hóa’ già Hồ và đảng cướp cộng sản, nhưng không dại gì để đám con cháu của chúng vướng phải. Do đó bọn cộng sản từ chí mén đến các tay gộc đều tìm cách xuất khẩu con cái ra ngoài dưới hình thức du học, tức là ‘tỵ nạn văn hoá’. Vấn đề nầy nhắc nhở người Việt nhớ lại, mới ngày nào cộng sản cứ oang oang cái mồm rằng, miền Nam văn hóa thì đồi trụy và phồn vinh thì giả tạo, nhưng bây giờ cả dòng họ chúng nó, chạy chọt bằng mọi giá để con cháu ra nước ngoài học cho bằng được cái ‘văn hóa đồi trụy’ và hưởng phước tối đa cái ‘phồn vinh giả tạo’ của tư bản !

Đối với những gia đình trong nước dù thuộc thành phần nào, nếu gởi được con cái ra xứ ngoài du học thì xem như một dịp ‘tỵ nạn văn hóa’, giúp cho lớp trẻ thoát khỏi những cảnh xấu xa tội ác, thiếu đạo đức, không tình người mà chúng đã bị nhồi sọ kể từ lúc vừa chập chửng biết đi. Nhưng đối với thành phần cộng sản và tỷ phú đỏ, vấn đề tỵ nạn văn hóa không đơn giản như tôi vừa trình bày ở trên. Đó là việc lợi dụng ‘tỵ nạn văn hóa’ để bắc cầu cho việc ‘tỵ nạn chính trị’ sau nầy. Theo thiển ý của tôi, thành phần cộng sản gộc, thì việc cho con cháu học hành đổ đạt ở nước ngoài không quan trọng bằng sự trưởng thành đường lối chính trị rập theo khuôn mẫu chủ nghĩa Marx-Lenin. Chúng cần đào tạo các thế hệ kế tiếp theo đúng đường lối cai trị để con cháu tiếp tục bảo vệ cái ngai vàng mà chúng đã ngang nhiên trị vì từ trên sáu chục năm qua ! Tuy nhiên, dù biết rằng đời sống tự do ở hải ngoại sẽ cám dỗ và làm hư hỏng tư tưởng con cháu, nhưng chúng vẫn gởi ra nước ngoài cả triệu thanh niên đi tỵ nạn văn hóa qua chương trình du học (du sinh) không ngoài mục đích bắc cầu cho một cuộc tỵ nạn chính trị của chúng sau nầy. Nhìn chung thì giới trẻ Việt Nam đã sáng mắt khi va chạm với đời sống tự do ở nước ngoài và người ta không lấy làm lạ khi thấy du sinh học xong đều kiếm cách ở lại nước ngoài và quyết tâm bám phải lấy mảnh đất ‘phồn vinh giả tạo’ của tư bản !

Thành phần nam nữ con cán bộ đảng viên được đưa ra nước ngoài đội lốt tỵ nạn văn hóa với nhiều nhiệm vụ khác nhau: Ngoài mục đích tuyên truyền, chuyển tiền bạc, thực hiện chương trình kiều vận các du sinh còn phải tìm cách kết hôn, kiếm vợ gã chồng, tạo cơ sở, mở đường ‘tỵ nạn’ cho cả gia đình dòng họ của chúng một khi có chuyện ‘đổi đời’ sau nầy. Vậy đây chính là chương trình ‘tỵ nạn văn hóa’ của ngụy quyền Hà Nội !

Việt Nam là một nước được quốc tế liệt kê đứng đầu thế giới về xuất khẩu nô lệ, đỉ điếm và tỵ nạn chính trị. Bây giờ phải ghi thêm vào kỷ lục Guiness về chương trình ‘tỵ nạn văn hóa’. Như vậy cộng sản Việt Nam mới xứng danh là ‘đỉnh cao trí tuệ loài người’ và ‘cái nôi văn hóa của nhân loại’ !.

