Thursday, June 18, 2009

Chuyện Những Người Đẻ Gần Kho Đạn - Huỳnh Văn Phú

Huỳnh Văn Phú

Tôi có người bạn trước kia phục vụ trong ngành Quân Cụ, chuyên lo về xe cộ, súng ống, đạn dược. Anh có cái tài biến chiếc “Rép” nhà binh thành xe “Rép” dân sự dễ dàng. Cách thức biến hóa ra sao thì quả tình tôi bù trất. Anh là một con người đặc biệt, chỉ lo để ý đến xe cộ nhiều hơn là ghé mắt vào mấy cái thứ gây ra tiếng nổ chết người như đạn, mìn v v... Do đó, tuy hàng ngày phải chạm mặt với chúng nhưng anh không hề bị tiếng nổ của đạn ảnh hưởng đến tâm tính. Tôi phục anh lắm. Sống gần với đạn dược, nghe đạn nổ mỗi ngày mà anh không hề “Nổ”.

Tại sao tôi nói tiếng nổ của đạn ảnh hưởng đến tính tình con người ? Cũng dễ hiểu thôi, tiếng nổ mỗi ngày thấm dần vào da, thịt, máu, lên tới óc, vô trung khu thần kinh gây ra căn bệnh “nổ”. Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng mà ! Đó là chứng bệnh của “Những Người Đẻ Gần Các Kho Đạn”. Đạn nổ thì làm chết người nhưng mấy anh chàng nổ chẳng làm “chết” ai cả. (Thật ra cũng có một vài trường hợp các người đẹp vì tin lời các chàng “nổ” mà “chết” cả một đời. Khi nhận biết ra chàng đã “nổ” để “tán” mình thì lúc ấy ván không phải đã đóng thuyền mà là đóng “thùng” rồi !).

Đạn thì có nhiều loại. Đạn súng lục, súng trường, súng tiểu liên, súng đại liên. Còn đạn đại bác thì cũng có đủ loại như 105 ly, 155 ly, 175 ly hay loại 130 ly của Liên Sô bắn xa 27 cây số v v... Mỗi loại gây ra tiếng nổ lớn nhỏ khác nhau và tác hại cũng khác nhau. Con người “nổ” cũng theo quy luật như thế. Người nổ ít, kẻ nổ nhiều, hay dở tùy trình độ.

Nổ cũng là một hình thức nói phét, chỉ khác nhau về cường độ và hoàn cảnh. Người nói phét và người nổ có chung một điểm là nói những điều không có, những điều nằm trong trí tưởng tượng của họ nhiều hơn là sự thật, và làm “vui tai” người nghe không ít. Nói phét thì không cần ngòi nổ, còn muốn cho đạn nổ thì phải có “kích hỏa” hay ngòi nổ mới làm cho đạn phát nổ.

Người nổ cũng giống như đạn nổ, nghĩa là phải có “ngòi nổ”. Ngòi nổ có thể là một người đẹp đang đứng trước mặt, có thể là trong một bữa tiệc, có thể là sau một chuyến đi xa trở về, cũng có thể là một chuyến về thăm lại quê hương v v... Cường độ nổ của người nổ được một nhà văn có tí máu khôi hài mô tả như sau: ”Trong một phút có 60 giây thì anh ta nổ hết 59 giây, bạn chỉ có duy nhất một giây để gật gù cái đầu của bạn thôi chứ không thể xen vào câu chuyện với ý kiến ý ong gì hết.”

Nếu tiếng nổ của đạn lớn hay nhỏ tùy theo loại đạn thì người nổ cũng đa dạng không kém. Người có học và vô học, cách nổ và đề tài nổ khác nhau.

Bây giờ ta thử điểm qua một số các “thể loại” nổ xem sao. Những dạng “nổ” này, ta thường bắt gặp trong đời sống hàng ngày. Cũng như nói phét, bàn về nổ thì những anh cán ngố Việt Cộng vẫn là vô địch thế giới (nổ theo kiểu khẩu hiệu “chủ nghĩa Mác-Lênin vô địch bách chiến bách thắng muôn năm) dán khắp hang cùng ngõ hẻm vậy). Sau ngày Việt Cộng cưỡng chiếm được miền Nam, cái đau khổ của phe ta khi vào tù là phải nghe chúng “Nổ”. Những tiếng nổ chát chúa, kéo dài ngày này sang ngày khác, nổ liên hồi kỳ trận tựa hồ như mỗi tên cán ngố đều có gắn cục pin dưới đít và công tắc luôn luôn ở vị trí “on”. Bất cứ buổi lên lớp nào trước mấy chàng cải tạo đau khổ của phe ta, trăm tên cán ngố đều “nổ” một giọng điệu như nhau:

“Ta đã đánh thắng hai đế quốc sừng sỏ là Pháp và Mỹ thì sá gì ba cái chuyện làm kinh tế. Kể từ ngày dựng nước và bảo vệ nước, đây là thời kỳ huy hoàng nhất trong lịch sử nước ta. Dân tộc ta thông minh, cần cù, tài nguyên thiên nhiên dồi dào, tiền rừng bạc bể, nhất định trong kế hoạch bản lề 5 năm tới, nước ta sẽ vươn lên trở thành một trong những nước có nền công kỹ nghệ hàng đầu của thế giới”.

Tức cười một điều là, cán ngố thì nổ như thế, trong khi đó bà Nguyễn Thị Bình lại kêu gọi thế giới hãy viện trợ cho Việtnam một triệu cái cuốc. Con trâu đi trước, cày cuốc theo sau thì Cộng Sản Việtnam sẽ làm cho thế giới kinh ngạc là phải. Và cho đến bây giờ, sau hơn 30 năm, thế giới vẫn còn tiếp tục kinh ngạc vì sự chậm tiến và nghèo đói của quốc gia này. Nổ như thế là kiểu nổ của Hoàng Trung Thông:

“Với sức người sỏi đá cũng thành cơm”

Hay của văn nô Tố Hữu:

“Chân dép lốp bước lên tàu vũ trụ”

Ghê quá ! Quý vị thử hình dung một tên Việt Cộng mang dép lốp (tức là dép râu, loại dép làm bằng vỏ bánh xe hơi phế thải) bước lên phi thuyền của thiên hạ bay (ké) vào vũ trụ thì cái sự nổ đó kỳ quái và trâng tráo như thế nào. Việt Cộng “nổ” là do bản chất, do cái chủ nghĩa “nổ” Mác-Lênin dạy dỗ những con người Cộng sản lúc nào cũng phải biết nổ và nổ.

Còn phe ta “nổ” là do đẻ ra và lớn lên gần các kho đạn bị đặc công Việt Cộng phá hoại. Ngoại trừ mấy anh chàng nổ với các người đẹp để bắt tí ái tình còm hay kiếm vợ, còn phần lớn ‘nổ” chỉ để chứng tỏ ta đây là siêu việt siêu quần, là cũng hết xẩy con cào cào như ai. Cũng có một số người nổ vì bắt chước theo chủ nghĩa A.Q của văn hào Lỗ Tấn (A.Q chính truyện) bằng sự thắng trận tưởng tượng hay tự cho rằng trước kia ta cũng xuất thân từ dòng dõi trâm anh, thế phiệt.

Lúc chưa mất nước, tôi có một người quen ở trong quân đội. Cấp bậc anh ta là Hạ Sĩ thôi nhưng khi ra khỏi nhà đến thăm người yêu thì anh ta đeo lon Trung Úy. Nhờ cái sự “nổ” từ Hạ Sĩ lên Trung Úy này mà anh cưới được nàng. Đây là chuyện có thật chứ tôi không hề phịa. Tôi còn nhớ, lúc tôi mới ra trường Võ Bị, mang lon Thiếu úy, chỉ huy Trung đội, đi hành quân ở Phước Tuy, tôi thường đội cái nón vải trên có gắn một hoa mai (bọn tôi gọi là lon phụ đề Việt ngữ vì lon TQLC là những vạch trắng, phần lớn dân chúng ở vùng quê không rành). Một tên đệ tử của tôi tên là Hường, lợi dụng lúc tôi ngủ trưa, hắn lén lấy cái nón của tôi đội đi ra chợ Bà Rịa “dợt le” với mấy cô thợ may. Tôi không hề biết chuyện ấy cho đến một hôm tôi nghe lính tráng trong đơn vị tôi nói về tên Hường với cái danh xưng là “Hường Nổ”:

- Cái thằng Hường đó “nổ” dễ sợ. Nó dám lấy cái nón có gắn một bông mai của Thiếu Úy đội ra chợ và tự xưng là thiếu úy để “tán” mấy cô thợ may.

Tôi hỏi tên đệ tử của tôi: - Cậu có lấy cái nón của tôi đội ra chợ tán đào đấy à ?
Hắn cười trừ, thú nhận: - Dạ, em mượn đi dợt le một tí mà.

- Thảo nào, hôm qua có một cô đến đây hỏi tôi có biết thiếu úy Hường không, té ra là cậu.

Hắn tâm tình với tôi: - Thiếu úy à, coi bộ nàng “chịu” em rồi đó. Em rất cám ơn cái nón của thiếu úy.

- Sao cậu không cám ơn tôi mà lại cám ơn cái nón ?
- Có cái nón ấy em mới “nổ” được chứ.

- Thế cậu đẻ gần gần kho đạn Long Bình hay Cát Lái ?

- Quê em ở Bình Dương mà.

- Ở trên đó có kho đạn nào không mà sao cậu “nổ” quá vậy ?

Tên đệ tử của tôi hiểu ra, có vẻ mắc cở và lỉnh đi chỗ khác.

Những năm sống trong các trại tù Cộng Sản, tôi cũng đã từng chung đụng và phải nghe những cây súng đại liên nổ dữ dội. Họ nổ về những ngày tháng cũ trong quân ngũ của họ với những hành động xuất quỷ nhập thần, những chiến công hiển hách, những màn ăn chơi vung vít khắp các chốn xa hoa, về cái sự tiêu xài tiền bạc như nước của họ, về những giai nhân tuyệt sắc mà họ quen biết v.v... Một khẩu “đại bác” gốc giáo chức biệt phái, từng nằm bên cạnh tôi, nổ về cái vụ ra ứng cử dân biều của anh ta:

- Hồi tôi ra ứng cử dân biểu, tôi cho học trò của tôi đi khắp các tỉnh miền Nam dán bích chương cổ động cho tôi. Tốn khá nhiều tiền mà rốt cuộc cũng không có cơ hội để sử dụng mảnh bằng cử nhân luật của tôi trong tòa nhà lập pháp đó.

- Anh ứng cử đơn vị nào?

- Quận Tân Bình, Gia Định

- Ủa, quận tân Bình mà sao cho học trò đi khắp nước cổ động làm chi ?

- Trời đất, phải cổ động khắp nước, người ta mới biết mà bầu cho mình chứ.

Nổ thì nổ như thế nhưng đề cập đến ước mơ thì mơ ước của anh ta rất giản dị. Tôi nói với anh: - Anh có một quá khứ “vàng son” quá, ngày xưa tôi không theo nổi cái gót chân của anh. Thế bây giờ anh có ước mơ gì nào ?

Câu trả lời của anh rất trần tục và tầm thường: - Tôi mơ ước sao bây giờ có mấy củ khoai mì hay vài trái bắp ăn cho no bụng thôi.

- Anh có bị bệnh tâm thần không ? Đã mơ ước thì tại sao anh không mơ ước được trở lại những ngày tháng cũ ấy cho sướng cái thân mà lại đi ước củ khoai, trái bắp ?

Anh hơi “quê”, thộn cái mặt ra và chống chế: - Bố khỉ, bụng đang đói mà lại ở trong tù thì mơ ước cao sang là không thực tế chút nào.

- Nhưng mà cái mơ ước thực tế đó của anh cũng vẫn không thể thực hiện được mà.

Anh “xì nẹc” thấy rõ: - Ông đếch thèm nói chuyện với mày nữa.

Còn phe ta mà sang đây từ hồi 75, nếu có đẻ gần kho đạn thì tôi chắc rằng cái sự “nổ” ấy cũng kinh hãi không kém. Chuyện nổ đó chỉ cần nghe qua vài câu là người ta biết ngay. Nổ như vậy được mô tả là nổ có license. Cái license là cái giấy chứng nhận hành nghề mà, không có nó là không được đâu nhá. Chẳng hạn một người tự nhận mình là kỹ sư điện, tốt nghiệp từ một trường đại học danh tiếng của Mỹ.

Theo lời anh nói, anh đã từng là kỹ sư trưởng trong một hãng Mỹ, dưới quyền anh có tới 4, 5 tên kỹ sư mũi lõ, mắt xanh, lương anh 150 đô la/giờ chứ không phải ít. Vậy mà anh cóc cần, “quit” job ngay để hành nghề tự do, sửa điện cho “phe ta” với giá phải chăng chứ không “chặt đẹp” như mấy tên chuyên viên bản xứ. Tìm cho ra được một người như anh trên cõi đời ô trược này đâu phải dễ ! Tuy nhiên, khi đi hành nghề sửa điện thì anh ta đưa ra cái danh thiếp trên đó có ghi cái “license number” đàng hoàng. Và thiên hạ bảo tôi rằng đó là một dạng nổ có license.

Nổ thì phải xẹt lửa, xẹt khói và xẹt hơi dù có license hay không. Lửa, khói, hơi xẹt ra từ người “nổ” khiến cho đời “bỗng dưng vui”. Phải vui và hãnh diện vì phe ta có được một ngòi nổ rất đáng đồng tiền bát gạo.

Và đây là một “cây bút” đẻ gần kho đạn. Anh ta viết xong một bài gửi đăng báo. Bài viết của anh không phải là truyện ngắn, tùy bút, khảo cứu hay tham luận chính trị gì cả mà là một bài về “thế thái nhân tình”. Anh gọi phone đến một người bạn hỏi ý kiến về bài viết của anh.

- Sao, anh thấy bài viết của tôi thế nào ?

- Rất tuyệt !

- Đó, anh thấy “văn tài” của tôi chưa ? Văn tôi là văn “bác học”, văn
“éloquent”, văn Tự Lực Văn Đoàn mà. Anh nên ca tụng tôi một phát đi.

Cái kho đạn này có lẽ quên một điều cơ bản là khi một tác phẩm, một bài văn...đã phổ biến thì những gì anh viết xuống không còn thuộc về anh nữa mà thuộc về độc giả. Tự khen mình hay bắt người khác khen mình, người ta gọi đó là “tự phát, tự nổ” theo cái kiểu “tự biên tự diễn”. Tuy nhiên, không thể trách anh được vì đó là chuyện thường tình. Và cũng vì cái thường tình muôn thủa ấy nên người xưa đã nói “tự kỷ văn chương, tha nhân lão bà” mà ca dao ta diễn nôm câu nói trên như sau:

Xưa nay vẫn thói thường tình
Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay.

