Wednesday, May 27, 2009

BỆNH VÔ TÌNH và ÔNG TRỜI CÓ MẮT - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Buổi đại nhạc hội ngoài trời “Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH kỳ III” tổ chức tại San Jose tuần vừa qua, theo tin báo chí, đã rất thành công về mặt tài chánh. Nghe đâu Ban Tổ Chúc (BTC) đã thâu được trên nửa triệu dollars. Kết quả đó là điều rất đáng khen xét về mặt tổ chức. Trong khi báo chí và mọi người xem ra đều thỏa mãn với BTC thì có một tiếng nói nổi lên phê phán. Tiếng nói đó là của anh Nam Nhân qua bài viết “Ai vẽ thương binh VNCH đạp lên Quốc Kỳ VNCH”. Trong bài viết của anh, Nam Nhân không phê phán BTC về bất cứ khía cạnh nào khác ngoài vấn đề cái hình vẽ trên tấm panneau của đại nhạc hội (xin xem hình dưới dạng một con tem bưu chính bên cạnh).

Theo Nam Nhân, một người thương binh VNCH bước trên lá cờ vàng 3 sọc đỏ mà đi là chuyện không thể chấp nhận được, và anh kết luận: những kẻ cố tình bắt người thương binh VNCH dầy đạp trên lá cờ thân yêu của mình là những kẻ phản bội, kẻ lợi dụng, và là những con buôn chính trị.

Buổi chiều vào khoảng gần cuối tôi có ghé tính xem nhạc hội. Đến nơi, nhìn lên sân khấu thấy tấm fond người thương binh bước trên lá cờ, tôi bất giác cám thấy một cái gì nao nao khó chịu bèn bỏ ra về trong bụng thầm nghĩ “không khéo rồi lại có chuyện nữa đây”. Mà quả đã có chuyện thật.

Khỏi cần phải nói thì ai cũng thấy, trong cái xã hội tỵ nạn hỗn mang này, kẻ phản bội thật không thiếu, kẻ lợi dụng càng không phải ít, và con buôn chính trị thì nhiều còn hơn muỗi Năm Căn. Nam Nhân phê phán tấm panneau bằng những lời lẽ “phê phán” thì lại bị ông Lý Công Đạo phê phán lại bằng những lời lẽ nặng phần thóa mạ. Đúng là kẻ tám lạng, người “già” nửa cân.

Theo nhận xét thô thiển của kẻ hèn này thì hai người nhận xét và đánh giá bức fond bằng 2 giác quan khác nhau, và người nào cũng có cái lý của mình cả. Nói thế có thể cho là ba phải. Không, nó là thế này: Nam Nhân nhìn và đánh giá sự việc bằng cái đầu, trong khi ông Lý Công Đạo đi tìm chính mình (Công Đạo) bằng con mắt. Tiêu chuẩn của luận lý để tìm đến sự thật của hai giác quan đó không phải là cùng đồng nhất với nhau trong mọi trường hợp. Kết quả đánh giá có thể khác nhau rất xa tùy theo hoàn cảnh, thời gian, và không gian. Sự thật ở hai bên rạng núi Pyrénées cũng còn khác nhau nữa là. Đúng như ông Lý Công Đạo nói, tấm panneau là hình ảnh vẽ sao lại từ một con tem bưu chính của chính quyền Đệ II VNCH xưa kia. Chúng ta xưa từng là công dân của chế độ này. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Vậy thì cái logic đương nhiên phải là, nếu bây giờ chúng ta lấy và sử dụng lại một sản phẩm nào đó do chính thể VNCH chính thức để lại thì là đúng và hợp lý chứ tại sao lại chống? Tại sao lại phê phán này nọ? Nếu có ai phê phán thì người đó phải là CS chứ làm sao người tỵ nạn lại làm như thế được? Lý luận đó là logic của con mắt.

Nhưng logic của cái đầu thì lại khác. Thử hỏi có phải hễ thấy sản phẩm nào của VNCH để lại là người tỵ nạn chúng ta cứ việc yên tâm nhắm mắt xài và có quyền tin tưởng rằng việc đó là luôn luôn đúng và chính đáng không? Người viết xin cảnh giác ngay rằng chớ thấy đỏ mà tưởng là chín. Có rất nhiều cái là sản phẩm của VNCH nhưng thực tế lại do VGCS làm ra dưới nhãn hiệu “made in VNCH”. Thứ đồ giả này hiện nay đang tràn ngập thị trường. Chỉ riêng trong lãnh vực văn hóa thôi, người viết xin đưa ra một số ấn loát phẩm ngày xưa làm thí dụ:

- Tác phẩm Cho Cây Rừng Còn Xanh Lá của ông cựu linh mục Nguyễn ngọc Lan,

- Tác phẩm 20 Năm Xây Dựng Chủ Cộng Sản Trên Đất Bắc của ông linh mục Trương bá Cần,

- Nhiều bài hát của tên nhạc sĩ Trịnh công Sơn như: Đại Bác Ru Đêm, Hát Trên Đỉnh Xác Người, Đàn Bò Vào Thành Phố v.v.,

- Các tờ báo Tin Sáng, Đại Dân Tộc của một số các ông bà dân biểu, nghị sĩ,

- Tờ Sống Đạo của nhóm Thanh Sinh Công,

- Tờ Đối Diện của nhóm sinh viên câu lạc bộ Phục Hưng.

Và còn rất nhiều nữa kể ra thì dài dòng. Phần lớn các văn hóa phẩm nói trên đều không nhiều thì ít, không gần thì xa, không trực tiếp thì gián tiếp công kích chính nghĩa tự vệ của quân dân VNCH. Và ngược lại, ca tụng VGCS miền Bắc và cuộc xăm lăng vào miền Nam của chúng. Điều cần lưu ý là tất cả các ấn phẩm trên đều đã được bộ Thông Tin VNCH kiểm duyệt và cho phép ấn hành, được bầy bán công khai trong các tiệm sách để cho mọi người có thể đọc hoặc hát trên các đài, các sân khấu. Như thế rõ ràng chúng đều là văn hóa phẩm của VNCH cả đấy. Nhưng người tỵ nạn chúng ta sẽ cho là CS hoặc tay sai CS nếu bây giờ có người nào đó đem các sản phẩm văn hóa nói trên ra làm kinh tài để giúp cho thương phế binh của chúng ta còn kẹt lại trong nước. Cho dù gười đó có biện minh rằng đó là của chế độ VNCH để lại chúng ta cũng sẽ chẳng nghe.

Vấn đề ở đây là tìm hiểu xem con tem người thương binh chống nạng bước đi trên lá Quốc Kỳ đóng nhãn hiệu nào, nhãn made in Saigon thực sự hay đồ giả đóng nhãn made in VNCH nhưng được sản xuất ở Hànội. Cần phải lý giải thế nào cho công bằng và hợp lý, vì nó công khai là một sản phẩm văn hóa của VNCH để lại.

