Sunday, May 31, 2009

Hàm Nghi: Một Nhà Ái Quốc Một Nhệ Sĩ Tài Ba - Trần Đông Phong


Trần Đông Phong

Vào cuối thập niên 1970, người viết có dịp sang làm việc tại một số quốc gia Bắc Phi và trong những ngày lưu lại Alger, thủ đô nước Algérie, tình cờ có được nghe một số người Algériens lớn tuổi nói về một người Việt Nam rất nổi tiếng tại đây vào hồi cuối thế kỷ thứ 19- đầu thế kỷ thứ 20 với một niềm ưu ái và kính phục, đó là người mà họ gọi là Le Prince d’Annam hay là “Hoàng Tử Xứ Annam.”

Le Prince d’Annam chính là Vua Hàm Nghi.

Đối với người Việt Nam thì Vua Hàm Nghi là một trong hai vị vua trẻ tuổi anh hùng nhất vào cuối thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20 vì hai thiếu niên này đã dám đứng lên chống lại thưc dân Pháp để rồi cả hai người đều bị thực dân đưa đi đày sang tận Phi Châu: Vua Duy Tân bị đày sang đảo Réunion và Vua Hàm Nghi bị đày sang nước Algérie.

Vua Duy Tân thì đã được nhiều người nói đến sau khi Ngài bị tử nạn phi cơ vào tháng 12 năm 1945 tại Trung Phi, tuy nhiên Vua Hàm Nghi thì cho đến năm 1975, người Việt Nam gần như không được biết gì về cuộc đời của Ngài sau khi bị đày sang Algérie từ năm 1889.

Khi nghe nói về Vua Hàm Nghi, trong những ngày giờ rảnh rổi, người viết không bỏ lỡ dịp may đi tìm hiểu thêm về cuộc sống lưu đày của vị anh hùng này tại nước Algérie và trong thâm tâm, có ý nguyện tìm kiếm thêm tài liệu để sau này ghi chép lại về cuộc đời của vị hoàng đế trẻ tuổi trong cuộc sống lưu đày trên lục điạ Phi Châu trong suốt 55 năm trời. Nhà vua có thể được xem như là « Người Việt Nam bị Lưu Đày Đầu Tiên » tại Phi Châu và ông đã khuất phục được những hàng rào như chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa và triết học để tạo được một cuộc sống đầy tiết tháo và tư cách của một vị quân vương, với những năm tháng lưu đày tương đối thoải mái, lành mạnh và hạnh phúc nơi xứ người.

Dưạ vào một số tài liệu mới nhất về cuộc đời trưởng thành của Vua Hàm Nghi, người viết hy vọng rằng bài viết sau đây sẽ giúp cho những người trẻ tuổi có một khái niệm về cuộc sống lưu đày của một vị cựu hoàng, tuy đã bị mất nước, tuy bị lưu đày nhưng vẫn giữ tròn danh dự của một đấng quân vương, giữ tròn khí tiết của một người Việt Nam, nhưng vẫn cố gắng học hỏi để thích ứng với một nền văn hoá hoàn toàn ngoại lai của cuộc sống nơi xứ người và ông đã trở thành một người nghệ sĩ đa tài, đã chinh phục được sự yêu mến và kính trọng không những của người dân Algériens mà còn cả kẻ thù, đó là những người Pháp, trong số đó có người vợ trong 40 năm của ông, một người đàn bà thuộc giai cấp thượng lưu người Pháp, bà Marcelle Laloë.

Tại Việt Nam, từ năm 1955, Chính Phủ VNCH có thành lập một trường trung học ngay tại Trường Quốc Tử Giám cũ thời nhà Nguyễn trong Thành Nội Huế mang tên là Trường Trung Học Hàm Nghi để tưởng niệm và vinh danh vị hoàng đế ái quốc này, tuy nhiên ngay sau khi chiếm được thành phố Huế vào cuối tháng 3 năm 1975, Cộng Sản Việt Nam đã ra lệnh đóng cửa ngay ngôi trường này.
***

Sau khi Vua Tự Đức băng hà vào ngày 17 tháng 7 năm 1883, thọ 55 tuổi, triều đình và hoàng gia chọn người con nuôi trưởng của nhà vua là Ưng Chân lên làm vua lấy hiệu là Dục Đức, dù rằng trong di chiếu, Vua Tự Đức nói rằêng trong ba người con nuôi của ông thì Dục Đức có tính ăn chơi không xứng với ngôi vị thiên tử. Tuy nhiên Thái Hậu Từ Dũ và hai bà Trang Y và Học Phi làm áp lực với ba vị đại thần là Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường và Trần Tiễn Thành đưa Dục Đức lên làm vua. Nhưng sau khi lên ngôi được ba ngày thì Vua Dục Đức khám phá ra việc Quan Phụ Chánh Đại Thần Nguyễn Văn Tường thông gian với bà Học Phi, một phi tần sủng ái của Vua Tự Đức, cho nên nhà vua bị Nguyễn Văn Tường và bà Học Phi tìm cách hãm hại.

Bà Học Phi người làng Vân Trình tên là Yến, nhân vì trời mưa nên chạy vào núp dưới một lùm tre bên bờ Phá Tam Giang. Vua Tự Đức ngự thuyền qua đó, vì gặp giông bão nên thuyền rồng cũng ghé vào bờ tránh mưa và tình cờ nhà vua được nhìn thấy cô thôn nữ mỹ miều làng Vân Trình. Vua lấy làm ưng ý bèn tuyển vào cung và phong làm tài nhân, về sau phong lên làm Tam Giai Phi, do đó có tên là bà Học Phi. Thời đó, người dân xứ Huế có câu vè như sau:

“Trời xui có trận mưa giông
Khiến con chim yến vào trong đền vàng.”

Vua Dục Đức làm vua được ba ngày, từ 20 cho đến ngày 23 tháng 7 năm 1883, rồi bị Phụ Chánh Nguyễn Văn Tường ra lệnh giam vào lãnh cung cho đến khi bị chết đói vào ngày 6 tháng 10 năm 1883, thọ 31 tuổi.

Sử gia Trần Trọng Kim cho biết: “... Ở Huế thì Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế đủ mọi đường. Tháng 9 năm Giáp Thân (1885,) hai ông ấy đem ông Dục Đức giam vào nhà tối, không cho ăn uống để chết đói, đổ tội cho là thông mưu với giặc ...” [1]

Lúc bấy giờ ở kinh đô Huế dân gian có câu vè như sau:

“Nước Nam có bốn gian hùng:
Tường gian, Viêm dối, Khiêm khùng, Thuyết ngu!”

Sau khi Vua Dục Đức bị phế, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và bà Học Phi đưa Nguyễn Phúc Hồng Dật , em thứ 29 (em út) của Vua Tự Đức, lên ngôi ngày 30 tháng 7 năm 1883, lấy niên hiệu là Hiệp Hoà. Nhưng chỉ bốn tháng sau thì hai phụ chánh Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường lại nghi ngờ Vua Hiệp Hoà và ông bị bắt phải uống thuốc độc mà chết vào tháng 11 năm 1883, thọ 36 tuổi.

Đến tháng 12 năm 1883, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đưa Nguyễn Phúc Ưng Đăng, con nuôi thứ ba của Vua Tự Dức mới được 14 tuổi lên nối ngôi, lấy hiệu là Kiến Phước.

Chỉ trong vòng 4 tháng, từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1883, mà nước Việt Nam lại có đến ba ông vua cho nên trong dân gian đã có câu vè như sau:

“Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường!”

Vua Kiến Phước làm vua chỉ được 8 tháng thì lâm trọng bệnh và băng hà vào ngày 31 tháng 7 năm 1884, thọ 14 tuổi.

Sau khi Vua Kiến Phúc băng hà, đáng lý ra người con nuôi thứ hai của Vua Tự Đức là Chánh Mông tức là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ phải được đưa lên làm vua nhưng vì Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường e ngại rằng vị hoàng tử này đãtrưởng thành, 22 tuổi rồi, như vậy thì họ sẽ khó lòng mà khuynh loát được triều đình như trước, do đó, vào ngày 2 tháng 8 năm 1884, họ âm mưu đưa người em của Ưng Kỷ là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, không phải là con nuôi của Vua Tự Đức, mới có 14 tuổi lên làm Vua lấy niên hiệu là Hàm Nghi, xưng danh là Đại Nam Hoàng Đế và lấy quốc hiệu là Đại Nam. [2]

Trong cuốn “Vua Hàm Nghi”, nhà văn Phan Trần Chúc có kể lại một giai thoại ở Huế nói rằng sau khi ba ông vua liên tiếp nhau bị chết, khi triều đình cho xa giá đến đón Ưng Lịch vào đại nội để lên làm vua thì ông hoàng này, lúc đó mới 14 tuổi, đang đánh “căng” tức là đánh khăng với bạn bè ở ngoài cửa Đông Ba. Bà mẹ của ông nghe nói con được lên làm vua thì qúa sợ hãi vì ngại rằng con của bà cũng sẽ chết cho nên đã lăn xả vào đoàn thị vệ khóc lóc thảm thiết không cho họ bắt Ưng Lịch vào đại nội. Bà mẹ của Vua Hàm Nghi kể ra cũng là người có tiên kiến vì không đầy một năm sau thì bà không hề được gặp lại người con trai của bà nưã: nhà vua bị Pháp bắt sau ba năm kháng chiến rồi bị đày đi Algérie, không hề được gặp lại bà khi bà từ trần vào năm 1889.

Thực dân Pháp tuy đồng ý việc đưa vua Hàm Nghi lên ngôi nhưng lại không đồng ý với danh hiệu Đại Nam Hoàng Đế và bắt buộc Vua Hàm Nghi phải đổi lại là “Hoàng Đế An-Nam” (Empereur d’Annam), tức là chỉ làm vua xứ An-Nam hay là Trung Kỳ mà thôi chứ không phải là vua của Đại Nam gồm cả hai xứ Nam Kỳ (Cochinchine) hay Bắc Kỳ (Tonkin).

Chưa đầy một năm sau, Tướng Pháp De Courcy đến Huế và nhất định đòi đi cùng 500 tên lính Pháp vào cưả Ngọ Môn để yết kiến Vua Hàm Nghi, triều đình Huế phản đối, yêu cầu chỉ một mình De Courcy được đi qua cửa Ngọ Môn theo đúng triều nghi, còn tất cả sĩ quan và binh lính thì phải đi qua cửa bên hông. De Courcy không chịu, nhất quyết đòi phải cho tất cả phái đoàn hộ tống y cũng được đi qua cửa Ngọ Môn khi vào triều kiến Vua Hàm Nghi. Thái độ hống hách này của De Courcy khiến cho cả triều đình phẫn nộ, nhất là Phụ Chánh Tôn Thất Thuyết.

Đêm 5 rạng sáng ngày 6 tháng 7 năm 1885 tức là 23 tháng 5 năm Ất Dậu, Tôn Thất Thuyết đem quân tấn công vào quân Pháp tại đồn Mang Cá và toà Khâm Sứ Huế. Quân Pháp chỉ chống đỡ nhưng đến sáng ngày hôm đó thì phản công lại bằng mọi loại vũ khí tối tân và quân ta thua chạy. Theo tài liệu của người Pháp thì De Courcy đến Huế ngày 2 tháng 7 năm 1885 mang theo 19 sĩ quan và 1024 lính Pháp và đêm thứ bảy rạng ngày chủ nhật 5 tháng 7 thì bị quân Việt Nam khoảng gần 30,000 người tấn công, quân Pháp phản công gây cho mấy ngàn binh sĩ và thường dân bị giết, tuy nhiên không thấy nói gì đến thiệt hại của quân Pháp. [3] Theo Việt Nam Sử Lược thì: “Trận đánh nhau ở Huế, quân Pháp mất 16 người, 80 người bị thương. Sách Tây chép rằng quân ta chết đến vài nghìn người, còn bao nhiêu khí giới, lương thực và hơn một triệu tiền của đều mất cả.”

Tuy thiệt hại về phía Việt Nam không có tài liệu nào nói rõ nhưng cho mãi đến giữa thế kỷ thứ 20, hàng năm cứ đến ngày 23 tháng 5 âm lịch là người dân Huế đều có làm lễ cúng giỗ cho linh hồn những nạn nhân của cuộc binh biến này, được gọi là Ngày Thất Thủ Kinh Đô, như vậy thì con số thiệt hại về nhân mạng của thường dân vô tội cũng phải rất cao.

Lãnh Đạo Phong Trào Cần Vương Chống Pháp

Tôn Thất Thuyết mang Vua Hàm Nghi cùng với Tam Cung tức là Bà Từ Dụ Hoàng Thái Hậu, mẹ của Vua Tự Đức, bà Hoàng Thái Hậu là vợ của Vua Tự Đức, mẹ nuôi của Vua Dục Đức và bà Hoàng Thái Phi là vợ thứ của Vua Tự Đức và mẹ nuôi của Vua Kiến Phúc chạy ra Quảng Trị. Ngày 27 tháng 5 (âm lịch), Vua Hàm Nghi vào lạy chào ba bà thái hậu rồi theo Tôn Thất Thuyết lên đường lên Sơn Phòng Tân Sở, thuộc huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị để mưu đồ công cuộc kháng chiến chống lại thực dân Pháp.

Theo tác giả De Pirey, Tân Sở là một căn cứ cách huyện Cam Lộ khoảng từ 10 đến 15 cây số về hướng tây-nam do Vua Tự Đức cho thành lập vào năm 1883 với mục đích làm nơi trú ẩn cho nhà vua, hoàng gia và triều đình trong trường hợp kinh đô Huế bị quân Pháp chiếm đóng. Căn cứ Tân Sở mỗi bề rộng chừng 780 mét, được bao quanh bởi hai lớp trường thành, lớp ngoài cao 4 mét, dày từ 20 đến 25 centimét, lớp trong là một hàng 4 lũy tre cách nhau bởi một cái hào sâu rộng chừng 10 mét bảo vệ cho dinh thự của nhà vua, của các quan trong thành nội cùng các đơn vị binh lính của triều đình ở vòng ngoài. Trước khi kinh đô Huế thất thủ vào năm 1885, thường thường có khoảng từ một cho đến một ngàn rưởi dân công, có khi lên đến mười ngàn người, trong các khu vực lân cận bị trưng dụng để xây dựng căn cứ này. Tác giả De Pirey cho biết là triều đình có ý định biến sơn phòng Tân Sở như là một kinh đô tạm thời nếu kinh đô Huế thất thủ, do đó người ta đã cho khơi sâu lòng con kinh từ Của Việt để cho thuyền bè lớn có thể chèo đến tận căn cứ Tân Sở và lên tận biên giới Ai Lao. Trong hai ngày 3 và 4 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết đã ra lệnh cho di chuyển một phần kho tàng của triều đình ra Tân Sở để chưẩn bị cho cuộc tấn công quân Pháp vào ngày 6 tháng 7.

Tác giả De Pirey cho biết Vua Hàm Nghi xuất cung theo cưả Chương Đức rồi ra Cưả Hữu đi về bến đò Kẻ Vạn rồi đến làng La Chữ. Nhà vua ngồi kiệu do binh lính khiêng tuy nhiên đường rất khó đi và nhiều khi quân lính không giữ được thăng bằng khiến cho nhà vua phải bị u đầu và sau cùng thì nhà vua phải xuống kiệu đi bộ. Ngày 6 tháng 7, nhà vua và đoàn tùy tùng đến Quảng Trị và nghỉ đêm tại đó rồi sáng ngày hôm sau lên đường đi Tân Sở, kể từ hôm đó được xem như là kinh đô mới của triều đình Huế. [4]

Ngày 2 tháng 6 năm Ất Dậu tức là ngày 13 tháng 7 năm 1885, tại Tân Sở, Vua Hàm Nghi năm đó vưà tròn 14 tuổi, đã ban chiếu gọi là “Lệnh Dụ Thiên Hạ Cần Vương” hay là Dụ Cần Vương kêu gọi toàn dân Việt Nam từ Bắc chí Nam cùng đứng lên tiêu diệt bọn thực dân Pháp để dành lại quyền độc lập và tự do cho đất nước. Trong Dụ Cần Vương này có đoạn như sau:

“Chỉ vì sức yếu nên ta phải chịu nhục ký hoà ước (1884) với giặc Pháp đã bao nhiêu năm và bao nhiêu lần. Với chính sách “tàm thực,” thoạt tiên chúng cướp ba tỉnh Nam Kỳ, còn ba tỉnh nưã sau hai năm chúng cũng cướp nốt. Nhưng túi tham của quân cướp nước không bao giờ đầy. Thế rồi chúng dùng thiên phương bách kế, khiêu khích, gây hấn khắp Trung Kỳ và Bắc Kỳ ...

Hỡi các trung thần nghiã sĩ toàn quốc!
Hỡi các nghiã dân hảo hán bốn phương!

Trước giờ Tổ Quốc lâm nguy, xã tắc nghiêng đổ, ai là dân, ai là thần, lẽ nào chịu khoanh tay ngồi chờ chết?

Hãy mau mau cùng nhau đứng dậy, phất cờ khởi nghiã đánh giặc cứu nước...!” [5]

Lời kêu gọi của Vua Hàm Nghi, sau còn được gọi là Hịch Cần Vương, đã được các giới sĩ phu ủng hộ nhiệt liệt tại miền Bắc và khắp các tỉnh miền Trung, từ Bình Thuận ở phiá nam cho đến Thanh Hoá ở phiá bắc khiến cho quân Pháp gặp rất nhiều khó khăn để đối phó. Thêm vào đó, chính phủ Pháp ở Paris đánh điện sang không cho phép De Courcy dùng đại binh và lúc đó lại còn xảy ra nạn dịch tả khiến cho quân Pháp bị chết khoảng ba, bốn ngàn người, do đó Phong trào Cần Vương có cơ hội phát triển, nhất là tại vùng Hà Tĩnh và Qủang Bình, nơi mà Vua Hàm Nghi được hai người con của Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp phò tá.

Trong Việt Nam Sử Lựơc, sử gia Trần Trọng Kim cho biết:

“Nhưng vua Hàm Nghi còn ở mạn Quảng Bình, kéo cờ khởi nghĩa để chống nhau với quân Pháp, truyền hịch Cần Vương để mong đường khôi phục. Lúc bấy giờ, lòng người còn tưởng nhớ chúa cũ, cho nên từ tỉnh Bình Thuận trở ra, chỗ nào cũng có người nổi lên đánh phá để toan bề khôi phục.

Tại Quảng Nam thì bọn thân hào lập ra Nghiã Hội, có quan Sơn Phòng Sứ là Trần Văn Dự làm chu,û rồi những tỉnh Phú Yên, Bình Định, Bình Thuận đều noi theo mà nổi lên. Tại Qủang Trị, có các ông Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như, ở Quảng Bình có quan nguyên tri phủ Nguyễn Phạm Tuân, ở Hà Tĩnh có cậu ấm Lê Ninh, ở Nghệ An có ông Nghè Nguyễn Xuân Ôn và quan Sơn Phòng sứ Lê Doãn Nhạ, ở Thanh Hoá có Hà Văn Mao v.v. Những người ấy đều xướng lên việc Cần Vương, đem quân đi hoặc chiếm giữ tỉnh thành, hoặc đánh lấy các phủ huyện và đốt phá những làng có đạo. Tại ngoài Bắc thì các quan cựu thần là quan Đề Đốc Tạ Hiện, quan Tán Tương Nguyễn Thiện Thuật tụ họp ở Bãi Sậy rồi đi đánh phá mạn trung châu, còn ở mạn thượng du thì chỗ nào cũng có quân giặc Tàu quấy nhiễu. Bởi vậy quân Pháp phải chia binh ra chống giữ các nơi ...”

Như vậy, Phong trào Cần Vương do Vua Hàm Nghi, lúc đó mới có 15 tuổi lãnh đạo, đã làm cho quân Pháp khốn đốn từ miền Bắc cho đến cực nam Trung Kỳ. Vì vua Hàm Nghi xuất bôn, thực dân Pháp và triều đình Huế đã đưa người anh của vua Hàm Nghi là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ, con nuôi thứ hai của Vua Tự Đức lên làm vua vào ngày 19 tháng 9 năm 1985, lấy niên hiệu là Đồng Khánh. Vua Đồng Khánh là anh của vua Kiến Phước và vua Hàm Nghi, cả ba người đều là con của Kiên Thái Vương Hồng Cai, cho nên tại Huế có câu vè sau đây:

“Một nhà sanh đặng ba vua,
Vua còn (Đồng Khánh), vua mất (Kiến Phước), vua thua chạy dài (Hàm Nghi)".