Đinh Lâm Thanh



Bị Đẩy Vào Đường Cùng, CSVN Sẽ Tìm Một Lối Thoát - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Ngày 16.5.2009, trong buổi tâm tình của cựu Đại Sứ Bùi Diễm với cộng đồng người Việt tại Paris, ông đã nói một câu dí dỏm nhưng thật sâu sắc : Tàu và Mỹ là hai con voi đang tranh giành vùng biển Đông, nếu chúng ‘đánh nhau’ trên đất nước chúng ta, chúng ta sẽ chết mà chúng ‘làm tình’ trên đất nước chúng ta thì chúng ta cũng phải chết !

Đúng vậy, trước đường lối ngoại giao và kế hoach quân sự của Mỹ hiện nay đối với vùng Biển Đông cũng như âm mưu bành trướng thế lực của Tàu Cộng đang lan dần xuống đến các quốc gia Đông Nam Á mà Việt Nam là ‘chiến địa xuất phát’ thì đất nước chúng ta đang ở trong thế kẹt giữa hai gọng kềm là củ Cà-Rốt-Cây-Gậy’ của Mỹ và áp lực ‘Lấy-Thịt-Đè-Người’ của Trung cộng. Hơn nữa, sự nổi dậy của người dân trong nước đã xé đôi đảng cộng sản ra làm hai, một nửa theo Tàu Cộng, một nửa có khuynh hướng ngã theo Mỹ … Vậy trước viễn ảnh đen tối, tập đoàn Đảng cộng sản Việt Nam sẽ tìm một lối thoát để tự cứu lấy quyền lực, tính mạng và tài sản của chúng.

Từ Thế Vận Hội Bắc Kinh 2008, nhiều người cho rằng Trung cộng sẽ dạy cho Việt Nam thêm một bài học thứ hai, hay nói đúng hơn, là Trung cộng sẽ xua quân đánh chiếm Việt Nam. Nhất là gần đây, Tàu cộng đã lợi dụng việc khai thác Bauxite để đưa quân đội qua chiếm đóng nhiều vị trí. Công an và dân Tàu vào định cư theo thế cài răng lược trên khắp lãnh thổ thì nhiều nhà chính trị cho rằng Tàu cộng đang chuẩn bị một cuộc chiến tranh chớp nhoáng. Nhưng theo thiển ý của tôi, không bao giờ Trung cộng xua quân tràn qua một cách ồ ạt đánh chiếm đất nước chúng ta theo hình thức chiến tranh cổ điển. Lý do thật đơn giản là đảng cộng sản đã tình nguyện trở thành đàn em, trở thành chư hầu nô bộc, chấp nhận làm thuộc địa thì Tàu cộng cần gì phải đánh đấm cho mang tiếng ! Đàng nào quân đội, súng đạn và các phương tiện chiến tranh thì chúng đã thiết kế sẵn trên các điểm và vùng chiến lược. Ngoài ra Tàu cộng đã nắm chắc trong tay những tên đầu sỏ của bộ chính trị, quân đội nhân dân cũng như hệ thống kềm kẹp thì xem như Việt Nam đã an bài sẵn trong kế hoạch của chúng. Hơn nữa, nguồn sống quan trọng và thiết yếu nhất của Việt Nam là hai vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cữu Long đang dưới tầm sinh sát của Tàu cộng. Chúng chỉ cần xả đập nước đầu sông Mêkông nằm trong đất Tàu hay bắn vài quả đạn vào hệ thông đê điền đầu nguồn sông Hồng thì hai vùng đồng bằng Bắc Nam Việt Nam sẽ chìm sâu trong biển nước. Hoặc Trung cộng cứ xua các đạo quân Tàu đói qua lập nghiệp, cưới vợ gả chồng với người Việt thì chỉ trong một thời gian ngắn Việt Nam sẽ bị đồng hóa thành một tỉnh nhỏ của Trung quốc. Tàu cộng là thầy của già Hồ đâu phải áp dụng việc trồng người trăm năm mà chỉ cần một chục năm thì tất cả người Việt trên mảnh đất hình chữ S đều sáng mắt ra vì cháo trắng hột vịt muối ! Hơn nữa, về mặt chính trị, đàn anh Tàu chưa kịp ‘đánh rắm’ thì đảng cộng sản Việt Nam từ trên xuống dưới đã một mực ‘nhất trí’ vâng dạ. Vậy Tàu cộng còn mang quân sang đánh đấm làm gì cho phí sức, hao tốn đạn dược mà lại mang tiếng với quốc tế !