Trước hết và trên hết nên biết rằng người lính đem tính mạng của mình ra để bảo vệ lá cờ là một lý tưởng và là bổn phận. Anh tôn quý lá cờ còn hơn sinh mạng của chính mình. Như vậy đối với người thương binh, lá cờ phải có một vị trí xứng đáng của nó chứ không thể đem nó trải trên lối đi cho bất cứ ai, kể cả anh, cũng có thể bước qua, dù là để đi tìm tương lai cho cuộc đời còn lại sau khi người đó đã làm tròn bổn phận đối với đất nước. Như vậy thì làm sao anh thương binh có thể nhẫn tâm bước trên lá cờ mà đi. Có ai tìm ra được ý nghĩa chính đáng đủ sức thuyết phục của việc một người thương binh bước trên lá cờ mà đi tôi xin rút lại bài viết này và xin lỗi độc giả vì sự ngu dốt của mình. Đối với tôi, lý tưởng phục vụ của người thương binh và việc anh bước đi trên lá cờ mà anh từng phục vụ trái nghịch nhau, hoàn toàn không thể đồng nhất với nhau được. Nói cách khác, hành vi đạp chân trên lá cờ và ý nghĩa đích thực của con tem (cho dù người ta có gán cho nó một ý nghĩa tốt đẹp nào đó) không thế nào phù hợp với nhau được, vì việc đạp chân trên lá cờ tự thân nó đã là một hành vi phản bội rồi. Từ đó có thể hiểu được rằng nếu thời VNCH đã có những văn hóa phẩm phản chiến như đã nói trên kia thì việc xuất hiện và lưu hành một con tem mang mầu sắc phản động (chống lại Quốc Kỳ) không có gì là ngạc nhiên cả. Bộ thông tin còn cho phép ấn hành các tác phẩm phản chiến đâm sau lưng chiến sĩ, thì tổng nha Bưu Điện cho ra loại tem người thương binh bước trên lá cờ là chuyện chẳng có gì lạ. Sự thể có thể giải thích là hoặc do có VGCS trà trộn vào để phá hoại, hoặc là vì những người lãnh đạo các cơ quan liên hệ quá ngu dốt về chính trị, cứ thấy đẹp mắt là tốt rồi, bất kể đến ý nghĩa của công việc. Guồng máy cai trị bị CS lũng đoạn hay đất nước được lãnh đạo như thế từ trên xuống dưới, kết quả ra sao chúng ta đều đã thấy. Như vậy, dùng cái đầu mà nhìn và đánh giá tấm panneau của nhạc hôi như Nam Nhân thì mới thấy cái logic mà ông Lý Công Đạo nêu lên (vẽ lại từ con tem của VNCH nên chính đáng và có quyền dùng) để biện minh việc làm của BTC nhạc hội chẳng logical tí nào cả.

Mặt khác, theo kinh nghiệm và như người ta thường nói “thời nào kỷ cương nấy”, mỗi thời ý thức chính trị của người VN mỗi phát triển tới một mức độ cao hơn. Hai sự việc giống nhau, nếu một xẩy ra ngày chúng ta chưa mất nước, và một xẩy ra trong tình trạng tỵ nạn của chúng ta hiện nay thì mỗi việc sẽ được nhìn và đánh giá theo mỗi cách, chắc chắn không thể như nhau được. Ngày trước nếu có ai đó phản đối chính quyền bằng cách dầy đạp lá cờ thì phần đông chúng ta bất quá cũng chỉ kết tội là một hành động quá đáng. Chính mắt kẻ hèn này nhìn thấy những sinh viên đi biểu tình chống chính quyền liệng những lá Cờ Vàng xuống cống rãnh hoặc xuống đường rồi thản nhiên bước qua mà nào có ai phản đối gì đâu. Thời Đệ II Cộng Hòa, bọn phản chiến Mỹ sang Saigon nhập bọn với lũ thanh niên sinh viên phản chiến Việt Nam. Chúng nghênh ngang trên đường Tự Do vừa đi vừa gào thét “Not War, Peace Now”, rồi chúng đốt cờ Mỹ, xé cờ Việt, thế mà người dân VN vẫn không lên tiếng. Thế nhưng ngày nay tại hải ngoại, nếu có kẻ nào dám đốt hay xé lá Cờ Vàng 3 Sọc Đỏ giữa cộng đồng tỵ nạn, tôi dám bảo đảm người đó sẽ không còn cơ hội nhìn ánh sáng mặt trời nữa. Rõ ràng là qua những kinh nghiệm đau thương, người tỵ nạn đã nhận ra rằng lá cờ là tiêu biểu cho đất nước, cần phải biết trân quý nó. Nước đã mất, chỉ còn lại có lá cờ tượng tưng, làm sao để mất nó luôn được. Nếu không biết trân quí chút quê hương còn lại đó thì sẽ mất sạch. Người tỵ nạn trân quý và bảo vệ lá Cờ Vàng là vì vậy. Trương hình ảnh người thương binh buớc đi trên lá cờ là một việc làm hoặc là vì ngu dốt, hoặc là có một ẩn ý đen tối nào đó.

Và cuối cùng, giải thích theo cảm tính thông thường cũng vẫn đưa đến kết luận tương tự. Ngày trước tổng nha Bưu Điện vẽ người thương binh bước trên lá cờ đi về hướng mặt trời mọc cứ cho là mang một ý nghĩa tích cực đi. Nhưng nay việc trình bầy lại cái hình ảnh người thương binh bước trên lá cờ gây cho người xem cái cảm giác khác rồi. Đó là một biểu thị sự nhục mạ lá cờ. Nếu không có con tem cũ làm chứng thì người họa sĩ và BTC đại nhạc hội chẳng còn cách nào để biện minh. Sử dụng lại một tấm ảnh cũ như thế dễ dàng đưa đến nghi kỵ dù là để cổ võ cho một việc làm chính đáng vẫn là một quyết định thiếu thận trọng và thiển cận. Rõ ràng cũng vẫn là một con tem ngày xưa không ai quan tâm ý nghĩa của nó, nhưng bây giờ thực tế là làm mất lòng người và gây nghi kỵ. Chỉ một tấm hình thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn tên CS Bẩy Bốp đã làm sôi sục nước Mỹ và dư luận Mỹ trở thành phản chiến. Ngày nay nếu bọn phản chiến có dựng lên khắp nước Mỹ hàng trăm hàng ngàn tấm billboard tướng Loan bắn Bẩy Bốp chắc chắn dư luận Mỹ cũng sẽ cho là trò stupid thôi. Rõ ràng sự cảm xúc của con người đã thay đổi tùy theo hoàn cảnh và thời gian. Cho nên Nam Nhân hay bất cứ một ai lên tiếng phê phán BTC đại nhạc hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH kỳ III là chuyện dễ hiểu. Lúc nào rồi mà các ông tướng, ông tá còn đem cái hình dễ gây dị nghị kia ra mà cỏ võ cho một công việc dù là chính đáng. Các ông bị phê bình thì cũng chẳng có gì là oan ức. Có phải các ông vì muốn kiếm một chút hư danh cuối đời, hay vì quá hời hợt hoặc vô tư mà tự động đưa đầu vào một âm mưu thầm kín nào đó. Các ông và BTC đáng phê phán ở chỗ thiếu hẳn tính bén nhậy trong việc nắm bắt tâm lý và nguyện vọng của quần chúng.