Qua năm sau, ngày 16 tháng 5 năm Bính Tuất (1886), Vua Đồng Khánh xa giá ra Quảng Bình để dụ Vua Hàm Nghi và các cận thần của Ngài như Phan Đình Phùng, Trần Xuân Soạn, Nguyễn Phạm Tuân, Lê Trực, Tôn Thất Thiệp, Tôn Thất Đạm v.v. ra đầu thú nhưng vô hiệu. Viên Đại úy Monteaux cho người chiêu dụ ông Lê Trực về hàng thì vị anh hùng này trả lời như sau: “Tôi vì vua, vì nước, chết sống cũng một lòng làm cho hết việc bổn phận, chứ không dám tham sự sống mà quên việc nghiã.” Được vài chục ngày thì Đồng Khánh bị bệnh, phải dùng tàu thủy để trở về Huế và cuộc xuất chinh này kể ra chẳng đạt được kết qủa gì vì tuy là em ruột của Đồng Khánh nhưng Vua Hàm Nghi nhất quyết chống lại người Pháp.

Vua Đồng Khánh chỉ làm vua được ba năm rồi lâm bệnh mà chết vào ngày 28 tháng 1 năm 1889, thọ 25 tuổi.

Sau đó, thực dân Pháp đã cho lập một số đồn bót trong tỉnh Quảng Bình nhằm quyết tâm trừ diệt Vua Hàm Nghi và nhóm Cần Vương, một trong những đồn nổi tiếng là Đồn Minh Cầm dưới quyền chỉ huy của Đại úy Monteaux.

Cuộc khởi nghĩa Cần Vương của Vua Hàm Nghi tuy được toàn dân ủng hộ nhưng lại chỉ là những đoàn quân ô hợp, thiếu tổ chức, thiếu huấn luyện và yểm trợ về vũ khí cũng như là lương thực, do đó khó lòng mà cự địch lại với lực lượng hùng mạnh của thực dân Pháp. Bởi vậy, chỉ được có vài năm thì nhà vua và một số cận thần phải rút về trú đóng tại một vài nơi ở vùng thượng du tỉnh Quảng Bình.

Cuộc kháng chiến kéo dài được ba năm thì vào tháng Chín năm Mậu Tý (1888), có một suất đội hầu cận nhà vua tên là Nguyễn Đình Tinh ra đầu hàng quân Pháp và khai rõ tình cảnh cũng như là chỗ nhà vua đang đóng quân. Quân Pháp liền sai tên Tinh về dụ Trương Quang Ngọc, một người Mường địa phương vốn là một tên khí độ tiểu nhân nhưng được Vua Hàm Nghi cho làm người hầu cận để cả hai tên này âm mưu bắt nhà vua cho người Pháp.

Monteaux tìm cách mua chuộc những kỳ mục trong vùng để chúng liên lạc và giúp đỡ cho Trương Quang Ngọc trong việc mưu bắt nhà vua, tuy nhiên người lo việc bảo vệ cho vua là Tôn Thất Thiệp, ông đã thề sẽ sống chết với vua và sẽ chặt đầu những người nào có ý định về đầu thú với Pháp, do đó Trương Quang Ngọc vẫn chưa làm gì được. Đến ngày 26 tháng 9 năm 1888, Trương Quang Ngọc và Nguyễn Đình Tinh mang mấy chục người kéo lên vây làng Trà Bảo là nơi Vua Hàm Nghi đang đóng quân. Đến nửa đêm, khi chúng xông vào nhà thì Tôn Thất Thiệp đang ngủ nên bị chúng đâm chết, Vua Hàm Nghi thấy tên Ngọc làm phản bèn cầm thanh gươm đưa cho nó và bảo rằng: “Mày giết tao đi còn hơn đưa tao về nộp cho Tây!”. Ngài chưa nói dứt lời thì một tên phản nghịch đằng sau lưng lén giật thanh gươm của Ngài và cả bọn bắt Ngài đưa lên võng, rồi xuống bè về nạp cho bọn Pháp ở Đồn Thanh Lang, sau đó đưa về đồn Thuận Bài ở tả ngạn Sông Gianh, tỉnh Qủang Bình. Tôn Thất Đạm nghe tin nhà vua bị giặc bắt bèn tự vẫn mà chết.

Sau khi bị bắt, nhà vua nói với bọn phản thần và thực dân Pháp:

“Thôi ta đành theo mệnh trời, chúng bay muốn làm chi ta thì làm. Ăn thịt ta cũng được!”

Quân Pháp lấy vương lễ đối xử với nhà vua tuy nhiên ngay từø khi bị bắt, nhà vua không hề mở miệng nói một lời nào với người Pháp, cũng như không hề thưà nhận ngài là Hàm Nghi. Người Pháp không rõ nghe theo kế của ai bèn cho mời ông Nguyễn Nhuận vốn là thầy học của Vua Hàm Nghi hồi trước đến gặp nhà vua. Khi thấy thầy cũ, vua Hàm Nghi đứng dậy cúi đầu vái chào theo lễ nghiã thầy trò, do đó người Pháp mới biết rõ người tù đó chính là Vua Hàm Nghi.

Một tài liệu về lịch sử bằng Anh ngữ viết về chuyện này như sau:

“Hàm Nghi, vị vua mới có 16 tuổi, đã ứng xử đầy tư cách, từ chối không nói chuyện, ngay cả nói đến tên của mình, với những người Pháp bắt ông ta. Nhà vua cũng không thèm gặp cả thân nhân vì họ đã trở về với triều đình Huế và sống những ngày còn lại của đời ông trong sự lưu đày tại Algérie, thuộc địa của Pháp tại Phi Châu.” [6]

Vua Hàm Nghi bị quân Pháp bắt tại Quảng Bình
Tranh vẽ-Nguồn: bellindochine

Người Pháp đưa Vua Hàm Nghi về Huế tuy nhiên khi họ cho phép nhà vua vào hoàng thành để viếng thăm các vị mẫu hậu và người mẹ đang đau nặng một lần cuối cùng thì ông từ chối: “Tôi thân đã tù tội, nước đã mất, còn dám nghĩ chi đến cha mẹ, anh chị em nữa?”

Chiều ngày 25 tháng 11 năm 1888, người Pháp đưa nhà vua xuống tàu La Comète vào Sài Gòn rồi sau đó ngày 12 tháng 12 năm 1888, đưa lên tàu Biên Hoà đi sang Phi châu và đến Alger ngày 13 tháng 1 năm 1899. Người Pháp chọn ba người để đi theo chàng thanh niên Hàm Nghi mới 18 tuổi đầu sống cuộc đời lưu đày: ông Trần Bình Thanh, thông ngôn tiếng Pháp, một người hầu và một người đầu bếp. Họ cũng bắt triều đình Huế trợ cấp cho nhà vua mỗi năm 25,000 đồng quan để sinh sống nơi xứ người. Theo sử gia Fourniau thì đó là một số tiền rất lớn đối với người Việt Nam thời đó, tương đương với 4,981 đồng bạc, nếu so với một người ở tước quận công chỉ được lãnh có khoảng 200 đồng và 200 phương gạo mà thôi.

Cuộc Đời Lưu Đày: Không Thèm Học Tiếng Pháp

Ngày 13 tháng 1 năm 1889, tàu Biên Hoà đến Algérie và nhà vua được đưa về sống tại Alger, thủ đô Algérie. Toàn Quyền Pháp tại Algérie lúc bấy giờ là Louis Tirman, một cựu y sĩ và anh hùng trong trận chiến tranh Pháp-Đức 1870, một người Pháp có đầu óc tiến bộ cho nên đối xử với nhà vua rất lịch sự và cởi mở. Toàn quyền Tirman sau này đã nhiều lần mời Cựu Hoàng Hàm Nghi đến tư dinh dùng cơm với gia đình ông trong vòng thân mật. Có lẽ nhờ sự cảm tình đó, Toàn Quyền Tirman đã cấp cho Vua Hàm Nghi một căn biệt thự khá sang trọng mang tên là “Villa des Pins,” về sau nhà vua đổi tên là “Biệt thự Hiên Tùng”, tại làng El-Bekir, một khu lịch sự cách trung tâm thủ đô Alger chừng 5 cây số.

Để có khái niệm về sự ưu ái của Toàn Quyền Tirman dành cho ông vua bị lưu đày này, đến thập niên 1940 khi Tướng De Gaulle, Chủ Tịch Phong Trào Kháng Chiến Pháp đổ bộ lên Alger, ông đã trú ngụ ngay tại biệt thự Villa des Pins và ít lâu sau đó, Đại Tướng Georges Catroux, Toàn Quyền Pháp, cũng cư ngụ tại biệt thự này. Như vậy thì biệt thự này là một biệt thự thuộc loại sang trọng nhất tại Alger chứ không phải là một căn nhà bình thường, vậy mà khi mới đặt chân lên Alger, Toàn Quyền Tirman đã chọn căn nhà này cho người tù Hàm Nghi và ông đã cư ngụ tại đó trong hơn 15 năm cho đến sau khi lập gia đình, vào năm 1906, Vua Hàm Nghi mới dời về một biệt thự khác gần đấy và được vua đặt tên là “Villa Gia Long”. Theo nhận xét của một tờ báo Pháp tại đây thì họ cho rằng “Toàn Quyền Tirman đã đối xử với Hoàng Tử Annam như là một bậc quân vương chứ không phải là một người tù bị lưu đày.”

Nhà văn Jules Roy, tác giả tác phẩm nổi tiếng “Les Cheveaux du Soleil” (Những con tuấn mã của mặt trời), một bộ tiểu thuyết gồm 6 cuốn viết về những chuyện xưa tích cổ của người Pháp tại xứ Algérie hồi thế kỷ thứ 19, về sau được quay thành một série vô tuyến truyền hình, thì Cựu Hoàng Hàm Nghi đã được giới thượng lưu trí thức và quý tộc đón tiếp vô cùng nồng hậu ngay từ khi nhà vua mới đặt chân lên xứ Phi Châu này.

Jules Roy cho biết khi Vua Hàm Nghi mới xuống tàu tại hải cảng Alger, một trong những người điạ phương đi đón ông vua bị lưu đày là Nam Tước De Vialar, dòng dõi của gia đình De Vialar, chủ nhân khu đồn điền rộng lớn nhất tại vùng Fort–de-L’Eau kế cận thủ đô Alger, là một gia đình giàu có và danh vọng nhất trong giới người Pháp lập nghiệp tại Algérie, sau này được gọi là dân “Chân Đen” (Pieds-Noirs). Nam Tước De Vialar đã cởi ngay chiếc áo choàng mà ông đang mặc phủ lên người nhà Vua khi ông thấy người tù bị lưu đày này đang run lên vì lạnh. Cử chỉ đầy tình người này của một nhà qúy tộc và sĩ quan cao cấp người Pháp này về sau đã trở thành một trong những yếu tố khiến cho Vua Hàm Nghi, tuy luôn luôn thù hận thực dân Pháp tại Việt Nam, nhưng lại bớt thù ghét người Pháp tại Algérie và thay đổi hẳn quan niệm của nhà vua đối với người Pháp và nhất là nền văn hoá của người Pháp đang ngự trị khắp vùng Bắc Phi vào thời đó. [7]

Vào cuối thập niên 1880 đầu thập niên 1890, có một số rất ít người Việt Nam đang sống tại Algérie, đa số là những thanh niên người Nam Kỳ được người Pháp cấp học bổng để theo học tại các trường trung học đệ nhị cấp (lycée) vì tại Việt Nam chưa có ban Tú Tài. Trong một tác phẩm mang tên là “Như Tây Nhựt Trình” (De Sàigon à Paris) xuất bản vào năm 1888, cụ Trương Minh Ký có ghi lại cuộc hành trình mà ông đã hướng dẫn 10 du học sinh Việt Nam sang Phi châu vào năm 1880 bằng 2,000 câu thơ song thất lục bát. Có lẽ đây là chuyến đầu tiên một số người Việt Nam được học bổng sang học tại Algérie, trong số đó sau này có người được sang Pháp du học và một trong những người nổi tiếng trong số này là Hoạ Sĩ Lê Văn Miến, tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Paris năm 1897. Khi Vua Hàm Nghi đến Algérie vào năm 1889 thì có lẽ những người đầu tiên đã tốt nghiệp trung học rồi sang Pháp học đại học và những nguời đang theo học bậc trung học thì được đưa sang ở những chuyến sau. Những thanh niên này tuy được người Pháp ưu đãi nhưng họ vẫn có tinh thần yêu nước, do đó họ đã đi đón tiếp nhà vua và thường tới lui thăm viếng, hầu cận và giúp đỡ cho nhà vua bị lưu đày làm quen với nếp sống và nền văn hoá hoàn toàn mới lạ tại xứ người. Có một số đã được vua Hàm Nghi dành cho nhiều ưu ái và đặc biệt có một người được nhà vua xem như là thân tín, đó là ông Bùi Quang Chiêu.

Gia đình ông Bùi Quang Chiêu vốn gốc người Huế nhưng vào sinh sống tại làng Đa Phước huyện Mõ Cày thuộc tỉnh Định Tường (bây giờ là Bến Tre), vào thế kỷ thứ 19 là một gia đình khoa bảng. Theo Giáo sư Hưá Hoành thì ông nội của ông Chiêu là cụ Bùi Quang Nghị, đậu cử nhân năm 1842 nhưng không ra làm quan, hai người em kế cũng đều đậu cử nhân là Bùi Quang Phong làm Án sát Nam Định và Bùi Hữu Thanh làm tri phủ Phước Tuy sau làm đốc học tỉnh Biên Hoà.

Ông Bùi Quang Chiêu sinh năm 1871, thưở nhỏ học trường Chasseloup Laubat tại Sài Gòn, sau đó sang Algérie học ban Tú Tài rồi sang Pháp học trường Thuộc Điạ tức là trường mà ông Nguyễn Tất Thành nộp đơn xin vào học năm 1911 nhưng không được chấp thuận. Sau đó, ông vào học trường Institut National d’Agronomie (Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp) và tốt nghiệp kỹ sư vào năm 1897. [8]

Khi Vua Hàm Nghi đến Alger thì ông Bùi Quang Chiêu bắt đầu vào học bậc đệ nhị cấp và dường như vì tuổi tác không chênh lệch, cùng tuổi với nhà vua, do đó đã được nhà vua đối xử không phải như là vua tôi mà là bạn bè đồng lưá. Về sau, trưởng nữ của Vua Hàm Nghi là Công Chúa Nhữ Mây (Như Mai) cũng theo gương Bùi Quang Chiêu, người được thân phụ của bà xem như là bạn bè, đã vào học trường Institut National d’Agronomie ở Paris và bà là người phụ nữ đầu tiên đã đậu thủ khoa ở trường này vào năm 1926.

Có lẽ chịu nhiều ảnh hưởng của Vua Hàm Nghi cho nên sau khi trở về nước, ông Bùi Quang Chiêu đã cùng với Kỹ sư Nguyễn Phú Khai, một người Việt Nam từng du học tại Pháp và đã được Pierre Loti, nhà đại văn hào Pháp đỡ đầu, sáng lập tờ báo “La Tribune Indigène” (Diễn Đàn Bản Xứ) vào năm 1917 để tranh đấu cho quyền tự trị của người Việt Nam. Chỉ được mấy năm thì tờ báo này bị đình bản, ông Bùi Quang Chiêu lại cùng ông Nguyễn Khắc Vệ, Tiến sĩ Luật Khoa, xuất bản tờ báo “La Tribune Annamite” (Diễn Đàn của người Việt Nam) để tiếp tục tranh đấu và nhất là kêu gọi toàn dân Việt Nam hãy tẩy chay các tiệm của người Tàu để mở mang, phát triển kinh tế của nước nhà. Tờ báo này ít năm sau cũng bị đình bản và đến năm 1926 thì ông lại xuất bản tờ báo “La Tribune Indochinoise” (Diễn Đàn Đông Dương) cũng cùng mục tiêu nhưng ngoài ra còn hỗ trợ cho một chính đảng mà các ông mới thành lập.

Cũng trong thời gian này, ông Bùi Quang Chiêu cùng với các ông Luật sư Dương Văn Giáo, Kỹ sư Nguyễn Phú Khai, Luật sư Nguyễn Khắc Vệ, nhà báo Nguyễn Phan Long, Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh v.v. thành lập Đảng Lập Hiến (Partie Constitutionaliste) để chính thức tranh đấu, đòi hỏi thực dân Pháp phải cho người Việt Nam được hưởng quyền tự trị và phải công bố một bản hiến pháp để người dân có thể được hưởng một số quyền tự do theo như bản hiến pháp đó quy định, tương tự như các quyền hạn mà Anh Quốc đã dành cho các Commonwealth của họ như Canada, Úc Đại Lợi v.v.

Đảng Lập Hiến được xem như là một đảng chính trị đầu tiên của người Việt Nam hoạt động một cách công khai và hợp pháp hồi đầu thế kỷ thứ 20, tuy có được sự ủng hộ của một nhóm trí thức và cũng được một số người Pháp tiến bộ như Charles Bellan, cựu công sứ tức là tỉnh trưởng Pháp ủng hộ, nhưng thực dân Pháp không bao giờ nhượng bộ sự đòi hỏi chính đáng của người Việt Nam do đó Đảng Lập Hiến về sau càng mất dần ảnh hưởng rồi ngưng hoạt động vào năm 1941. Tháng 9 năm 1945, ông Bùi Quang Chiêu cùng ba người con trai của ông đều bị Việt Minh giết chết tại Sài Gòn.

Không rõ trước thời Đệ Nhị Thế chiến ông Bùi Quang Chiêu có liên lạc với Cựu Hoàng Hàm Nghi hay không, tuy nhiên Vua Hàm Nghi không thể được biết về cái chết của người bạn cũ của ông tại Alger vì nhà vua đã qua đời vào năm 1944.

Ngay từ khi mới đặt chân lên đất Algérie, Vua Hàm Nghi đã được chính quyền thuộc địa cũng như là giới thượng lưu và qúy tộc địa phương dành cho sự tiếp đãi ân cần, tuy nhiên nhà vua vẫn còn mang nặng lòng thù hận đối với người Pháp. Dù được khuyến khích nhưng trong năm đầu tiên Ngài nhất định từ chối không thèm học tiếng Pháp để liên lạc với người Pháp và cả người địa phương, Ngài chỉ nói tiếng Việt trong mọi sự giao tiếp và ông Trần Bình Thanh phải lo việc thông dịch cho Ngài.

Như vậy, từ khi bị bắt vào tháng 9 năm 1888 cho đến năm 1990, Vua Hàm Nghi không thèm nói chuyện trực tiếp với người Pháp, tuy nhiên dần dà, có lẽ vì có cảm tình với những người Pháp tại điạ phương, có lẽ vì chịu ảnh hưởng bởi một số du học sinh người Việt Nam như ông Bùi Quang Chiêu và cũng có lẽ vì nhu cầu cần được giao tiếp với người chung quanh, nhu cầu cần được hiểu biết về nền văn hoá trong môi trường sinh sống hoàn toàn mới lạ và nhất là nhu cầu cần mở mang kiến thức, Vua Hàm Nghi đã thay đổi thái độ và bắt đầu chịu học tiếng Pháp. Khi đó Ngài đã gần 20 tuổi, một cái tuổi được xem như là quá chậm để học một ngôn ngữ mới, tuy nhiên chỉ trong một thời gian rất ngắn, chàng thanh niên Việt Nam bị lưu đày này đã ăn nói trôi chảy, về sau rất giỏi tiếng Pháp và được tất cả mọi người tại Alger gọi bằng một danh vị đầy thương mến và kính trọng: “Le Prince d’Annam” (Hoàng Tử Xứ Việt Nam). Một tờ báo ở Alger đã viết như sau về cái tên đó: “... một người bị xem như là tù nhân chính trị được nổi tiếng dưới cái tên “Prince d’Annam”, cái tên mà báo chí cũng như là công chúng đã gọi ông ngay từ năm 1889, khi ông mới bị đưa đến sống cuộc đời lưu đày tại thành phố này...” [9]

Thượng Khách của Giới Thượng Lưu Quý Tộc ở Alger

Người tù bị lưu đày biệt xứ Hàm Nghi đến nước Algérie vào đầu năm 1889 và được viên toàn quyền Pháp tại xứ này cho trú ngụ tại một công thự mang tên là “Villa des Pins.” Trong một cuốn sách viết bằng tiếng Pháp nhan đề Le Laos, trong chương “La Cour d’Annam en fuite dans la province,” tác giả có viết về Vua Hàm Nghi và ngôi biệt thự này như sau:

“Cựu Hoàng Hàm Nghi, ngày nay được mọi người gọi là “Hoàng Tử Xứ Annam”' cư ngụ tại Biệt thự Villa des Pins trong làng El Biar, trên những ngọn đồi rực rỡ Mustapha Thượng ở cách thủ đô Alger chừng vài cây số. Ông sống ở đây trong sự cô tịch, chỉ đón tiếp một vài người bạn thân tình mà có lẽ những cảm tình của họ đã giúp cho ông chịu đựng được những nỗi thống khổ khắt khe của cuộc sống lưu đày nơi xứ người. Có lẽ không ai mô tả được về vị hoàng tử này khéo hơn là nhà vẽ hoạ đồ nổi tiếng De Varigny trong một bài được đăng trên báo Le Temps vào tháng 12 năm 1894:

“Tấm danh thiếp mang hàng chữ “Hoàng Tử Annam”, chỉ có vậy thôi, nhưng đối với tôi thì mang thật nhiều ý nghiã vì qua một người bạn, ông ta đã chấp thuận đón tiếp tôi vào ngày hôm sau.