Sau khi Liên Sô và các nước Đông Âu làm cuộc cách mạng xanh, liệng thuyết cộng sản và quan thầy Mác-Lê vào sọt rác thì đảng cộng sản Việt Nam vẫn ‘cố đấm’ bám chặt đàn anh duy nhất là Tàu cộng để duy trì cái ‘vỏ cộng sản ‘ nhằm bảo vệ ngai vàng và tiếp tục duy trì quyền lực cái đảng quái gở mà thế giới loài người đang ghê tởm. Trong lúc đó, Tàu cộng thì ngang nhiên xem cộng sản Việt Nam như một tên đầy tớ trung thành sẵn sàng thi hành mệnh lệnh và sống chết với chủ. Điều nầy cũng không có gì lạ vì Tàu cộng đã nắm ngay yết hầu của những tên đầu sỏ trung ương bộ chính trị. Nhưng thật ra, lúc nầy ngụy quyền cộng sản đang ở vào thế cởi cọp giữa lúc tình hình chính trị cũng như quân sự đang trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng. Có thể nói rằng Việt Nam đăng thoi thóp giữa ba gọng kìm : Thứ nhất, đàn anh Tàu cộng gian ác, tàn bạo và xỏ lá…đã bạch hóa cho mọi người biết những chuyện mà chúng áp đặt lên đầu lên cổ đảng cộng sản Việt Nam. Những bí ẩn như mua đất, bán biển Đông, khai thác Bauxite đến kế hoạch đưa người vào đồng hóa dân tộc đã xô bạo quyền cộng sản đến chỗ chết. Thứ hai, người bạn Mỹ cũng đểu cán không kém với chiến thuật ‘cái gậy-củ cà rốt’, cộng thêm đàng sau là cả một khối tự do Tây Phương đang thúc vào hông, đấm vào mặt đảng cộng sản Việt Nam về các vấn đề nhân quyền, tự do dân chủ. Thứ ba, người dân trong nước đã tỉnh thức vùng dậy đòi quyền làm người, đòi tự do dân chủ và no cơm ấm áo, người Việt hải ngoại đồng loạt đứng lên hỏi tội tập đoàn cộng sẳn.

Nhìn chung thì đảng cộng sản Việt Nam không lo lắng nhiều việc quan thầy Tàu cộng bỏ rơi vì chúng đã tận tình cam kết trở thành một tên đầy tớ ngoan ngoãn. Nhưng đối với Mỹ và thế giới tự do thì ngụy quyền Hà Nội chuyên môn giở thói ù lì, tráo trở cố hữu để kéo dài sự sống. Trong nước chúng ra sức bịt miệng người dân, kiểm soát các phương tiện truyền thông và gia tăng hàng rào kẽm gai đối với ai có thái độ chống đối. Nhưng theo thiển ý của tôi, tình hình hiện tại không cho phép đảng cộng sản Việt Nam ngồi yên mà chúng phải kiếm một lối thoát để :

1. Kéo cứu chế độ đang trên đà tuột dốc.

2. Che mắt thế giới và những người Việt nhẹ dạ rằng cộng sản Việt Nam đã đổi qua một trang sử mới, chấp nhận đa đảng với đối lập để hòa giải hòa hợp dân tộc.

3. Xoa dịu sự phẫn nộ của dân chúng trong nước trước cao trào chống đối từ ôn hòa đến bạo động. Nhất là giới trẻ bắt đầu đứng dậy đặt vấn đế với bạo quyền cộng sản.

4. Làm ô dù để bảo vệ tính mạng và tài sản, đồng thời tạo thời cơ kiếm đường tẩu thoát một cách ngôn chính danh thuận một khi người dân nổi dậy hỏi tội tập đoàn cộng sản.