Lại nữa, chúng ta cũng nên lấy những cái thông thường làm căn cứ mà đánh giá một sự việc. Trong bất cứ tập thể nào, nhỏ bé như một đoàn hướng đạo, lớn hơn thì như một đạo quân chẳng hạn, và lớn hơn nữa là toàn thể công dân của một quốc gia, các đoàn viên trong các tập thể đó xưa nay và luôn luôn như thế, chỉ có bước theo cờ mà tiến tới, chứ chẳng bao giờ bước trên cờ” mà đi bao giờ cả. Ngày còn nhỏ, đoàn hướng đạo của tôi thường hát “nêu cao lá cờ hướng đạo đạo nhuộm oai hùng, sáng ngời, ta cùng đi, cùng xây đời mới ….”. Khi vô nhà binh cũng vậy, đơn vị bao giờ cũng là lá cờ đi đầu rồi cả đoàn quân mới theo cờ mà đếm bước. Người ta chỉ thấy một tập thể phất cờ để cổ võ và thúc đẩy đoàn viên chứ có tổ chức nào trải cờ để khích lệ tinh thần đoàn viên cả. Tôi cho là một chuyện quá sức quái đản nhà họa sĩ nào đó lại có cái sáng kiến vẽ con tem hình một người thương binh chống nạng bước đi trên lá cờ để tìm đến chân trời tươi sáng trước mặt. Nó trái với lý lẽ thông thường và tất yếu là “bước đi theo cờ” như vừa trình bầy. Và tôi cũng không thể hiểu được tại sao nhà chức trách liên hệ thời Cộng Hòa lại cho phổ biến một con tem phản thường tình như thế. Chế độ có những người lãnh đạo thiển cận như vậy thì mất nước là chuyện đương nhiên thôi. Người ta càng không hiểu tại sao ngày nay những ông tướng, ông tá, những người đã dầy dạn kinh nghiệm về CS, những nhà hoạt động cộng đồng lại cũng vẫn nhắm mắt bổn cũ soạn lại một hình ảnh đã lỗi thời và mang tính phản động như thế.

Đại nhạc hội năm nay lại cũng như thường lệ, “vô tình” rơi vào đúng dịp mừng sinh nhật của “thằng bác chó đẻ”. Xưa nay đã có rất nhiều chuyện vô tình “dễ thương” như thế xẩy ra. Lại cũng vẫn là những con người đó, họ mắc phải chứng “bệnh vô tình” này đã quá nặng, cứ phải đi phải lại hoài mà không thuốc thang nào chữa hết. Rất tiếc ngành y khoa thượng đẳng của nước Mỹ cũng vẫn chưa tìm ra nguyên nhân của chứng bệnh nan y này. Tuy nhiên qua luật bù trừ, Tạo Hóa đã cho những người mắc chứng bệnh này một trí năng khác để đền bù, tức là biết lấy cái cố ý mà khắc chế cái vô tình. Đại khái cũng như trong võ thật, người ta sáng chế ra cách đánh lấy vô chiêu để thắng hữu chiêu vậy. Người viết không biết loại trí năng này gọi là gì và phải diễn tả thế nào cho đúng, nhưng cứ để ý mà xem, vô tình mừng sinh nhật “thằng bác chó đẻ” nhưng lại cố ý quyên tiền cho thương binh VNCH. Thật hết xẩy. Bố thằng tỵ nạn nào dám léng phéng vào đây mà kiếm chuyện được. Chịu thua. Đúng là ông Trời có mắt.


Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


Trịnh Công Sơn Và Những Hoạt Động Nằm Vùng - Liên Thành

Liên Thành

Trong mấy tuần qua, tôi có đọc 2 bài viết của Trịnh Cung, tức Nguyễn văn Liễu, và bài của anh Bằng Phong Đặng Văn Âu, viết về nhạc sĩ TCS. Trịnh Cung viết: “Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị.”. Bằng Phong Đặng văn Âu viết:“Nhạc Sĩ Trinh Công Sơn. Một Thiên tài đồng lõa với tội ác”. Hai tác giả với hai bài viết nói về TCS, nội dung khác nhau, nhưng hầu như cả hai đều đưa ra chỉ một vài dữ kiện, hoặc khách quan, hoặc chủ quan, qua tình bạn của họ đối với nhạc sĩ TCS. Để rồi, Trịnh Cung và Bằng Phong Đặng văn Âu đều không kết luận được, hoặc là không muốn kết luận, một điều quan trọng nhất: Trịnh Công Sơn bên nào? Bên này ? Bên kia? Hay nói trắng ra là: Trịnh công Sơn là ai? Quốc gia hay cộng sản?

Đã bao năm qua, kể từ sau 1975, và mãi đến những ngày gần đây, tôi vẫn giữ thái độ im lặng. Nhưng sau khi đọc xong bài của Trịnh Cung, cũng như của Bằng Phong Đặng văn Âu, tôi quyết định lên tiếng về những gì, mà vì lý do nghề nghiệp, tôi đã phải nắm rất tường tận về TCS. Lý do thì cũng đơn giản, quý vị có thể hiểu được khi đọc xong bài này.

Cuối cùng thì giờ đã điểm. Qua bao nhiêu ca ngợi, bao nhiêu tranh cãi, lý luận, có lẽ, đã đến lúc TCS nên trở lại với những gì của TCS. Đó là SỰ THÂT VỀ CON NGUỜI TCS. Trong một bối cảnh mà đất nước đang nghiêng ngã tang thương bởi nhiều vấn nạn, cộng với một thảm họa tày trời: SỰ XÂM LĂNG CỦA TOÀN BỘ LỰC LUỢNG CS QUỐC TẾ, ĐẶC BIỆT LÀ TRUNG CỘNG, QUA BÀN TAY CS HÀ NỘI, Trịnh Công Sơn đã cống hiến gì cho quốc gia?