Còn những “Việt kiều” về thăm quê hương mà tôi có dịp gặp trước khi sang xứ này, không có ai trong số họ nói rằng đang hưởng “oen phe”, làm thợ trong các hãng xưởng hay buôn bán...mà ai ai cũng nhận mình là kỹ sư, bác sĩ, tệ lắm cũng là chuyên viên kỹ thuật v.v... Những năm 87, 88 có thể coi là thời kỳ mở đầu những chuyến về thăm quê nhà của Việt kiều. Việt Cộng tiếp đãi họ rất trọng thể, nhất là các kho đạn tự xưng là bác sĩ, kỹ sư với hy vọng những vị này sẽ giúp đỡ tiền bạc, máy móc v.v... Tôi được nghe kể một chuyện như sau:

Một Việt kiều nhân chuyến về thăm quê nhà, ghé lại bệnh viện Phú Nhuận, tự xưng là bác sĩ và ngỏ ý muốn tham quan bệnh viện. Giám đốc bệnh viện cũng muốn nhân dịp này nhờ anh ta giúp cho một số trang bị dụng cụ y khoa. Anh được săn đón, tiếp đãi như một thượng khách. Anh được hướng dẫn đi thăm một vòng bệnh viện, lúc tiếp xúc với cán sự phụ trách phòng mổ của bệnh viện, anh ta đã lộ nguyên hình cái sự “đẻ gần kho đạn” của anh qua mẩu đối thọai dưới đây giữa anh và nhân viên phụ trách điều hành phòng mổ.

- Thưa bác sĩ, bệnh viện mới xây cất nên phòng mổ cần trang bị một hệ thống đèn mổ không có bóng.

- Cô nói cái gì lạ vậy ? Cô xin trang bị đèn mà lại đòi đèn không có bóng là làm sao ?

Nhân viên phòng mổ có vẻ ngạc nhiên và nhận ra rằng anh ta không phải “dân trong nghề” nên giải thích:

- Đèn không có bóng là đèn không hắt bóng, tức là không in cái bóng của của dụng cụ, bàn tay hay cái đầu của bác sĩ che tối chỗ mổ trên người bệnh nhân, chứ không phải là cái bóng đèn.

Anh ta làm thinh. Sau đó, nhân viên phụ trách còn tiếp tục giải thích công dụng của hệ thống đèn phòng mổ là có thể khuếch tán hay hội tụ ánh sáng cũng như điều khiển chiếu ánh sáng xa, gần hoặc rọi vào nơi nào mà bác sĩ cần phải mổ. Anh ta bị nghe “giảng” nên xì nẹc và “hố” ngay tức khắc, cho thấy mình cũng là bác sĩ nhưng là bác sĩ chữa xe hơi:

- Cô không cần phải giải thích nữa. Tôi sửa xe hơi tôi biết. Nó giống như bóng đèn xe hơi chứ có khác cái gì đâu.

Sau buổi tham quan đó, anh “một đi không trở lại”, không “léo hánh” đến bệnh viện ấy nữa. Và cũng kể từ đó, Việt Cộng chỉ thị cho các cơ quan địa phương những quy định tiếp xúc với Việt kiều chặt chẽ hơn để khỏi bị lầm.

Trở lại chuyện bên xứ Mỹ này, một hôm tôi được mời “đi họ” cho lễ vu quy của con gái một người bạn. Bên họ đàng trai có một anh chàng mà tôi tin đến 99,99% anh ta đẻ gần kho đạn Long Bình. Anh “nổ” ghê quá, nổ liên thanh, nổ liên tu bất tận, nổ không ngừng nghỉ, không hề mệt mỏi, từ chuyện văn học đến chuyện chính trị của nước Mỹ và trên thế giới, không cần biết những người chung quanh có lắng nghe anh nói không. Anh chỉ muốn chứng tỏ cái sự rất “uyên bác”, rất “trên thông thiên văn, dưới thuộc địa lý” của anh mà thôi. Anh nói một câu, kể ra thì cũng “chí lý”:

- Tôi nghĩ, chúng ta cần phải tiếp xúc, phải nói chuyện để học hỏi những điều hay, điều lạ. Muốn thế, chúng ta phải nói chuyện với các luật sư, bác sĩ, các dân biểu, thượng nghị sĩ hay thị trưởng, thống đốc... thì kiến thức của chúng ta mới mở rộng chứ còn nói chuyện với những người “homeless” thì học hỏi được cái gì ?

Tôi không nói rằng anh nói không đúng nhưng với điều kiện nào để anh có nhiều cơ hội tiếp xúc, nói chuyện với các tầng lớp trên trong khi anh chỉ là một người bán trái cây ven đường ? Và chính anh là “nhân vật” gợi hứng cho tôi viết cái phiếm này. Tôi cám ơn anh lắm lắm.

Tôi vẫn nghĩ rằng, trong một chừng mực nào đó, những “người đẻ gần kho đạn” là những người hạnh phúc nhất (mặc dù hạnh phúc chỉ là một danh từ trừu tượng và mang một ý nghĩa rất tương đối). Tại sao tôi nói họ hạnh phúc ? Bởi vì khi họ nói ra những điều mà họ chỉ tưởng tượng như vậy thôi, nghĩa là những điều chưa từng có hay chưa từng xảy ra trong đời họ, tức là họ sống trong cái thế giới của sự tưởng tượng. Đó là cái thế giới riêng của chính họ, (một thế giới “ảo” nhưng cứ nổ đi nổ lại nhiều lần, thét rồi họ tưởng đó là sự thật) và họ sẽ không cần biết đến cái thế giới chung quanh họ nữa. Như thế, tôi có thể kết luận rằng những người “đẻ gần kho đạn” là những người hạnh phúc nhất trên trần gian này. Chư vị có đồng ý như vậy không ?

Huỳnh Văn Phú

Hai giả thuyết - Nguyễn Ðạt Thịnh

Hai giả thuyết trái ngược nhau mà quý vị bô lão Diên Hồng phải chọn một, là HÒA hay CHIẾN. Việt Cộng cũng đang đứng trước hai giả thuyết đó; chúng đã nghe các “cụ” trung niên xồn xồn, các cụ thanh niên, sinh viên 20- 30 xuống đường, lên mạng thét vang “quyết chiến”, nhưng chúng vẫn mần thinh, nếu không đem công an đến bắt những người yêu nước bỏ tù.

Chúng chủ hòa, chủ trương thần phục Trung Cộng, chấp nhận mọi nhục nhã trong liên hệ ngoại giao với Trung Cộng, chấp nhận để Trung Cộng bắn giết ngư dân Việt Nam ngay bên trong lãnh hải Việt Nam.

Ngày mùng 4 tháng Sáu, thứ trưởng ngoại giao Việt Cộng Hồ Xuân Sơn tiếp xúc với đại sứ Trung Cộng tại Việt Nam là Tôn Quốc Tường về việc Trung Cộng cấm ngư dân Việt Nam đánh, bắt cá trên vùng biển Việt Nam, nơi mà từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, từ đời ông đến đời cha, đời con, đời cháu hiện nay, ngư dân Việt Nam vẫn hành nghề.

Vùng biển này, Việt Cộng nói là của Việt Nam và Trung Cộng nói là của Trung Hoa. Nói cách khác đó là vùng tranh chấp. Trong lúc tranh chấp chưa được giải quyết, Trung Cộng đưa nhiều tầu chiến trá hình là tầu tuần xuống Biển Ðông, nói là để thi hành lệnh cấm đánh cá 3 tháng mỗi năm, nhưng trên thật tế chúng đang bắn giết, xua đuổi, và bắt cầm tù ngư dân Việt Nam không tuân lệnh của Tầu trên lãnh hải Việt Nam.

Nội dung bản thỉnh nguyện do thứ trưởng Sơn tận tay trao cho đại sứ Trung Cộng là để xin Trung Cộng đừng cấm ngư dân Việt Nam hành nghề, và đừng giết họ.

Trung Cộng không buồn trả lời bằng một công hàm ngoại giao. Chúng cho Tần Cương, một phát ngôn viên loan báo cho truyền thông biết quyết định của chúng. Gần một tuần sau ngày phó ngoại trưởng Sơn trình thỉnh nguyện thư, Tân Hoa Xã loan báo quyết định của Trung Cộng.

Nội dung bản tin nói Trung Cộng cho là lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm là "biện pháp hành chính thông thường và đúng đắn". Qua bản tin Tần Cương nói Trung Cộng áp dụng biện pháp này để bảo vệ tài nguyên biển trong vùng lãnh thổ của mình.

Thủ đoạn trịch thượng là ở chỗ Trung Cộng không trả lời Việt Cộng bằng đường lối ngoại giao mà lại cho phát ngôn viên loan tin qua truyền thông cho Việt Cộng biết.

Tờ Hoàn cầu Thời báo trích lời Tần Cương tái khẳng định Trung Quốc có chủ quyền "không thể chối cãi" đối với các đảo thuộc Nam Hải (Biển Đông), bao gồm cả Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa), cùng các vùng biển phụ cận.

Dư luận Hà Nội đang thì thầm đồn về vụ việc bộ ngoại giao Việt Cộng đã mời đại sứ Tôn Quốc Tường của Tầu đến để trao thông điệp phản kháng, nhưng Tường bảo bận, hẹn khi rảnh rỗi sẽ đến. Ðể giải quyết công việc thượng khẩn thứ trưởng Hồ Xuân Sơn đành đến sứ quán Trung Cộng trao thỉnh nguyện thư xin Trung Cộng đừng ngăn cấm ngư dân Việt Nam hành nghề và đừng bắn giết họ.

Thông điệp chuyển đi ngày mùng 4, mãi đến ngày mùng 9, Tần Cương mới trả lời, gián tiếp và không chính thức, cho Hà Nội. Không những chỉ láo xược trong cách trả lời, mà ngôn ngữ “dạy đời” của Bắc Kinh cũng mất dạy đến mức thái quá.

Nhục thì dĩ nhiên Hà Nội nhục lắm rồi, nhưng hãy thử nuốt nhục để sáng suốt giải quyết vấn đề.

Ðến giờ này Trung Cộng chỉ để cho Việt Cộng có 2 lối thoát, một là Việt Cộng vẫn được quyền tiếp tục cúi đầu nhận lệnh Tầu Cộng, bắt con dân Việt Nam thắt lưng buộc bụng, bắt đầu là chịu đựng 3 tháng nghèo đói, rồi nghèo đói sẽ vĩnh viễn kéo dài, vì chấp nhận quyền lực của Trung Cộng trong 3 tháng có nghĩa là chấp nhận cả đòi hỏi của Trung Cộng về chủ quyền của chúng trên tất cả những hòn đảo trong Biển Ðông.

Giả thuyết thứ nhì là cử ông thứ trưởng chuyên viên đi ngõ hậu Hồ Xuân Sơn đến Liên Hiệp Quốc trình bầy toàn bộ sự thật, kể cả những điều nhục nhã nhất của Việt Cộng, những điều xấc xược nhất của Trung Cộng, và yêu cầu Liên Hiệp Quốc ban hành hai mệnh lệnh: lệnh thứ nhất là bắt Trung Cộng rút về nước những chiếc tầu tuần “du kích” mặc áo dân sự nhưng sử dụng sức mạnh quân sự để giết ngư dân Việt Nam; và lệnh thứ nhì là bắt Trung Cộng phải tôn trọng cái quyền cha truyền con nối của ngư dân Việt Nam trên biển Việt Nam.

Hồ Xuân Sơn còn có quyền hãnh diện tuyên bố là trong lúc chờ đợi quyết định của Liên Hiệp Quốc, hải quân Việt Cộng sẽ cử chiến hạm theo hộ tống ngư dân đánh bắt hải sản trên Biển Ðông. Trung Cộng sẽ lui khi chúng thấy không bắt nạt Việt Cộng được; chúng không bao giờ dám ra mặt bully (du côn địa phương) để bị mất thiện cảm chính trị và quyền lợi kinh tế trên thế giới.

Ðừng tiếp tục lòn trôn nữa, vùng lên đi Việt Cộng ơi.

Ðó là lối thoát duy nhất.

Nguyễn Ðạt Thịnh

Bức Chân Dung Tự Họa - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Mới đây nghe thấy ông nhạc sĩ Tô Hải ở trong nước viết hồi ký và ra mắt sách ở Quận Cam, các ông bà nhà văn, nhà báo, nhà thơ, nhiều thứ nhà khác nữa tham dự đông đảo. Một vài Ông Bình Vôi, họ hàng nhà tu hú, nhà dơi, nhà chuột ca tụng kịch liệt lắm. Thật là đáng mừng cho ông Tô Hải.

Thú thực tôi chưa đọc hồi ký của ông Tô Hải nên không dám lạm bàn rông rài. Chỉ biết sơ qua rằng ông là một nhạc sĩ tài ba, nghe đâu đã có cả hàng ngàn sáng tác. Từ năm 18 tuổi, ông đã cưỡng lại lời cha mẹ đi theo bọn giặc cờ đỏ rồi cứ thế mà thênh thang hoạn lộ, trở thành một thứ “q…. ỦY” trong đám quỉ sứ này. Cho đến bây giờ ông mới tự thú nhận cuộc đời của ông lên voi là nhờ biết HÈN chứ chẳng phải vì công trạng gì cho nước cho non. Cái đó do chính ông viết ra chứ không phải kẻ xấu mồm ngoài đường bôi bẩn. Hèn là một tính nết Trời phú. Nhưng đã hèn lại còn chủ tâm hèn thì mới thực là siêu (super) hèn. Ông chủ tâm sống hèn vì như ông đã nói: “Cho tới thời kỳ Cải cách Ruộng đất thì tôi vỡ mộng và tôi bắt đầu viết, nhưng viết một nửa để kiếm tiền nuôi vợ nuôi con, còn một nửa viết những tác phẩm tiêng cho tôi. Những tác phẩm viết để kiếm ăn, toàn bộ chỉ là một mớ táp nham mà thôi chứ chẳng có chút giá trị nào về văn học nghệ thuật”. Kẻ siêu hèn sẽ biến thành người khôn cực kỳ. Kinh nghiệm trường đời cho thấy như thế. Thật vậy, cứ sơ sơ thế này đủ thấy. Cuốn Hồi Ký ông đã thai nghén từ gần hai chục năm về trước, và viết xong năm 2000, nhưng mãi tới nay là năm 2009 ông Tô Hải mới cho xuất bản, mà lại xuất bản ở Hoa Kỳ và ra mắt sách tại đúng cái ổ con tu hú đẻ trứng. Quan khách tới chúc mừng toàn họ nhà tu hú cả, ngoài ra một mớ tạp nham như đã kể ở trên. Anh chồng nào thấy vợ mình mang bầu lại không nóng lòng muốn nhìn mặt đứa con. Người mẹ mang thai đứa con 9 tháng. Ông Tô Hải không thế. Ông ngâm tôm đứa con tinh thần của mình trong bụng 9 năm trời mới cho ra chào đời, bởi là vì ông còn phải chờ lãnh cái Huân Chương Lao Động hạng nhất của nhà nước ban cho xong cái đã. Rồi lại còn cái giải thưởng tiếp theo cùng với món tiền thưởng đi kèm tương đương với 2 năm lương hưu của ông nữa. Mọi kế hoạch chu toàn đều là do cái siêu hèn của ông đem lại. Nếu ông ra mắt sách ngay vừa khi hoàn thành thì đâu có vớ được mấy cái của hời đó. Ông thú nhận: “tôi ở cái tuổi ngoài 70, chẳng còn cái gì để mất”. Ông đã tính toán kỹ lưỡng để chỉ có thêm chứ nhất định không chịu để mất đi bất cứ một cái gì trong đời ông. Đấy không phải là khôn tổ mẹ sao. Ông còn nói: “về già mới thấy nỗi đau”. Ông nói không sai tí nào. Ai tuổi già mà lại không đau. Chỗ đau đớn nhất trên con người ông chắc phải là đau ở ngang thắt lưng hai bên thận. Ngày còn trai trẻ, ông Tô Hải cán bộ cấp “q……… Ủy” thường phải đi “thực tế quần chúng” nhiều nên về già ông đau nhiều ở chỗ đó là đúng rồi. Để xoay xở tí tiền còm chữa bệnh đau lưng, để lo hậu sự, hay để lại cho vợ con làm kế sinh nhai, ông tính kế ra mắt sách ở hải ngoại chỗ con tu hú đẻ trứng thì thật là hết chỗ chê. Phải là loại chống cộng như họ nhà tu hú, họ nhà dơi, nhà chuột thì mới có khả năng tổ chức ra mắt sách cho ông rình rang như thế được. In và ra mắt sách ở đấy chỉ có từ lời đến lời chứ làm sao mà lỗ được. “Nhà văn An Nam khổ như chó” đấy là chuyện xưa. Nhà văn, nhạc sĩ như ông Tô Hải thời cờ máu sao vàng làm sao mà khổ được. Bên trong đã có đảng chống lưng, ra ngoài này ông đuợc cả họ nhà tu hú đỡ đầu thì đúng là số đẻ bọc điều. Tính toán được như ông thật trên đời ít có. Đánh động được tính hiếu kỳ và lòng từ tâm của người Việt hải ngoại không gì bằng người ở trong nước. Thì là cái tâm lý bụt nhà không thiêng ấy mà. Ông Tô Hải là cán bộ cấp “q …..ủy” CS đã là một lợi thế. Ông đi sau nên học thuộc và thuộc rành rẽ bài vở của nhà ngục sĩ chống cộng Alibaba càng lợi thế hơn nữa. Mai kia nhờ nhà ngữ học Bể Dâu và bà già mẽo Libby nào đó chuyên ăn quyện cối xay người tỵ nạn dịch sách của ông sang tiếng Anh mà bán cho độc giả Mỹ thì còn hốt bạc nhiều nữa. Chỉ tiếc một điều là ông Tô Hải đã không được đích thân đi máy bay hạng first class sang Mỹ để ra mắt sách như ngục sĩ Alibaba nữa thôi. Người tỵ nạn vốn chống cộng chết bỏ nhưng lại hay mủi lòng. Hễ thấy cộng sản ba hoa chửi cộng thì khoái vô cùng, và nghe cộng sản ca bài con cá nó sống vì nước thì muốn rơi lệ liền. Ở hải ngoại, nhà ngục sĩ Alibaba ra mắt thơ tố cộng đã ăn khách quá chừng rồi. Ông Tô Hải một cán bộ CS cấp “q……. ỦY” tự vẽ chân dung của mình là một thằng hèn đã làm mủi lòng khách tỵ nạn hiếu kỳ biết là chừng nào. Giá bi giờ mà nhà nhạc sĩ Phạm Duy tự vẽ ông là một thằng ngu, hay Nguyễn Cao Kỳ tu họa mình là một thằng đểu rồi đem ra mắt tại Saigon thì tôi tin chắc khách mua gạt ra không hết. Ai bảo “Văn chương hạ giới rẻ như bèo” là nói ẩu. Đấy là chưa kể sẽ được rất nhiều ông bình Vôi, nhà văn, nhà báo, họ hàng nhà tu hú v.v. thổi lên đến tận tầng mây xanh. Ông Tô Hải với Alibaba đúng là một cặp trời sanh, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. Ông Tô Hải viết hồi ký ở cái tuổi 83 nên đếch sợ thằng nào. Cụ Phan Khôi đã chả nói trước là gì:

Làm sao cũng chẳng làm sao
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi
Làm chi cũng chẳng làm chi
Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao

Gìa rồi, làm gì nhau nữa đây. Cùng lắm là chết chứ gì. 83 rồi, cái chết sợ người chứ người đâu có ngán cái chết. Hèn được như ông Tô Hải thì trên cõi đời ô trọc này khó có ai hèn hơn ông được. Đảng và nhà nước VGCS chịu thua ông là cái chắc. Bán cái hèn của ông Tô Hải đi, ăn mấy đời còn chưa hết.

Nhưng có một điểm có thể làm ông Tô Hải chưa đạt tới giải vô địch hèn. Đó là chuyện hình như ông cố ý lấp liếm cách đối xử của ông với các bậc sinh thành. Ở đời thứ mà người Việt chúng ta quí trọng nhất là mồ mả tổ tiên chứ đâu phải là cái gì khác. Không có gì quí hơn độc lập tự do chỉ là trò bịp tên già dịch xúi bậy con nít. Không tin thì cứ nghe mấy bà hàng cá hàng thịt ngoài chợ chửi nhau thì biết liền à: cái mả cha mả mẹ mày con đĩ ngựa. Cái mả cha mả mẹ quí thế đấy nên đem ra chửi đua là con đĩ ngựa hết còn dám ngựa liền. Ấy thế mà đọc trên báo chí thấy người ta kể ông Tô Hải đã đập nát cả ngôi mộ của ông cụ thân sinh của ông: “Bố của nhạc sĩ Tô Hải là ông Tô Đình H. cùng gia đình di cư vào Nam sau hiệp định Genève 1954. Tô Hải là con cả đã đi làm lính “cụ Hồ” nên ở lại ngoài Bắc. Sau 30 tháng 4 năm 1975, đảng viên Tô Hải được “điều” vào Nam, tìm lại được gia đình họ hàng, nhưng lúc đó thân phụ đã chết. Người nhà đã dẫn Tô Hải ra mộ viếng cha. Đọc trên mộ bia thấy hàng chữ nội dung “Hiền tế Trung Tướng Lâm Quang Thi lập mộ”, Tô Hải la hét to tiếng và ra lệnh đàn em đập nát bia mộ có tên người em rể là một “tướng ngụy” trên đó. Theo anh bạn cho biết, sau đó hội đồng gia tộc trong họ của anh ta đã họp lại và nhất quyết khai trừ khỏi họ hàng “thằng con mất dạy” dám đập mả bố nó".

Về chuyện này ông Tô Hải lại nói khác: “Tôi vào Sài Gòn sau năm 1975, cả gia đình tôi đã đi Mỹ, y như tôi về Hà Nội năm 54, cả gia đình lúc bấy giờ đã di cư vào Nam. Tôi không đến nỗi như cô Dương Thu Hương khi vào Sài Gòn thấy mình bị lừa nên ngồi xuống lề đường bật khóc; mà tôi đã biết trước đây không phải là một cuộc chiến tranh chống xâm lược như thời chống Pháp, và xã hội miền Nam không như đảng tuyên truyền là bị o ép, nghèo khổ, cho nên khi vào Sài Gòn, biết gia đình đã đi Mỹ, tôi mừng quá. Vừa nhớ thương bố mẹ, anh em, nhưng tôi mừng vô cùng thấy cả nhà đã đi thoát. Nếu ở lại thì đi tù “mút mùa” (sic). Không phải riêng tôi, nhiều anh em khác ở ngoài Bắc vào cũng mang tâm trạng như thế”. Không biết ông Tô Hải có đập mả bố thiệt không. Kẻ nói có người nói không, biết tin ai. Nếu ông không chứng minh được kẻ nói có là nói láo thì cái chân dung “thằng hèn” mà ông tự vẽ e rằng sẽ biến thành thằng cuội mất. Ông đã từng thừa biết cái Thằng Cuội ngồi gốc cây đa Tân Trào nó đã bịp dân ta như thế nào rồi. Ông đã tự nhận là thằng hèn mà còn là thằng bịp nữa, vậy không sợ bác Hồ của ông ghen tỵ sao. Ngón bịp của “bác” chắc chắn ông không bằng đâu. Ông tính bịp bọn tỵ nạn, mà có bịp nổi không? Trong nước, ngoài này nhiều thằng bịp quá xá rồi: Bùi Tín, Trần Khuê, Dương thu Hương, Hoàng Minh Chính v.v. Có thêm một vài thằng bịp nữa cho rậm đám cũng chẳng sao. Dân tỵ nạn vẫn không ngán đâu.

Mới trình làng mà đã thấy ông ló đầu ở cái tổ con tu hú đẻ trứng thì người ta đã có thể đoán biết ông thuộc trường phái nào rồi. Rồi đây bọn ma cô chống cộng cuội ngoài này sẽ phong thánh cho ông và chúng sẽ đặt chân dung của ông lên bàn thờ mà vái lậy. Ông có hai bức chân dung, một cái hồi còn trai trẻ xưa kia, và một do ông sau này tự họa lúc về già. Không biết chúng nó sẽ đặt cái nào lên bàn thờ ông để nhang khói. Đặt bức tự họa của ông lên bàn thờ e rằng người đời sẽ trông gà hóa cuốc mất: hình thằng hèn đâu không thấy mà chỉ thấy tấm hình thằng cuội.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Wednesday, June 17, 2009

Ngày Tang Yên Bái - Đằng Phương




Kính tặng hương hồn những liệt sĩ đã bỏ mình trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái.

Ngày Tang Yên Bái
Đằng Phương

Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm!
Trong bình minh sương lạnh phủ âm thầm.
Mười ba tiếng tung hô bao tráng liệt.
Toan lay tỉnh cả toàn dân nước Việt.

Gió căm hờn rền rỉ tiếng gào than.
Từ lưng trời, sương trắng rủ màn tang.
Ánh mờ nhạt của bình minh rắc nhẹ
Trên Yên Báy âu sầu và lặng lẽ,
Giữa mấy hàng gươm súng tỏa hào quang,
Mười ba người liệt sĩ Việt hiên ngang
Thong thả tiến đến trước đài Danh Dự:
Trong quần chúng đứng cúi đầu ủ rũ,
Vài cụ già đầu bạc lệ ràn rơi
Ngất người sau tiếng rú: Ối con ơi!
Nét u buồn chợt mơ màng thoáng gợn
Trên khóe mắt đã từng khinh đau đớn
Của những trang anh kiệt sắp lìa đời,
Nhưng chỉ trong giây phút vẻ tươi cười
Lại xuất hiện trên mặt người quắc thước.
Đã là kẻ hiến thân đền nợ nước,
Tình thân yêu quyến thuộc phải xem thường,
Éo le thay! muốn phụng sự quê hương
Phải dẫm nát bao lòng mình kính mến.
Nhưng này đây, phút thiêng liêng đã đến.
Sau cái nhìn chào non nước bi ai,
Họ thản nhiên, lần lượt bước lên đài
Và dõng dạc buông tiếng hô hùng dũng.
"Việt Nam muôn năm!" Một đầu rơi rụng,
"Việt Nam muôn năm!" Người kế tiến lên.
Và Tử Thần kính cẩn đứng ghi tên
Những liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc,
Sau Đức Chính, đây là phiên Thái Học,
Anh nghiêng mình trước xác những anh em,
Rồi mỉm cười, Anh ngảnh mặt nhìn xem
Những kẻ đến quan chiêm đoàn liệt sĩ
Để từ biệt những bạn đồng tâm chí.
Tiếng tung hô bỗng nổi, vang trời cao,
Nhưng liền theo Anh đã bị xô vào
Chiếc gươm máy giăng tay chào, lặng lẽ.
Đao xuống, đầu rơi, máu đào tung tóe.
Người anh hùng nước Việt thôi còn đâu!
Lũ thực dân giám sát đứng nhìn nhau
Như trút sạch hết những điều lo ngại
Và xoa tay chúng thở dài khoan khoái,
Trong rừng người ứa lệ, Nguyễn Thị Giang
Nén nỗi đau như cắt xé can tràng
Đứng ngơ ngác lặng người bên Hữu Cảnh.
Trong nắng sớm, gió căm hờn quát mạnh
Như thề cùng những tử sĩ anh linh
Vang dội cùng trên đất Việt điêu linh
Những tiếng thét uy hùng vì giống Việt.

Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm!
Như tan trong gió mạnh khóc vang rầm
Mười ba tiếng tung hô bao tráng liệt
Cố lay tỉnh cả toàn dân nước Việt.

Thân anh hùng đã nát dưới ngàn cây
Nhưng tiếng hô còn phảng phất đâu đây,
Mười lăm năm sau ngày sầu Yên Bái,
Toàn thể giống Tiên Rồng cùng đứng dậy,
Cố đuổi loài tham bạo khỏi non sông,
Hơn hai năm đất Việt máu pha hồng
Mà chiến sĩ vẫn một lòng cương quyết
Thề tranh đấu đến khi nào nước Việt
Được hoàn toàn độc lập mới ngừng tay.
Thế là dòng máu vọt dưới trời mây
Một buổi sáng mười lăm năm về trước
Đã vẽ được cảnh anh hùng nguyện ước.
Đưa non sông ra khỏi chốn u trầm
Cả toàn dân nước Việt đến muôn năm
Vẫn ghi tạc trong tâm ngày hôm ấy,
Ngày hôm ấy, ôi! ngày tang Yên Bái!

Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm!
Xé nát màn sương lạnh phủ âm thầm,
Mười ba tiếng tung hô bao tráng liệt
Đã lay tỉnh cả toàn dân nước Việt.

Đằng Phương



Tuesday, June 16, 2009

Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh nói về “Tập Thể Chiến sĩ VNCH Hải Ngoại” - Tuyết Mai

Tuyết Mai

Giáo Sư
Nguyễn Xuân Vinh

Nhân dịp kỷ niệm Ngày Quân Lực VNCH 19 Tháng 6, Tuyết Mai xin gởi đến quý vị bài Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh, Chủ Tịch Hội Đồng Đại Diện của Tập Thể Chiến Sĩ VNCH, nói về mục đích, tôn chỉ cũng như sinh hoạt của Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Hải Ngoại.

Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh cho biết Tập Thể Chiến Sĩ VNCH được thành lập cách đây sáu năm, vào Tháng 9, năm 2003 ở Anaheim, miền Nam California. Các anh em cựu quân nhân đã họp nhau thành lập Ban Đại Diện gồm tất cả các quân binh chủng. Trứơc đó có nhiều lần các hội cựu quân nhân đã họp nhau để thành lập một hội đoàn gồm nhiều quân binh chủng, nhưng không thành công. Sau đó các hội vẫn sinh hoạt lẻ tẻ cho đến ngày thành lập Tập Thể Chiến Sĩ VNCH (TTCSVNCH).

Về chương trình hoạt động của Tập Thể CSVNCH, Giáo Sư Vinh cho biết, các hội đoàn bây giờ không còn trong một quân đội, có hệ thống chỉ huy, nhưng vì có một đường lối và cùng có một tôn chỉ, vì vậy mà các hội đoàn cựu quân nhân, đã có thể đứng lại với nhau . Đường lối, tôn chỉ chung là không thể nào thỏa hiệp với Cộng Sản trong chương trình gọi là “hòa hợp, hòa giải”, chúng ta đã có kinh nghiệm, điều đó đi đến chỗ chết vì là CS luôn luôn dối trá.

Tất cả các tổng hội của QLVNCH, như là Tổng Hội Không Quân, Biệt Động Quân, Hải Quân, Cựu SVSQ/VBQG, Thiếu Sinh Quân … Tổng Hội Cảnh Sát Quốc Gia, Chương Trình Xây Dựng Nông Thôn, và Thế Hệ Hậu Duệ, cùng đứng trong Hội Đồng Đại Diện. Các hội đoàn cùng đứng lại với nhau theo một đường lối rất rõ ràng là chống Cộng. Theo GS Vinh, chúng ta phải làm bất cứ việc gì có thể, như áp lực thế giới trong và ngoài để đưa tới sự giải thể chế độ CS. Chuyện điều đình hay hòa hợp không thể đưa tới sự giải thể CS được.