Như vậy đảng cộng sản có thể chọn một trong hai giải pháp :

A. ‘CHIA ĐỂ TRỊ’: Sự ran nứt trầm trọng giữa hai nhóm cộng sản gốc Bắc và Nam, hay có thể nói là thân Tàu thân Mỹ sẽ đưa đến tình trạng đảng cộng sản tách đôi nước Việt Nam ra làm hai, tức là chia vùng để trị. Có thể chúng sẽ lấy sông Bến Hải (Quãng Trị) hay sông Hương (Thừa Thiên) để chia đôi Việt Nam một lần nữa. Nhưng dù bên nào, phía nào, cộng sản cũng vẫn là cộng sản ! Dù phải chia năm xẽ bảy mảnh đất quê hương thì cộng sản cũng không bao giờ từ chối. Để còn quyền lực và còn cơ hội hút máu đồng bào thì dù Trời có sập chúng nó cũng không bao giờ từ chối những việc trái với đạo lý, ngược với quyền lợi của dân tộc. Chỉ đau khổ cho dân tộc Việt Nam : Miền Bắc thì cộng sản đội Tàu, biến dân trở thành nô lệ phục vụ cho quan thầy. Trong miền Nam, cộng sản sẽ dựa vào Mỹ và bám vào Đế quốc hầu giữ vững ngai vàng và tiếp tục bóc lột dân chúng. Hai con voi Tàu và Mỹ tạm thời bắt tay nhau (chưa nói đến tình trạng ‘làm tình’ !) trên mảnh đất quê hương thì người dân Việt đã chết ! Miền Bắc rước Tàu vào, miền Nam chạy theo Mỹ, rồi dân tộc Việt Nam vẫn luôn luôn trong tình trạng bị nô lệ, chỉ có bọn quỷ đỏ cộng sản ngày đêm bám vào gấu quần của quan thầy Tàu cũng như đế quốc Mỹ để hưởng lợi mà thôi !

B. CHẤP NHẬN ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG: Cộng sản Việt Nam sẽ dàn cảnh hợp tác với một số thành phần trong cũng như ngoài nước, chính thức kêu gọi hòa giải hòa hợp thành lập chính phủ đa đảng (từ trước đến nay, cộng sản chưa lên tiếng kêu gọi hòa giải hòa hợp mà chỉ do những cò mồi từ trong nước ra đến hải ngoại đánh trống thổi kèn mà thôi). Nhưng cần lưu ý một điều, đảng cộng sản sẽ lên tiếng mời gọi thành phần nào ? Trong nước, dĩ nhiên là những đảng ‘dân chủ trá hình’, ‘dân chủ cuội’ hay những tổ chức ‘dân chủ dễ dạy’. Ở nước ngoài là thành phần các đảng phái thường hô hào chống cộng nhưng đã từng đi đêm hợp tác chia phần, những cá nhân cò mồi dễ bảo và những người đã từng lên tiếng đòi hòa giải hòa hợp với cộng sản. Cùng lắm, để che mắt, chúng sẽ mời một vài người chống cộng thuộc thế hệ Việt Nam Cộng Hòa trước kia, nay bị tâm thần, lão hóa và đầu óc chỉ còn bơ sữa…vào làm cảnh cho đủ mặt bá quan văn võ.

Kế hoạch có thể chia làm hai gian đoạn:

- Giai đoạn một: Nới rộng chính phủ, ‘tuyển chọn’và cho phép người đối lập trong nước cũng như người Việt nước ngoài về ứng cử quốc hội, nhưng bao giờ đảng cộng sản vẫn giữ đa số, vẫn nắm quyền lực. Tiếp đến chúng sẽ âm mưu dàn cảnh xáo trộn đời sống kinh tế, xã hội cũng như chính trị, nghĩa là chúng sẽ tạo nên một xã hội đã thối nát lại càng thối nát, đã nghèo đói càng nghèo đói và đã xấu xa lại càng thêm xấu xa…để chứng tỏ cho thế giới cũng như người dân quốc nội cũng như hải ngoại thấy rằng : Đa đảng, hòa hợp với các thành phần đối lập trong nước cũng như tự do hải ngoại cũng chỉ là một đống rác vô tích sự rồi…cộng sản sẽ tiến đến âm mưu giai đoạn hai :

- Giai đoạn hai: Lấy cớ xã hội bất an, chúng dẹp ngay hình thức đa đảng đa nguyên, chính phủ cũng như cái quốc hội bù nhìn và rồi cộng sản sẽ nắm lại quyền lực theo con đường độc tài thống trị của chúng.