Giữ nhiệm vụ trưởng cơ quan an ninh tình báo Thừa Thiên- Huế từ 1966 đến đầu 1975, tôi có bổn phận phải chịu trách nhiệm chính về vấn đề gìn giữ an ninh trật tự, bảo vệ sinh mạng và tài sản cho đồng bào trong tỉnh. Và trên hết mọi chuyện, là đối phó với cục Tình Báo chiến lược Bắc Việt, lồng vào đó là một mạng lưới tinh vi và dày đặc CS nằm vùng tại Huế. Thật không sai khi nói Huế là một ổ nằm vùng. Do vậy, có lẽ chúng tôi là người “may mắn”(?!) PHẢI có bổn phận “BIẾT” rất “kỹ” về TCS và toàn bộ những phần tử hoạt động CS khác của Huế. Tôi biết TCS và nhóm người nối giáo cho giặc này, dưới tất cả các khía cạnh khác nhau.Từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, từ thói quen đến phẩm hạnh, đến tiểu sử, đến gia đình, thậm chí, nếu cần, thì cả gia phả vv, tôi đều có bổn phận phải biết. Và tôi sẽ lên tiếng một cách thẳng thắng, về những sự việc, thông tin, dữ kiện mà chúng tôi có được về đương sự trong bài viết này. Hy vọng, sẽ cung cấp cho lịch sử, và cho những ai quan tâm đến vấn đề TCS, cũng như các hoạt động chung của đương sự với các phần tử nằm vùng khác tại Huế, mà dù yêu, dù ghét, dù hận thù, dù ngưỡng mộ tôn sùng, dù căm phẫn.... những thông tin chính xác và cần thiết, để quý vị có thể tự mình thẩm định, lại một cách đúng đắn, về con người TCS. Bởi vì, mỗi con người chúng ta, dù thế nào đi nữa, không ai muốn bị BỊP cả!
Trịnh công Sơn bên nào: Bên này ? hay bên kia ? Quốc gia?, Cộng sản?

Trước khi xác nhận cũng như công bố nhiều chuyện liên quan đến TCS, xin được phác họa lại tình hình an ninh và nội chính của Thừa Thiên-Huế, sau ngày 1/11/ 1963:

Sau đảo chánh, ảnh hưởng và thế lực chính trị của PG Ấn Quang, và đặc biệt Trí Quang, Đôn Hậu đối với chính quyền trung ương cũng như địa phương, và trong hàng ngũ tín đồ Phật giáo tại miền trung, nhất là tại Huế, QUÁ MẠNH!

Chùa Từ Đàm trở thành Dinh Độc Lập II, đó là trung tâm quyền lực thật sự cho cả Miền Nam VN. Tại miền trung, chùa Từ Đàm là tàn cây cổ thụ đầy bóng mát, che chở cho mọi hoạt động của các cơ quan dân vận, tôn giáo vận, trí thức vận, tổ chức học sinh, sinh viên “Giải Phóng” thành phố thuộc Đại Học Huế và các trường Trung học. Tất cả đều nằm dưới sự điều động của tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế và Thành ủy Việt cộng.

Hầu như không có một cơ quan an ninh nào của chính phủ VNCH dám sờ vào các ổ nằm vùng gần như công khai này. Họ chỉ lấy vải thưa để che mắt thánh, nhưng thật tình không ai dám đụng đến họ cả. Nếu đụng đến họ, sẽ bị lu loa là “tàn dư Mật Vụ Nhu Diệm”, là “đàn áp Phật Giáo”, là TÀN ĐỜI! Mọi tổ chức, mọi cơ sở nội thành của Việt Cộng được phát triển hết năng xuất. Tất cả là nhờ tài điều binh khiển tướng của Trung Tá điệp Viên Hòang Kim Loan, thuộc Cục Tình báo Chiến lược Bắc Việt. Trung gian liên lạc là bí thư thân tín của Thích Trí Quang: Nguyễn Khắc Từ. Sau 1975, Nguyễn Khắc Từ lộ diện là viên đại tá Việt Cộng. Hổ trợ tận tình cho Hoàng Kim Loan là Trí Quang, Đôn Hậu.

Có thể nói từ 1963, sau đảo chánh, đến 1966, là thời gian nổi lọan Miền Trung của Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu. Ba năm oan nghiệt này là thời đại mạt vận của tất cả các cơ quan tình báo dân sự cũng như quân sự của chính phủ VNCH. Trí Quang, Đôn Hậu và hệ thống rất lớn các “thầy tranh đấu” của họ, đã xóa sổ các cơ quan tình báo xuất sắc của chính phủ, tại nhiều nơi. Đặc biệt thảm hại nhất là tại Thừa Thiên- Huế. Hủy diệt các cơ quan tình báo có nghĩa là mở đường cho CS tự do ra vào, có nghĩa là sinh mạng Miền Nam đang hấp hối!

Trước 1963, Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung do ông là do ông Dương văn Hiếu làm trưởng đoàn. Nhưng, người chỉ huy thật sự bên trong lại là ông Ngô đình Cẩn. Ông là một người có năng khiếu thiên phú về tình báo, dù chưa hề qua một trường lớp đào tạo chính quy nào. Có thể nói đây là một năng khiếu bẩm sinh kỳ lạ của ông, đặc biệt là năng khiếu chống du kích chiến và chống dấy loạn trong thành phố. Cơ quan tình báo tinh nhuệ này đã phá vỡ và bắt giữ hầu như toàn bộ các cán bộ tình báo cao cấp của Bắc Việt gởi vào miền Nam. ĐCTĐNMT đã bẽ gãy mọi mưu toan của Hà Nội về chính trị cũng như quân sự, nhất là mục đích phá rối chính trị để làm suy sụp Miền Nam. Xin dẫn chứng tài năng và công lao rất lớn của ông Ngô đình Cẩn, qua lời nói của đối thủ: đại tướng CS Văn Tiến Dũng: “ Dưới thời Diệm, ta đã gởi vào Miền Nam 60 ngàn cán bộ, cuối cùng chỉ còn 5 ngàn, như vậy là thiệt hại đến 90%”. Sau khi ông anh là TT Diệm bị đảo chánh, bị đám tuớng lãnh phản loạn bất chấp luật pháp, bất chấp kỷ cương phép nước, bất chấp đạo lý, bất chấp tình người giết, thì ông em út cũng bị cùng chung số phận! Tòa án gì đây? Luật pháp gì đây? luật của Trí Quang? Luật của Đôn Hậu? Luật của cái gọi là “Phật Giáo đấu tranh”?? Tội gì thưa quý vị? Tội bắt nhiều CS! Ông Dương văn Hiếu, nhờ có ông Cẩn thế mạng rồi, nên quý thầy hơi khó làm áp lực giết thêm nữa. Sau đó, nhờ “đế quốc Mỹ xâm lược” can thiệp, nên chỉ bị tù.

Một cơ quan tình báo tinh nhuệ, đặc biệt, và bí mật khác, do ông Phan Quang Đông chỉ huy cũng bị xóa sổ. Cơ quan này hoàn toàn chỉ liên quan đến những điệp vụ quan trọng ngoài Bắc mà thôi. Họ không hề dính dáng gì đến chuyện đàn áp Phật Giáo cả, cũng bị Thích Trí Quang vu vạ rồi giết. Theo lệnh Hà Nội, Trí Quang áp lực, yêu cầu chính phủ đương nhiệm, qua trung gian Nguyễn Chánh Thi, tử hình Phan Quang Đông, một viên chức chỉ huy tình báo tài ba xuất sắc, với tội “Mật vụ Nhu Diệm”!

Cơ quan tình báo thứ 3 họat đông rất hữu hiệu tại Huế, là Ty Công An Thừa Thiên của chính phủ VNCH. Số phận cơ quan này cũng bi thảm không kém. Ông Lê Văn Dư Trưởng ty bị bắt giữ.