Về cách tổ chức, GS Vinh được các anh em bầu làm Chủ Tịch Hội Đồng Đại Diện, gồm toàn thể các Tổng Hội và Liên Hội, có nhiều vị Phó Chủ Tịch và Phụ Tá, làm thành một Ban Thường Vụ để điều hợp những chượng trình chung của Tập Thể. Nhiệm vụ của TTCSVNCH trong thời gian đầu là thành lập những trung tâm địa phương ở các nơi để điều hành công việc. Có Tất cả 9 Trung Tâm Điều Hợp, một ở Âu châu, một ở Úc châu, một ở Gia Nã Đại, còn ở Hoa Kỳ có 6 Trung Tâm ở 6 vùng . Các hội đoàn cựu quân nhân đứng với nhau, không theo một hệ thống chỉ huy mà chỉ theo một đường lối duy nhất và thứ hai là thực hiện những chương trình chung chẳng hạn như chương trình “Huynh đệ chi binh” hay giúp Thương Phế Binh hay chương trình Cờ Vàng khắp nơi, hay chương trình chống CS trong các vụ thăm viếng của các nhân vật đầu não của CS. TTCSVNCH quyết liệt, tham gia tích cực với các cộng đồng địa phương.

Về đường hướng hoạt động, GS Vinh nói rõ, mỗi khi Tập Thể CSVNCH đưa ra một chương trình chung thì hô hào những anh em trong TậpThể, những Tổng hội, những Liên hội sẽ ra chỉ thị cho những hội đoàn thuộc quân binh chủng mình thực hiện. Chẳng hạn như Tổng Hội Không Quân sẽ chỉ thị cho các hội đoàn Không quân, Tổng Hội Biệt Động Quân sẽ ra chỉ thị cho các anh em BĐQ, các hội đoàn trong các tổng hội sẽ hết sức ủng hộ chương trình do TTCSVNCH đưa ra.

Trung Tâm Trưởng trung tâm điều hợp địa phương có nhiệm vụ chuyển lại những chỉ thị, những đường lối đưa ra từ trung ương, khuyến khích và theo dõi những sinh hoạt của các anh em địa phương, chứ không có hệ thống chỉ huy như ngày xưa.

Nói về thành quả đã đạt được, Giáo Sư Vinh nhấn mạnh, trong đêm kỷ niệm đệ ngũ chu niên có một buổi liên hoan, có thể nói ba phần tư người tham dự đã mặc quân phục, còn một phần tư là khách mời. Trong những người mặc quân phục có đủ hết, những người thuộc Không quân mặc áo bay, những anh em Hải Quân mặc áo trắng, những anh em Thủy Quân Lục Chiến rạng rỡ trong bộ quân phục đã làm người chiến binh hãnh diện, …

Theo GS Vinh, đây là điều nhức nhối cho CS. Không có ai tưởng tượng được sau hơn ba mươi bốn năm mất nước mà các cựu quân nhân VNCH vẫn còn đứng với nhau và vẫn còn hùng dũng trong bộ quân phục, tuy rằng đã ở tuổi xế chiều. Ngoài ra các thế hệ tiếp nối cũng đã theo gương của cha anh nhập quân ngũ ở những nước cư ngụ. Riêng ở Hoa Kỳ lớp trẻ ở thế hệ thứ hai đã đạt tới những địa vị chỉ huy những đơn vị lớn với những cấp bậc Trung Tá hay Đại tá.

Có thể nói hiện nay ở Hải ngoại, TTCSVNCH là biểu tượng sự tồn tại của QLVNCH, cũng như sự hiện diện của lá Cờ vàng với ba sọc đỏ ở nơi nào là nơi đó có tinh thần của nền Việt Nam Cộng Hoà bất diệt để chờ ngày nhìn thấy Tự Do và Dân Chủ trở lại quê hương xưa, đưa lại hạnh phúc cho người dân Việt Nam.

Nếu có ai đặt câu hỏi “Tập Thể đã làm được những việc gì?” thì GS Vinh trả lời : “Cứ nhìn chung quanh, vẫn còn có anh em các quân binh chủng, với màu cờ sắc áo thì điều này đã chứng tỏ QLVNCH chưa tan hàng , vẫn còn tồn tại”. Cứ nhìn trong tất cả các hoạt động của các cộng đồng người Việt quốc gia ở các địa phương, từ những ngày Lễ Tết, ghi ơn Quốc Tổ Hùng Vương, gây quỹ giúp Thương Phế Binh VNCH, hay khuyến khích con em chăm học, … biểu tình chống sự xâm nhập của cộng sản VN, lúc nào cũng có sự tham dự của người cựu quân nhân.

Chưa có một đất nước nào mà CS chiếm mấy chục nay mà vẫn còn sự hiện diện của quốc kỳ của nước đó, vẫn còn sự hiện diện của quân lực của nước đó khắp nơi trên thế giới.

GS Vinh trả lời tiếp: "Trong sáu năm qua tất cả những cố gắng của TTCSVNCH là giúp cho các anh em cựu quân nhân đứng cạnh nhau, cùng màu cờ, sắc áo, trong bộ quân phục của từng quân binh chủng, nhưng TTCSVNCH đã làm được một công việc chung là giúp cho những cộng đồng Người Việt ở Hải Ngoại mỗi ngày một hưng thịnh”.

Giáo Sư xin đồng hương trong tương lai, tiếp tục theo dõi những hoạt động của TTCSVNCH và đặc biệt những sinh hoạt giúp TPB VNCH là sinh hoạt chính của Tập Thể hiện nay, và thứ hai là những sinh hoạt chung của QLVNCH trong năm tới. GS Vinh cam đoan biểu tượng Cờ Vàng và sự hiện diện của QLVNCH chính là hai điều nhức nhối đối với CS. Có thể nói là Cộng sản đã đầu hàng việc chống lại cờ vàng và GS Vinh tin rằng trong tương lai CS sẽ thấy chúng ta đã thắng vì chúng ta vẫn giữ được sự tồn tại của QLVNCH ở hải ngoại. Đặc biệt là trong dịp lễ kỷ niêm Ngày Quân Lực năm 2009 theo lời mời của Trung Tâm Điều Hợp Âu châu, GS Vinh sẽ sang sinh hoạt với các Hội Đoàn Quân Đội ở Âu châu họp ngày 04-07-09 ờ Bruxelle và ngày sau đó dự Lễ Kỷ Niệm được tổ chức long trọng ở Paris với sự tham dự đông đảo của người Việt tỵ nạn CS, gây tình Huynh Đệ chi binh, Quân Dân nhất trí.

Tuyết Mai

Video clip: http://www.youtube.com/watch?v=3qQeVjkiJAo&feature=channel_page




Tóm tắt một số tội ác CSVNSVN - Phạm Bá Hoa

Phạm Bá Hoa

1. Cộng sản quốc tế.

Ông Mikhail Gorbachev, cựu Tổng Bí Thư đảng cộng sản Liên Xô phát biểu như lời tâm sự:Tôi đã bỏ hơn nửa cuộc đời đấu tranh cho lý tưởng cộng sản, nhưng ngày nay tôi phải đau buồn mà nói rằng “cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo. Đó là lời tố cáo có thể xem là thành thật của một đảng viên cao cấp trong đảng cộng sản Liên Xô mà các nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam tôn vinh là thành trì vững chắc của chủ nghĩa xã hội toàn thế giới (cộng sản). Còn dưới đây là những con số nói lên một cách tổng quát về mức độ tàn bạo của các đảng cộng sản cai trị đồng bào của họ đã được phơi bày sau khi cộng sản Nga và khối cộng sản Đông Âu sụp đổ: (trích bài viết “Con số 100 triệu nạn nhân” của Lữ Giang ngày 25/6/2007)

Trong quyển “Death by Government” (Chết do chánh phủ), tác giả Rudolph J. Rummel, giáo sư khoa chính trị học đại học Yale, thì cộng sản tại các quốc gia đã giết chết đồng bào của họ, như sau: (1) Liên Sô 61.911.000 người. (2) Trung Hoa cộng sản 35.236.000 người. (3) Quân phiệt Nhật 5.964.000 người. (4) Khmer đỏ 2.035.000 người. (5) Thổ Nhĩ Kỳ 1.883.000 người. (6) Cộng sản Việt Nam 1.670.000 người. (7) Cộng sản Ba Lan 1.585.000 người. (8) Cộng sản Nam Tư 1.072.000 người.

Trong quyển “Livre Noir du Communisme” (Sách đen về chủ nghĩa cộng sản) tác giả Stéphane Courtoise, Giám Đốc Nghiên Cứu thuộc Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu Khoa Học của Pháp, nhận xét rằng: Vượt trên mức độ tội ác cá nhân, các chế độ cộng sản củng cố quyền hành bằng cách nâng việc tàn sát quần chúng lên hàng chính sách cai trị. Sau một vài năm tại các quốc gia cộng sản vùng Đông Âu hay vài chục năm ở Liên Sô và Trung Hoa cộng sản, cường độ của sự khủng bố có bớt đi , chế độ tự ổn định bằng cách quản lý sự đàn áp thường ngày, sự kiểm duyệt mọi trao đổi tin tức, kiểm soát xuất nhập biên giới, trục xuất người ly khai. Nhưng ký ức về khủng bố tiếp tục đặt người dân trong tình trạng sợ hãi, và điều này rất hiệu nghiệm. Không một quốc gia cộng sản nào thoát khỏi qui luật đó, như Trung Hoa, Bắc Hàn, Cuba, Việt Nam chẳng hạn.

Ngày 12/6/2007, tại Washington DC, Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush, chủ tọa lễ khánh thành Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (Victims of Communism Memorial). Đây là biểu tượng thảm họa kinh hoàng trong thế kỷ 20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói riêng. Từ nay, oan hồn của khoảng 100 triệu nạn nhân cộng sản -có cả nạn nhân Việt Nam thân yêu của chúng ta- được những thế hệ hôm qua, hôm nay, và những thế hệ mai sau tưởng nhớ. Tưởng nhớ để tận diệt chế độ này đến tận cùng gốc rễ, vì chế độ cộng sản đã lấy đi mạng sống của khoảng 100 triệu đàn ông đàn bà và trẻ con vô tội. Nhóm chữ nghiêng màu đỏ là lời lên án mạnh mẽ trong bài phát biểu của Tổng Thống Bush. Công trình Đài Tưởng Niệm bắt đầu với Điều 905 của đạo luật The Public Law 103-199 được Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua ngày 17/12/1993. Vì Quốc Hội không cấp tiền nên tiến sĩ Lee Edwards vận động từ các quốc gia từng bị cộng sản cai trị chung góp tài chánh, trong đó phần đóng góp của Cộng Đồng Việt Tị Nạn cộng sản tại Hoa Kỳ là 66.000 mỹ kim. Công trình xây dựng khởi công ngày 28/9/2006.

2. Cộng Sản Việt Nam

Lãnh đạo tự tôn.

Ông Hồ Chí Minh, Chủ Tịch đảng CSVN là con người vừa dối trá vừa tự cao hơn bất cứ ai khác. Bằng chứng là trong quyển “Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” xuất bản năm 1947 mà tác giả Trần Dân Tiên lại chính là Hồ Chí Minh. Trong đó Trần Dân Tiên tức Hồ Chí Minh, tự ca tụng ông là cha già dân tộc và tự tôn vinh ông vĩ đại hơn Bình Định Vương Lê Lợi (thế kỷ 15) vì ông đưa dân tộc vào kỷ nguyên xã hội chủ nghĩa. Chủ Tịch đảng mà tự tôn đến mức đó thì còn gì liêm sĩ. Khi con người nhất là con người lãnh đạo không có liêm sĩ thì tệ hơn người tệ nhất trong 86 triệu dân.

Bức tranh xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ sau 30/4/1975 đến năm 2000, được cựu Trung Tướng cộng sản Trần Độ “vẽ lại” trong tập nhật ký “Rồng Rắn” ngày 7/12/2000. Trong đó, ông tự hỏi: Tại sao chiếm được miền Nam năm 1975, một nửa đất nước trù phú như vậy mà chỉ vài năm sau đã đưa cả nước vào tình trạng nghèo đói ngắc ngoải như vậy? Rồi ông mời gọi lãnh đạo của ông: Hãy nhìn các nước Đài Loan, Đại Hàn, Singapore, Thái Lan, Mã Lai Á, chỉ cần 20-30 năm mà họ phát triển và nhân dân của họ có đời sống khá phong phú. Mấy nước này không có đảng cộng sản tài tình sáng suốt (như của Việt Nam), mà họ có những chính khách với những chính sách kinh tế xã hội thông minh và hiệu quả. Như vậy, chủ nghĩa xã hội chưa có chứng thực, và nó không thể là con đường duy nhất để phát triển đất nước.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế hàng đầu của cs Việt Nam, đã nói trong phiên họp mật của Bộ Chính Trị cộng sản Việt Nam ngày 2/11/2004 rằng: “Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, nhưng mức độ tăng trưởng ấy chỉ là so với chính bản thân Việt Nam, vì nhìn ra chung quanh, rất nhiều quốc gia tăng trưởng nhanh hơn Việt Nam nhiều. Việt Nam ta không nên lớn giọng dạy bảo thiên hạ, không nên tự cho mình là đòn bẩy của thế kỷ, cũng không nên tự xưng mình làm xung kích cho lịch sử, vì những điều đó không giúp gì cho sự phát triển của đất nước. Với lại thế giới không có ai công nhận Việt Nam như vậy cả”.

Lãnh đạo độc tài.

Ông Nguyễn Tấn Dũng thay ông Phan Văn Khải trong chức vụ Thủ Tướng, có dư luận trong Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại nhất là trong vài tổ chức chính trị, có vẻ như chờ đợi Nguyễn Tấn Dũng trở thành một Gorbachev của Việt Nam, trong khi các tổ chức chính trị trong nước nhất là Khối 8406 không một đợi chờ nào như vậy. Hành động ngay khi nắm quyền, tân Thủ Tướng ra Nghị Định kiểm soát chặt chẻ hơn nữa các sinh hoạt truyền thông, internet, kể cả quyết định tuyệt đối cấm báo chí tư nhân. Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố dẹp tham nhũng, nhưng chưa có sự kiện nào chứng minh bước đầu thực hiện lời tuyên bố đó. Nếu ông ta thực sự quyết tâm đánh tham nhũng, ông ta có cơ hội bị tham nhũng hạ bệ, thậm chí có thể bị ám sát là đằng khác, vì tham nhũng là mục tiêu của các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam, trong đó có Nguyễn Tấn Dũng và gia đình ông.

Ngày 5/9/2006, CSVN tuyên bố hủy bỏ Nghị Định 31 về quản chế hành chánh (bắt giam tùy tiện) làm cho nhiều người trong Cộng Đồng tị nạn tại hải ngoại lẫn đồng bào trong nước tưởng như họ có bước tiến về dân chủ pháp trị, nhưng theo luật sư Lê Thị Công Nhân, hành động đó chẳng qua CSVN đem chôn một cái xác (NĐ 31) đã chết từ lâu. Vì ngày 1/10/2002 CSVN đã ban hành Pháp Lệnh “xử lý vi phạm hành chánh” chặt chẽ hơn Nghị Định 31 mà họ hủy bỏ. Trên nguyên tắc, Pháp Lệnh chỉ dưới Hiến Pháp và Luật, tức cao hơn Nghị Định, mà trong Pháp Lệnh này có đầy đủ những qui định trong NĐ 31. Chưa hết, tiếp theo Pháp Lệnh năm 2002 xử lý vi phạm hành chánh là Nghị Định 38/CP ngày 18/3/2005 về cấm tập họp đông người, và Nghị Định 56/CP ngày 6/6/2006 về kiểm soát văn hóa & thông tin, vừa chặt chẻ vừa tinh vi trong chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng toàn dân toàn đảng của họ (trích bài viết của luật sư Lê Thị Công Nhân ngày 11/11/2006 tại Hà Nội). Nguyễn Tấn Dũng vẫn là một đảng viên cộng sản cực đoan ở vị trí lãnh đạo độc tài toàn trị.