Nếu trong trường hợp tình hình chính trị quân sự thế giới có ảnh hưởng lớn và áp lực mạnh vào nội bộ Việt Nam, hoặc do những biến chuyển trong nước buộc đảng cộng sản phải hoặc tự giải thể thì chúng sẽ chọn con đường cuối cùng là chạy ra nước ngoài một cách an toàn và hợp pháp.

Theo thiển ý của tôi, tôi tin một cách chắc chắn rằng chế độ bạo quyền cộng sản sẽ bị giải thể trong một ngày gần đây và bọn quỷ đỏ sẽ trốn chạy ra nước ngoài như một cuộc tỵ nạn chính trị với hàng triệu đảng viên và gia đình cộng sản. Chúng ra nước ngoài để tiếp tục hưởng thụ những gì mà chúng đã cướp và cất giấu được từ trên ba mươi năm nay. Bấy giờ quê hương Việt Nam còn lại không có gì hơn ngoài một gia tài rách nát, một xã hội vô luân và một nền văn hóa đồi trụy !

Những ông bà bấy lâu nay hăm hở về hợp tác với Việt cộng, ứng cử đại biểu nhân dân có đã chuẩn bị ‘điếu đóm’ và chương trình gì để ‘nâng bi’ ‘đội đĩa’ tập đoàn cộng sản chưa ? Chuyện về hợp tác với cộng sản là việc của các ông bà nhưng hãy cẩn thận khi chơi với cọp, đùa với rắn và nhảy vào lửa. Coi chừng bị cọp xơi tái, rắn mổ vào đầu và lửa đốt cháy ngay từ phút đầu tiên, để rối sử sách sẽ ngàn đời nguyền rủa về những vét dơ do những tên ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản như trường hợp ông bà để lại …

Riêng đối với thế hệ trẻ Việt Nam, những nhà tranh đấu trong cũng như ngoài nước, là những người thường trăn trở cho vận mạng và tương lai đất nước, những người đã đồ mồ hôi và xương máu đấu tranh cho dân chủ nhân quyền…quý vị đã nghĩ đến những chương trình ngắn, trung và dài hạn nào để có thể kịp thời vãn hồi an ninh trật tự, đem lại tự do hạnh phúc và no cơm ấm áo cho người dân một khi ‘đổi đời’ một lần nữa cũng như hàn gắn những đau lòng và xấu xa của Việt Nam sau thời hậu cộng sản ?

Đinh Lâm Thanh
Cali, 09.06.09

Nhân Ngày Quân Lực, Chúng Ta Tưởng Nhớ Những Anh Hùng Vô Danh - Đinh Lâm Thanh




Đinh Lâm Thanh

Từ 34 năm nay, ngày Quân Lực 19.6 chúng ta không bao giờ quên vinh danh tưởng niệm những Sĩ Quan Cấp Tá và các Vị Tướng Lãnh đã anh dũng hy sinh tính mạng ngay trong lúc phải buông súng đầu hàng. Hôm nay chúng tôi rất vinh dự tôn vinh những VỊ ANH HÙNG VÔ DANH đã chiến đấu dưới cờ, bất chấp sinh mạng để bảo vệ giang sơn tổ quốc trong suốt cuộc chiến cũng như trước giờ thứ 25, ngày cuối cùng của Đất Nước.

Họ là :
- Những người lính không có số quân, những người vợ của các anh em binh sĩ đã cùng chồng chiến đấu anh dũng ngay tại các giao thông hào, trong các đồn bót để bảo vệ từng tất đất quê hương yêu dấu của chúng ta.

- Những chiến sĩ áo vải, nghĩa quân, nhân dân tự vệ và xây dựng nông thôn đã sống với dân và chiến đấu giữa lòng địch, dù được trang bị thô sơ nhưng những chiến sĩ áo vải vẫn một mực đeo đuổi lý tưởng chống cộng cho đến hơi thở cuối cùng

- Những người anh hùng vô danh, những chiến sĩ thám báo, biệt kích … ngày đêm hành quân trong rừng, cô đơn, đói khát và âm thầm hy sinh cuộc đời sau ngày giặc kéo vào. Người đời còn ai nhớ đến những người con thân yêu của đất nước nầy không ?