Hầu hết nhân viên phụ trách tình báo của 3 cơ quan này, hoặc bị sa thãi, hoặc bị bắt, hoặc bị thuyên chuyển khỏi các chức vụ trọng yếu. Tất cả cũng với tội danh tương tự: “Mật vụ Nhu-Diêm, đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy v,v…”

Sau khi loại trừ sạch các thành phần “Mật vụ Nhu Diệm ác ôn”, các thầy liền thay vào cái bình cũ là cơ quan tình báo của VNCH, loại rượu mới do quý thầy bào chế ra, đó là “rượu nằm vùng”!!

1. Nguyên Quận Trưởng Cảnh Sát Nguyễn văn Cán, một cơ sở tình báo rất quan trọng của Trung tá điệp viên CS Hoàng Kim Loan, được phong làm truởng ty CSQG Thị xã Huế. Ngoài ra, Nguyễn văn Cán còn là cơ sở nuôi dưỡng tên Phan Nam, Thành ủy viên thành ủy Việt Cộng Huế, đặc trách an ninh của cơ quan thành ủy VC, trú ngụ thường xuyên trong nhà của Nguyễn văn Cán. Sau 1975 Phan Nam làm Chủ Tịch Ủy ban nhân dân thành phố Huế.

2. Trần văn Cư, đệ tử thân tín của Ông Đôn Hậu, được phong làm trưởng ty Công An Thừa Thiên. Trần văn Cư chính là người thẩm vấn thụ lý nội vụ ông Phan Quang Đông. Thừa lệnh CS Hà Nội, Đôn Hậu, và Trí Quang ngầm ra lệnh cho chính quyền, xử bắn Phan Quang Đông tại Sân Vận Đông Tự Do, thuộc quận III thị Xã Huế, với tội danh : ” Mật vụ Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo thủ tiêu Quí thầy,v.v…”

Đau đớn và cười ra nước mắt, là từ 1966 đến 1968, hai ty Cảnh Sát lại giao cho hai tay nội tuyến Việt Cộng: Ty CSQG tỉnh Quảng Trị thì Trưởng ty lại là Đại Úy Lê Cảnh Thâm, làm việc cho cơ quan Quân Báo của VC. Ty CSQG Thừa Thiên-Huế thì Trưởng ty là Đoàn Công Lập, nhân viên thuộc cấp của Trung tá điệp viên CS Hoàng Kim Loan.

Khoảng thời gian dài này là thời hoàng kim tuyệt đỉnh của các hoạt động CS nằm vùng. Chỉ cần dán nhãn hiệu “Mật vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy” cho kẻ thù, là mọi việc xong ngay! Cả Miền Nam hoang mang, lo sợ, điêu đứng, biết bao thân phận bị vùi dập, cũng vì cái khẩu hiệu này.

Sau khi 3 cơ quan tình báo trọng yếu và vô cùng hữu hiệu này bị “các thầy” xóa sổ, các tổ chức cơ sở Việt Cộng trong thành phố Huế sinh sôi nẩy nở, phát triển tự do như rạ, như nấm. Chính quyền tuy biết, nhưng không dám đụng đến, vì sợ đụng chạm đến Phật Giáo. Sợ đến kinh hoàng mấy chữ “Mật thám Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo”. Quý thầy đã thật sự thành công trong việc tự tôn, tự đồng hóa “CÁC THẦY LÀ PHẬT GIÁO”. Nói đến đây tôi không khỏi không bật cười, nhớ đến chuyện cũng tương tự như vậy. Đó là chuyện trên 30 năm nay, đảng CSHN cũng đã tự đồng hóa mình là tổ quốc! Và CS cũng đã thành công! Quý thầy cũng thành công!

Đại đa số các tổ chức CS như thế và hầu hết những kẻ tham gia trong các tổ chức đó, đều đã được Trí Quang, Nguyễn Khắc Từ, Hoàng Kim Loan bọc cho cái vỏ tôn giáo. Tỷ dụ như Liên Đoàn Học sinh, Sinh viên Phật tử, công chức Phật Tử, Quân nhân Phật tử, Cảnh sát Phật tử, Tiểu thương Phật Tử chợ Đông Ba v..v...

Thành phố mọc lên như rạ những địa điểm hội họp, tiếp xúc, của nhiều trí thức, giáo sư , sinh viên, học sinh, họat động cho các tổ chức trí thức vận, tôn giáo vận của Thành ủy Huế. Những địa điểm nầy trong danh từ chuyên môn chúng tối gọi là những “căn cứ lõm” của địch, tỷ như:

1- Quán Café “Bạn Tôi.”

Ở đường Đào duy Từ, tại vùng Đập Đá thuộc quận III thị xã Huế. Thành lập bởi Lê văn Sâm, SV luật khoa, chủ quán. Có Ngô Kha, vợ chồng Giáo sư Đỗ Long Vân ở Pháp về, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn hữu Ngô, nhà văn Túy Hồng, Phan Duy Nhân, Trần Quang Long.

2- Lực lượng Giáo chức tranh đấu tại Huế:

Chủ tịch, kiêm chủ bút diễn đàn báo Dân là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phó chủ tịch là Giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm.

Ngoài ra còn có tờ Sinh Viên Huế của tổng hội SV Huế, và tờ Lập Trường của nhóm trí thức đại học Huế, do giáo sư Tôn Thất Hanh làm chủ nhiệm

Chủ trương: Chống lại cái gọi là “Chế độ Diệm mà không Diệm”.
Quý vị độc giả, ai là người uyên thâm, xin hãy diễn giải và dẫn chứng ràn rẽ, cụ thể, chứng minh dùm tôi, cụm từ “ Diệm mà không Diệm"
này! Tôi chịu thua. Những lộng ngôn này là do ai làm ra? Ai sáng tác? Ai nghe theo? Mục đích là gì? Phá nát tất cả các chính quyền Miền
Nam? Bất kể là ai lãnh đạo? Tổng thống Ngô đình Diệm đã bị họ gián tiếp giết, phong cho danh hiệu mang đầy tính tội ác, rùng rợn, răn
đe: “Mỹ Diệm”, “Mật vụ Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy”. Đất nước sau đó tang thuơng đổ vỡ, chính trị rối loạn, nhưng
vẫn chưa vừa lòng. Thừa thắng xông tới, họ răn đe các chính quyền kế tiếp khác bằng khẩu hiệu mang tính bình mới rượu cũ: “
Diệm mà không Diệm”. Chỉ đơn giản vậy, nhưng buồn cười thay, một loạt các chính quyền sau đó đều xếp re, không dám hó hé với nhóm
“ Phật Giáo Đấu Tranh” này.

3- Tuyệt Tình Cốc.

Nằm tại hẽm Âm Hồn thuộc quận I thị xã Huế. Nguyên là ngôi nhà của cha mẹ Hòang Phủ Ngọc Tường, Hòang Phủ Ngọc Phan. Sau khi hai ông bà dời nhà ra gần cửa Đông Ba, anh em Tường, Phan biến nơi nầy thành trung tâm hội họp hoạt động của đám sinh viên, trí thức cơ sở thành ủy VC Huế.