Ngày 27/8/2007 tại Tổng Cục Chính Trị CSVN Hà Nội, Nguyễn Minh Triết, Chủ Tịch nước CHXHCN Việt Nam tuyên bố rằng: “... Tôi khằng định trước sau như một là chúng ta vẫn tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải xây dựng đảng của chúng ta. Dù ai nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ Điều 4 Hiến Pháp thì không có chuyện đó. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố tự sát, cho nên phải củng cố công tác tư tưởng, củng cố vai trò của đảng”. (trích bản tổng hợp 220 sự kiện về nhân quyền và chính trị tại Việt Nam năm 2007). Độc tài chuyên chính như vậy mà gọi là cấp tiến sao? Và chỉ riêng lời phát biểu ngắn ngủi trên đây của ông Triết, tôi nhận ra 4 điều: (1) NMT thừa nhận chế độ độc tài CSVN không được người dân ủng hộ, nên phải ra lệnh củng cố quyền lực của đảng để tiếp tục đàn áp dân trong khi vẫn khẳng định điều gọi là tiến lên chủ nghĩa xã hội. (2) Bỏ điều 4 trong Hiến Pháp là chế độ độc tài tan rã đến mức đảng viên trong Bộ Chính Trị phải tự sát, vì nếu không thì NMT và các đảng viên lãnh đạo khác không thể yên thân bởi khối dân oan hằng triệu hằng triệu người mà chế độ độc tài đã đẩy họ vào thảm cảnh đó. (3) Bộ Chính Trị CSVN sợ mất quyền lực quyền lợi chớ không hề nói đến trách nhiệm của cấp lãnh đạo. (4) NMT hoàn toàn là một đảng viên cộng sản cực đoan ở vị trí lãnh đạo độc tài toàn trị.

Lãnh đạo gian manh dối trá.

Tổng Bí Thư đảng CSVN Nông Đức Mạnh dối trá. Năm 2007, theo Công Đoàn Lao Động quốc doanh có đến 541 cuộc đình công với sự tham dự của khoảng 350.000 công nhân mà hầu hết không có giấy phép của nhà nước nên bị xếp vào loại “đình công bất hợp pháp”. Nhưng ngày 21/1/2008, Tổng Bí Thư đảng cộng sản Nông Đức Mạnh tuyên bố tại Quốc Hội của họ rằng: “Từ khi đảng ra đời đến nay, đảng luôn luôn là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, và của dân tộc, là đội tiên phong của giai cấp công nhân …” Đến ngày 30/1/2008, Thủ Tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng ký Nghị Định số 11 và 12, cấm đình công bất hợp pháp, đồng thời giao tòa án xét xử buộc công nhân phải bồi thường thiệt hại cho chủ trong các cuộc đình công đó. Nói đảng cộng sản là đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhưng làm thì đàn áp công nhân để bảo vệ chủ nhân. Đến ngày 16 & 17/6/2008, hội nghị “Đoàn Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam” họp tại Hà Nội, ông Mai Đức Chính, Phó Chủ Tịch tổ chức này cho biết từ đầu năm 2008 đến nay (gần 6 tháng) đã có 330 cuộc đình công và tất cả các cuộc đình công này đều phạm pháp.

Chủ Tịch nước Nguyễn Minh Triết dối trá. Sau chuyến sang Hoa Kỳ từ 18 đến 23 tháng 6/2007, báo Nhân Dân Điện Tử CSVN ngày 4/7/2007 giới thiệu một đoạn về lời ông Triết trả lời phỏng vấn khi phóng viên đài CNN Hoa Kỳ hỏi về vụ bắt Linh Mục Nguyễn Văn Lý đưa ra tòa án phạt tù: “Ông ta (tức LM Lý) vi phạm pháp luật Việt Nam. Đây hoàn toàn là vấn đề pháp luật, không phải là vấn đề tôn giáo. Việc xét xử ông ta được Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và tòa thánh Vatican cũng đồng tình với chúng tôi”. Thế nhưng ngày 7/7/2007, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam công khai lên tiếng phản bác lời của Nguyễn Minh Triết hoàn toàn không hề có sự thật đó, và Nguyễn Minh Triết không hề lên tiếng khi phát biểu của ông ta bị phản bác. Khi “không có sự thật” có nghĩa là dối trá. Chủ Tịch nước mà dối trá trắng trợn như vậy thì còn gì để phê phán mà chỉ triệt tiêu thôi.

Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng mưu mẹo dối trá. Sau khi thế giới đánh giá cộng sản Việt Nam (CSVN) tổ chức đại hội APEC thành công, được gia nhập WTO, nhất là được Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ thương mãi cùng lúc rút tên cộng sản Việt Nam ra khỏi danh sách CPC, Nguyễn Tấn Dũng thẳng tay đàn áp các nhân vật đấu tranh ôn hòa cho nền dân chủ thật sự trên toàn cõi Việt Nam. Điển hình là linh mục Nguyễn Văn Lý, luật sư Nguyễn Văn Đài, luật sư Lê Thị Công Nhận, Lê Trí Tuệ, Nguyễn Phong, ..v..v… Với trò đê tiện của lãnh đạo CSVN, ngày 16/3/2007, gọi kỹ sư Đỗ Nam Hải đến trụ sở Công An Quận Phú Nhuận làm việc gần như trọn ngày. Tại đây, có mặt các sĩ quan từ Bộ Công An Hà Nội vào từ Sở Công An đến, gia tăng áp lực. Vẫn không thành công, họ đã áp tải cha, chị, và con gái của anh Hải đến trụ sở, dùng tình cảm gia đình tạo áp lực buộc kỹ sư Hải phải ký giấy ngưng hoạt động chống đối đảng với nhà nước cộng sản. Kỹ sư Phương Nam Đỗ Nam Hải đã nói với họ: “Các anh hèn lắm”.

Tác giả Lê Thiên trong bài “Nhận Diện Bản Chất Dối Trá Của CSVN”. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, một trí thức từ Pháp về Hà Nội “phục vụ quê hương” có tên Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa dưới chế độ cộng sản mà Hồ Chí Minh là người lãnh đạo. Năm 1956, tức sau mấy năm làm việc cho cộng sản, ông bị nhà nước cộng sản đày đọa chỉ vì ông dám lên tiếng góp ý những sai sót trong cấu trúc xã hội xã hội chủ nghĩa. Vào cuối đời, trong quyển “Kẻ Bị Khai Trừ”, luật sư Tường nói lên ẩn ức của ông rằng:Cộng sản sống bằng sự dối trá, giả hình, nhưng cái sai lầm là nó đặt sự tàn bạo của nó trên những vẻ bề ngoài hư ảo mà nó giải thích theo ý của nó để tiêu diệt những kẻ mà nó gọi là kẻ thù…. Thế giới Việt Nam cũng như cả thế giới cộng sản là cái thế giới đóng cửa, và bên trong cái thế giới đó, người ta tự cho phép bách hại con người không thể tưởng tượng được vì nó vô cùng dã man điên rồ và bỉ ổi. Trong cái hỏa ngục đó, thường xuyên diễn ra những tội ác chỉ có trong thời kỳ thế mạt, không còn nhân phẩm nhân tính.

Trong quyển “Đồng bằng Gai Góc”, tác giả Xuân Vũ, một cựu cán bộ thời kháng chiến, xác định: Đảng cộng sản sinh ra để làm hai việc: Nói láo và làm bậy. Hễ chúng nói là nói láo, hễ chúng làm là làm bậy”…. “Bàn tay ác hại của đảng cộng sản mó tới đâu thì máu đổ tới đó. Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, có thể sai nhiều điều nhưng chắc chắn ông luôn luôn đúng khi ông nói với người dân rằng: Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”.

Trong bài “Sức Nén Của Ngôn Từ”, tiến sĩ cộng sản Hà Sĩ Phu viết: “Những danh từ như cách mạng, như dân chủ, ..v..v.. thật tối thiêng liêng. Nếu lãnh đạo không vì Nhân Dân, không vì Tổ Quốc, mà để cho chủ nghĩa cá nhân ỷ thế ỷ quyền hại dân hại nước, thì miệng người đời ngọng gì mà không kèm chữ “đểu” theo sau chức vụ hay tên của những người lãnh đạo đó. Hằng mấy chục năm trời dưới chế độ độc tài, người dân mới nén được chữ đểu vào những chức vụ lãnh đạo, như: lãnh đạo đảng đểu, lãnh đạo nhà nước đểu, lãnh đạo quốc hội đểu, lãnh đạo công an đểu, ..v..v.. , để chỉ những người tự xưng làm cách mạng mà hành động toàn là phản cách mạng”. Đến đây ông Hà Sĩ Phu nhớ đến câu đối mà ông cho là cô đọng nhất và khó đối nhất, nhưng diễn đạt chính xác nhất. Ông Phan Hiền, đăng trên báo quân đội nhân dân cộng sản, như thế này: ”Sai đâu sửa đấy, sai đấy sửa đâu, sửa đâu sai đấy”.

Trong nhật ký “Rồng rắn” của cố Trung Tướng cộng sản Trần Độ, có đoạn: Lãnh đạo CSVN Việt Nam kiên trì chế độ “đảng duy nhất lãnh đạo”, lại nhấn mạnh đến nguyên tắc “tập trung dân chủ”, rồi buộc mọi người phải tuyệt đối phục tùng. Từ đó sản sinh ra bộ máy văn hóa thông tin với 6-700 tờ báo và hằng trăm đài phát thanh phát hình, một hệ thống trường học để nhồi nhét chính trị vào đầu học sinh sinh viên, hằng ngàn báo cáo viên với những con người “lưỡi gỗ” chuyên dùng dối trá lừa bịp để mê hoặc nhân dân. Bộ máy này được trang bị mọi thứ cần thiết và có đủ quyền lực để tạo nên một xã hội mà mọi người sống với nhau toàn gian dối. Đảng đã và đang thực hiện đường lối độc đảng và độc tài của một chế độ phản dân chủ, nhưng lãnh đạo cùng bộ máy thông tin hùng hậu lại luôn luôn nói đến dân chủ, nói đến quyền làm chủ của nhân dân. Đó là lừa bịp, là dối trá. Điều 4 của Hiến Pháp bắt nhân dân phải chấp nhận sự lãnh đạo duy nhất của đảng, trong khi Hiến Pháp có những điều khoản nói về quyền dân chủ của dân, nhưng 3 điều dân chủ căn bản là tự do ngôn luận, tự do bầu cử, và tự do lập hội, thì bị chôn vùi bởi những đạo luật rất ư là phản động với những thủ đoạn bỉ ổi!

Trong một đoạn khác: “Cho đến nay đã gần 30 năm (năm 2000) rồi mà ngày đêm vẫn phất cờ đánh trống, ngày đêm hò hét biểu dương, và cũng ngày đêm võ vẽ các thành tựu nhân dân ta làm ra, rồi dồn vào cái túi sáng suốt, cái túi tài tình của đảng cộng sản. Lúc nào cũng bắt nhân dân tung hô, chào mừng, ca ngợi. Chào đón mùa Xuân cũng phải chào mừng đảng. Kỷ niệm nông dân phụ nữ thanh niên, cũng biểu dương đảng, và tung hô đảng là nguyên nhân của thắng lợi. Lễ hội tưởng nhớ tổ tiên cũng phải biểu dương đảng, chào mừng đảng. Đám cưới đám ma cũng phải tưởng nhớ và chào mừng đảng. Có câu ca dao tuyệt vời đủ nói lên chân lý của thời đại: “Mất mùa thì tại thiên tai, được mùa là bởi thiên tài đảng ta! Mỗi người cộng sản có lương tâm phải biết xấu hổ về cái chân lý đó”.

Cựu Đại Tá cộng sản Phạm Quế Dương, cựu Tổng Biên tập tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử Quân Độ Nhân Dân, đã nói: Cộng sản vừa bất tài vừa bất lực, vừa bất lương.

Ngày 20/5/2006, ông Trần Quốc Thuận, Phó chủ nhiệm văn phòng Quốc Hội CSVN, trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên rằng: “Cơ chế hiện nay tạo kẽ hở cho tham nhũng vơ vét tiền của của nhà nước. Không tham nhũng mới là điều lạ. Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là tiền dù số tiền bị mất lên đến hằng chục hằng trăm tỷ, mà cái lớn nhất bị mất là đạo đức. Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày trở thành thói quen, rồi thói quen đó lặp lại nhiều lần thành đạo đức, mà cái đạo đức đó rất mất đạo đức. Đó là một nguy cơ nhưng tôi thấy chẳng mấy người quan tâm mà chỉ chăm chú vào tham nhũng.

Thời gian cuối đời (năm 2006) của Đại Tá nhà văn cộng sản Nguyễn Khải, một thời là Đại Biểu Quốc Hội, Phó Tổng Thư Ký Hội Nhà Văn CSVN, qua bài viết “Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất”, ông dám bộc lộ cái nhìn chân thật của mình về bản thân của ông và về chế độ cộng sản mà trước đó ông đã tham gia đấu tranh giai cấp một cách cuồng nhiệt. Theo ông Khải, ngôn từ là mặt yếu nhất trong các lãnh vực thượng tầng cấu trúc tại các nước xã hội chủ nghĩa, vì lãnh đạo các nước đó dùng ngôn từ để che đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc giao tiếp để che đậy, tức là nói vậy nhưng không phải vậy. Nó là cái võ cứng để bảo vệ hiệu quả những bất trắc mà lãnh đạo các cấp trong bộ máy quyền lực thường sử dụng. Người cộng sản nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói dối không hề biết xấu hổ, cũng không hề run sợ, vì họ biết rằng người dân không bao giờ dám hỏi lại bởi đó là tối kỵ. Về phía người dân, cũng thừa biết lời lẽ lãnh đạo của họ là dối trá nên chẳng cần phải hỏi mà hãy làm theo ý mình là mình cũng sẽ dối trá để che đậy nếu như nhà cầm quyền hỏi. Nhưng tại sao người dân phải dối trá? Tại vì các cấp lãnh đạo dạy dỗ người dân dối trá và ép người dân phải dối trá như họ. Vậy là lãnh đạo lẫn người dân đều dối trá để che đậy, và che đậy cái gì đó tất nhiên là xấu xa hèn hạ.

Theo bảng xếp hạng về “tự do báo chí” của Worldwide Press Freedom Index 2008 thì các quốc gia cộng sản cùng trong nhóm cuối bảng tổng xếp hạng: Trung Hoa 167/173, Việt Nam 168/173, Cuba 168/173, và Bắc Hàn 172/173.

Lãnh đạo vi phạm nhân quyền.