Rời Alger, chiếc xe hơi leo từ từ lên cao nguyên Sahel hướng về vùng đồi núi Mustapha Supérieur. Ngay khi chúng tôi lên đồi, nhìn về phiá trước, cảnh vật càng lúc càng mở rộng và đẹp lộng lẫy, nhìn về sau lưng, thành phố Alger màu trắng nổi bật lên giưã màu xanh của biển Điạ Trung Hải với những cánh buồm màu trắng tưạ như những đôi cánh của đàn chim hải âu đang cất cánh tung trời.

Khi đến làng El Biar, chiếc xe ngừng lại trước cổng sắt của một ngôi nhà mang tấm biển “Villa des Pins”. Một con đường nhỏ hai bên là hai rặng thông già chạy dài đến một ngôi nhà kiến trúc theo kiểu mauresque (kiểu của người Maures ở Bắc Phi), một ngôi nhà đơn giản nhưng rộng rãi đằng sau một cái sân rộng đầy những luống hoa rất đẹp.

Đó là nơi mà Hàm Nghi, Hoàng Tử Xứ Annam đang sinh sống. Ông ta đã ở đó từ năm năm qua và dường như vào trạc 24 tuổi. Tuổi thật của ông ta, ông ta không thèm để ý đến hay là chỉ muốn cố tình dấu đi vì có ích lợi gì mà nhớ đến con số của những năm tháng lưu đày! Khi hỏi về thời thơ ấu, ông ta giữ im lặng, về thời trưởng thành thì thật là bi đát khi ông ta nghĩ đến thời gian khi mới còn là một thiếu niên trẻ tuổi, ông ta được thưà kế ngai vàng rồi chẳng bao lâu sau đó phải bôn đào qua khắp nẻo đường đất nước của ông đang bị xâm chiếm ...

“Khi đặt chân xuống vùng đất Phi Châu thuộc Pháp này, một quốc gia mà cái tên ông ta cũng chưa hề được biết đến, ông ta đã từ chối không thèm học cái ngôn ngữ của những người đã giam cầm ông, ông đã tự giam mình trong một sự câm lặng kiên cường ...” [10]

Từ thái độ bất hợp tác ngay từ khi mới bị giặc Pháp bắt tại Quảng Bình vào năm 1888 đến việc không thèm học tiếng Pháp khi mới đến Algérie vào đầu năm 1889, Vua Hàm Nghi đã thay đổi lập trường vào khoảng một năm sau ngày đến Phi Châu và bắt đầu học tiếng Pháp cũng như là giao tiếp với một số người địa phương. Cái nguyên nhân khiến cho Vua Hàm Nghi thay đổi thái độ có lẽ là do cái cử chỉ đầy tình người của một nhà qúy tộc Pháp, Nam Tước Alfred de Vialar, đã cởi chiếc áo choàng đang mặc để khoác lên vai nhà vua khi Nam Tước thấy ông đang run lên vì lạnh và cũng chính nhân vật này về sau đã mở đường cho nhà vua theo học về ngành hội hoạ.

Nam Tước Jules “Alfred” de Vialar là hậu duệ của vị nam tước đã đi tiền phong trong việc mở mang và khai thác thuộc địa Algérie cho nước Pháp và gia đình của ông được xem như là gia đình qúy tộc, giàu có, danh vọng và có uy tín nhất tại Algérie, ông cũng là cháu ruột của bà Thánh Emilie de Vialar, người khai sáng “Dòng Nữ Tu St Joseph of the Apparition”. Vợ của Nam Tước là bà Berthe Alexandrine Patricot, con gái của một vị kỹ sư Cầu Cống (Ponts et Chausées) cũng là một nhân vật nổi tiếng tại xứ Algérie hồi thế kỷ thứ 19. Bà Nam Tước de Vialar lại là người giàu có, yêu văn chương, nghệ thuật và đã tổ chức những buổi sinh hoạt về văn học nghệ thuật, thể thao tại tư gia của ông bà và những buổi sinh hoạt đó được xem như là nơi thu hút hầu hết những danh nhân và thành phần thượng lưu trí thức của thủ đô Alger. Một trong những người nổi tiếng tại “salon” của bà Nam Tước De Vialar là Bà Hoàng Ranavalo, cựu Nữ Hoàng của Đảo quốc Madagascar cũng đang sống lưu vong tại Alger.

Một nhà nghiên cứu về Algérie cho biết rằng:

“Bà Nam Tước Alfred de Vialar là một người đàn bà thông minh, cương nghị và là một người bạn của giới văn học nghệ thuật. Bà được xem như là vị chủ tịch của xã hội thượng lưu tại Alger (la haute société algéroise) từ những năm đầu của nền Đệ Tam Cộng Hoà Pháp (từ 1870). Để có thể được mời tham dự vào những buổi họp mặt trong những salons của bà Nam Tước de Vialar, ngoài những người thuộc dòng dõi thế gia vọng tộc thì những người khác ít nhất cũng phải thuộc thành phần trí thức, thậm chí có nhiều người đã phải học cho thuộc cả 12 thành qủa của Hercules để được mời ...” [11]

Không rõ Vua Hàm Nghi bắt đầu được mời đến tham dự vào những buổi sinh hoạt tại nhà bà Nam Tước De Vialar từ bao giờ, tuy nhiên nhà văn Jules Roy cho biết sự hiện diện của nhà vua trong một cuộc họp mặt tại salon của bà Nam Tước như sau:

“... Ông Đại Tá chỉ cho tôi bà Hoàng Ranavalo phì nộn với gương mặt tròn như một vầng trăng màu cà phê sưã bao trùm bởi một nỗi buồn xa xứ, người ngồi trong im lặng bên cạnh bà là “Le Prince d’Annam” (Hoàng Tử Annam,) chính bản thân ông ta cũng là một kẻ bị lưu đày, người mảnh khảnh nhỏ bé, trên đầu đội một chiếc khăn (đóng) màu đen dường như đang run rẩy vì lạnh trong chiếc áo dài cũng màu đen và quần xa tanh màu trắng. Mối tình cảm sâu đậm giữa ông Hoàng Tử Xứ Annam với gia đình Nam Tước de Vialar có lẽ bắt nguồn từ một cử chỉ của Nam Tước khi ông đích thân cởi chiếc áo choàng đang mặc trên người để khoác lên đôi vai gầy của ông hoàng bị lưu đày đang run rẩy vì lạnh vào buổi sáng đầu tiên khi ông hoàng này mới đặt chân lên đất Algérie ...

“Ông Hoàng Xứ Annam, gầy guộc như một cây sậy, nói về hội họa, nói về hoạ thất (atelier) tại ngôi biệt thự của ông ở làng El Biar ...” [12]

Vua Hàm Nghi trong quốc phục cổ truyền tại Alger.
(Nguồn: Es’mma)

Một người khách quen thuộc có mặt gần như thường xuyên tại các buổi họp mặt của bà Nam Tước De Vialar là ông Louis Tirman, Toàn Quyền Pháp tại Algérie. Toàn Quyền Tirman là bạn thân của ông bà Nam Tước De Vialar cho nên đã đối xử với Hoàng Tử Xứ Annam, cũng là người được cả ông bà Nam Tước xem như là bạn, như là một vị khách qúy tại thuộc điạ Algérie chứ không phải là một người tù bị lưu đày. Đó cũng là một trong những lý do mà Toàn Quyền Tirman đã dành cho Vua Hàm Nghi một biệt thự khang trang rộng rãi tại làng El Biar trong khu đồi núi sang trọng Mustapha Supérieur từ ngày nhà vua mới đặt chân đến Algérie vào năm 1890 cho đến ngày Ngài lập gia đình sau đó hơn 15 năm.

Theo tài liệu của Pháp thì Vua Hoàng Hàm Nghi bị áp giải đưa xuống Thuận An vào ngày 21 tháng 11 năm 1888 rồi xuống tàu Comète vào Sài Gòn. Ngày 12 tháng 12 năm đó, nhà vua lại bị đưa lên tàu Biên Hoà và đến Algérie vào ngày chủ nhật 13 tháng 1 năm 1889, có lẽ Ngài đã gặp Nam Tước Alfred de Vialar trong ngày này. Sau khi đến Alger, Ngài được đưa về trọ tại khách sạn L’Hôtel de la Régence trong 10 ngày và Toàn Quyền Tirman đã tìm được toà biệt thự Villa des Pins, ở làng El Biar để cấp cho nhà vua. Sau đó, vào ngày 24 tháng 1 năm 1889, Toàn Quyền Tirman mời Vua Hàm Nghi đến tiếp kiến và dùng cơm gia đình tại Phủ Toàn Quyền. Lúc bấy giờ nhà vua chưa nói tiếng Pháp, chỉ nói chuyện qua người thông dịch là Trần Bình Thanh, tuy nhiên thái độ lịch sự và nhã nhặn của viên toàn quyền, nhân vật cao cấp nhất của chính quyền thực dân Pháp tại Algérie đã gây được cảm tình với nhà vua và có lẽ nhờ thế mà mối hận thù nung nấu trong lòng của Ngài đối với người Pháp tại đây cũng có phần giảm bớt. Tuy nhiên trong vòng gần một năm trời, Ngài từ chối không thèm học tiếng Pháp vì cho rằng đó là ngôn ngữ của bọn cướp nước, do đó Ngài chỉ nói tiếng Việt với ba người được cử đi theo săn sóc cho Ngài, ăn cơm Việt Nam do người đầu bếp Việt Nam nấu và đặïc biệt là trong suốt 55 năm sống lưu đày, Ngài luôn luôn để tóc búi “củ hành”, đội khăn đóng và mặc áo dài đen đúng theo phong tục cổ truyền của người Việt Nam từ thế kỷ thứ 19.

Mối Tình Việt-Pháp: Hàm Nghi-Marcelle Laloë


Khác với người Pháp tại Đông Dương luôn luôn coi thường và khinh miệt người dân bản xứ vì bọn thực dân Pháp đến xâm chiếm Đông Dương với mục đích khai thác thuộc địa này, chính sách của Pháp ở Algérie tương đối cởi mở hơn và đã thu hút được một số rất lớn người Pháp và Âu châu đến lập nghiệp, thành phần này tự xem họ là người địa phương và họ có tinh thần tiến bộ hơn, do đó họ đón nhận sự hội nhập vào xã hội thượng lưu của họ những người ngoại quốc đến từ phương xa, nhất là những người thuộc dòng dõi qúy tộc như cựu Nữ Hoàng Madagascar Ranavalo và ông “Hoàng Tử Annam.”

Vua Hàm Nghi bắt đầu học tiếng Pháp từ cuối năm 1889 nhưng không rõ ông bắt đầu sinh hoạt tại salon của bà Nam Tước de Vialar từ bao giờ, tuy nhiên vào thập niên 1890 thì ông được xem như là một cái đinh thu hút được sự chú ý và cảm tình của mọi người tại đây, một phần vì con người Á Đông của ông, vì tư cách của ông, một phần vì ông là đại diện cho nền văn hoá Đông phương xa xôi và bí ẩn (exotic), đại diện cho Nho giáo trong một xã hội chỉ biết có nền văn minh Thiên Chúa giáo và Hồi Giáo tại Bắc Phi.

Chính trong môi trường sinh hoạt của giới trí thức và văn nghệ sĩ tại Alger mà chàng thanh niên Việt Nam mới ngoài 20 tuồi đã trưởng thành, ông hiểu rõ là giấc mơ trở về cố quốc của ông đã trở thành vô vọng, do đó ông quyết tâm học hỏi để tìm lãng quên trong cuộc sống lưu đày và một hướng đi cho cuộc đời còn lại nơi xứ người, đó là con đường nghệ thuật. Chính nhờ sự hiểu biết và thành công trong lãnh vực nghệ thuật mà Hoàng Tử Annam càng ngày càng được giới thượng lưu trí thức ngưỡng mộ và chấp nhận ông vào hàng ngũ của họ tại thủ đô Alger dù rằng ông chỉ là một người da vàng.

Vào thời gian những năm cuối cùng của thế kỷ thứ 19 đầu thế kỷ thứ 20, có một vị thẩm phán từ nước Pháp được thuyên chuyển sang Alger giữ chức vụ Chánh Biện Lý Toà Thượng Thẩm Alger, đó là quan toà François Laloë , một người thuộc dòng dõi thế gia vọng tộc tại miền Nam nước Pháp. Quan toà Laloë goá vợ, chỉ có một cô con gái tên là Marcelle Aimée Léonie Laloë , lúc sang Algérie mới chừng khoảng 16 tuổi. Một nhà trí thức, một viên chức đứng hàng đầu của ngành tư pháp thuộc địa tại Algérie, ông Chánh Biện Lý Laloë dĩ nhiên là phải lui tới tham dự những sinh hoạt văn nghệ dành cho giới thượng lưu ở thủ đô Alger, nơi mà Toàn Quyền Tirman vẫn thường lui tới, đó là gia đình bà Nam Tước De Vialar.

Vào thời gian đó, Hoàng Tử Annam đã sống tại Alger hơn mười năm, ông nói tiếng Pháp không thua gì người Pháp, lại là một nhân vật đã được mọi người trong giới văn nghệ Alger biết đến và ngưỡng mộ, do đó gia đình ông Chánh Biện Lý Laloë quen biết với ông Hoàng Tử Annam thì cũng chẳng lấy gì làm lạ. Không rõ mối liên hệ giưã Hoàng Tử Annam và ông toà Laloë bắt đầu từ bao giờ, tuy nhiên có một số tài liệu cho thấy trước đó, cho đến năm 1902, Hoàng Tử Annam đã có nhiều liên hệ bạn bè với một số phụ nữ Tây Phương tại Algérie cũng như là tại Pháp, đặc biệt là nhà văn Judith Gautier, con gái của đại văn hào Théophile Gautier cùng với người bạn thân của bà là bà Suzanne Meyer-Zundel và một nhà văn nữ người Nga là T.L. Sepkina-Kupernhic...

Ông toà Laloë có lẽ vốn là người có tư tưởng tiến bộ cho nên đã không chống đối hay ngăn cản sự giao du giưã con gái của ông và ông Hoàng Tử Annam, một người dân của một nước thuộc điạ của Pháp tại Á châu. Có lẽ nhờ sự trí thức và tâm hồn cởi mở của ông Toà Laloë mà cô Marcelle Laloë được tự do tiếp xúc với ông Hoàng Tử Annam trong những buổi sinh hoạt tại salon của bà Nam Tước de Vialar và dần dà cô thiếu nữ này càng có cảm tình với chàng thanh niên Á Đông lớn hơn nàng đến 13 hay 14 tuổi. Mấy lâu sau thì mối tình cảm giữa hai người càng trở nên sâu đậm, họ trở thành “ý trung nhân” rồi sau đó được phép ông Toà Laloë cho làm lễ đính hôn. Trong thời gian này, người dân Alger thường thấy hai người ngồi trên xe song mã đi chơi với nhau, một thiếu nữ người Pháp da trắng và một thanh niên Á Đông đầu tóc búi, đội khăn đóng, mặc áo dài đen, một loại trang phục được xem như là độc đáo có một không hai trong xã hội người Pháp và người Bắc Phi tại thủ đô Alger.

Hàm Nghi và cô Laloë đi dạo bằng xe ngưạ tại Alger
(Nguồn: Es’mma)

Đám Cưới của Vua Hàm Nghi

Ngày 4 tháng 11 năm 1904, ông Toà François Laloë đứng ra làm chủ hôn cho con gái Marcelle Laloë và Cựu Hoàng Hàm Nghi trong một buổi hôn lễ trọng thể tại thánh đường của Toà Tổng Giám Mục Alger với sự tham dự của hầu hết giới thượng lưu trí thức tại thủ đô nước này và đặc biệt là hàng ngàn người dân thành phố Alger đứng đông đặc trước nhà thờ để được chiêm ngưỡng đôi uyên ương Pháp-Việt này sau lễ cưới.

Dưới dây là phóng ảnh cái tưạ của bài báo tường thuật lại «Đám Cưới của Hoàng Tử Annam» tại Toà Tổng Giám Mục Alger của phóùng viên Gérard Dupeyrot và đặc biệt là với sự «cộng tác quý báu» của thân phụ cô dâu, ông François Ferrer Laloë vào năm 1094:

Dans le cadre de notre grande enquête "ALGER LA JAUNE"
Le Mariage du Prince d'Annam

De notre envoyé sur place Gérald Dupeyrot,
avec le précieux concours de François Ferrer-Laloë.

Archevêché, novembre 1904

(Nguồn: es’mma)

Đây có thể được xem như là một sự kiện lịch sử đối với cả người Pháp và người dân Algériens tại thủ đô Alger hồi đó cho nên dù không được mời vào dự lễ bên trong thánh đường, họ cũng đã đã kéo đến trước sân ngôi nhà đối diện nhà thờ để chờ được chiêm ngưỡng tân lang và tân giai nhân khi họ bước ra khỏi thánh đường. Dưới đây là hình ảnh đám đông đó được chụp lại và về sau được phổ biến như là những tấm cartes postales.

Dân chúng Alger chờ xem mặt cô dâu chú rể đối diện nhà thờ Alger (Nguồn: es’mma)

Trong ngày lễ cưới, cô dâu Laloë mặc áo cưới màu trắng cổ truyền của Tây phương, còn chú rể thì đầu đội khăn đóng, mặc áo dài đen, đó là y phục cổ truyền của quê hương mà ông đã bị cưỡng bách rời bỏ cách đó mười lăm năm.

Emperor Hàm Nghi & Marcelle
Hàm Nghi và Marcelle Laloë sau lễ thành hôn
(Nguồn: es’mma)

Bà Marcelle Laloë theo đạo Thiên Chúa giáo còn Vua Hàm Nghi thì vẫn giữ tôn giáo truyền thống của đất nước, tuy nhiên ông rất tôn trọng tín ngưỡng của bà, vào ngày chủ nhật vẫn thường đưa bà đi lễ ở nhà thờ Thánh Philippe tức là nhà thờ của toà Tổng Giám Mục Alger và cũng tại ngôi thánh đường này hôn lễ đã diễn ra dưới sự chủ lễ của vị Tổng Giám mục Alger. Chính vị Tổng Giám Mục Alger đả ban phép lành cho Vua Hàm Nghi và cô Marcelle Laloë, kể từ đó được gọi là “La Princesse d’Annam” tức là Vương Phi của nước Annam, vợ của Hoàng Tử Annam, vì theo truyền thống của nhà Nguyễn thời đó, vợ của vua không được gọi là hoàng hậu-cho đến thời Vua Bảo Đại thì mới bỏ luật này và Vua Bảo Đại đã phong cho vợ là Nam Phương Hoàng Hậu.

Hàm Nghi đưa cô Marcelle Laloë đi nhà thờ
(Nguồn: Es’mma)

Vua Hàm Nghi và bà Marcelle Laloë sống trong hạnh phúc cho đến ngày nhà vua từ giã cõi đời tại Alger vào năm 1944, hưởng thọ 73 tuổi và bà Laloë về sau trở về sống với con gái là Công chúa Nhử Mây tại lâu đài Losse ở miền Nam nước Pháp vốn là quê hương của bà và từ trần vào ngày 5 tháng 9 năm 1974, thọ 90 tuổi.

Hàm Nghi là vị vua thứ 8 của triều Nguyễn, ông là vị vua duy nhất chỉ có một đời vợ, không hề có phi tần mỹ nữ nào và cho đến năm 1944 lại là vị vua sống thọ nhất trong 12 đời vua nhà Nguyễn. Cựu Hoàng Bảo Đại, vị vua thứ 13 và cuối cùng của triều Nguyễn thọ 84 tuổi.