Tuyệt tình cốc là một ngôi nhà tranh, trong một khu vườn nhỏ có cây ngoc lan. Nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tuờng, Ngọc Phan đã đặt tên cho cây ngọc lan này là “Cây hoa tình”, và ngôi nhà kia là “Tuyệt tình cốc”,vay mượn trong tác phẩm kiếm hiệp Thần điêu đại hiệp của tác giả Kim Dung
Tuyệt tình cốc thường xuyên do anh em Hòang Phủ Ngọc Tường chủ trì sau nầy còn có họa sĩ Đinh Cường. Trịnh Công Sơn, nữ văn sĩ Túy Hồng, Ngô Kha, Trần vàng Sao, Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân, Trân Xuân Kiêm, chủ tịch tổng hội sinh viên Huế,cũng đã xuất hiện nhiều lần tại đây. Hầu hết đám này là cơ sơ sinh viên và trí thức vận của thành ủy Huế.

Tuyệt tình Cốc cũng là nơi xuất bản tờ báo Việt Nam Việt Nam của nhóm trên, trong khoảng thời gian phong trào tranh đấu Miền Trung của Thích Trí Quang, giai đọan cao điểm vào đầu hè 1966.

4-Căn phòng của Lê Văn Hảo,

Giáo Sư nhân chủng học, Đại Học Huế cũng là nơi mà Hoàng phủ Ngọc Tường và đám sinh viên họat động cho Thành ủy VC dùng làm nơi viết và xuất bản báo chí.

Vô số những trí thức, học sinh, sinh viên hoạt động cho VC tại thành phố Huế. Họ tham gia sách động, trong vai trò lực lượng quần chúng: Cách Mạng đấu tranh của biến cố 1963, rồi cuộc tranh đấu bạo động 1966. Hãy nhìn, để phải giật mình tự hỏi: “Huế không mất vào tay CS trước Mậu Thân 1968 thì quả thật là một phép lạ.”. Hãy nhìn danh sách một ổ việt cộng nằm vùng dưới đây:

- Nguyễn Thiết Sinh viên Luật Khoa phụ trách Thanh niên Thành ủy Huế thóat ly lên Mật khu 1965
- Trần Quang Long: SV Việt Hán Đại Học sư phạm thoát ly năm 1968.
- Lê Minh Trường Sinh Viên Mỹ Thuật: vượt ngục lên mật khu, sau đó xâm nhập tái họat đông bị lực lượng CSĐB phục kích bắn chết tại làng Hải Cát Hạ, quận Nam Hòa.
- Vĩnh Kha. SV văn Khoa: chũ tịch Tổng hội SV, đoàn trưởng đoàn Sv Phật Tử.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường: giáo sư.
- Hòang Phủ Ngọc Phan: SV y khoa.
- Nguyễn Đính: SV văn khoa, bút hiệu Trần vàng Sao.
- Phạm thị xuân Quế: bác sĩ. Chủ tịch hội phụ nữ thành phố Huế.
- Thái Thị Ngọc Dư, sau này đậu Tiến sĩ Địa lý học tai Pháp
- Trần Anh Tuấn: Tiến sĩ Luật Khoa tại Mỹ
- Hoàng văn Giàu. Phụ khảo đại học văn khoa Huế. Đoàn Trưởng đoàn SV Phật Tử Huế. Hiện ở Úc Châu
- Thái thị Kim Lan: sinh viên văn khoa, sau du học đậu Tiến Sĩ triết học tai Đức
- Nguyễn Đắc Xuân: SV việt hán, đại học sư phạm.
- Hùynh sơn Trà: SV y khoa, thoát ly 1968
- Nguyễn văn Sở: Đại học Sư phạm Anh văn. Thóat ly 1968
- Lê Thanh Xuân: thoát ly 1968.
- Ngô Yên Thi: SV văn Khoa. Thoát ly 1968.
- Nguyễn hữu Ngô SV Mỹ thuật
- Trần Hoài SV Việt Hán: Đại học sư pham .Thóat ly 1972
- Nguyễn Đức Thuận VS đại học sư phạm Anh văn. Thóat ly 1968
- Trần bá Chữ: SV đại học sư phạm toán. Thoát ly 1968
- Nguyễn thị Đoan Trinh ,SV dược khoa Đại học Saigòn, sát thủ Mậu Thân 1968. Y thị trực diện đeo băng đỏ, nổ súng, hạ sát rất nhiều người. Thoát ly ngay sau CS bại trận Mậu Thân.
- Lê văn Tài: SV Mỹ thuật, thoát ly 1968. hiện ở Úc Châu.
- Nguyễn văn Mễ: học sinh lóp 12 Quốc Học. Thóat ly 1968
- Lê Phước Thúy: SV đại học Sư phạm .thóat ly 1968
- Lê Công Cơ: SV đại học khoa học .thóat ly 1968
- Lê khắc Cầm: sinh viên, em giáo sư Lê khắc Phò
- Lê văn Hảo: giáo sư nhân chủng học Đại Học Huế.
- Bà Đào thị Yến, tức Bà Tuần Chi nguyên Hiệu trưởng trường nữ trung học Đồng Khánh và cũng là tình nhân của Thích Đôn Hậu. Thoát ly ra bắc cùng với Thích Đôn Hậu, sau Mậu Thân, cùng với Giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm. Giáo sư Lê văn Hảo v…v…
- Bửu Chỉ: sinh viên Mỹ thuật.
- Phan Duy Nhân: Sinh viên.

Và còn rất nhiều nữa….
Những cơ sở này, hiệp lực cùng với Thích Trí Quang, Thích Thiện Siêu, Thích Đôn Hậu, Thích Chánh Trực, bí thư thân tín của Thích Trí Quang là Đại Tá tình báo cộng sản Nguyễn Khắc Từ, Hoàng Kim Loan, Trung tá điệp viên cục tình báo chiến lược Hà Nội, như thế đủ để phá nát Huế chưa? Thưa, Quá đủ!……..

Vì thế, miền Trung, đặc biệt Huế, đang bị nhuộm đỏ cách mạng, vừa hồng vừa chuyên. Miền Trung đang sôi sục lửa đấu tranh căm thù giai cấp! đang là địa ngục của một mạng lưới CS nằm vùng khổng lồ, bán mình cho quỷ.

Ngày 23-1-1965 Thích Trí Quang cho lệnh học sinh sinh viên, đồng bào biểu tình kéo đến đốt tòa tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại số 4 đường Đống Đa. Sau đó đoàn biểu tình kéo đến đốt phòng Thông tin văn hóa Hoa Kỳ (USIS) tại số 8 đường Lý Thường Kiệt, thuộc quân III thị xã Huế.

Ngày 27-2-1965 đám này họp báo ra mắt “Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình và Hạnh Phúc Dân Tộc” và “Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết”. Chủ tịch là Thượng Tọa Thích Quãng Liên. Các thành viên: Bác sĩ Thú y Phạm văn Huyến, thân sinh bà Phạm Thị Thanh Vân, tức bà Ngô Bá Thành. Nhà báo Phi Bằng, tức Cao Minh Chiến, Luật sư Trịnh Đình Thảo. Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ. Bác sĩ Lê Khắc Quyến, khoa trưởng Đại Học Y Khoa Huế cũng bí mật nằm trong tổ chức nầy.