- Những chiến sĩ Công An, Cảnh sát đã sống với dân để bảo vệ dân trong mọi hoàn cảnh từ thời chiến cũng như thời bình, và, họ đã hy sinh vào những giây phút cuối cho đồng bao ruột thịt.

- Những sĩ quan cấp nhỏ, những hạ sĩ quan cũng như anh em binh sĩ các quân binh chủng, các nghành đã anh dũng chiến đấu cuộc trân chiến và ngay cả giây phút cuối cùng, những anh hùng vô danh nầy vẫn can đảm cầm chân địch để cho dân miền Nam an toàn xuống ghe tàu vượt biển đi tìm tự do.

- Những tù nhân cải tạo đã âm thầm chết trong ngục tù, những người bất hạnh nầy không bao giờ ngờ rằng, một ngày nào đó, vòng tay của thế giới tự do sẽ rộng mở để chào đón họ sau ngày phóng thích !


Các anh, các chị đã chết để cho chúng tôi được sống. Hôm nay chúng tôi xin đốt lên những ngọn nến để tưởng niệm và tôn vinh anh chị là những ANH HÙNG VÔ DANH. Xin vong linh anh chị và hồn thiêng sông núi phù hộ cho cuộc tranh đấu của toàn dân chóng đến ngày thành công.

Đinh Lâm Thanh
Ngày Quân Lực 19.6.2009

Nhạc Sĩ Tô Hải, Hèn hay Không Hèn? - Đỗ Văn Phúc

Đỗ Văn Phúc

Có ai trong chúng ta - những người sinh ra và lớn lên tại miền Nam trong suốt cuộc chiến chống Cộng – mà không từng thưởng thức với sự ngưỡng mộ những lời ca bay bướm và âm điệu valse chậm rãi, nhẹ nhàng của bài Nụ Cười Sơn Cước của nhạc sĩ Tô Hải?

Tô Hải có lẽ là một nhạc sĩ ít có nhạc được phổ biến so với những tài năng khác thời tiền chiến. Nhưng hề gì, sanh ra một con họa mi vẫn tốt hơn đẻ ra một bầy chim tu hú. Dù những nhạc sĩ tài hoa miền Bắc đã ở lại phục vụ chế độ Cộng Sản, các bản nhạc của họ vẫn được quân dân miền Nam rộng lòng đón nhận và đặt vào đúng vị trí xứng đáng trong nền âm nhạc miền Nam.

Chúng ta biết phân biệt rành mạch giữa tài năng văn nghệ và xu hướng chính trị trong mỗi con người. Đó là nét đẹp cao quý của chế độ dân chủ tự do, khác hẳn với sự trù dập trong chế độ độc tài Cộng sản đối với bất cứ ai không có chung quan điểm với họ.

Mười bảy tuổi, Tô Hải đã đi theo kháng chiến như bao thanh niên yêu nước thời bấy giờ và đã kẹt lại trong guồng máy Cộng Sản. Ông gia nhập đảng Cộng Sản rất sớm, và từ đó đến nay đã hơn 60 năm ông đã liên tục phục vụ đắc lực chế độ như một đặc công văn nghệ. Ông leo lên cấp ủy của đảng CSVN nhờ sự cúc cung tận tụy cho đảng cho đến năm 65 tuổi mới chịu về hưu.

Hơn 60 năm, trải qua bao kinh nghiệm về Cộng Sản mà mới đây ông đã tiết lộ ra trong cuốn “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn”, ông vẫn âm thầm chịu đựng mà không một lần phản kháng. Bạn bè ông, nhiều người đã đứng hẳn lên như trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, có vị đã tỏ ra tiêu cực phản đối hoặc bất cộng tác với cái chế độ phi nhân đó.