Các con của Vua Hàm Nghi

Vua Hàm Nghi và bà Laloë sinh được ba người con: Công Chúa Nhữ Mây sinh năm 1905, Công Chúa Như Lý sinh năm 1908 và Hoàng Tử Minh Đức sinh năm 1910.

Có nhiều người, kể cả người viết này, trước đây đều tưởng rằng trưởng nữ của Vua Hàm Nghi tên là Như Mai, tuy nhiên gần đây, bà Mathilde Tuyết Trần tại Pháp có tìm ra được một tài liệu do chính Công Chúa viết tên của bà có dấu tiếng Việt là Công Chúa Nhữ Mây:

“Người con gái đầu lòng của Vua Hàm Nghi với bà Marcelle Laloë mang tên, theo sổ sách hành chánh của Pháp ghi chép nguyên bản lúc bà qua đời là: Nhu-May, Suzanne, Henriette UNG LỊCH HÀM NGHI D’ANNAM, sinh ngày 17 tháng 8 năm 1905 tại El Biar (Algérie), cư trú tại “La petite maison de Losse” (Căn nhà nhỏ của Losse), qua đời ngày 1 tháng 11 năm 1999 tại nhà thương của thị trấn Viégeois (vùng Corrèze) Pháp, thọ 94 tuổi. Bà Công Chúa Nhữ-Mây sống độc thân, không có hậu duệ, lúc sinh thời là” nhà nông.”

Theo chữ ký của bà có bỏ dấu tiếng Việt trong văn tự còn được lưu trữ thì tên của bà là Nhữ Mây. Một cái tên rất lạ và rất đẹp. Trong các văn bản chính thức, bà ký tên là Nhữ Mây d’Annam.” [13]

Công chúa Nhữ Mây
Nguồn: Missi

Trong một tài liệu bằng tiếng Pháp đăng kèm bài báo “Le mariage du Prince d’Annam” đề cập đến ở trên, người viết thấy tờ báo có nói rõ về các con của Vua Hàm Nghi: “Cả ba người con của ông đều có mang tên “d’Annam”: Nhữ Mây, Như Lý và Minh Đức ...” (Ses trois enfants portent le nom “d’Annam": Như-May, Nhu-Ly et Minh-Duc ...)

Công Chúa Nhữ Mây học rất giỏi, bà thi đậu vào trường Institut National d’Agronomie và tốt nghiệp thủ khoa trường này vào năm 1926, bà là một kỹ sư về nông nghiệp chứ không phải là “nhà nông.” Hồi thập niên 1970, người viết có nghe được nhiều người Việt Nam ở Pháp nói rằng “Công Chúa Nhữ Mây là một trong những người đàn bà giàu có nhất nước Pháp”. Bà mất năm 1999, thọ 94 tuổi.

Người con gái thứ hai của Vua Hàm Nghi là Công Chúa Như Lý, kết duyên với Bá Tước François Barthomivat de la Besse, có ba người con: Françoise, Philippe và Anne. Françoise Barthomivat de la Besse có ba người con, Tử Tước Philippe Barthomivat không có con và Anne Alice Marie Barthomivat de la Besse cũng có ba người con. Bà qua đời năm 2005, thọ 97 tuổi.

Hoàng Tử Minh Đức có lập gia đình nhưng không có hậu duệ. Ông vào học trường Võ Bị Saint-Cyr của Pháp và sau đó phục vụ trong quân đội và về hưu với cấp bậc Đại Tá. Năm 1946, người Pháp muốn gửi ông sang phục vụ tại Đông Dương nhưng ông quyết liệt từ chối. Đại sứ Jean de Latour Dejean, một người bạn thân và đồng ngũ của Hoàng Tử Minh Đức kể lại cho biết khi được lệnh sang Việt Nam, Hoàng Tử Minh Đức đã tuyên bố với chính phủ Pháp như sau:

“Tôi không thể cầm súng bắn lại đồng bào của tôi. Nếu Chính phủ Pháp muốn đưa tôi ra trước toà án quân sự thì tôi phải chịu nhưng tôi không thể đi sang Việt Nam để đánh giặc cho người Pháp và chống lại người Việt Nam.”

Người Pháp sau đó đã đưa ông sang Algérie phục vụ trong một đơn vị lính Lê Dương. Hoàng tử qua đời năm 1990, thọ 80 tuổi.

Có một chi tiết đầy thú vị là khi Thiếu Tá Minh Đức chỉ huy một đơn vị Lê Dương tại Algérie thì cũng có một hoàng tử người Việt Nam đang phục vụ với tư cách là trung úy thiết giáp, đó là Hoàng Tử Bảo Long, con đầu lòng của Vua Bảo Đại. Nếu so vai vế trong hoàng gia thì Hoàng Tử Bảo Long phải gọi Hoàng Tử Minh Đức bằng “ông” vì ông Minh Đức ngang hàng với Vua Khải Định, thân phụ của Vua Bảo Đại. Thiếu Tá Minh Đức không phải là cấp chỉ huy trực tiếp của Trung Úy Bảo Long, tuy nhiên vào thời gian sau Hiệp Định Genève, vào khoảng năm 1955-1956, thì trong hàng ngũ Lê Dương của Pháp tại Algérie chỉ có hai sĩ quan người Việt Nam, do đó hai người có cơ hội quen nhau.

Một sử gia người Pháp sau này có viết như sau:

“Hình ảnh của Đế quốc Annam lại trỗi dậy khi Bảo Long gặp người con của Hàm Nghi, vị hoàng đế trẻ tuổi bị truất phế cuối thế kỷ trước vì hoạt động chống lại thực dân Pháp. Ông ta (Minh Đức) cũng là sĩ quan Lê Dương. Hai người quen nhau và trò chuyện. Cũng là một sự éo le: cả hai đều là hậu duệ của hai ông vua nhà Nguyễn nay cùng chiến đấu chung dưới một lá cờ để bảo vệ cho một thuộc điạ lớn cuối cùng của nước Pháp.” [14]

Hiện nay, hậu duệ của Vua Hàm Nghi chỉ còn có ba người cháu ngoại và 6 người chắt, tất cả đều là người Pháp. Tuy nhiên theo ông Nguyễn Ngọc Giao thì hình như Vua Hàm Nghi còn có một người con trai không chính thức và người con này có một cô con gái hiện đang sống tại Pháp nhưng bà này không muốn lộ diện. [15]

Năm 1965, dường như là theo đề nghị của Tổng Thống Pháp De Gaulle [16], Công Chúa Nhữ Mây đã cải táng mộ của Vua Hàm Nghi từ Alger về an táng tại nghĩa trang của gia đình trong lâu đài Losse thuộc làng Thonac, tỉnh Sarlat-la-Canéda, vùng Dordogne ở miền Nam nước Pháp. Bà Marcelle Laloë cũng được an táng tại đây sau khi từ trần vào năm 1974 và Công Chúa Nhữ Mây cũng được an táng tại nghĩa trang này sau khi từ trần vào năm 1999.

Bia mộ Vua Hàm Nghi tại làng Thonac [17]
(Nguồn : Mathilde Tuyết Trần)

Hàm Nghi: Một Nghệ Sĩ Hào Hoa Đa Tài

Trước năm 1945, dường như người Việt Nam không được hay biết gì về cuộc đời lưu đày của Vua Hàm Nghi tại Algérie, có lẽ đó là chủ trương của thực dân Pháp tại Đông Dương không muốn cho người Việt Nam biết gì về một ông vua yêu nước của họ, sau đó rồi đến 10 năm chiến tranh khốc liệt tại Đông Dương rồi thì trước năm 1975, Việt Nam Cộng Hoà tuy có bang giao với hai nước Ma-Rốc và Tunisie nhưng lại không có liên hệ ngoại giao với Algérie vì nước này theo Khối Phi-liên-kết thân với Cộng sản, do đó người dân miền Nam gần như không biết gì về cuộc đời của Vua Hàm Nghi trong 55 năm sống lưu đày tại nước này.

Một Họa Sĩ và cũng là một Nhạc Sĩ

Theo tài liệu còn được lưu trữ tại Trung Tâm Văn Khố Pháp tại Aix-en-Provence thì sau khi đến Algérie, Vua Hàm Nghi từ chối không chịu học tiếng Pháp, tuy nhiên trong thời gian rảnh rỗi thì ông hay tiêu khiển bằng cách vẽ tranh, vẽ tùy hứng theo ý ông chứ không theo một sự huấn luyện nào cả. Ông Nguyễn Ngọc Giao cho biết :

«Đại úy Vialar (người được Toàn Quyền Tirman cử tới coi sóc Hàm Nghi) trông thấy những hình vẽ của cựu hoàng, tuy không theo luật phối cảnh của hội hoạ Âu Châu, nhưng rất tinh tế và sinh động, nên ngày 15 tháng 11 năm 1889, de Vialar đưa hoạ sĩ Reynaud tới thăm Hàm Nghi và đề nghị nếu cựu hoàng muốn, Reynaud có thể dạy hội họa Âu Châu cho ông. Hàm Nghi nhận lời ngay cũng như nhận lời học tiếng Pháp sau 10 tháng đầu từ chối ...

Sau một thời gian, Hàm Nghi còn học thêm các môn đánh kiếm, thể dục và hội nhập vào xã hội thượng lưu Alger. Thế là chàng thanh niên 18 tuổi say mê lao vào hội hoạ. Mỗi tuần, thầy Reynaud –giải nhất Rô-ma- tới dạy hai lần vào thứ ba và thứ sáu. Hàm Nghi tiến bộ nhanh chóng, thấy rõ từng ngày ... Ngày nào cũng đi vẽ cả buổi, bất chấp thời tiết, đến nỗi bệnh sốt rét (từ núi rừng chiến khu ở Việt Nam) tái phát ...» [18]

Như vậy thì Vua Hàm Nghi đã bắt đầu học tiếng Pháp và hội họa cùng một lúc và ông đã được may mắn học với hoạ sĩ Reynaud, một hoạ sĩ đã được giải Khôi Nguyên La Mã tức là một người rất có tài, do đó không có gì lạ khi sau này ông cũng trở thành một hoạ sĩ tài giỏi.

Marius Reynaud sinh tại Marseille năm 1860, theo học trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Paris rồi bị động viên vào quân đội và phục vụ tại Algérie. Sau đó, ông ở lại Alger và chú tâm vào việc sáng tác những hoạ phẩm về hải cảng Alger, Trại Hải Quân Alger và những phong cảnh về vùng Địa Trung Hải, đồng thời ông cũng dành thì giờ cho việc giảng dạy về môn hội hoạ tại trường Mỹ thuật tại đây và một trong những đệ tử của ông là Hoàng Tử Annam tức là Vua Hàm Nghi:

Hoạ sĩ Marius Reynaud (tự họa)

«Kiến thức văn hoá của Marius Reynaud rất uyên bác, ông có một quan niệm về hội hoạ rất khoa học và ý thức về nghệ thuật của ông rất tinh tế và vi diệu và thêm vào đó ông có sức làm việc vô cùng bền bĩ. Là một hoạ sĩ nổi tiếng, ông đã chứng tỏ tài nghệ của ông qua các bức tranh vẽ về biển cả, là một vị giáo sư ông là người có lương tâm chức nghiệp và đã đào tạo một người đệ tử nổi tiếng là hoạ sĩ Gilbert Galland và riêng với một người đệ tử chỉ được thụ huấn với ông có hai lần mỗi tuần mà ông đã hướng dẫn cho «Hoàng Tử Annam bị lưu đầy: Hàm Nghi (l’enfant merveilleux-đứa trẻ tuyệt vời) và những bài học đó đã biến vị hoàng tử này trở thành một nguời hoạ sĩ hơn xa một hoạ sĩ tài tử tầm thường ... » [19]

Được thụ giáo với một hoạ sĩ nổi tiếng như Marius Reynaud, tuy nhiên ít ai được biết đến tài hội hoạ của Vua Hàm Nghi cho đến cách đây chừng 10 năm, có một bài báo đăng trên tạp chí Khoa Học Xã Hội tại Việt Nam về sự khám phá của một nhà nghiên cứu người Nga có liên quan đến Vua Hàm Nghi. Tài liệu này không được lưu ý mấy cho đến khi ông Vũ Thanh, giáo sư trường Đại Học Sư Phạm dịch lại và tài liệu này được đăng tãi trên mạng VietnamNet vào tháng 5 năm 2008. Ông N.L. Nikulin là một nhà nghiên cứu người Nga, đã tìm ra một tác phẩm của một nhà văn nữ Nga xuất bản vào khoảng năm 1903 trong đó có viết về Le Prince d’Annam ở Alger và ông Nikulin đã viết một bài biên khảo về câu chuyện này trước khi ông qua đời.

Theo Nikulin thì vào năm 1903, dưới thời Nga Hoàng, nhà văn nữ Tatiana Lvovna Sepkina- Kupernhic (1874-1952) có xuất bản một tác phẩm du ký mang tên là Những Bức Thư Từ Phương Xa viết về những chuyện kỳ lạ ở ngoại quốc trong đó có chuyện nhan đề Hoàng Tử Ly Tdong, một nhân vật tưởng tượng nhưng mà đọc kỹ thì ai cũng biết là bà viết về một nhân vật mà bà vẫn gọi là Le Prince d’Annam tại Alger, thủ đô Algérie.

Trong truyện này, nhà văn Sepkina-Kupernhic mô tả vị Hoàng tử như sau:

«Khi đến Algérie trong lúc bị cưỡng bức đi đày, thời gian đầu ông đã định sống thu mình lại, chính xác hơn là cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Cách sống này không chỉ là thái độ cực đoan của tuổi trẻ mà trước hết là cuả sự khó chịu với những gì liên quan đến thực dân, đến «bọn Tây».

«Dáng dấp nhỏ bé của hoàng tử (chàng xuất hiện giưã chúng tôi, giưã những bạn bè chung) trong bộ trang phục nưả Âu nưả Á, ngay lập tức đã lôi cuốn sự chú ý của tôi. Chiếc khăn xếp màu trắng trùm lên mái tóc đuôi sam, (Chú thích của người viết: Tác giả Sepkina-Kupernhic đã nhầm lẫn về đầu tóc của Vua Hàm Nghi với kiểu tóc đuôi sam của người Tàu dưới thời Mãn Thanh, nhà vua không hề để tóc kiểu đuôi sam như người Tàu mà búi tóc «củ hành», một phong tục Việt Nam từ thời xa xưa cho đến đầu thế kỷ thứ 20), chiếc áo dài màu đen với tay áo rộng buông xuôi được lót bằng lụa tơ tằm màu xanh tươi (màu xanh của quê hương chàng), nước da vàng ngăm đen mang sắc màu của chiếc ngà voi lâu năm ; còn rất buồn và rất thông minh là đôi mắt đen hơi xếch lên phiá thái dương, tay chân chàng nhỏ nhắn-Tất cả điều đó khiến tôi nghĩ đến một bức tượng qúy giá được chạm trổ bằng bàn tay tài hoa của một nghệ sĩ phương Đông.»

Nhà văn Nga cho biết rằng vị hoàng tử này đã gây được cảm tình của bà cũng như bạn bè của bà và họ đã được hoàng tử mời đến tư gia. Sepkina-Kupernhic nói về ngôi nhà của hoàng tử cùng với những đồ trang trí và tài nghệ về hội hoạ và âm nhạc của ông với niềm kính trọng:

« ... Bên cạnh những bản thảo và nhạc cụ (cả Đông và Tây), bên cạnh những bản nhạc (mà trong đó có cả các tác phẩm của nhạc sĩ vĩ đại người Nga là Mikhail Ivanovich Glinka (1802-1857) thì thu hút sự chú ý của khách lại là những bức tranh do chính hoàng tử vẽ, chúng chứng tỏ cho khách thấy tài năng nghệ thuật của ông.

Ở đó còn có chiếc giá vẽ cùng với bức họa còn dang dở. Trong biệt thự, còn có những vật qúy giá và thiêng liêng: những tấm lụa quý treo trên tường cùng với những câu danh ngôn của Khổng Tử được dát bằng vàng trên lụa, những nhạc cụ của đất nước chàng, những cuộn bản thảo, mực và bút trên bàn viết, những chiếc chiếu cói trên nền nhà. Ở một chỗ khác trong nhà là cây đàn dương cầm, chiếc đàn vĩ cầm (violin), những bản nhạc mà trong đó tôi tìm thấy Mikhail Ivanovich Glinka của chúng ta và giá vẽ cùng với bức hoạ còn dang dở. Trên những chiếc bàn khắp nơi là phác thảo của hoàng tử, tranh của chàng, những vật đó cho tôi biết rằng trong thân hình nhỏ bé như chiếc ngà voi kia ẩn dấu tâm hồn của một người nghệ sĩ lớn ...»

Sepkina-Kupernhic cho biết thêm Vua Hàm Nghi đã vẽ về những đề tài gì:

«... Khu vườn của chàng ... Những vòm cưả kiểu La Mã ở Tamgada, cảnh hoàng hôn trên biển..., cảnh điêu tàn của Kôxntantina và cánh rừng cọ El-Kantari, mái vòm trắng của nhà mộ Marabi, những trẻ em da đen-tất cả đều sống động, hiện lên trên nền vải ...» [20]

Nhà thơ, nhà văn T.L. Sepkina-Kupernhic (1874-1952)
(Tranh vẽ của Repin)

Trong những đoạn văn nói trên, nhà nữ văn thi sĩ người Nga Sepkina-Kupernhic đã ghi nhận thiên tài hội hoạ của vua Hàm Nghi, không những thế, bà còn cho biết nhà vua trẻ tuổi này còn biết sử dụng đàn dương cầm, đàn vĩ cầm của Tây phương cũng như là một vài loại nhạc cụ của quê hương ông. Bà cũng còn cho biết nhà vua có tâm sự với bà rằng: «ông đang viết bằng tiếng mẹ đẻ một cuốn sách bàn về học thuyết Nho giáo. Chàng không nói với ai về điều đó, nhưng điều đó đã tạo nên mục đích của đời chàng». Về vấn đề này, Công Chúa Nhữ Mây sau này cho nhà sử học Fourniau biết bà có thấy thân phụ của bà thường hay viết bằng chữ Nho rồi cất vào trong một cái hộp bằng gỗ. Bà không biết chữ Nho nên không rõ nhà vua viết về cái gì, tuy nhiên điều bất hạnh là cái hộp gỗ này đả bị cháy trong một trận hoả hoạn cho nên sau này không ai được biết nhà vua đã viết về vấn đề gì, nhưng điều chắc chắn là Vua Hàm Nghi không viết về nước Pháp hay Algérie bằng chữ Nho. [21]

Như vậy thì qua tác phẩm của nhà văn Nga Sepkina-Kupernhic, người ta được biết Vua Hàm Nghi là một hoạ sĩ có tài, một người biết thưởng thức âm nhạc cả Đông và Tây phương, biết chơi nhiều loại đàn kể cả dương cầm và lại còn biết viết văn nưã.

Quen biết với họa sĩ Paul Gauguin

Năm 1899, Vua Hàm Nghi sang thăm Paris và trong dịp này ông đã được đến thăm phòng triển lãm tranh của hoạ sĩ Paul Gauguin và được giới thiệu với Gauguin và sau đó thì hai người trở thành tương đắc, do đó tranh của ông có phần nào chịu ảnh hưởng của Gauguin.

Paul Gauguin: tự hoạ

Paul Gauguin (1848-1903) được xem như là một trong những người sáng lập của ngành hội hoạ của thế kỷ thứ 20. Ông chịu ảnh hưởng của phái ấn tượng nhưng về sau thì lại vẽ theo kỹ thuật riêng của mình, dùng nhiều màu sắc và đường nét trải rộng để có thể diễn tả được những xúc cảm nội tâm của chính người nghệ sĩ. Nhờ những kinh nghiệm thu đạt được trong thời gian sống ở đảo Tahiti, ông đã tạo ra được một trường phái gọi là «nghệ thuật nguyên thủy» (primitive arts) và về sau hai nhà đại hoạ sĩ khác cũng đi theo chiều hướng của ông, đó là Matisse và Picasso. Bức tranh do ông sáng tác tại Tahiti vào thời này mang tên là «Chúng ta từ đâu đến, chúng ta là ai và chúng ta sẽ đi về đâu ?» là một đại tác phẩm vô giá hiện nay trên thế giới dù rằng khi còn sống thì Gauguin là một hoạ sĩ rất nghèo.