Ngày 1/12/2005, tại trụ sở Quốc Hội Âu Châu ở Brussels, 730 Dân Biểu của 25 quốc gia khu vực Đông Âu, Tây Âu, và Bắc Âu, bao gồm nhiều đảng phái chính trị với những khuynh hướng khác nhau, đã đồng thuận khi biểu quyết một Quyết Nghị, đòi lãnh đạo CSVN phải thực hiện không chậm trễ, việc trả tự do cho các nhân vật bất đồng chính kiến, đặc biệt là đòi Việt Nam phải tổ chức bầu cử tự do trên căn bản đa đảng. Đồng thời, thực hiện quyền tự do báo chí. Ông Ian Pearson, Bộ Trưởng Thương Mại & Đặc Trách Nhân Quyền Bộ Ngoại Giao Anh quốc, đang là Chủ Tịch luân phiên của Liên Hiệp Âu Châu, phát biểu sau khi Nghị Quyết được thông qua: “Tôi chào mừng sự quan tâm của Quốc Hội Âu Châu trên vấn đề hôm nay. Đặc biệt là cuộc điều trần quan trọng ngày 12 tháng 9 năm 2005 dẫn đến Nghị Quyết này. Tôi biết rất rõ về tình trạng vi phạm nhân quyền trầm trọng tại ba nước Việt Nam, Cam Bốt, và Lào. Ví dụ như tại Bộ Ngoại Giao, trong năm nay đã nhận được 100 thư khiếu nại của các Dân Biểu Anh quốc về những vụ vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Tôi mừng rằng, sau cuộc điều trần nói trên, nhà cầm quyền Việt Nam đã để cho Liên Âu gặp thăm Hòa Thượng Thích Quảng Độ. Tôi sẽ nêu vấn đề này và đưa ra một danh sách tù nhân phải được trả tự do, trong cuộc gặp gỡ và đối thoại về nhân quyền với phái đoàn nhà cầm quyền Việt Nam vào ngày 12 tháng 12 sắp tới (2005)”

Ngày 25/1/2006, Nghị Viện Châu Âu tại Strasbourg đã đưa ra Nghị Quyết 1481, lên án “chủ nghĩa cộng sản là tội ác chống nhân loại và các chế độ toàn trị cộng sản đã vi phạm nhân quyền tập thể. Trong điều 2 ghi rằng: “Những vi phạm khác nhau tùy theo nền văn hoá và những giai đoạn lịch sử: (1) Những hành vi từ ám sát, hành quyết, bỏ đói, đày ải, đến khủng bố, tra tấn cá nhân lẫn tập thể trong các trại tập trung. (2) Những hành vi ngược đãi vì chủng tộc hay tôn giáo, từ tự do tư tưởng, tự do phát biểu, tự do báo chí, đến tự do lương tâm, và độc đảng chính trị”. Trong điều 5 ghi rằng: “Cần thiết phải điều tra và truy tố những tội phạm ra tòa án xét xử”.

Ngày 15/3/2007, phái đoàn Nhân Quyền Na Uy có tên là “Rafto Foundation for Human Rights” do Cô Therese Jebsen hướng dẫn sang Việt Nam, với mục đích thăm Hòa Thượng Thích Quảng Độ và trao giải thưởng Nhân Quyền mà Ngài được tổ chức này quyết định trao tặng hồi tháng 11/2006. Cùng đi, còn có ông Tom Rune Orset, thông tín viên đài truyền hình TV2 của Na Uy, và cô Kiều Trần với trách nhiệm thông dịch. Công An đã ngăn chận, chẳng những không cho phái đoàn vào Thanh Minh Thiền Viện, mà còn đưa phái đoàn về trụ sở Công An “làm việc” mấy tiếng đồng hồ. Sau đó, Công An gọi cô Kiều Trần đến trụ sở làm việc, nhưng Cô Trưởng phái đoàn không đồng ý vì Cô nghi ngờ họ hành động gian trá đối với cô Kiều Trần.

Ngày 12/7/2007, Quốc Hội Châu Âu trụ sở tại Strasbourg đã thông qua “Quyết Nghị về vấn đề Việt Nam” sau khi nghe một số Dân Biểu Tây Âu & Đông Âu trình bày về đàn áp nhân quyền và tôn giáo tại Việt Nam, đặc biệt là đàn áp 20 Ban Đại Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, điều luật an ninh quốc gia trong Bộ Luật Hình Sự trái với Công Ước quốc tế, Pháp Lệnh 44 xử lý hành chánh ban hành năm 2002 cho phép đưa các nhân vật bất đồng chính kiến vào bệnh viện tâm thần như kiểu Xô Viết ngày trước.

Trong quyển “Death by Government” giáo sư R.J. Rummel viết như sau: “Dưới lớp võ Việt Minh chống Pháp, cùng lúc họ thực hiện cuộc chiến tranh tàn sát những người quốc gia không cùng đường lối với họ. Chưa hết, họ cũng tiêu diệt những người cùng trong hàng ngũ khi họ xem những người cộng sản đó chệch hướng”.

Riêng nạn nhân trong chính sách cải cách ruộng đất, theo nhật báo “Nhân Dân” của CSVN ngày 20/7/1955, sau 6 đợt cải cách ruộng đất có 10.303.004 nạn nhân. Theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan. (trích bài “Con Số 100 Triệu Nạn Nhân” của ông Tú Gàn ngày 25/6/2007)

Ngày 23/1/2008, tại Strasbourg, Quốc Hội Châu Âu đã thông qua Quyết Nghị về Việt Nam. Quyết Nghị tố cáo CSVN vi phạm nghiêm trọng tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do hội họp, đàn áp bắt giam những người lên tiếng về tự do tôn giáo, về chống hành vi lấn chiếm lãnh thổ, và bắt giam các nhà báo. Quyết Nghị kêu gọi Liên Hiệp Châu Âu “đề xuất với CSVN chấm dứt tình trạng vi phạm qui mô về nhân quyền trước khi ký kết các Hiệp ước mới”.

Ngày 2/3/2009, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ công bố tình hình nhân quyền thế giới, trong đó có phần nói về nhân quyền tại Việt Nam trong năm 2008: “Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với dân số khoảng 86 triệu người, là một quốc gia độc đoán do đảng cộng sản Việt Nam cai trị. Cuộc bầu cử tháng 5/2007 đã diễn ra trong không khí thiếu tự do, không công bằng, vì tất cả ứng viên bị xem xét nghiêm ngặt bởi Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, tổ chức ngoại vi của đảng CSVN có nhiệm vụ theo dõi các tổ chức quần chúng. Trong năm qua (2008), nhà cầm quyền tiếp tục ngăn chận các quyền tự do căn bản như tự do báo chí, tự do bày tỏ cảm nghĩ, tự do hội họp, cùng với hành động đàn áp những người bất đồng chính kiến, bắt giữ các nhà dân chủ khiến nhiều người phải ra đi lánh nạn. Người dân không thể thay đổi chánh phủ bằng lá phiếu vì các hoạt động chính trị bị ngăn cấm hoàn toàn”.

Ngày 09/03/2009, tổ chức Freedom House công bố tại Genève (Thụy Sĩ) bản phúc trình hằng năm về tình trạng nhân quyền thế thế giới. Bản phúc trình chia các quốc gia được đánh giá tình trạng nhân quyền trong năm 2008 làm 3 nhóm khác nhau: Nhóm thứ nhất là các quốc gia hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn về có tự do nhân quyền trong suốt một phần tư thế kỷ qua, trong đó có Hoa Kỳ, Canada, Anh, Đức, Pháp, Nhật, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Australia, Italy, …… Nhóm thứ hai là các quốc gia có tự do chừng mực về nhân quyền , là Thái Lan, Singapore, Phi Luật Tân, Trung Hoa cộng sản, Iraq, …. Và nhóm thứ ba là các quốc gia hoàn toàn không có tự do về nhân quyền, gồm Việt Nam, Cam Bốt, Á Rập Xê Út.

Một chế độ mà từ Chủ Tịch đảng, xuống Tổng Bí Thư, đến Chủ Tịch nước, Thủ Tướng chánh phủ, tự tôn vinh là người vĩ đại, là đỉnh cao trí tuệ, là tài tình sáng suốt, là tuyệt đối đúng, lại dối trá kèm theo những mưu mẹo vặt trong toàn bộ chính sách độc tài cai trị dân từ thể xác đến tinh thần, quả là dân tộc Việt Nam vô cùng bất hạnh! Từ bản chất độc tài gian dối đó, các nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã gây ra vô vàn tội ác với dân với nước mà 4 tội ác dưới đây là tiêu biểu mạnh mẽ:

a. Tội ác về giáo dục.

Trên Vietnam Net ngày 7/6/2008 có bài “Nhìn thẳng vào khủng hoảng giáo dục Việt Nam” của giáo sư Hoàng Tụy. Ông nhận định sắt bén: “Dù bảo thủ đến đâu, Bộ Giáo Dục & Đào Tạo cũng như bất cứ ai đều không thể làm ngơ trước nhiều vấn nạn giáo dục đã và đang làm đau đầu cả xã hội. Chính Thủ Tướng Phan Văn Khải khi từ nhiệm đã thừa nhận chánh thức sự không thành công của giáo dục, đến nay thực trạng nghiêm trọng của giáo dục Việt Nam vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Nhiều người có trách nhiệm vẫn tự ru ngủ mình với những thành tựu thực và ảo của giáo dục. Nếu Việt Nam cô lập với thế giới thì không đến nỗi quá lo lắng, nhưng nếu khách quan và có trách nhiệm khi đặt giáo dục trong bối cảnh toàn cầu, thì không thể nhắm mắt trước sự tụt hậu ngày càng xa của giáo dục Việt Nam so với các quốc gia chung quanh. Thực tế, đất nước ngàn năm văn hiến này đang trả giá nặng nề cho sự suy thoái nghiêm trọng của giáo dục kéo dài suốt 30 năm qua ”.

Trong đoạn khác, ông nhấn mạnh: “Những sai lầm trong giáo dục do tư duy xơ cứng mà 20 năm qua không hề thay đổi. Nền giáo dục chân chính của quốc gia nào cũng có sứ mạng cao cả về giáo dục con người trong một xã hội lành mạnh với cuộc sống trung thực và óc sáng tạo để góp phần phát triển đất nước. Nhưng tiếc thay, những điều đó đã không đuợc chú ý trong xây dựng nền giáo dục Việt Nam. Ngày nay, môi trường quốc tế đã biến đổi cực kỳ sâu sắc trong khi Việt Nam vẫn dựa vào kinh nghiệm giáo dục tư tưởng chính trị thời đấu tranh giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự giả dối lan tràn trong giáo dục tại Việt Nam”.

Tóm tắt bài viết “Giáo dục Việt Nam dưới nét nhìn của một người Mỹ” do ông Nguyễn Gia Thưởng chuyển ngữ, trích trong trang Web của nhóm Thông Luận ngày 23/8/2008. Nội dung bài này là đề tài thảo luận khi Thủ tướng đảng cộng sản Nguyến Tấn Dũng gặp Tổng Thống Bush tháng 6 năm 2008 tại Washington DC.

Việt Nam đang đối mặt với cuộc khủng hoảng toàn diện về giáo dục: Viên chức không được đào tạo quản trị. Nhà giáo được đào tạo rất kém với đồng lương quá thấp. Cơ hội học đại học rất hạn hẹp vì cơ sở không phát triển, số giảng viên giảng sư không gia tăng, bằng chứng là năm 2007 các trường đại học chỉ tuyển 300.000 sinh viên trong tổng số 1.800.000 thí sinh. Mặt khác, số lượng sinh viên ghi tên vào ngành giáo dục chỉ 10%, trong khi Trung Hoa cộng sản 15%, Thái Lan 41%, Đại Hàn 89% (thống kê của Ngân Hàng Thế Giới). Bằng tiến sĩ thì mua, còn giáo sư thì được đề cử qua thủ tục hành chánh chớ không do công trình và sự nghiệp sư phạm. Nạn tham nhũng tràn lan chẵng khác bệnh ung thư trong ngành giáo dục. Việt Nam thua kém các quốc gia chung quanh về việc cung ứng hiểu biết và canh tân giáo dục, khi nhìn vào số lượng tập san khoa học do các trường đại học ấn hành. Năm 2006, hai đại học lớn nhất Việt Nam là đại học quốc gia và đại học kỹ thuật Hà Nội ấn hành 34 tập san, trong khi đại học quốc gia Seoul (Đại Hàn) là 4.556 và đại học Bắc Kinh gần 3.000 tập san khoa học. Cũng trong năm 2006, về đơn xin bằng sáng chế của Việt Nam chỉ nộp có 2 đơn, trong khi Trung Hoa cộng sản đến 40.000 đơn. Số sinh viên từ các trường đại học Việt Nam có trình độ rất kém, bằng chứng là một công ty kỹ nghệ Hoa Kỳ phỏng vấn 2.000 sinh viên Việt Nam vừa tốt nghiệp đại học được xem là giỏi nhất trong tổng số, kết quả là công ty này chỉ chọn được 40 thí sinh có trình độ tối thiểu. Tình trạng giáo dục Việt Nam có thể phá hỏng những phát triển kinh tế trong nước và tiến trình hội nhập thế giới”.

Sau buổi họp ngày 11/9/2008 tại Hà Nội, CSVN yêu cầu Hoa Kỳ trợ giúp đào tạo 10.000 tiến sĩ tính đến năm 2020, theo bài viết của Mặc Lâm phóng viên đài RFA, thì giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, Giám Đốc Điều Hành Quỹ Học Bổng đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ của Vương Quốc Bỉ tại Việt Nam, cho biết: “Với tư cách là một nhà giáo, với tư cách là một người có nhiều năm đào tạo các tiến sĩ, con số đưa ra (10.000 tiến sĩ) lớn lao như vậy, sẽ có những khó khăn trước mắt. Theo kinh nghiệm của tôi, ở Việt Nam rất khó tìm được những đối tượng đủ khả năng để theo học bằng tiến sĩ. Bằng chứng là chúng tôi có một dự án đào tạo 50 tiến sĩ giữa đại học Liège của Bỉ với đại học Xây Dựng Hà Nội, nhưng đã 5 năm qua rồi mà chúng tôi chỉ tìm được chưa tới 10 người thì làm sao tìm đâu ra con số 10.000 người trong 12 năm tới. Bậc tiến sĩ không phải chỉ có tài chánh là đủ, mà vấn đề là phải có những học sinh có đủ tư duy, có đủ trình độ để theo học, có một đam mê nào đó mới có thể đạt đến bằng tiến sĩ nghiêm túc như ở Hoa Kỳ, hay ở các đại học Châu Âu. Nói chung là tìm đối tượng tại Việt Nam theo học tiến sĩ là rất rất khó”.

Trong suốt chiều dài hơn 30 năm kể từ khi chiếm xong Việt Nam Cộng Hòa năm 1975 đến nay, nền giáo dục Việt Nam và các vấn đề liên quan rất tồi tệ, dù rằng từ năm 2001 đến nay mức phát triển kinh tế phát triển trên dưới 7% mỗi năm. Lãnh đạo CSVN chỉ chú trọng làm ra khẩu hiệu chớ không làm ra chính sách, vì chính sách giáo dục từ nửa cuối thế kỷ 20 đến nay là đầu thế kỷ 21 chỉ có mục đích đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ. Xuyên qua nhận định của những viên chức hàng lãnh đạo giáo dục Việt Nam, cũng như nét nhìn từ viên chức giáo dục Hoa Kỳ, sự thật tồi tệ hiện nay đến mức lãnh đạo CSVN không thể che giấu nỗi nên phải nhìn nhận sự thật mà bản chất của đảng cộng sản vốn dĩ là dối trá che giấu. Đây là tội ác nặng nhất trong số những tội ác mà dân gian gọi là “trời không dung đất không tha”, bởi vì xã hội Việt Nam hiện nay là một xã hội băng hoại đạo đức, đảo lộn luân thường đạo lý, dẫn đến tình trạng sau khi chế độ cộng sản độc tài sụp đổ, ít nhất phải hai thế hệ sau đó mới hy vọng khôi phục lại được nét tinh hoa văn hoá dân tộc.

b. Tội ác về lãnh thổ.