Về Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, chủ tịch là Luật Sư Nguyễn Long. Các đoàn viên chủ chốt là kỹ sư Hồ văn Bửu, kỹ sư Tô văn Can.

Hai Tổ chức nầy đều đòi hỏi:
- Quân đội Hoa Kỳ phải triệt thoái khỏi miền Nam việt Nam.
- Vấn đề thống nhất của Việt Nam phải để cho người Việt Nam tự quyết.

Ngày 1-3-1965, Thủ tướng Chính phủ VNCH, bác sĩ Phan Huy Quát, ra lệnh cách chức gần 50 công chức và khoảng 30 người bị bắt giữ. Trong đó có Cao Minh Chiến, giáo sư Tôn thất Dương Kỵ và Thú Y sĩ Phạm Văn Huyến.

Ba nhân vật nầy được giải ra Huế. Tướng Nguyễn Chánh Thi muốn thả dù nhóm này qua bên kia vỹ tuyến 17. Thủ Tướng Phan Huy Quát phản đối vì sợ báo chí và dư luận quốc tế xuyên tạc.

Ngày 19-3-1965, Tướng Nguyễn Chánh Thi chủ tọa một buổi lễ ngay tại bên này cầu Hiền Lương, sau bài diễn văn, Cao Minh Chiến, Tôn Thất Dương Kỵ và bác sĩ thú y Phạm văn Huyến được dẫn từ phía bên nầy cầu, thuộc vùng chính phủ VNCH, sang đến giữa cầu, giao cho Cộng sản Hà Nội. Cả ba lặng lẽ đi qua phía bên kia cầu phân chia biên giới Nam Bắc.

Tình hình Huế mỗi ngày mỗi trầm trọng. Ngày 6-6-1966 lúc 12 giờ trưa, trên đài phát thanh tranh đấu tại Huế, Thích Trí Quang, tên cờ gian bạc lận, buôn thần bán thánh này, rút con bài cuối cùng: “Bàn thờ Phật”. Trí Quang chơi xã láng canh bạc cháy túi, không kể gì đạo đức tối thiểu: Đưa bàn thờ Phật xuống đường! Phật nào đồng ý cho hành động này?... Ngược lại, Phật đã độ trì người con trung nghĩa xứ Huế: đại Tá Nguyễn Ngọc Loan và lực luợng Đặc Nhiệm dẹp loạn miền Trung.

Chỉ sau hai tuần lễ kể từ ngày 9-6-1966 toàn bộ lực lượng tranh đấu của Thích trí Quang đã bị dẹp tan. Thích Trí Quang và đồng bọn, Tướng Nguyễn Chánh Thi Tư Lệnh QĐI. Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận Tư Lệnh Sư Đòan I. Tất cả bị Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan bắt giữ.

Tôi liên tục mở các cuộc hành quân cảnh sát, bắt giữ toàn bộ đám cơ sở việt cộng nằm vùng cài trong Phật giáo, trong các tổ chức giáo chức, học sinh , sinh viên thuộc lực lượng tranh đấu của Thích Trí Quang. Một số lớn bọn chúng bị bắt giữ ngay, nhưng cũng có một số ít đã được Trung Tá điệp Viên Hoàng Kim Loan gởi giao liên và đưa lên mật khu. Điển hình hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tuờng, Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân.

Chuyện khám phá ra TCS hoạt động nằm vùng, là do chúng tôi theo dõi anh em họ Phan. Cuộc đào thoát của hai anh em Hoàng phủ Ngọc Tường Hoàng Phủ Ngọc Phan đã may mắn làm bộc lộ chân tướng của Trịnh Công Sơn.

Người đứng ra thi hành là giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm, và Lê Cảnh Đạm, lúc đó là Tổng Thư Ký Đại Học Y Khoa Huế. Tôn Thất Dương Tiềm và Lê Cảnh Đạm là cán bộ trí thức vận của cở quan thanh ủy VC Huế. Và tôi đã vô cùng bàng hoàng, buồn bả ngẩn người, khi thấy Trịnh Công Sơn dính trong vụ này.

Lực lượng CSĐB đã bám sát theo dõi hai mục tiêu Tường và Phan từ lúc bọn này ẩn trốn tại nhà sách Khánh Quỳnh tại ngã tư Anh Danh, thuộc Quận I thành phố Huế. Tiệm sách nầy là của gia đình Tôn Thất Dương Kỵ một cán bộ cộng sản gộc tại Huế.

Sau đó, bọn chúng di chuyển qua trốn tại số 66 đương Phan Chu Trinh Quân III thị xã Huế. Đây là nhà an toàn của cơ quan Thành ủy VC Huế. Chủ nhân cũng là cơ sở nội thành, tên là Nguyễn Chính. Số 66 Phan Chu Trinh nằm ngay ngã tư Phan Chu Trinh Nguyễn Trường Tộ, ngay đầu cầu Phủ Cam. Bên này cầu Phủ Cam là nhà tên Chính, và bên kia cầu Phủ Cam là nhà Trịnh Công Sơn, nằm trên đường Nguyễn Trường Tộ, đối diện với tòa Tổng Giám Mục Huế.

Đó là một dãy chung cư. Căn của Trịnh Công Sơn và gia đình trú ngụ là: 11/3 Đường Nguyễn Trường Tộ. Quận III, thành phố Huế.

Tôi nhớ không lầm thì đó là ngày 11/6/1966. Trời nhá nhem tối, tôi chỉ huy điệp vụ, đứng hơi xa hiện trường. Hai anh em Hoàng phủ Ngọc Tường từ nhà Chính, bên này cầu Phủ Cam, đi rất nhanh sang nhà Trịnh Công Sơn, bên kia cầu Phủ cam. Trịnh Công Sơn đã có kế hoạch chuẩn bị trước cho hai tên này ăn cơm tối tại nhà. Sau đó, một chiếc xe hơi màu trắng đến đón Tường và Phan đi ngay.

Tài xế là Lê Cảnh Đạm. Hộ tống là giáo sư Tôn thất Dương Tiềm. Họ lên chùa Thiên Mụ, và sau đó đi bộ vượt Long Hồ, Ngọc Hồ, vượt nguồn tả sông Huơng đến mật khu sau núi Kim Phụng.

Chiếc xe hơi trắng đó là của bà Tuần Chi, tức Đào Thị Yến. Mậu Thân 1968, bà giữ chức vụ Phó chủ tich Ủy Ban nhân Dân Thành Phố Huế. Vài ngày sau, đã cùng một phái đoàn đông đảo trí thức miền Nam và Thượng Tọa Thích Đôn Hậu- mà theo sự theo dõi ghi nhận của CSQG Thừa Thiên Huế, cũng là người tình của bà, thoát ly ra Bắc.