P. Gauguin: Chúng ta từ đâu đến? Chúng ta là ai? Chúng ta sẽ đi về đâu?
Sáng tác tại Punaauia, Tahiti khoảûng năm 1887-1888

Một nhà Điêu Khắc

Ngoài Sepkina-Kupernhic và một vài người bạn người Nga khác như M. V. Krextôpxkaia, con gái của nhà văn Krextôpxki, ông Hoàng Tử Annam còn quen biết với nhiều người nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ ở Pháp, trong số đó có nhà thơ Pierre Louys nữ sĩ Judith Gautier, Suzanne Meyer-Zundel v.v.

Pierre Louÿs là một nhà thơ nổi tiếng về gợi tình (erotic) và đồng tình luyến ái hồi cuối thế kỷ thứ 19, không rõ ông quen biết với Vua Hàm Nghi trong dịp nào, có lẽ là tại Alger, tuy nhiên bà Judith Gautier cho biết rằng chính nhà thơ Pierre Louÿs đã giới thiệu bà với Hoàng Tử Annam vào năm 1900.
Madame Judith Gauthier
Judith Gautier

Ông Nguyễn Ngọc Giao cho biết về người nữ nghệ sĩ này như sau:

«Bà Judith Gautier là con gái của đại văn hào Théophile Gautier. Bà là người tài sắc vẹn tòan nổi bật trên văn đàn thời ấy,(từng làm mê mẩn những người như nhà văn Victor Hugo, nhạc sĩ R. Wagner v.v.), tác giả của 50 tác phẩm. Bà viết tiểu thuyết, làm thơ, dịch thơ Đường, sáng tác kịch, nặn tượng (điêu khắc) v.v. Bà là người phụ nữ đầu tiên được bầu vào Hàn lâm viện Goncourt. Bà học chữ Hán, say mê các nền văn hoá Á Đông và đã dịch hoặc phóng tác những tác phẩm Trung Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ. Điều ít ai được biết là 3 năm trước khi quen biết với Hàm Nghi, bà đã sáng tác một chuyện ngắn «Ông Hoàng thủ cấp máu đỏ» mà chủ đề là cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng (chuyện này được đăng trên bán nguyệt san La Revue de Paris số đề ngày 15-12-1897.)

Không có gì ngạc nhiên nếu trong những năm đầu thế kỷ thứ 20, Judith Gautier có viết một vở kịch thơ «Les Portes Rouges» (Những cánh cửa đỏ) trong đó có nhiều bài thơ và điêu khắc chân dung Hàm Nghi.

Một đoạn thơ tiêu biểu nói lên tình cảm và sự trân quý đối với nhà ái quốc nghệ sĩ này:

Đất nước tan tành, giống ni xé lẻ
Bình minh cuộc đời vấy máu
Ôi ! Quân vương niên thiếu lên ngôi
Rồng quằn qụai dưới thềm, hấp hối.
Trong đau khổ anh sẽ lớn lên
Tên man di xâm phạm, tên phản bội khốn cùng
Cướp đi của anh đất nước giang sơn

Nhưng trước mặt anh đây, thế giới vô biên, chân trời mở rộng ... [22]

Theo tài liệu của ông Nguyễn Ngọc Giao thì vua Hàm Nghi rất thân với Judith Gautier và Suzanne Meyer-Zundel. Gia đình vua Hàm Nghi thường sang Pháp nghỉ hè và trong nhiều năm đã thuê nhà cạnh nhà bà Gautier ở thành phố Dinard ven biển Manche để nghỉ hè, kể cả sau khi bà Gautier từ trần. Năm 1914, trước ngày Đệ Nhất Thế Chiến bùng nổ, hai bà Gautier và Meyer-Zundel đáp tàu sang Alger chơi theo lời mời của Ông Hoàng Annam và họ đã lưu lại Villa Gia Long trong hai tuần lễ. Sau khi trở về Pháp, ba năm sau thì bà Judith Gautier từ trần vào ngày 26 tháng 12 năm 1917, vì chiến tranh đang tiếp diễn, Vua Hàm Nghi không sang Pháp tiễn đưa người bạn nghệ sĩ mà ông xem rất thân tình. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Ngọc Giao cho biết:

«Ngôi mộ của bà còn mang chứng tích của mối tình bạn hiếm có ấy. Sau khi bà Gautier mất, bà Suzanne Meyer-Zundel thấy trong phòng của bạn có mấy câu chữ Hán dán trong phòng do chính Vua Hàm Nghi tặng, bà không hiểu nghiã cho nên đã tô vẽ lại rồi gửi sang Alger hỏi ông Hoàng Annam. Năm 1918, vua Hàm Nghi trả lời về ý nghiã mấy câu đó và bà Meyer-Zundel đã cho khắc hai hàng chữ đó trên nắp ngôi mộ của bạn mình.

Ở cột bên trái có ba chữ «Tử Xuân Bái», Tử Xuân là tên hiệu của Nguyễn Phúc Ưng Lịch tức là Vua Hàm Nghi, Bái là cúi chào. Cột bên cạnh là «Ngã Ma Y Gia» và phiá trên là «Nhật Lai Thiên». Với bạn bè rất thân, trong đó có Vua Hàm Nghi, bà Judith Gautier thường tự xưng là Maya, do đó Ngã Ma Y Gia có thể hiểu là «Tôi Là Maya», còn câu Nhật Lai Thiên có thể hiểu là Ngày (Thiên), Ánh sáng mặt trời (Nhật), hiện ra (Lai) do vua Hàm Nghi dịch ra từ câu «La Lumière du Ciel arrive». [23]

Đó là sự giải thích của ông Nguyễn Ngọc Giao, tác giả bài «Hàm Nghi Nghệ Sĩ».

Bút tích chữ Hán của Vua Hàm Nghi khắc trên mộ J. Gautier
(Hình trích trong bài Hàm Nghi Nghệ Sĩ của N.N. Giao)

Người viết có tìm hiểu thêm về bà Judith Gautier thì được biết bà là một người có đầu óc vô cùng khoáng đạt và có nhiều thiên tài về nghệ thuật. Triết lý sống của bà là sự tự do: “Với tự do tôi sống; với tự do tôi bước vào tuổi già và với tự do tôi sẽ đi vào cõi chết” (with liberty, I live; with liberty I age and with liberty I will die.) Với triết lý và lối sống tự do phóng khoáng như vậy vào cuối thế kỷ thứ 19, Judith Gautier được rất nhiều người nổi tiếng theo đuổi, trong đó có đại văn hào Victor Hugo và nhạc sĩ Richard Wagner ...

Bà bỏ công nghiên cứu và học hỏi về nhiều nguồn văn hoá và đặc biệt là văn hoá Á Đông như Trung Hoa, Nhật Bản, bà đọc và viết được chữ Hán dù rằng chưa hề sang Á châu. Bà cũng am hiểu về âm nhạc và có viết một cuốn sách tưạ đề “Les musiques bizarres” (1900) nói về âm nhạc các nước Á Đông trong đó có Trung Hoa, Nhật Bản, Nam Dương (Java), Mã Lai và cả Đông Dương. Nhân dịp Triển Lãm Quốc Tế tại Paris năm 1900, bà Gautier có viết một bài về âm nhạc Việt Nam nhan đề Les chansons Annamites. Có lẽ mối giao tình giữa bà và vị Hoàng Tử Annam đã thúc đẩy bà chú ý đến nền âm nhạc cổ điển của Việt Nam mà viết bài này.

Judith Gautier cũng còn là một nhà điêu khắc và người bạn thân của bà là Suzanne Mayer-Zundel cho biết trong cuốn tiểu sử của bà Judith Gautier rằng chính tay Judith Gautier có tạc một bức tượng cho Vua Hàm Nghi, tuy nhiên không rõ hiện gia đình có còn giữ được bức tượng này hay không.

Bà Suzanne Meyer-Zundel, cũng là một nhà điêu khắc, từ trần vào năm 1971 nhưng có viết một cuốn hồi ký lấy tên là «Mười Lăm Năm sống bên cạnh Judith Gautier» trong đó bà cho biết rằng vào tháng 11 năm 1926, chính bà đã tổ chức một cuộc triển lãm cho những bức tranh và bức tượng do Vua Hàm Nghi sáng tác tại Galerie Mantelet (đường La Boetie, quận 8, Paris). Tuy nhiên hiện nay thì không ai được biết những tác phẩm nào đã có người mua và hiện nay đang lưu lạc nơi nào.

Nhiều người tại Alger cho biết rằng sau khi Ông Hoàng Annam dọn về ngôi biệt thự mới đặt tên là Villa Gia Long, ông đã trang trí ngôi biệt thự này theo kiến trúc Á Đông. Đặc biệt trong vườn, ông có dựng một cái đền nhỏ, người Pháp gọi là «le temple», không phải là chùa (pagode), để làm nơi ông đến hướng lòng về quê hương tổ quốc và ông bà tổ tiên.

Ngôi đền trong Villa Gia Long.
Nguồn: Es’mma

Ngoài ra, trong khu vườn này nhà vua còn trang hoàng những bức tượng lớn nhỏ khác nhau do chính tay nhà vua tạc lấy, tuy nhiên sau ngày nước Algérie được độc lập thì Villa Gia Long lại thuộc quyền qủan trị của Chính Phủ Algérie, do đó sau khi chính phủ này giao cho Chính Phủ Liên Xô sử dụng Villa Gia Long làm toà đại sứ thì người Algériens đã dời những bức tượng đó về cất đi. Không rõ những pho tượng này hiện giờ lưu lạc ở đâu. Còn ngôi biệt thự Villa Gia Long thì ngày nay đã trở thành sứ qúan của nước Cộng Hoà Nga tại Số 7 con đường mang tên là “Chemin du Prince d’Annam”, cái tên mà người Pháp và người Algériens đã gọi Vua Hàm Nghi trong thời gian mà Ngài đã sống tại thành phố Alger, thủ đô nước Algérie.

Riêng về những bức tượng nhỏ hơn thì vào năm 1935, khi Vua Hàm Nghi được 64 tuổi và đã sống lưu đày tại Algérie hơn 45 năm, nhà vua có chụp một tấm ảnh, hai tay đang cầm một bức tượng và đằng sau là những pho tượng lớn nhỏ khác do chính tay nhà vua sáng tác. Đặc biệt nếu nhìn kỹ thì chúng ta sẽ thấy giưã những bức tượng có lẽ bằng thạch cao màu trắng, còn có một chiếc khánh dường như bằng đồng, đó là một vật mà taiï chốn cung đình, các bậc vua chúa thường dùng để đánh lên khi muốn gọi cung phi thái giám, người hầu kẻ hạ. Có lẽ chiếc khánh này do chính nhà vua chế tạo ra theo trí nhớ vì trong văn hoá của người Pháp lẫn người Ả Rập không hề có dụng cụ này.

Số phận của những tác phẩm nghệ thuật này của Vua Hàm Nghi hiện giờ có còn tồn tại hay không ?

Ông Nguyễn Ngọc Giao cho biết:

«Nhà sử học Pháp Charles Fourniau, một chuyên gia về Phong Trào Cần Vương, người bạn thân của Việt Nam, cho chúng tôi biết ông đã từng gặp hai bà Như Mai và Như Lý và đã được hai bà cho xem một số tác phẩm của vua cha. Tiếc rằng khi ông đề nghị tổ chức một cuộc triển lãm thì hai bà từ khước. Cho đến nay (tháng 5-2008), con cháu của bà Như Lý, tức là hậu duệ chính thức của Hàm Nghi, vẫn giữ đúng ý nguyện của hai người đã khuất. Không những thế, họ xem những tác phẩm nghệ thuật là sở hữu riêng tư không muốn công bố, dù dưới hình thức hình ảnh hay phim ảnh, cũng như là họ dứt khoát gìn giữ ngôi mộ của Hàm Nghi ở nghiã trang Thonac». [24]

Vua Hàm Nghi năm 64 tuổi với những tác phẩm điêu khắc.
Nguồn : Hình chụp năm 1935, tài liệu của gia đình

Về sự say mê nghệ thuật của Vua Hàm Nghi, sử gia Fournier cho biết thêm như sau:

«Cựu Hoàng thường nặn tượng, vẽ tranh, có lần đã triển lãm tại Paris và có quen biết với nhà điêu khắc nổi tiếng Auguste Rodin. Ngài không hề kể chuyện về đời mình, song viết rất nhiều, không may tủ sách của ngài bị cháy thành ra hậu thế không được biết thêm chi tiết gì về 3 năm Ngài lưu lạc trong rừng sâu ...» [25]

Người bạn thânquý của Auguste Rodin

Ngoài Paul Gauguin và một số nghệ sĩ đã nói ở trên, Vua Hàm Nghi không những còn được quen biết mà còn là “bạn quý” của Auguste Rodin, nhà điêu khắc hàng đầu của thế kỷ thứ 19 và thế kỷ thứ 20.

Sử gia Fournier cho biết rằng “Cựu Hoàng thường nặn tượng, vẽ tranh, có lần triển lãm tại Paris và có quen biết nhà điêu khắc trứ danh Rodin ...” [26]

Điêu khắc gia Auguste Rodin

Một học giả chuyên nghiên cứu về văn hoá và lịch sử Việt Nam là Tiến Sĩ Thái Văn Kiểm, người đã từng giữ chức qủan thủ thư viện tại Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Paris từ năm 1976 đến năm 1987 có cho biết thêm rằng nhà điêu khắc Rodin là «bạn quý» của vua Hàm Nghi :

«Nhà vua đã trở thành một nhà hội hoạ có tài năng và có quen thuộc nhà điêu khắc Rodin, Giáo sư trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Pháp, số 11 bến sông Seine, gọi là Quai Malaquais, quận 6 với phương danh St Germain des Prés, được Việt hoá thành "Minh Đồng Quê Gió Cuốn".

Tôi có nghe kể rằng chính phủ Pháp đã cho phép Vua Hàm Nghi sang Pháp mấy lần để thăm ông bạn qúy Auguste Rodin, chuyên dạy điêu khắc, tác giả bức tượng Le Penseur (The Thinker) lừng danh thế giới. Người ta kể lại rằng khi đến thăm trường, Vua Hàm Nghi vẫn để tóc búi và vẫn mặc trang phục Việt Nam, giữ vững truyền thống dân tộc. Đó là điểm son qúy báu sáng chói trên nền trời Âu Châu.
The Thinker Giclee Print by Auguste Rodin
Bức tượng Le Penseur của A. Rodin

Và người ta cũng kể lại rằng trong những lần viếng thăm đó, Ngài ưa tới sân trong của trường để chiêm ngưỡng kiến trúc và hai cây dâu (murier) cổ thụ đã sống từ mấy trăm năm, từ khi các giáo sĩ thưở xưa mang về từ Á Châu về trồng tại nơi này, vốn là đất của họ đạo Vùng Thánh Giác Minh. Cho tới ngày nay, hai cây dâu này vẫn còn xanh tươi và được đặc biệt săn sóc trong khuôn viên trung tâm Cao Đẳng Mỹ Thuật Paris.» [27]

Như vậy thì vào thời đó, Vua Hàm Nghi đã có nhiều tài năng về nghệ thuật và quen biết với nhiều nghệ sĩ nổi tiếng nhất Âu Châu như nhà thơ Pierre Louÿs, nhà văn , nhà thơ, nhà điêu khắc và hoạ sĩ Judith Gautier, nhà điêu khắc Suzanne Meyer-Zundel, nhà văn Nga Sepkina-Kupernhic và đặc biệt là hoạ sĩ Gauguin cùng nhà điêu khắc Auguste Rodin (1840-1917), những tên tuổi mà cho đến bây giờ vẫn còn được xem như là những vì sao Bắùc đẩu trong lãnh vực hội hoạ và điêu khắc tại Âu Châu, đó là một điều đáng được hãnh diện đối với một người Việt Nam mà cho đến năm gần hai mươi tuổi vẫn còn chưa biết gì về hội hoạ, chưa biết gì về điêu khắc cũng như là chưa biết gì về văn hoá và ngôn ngữ Tây Phương.
***

Nguyễn Phúc Ưng Lịch lên ngôi năm chưa đầy 14 tuổi lấy hiệu là Hàm Nghi nhưng chỉ một năm sau đã rời bỏ ngai vàng chạy ra Tân Sở lãnh đạo Phong trào Cần Vương chống lại thực dân Pháp. Sau hơn ba năm nằm gai nếm mật trên các chiến khu tại vùng sơn cước các tỉnh Qủang Trị, Qủang Bình và Hà Tĩnh, nhà vua bị Pháp bắt rồi đày sang Algérie năm 1888, lúc đó mới 18 tuổi. Nhà vua từ trần ngày tại Alger ngày 28 tháng 11 năm Nhâm Ngọ tức là ngày 4 tháng 1 năm 1944 sau 55 năm sống cuộc đời lưu đày, không hề được gặp lại bất cứ một người bà con họ hàng thân thích nào.

Khi đến Algérie, Vua Hàm Nghi là một nhà cách mạng, một chàng thanh niên 18 tuổi không hề biết mảy may gì về nền văn hoá xứ người, tuy nhiên khi từ giã cõi đời thì ông là một người nghệ sĩ đa tài với một kiến thức chẳng kém gì những bậc thượng lưu trí thức của nước Pháp.

Dù đã bị truất ngôi nhưng trong suốt 55 năm sống cuộc đời lưu đày ông luôn luôn giữ phong cách của một bậc quân vương vì ông không hề thoái vị, dù sống với kẻ thù trên đất nước của kẻ thù nhưng ông vẫn luôn luôn chứng tỏ cho người Pháp thấy tinh thần bất khuất của ông, sự chống đối của ông, dù chỉ là một sự chống đối tiêu cực: dù rằng ông lấy vợ người Pháp, dù rằng ông phải nói tiếng Pháp, dù ông phải học hỏi ở nền văn hoá của nước Pháp, nhưng trong suốt cuộc đời lưu đày, từ ngày đặt chân lên xứ Algérie cho đến ngày từ giã cõi đời, ông không hề thay đổi trang phục của quê hương ông, của dân tộc ông, đó là đầu tóc búi củ hành, đó là cái khăn đóng đội trên đầu và cái áo dài đen cố hữu, không hề thay đổi một loại y phục nào khác.

Theo lời Tiến sĩ Thái Văn Kiểm, mỗi lần đến thăm Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Paris, Ngài vẫn thường ngồi ngắm hai cây mauriers tức là cây dâu, nơi mà ngày xưa mọc rất nhiều ở Huế, được gọi là Bãi Dâu. Trong vườn Villa Gia Long, Ngài còn cho xây dựng một ngôi đền để tưởng nhớ đến tổ tiên. Như vậy thì trong tâm tư, dù đã bị sống lưu đày trong hơn năm thập niên, dù không hề được nhìn thấy lại quê hương nhưng Vua Hàm Nghi bao giờ cũng nghĩù đến quê hương đất nước, một lòng chung thủy với quê hương đất nước.

Đó là lòng ái quốc.

Dù là một kẻ anh hùng ái quốc, từ giã cõi đời trong sự cô qụanh của một kẻ lưu đày nơi xứ người đểø rồi cũng sẽ bị lãng quên theo năm tháng, nhưng là một nghệ sĩ thì dù đã đi vào thế giới bên kia nhưng những tác phẩm nghệ thuật của ông vẫn sẽ còn tồn tại đến muôn đời. Dù rằng hậu duệ của nhà vua cho đến giờ này vẫn giữ ý nguyện của hai vị công chúa Nhữ Mây và Như Lý chỉ muốn giữ những tác phẩm nghệ thuật của nhà vua là vật sở hữu riêng tư trong gia đình, tuy nhiên biết đâu có một ngày nào đó, những hậu duệ này sẽ thay đổi ý kiến và công chúng sẽ được có cơ hội chiêm ngưỡng những tác phẩm đó.

Riêng đối với người Việt Nam, chúng ta mong ước ngày đó sẽ gần kề để cho chúng ta được chiêm ngưỡng tài nghệ về hội hoạ và điêu khắc không những của một vị hoàng đế anh hùng của lịch sử mà cũng còn là một nhà nghệ sĩ tài hoa, đa tài của dân tộc thời cuối thế kỷ thứ 19 đầu thế kỷ thứ 20.

Vào năm 1925 khi vua Khải Định mất, hoàng gia và triều đình Huế có nhận được một bức trướng với hai câu đối viếng như sau:

«Ông vội bỏ đi đâu, bỏ tiền, bỏ bạc, bỏ vợ, bỏ con, bỏ thầy tu hát bội, bỏ hết trần duyên trong một lúc.