Ngày 14/9/1958, Thủ Tướng CSVN Phạm Văn Đồng ký văn kiện ngày 14/9/1958, công nhận vùng Biển Đông bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trở thành lãnh thổ của nước Trung Hoa. Đây là hành động chư hầu của nhóm lãnh đạo VNCS đối với THCS chẳng khác thời phong kiến xa xưa trong lịch sử! Với văn kiện này không thể do ông Thủ Tướng họ Phạm quyết định mà phải là lệnh của Bộ Chính Trị do ông Hồ lãnh đạo. Từ đó khẳng định ông Phạm ký văn kiện đó là theo lệnh ông Hồ.

Ngày 30/12/1999, Lê Khả Phiêu, Tổng Bí Thư đảng CSVN ký Hiệp Ước dâng 789 cây số vuông dọc biên giới để trừ nợ mua vũ khí đạn dược sử dụng trong chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa 1955-1975, là hành động cắt đất bán cho THCS!

Ngày 25/12/200, ông Trần Đức Lương đến Bắc Kinh cùng Giang Trạch Dân ký Hiệp Ước cắt 11.362 cây số vuông trên vịnh Bắc Việt cho Trung Hoa cộng sản, là hành động cắt biển bán cho THCS để lấy 2.000.000.000 mỹ kim, mà theo lời ông Lương để “vuốt ve” sức phản kháng của ông Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, và những người khác trong Quốc Hội. Phải viện dẫn lý do thăm viếng, vì sau khi những tin tức loan truyền khá rộng rãi tại Hà Nội, loan dần vào miền Nam về Hiệp Ước ngày 31/12/1999 bán đất cho THCS và đã âm thầm đưa Hiệp Ước ra Quốc Hội phê chuẩn ngày 9/6/2000. Với hành động không công khai minh bạch, chứng tỏ lãnh đạo VNCS biết những hành động đó là hành động tội ác nên phải che giấu người dân dưới quyền. Biết vậy mà vẫn hành động, chính xác là lãnh đạo VNCS đặt quyền lợi đảng cộng sản Việt Nam lên trên quyền lợi tổ quốc quyền lợi dân tộc, vì quyền lợi của đảng đồng nghĩa với quyền lợi riêng tư của nhóm lãnh đạo hơn 100 đảng viên trong ban chấp hành trung ương của họ.

Vậy là, ngoài nhóm 4 tên lãnh đạo với tội ác nói trên đã bán đất bán biển cho THCS, thêm nhóm lãnh đạo với tội ác thỏa hiệp cho THCS sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào quận Tam Sa tỉnh Hải Nam hồi đầu tháng 12/2007. Rồi tội thêm tội khi họ sử dụng “hung thần” Công An ngăn chận thanh niên sinh viên học sinh biểu tình ngày 9 & 16/12/2007 phản đối THCS chiếm hai quần đảo nói trên của Việt Nam. Chưa hết, lại tội thêm tội khi các thành phần phẫn uất hành động của THCS lẫn phản ứng của VNCS chuẩn bị mít tinh biểu tình trước tòa đại sứ THCS vào ngày 14/9/2008, phản đối chúng trưng dẫn văn kiện của Phạm Văn Đồng gởi THCS vào ngày này 50 năm trước, lại bị đám “hung thần” Công An tại Hà Nội cũng như tại các địa phương, ra sức ngăn chận bắt giữ thẩm vấn những ai mà họ nghi sẽ tham gia mít tinh biểu tình. Nhóm lãnh đạo tội ác này là Nguyễn Minh Triết trong chức Chủ Tịch nước và Nguyễn Tấn Dũng trong chức Thủ Tướng.

Với những hành động gian trá giấu diếm khi ký ba văn kiện ngày 14/9/1958, ngày 30/12/1999, ngày 25/12/2000, cộng với những hành động gian trá của Quốc Hội khi phê chuẩn hai Hiệp Ước nói trên, cộng thêm sự thỏa hiệp để Trung Hoa cộng sản thành lập huyện Tam Sa bao gồm Hoàng Sa Trường Sa của Việt Nam, lại còn sử dụng Công An đàn áp những ai thể hiện ý thức chính trị ôn hòa qua hành động mít tinh biểu tình phản đối hành động của THCS lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam, đích danh Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, là những tên bán đất bán biển cho THCS, một quốc gia với chiến lược trường kỳ xâm chiếm Việt Nam chúng ta! Chỉ riêng cái tội kinh hoàng này mà dân gian gọi là “trời không dung đất không tha”, đã quá đủ để đưa những tên này ra tòa án quốc gia phán xét, và lưu mãi trong sử sách truyền mãi trong dân gian cho đến ngàn năm sau như những tên bán nước từ ngàn năm trước. Kẻ bán nước không được gọi bằng ông hay bất cứ cách gọi nào khác dành cho người tử tế cho dù họ bao nhiêu tuổi.

Chưa hết, tháng 12 năm 2008, Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố rằng: “Khai thác quặng Bauxite là chủ trương lớn của đảng” (mà đảng là nhóm lãnh đạo)”. Thỏa hiệp này cho Trung Hoa cộng sản đưa hằng ngàn thậm chí là hằng chục ngàn công nhân và lực lượng quân đội dưới danh nghĩa bảo vệ an ninh vùng khai thác quặng Bauxite trên Cao Nguyên miền Trung tạo môi trường sống vùng này trở nên tồi tệ. Và tồi tệ hơn hết nếu giả thuyết sau đây rất có thể trở thành sự thật là một lực lượng quân đội THCS sẽ đồn trú dài hạn nơi đây dưới danh nghĩa nào đó mà lãnh đạo VNCS không thể khước từ do lệ thuộc THCS”.

Nước Việt Nam ta qua nhiều ngàn năm lịch sử với biết bao thăng trầm vinh nhục, nhưng chưa có triều đại nào cũng chưa có nhóm lãnh đạo nào tồi tệ đê hèn như nhóm lãnh đạo Việt Nam cộng sản, đã vì quyền lợi riêng tư mà dâng nộp cho Trung Hoa cộng sản 789 cây số vuông (năm 1999) trên dãi đất biên giới, 11.362 cây số vuông (năm 2000) trong vùng vịnh Bắc Việt, và mặc nhiên thỏa hiệp cho Trung Hoa cộng sản sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vào huyện Tam Sa của Trung Hoa cộng sản (2007), cộng với nhiều ngàn công nhân lẫn đơn vị quân đội THCS trong khu vực khai thác quặng mỏ Bauxite vùng Dak Nong Cao Nguyên Miền Trung (năm 2008). Đây là tội ác ngang hàng với tội ác giáo dục

c. Tội ác tàn sát đồng bào.

- Theo giáo sư Rummel trong quyển “Death by Government” thì cộng sản Việt Nam với tội ác tàn sát đồng bào. Trong giai đoạn 1945-1957, đã giết những thành phần mà họ gọi là các tầng lớp trí thức, tư sản giàu có, khác khuynh hướng chính trị, và những người trong hàng ngũ của họ mà họ cho là chệch tư tưởng cộng sản cũng bị họ giết. Căn cứ vào tài liệu, số người bị giết trong giai đoạn này vào khoảng 50.000 người.

- Trong giai đoạn cải cách ruộng đất trên đất bắc 1953-1955. Bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000 do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, cho biết có 172.008 người bị đấu tố (được hiểu là bị giết). Sau khi sửa sai thì đảng với nhà nước đưa ra con số 123.266 người bị coi là oan. Riêng nạn nhân trong chính sách cải cách ruộng đất, theo nhật báo “Nhân Dân” của CSVN ngày 20/7/1955, sau 6 đợt cải cách ruộng đất có 10.303.004 nạn nhân. Theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan. (trích bài “Con Số 100 Triệu Nạn Nhân” của ông Tú Gàn ngày 25/6/2007).

- Trong Tết Mậu Thân năm 1968, theo tác giả David T. Zabecki trong quyển “The Vietcong Massacre at Hue” ấn hành năm 1976, thì số hài cốt tìm được do cộng sản Việt Nam đã bắt giết trong 21 ngày chiếm giữ một phần thành phố Huế và chôn tập thể trong các hầm là 2.810 người trong tổng số dân ghi mất tích hơn 5.000 người! Nhưng theo sử gia Trần Gia Phụng thì số người tìm được trong 22 mồ chôn tập thể là 2.326 xác trong tổng số dân bị giết là 5.800 người!

- CSVN bắt đầu cuộc gây chiến xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1954, và đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 Việt Nam Cộng Hòa chúng ta sụp đổ. Theo tài liệu đúc kết từ Đại Hội 4 của CSVN năm 1976, ít nhất là 4.000.000 thanh niên miền Bắc đã chết trên chiến trường Việt Nam Cộng Hòa, gồm cả số người chết trên đường xâm nhập từ Bắc vào Nam. Nhưng theo nhà văn nữ (cựu cộng sản) Dương Thu Hương thì số người chết lên đến 10.000.000 người.

- Cộng sản cai trị toàn cõi Việt Nam dưới tên nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với hằng loạt những chính sách đánh quỵ xã hội mà họ vừa chiếm được. Theo tài liệu của Việt Quốc bên Germany, thì Sở Công An Sài Gòn (mà họ cái tên Hồ Chí Minh vào đó), đến cuối tháng 7 năm 1975, Công An đã đẩy 154.772 quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ vào các trại tập trung. Đến cuối tháng 10 cùng năm (1975), Công An bắt thêm 68.037 người nữa. Cộng chung tính đến 30 tháng 10 năm 1975, tổng số cựu quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ, bị họ giam giữ trong khoảng 200 trại tập trung trên toàn cõi Việt Nam là 222.809 người. Đến tháng 4/1992, người cuối cùng mới ra khỏi trại tập trung. Trong 17 năm đó, ước lượng từ 8.000 đến 10.000 tù chính trị bị chết do chính sách thù hận thâm độc của nhóm lãnh đạo CSVN..

- CSVN áp dụng những chính sách khắc nghiệt cai trị toàn cõi Việt Nam, là nguyên nhân chính đẩy hơn 3.000.000 người bằng mọi phương cách rời khỏi quê hương tìm tự do trên khắp thế giới! Trong số này có khoảng 150.000 người di tản trước trong và ngay sau ngày 30/4/1975. Tiếp sau đó, dòng người Việt Nam ào ạt trốn chạy khỏi quê hương tị nạn tại các quốc gia tự do trên thế giới gồm 839.200 người trong 20 năm kể từ tháng 6/1975: Giai đoạn 1, tháng 6/1975 - 1979 có 326.000 người tị nạn gồm 14.600 người vượt biên giới trên đất liền, và 311.400 người vượt biển mà thế giới gọi là Thuyền Nhân”. Giai đoạn 2, 1980 - 1984, có 253.100 người tị nạn gồm 11.000 người vượt biên giới và 242.000 người vượt biển. Giai đoạn 3, 1985 - 1989, có 197.000 người tị nạn gồm 10.500 người vượt biên giới và 186.500 người vượt biển. Và giai đoạn 4, 1990-1995, có 63.100 người tị nạn gồm 6.700 người vượt biên giới và 56.400 người vượt biển. Các cơ quan quốc tế về truyền thông lẫn tị nạn dựa vào tin tức do người tị nạn cung cấp, phỏng đoán cứ 3 người Việt Nam vượt biên vượt biển thì 2 người đến bến bờ tự do và 1 người chết mất xác. Theo cách ước tính này, có từ 400.000 đến 500.000 người chết mất xác trên đường chạy trốn chế độ cộng sản độc tài! Đây là tội ác thứ hai sau hai tội ác ngang nhau là giáo dục và lãnh thổ.

d. Tội ác áp bức cướp đoạt tài sản.

Sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa 30/4/1975, đẩy hơn 200.000 viên chức cán bộ và quân nhân vào các trại tập trung, CSVN bắt đầu cướp đoạt tài sản mọi thành phần xã hội Việt Nam Cộng Hòa cũ:

Ngày 20 tháng 8 năm 1975, Bộ Văn Hoá Thông Tin cộng sản Việt Nam, ra lệnh mọi người phải tiêu hủy toàn bộ văn hoá phẩm thời Việt Nam Cộng Hòa mà họ gọi là văn hóa phẩm đồi trụy và phản động. Họ mở chiến dịch truy lùng bắt giữ những ai tàng trữ, buôn bán, bắt giữ, và truy tố ra “tòa án nhân dân”. Chính sách này giống chính sách của vua Tần Thỉ Hoàng thời Trung Hoa phong kiến, và thời Mao Trạch Đông cộng sản. Nhà văn nữ cộng sản Dương Thu Hương viết rằng: “Sau 30/4/1965, tôi vào miền Nam choáng váng khi nhận thấy hệ thống thông tin ở đây quá phong phú. Trên các quày sách với vô số các tác phẩm văn chương, khoa học, triết học của thế giới kim cổ Đông Tây. Rất nhiều sách triết học Mác - Lê, sách văn học Nga và Sô Viết. Trong khi ở miền bắc mấy chục năm trời chỉ có một luồng thông tin, làm sao nhìn hết sự vật để đánh giá!”

Ngày 18 tháng 9 năm 1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam bất thình lình thực hiện chính sách đổi tiền. Họ không giới hạn số tiền mang đến đổi, nhưng chỉ được nhận lại tối đa là 200 đồng mới, mà họ qui định 1 đồng bạc mới bằng 500 đồng bạc cũ (1 mới = 500 cũ). Số tiền còn lại, mỗi khi gia đình có nhu cầu phải làm đơn xin và phải được Phường/Xã chứng nhận mới được cứu xét. Còn cứu xét như thế nào thì tùy họ khi vui lúc buồn. Tháng 5/1978 đổi tiền lần nữa với trị giá 1 đồng mới = 10 đồng đang lưu hành. Như vậy, 1 đồng bạc mới = 5.000 đồng Việt Nam Cộng Hòa cũ. Một chút so sánh: Đến ngày 6/3/2009, 1 mỹ kim = 17.380 đồng VNCS. Nếu đem 1 mỹ kim x 17.380 đồng VNCS x 5.000 VNCH năm 1975 sẽ là = 86.900.000 đồng. Con số này nói rât rõ về sự mất giá của đồng bạc VNCS đến mức nào sau 33 năm cầm quyền!

Ngày 10 tháng 11 năm 1975, chính sách đánh vào ngành kinh doanh thương mãi, ép mọi chủ nhân mà họ gọi là “vận động” hiến tặng cho nhà cầm quyền toàn bộ cơ sở kinh doanh thương mãi, kể cả nhà ở, rồi chuyển đến các khu hoang vắng mà họ gọi là “khu kinh tế mới” tự mưu sinh. Trường hợp không chấp hành sự vận động của họ thì bị bắt vào trại tập trung, còn tài sản bị họ tịch thu. Có nghĩa là, cho dù bằng cách nào đi nữa thì tài sản cũng vào tay nhà nước cộng sản, chỉ khác ở chổ là những chủ nhân có bị vào trại tập nhỏ -tức nhà tù- hay vẫn trong trại tập trung lớn -tức xã hội- thế thôi.

Đến chính sách cải tạo văn nghệ sĩ. Tờ L’ humanité của đảng cộng sản Pháp, số ra ngày 21 tháng 3 năm 1976 tại Paris, có đăng tải danh sách 321 văn nghệ sĩ thời Việt Nam Cộng Hòa, đã bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam bắt vào trại tập trung cải tạo từ ngày 13 tháng 6 năm 1976.