Những năm đấu tố cải cách ruộng đất, cha mẹ vợ ông đã bị bọn cán bộ thảm sát. Ông biết họ bị oan “Gia đình vợ tôi chẳng có một tấc đất nào, nhưng bị đẩy lên ... (hàng) địa chủ” Đứa con trai của Tô Hải, do cha mẹ vợ chăm sóc thì: ”… một thằng bé, không, một cái xác trẻ con gầy guộc xám ngoét. Ðó là thằng con yêu quý của tôi. Nó chỉ còn thở thoi thóp sau bảy ngày chỉ sống nhờ những lá rau lang, mà ông bà ngoại ngắt về từ mấy luống khoai trồng trước nhà, mớm cho .... “

Ấy thế mà người đảng viên Tô Hải đã phải tỏ ra dửng dưng, dứt khoát với “kẻ thù giai cấp” để bảo toàn an ninh và sự nghiệp của mình.

Rồi chính Tô Hải đã từng viết ra nhiều bản nhạc ca tụng tên đồ tể Hồ Chí Minh để sau này đã được chính Hồ Chí Minh và bọn lãnh tụ chóp bu của Cộng Sản ban cho nhiều huân chương, huy chương, khen thưởng.

Nói đến chữ hèn, là nói đến sự nín lặng, chịu đựng bất công, đàn áp mà không dám lên tiếng rên la, phản kháng. Chung quy, những văn nghệ sĩ trong chế độ CS hèn là vì an toàn bản thân trước sự dòm ngó, quấy nhiễu của công an, trước sự đe doạ của án tù đăng đẳng mệnh danh “cải tạo”. Họ hèn vì cái tem phiếu với tiêu chuẩn hàng tháng mấy “lạng thịt lợn”, mấy “cân gạo”, chút “mì chính”… mà người dân thường không ai có được. Họ hèn vì căn phòng tập thể 5, 7 mét vuông cho cả một gia đình nhung nhúc chục nhân khẩu, so với những chòi lá rách nát của người dân.
Hãy nghe Tô Hải nói trong khi trả lời phỏng vấn của Mặc Lâm, Đài Á Châu Tự Do (RFA) ngày 7 tháng 6, 2009 vừa qua:

“… chớ còn đời sống vật chất thì giữa lúc nhân dân đau khổ, kiếm từng miếng thịt, kiếm từng miếng đậu phụ, thì dân văn nghệ cũng không đến nỗi. Anh nào càng viết được nhiều, càng nịnh bợ được nhiều thì anh đó lại càng được hưởng quyền lợi hơn. Anh vào được cái chức ban chấp hành, anh vào được cái chức tổng thư ký, mà tất cả đều là cơ quan của đảng và nhà nước, thì anh ăn lương.”

Vì thế, đám văn nghệ sĩ Bắc Việt cam tâm làm văn nô, thi nô, nhạc nô, hoạ nô, sáng tác theo lệnh của đảng để lừa bịp nhân dân mà không hề thấy lương tâm xót xa.

Có mấy ai như Phùng Quán, Phan Khôi, thẳng thắn hiên ngang chửi vào mặt bọn cường quyền bằng những bài thơ, bản văn vạch trần sự bỉ ổi của chúng? Có mấy ai như nhà thơ .... làm hàng trăm bài thơ chửi thẳng vào “thần tượng” Hồ Chí Minh và chế độ CS ngay trong lòng chế độ ở Hà Nội.

Có mấy ai can đảm như Hữu Loan, bỏ đảng, bỏ lính mà trở về quê xưa, lấy người con gái của một địa chủ bị đấu tố làm vợ, chấp nhận cuộc sống lao động cực nhọc trước bao nhiêu quấy nhiễu, đe doạ cuả công an.

Tô Hải không chỉ hèn như ông đã tự thú.

Nhiều người đã lên tiếng, ghép thêm cho ông nhiều tĩnh từ thậm tệ hơn. Chúng tôi không muốn nhân đây, hùa vào đánh thêm những đòn đau đớn cho một cụ già đã 83 tuổi gần đất xa trời.
Không rõ Tô Hải đã có nhận thức này từ bao giờ: “Cái gọi là chủ nghĩa Cộng Sản chính là một tà giáo đại bịp nhất trong lịch sử loài người mà những tên lãnh tụ tối cao của chúng dựa vào để gây chiến tranh nồi da xáo thịt, để tiến hành âm mưu hiểm độc tiêu diệt mọi lòng tin khác, mọi nhận thức, mọi tình cảm, mọi tình yêu, kể cả lòng yêu nước của con người”. (HKCMTH, trang 415)

Cái chủ nghĩa đó có mặt ở Việt Nam từ năm 1930, cầm quyền từ năm 1945, mà cho đến thập niên đầu của thế kỷ 21, ông mới chịu “can đảm” nói ra, sau gần 60 năm ngụp lặn trong vũng bùn tanh hôi đó.