«Tôi may còn lại đó, còn trời, còn đất, còn nước, còn non, còn anh hùng hào kiệt, còn nhiều vận hội giữa năm châu.»

Hồi đó có nhiều người cho rằng câu đối đó là của Vua Duy Tân gửøi về và điều này nghe ra cũng rất hợp lý, tuy nhiên có vài lý do cho thấy rằng nhận xét đó không đứng vững cho lắm vì trên thực tế thì Vua Duy Tân bị đày ở đảo Réunion, một thuộc điạ của Pháp, và bị chính quyền điạ phương kiểm soát rất gắt gao, đảo này toạ lạc trong Ấn Độ Dương không nằm trên đường giao thương bằng đường thủy từ Âu châu sang Á châu, do đó nuốn liên lạc với Đông Dương thì rất khó khăn.

Ngược lại Vua hàm Nghi bị đày ở Algérie, một lãnh thổ của nước Pháp (départment Français), vào thời gian đó, nhà vua đã được người Pháp cho phép sang Pháp nhiều lần, và năm 1926 thì ông đang ở Pháp để tham dự lễ tốt nghiệp của Công Chúa Nhữ Mây và cũng để tổ chức triển lãm tranh và tác phẩm điêu khắc, như vậy thì rất có thể ông đang ở Pháp từ năm 1925 và cũng rất có thể câu đối đó do ông từ Pháp gửi về vì tang lễ của Vua Khải Định phải chờ Hoàng Thái Tử Vĩnh Thụy đang du học tại Pháp về để chịu tang.

Người viết không dám khẳng định câu đối nói trên là của Vua Hàm Nghi, tuy nhiên xin mượn vế sau của câu đối này để kết thúc bài biên khảo này.

Vua Hàm Nghi, một nghệ sĩ tài hoa, một nhà vua ái quốc đã từ giã cõi đời cách đây đúng 65 năm nhưng nhà vua vẫn còn lại đó, còn trời, còn đất, còn nước, còn non, còn anh hùng hào kiệt, còn nhiều vận hội giữa năm châu vì ngày nay, tại quê nhà cũng như tại khắp nơi trên thế giới, không một người Việt Nam nào mà lại không khỏi yêu mến, kính trọng và tiếc thương cho một nhà vua ái quốc, một nghệ sĩ đa tài và cũng là một người tỵ nạn bị thực dân Pháp lưu đày sang tận Phi châu cách đây đúng 130 năm.

Trần Đông Phong
California, Mùa Đông 2008
_______________________

[1] Trần Trọng Kim: “Việt Nam Sử Lược”

[2] Những chi tiết vê các vị vua này được trích trong “Nguyễn Phước Tộc Giản Yếu” của Nguyễn Phước Tộc Sài Gòn, 1992.

[3] H. de Pirey: “Une Capitale Éphémère: Tan So », Bulletin des Amis du Vieux Hue, số 3, tháng 7-9 năm 1914.

[4] H. de Pirey : bài báo đã dẫn.

[5] Đông Tùng: “Bút Chiến đấu,” Hội Khổng Học Việt Nam xuất bản, Sài Gòn 1957: “Chiếu Cần Vương của Vua Hàm Nghi ban hành ngày 11 tháng 8 năm Hàm Nghi thứ nhất,” trang 12-13. Trích dẫn laiï trong “Văn Chương Nam Bộ” của Giáo sư Nguyễn Văn Sâm, Xuân Thu California 1988, trang 64.

[6] Vets With A Mission-Early History of Vietnam, Internet

[7] Jules Roy: “Une soirée chez la Baronne de Vialar,” trích trong “Les cheveaux du Soleil » trên Internet.

[8] Hứa Hoành: “Ai Giết Bùi Quang Chiêu?” trên Internet

[9] Es’mma: « Le mariage du Prince d’Annam ». Es’mma là trang web của Hội Cựu Học Sinh các Trường Trung Học Alger, , thủ đô nước Algérie. Hầu hết những tấm hình cuả Vua Hàm Nghi và bà Marcelle Laloë đều trích từ trang web của hội Es’mma, Alger.

[10] Capitaine Gosselin : « Le Laos et Le Protectoral Français », trang 164-165.

[11] Bertrand Auschitzky: “Baron Alfred de Vialar (1845-1926)”, trên Internet.

[12] Jules Roy: bài đã dẫn.

[13] Mathilde Tuyết Trần: “Lâu Đài của Công Chúa NhữMây: Château de Losse,” www.vietsciences.org, 2007.

[14] Daniel Grandclément: « Bao Dai ou Les Derniers Jours de l’Empire d’Annam”, JC Lattès, Paris 1997.

[15] Nguyễn Ngọc Giao: “Hàm Nghi nghệ sĩ”, Internet 17-5-2008.

[16] Nguyễn Cao Đức : «Un Empereur bien-aimé : Hàm Nghi » trong Chim Việt Cành Nam.

[17] Mathilde Tuyet Tran : « Ngôi Mộ Vua Hàm Nghi », www. vietsciences.org

[18] Nguyễn Ngọc Giao: bài báo đã dẫn.

[19] « Marius Reynaud : Peintre Algérois connu pour ses peintures sur le port d’Alger et de l’Amirauté », Revue Algérienne Illustrée, 1897, trích lại trong « Bab el Oued Story, Alger)

[20] Những đoạn văn chữ nghiêng trên đây đều đựơc trích dẫn trong bài « Vua Hàm Nghi và Câu chuyện Cổ tích Kỳ lạ » do Tiến sĩ Vũ Thanh dịch từ bài của Tiến sĩ N.L. Nikulin đăng trên VietnamNet.

[21] Nguyễn Ngọc Giao: bài đã dẫn.

[22] Nguyễn Ngọc Giao: bài đã dẫn.

[23] Nguyễn Ngọc Giao: bài đã dẫn.

[24] Nguyễn Ngọc Giao: bài đã dẫn.

[25] Fournier: “Annam-Tonkin 1885-1895,” trang 158-162.

[26] Fourniau: “Annam-Tonkin 1885-1895”, Paris 1989.

[27] Thái Văn Kiểm: trích lại trong Việt Sử Khảo Lựơc của cụ Hoàng Cơ Thụy, cuốn 3, trang 1890-1891.


Truyện Trên Mây - Bùi Lộc


Bùi Lộc

Lẽ ra tôi phải đặt tựa đề cho bài viết là những chuyện tưởng như không thật thì lại thật, còn những chuyện tưởng như thật thì lại không thật.

Số là tôi đang nghĩ về chuyện trước 75 (chuyện phong thần), một bé gái tưới đầy săng vào mình châm lửa chạy đâm vào bồn chứa kho xăng Thủ Thiêm, khiến kho xăng bốc cháy. Em chết là cái chắc và được phong “anh hùng”. Không biết em có chị em hay cháu gái xa gần nào phải ở lỗ cho mấy anh chàng Đài Loan hay Đại hàn coi chơi không. Không biết em có biết ngôi nhà tổ của bác Dũng to cỡ nào không? bà cựu ngoại trưởng Nguyễn Thị Bình lúc em tưới xăng vào người có mấy căn nhà không? nhà bác Phiêu trang trí ngà voi, trống đồng Ngọc Lữ, bác lại đem cả tượng Phật về nhà phù hộ cho bác được trường thọ để chống tham nhũng không?. Không biết em có biết bác Mạnh ký dâng mỏ bauxite tại Cao nguyên Trung phần cho Tầu và được bọn nó thưởng cho bác ta những gì không?. Em là anh hùng thì riêng phần em đang nơi chín suối sướng thoải mái, vô tư rồi, nhưng mùi da thịt em vẫn phảng phất quanh đây, và những thân nhân của em thì đang than trời.

Có lẽ họ cũng hơi có chút xíu hy vọng vì ông nguyễn thanh sơn, phó trường ban tôn giáo nhà nước mới trả lời Phài đoàn tôn giáo Hoa kỳ một cách “hết sức cải cách ruộng đất” là nhất định không trả đất nhà thờ vì nhà thờ là địa chủ và dân Việt nam bây giờ lên đến 90 triệu dân đang cần đất để ở. Họ giữ đất nhà thờ lại để cấp phát cho dân đấy. Hôm nọ họ làm vườn hoa ở đất Toà Khâm sứ là vội quá nên lộn thôi, chứ thực ra là để cấp phát cho dân nghèo mới đúng. Diện tích Việtnam là 320.000 Km2 gì đó. Trừ đi một nửa canh tác, giao thông, vườn hoa, công viên, công ốc. Phần còn lại phát cho mỗi đảng viên 2 mẩu. còn lại bao nhiêu chia đống đều cho 87,000,000 dân. Theo ông Sơn nói dân bây giờ là 90.000.000 mang trừ đi 3.000.000 đảng viên vị chi còn lại 87.000.000 dân thường. Trong cái khoản trên quên chưa trừ đi cái khoản bác Phiêu và bác Mạnh biếu Tầu nửa. Phải trừ đi khoản đó rồi hãy chia, không rồi lại cãi cọ khiếu kiện làm đảng khó giải quyết. Như vậy là rõ ràng, không còn mập mờ. Mọi người đều được phân chia công minh, sòng phằng, đúng tiêu chuẩn xã hội chủ nghĩa.

Rồi chuyện mới đây bà Dương thu Hương viết bài “Món Ăn Chân Lý” phản ứng với những ý kiến khắp nơi trong nước cũng như hải ngoại đối với cuốn sách “Đỉnh Cao Chói Lọi” của bà. Bà nói những người phe ông Hồ tức tối kết án bà phản bội, dám nói bác mê sex, có con rơi lúc mới lớn trong khi bác còn trinh, dám đụng đến lãnh tụ kính yêu của họ. Còn với người bên ngoài, những người chống cộng nhắm mắt lại không thấy được những điểm sáng của nhận vật hồ chí minh, một lãnh tụ tầm cỡ của dân tộc.

Bà nói bà không ngạc nhiên về phản ứng của hai nhóm người Việt này. Nhưng bà sửng sốt về ý kiến của những nhà trí thức, những người nghiên cứu. Bà nói họ là những người hiểu biết, trầm tĩnh, cân nhắc thì họ phải nhìn ra đâu là sự thật. Xem ra họ cũng mù mờ chẳng nắm bắt được sự thật, cũng nông cạn vậy thôi. Bà nhấn mạnh làm gì có chuyện hồ chí minh bán Cụ Phan Bội Châu cho Phòng Nhì Pháp. Chỉ là chuyện dựng đứng, phịa, tào lao không bằng chứng.

Thực ra chuyện ông hồ bán Nhà Cách Mạng Phan Bội Châu cho Pháp có hay không người Pháp biết rõ quá mà, có lẽ họ cũng muốn cái mỏ bauxite hay kim cương vàng bạc gì đó chăng. Cũng như chuyện ông hồ chết năm 1932 vì ho lao, người Anh biết rất rõ, vì lúc đó ông hồ đang bị họ cầm tù. Giả như nếu ông không ở tù không lẽ một người như ông mà tình báo Anh đang hoạt dộng mạnh trên nước Trung hoa mà lại khờ khạo đến nỗi ông sống hay chết cũng không biết.

Ngay khi nghe và đọc những tư tưởng phản kháng của bà khi vừa chân ướt chân ráo bước vô Sàigòn tôi thấy thật hào hứng. Một phụ nữ gan dạ, can đảm, có hào khí, bén nhậy. Vừa nhìn thấy vùng đất mới chiếm đóng đã phân biệt được ngay những gì mà nhiều người trí thức phải một thời gian dài mới thấy được, thậm chí cho tới hôm nay còn có những người vẫn chưa thấy . Ý muốn nói bà không bị định kiến, vứt bỏ được ngay những gì đã đúc khuôn con người bà qua cái khung trồng người xã hội chủ nghĩa của bác, một đảng viên ngay từ thuở thiếu thời..

Nhưng qua bài viết “Món Ăn Chân Lý” mới đây khiến tôi suy nghĩ rất nhiều, suy nghĩ miên man, không lẽ lại như thế.

Những điều tôi sắp nói ra sau đây hoàn toàn có tính cách cá nhân, đúng tôi chỉ nêu lên những thắc mắc, những suy tư do kinh nghiệm có được từ ngày nếm mùi xã hội chủ nghĩa do bác nhập khẩu vô. Vì có những người sống với cộng sản đến khi chết vẫn chưa biết người bên cạnh mình là cộng sản. Người cộng sản cũng hoan hô đả đảo những gì mình hoan hô đả đảo, phê phán, chỉ trích những gì mình phê phán chỉ trích, nhiều khi họ còn làm tích cực hơn.

Xã hội miền Bắc trước 1975 khép kín, chỉ biết những gì đảng cho biết, nói những gì đảng cho nói. Nhưng cấp lãnh đạo, họ cũng đi khắp năm châu bốn biển, biết thế nào là dân chủ tự do, khao khát của người dân, nhưng họ không ban phát, không muốn người dân được hường những quyền căn bản đó. Cũng có nhiều người dân thường biết và còn biết rất rõ là họ và toàn dân đang bị đảng lừa, đảng bịp, những đành cam tâm nhẫn nhục sống qua ngày, nếu không muốn vướng vào vòng lao lý, đầy ải.

Nhưng làm sao bịt mắt người dân được mãi một khi họ chứng kiến cảnh Sàigòn, những đô thị, và đặc biệt cách sống và lối suy nghĩ của toàn dân miền Nam. Nên họ đã phải chuẩn bị và tìm phương kế đối phó với cơn khủng hoàng này.

Họ có rất nhiều phương cách. Ngoài chính sách hộ khẩu khủng bố, đàn áp,họ dùng những trí thức văn nghệ sĩ của miền Nam bị kẹt lại, hay những kẻ thời cơ sáng tác ca tụng chế độ mới; bôi nhọ chế độ Miền Nam gửi cán bộ văn hoá thông tin ra hải ngoại.

Rất nhiều, nhưng có hai trường hợp điển hình: Hiện tượng Bùi Tín và hiện tương Dương Thu Hương. Riêng Bác Bùi Tín, xin Bác thứ lỗi nếu những suy nghĩ này không đúng. Hiện thời thành thật mà nói tôi rất mê những bài viết của Bác, rất bổ ích, và thấy mỗi câu, mỗi ý, mỗi thông tin trong bài của Bác như những nhát búa tạ giáng vào đầu những tên chóp bu của Hà nội.

Một người tầm cỡ như Bác đi khắp đó đây, kiến thức uyên bác, nhưng lập trường vững vàng cũng thể hiện phần nào rõ nét qua thái độ của Bác với ông Dương văn Minh ngay trước lúc đọc lời đầu hàng. Chỉ một thời gian ngắn sau đó Bác xin tỵ nạn chính trị tại Pháp. Nhiều người trong đó có tôi cảm thấy thật vui và thấy được niềm hy vọng, vì có cán bộ trí thức cao cấp đã can đảm phản kháng chế độ. Nhưng một số bài viết của Bác, đặc biệt về nhân vật hồ chí minh. Thấy như có điều gì hơi lấn cấn, không ổn.

Sau này, khi Liên sô và Đông Âu sụp đổ, lập trường của Bác mới giứt khoát. Không còn nhập nhằng nữa; chẳng hạn qua bài viết của Bác khi so sánh hồ chí minh với Ông Ngô đình Diệm. Và mới đây đến hiện tượng Dương thu Hương mới thực sự khiến tôi suy nghĩ về buớc đầu tỵ nạn của Bác, chứ thực ra trước đây tôi không có một chút nào nghi vấn về Bác. Còn bây giờ bác là một những con chim đầu đàn chống cộng, và chống cộng có hiệu quả, vì hơn ai hết Bác biết rõ “tẩy” của chúng.

Còn Dương thu Hương khi vừa vào tới Saigòn đã ngồi phệt xuớng hè phố khóc hu hu tuyên bố: “Ôi thôi, kẻ mọi rợ giải phóng người văn minh rồi.” Và rồi mọi người say mê đọc “Chốn Không Người, Con Đường Mù ...” theo dõi và thấy thật đã lỗ nhĩ qua những câu trả lời phỏng vấn của bà trên đài Little Saigon. Nếu lỡ không nghe kịp, lại nối mạng nghe lại. Uống cạn, uống hết, không bỏ sót một câu phát biểu nào của bà. Đã thế, còn hứng thú kể lại cộng thêm lời bình cho bạn bè cùng thưởng thức: “Bà chửi việt cộng đã quá. Bà văng búa tạ vào mặt bọn chúng. Chắc là chúng phải mở mắt ra mà nhìn những lỗi lầm của mình và mau chóng sửa sai, còn không bịt tai chui xuống đất mà trốn.”

Bà tuyên bố văng mạng, nhưng cũng bị tù đại khái, nếu so với Luật sư Lê thị Công Nhân thì Luật sư Nhân phải được tha lâu rồi mới phải. Bà xuất ngoại thoải mái. Cái lúc bà tuyên bố ngon lành nhất, ai cũng nghĩ bà mà về kỳ này là tiêu. Nhưng bà tuyên bố không thèm ở lại dứt khoát về để “...” vào mặt bọn chúng. Nhưng rồi bà về thoải mái.

Sau này người ta thấy bà định cư tại Pháp. Nhiều người hy vọng, qua cuộc sống thanh thản, đêm đến không phải e dè tiếng chó sủa, không phải thót tim khi nghe tiếng gõ cửa sẽ giúp bà ghi lại những uẩn khúc qua cuộc sống đầy thủ đoạn, lừa lọc bẩn thỉu của chế độ đem lại cho độc giả những kinh nghiệm sống sau bức màn cộng sản với những tác phẩm mới..

Mọi người nín thở, điều trông chờ đã tới: “Đỉnh Cao Chói Lọi” ra đời. Nhưng oai hơn một bậc bằng tiếng Pháp “Au Zénith” có lẽ thời gian ngắn ngủi ở Pháp đã làm bà quên tiếng Việt và chỉ diễn tả được bằng tiếng Pháp thôi. Trong khi chờ đợi bản tiếng Việt xuất bản, người ta có thể đọc được trên những trang web. Thú thực cũng chờ để mua vì nghĩ phải ngon lành hơn những tác phẩm trước, hay ít ra cũng bằng. Những đọc thấy nhạt nhẽo quá nên không đủ can đảm đọc hết mà sau đó chỉ đọc những bản tóm lược. Và nhất là mới đây đọc bài “Món Ăn Chân Lý” chính thức phản ứng với những ý kiến của độc giả bốn phương về tác phẩm mới nhất: “Đỉnh Cao Chói Lọi” của bà. Trong đó ý kiến của tác giả “Bác cháu ta lên mạng”, bác nói với thằng tèo: “Rõ thật con Hương nó giở hơi”.

Nhưng ngồi suy đi nghĩ lại “con Hương” nó không giở hơi chút nào, nhưng bà ta viết có tính toán. Và những điều được nói lên trong tác phẩm có chủ ý, có mục đích. Những suy nghĩ này, xin nhắc lại một lần nữa hoàn toàn cá nhân, và nếu không đúng xin bà Hương bỏ qua cho.

Trong lúc đảng cộng sản trong nước đang ra sức bắt mọi người, nhất là thế hệ sau nay “học tâp và làm theo gương bác hồ”, những nguời bên ngoài lại đưa ra những bằng chứng hết sức thuyết phục cuộc đời thật của hồ chí minh. Thành ra việc thần thánh hoá ông ta không còn tác dụng nữa, hay những cây viết của đảng viên trung kiên không thể thuyết phục được ai. Lớp người già ở hải ngoại họ không cần thuyết phục bởi họ nghĩ nếu có thuyết phục cũng vô ích, chỉ thêm nhếch nhác, rách việc.

Nhưng còn lớp trẻ, những người không hệ luỵ chiến tranh. Những đầu óc không bị bất cứ một nếp suy tư, định kiến nào chi phối. Thế hệ này được hấp thụ một lối suy tư mới hoàn toàn độc lập. Cụ thể, khi đưa ra một nhân vật lịch sử phải mang tính người hơn, không được là thiên thần, như vậy dễ thuyết phục hơn. Dương Thu Hương đã đáp ứng đòi hỏi nay, khi diễn tả lại hình ảnh “hồ chí minh”. Hồ chí minh cũng sex, con rơi khi mới lớn, cũng yêu thuơng mùi mẫm. Còn lên án bọn chóp bu Hànội đã ngăn cản cuộc tình sau cùng của “bác” để tạo cho bác một khuôn mặt cha già dân tộc. Nhưng sau cùng Dương Thu Hương cho độc giả (lớp trẻ) một hồ chí minh là một người yêu nước và dân tộc mình không ai sánh bằng, chống ngoại bang và biết cách chống. Một khuôn mặt yêu nước cao nhất “đỉnh cao chói lọi”, ánh sáng này lấp toả mọi anh hùng dân tộc khác. Lê Lợi, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Quang Trung đi chỗ khác chơi. Trong khi mọi nguời đang mong một Quang Trung khác chiếm lại Ải Nam Quan, và Thác Bản Giốc.