Tháng 6 năm 1977, lại một chính sách khác buộc tất cả nông dân có ruộng mà họ gọi là “vận động”, đem tập trung vào Hợp Tác Xã. Nông dân vẫn canh tác nhưng sản phẩm do Hợp Tác Xã quản trị, còn nông dân tùy theo lao động của mình bỏ ra mà nhận lại đồng lương bằng sản phẩm do Hợp Tác Xã quyết định. Và họ quản trị lao động công việc đồng áng chẳng khác những trại lính. Trần Bá Đệ, một sử gia miền bắc viết rằng: “Trong khi nông nghệp miền bắc đang trên con đường hợp tác hóa trên 15 năm đang ở lối nghẽn chưa tìm ra lối thoát, đảng lại chủ trương đưa nông nghiệp miền nam đi tiếp trên con đường đó”. (trích quyển “Lịch sử hiện đại Việt Nam 1945-2006” của tiến sĩ sử học Hoàng Ngọc Thành, xuất bản năm 2008, trang 643)

Cái chính sách toàn bộ đất đai trên toàn cõi Việt Nam thuộc về nhà nước mà nhà nước lả đảng cộng sản mả đảng là một nhóm hơn 10 đảng viên trong Bộ Chính Trị. Chính từ chính sách này mà phát sinh vô số người dân phải kêu oan khiếu nại. Từ năm 2006, sự kiện từng đoàn dân oan từ chấp nhận mọi khó khăn trong sinh hoạt hằng ngày và nguy hiểm đến tính mạng, đã các tỉnh kéo vào thành phố kinh tế Sài Gòn và thành phố chính trị Hà Nội ở đó tháng này sang tháng khác, kêu oan khiếu nại với các cơ quan thẩm quyền, là bằng chứng mạnh mẽ nhất về sự áp bức bóc lột người dân về đất đai, dưới danh nghĩa xây dựng công ích quốc gia nhưng hầu hết đem bán cho các cơ quan đầu tư ngoại quốc xây dựng cơ sở sản xuất cũng như cơ sở giải trí với giá cao trong khi đền bù cho dân quá thấp. Nhà nước cộng sản dành cho cái quyền quản trị đất đai, cho người dân sử dụng nhưng khi cần là họ lấy lại đúng nghĩa của “chế độ (dân) xin và (nhà nước) cho”, nhưng khi thấy có lợi cho họ là họ lấy lại. Tình trạng dân oan khiếu nại kiện thưa từ đó đến cuối năm 2008 càng thêm phức tạp, các cấp lãnh đạo đều gian trá dối gạt đồng bào đến mức người dân oan không còn tin lãnh đạo hứa hẹn, cũng không sợ Công An đàn áp. Các cơ quan truyền thông quốc tế ước lượng có khoảng từ 30.000 đến 50.000 dân oan tham dự khiếu nại thưa kiện tại các tỉnh và thành phố mà nhiều nhất là Sài Gòn và Hà Nội.

Trên tuần báo Saigon Weekly News ngày 31/10/2008 tại Houston, ông John Hendra, phối trí viên của Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam cảnh báo rằng: “Dù kinh tế Việt Nam phát triển trong những năm gần đây nhưng nhiều nhóm dân vẫn trong tình trạng có thể bị thiếu thực phẩm, nhất là những nhóm nông dân không có ruộng đất, những nhóm dân nghèo tại các đô thị, và những nhóm dân tộc thiểu số. Giữa lúc giá nhiên liệu và thực phẩm trên thế giới giảm dần thì lạm phát tại Việt Nam vẫn còn ở tỷ lệ 26.7% trong năm 2008, khiến ngân sách gia đình của giới nghèo túng càng thêm kiệt quệ. Trong hơn 10 năm qua, kinh tế Việt Nam phát triển trung bình 7.5% giúp một số dân thoát khỏi cảnh nghèo đói, nhưng tình trạng hiện nay làm cho giới dân nghèo trở thành cơ cực đã tạo nhiều bất ổn trong xã hội (Có lẽ nói đến tình trạng dân nghèo bị bóc lột phải đi khiếu nại kêu oan. PBH). Việt Nam cần phải củng cố các chương trình an sinh xã hội để giúp dân nghèo nhiều rủi ro nhất”.

Bản tin ngày 5/2/2009 do Thời Báo Kinh tế Việt Nam ghi nhận, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng cho biết tình hình kinh tế xã hội năm 2008 rất nhiều biến động gần như không thể lường trước được, do đó ông kêu gọi dân chúng phải đồng thuận để tạo sức mạnh đưa đất nước vượt qua những khó khăn hiện nay. Việt Nam chưa cần phá giá đồng bạc, vì phá giá từ 17.000 đồng VN = 1 MK lên 18.000 đồng thì tổng số nợ ngoại quốc từ 18 tỷ mỹ kim (hiện nay) sẽ tăng lên rất nhiều và ảnh hưởng mạnh vào ngân sách. Ngay trong tháng đầu năm 2009, chỉ số của các ngành từ sản xuất kinh doanh đến du lịch, xuất cảng, … đều giảm sút mạnh.

3. Kết luận.

Cộng sản độc tài vẫn là cộng sản độc tài. Họ chỉ phục vụ bản thân họ dưới tên gọi đảng cộng sản Việt Nam. Từ kinh nghiệm dẫn đến khẳng định, đã là cộng sản thì không có người cộng sản tử tế vì những chính sách giáo dục chỉ nhắm đào tạo những thế hệ thần dân tuân phục họ, và những chính sách xã hội chỉ nhắm đè bẹp các quyền tự do của con người trên căn bản “xin và cho” trong chính sách cai trị người dân, cho nên hơn nửa thế kỷ qua Việt Nam không có những công dân tử tế để xây dựng một xã hội tử tế trong mục đích phục vụ người dân.

Vậy, ngày nào chế độ CSVN độc tài tàn bạo còn tồn tại thì ngày đó người dân vẫn mất quyền làm người và vẫn bị áp bức bóc lột từ vật chất đến tinh thần. Cách duy nhất mà người dân giành lại quyền làm người của mình là vùng lên lật đổ và triệt tiêu chế độ này, vì lá phiếu không thể chuyển hóa được những kẻ lãnh đạo tàn bạo phi nhân của nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng.

(Trích phụ bản A trong bài đang viết “Quan Niệm Sách Lược Đấu Tranh Lật Đổ CSVN”).

Houston, 12 tháng 3 năm 2009
Phạm Bá Hoa



MÓN NỢ NÀY XIN GHI NHỚ - ĐỪNG QUÊN ! - Phạm Tín An Ninh

Phạm Tín An Ninh

Đã hơn ba mươi ba năm, từ khi cơn lốc nghiệt ngã 30.4.75 đổ xuống miền Nam Việt Nam. Ba mươi ba năm đã đi qua với với những thăng trầm lịch sữ, đầy đủ tính bi hùng cho cả những người Việt trong và ngoài nước. Về phía những người Việt lưu vong - từ cả hai miền Nam-Bắc - đã bùng lên ngọn lửa mới. Đó là cao trào đấu tranh chính trị mang yếu tố thuyết phục và quyết định cho một quốc gia dân chủ và một nhà nước pháp trị. Trong nước, những tiếng nói lương tri, bất chấp khủng bố tù đày, đã dõng dạc lên tiếng thách thức quyền lực gian manh, độc tài, trước giá trị tự do nhân bản. Đây là một chuyển hướng có ý nghĩa lịch sữ để dân tộc Việt Nam nhìn thấy được ánh sáng ở cuối một đường hầm bao nhiêu năm tăm tối.

Cùng với niềm hy vọng đó, xin mọi người hãy cùng thổi bùng lên một ngọn lửa khác, nhỏ bé và khiêm tốn, mà bấy lâu nay có rất nhiều người trong chúng ta đã lãng quên, hay có đôi phút chợt đến rồi cũng chợt đi như cơn gió thoảng.

Đó là tấm lòng – cũng có thể nói là một món nợ - của chúng ta đối với những anh em Thương Binh VNCH hiện còn trong nước. Những chiến sĩ dũng cảm, anh hùng, đã hy sinh một phần thân thể, không chỉ cho lý tưởng tự do, mà còn cho cả sự sống của chính chúng ta.

Những hy sinh này không phải chỉ được vinh danh, mà cần phải được chia sẻ và đền bù một cách cụ thể. Vì đó là trách nhiệm của mỗi người chúng ta - Thế hệ đã từng cùng một chiến tuyến, chung một chiến hào với họ. Giờ này tất cả đều đang ở đoạn cuối của cuộc đời. Đã quá trể, để đến lúc mỗi người nhắm mắt, nếu chính thế hệ lưu vong chúng ta chưa trả được phần nào món nợ máu xương này cho họ.

Mất một phần thân thể đã là một thiệt thòi khắc nghiệt nhất trong kiếp con người. Lại còn phải trải cuộc đời với xác thân tàn phế đó trong tay của kẻ cựu thù. Có lẽ chẳng còn nỗi bất hạnh nào đau đớn hơn. Những chiến hữu, những ân nhân, những người anh em này của chúng ta chỉ còn biết kéo lê những ngày vô vọng khốn cùng cho đến khi nhắm mắt.

Trên khắp nẻo đường đất nước, có biết bao người anh em ấy đang lê lết cái phần thân thể không đầy đủ, trong vũng lầy đen tối, cơ cực cả thể xác lẫn tinh thần. Nếu còn có vợ con thì cũng chỉ bần cùng nheo nhóc. Những người tật nguyền nơi vỉa hè đầu phố, có khi nào ta tự hỏi họ là ai, trong những người bạn chiến đấu năm xưa ? (Xin hãy dành một vài giây, thử tưởng tượng, nếu ngày trước chính bản thân ta đã không may như họ ?)

Bi kịch lịch sử đã đẩy họ vào hoàn cảnh đau thương đó. Cay đắng thay, những hy sinh của họ một thời đã từng được chúng ta ngợi ca, ngưỡng mộ, được các cấp chỉ huy (mà phần lớn đang sống ở hải ngoại) từng gắn huy chương, bội tinh lên ngực áo họ. Để rồi cuối cùng có còn lại một chút ý nghĩa nhỏ nhoi nào sau cái ngày tan đàn rã nghé ? Có còn chăng, chỉ là một chút tình ”huynh đệ chi binh” mà những người lính chúng ta vẫn hằng nói tự thuở nào .

Chúng ta - những người chiến hữu - những cấp chỉ huy – đã từng sát cánh, đã từng điều động họ trên trận mạc. Họ đã phải mất đi một phần thân thể để đem lại vinh quang và cả sự sống còn cho chúng ta. Xin mỗi người hảy tự hỏi: bao nhiêu năm nay, ta đã làm được gì cho họ?

Ngoài một số Hội Ái Hữu của vài Binh Chủng, đóng góp giúp nhau phần nào trong nội bộ, còn hầu hết những người lính bộ binh, địa phương quân, nghĩa quân - thành phần đông đảo nhất - thì có ai đứng ra lo cho họ ?

Chỉ mới vài năm trở lại đây, một số Hội Cứu Trợ Thương Phế Binh được thành lập, mà nổi bật nhất là Nhóm Huynh Đệ Chi Binh ở Bắc Cali của cựu trung tá Trần Đình Vọng (đã quá cố) và Hội HO Cứu Trợ TPB/QP VNCH ở Nam Cali, của cựu nữ trung tá Nguyễn Hạnh Nhơn.

Dù với tất cả nỗ lực, cùng với sự hổ trợ đắc lực của một số cá nhân, báo chí, đặc biệt là Trung Tâm Asia và Đài TH/SBTN, nhưng thành quả đạt được cũng vẫn chỉ là khiêm tốn, so với số lượng Thương Binh, Qủa Phụ Tử Sĩ VNCH của chúng ta còn khốn khổ ở quê nhà..

( Xin thử làm một bài toán chia đơn giản nhất: với hai năm một lần tổ chức Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh, cho dù số tiền thu được khoảng một triệu đô la, chúng ta cũng chưa giúp được mỗi gia đình Thương Binh, Quả Phụ Tử Sĩ VNCH được 50 đô la/1 năm. Bởi vì chỉ riêng Hội của cựu trung tá Nguyễn Hạnh Nhơn đã nhận trên 15.000 hồ sơ hợp lệ ).


Tuy nhiên đó là những tấm lòng và sự nỗ lực đáng được mọi người chúng ta trân trọng và cùng ước mong ngọn lửa nghĩa tình này sẽ được thổi bùng lên bằng sự tiếp tay của tất cả mọi người.

Có một câu hỏi cũng đã được nêu lên: Chúng ta đã có những thành công trong việc kêu gọi và tranh đấu với chính phủ Hoa Kỳ. Chúng ta cũng đã có những người Mỹ gốc Việt tài năng đắc cử vào các cơ quan dân cử, một số giữ những chức vụ cao trong quân đội, chính phủ Hoa Kỳ. Liệu chúng ta có thể kết hợp vận động và tranh đấu một cách khôn ngoan đối với báo chí, cơ quan truyền thông, kêu gọi lương tri của quần chúng và chính phủ Hoa Kỳ, để họ có trách nhiệm với những người bạn đồng minh ngày nào mà họ đã từng phản bội, để rồi lại tiếp tục lãng quên họ trong tận cùng địa ngục ?

Chúng ta nghĩ gì vào khoảng mười năm trước đây, khi nhìn thấy trên truyền hình, một số sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ đã xin sự thứ tha của bà Phan Thị Kim Phúc. Cô bé năm nào bị ảnh hưởng bom Napalm chạy trần truồng đau đớn ở Trãng Bàng, mà hình ảnh trên báo chí, truyền hình đã làm cho cả thế giới xúc động, và bị Cộng sản lợi dụng cho cả một chiến dịch tuyên truyền thô bỉ. Cô bé ấy đã trở thành Đại sứ Hoà Bình tại Liên Hiệp Quốc. Nhân mùa Bầu Cử năm nay, những cử tri Mỹ gốc Việt cũng có quyền hỏi các Ứng Cử Viên của Đảng Cộng Hòa hay Dân Chủ: chính phủ Mỹ đã làm được điều gì cho nhũng người bạn đồng minh Nam Việt Nam, những chiến hữu ngày nào, bây giờ đang là những phế nhân mà nỗi nhục nhằn đớn đau còn hơn cả vạn lần như thế ?

Nhân dịp có mặt ở Cali, người viết đã được gặp và chứng kiến Bà Hạnh Nhơn vừa nói chuyện vừa phải làm việc. Ở cái tuổi trên 82 mà Bà đã dùng gần hết thời giờ, công sức và xử dụng cả cái ga-ra xe chật hẹp của nhà mình làm ”văn phòng” cho Hội trong công việc gom góp yêu thương gởi về cho anh chị em đồng đội cũ. Những hình ảnh ấy đã để lại trong tôi một niềm kính phục và ngưỡng mộ sâu xa.

Và cũng ở tại Cali, chúng tôi đã được gặp một số đồng hương, chiến hữu (trong đó có cả một số đàn anh của tôi ngày trước) đã hỏi tôi bao điều nghi vấn : - Liệu tiền có đến tận tay TPB trong nước ? - Liệu số tiền hơn 900.000 USD thu được trong Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Kỳ 2 có nhiều quá hay không ? Tôi hiểu phần nào tâm trạng của họ giữa một cộng đồng mà rất nhiều người đã mất hết niềm tin vào một số hội hè. Nhưng tôi cũng thầm mong họ tự hỏi một điều: là chính họ đã từng góp một bàn tay, hay đã có đóng góp được gì cho công việc đáng quý này chưa?

Xin tất cả ”hãy thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi đó để nguyền rủa bóng đêm”.

Phạm Tín An Ninh
(một người lính bộ binh)