Trong hồi ký, ông cũng nêu ra vài trường hợp những người không hèn mà ông biết rõ cảm phục. Nhưng tuy biết, cảm phục, ông vẫn không chịu phản tỉnh sớm cho dân chúng nhờ.

Vì thế, chúng tôi hoàn toàn phản bác ý kiến của nhà phê bình Ngô Nhân Dụng cho rằng: “nhạc sĩ Tô Hải không hèn. Ông đã dành hàng chục năm cuối của cuộc đời kể tội chính mình. Ông nằm trên giường bệnh nhưng vẫn vào mạng lưới Internet, trở thành người giữ blog lớn tuổi nhất Việt Nam, nêu gương sáng cho lớp thanh niên. Thông điệp ông gửi cho giới trẻ, cho đồng bào, cho cả những người từng là đồng chí của ông còn trong đảng Cộng Sản, là: Chúng ta không được phép sống hèn nữa. … Phải can đảm phi thường thì một người ở tuổi 83 mới làm được công việc đó“.

Đài RFA đã khen Tô Hải là: ”người nhạc sĩ tài hoa nhưng bất khuất“. Thú thực, tôi chẳng biết hai chữ bất khuất có quá bị lạm dụng không? Và như thế, trường hợp Trần Khải Thanh Thủy, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Linh Mục Nguyễn Văn Lý… phải dùng tĩnh từ nào cho xứng đáng?

Điều đáng lưu ý là những vị cựu đảng viên "Phản Tỉnh" như Bùi Tín, Hoàng Minh Chính, Trần Khuê, Trần Độ, Nguyễn Thanh Giang … phải chờ cho đến khi cuối đời, hoặc bị thất sủng mới có "cam đảm" nói ra những nhận định, những oan trái mà thời thanh niên tràn sức sống, đầy nhiệt tình, họ đã HÈN HẠ chịu đựng? Họ thừa biết ở vào cái tuổi gần đất xa trời của họ, bọn cầm quyền Cộng Sản cũng chẳng thèm hành hạ thêm làm gì cho mang tiếng, ngoài việc viết dăm ba bài báo chửi rủa hay cho du côn quậy phá tư gia. Cho nên, không thể dùng chữ hèn những trường hợp này, mà đó chính là sự mù quáng, ngu si, thiếu tính người, hùa theo bạo quyền để mưu lợi trên xương máu dân tộc.

Theo lời kể của một người trong gia đình Tô Hải, thì sau đình chiến, bố ông vào Nam còn ông ở lại phục vụ CS. Chị (hay em gái ông) lấy một sĩ quan cao cấp VNCH. Sau 1975, ông vào Nam, đi thăm mộ cha, thấy tấm bia ghi hàng chữ: "Hiền tế Thiếu Tướng LQT phụng lập". Tô Hải đã biểu lộ bản chất CS mất dạy của mình bằng cách lớn tiếng chửi bới và ra lệnh đập vỡ tấm bia mộ cha mình. (theo một bài viết của Thiết Trưởng, đăng trong Đặc san Ức Trai số Xuân 2009, phát hành tại California)

Hồi Ký Của Một Thằng Hèn có thể được coi là một chứng cớ có giá trị để buộc tội một chế độ dã man đểu cáng. Mọi người Việt Nam đều cần đọc để hiểu thêm về những năm tháng đen tối của tổ quốc. Nhưng xin hãy trả lại cái danh xưng mà tác giả đã tự nhận. Xin đừng biện bạch hay công kênh lên vai một người “can đảm” mà họ không hề chứng tỏ ra như từng làm với các “nhà phản tĩnh” Bùi Tín, Hoàng Minh Chính …

Lại nhớ về ngày Quốc Hận 20-7-1954
Đỗ Văn Phúc