Diễn tả như vậy dễ thuyết phục thế hệ trẻ hơn. Một lãnh tụ cũng phải có những đăm mê, cũng phải có những khuyết điểm mang tính người. Còn thần thánh hoá, sống cứ như thiên thần chỉ thuyết phục những lớp già quê mùa, thiếu hiểu biết, không biết nhận xét và thông tin bưng bít. Lỗi thời rồi, phải dùng chiêu khác. Chiêu mới này thể hiện qua “Đỉnh Cao Chói Lọi”. Tất cả những màn khóc khi vào tới Sàigon, những lời chửi thí mạng cùi, những ngày tháng trong tù của bà cũng chỉ là để chuẩn bị cho việc giúp đảng sửa lại hình ảnh hồ chí minh.

Không nói tới về những khuyết điểm, những trò bịp bợm lửa đảo của hồ chí minh, chỉ mỗi việc hồ chí minh du nhập chủ thuyết cộng sản và chính sách đấu tranh giai cấp vào Việt nam đủ nói lên những sai lầm chết người và tội đồ của dân tộc, làm Việt nam trở thành một nước lạc hậu sau những nước láng giềng cả nửa thế kỷ như mọi người đều thấy. Trên thế gian này từ cổ chí kim chỉ mỗi học thuyết cộng sản là giết hàng loạt dân của chính minh. Ngày nay người ta thấy hình ảnh Việtnam qua phi công hàng không Việtnam trên đất Nhật, qua nhân viên toà đại sứ Vietnam buôn bán ngà voi, qua dân oan nheo nhóc đói khát, vất vưởng trên hè phố đi khiếu ngày này kiện qua ngày khác, qua những người chài lưới Việtnam bị tầu lạ ủi giữa đêm tối ... còn lãnh đạo là những “tư bản Đỏ” kếch sù.

Tóm lại, “Đỉnh Cao Chói Lọi” nhằm vào đối tượng trẻ; viết theo đường lối, theo nghị quyết 36 và chỉ thị của đảng.nhằm thay đổi diện mạo hồ chí minh để kéo dài sự thống trị của đảng.

Chuyện trên mây thì rất nhiều và cũng rất nhiều người biết, nó xẩy ra hằng ngày, hằng giờ tại Việtnam ngày nay. Xin chân thành cám ơn những ai ghé mắt đến những dòng này.

Bùi Lộc


Saturday, May 30, 2009

Cộng Sản Sợ Gì? - Người Dân Việt Sợ Gì? - Các Tôn Giáo Ở Việt Nam Sợ Gì? - Vietcatholic

Phóng viên Vietcatholic

Đọc bài của ký Roger Cohen, nhà bình luận toàn cầu globalist của tờ New York Times hôm 25/05/09 trên BBC: (http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/05/090527_peaceful_evolution.shtml)

Thật ngạc nhiên với hiểu biết của một ký giả có “tầm cỡ thế giới” về hiện tình chính trị trong hai quốc gia cộng sản còn sót lại trong thế giới văn minh ngày nay: Trung Cộng và Việt Cộng.

Có vẻ như ký giả này lặp lại những gì mà nhiều người đã nói, đã viết, đã nghe nhiều lần và từ lâu rồi … Lại những câu từ với mô típ rất cũ:

Trích nguyên văn: Thời kỳ "bóng đêm của chủ nghĩa Stalin và Mao chế ngự tâm hồn đã vào quá khứ" (Hết trích).

Sau vài dòng phân tích sơ sài, câu từ nhạt nhẽo … Ký giả Roger Cohen kết luận: Việt Nam và Trung Quốc chừng một phần tư thế kỷ nữa sẽ có nhiều dân chủ tự do hơn - Và Roger Cohen khuyên nước Mỹ hãy kiên nhẫn … (?)

Về nguyên nhân làm Việt Nam, Trung Quốc còn thiếu dân chủ, ông ta cho rằng: Vì Bộ Chính trị vẫn mất ngủ với "diễn biến hòa bình". Đi quá đà, ông ta hồn nhiên kết luận: Thanh niên các nước này, chuyển từ xe máy lên xe hơi riêng là mối lo thường trực hơn băn khoan về dân chủ đa đảng. – Xem ra câu kết luận này của Roger Cohen xúc phạm đến dân tộc Việt, nó hao hao giống với câu mà Nguyễn Viết Thịnh, đại biểu quốc hội thành phố Hà Nội, nói công khai trước quốc hội Âu Châu vào ngày 18/12/2008 rằng: "Đối với dân chúng nghèo họ không quan tâm đến tự do ngôn luận mà quan tâm về ăn uống, đói no." – Nhưng có lẽ ký giả này không có chủ ý, mà chỉ là thiếu hiểu biết và dùng văn từ chưa chuẩn mà thôi.

1. CSVN có sợ “diễn biến hoà bình” không ?

Trước tiên phải nói cho anh ký giả Roger Cohen biết rằng, csvn không sợ cái gọi là diễn biến hoà bình chung chung. Và nếu anh căn cứ vào mấy cái văn kiện của đảng csvn phát ra để kết luận như thế thì rất là thiếu hiểu biết về cộng sản nói chung, và cộng sản việt nam nói riêng. Có nhiều điều trong văn kiện đảng của cộng sản phát hành công khai chỉ mang tính lừa bịp, hoặc có thể lý giải nhiều cách. Cộng sản vẫn dùng nó để lèo lá biện minh cho đủ thứ hành vi của nó. Đó không phải là sự thật, thậm chí cũng không phải là nguyên tắc hành động của cộng sản đâu.

Cộng sản nói chung, và csvn nói riêng, là những kẻ lưu manh, chúng nhận thức cũng rất nhanh, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến sinh mạng của chúng. Khi nói đến diễn biến hoà bình là nói đế một hiện trạng xã hội. Mà hiện trạng thì phải có một nguyên nhân, một động lực nào đó thúc đẩy xã hội đến hiện trạng đó. Hiện trạng diễn biến hoà bình có nguyên nhân trực tiếp, có động lực sâu sa là nhận thức của người dân về nhà nước và con người đảng viên cộng sản. Chính từ nhận thức này mà người dân không chấp nhận nhà nước cộng sản và diễn biến hoà bình sảy ra. Nếu nhận thức người dân mà còn mơ hồ hay sai lạc. Dù cho thời gian cả ngàn năm, chứ không phải chỉ ¼ thế kỷ, dù cho nước Mỹ hay thế lực nào đó thúc đẩy. Cũng không bao giờ có diễn biến hoà bình ở Việt Nam. Thế nên csvn không sợ cái gọi là diễn biến hoà bình chung chung như Roger Cohen viết đâu.

Vậy csvn sợ cái cụ thể gì??? Trong thế giới văn minh ngày nay, nhận thức của mọi lớp người trong xã hội Việt Nam đang ngày càng tiệm cận đến sự thực và chân lý. Cái giúp họ tiệm cận đến chân lý chính là hệ thống truyền tin hiện đại không cho phép csvn có thể kiểm soát được hết. Người dân ngày càng có thêm phương tiện để kiểm chứng tin tức do cộng sản bày đặt, họ dễ dàng tiếp cận các nguồn tin độc lập. Cho nên cái việt gian cộng sản hôm nay sợ nhất là không kiểm soát, không bưng bít được tin tức sự thật. Cộng sản sống được là nhờ đủ thứ giả dối – Sự thực mà sáng tỏ nó sẽ kết liễu cộng sản, chẳng ai phải cầm súng bắn nó cả. Bộ máy tuyên truyền lừa bịp của nó ngày càng khó làm giả tin, khó cắt xén xuyên tạc tin. Nó đang dần dần bị vô hiệu. Từ thực tế này, từ nhận thức này mà csvn nhất quyết không cho tự do ngôn luận, không cho tự do báo chí.

Csvn chẳng những không sợ “diễn biến hoà bình” mà nó còn lợi dụng cái danh “diễn biến hoà bình” để “chụp mũ” rồi tấn công mọi thành phần dân chúng mà nó nghi ngờ chống đối, đặc biệt là giáo dân, tu sĩ các tôn giáo. Không biết diễn biến hoà bình ở Việt Nam có giống như ở Đông Âu hay không, nhưng csvn luôn nghi ngờ và đổ mọi tội lỗi này lên đầu các tôn giáo, đặc biệt là Công Giáo. Cao điểm của việc chụp mũ “diễn biến hoà bình” này là csvn cho ra đời cái nghị định cho phép tổng cục 2 ám sát những ai (kể cả quan chức cao cấp cộng sản) nếu có biểu hiện “diễn biến hoà bình” gây nguy hiểm cho chế độ. Chính nhờ phần không nhỏ vào cái nghị định bất hợp pháp này mà csvn có vẻ vẫn sống khoẻ (?). Quan chức cs phản tỉnh rất sợ - Dân lành lại càng kinh hãi khi thi thoảng lại thấy mất tích một người, hay đột tử tại cơ quan, chết tại nhà vì “dùng ma tuý qua liều” của một cán bộ nhà nước. Trong khi những người này chưa hề có tiền sử hít ma tuý chứ nói gì đến trích ma tuý. Đương nhiên người dân phải tìm cách tự vệ, chứ không thể dùng chiến thuật biển người thí mạng như trong chiến tranh của cộng sản được.

2. Người dân Việt có sợ hãi khuất phục cộng sản không ?

Một trong những phương cách người dân phòng vệ là khi chó quá hung hăng, thì tạm lui bước để bảo toàn tính mạng. Và chuyển sang lo toan các vấn đề về kinh tế như chính quyền cộng sản mong muốn. Nó vừa mang tính tự phát vừa là tình thế. Hình như người Nhật sau khi đầu hàng vô điều kiện hồi thế chiến thứ hai, cũng phải chọn phát triển kinh tế. Chứ họ không thể khăng khăng đòi độc lập, đòi phục quốc trước gọng kìm của Mỹ. Một quốc gia, một công ty, một tổ chức, một gia đình, một cá nhân mà có tiềm lực về kinh tế rồi chống lại bất công cũng đều tốt hơn là ngược lại.

Thế còn “cuộc cách mạng long trời lở đất” tại sao không nổ ra ??? Sao người dân lại không làm một cuộc “Cách mạng long trời lở đất” mà lại chọn diễn biến hoà bình ??? Sống trong xã hội cộng sản, người dân biết được rằng nhà nước cộng sản là một cỗ máy chiến tranh. Nó tồn tại được là nhờ có chiến tranh. Bởi chỉ có chiến tranh mới duy trì được độc tài dễ dàng nhất. Chỉ nhân danh tình trạng chiến tranh nó mới dễ dàng hạn chế, xâm phạm nhân quyền của người dân, bưng bít thông tin loè bịp chân lý đổi trắng thay đen. Chính một đại tá bồi bút cộng sản trước khi chết cũng đã viết những dòng thú nhận về việc nhà nước cộng sản luôn ngụy tạo rằng:

“Lúc nào cũng có kẻ thù rình rập đâu đó để tìm cớ lật đổ chế dộ bằng vũ trang, hay bằng diễn biến hoà bình. Lúc nào cũng được đồng chí trong chi bộ, bàn bè cơ quan giám sát mọi tư tưởng và hành vi để ngăn chặn mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân của mỗi thành viên. Lúc nào cũng phải đề phòng, phải đề cao cảnh giác cách mạng, không tin cậy bất cứ ai, kể cả bạn bè.” – Đi tìm cái tôi đã mất của Nguyễn Khải.

Thực chất csvn cố tình tạo ra những tình huống này để tiện việc đóng cửa quốc gia, đàn áp giết chóc dân lành lên tiếng cho công lý. Người dân cũng thừa biết, nên họ chẳng dại gì mà cho đám việt gian có cái cớ giết chóc họ dễ dàng. Không có chiến tranh, cũng chẳng có kẻ thù nào đứng đằng sau cả. Chỉ là vấn đề công lý, lẽ phải nội bộ người Việt trong nước Việt mà thôi. Như thế những tên cộng sản hung hăng, cũng có thể bị những kẻ cộng sản phản tỉnh nhưng chưa công khai và đang cầm quyền hãm bớt lại. Người dân Việt khôn ngoan lựa chọn cách tranh đấu với cộng sản như thế. Cộng sản chẳng có tí chính đáng nào để tấn công đàn áp họ cả.

Những biểu hiện ra bên ngoài của người dân Việt trong chế độ cộng sản, như phát ngôn những câu theo mô thức cộng sản một cách ngô nghê và có vẻ cuồng tín cộng sản. Đây là một thực trạng, thực trạng này đến hôm nay cũng không đáng lo ngại lắm. Vì nó hoàn toàn vô thức, người dân nói thế, nhưng không phải bây giờ csvn kêu gọi họ chết thay như hồi chiến tranh họ sẽ nghe đâu. Nó thuần tuý là vô thức, chứ không phải là có ý thức hay từ trong tiềm thức đi ra.

Về sự thờ ơ trước các vấn đề chính trị của bộ phận không nhỏ người trong xã hội cộng sản. Đây là vấn đề làm nhiều người có tâm huyết với quốc gia dân tộc lo ngại. Đúng là đáng lo ngại thật. Nhưng nó cũng không hẳn trầm trọng như những gì người ngoài lo ngại. Xã hội cộng sản là xã hội có rất nhiều cạm bẫy, đặc biệt là cạm bẫy giành cho những người có tư tưởng chống cộng. Cho nên như một phản xạ, người ta không bao giờ để lộ ra quan điểm, ý định chống lại bất công xã hội cộng sản.

Không hiểu Roger Cohen nghĩ gì, lấy tư cách gì mà khuyên nước Mỹ hãy kiên nhẫn khi tự do dân chủ ở Việt Nam chưa tiến triển ??? Nước Mỹ không thừa hơi bỏ tiền bạc công sức đi lo hộ tự do dân chủ cho nước khác. Còn nếu vì quyền lợi nước Mỹ thì vấn đề dù ở đâu, Mỹ cũng chẳng xá, chẳng ngồi nhìn đâu. Hãy xem lại hai cuộc chiến ở Áp-ga-nít-tan và I-rắc mà Mỹ phát động. Mặt khác người dân Việt cũng không có ý định nhờ người Mỹ làm cái “tự do dân chủ” thay cho dân tộc Việt. Người Mỹ, dù có lên tiếng cho tự do dân chủ ở đâu, thì trước tiên cũng vì lợi ích nước Mỹ đã. Muốn nắm bắt cái đà tự do dân chủ của thế giới để giải thoát cho mình, người dân trong nước Việt phải chủ động. Ở trong nước ai cũng nghĩ vậy.

Như thế, “Thanh niên các nước này, chuyển từ xe máy lên xe hơi riêng là mối lo thường trực hơn băn khoan về dân chủ đa đảng.” - Là hiện tượng chứ không phải là bản chất dân tộc Việt. Dẫu sao nó cũng là hiện tượng không nên có, nhất là đối với một dân tộc bất khuất, khí khái như dân tộc Việt.

3. Các tôn giáo ở Việt Nam sợ gì ?

Bản chất của các tôn giáo là không dựa vào bất cứ thế lực vật chất nào để tồn tại. Vật chất đối với họ chỉ thuần tuý là phương tiện nhất thời. Có đến đâu họ dùng đến đấy. Tuy nhiên tôn giáo nào cũng mong muốn có thêm phương tiện để quảng bá tính chất nhân văn nhân bản của tôn giáo mình.

Vậy thì các tôn giáo ở Việt Nam sợ cái gì??? Cái mà các tôn giáo lo lắng luôn được cá thể hoá đến từng con người tín hữu, tu sĩ cụ thể. Nó chính là tâm hồn chai đá, rời bỏ lương tâm tôn giáo chính thống thay bằng thứ “lương tâm nhái” nào đó cho “thuận tiện và dễ sống trong xã hội cộng sản”. Hoặc là trạng thái “vô vi” không hành động, không làm bất cứ việc gì để tránh va chạm. Các tôn giáo gọi tu sĩ, tín đồ đó có đức tin chết, làm gương mù gương xấu. Họ chống lại tình trạng này bằng sự giáo dục lương tâm cho con người.

Giáo dục và giáo dục lương tâm con người là những việc làm thường ngày, không mệt mỏi của các tôn giáo. Dựa vào thế lực siêu nhiên để đối chọi với thế tục là căn bản của mọi tôn giáo. Cho nên các tôn giáo sau khi dùng hết phương tiện vật chất mà họ có, thì họ viện đến Thần Thánh. Như thế thì họ sợ cái gì mà cộng sản lăm le đe doạ ??? Các tu sĩ và giáo dân không sợ đi tù, càng không sợ chết cho tín điều của họ. Còn bị cưỡng đoạt đất đai nhà cửa, bị xã hội đen tấn công đe doạ, bị công an triệu tập sách nhiễu chỉ là những trò “trẻ con” đối với họ mà thôi.

Mặc dù csvn cũng biết được rằng suy thoái lương tâm sẽ làm cho con người dần xa tôn giáo của họ, nên nó tìm mọi thủ đoạn đê hèn để “quốc doanh” hoá tu sĩ, để “thương mại hoá” giáo dân. Nhưng có vẻ như cuộc chiến với các tôn giáo của cộng sản việt nam không cân sức, và kết cục không như chúng mong muốn. Bởi chính học thuyết cộng sản đã cảnh báo về kết cục của cuộc chiến này, nhưng việt gian cộng sản không nghe. Tấn công tuyên chiến với tôn giáo là biểu hiện cơn bối rối vì cùng đường của csvn.

LỜI KẾT:

Đọc bài của ký giả Roger Cohen, mà thấy buồn! Buồn vì có người ngoài cuộc dốt nát về tình hình chính trị của quốc gia mình mà họ lại lên mặt dạy mình. Buồn vì người Việt mình để người ngoài lo lắng cho hiện trạng chính trị của quốc gia mình. Thế mới biết Mỹ - EU - Các quốc gia văn minh luôn khẳng định không ủng hộ sự thay đổi áp đặt từ bên ngoài - Chỉ chấp nhận và ủng hộ sự thay đổi từ bên trong của người dân Việt mà thôi - Là lịch sự văn minh và có chứng lý.

Phóng viên Vietcatholic
30.05.2009

*
* *
    "Diễn biến hòa bình"
Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/05/090527_peaceful_evolution.shtml
Nhà bình luận Roger Cohen
vừa đến thăm Việt Nam


Ký giả Roger Cohen vừa có bài gửi đi từ thành phố Hồ Chí Minh về "Nỗi bức bối diễn biến hòa bình" ở Việt Nam và cả Trung Quốc với niềm tin rằng chừng một phần tư thế kỷ nữa hai nước sẽ có nhiều dân chủ tự do hơn.

Nhà bình luận toàn cầu (globalist) của tờ New York Times hỏi vì sao sau 20 năm sự kiện Thiên An Môn và bức tường Berlin sụp đổ vì sao cả Việt Nam và Trung Quốc không chuyển ngay sang mô hình dân chủ như Đông Âu.

Đó là vì, theo ông, một thế hệ lớn lên ở Việt Nam, và cả Trung Quốc được vẫy gọi bởi ham muốn phát triển chứ chưa phải là dân chủ.

Thanh niên các nước này có thể muốn tự do hơn nữa nhưng chưa tới mức họ sẵn sàng đối mặt với hệ thống chính trị̣.

Với họ̣, chuyển từ xe máy lên xe hơi riêng là mối lo thường trực hơn băn khoan về dân chủ đa đảng.

Còn về phía nhà nước, bài viết "Peaceful evolution angst" cho rằng đảng cộng sản Việt Nam đã xác định kẻ thù số một là "diễn biến hòa bình".

Họ không sợ một cuộc cách mạng long trời lở đất mà sợ sự̣ xâm nhập, mưa lâu thấm đất (drip) của nền dân chủ tự do.

Ổn định được coi là giá trị trên hết nhưng các nhân vật trong Bộ Chính trị vẫn mất ngủ vì "diễn biến hòa bình".

Tranh tối tranh sáng

Sau thờ kỳ "bóng đêm của chủ nghĩa Stalin và Mao chế ngự tâm hồn đã vào quá khứ", cả Việt Nam và Trung Quốc vẫn không phải là các xã hội tự do.

Nhưng Roger Cohen, trong bài đăng báo hôm 25/05/09 vừa qua, viết rằng cả hai nước cũng không hẳn là phi tự do (un-free) tới mức công dân của họ phải "ngứa ngáy tìm tự do".

Trích lời một nhà nghiên cứu tại Trung Quốc, bài báo nói không gian mà thanh thiếu niên tìm chỗ giải tỏa không phải các cuộc biểu tình ngồi và là blog và Twitter.

So hai nước tác giả nhận định ở Việt Nam tình hình đỡ căng thẳng hơn và Việt Nam luôn cạnh tranh với Trung Quốc dưới vẻ bề ngoài là tình anh em.

Roger Cohen đồng ý rằng với mạng Google chiếm lĩnh không gian ảo, cách mạng kiểu cũ nay không còn chỗ.

Nhưng công nghệ cũng đã tước đi tính toàn trị của bộ máy.

Kinh tế thị trường và chủ nghĩa dân tộc
đã lấn chỗ của đòi hỏi dân chủ.

Điều chính quyền làm là lập ra các lằn ranh đỏ để kiểm soát tự do, chứ không dùng các trại lao cải như thời xưa ở Liên Xô.

Họ cũng lo sợ các tổ chức phi chính phủ NGO và những người Phương Tây có lý tưởng muốn thúc đẩy nhân quyền và nhà nước pháp quyền.

Chính những hoạt động này có nguy cơ phá hàng rào đỏ của đảng và thậm chí ăn vào các tế bào của hàng ngũ cán bộ.

Nhìn rộng ra bên ngoài châu Á, tác giả cho rằng Moscow, Bắc Kinh và Hà Nội đã tạo ra một phản ứng trước tinh thần cao thượng nhạt dần của Thiên An Môn và bức tường Berlin.

Sự kết hợp thị trường với chủ nghĩa dân tộc đanh thắng thế trước tự do và lá phiếu.

Nhưng đó là trước mắt.

Và Roger Cohen khuyên nước Mỹ hãy kiên nhẫn.

Vì về lâu dài, tầng lớp trung lưu vươn lên ở Việt Nam sẽ đòi hỏi nhiều hơn sự minh bạch, đòi hỏi luật lệ phải nhất quán, dịch vụ y tế phải tốt hơn, chế độ b*'t tham nhũng hơn.

Họ cần tự do ngôn luận nhiều hơn và ít các hàng rào, vạch cấm hơn.

Hệ thống độc đảng sẽ bị sức ép mạnh để đáp ứng cá đòi hỏi đó, và theo tiên đoán của tác giả, chính nhờ có nhiều "diễn biến hòa bình" mà dân chủ và tự do sẽ ngày càng tăng ở cả Bắc Kinh và Hà Nội một phần tư thế kỷ nữa.

Roger Cohen là một cây bút nổi tiếng thế giới, thường viết các bình luận quốc tế cho báo New York Times.



Ra mà xem: Con gì nó ngồi trong hang...!??? - Tiết Liêu

    “Ra mà xem:
    Con gì nó ngồi trong hang
    Nó quay cái lưng ra ngoài...
    Đó là con ...”
    (Trích đồng dao Việt Nam)
Tiết Liêu

Tin tức nóng hổi vừa thổi vừa ăn trong tuần cho biết trước áp lực nặng nề của công luận, đảng CSVN đã buộc lòng phải cho ghi vào chương trình nghị sự của kỳ họp thứ 5 quốc hội khóa 12 của nước CHXHCNVN vấn đề khai thác bauxite tại Tây Nguyên, đồng thời các vị đại biểu quốc hội đã nhận được “bản báo cáo số 91/BC-CP ngày 22/05/09 của chính phủ gửi quốc hội” (gọi tắt là bản báo cáo). Bài viết này xin làm sáng tỏ một số điểm trong bản báo cáo, mà vốn dĩ, đã được viết theo tập quán văn hóa ... tù mù, đúng tiêu chuẩn của đỉnh cao trí tuệ nước CHXHCNVN
Tón tắt vài điểm đáng bàn của bản báo cáo

Bản báo cáo đã được Thủ Tướng chính phủ ủy quyền cho ông bộ trưởng bộ Công thương Vũ Huy Hoàng ký ngày 22/05/09 dài ngót 10,000 chữ, chia làm 4 phân đoạn, mỗi phân đoạn đề cập đến hàng chục đề mục khác nhau (xin xem nguyên văn tại: http://bauxitevietnam.info/tulieu/090525_vnntoanvanbaocaocuachinhphu.htm). Đó là một bản báo cáo dài lê thê, cách viết lắc léo, tù mù, đã được giới chuyên gia đánh giá là “không chuyên nghiệp”, “Nó chứa đầy những luận điểm mập mờ, những dữ liệu sai sự thật nhằm đánh lừa các đại biểu Quốc hội, lừa dối công luận ....” (http://bauxitevietnam.info/diendan/090528_thaygiquabanbaocao-lbson.htm) và “chúng ta trông chờ gì, hy vọng gì từ một bản báo cáo được làm gấp, làm vội chỉ trong vòng 3 ngày? Không là gì cả, ngoài sự mâu thuẫn, lập luận lấp liếm, thiếu cơ sở khoa học và không thuyết phục được ai ....” (http://bauxitevietnam.info/diendan/090528_thaygiquabanbaocao.htm)

Để giúp bạn đọc ra khỏi mê hồn trận của bản báo cáo, và để đỡ tốn thì giờ vàng ngọc của quý vị, người viết chỉ xin điểm qua 3 “điểm cụ thể” mà bản báo cáo đề cập và “3 điểm nhắn gửi” mà bản báo cáo gửi đi như một “thông điệp” vừa cho “ai đó” vừa cho những Người Việt chân chính.

Những điểm cụ thể của bản báo cáo:

Bản báo cáo đã khẳng định các điểm sau:

1. Bùn đỏ không phải là chất gây độc hai:

Bản báo cáo viết:

“Kết quả phân tích bùn đỏ của bô-xít Tây Nguyên đã có kết luận tin cậy về thành phần bùn đỏ không có chất gây độc hại cho môi trường, không có chất phóng xạ và không thuộc loại rác thải nguy hiểm. Tuy nhiên trong phần dung dịch bùn đỏ còn lượng kiềm dư nhất định, độ PH≥12,5, lượng kiềm này có thể thẩm thấu, gây tác hại cho đất xung quanh và làm ô nhiễm nguồn nước, vì vậy phải xử lý huyền phù bùn đỏ theo tiêu chuẩn xử lý chất thải nguy hiểm.”

Nói nôm na cho dễ hiểu thì là “bùn đỏ chẳng có gì độc hại hết trơn hết trọi – nó không có chất phóng xạ, cũng chẳng là loại rác thải nguy hiểm ... vậy thì có gì mà phải lo! ...” quả thật là nói như vẹm! Nói mà không biết gượng, nói thể chẳng khác nảo nói: “phân người không có chất gây độc hại cho môi trường, không có chất phóng xạ và không thuộc loại rác thải nguy hiểm! Tuy nhiên trong phân có những vi khuẩn gây thối, có thể tác hại cho sức khỏe, vì vậy phải chứa nó vào hố phân ...!” nói cho cùng, so sánh như vậy cũng là khập khiễng, vì phân tuy hôi thối, mất vệ sinh, có thể gây bệnh truyền nhiễm, nhưng nếu qua chu trình carbon hóa, phân sẽ giúp làm đất thêm mầu mỡ, giúp cây cối xanh tươi, đơm bông kết trái ... còn bùn đỏ thì ... không có thuốc chữa, mười năm, trăm năm, ngàn năm vẫn là mối họa, không cây nào sống được với nó, không gì có thể khiến nó hết đi được sức độc hại. Hơn nữa, với những hố chứa bùn đỏ sau nhiều năm sẽ lên đến hàng triệu tấn, thì rồi vì một lý do nào đó hay lỡ mai đây chiến tranh nổ ra, cái hố chứa bùn bị trúng bom hay chất nổ, số bùn đó sẽ tự do đi vào sông suối, chảy xuống miền xuôi, thì các thành phố (trong đó có cả Sài Gòn) với hàng chục triệu con người sẽ sống chết ra sao? Các ông trong đảng CSVN hay các ông Trung Quốc nào đó sẽ nhảy ra chết thay cho dân chăng???

2. Tây Nguyên không phải là mái nhà Đông Dương, cũng chẳng có gì quan trọng về an ninh quốc phòng:

Bản báo cáo viết:

"... Đến nay, chưa có một quy định hoặc quyết định cụ thể nào của Quốc hội và Chính phủ về đưa Tây Nguyên vào địa bàn đặc biệt quan trọng đối với quốc gia về quốc phòng, an ninh" ...

Ha ha ha ... Hay đáo để! Viết như thế có khác gì đưa cha Võ Nguyên Giáp ra mà chửi. Viết như vậy có khác nào tống vào họng bộ chính trị đảng CSVN một trái B40! Rõ là các ông ngu như con chó! Các ông chỉ cả vú lấp miệng em, chứ Tây nguyên nào mà ghê gớm đến nỗi ”đặc biệt quan trọng đối với quốc gia về quốc phòng, an ninh”, chỉ vẽ chuyện. Giấy tờ đâu? Nghị định đâu? Luật lệ đâu? Chiếu theo điều số mấy? Của bộ luật nào? Ha Ha, rõ nhá! Nói phải có sách, mách phải có chứng! Rõ ràng "nà" ăn nói bậy bạ theo kiểu của bọn phản động để phá hoại tình hữu nghị Trung Việt 16 chữ vàng!

3. Hiệu quả kinh tế: Trước lỗ, thu hồi vốn sau 13 năm:

Bản báo cáo viết:

“Thời gian thu hồi vốn khoảng 13 năm, những năm đầu của dự án có một số năm lỗ (lỗ kế hoạch), tuy nhiên đánh giá cả đời dự án là có hiệu quả kinh tế.”

Ố là là ... Thế là các ông tiến sĩ kinh tế cỡ Vũ Quang Việt, Nguyễn Xuân Nghĩa phen này phải đớ lưỡi, hết có lên đài mà nhi nhô nữa nhá! Thấy người ta làm ăn đây này, có lỗ chút đỉnh đấy, nhưng chỉ là lỗ kế hoạnh thôi! Còn thì mà là rằng ta sẽ thu hồi vốn sau 13 năm và ta lại ... bỏ ra vài tỷ Mỹ kim để tân trang máy móc và lại tiếp tục ... lỗ hành chánh vài tỷ nữa! Biết chưa? Đồ con vẹt! Đồ nói láo như Việt Cộng! Biết thì thưa thì thốt, không biết thì dựa cột mà nghe! Hỡi các ông trí thức!!! Hãy giỏng tai lên: Làm kinh tế mà đòi có lời là ... ngu! Vì là “chủ trương nhớn” của đảng nên cứ làm, càng lỗ càng vinh quang! Miễn là đàn anh Trung Quốc khen “hảo” là OK Salem! Hãy mở mắt mà xem "chủ trương nhớn" của đảng, đã nướng 3 triệu thanh niên Việt Nam trong cuộc nội chiến nồi da sáo thịt, thế mà có chết con giáp nào đâu! Nhờ đảng quang vinh, đỉnh cao trí tệ loài người, đảng đã đưa Việt Nam đứng vào hàng các nước đói nghèo lạc hậu, chậm tiến nhất thế giới, thấy chưa!! Hàng năm đảng đem hàng chục ngàn cô dâu Việt Nam đi bán làm nô lệ tình dục, hàng trăm ngàn người Việt đi làm nô lệ khắp năm châu. Hỏi đã có thời đại nào trong lịch sử có tài buôn dân bán nước giỏi như đảng không? Rõ chưa! Sau 20 năm uýnh nhau, ai chết mặc ai, bây giờ ta ăn trên ngồi trốc, tại sao không buôn dân bán nước!?.. Hãy mở mắt ra mà xem đảng làm kinh tế: Càng lỗ càng có tiền bỏ túi, càng buôn dân càng mau giầu, càng bán nước càng có thêm quyền lực! Hiểu chưa? Hỡi những cái lưỡi gỗ!!!

Hết ý...

Thông điệp của bản báo cáo:

Người viết không đủ can đảm viết cho hết những cái siêu việt của bản báo cáo. Vậy xin đề cập đến một khía cạnh khác, đó là những thông điệp ẩn chứa phía sau

1. Tố cáo kẻ ném đá dấu tay:

Thật thế, bản báo cáo đã viết rõ rành rành là trong vụ này, chính phủ mà cụ thể là Bộ Công Thương chỉ là nạn nhân đưa đầu chịu báng! Vì chính Nguyễn Tấn Dũng đã nói rõ như ban ngày đây là: “chủ trương nhớn của đảng”! Trong báo cáo cũng ghi ngọn ngành là Dự án khai thác bauxite Tây nguyên chỉ là triển khai thi hành nghi quyết của Đại hội khóa IX và X của đảng CSVN! Vậy đánh rắn phải đánh ngay tại cái đầu, cớ sao cứ nhằm cái đuôi mà đập! Và cớ sao cái đầu lại xỏ lá đến nỗi "phủi tay" bằng cách ra Thông báo số 245 - TB/TW, mặc cho cái đuôi lãnh đạn đầy mình!

Hơn nữa, chuyện khai thác bauxite tại Đắc Nông đã được cam kết ngay trong Thông cáo chung của hai nước Trung Việt nhân cuộc thăm viếng Trung Quốc của Nông Đức Mạnh với Giang Trach Dân từ năm 2001! Rõ ràng là đảng CSVN hay đúng hơn là BCT đảng CSVN đã ném đá dấu tay! Và kẻ bị đưa đầu chịu báng đã dùng ngón "gậy ông đập lưng ông" để nhắc khéo rằng: Các ông có ngon thì cứ nhằm cái đầu mà đập! Sao lại khúm núm với bọn giả nhân giả nghĩa, rồi hung hăng con bọ xít với kẻ thừa hành! Thế mà cũng đòi trí với lại thức! Rõ nhảm! Đây là thông điệp rõ ràng cho cả BCT đảng CSVN lẫn những trí thức và các đại biểu quốc hội, cần vạch mặt chỉ tên đúng đối tượng, đó là đảng CSVN, nếu thật sự yêu nước và muốn cứu Việt Nam ra khỏi sự thống trị của Trung Quốc, thì phải vạch mặt cái bọn nằm vùng cho Trung Quốc là bộ chính trị đảng CSVN!

2. Thế tiến thoái lưỡng nan!

Của đáng tội, như đã nói trên, Nông Đức Mạnh đã thò bút ký Thông Cáo chung cam kết cùng đầu tư khai thác bauxite trên Tây nguyên với Trung quốc rồi bây giờ biết ăn sao nói sao với đàn anh đây?! Rõ ràng chỉ còn cách khẻ đầu Nguyễn Tấn Dũng mà dậy rằng: “Rán lên con, mẹ lỡ lấy tiền rồi !”. Dũng ta chịu oan nên phải dùng bản báo cáo này để gửi tới ... bàn dân thiên hạ nỗi oan của minh!. Cái thế em út nó nhục là thế! Làm sao mà đưa cái thằng ngu như lợn là Nông Đức Mạnh ra tòa, về tôi ký bậy, hứa bậy mà không thông qua quốc hội, cũng không thông qua Đại hội đảng. Bài học họ Đặng dậy cho năm 1997, vẫn còn ê ẩm, bác có sống dậy cũng dám dỡn mặt!? Vả lại, quá lắm là mất ... nước chứ ta có sứt mẻ gì dâu mà lo!

Tóm lại, làm cũng chết mà không làm cũng chết! Thế thì mặc xác tụi bay, tao báo cáo lếu láo cho qua, câu giờ cho phải phép, đợi cho lão Võ ... chuyển sang từ trần là yên chuyện!

3. Thú nhận sự bất lực của guồng máy cai trị của đảng CSVN:

Điểm quan trọng nhất là bản báo cáo đã đưa ra thông điệp cho công luận thấy rằng:

- Đảng CSVN đã không còn đủ quyền lực để khống chế hay bắt buộc các thành phần trong xã hội, kể cả đảng viên, đại biểu quốc hội, công chức nhà nước, quân nhân các cấp, các giới lãnh đạo tinh thần, báo giới và trí thức, phải răm rắp tuân theo mọi chủ trương, việc làm như trước đây. Nói cách khác đảng CSVN đã mất vai trò lãnh đạo như đã ghi trong hiến pháp! Đảng thật sự không còn là ông ngáo ộp để dọa nạt người nào được nữa. Qua vụ bauxite nay, đảng đã tự đào hố chôn mình!

- Chính phủ chỉ là tập hợp những thành phần xôi thịt, tham nhũng, hoàn toàn thiếu chuyên môn, kiến thức, trí thức và đạo đức như những tổng bộ trưởng của một chính phủ đúng nghĩa. Bản báo cáo vẽ ra một bức tranh thê thảm cho sự yếu kém của cái gọi là chính phủ nước CHXHChó Ngựa VN. Thử hỏi một tên công an cấp tỉnh như Nguyễn Tấn Dũng, đùng một cái, phải diện đồ lớn, nói chuyện tay đôi với những khuôn mặt như Hồ Diệu Bang, thì chịu sao nổi! Chưa nói trong bụng đã đánh lô tô thì còn trông mong nỗi gì? Thật khủng khiếp mà cũng thật rùng rợn, khi nghĩ đến những con người ấy, trình độ ấy, bản lãnh ấy, mà phải cai trị một quốc gia gần 80 triệu dân! Phải quản lý các dự án cả chục tỷ Mỹ Kim! Không sao có thể tin nổi!

- Ngôi nhà CHXHCNVN thật sự đang từ từ sụp đổ. Đúng như một sấp bánh tráng gặp cơn mưa! Không cần một tên phản động nào ngo ngoe nó vẫn cứ sụp! Không cần một ngọn gió nào nó vẫn cứ sụp! Nó sụp vì chính nó không còn sự sống! Nó sụp vì không có thuốc nào chữa nổi! Xã hội Việt Nam thời XHCN này là một xã hội không kỷ cương, vô chính phủ. Một xã hội từ anh xe ôm, chị bán hàng đến ông Tổng Bí Thư, Thủ Tướng đều đạp lên luật mà đi, ngồi xổm lên hiến pháp và luật pháp của chính mình. Một xã hội không còn tôn tri trật tự, lễ nghĩa và nhân cách, thử hỏi còn thuốc nào chữa được ? Thế nên, vô hình chung bản báo cáo đã kín đáo gửi đi một Thông điệp cho chúng ta biết mà sửa soạn đón ông chủ mới, ông chủ Đại Hán Trung quốc đã sẵn sàng tiếp thu lãnh thổ!. Cờ Trung quốc đã sẵn sàng có thêm ngôi sao nhỏ thứ 5 của Việt Nam góp mặt với ngôi sao Đại Hán to đùng!

Con gì nó ngồi trong hang?

Đến đây, chắc hẳn quý bạn đọc đã có được câu trả lời: Con gì nó ngồi trong hang?! Cũng vậy, quý vị cũng thừa hiểu ẩn ý của người viết khi dùng bài đồng dao trên làm tựa đề, vì thật sự bài đồng dao chỉ là một bài hát ngớ ngẩn, luộm thuộm, vòng vo, của bọn trẻ con. Tương tự thế, bản báo cáo của Bộ Công thương được Thủ Tướng ủy quyền trình cho Quốc hội nước CHXHChóNgựa VN, cũng chỉ là sản phẩm trẻ con, không phải là trí tuệ của một chính phủ trình lên quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của quốc gia, theo đúng nghĩa của nó!

Để kết luận, người viết xin ghi lại nguyên văn bài đồng dao vừa nghe được tại Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam:
    “Ra mà xem:
    Con gì nó ngồi trong hang
    Nó quay cái lưng ra ngoài
    Đó là ... Cu Dũng!
    Cu Dũng, Cu Dũng ... nó làm Bu Xít
    Nó quay cái khu ra ngoài:
    Made in ... China!!!”
Tiết Liêu
30/05/09



Cựu Thiếu Tướng Bùi Đình Đạm qua đời

(1926-2009)


Tin buồn:
Cựu Thiếu Tướng Bùi Đình Đạm
Cựu Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 BB
Thành Viên Hội Ðồng Tư Vấn TTCSVNCH Hải Ngoại

Đã vĩnh viễn ra đi trong giấc ngủ đêm qua
Rạng sáng ngày Thứ Bảy 30/05/2009
Vào khoảng 4giờ sáng tại nhà riêng


Số 1724 Ridge Tree Way San Jose CA 95131
Phone: 408-272-4176

Hưởng thọ 83 tuổi

***