Đó là lần đầu tiên mà lực lượng CSĐB thuộc BCH/CSQG Thừa Thiên Huế phát hiện hành động tiếp tay cộng sản của Trịnh Công Sơn.

Tôi sẽ không như Trịnh Cung hoặc Anh Đặng văn Âu chỉ nói thoáng qua về TCS. Vì “ méo mó nghề nghiệp”, tôi sẽ đi từng chi tiết một. Từ đời tư, gia đinh , tình ái, sức khỏe, cá tính, tham vọng, đến những công tác tình báo mà TCS cộng tác với chúng tôi, những công việc mà TCS cộng tác với Cộng Sản, những công việc mà TCS cộng tác với Tình báo Ngọai Quốc. Kết quả và ảnh hưởng của những hành động của đương sự, đã gây tác hại như thế nào cho Miền Nam VN.

Đương nhiên sẽ đụng chạm và gây sóng gió. Và sóng gió không chỉ giới hạn riêng nhân vật TCS. Nhưng chỉ là sóng gió cho những ai trót đem lòng ngưỡng mộ tôn thờ nhân vật này một cách nhẹ dạ mù quáng. Còn những ai có chút bình tâm suy xét, biết yêu lấy quê hương khốn khổ này, thì những thông tin mà tôi đưa ra, sẽ chỉ là những xác tín. Nó rành rành như 2+2 là 4. Với tất cả lương tâm và trách nhiệm của tôi đối với người dân Miền Nam và với lịch sử. Những gì tôi viết, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tôi sẵn sàng đối chất vói bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào về vấn đề TCS. Và đặc biệt tôi càng rất muốn đối chất với những ai cho rằng những thông tin mà tôi đưa ra là sai trái về TCS và bất cứ nhân vật nào hoạt động CS có tên trong bài này.

Ngay sau đó, tôi cho lệnh mở hổ sơ TCS, điều tra lý lịch chi tiết, bám sát theo dõi đương sự. Công việc nầy được giao cho toán xâm nhập E-16, mà trưởng toán là anh Nguyễn Bá Sơn.

Một thời gian sau, nhiều phát hiện cho thấy, TCS từ lâu đã có quan hệ chặt chẽ với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Phan Duy Nhân, và đặt biệt với một cán bộ quan trọng của cơ quan Thành ủy VC. Cán bộ đó là Lê Khắc Cầm, em ruột của giáo sư Lê khắc Phò. Y sống hợp pháp trong thành phố Huế, Trịnh Công Sơn rất thường xuyên liên lạc với y.

Ngoài ra, toán theo dõi cũng phát hiện được một số các cơ sở trong tổ chức trí vận thuộc tổ chức Học sinh Sinh viên Giải Phóng thành phố Huế cũng có liên lạc chặt chẽ vói TCS như:

Huỳnh Sơn Trà, SV Y khoa. Đặng văn Sở, Đai học Sư phạm. Lê Thanh Xuân SV Luật khoa. Trần Hoài, Đai học sư phạm Việt Hán. Giáo sư Ngô Kha, Đinh Cường, Trần quang Long, Trần Vàng Sao, Bửu Chỉ, và nhiều….nữa….

Với những dữ kiện, tin tứ, của trưởng toán xâm nhập Nguyễn bá Sơn trình lên, tôi quyết định móc nối, ép TCS làm tình báo viên xâm nhập trong tổ chức trí vận và tổ chức học sinh, sinh viên giải phóng của cơ quan thành ủy VC Huế.

Công việc nầy không khó. Vì đã nắm rất vững vàng và có đầy đủ bằng cớ là TCS hoạt động CS, nên khi tôi bí mật tiếp xúc với TCS tại nhà an toàn của cơ quan tình báo Thừa thiên Huế, trong khoảng thời gian gần 4 tiếng đồng hồ, TCS, không còn cách nào khác, buộc phải cộng tác.

Và tôi có tin TCS không? Theo bản tính nghề nghiệp, dĩ nhiên, tôi phải nói chữ không. Ngay sau đó, tôi cài thêm một nhân viên tình báo xâm nhập tiếp cận với TCS và những bạn bè cơ sở nội thành VC của TCS để có thể theo dõi và phối kiểm một số tin tức mà TCS cung cấp cho chúng tôi, cho đến tận ngày 29 tháng tư 1975.

Nhân viên này chính là một nhân chứng sống, để có thể xác nhận cho những ai còn thắc mắc rằng có phải TCS là nhân viên tình báo xâm nhập của lực lượng CSĐB thuộc BCH/CSQG/Thừa Thiên-Huế, gài trong tổ chức cơ quan trí vận của thành ủy VC Huế hay không. Chính anh ta là người mà tôi đã giao cho ba giấy chứng nhận để đưa tận tay cho ba người: TCS và 2 người khác, xin tạm dấu tên.

Đó là ba “Sự vụ lệnh công tác đặt biệt’ do tôi, với tư cách là Chỉ Huy Trưởng BCH/CSQG/Thừa Thiên-Huế và là Tổng Thư ký điều hành Ủy Ban Phượng Hoàng tỉnh Thừa Thiên và Thị xã Huế, “yêu cầu mọi cơ quan Quân, Dân Chính, giúp đỡ người cầm giấy này đang thi hành phận sự”.

Sự Vụ Lệnh đặc biệt mà tôi cấp cho Trịnh Công Sơn là một lá bùa hộ mạng cực mạnh, bao bọc cho anh ta trong suốt nhiều năm. Nó đã giúp anh ta trốn quân dịch, khỏi bị bắt trong các cuộc ca hát phản chiến, hoặc biểu tình chống chiến tranh, chống chính phủ VNCH.

Vậy mà trong nhiều năm qua tại hải ngoại có một vài bài viết nói rằng trong thời gian chiến tranh, TCS phải trốn tránh cực khổ, nhọc nhằn để khỏi bị bắt đi quân dịch. Rõ là họ chỉ viết theo trí tưởng tượng, những hiểu biết mù mờ, hoặc theo lời kể vu vơ mơ hồ đâu đó.

Nhân viên giao sự vụ lệnh đặc biệt của tôi cho Trịnh Công Sơn hiện đang định cư tại vùng ngoại ô Washington D.C. Hoa Kỳ. Anh ta là một nhân chứng sống về vụ nầy.

Lý lịch ghi nhận tại cơ quan CSQG Huế:
- Sinh ngày 28/2/1939
- Học lực: Tú tài I, tức lớp 11. Chương trình Pháp. Tốt nghiệp trường sư phạm Quy Nhơn.
- Giáo viên Tiểu học.
- Nghiện rượu và thuốc lá nặng.
- Sức khỏe trung bình.
- Bị bệnh xuất tinh sớm, sau đó đến 1974 hoàn toàn bất lực.
- Bản chất: Trầm lặng , kín đáo, khôn ngoan, giỏi che đậy ý nghĩ của mình.
- Xem trọng tiền bạc, có tính phản bội , trọng phú khinh bần, sẵn sàng quay lưng với bạn bè hay ân nhân của mình trước kia, nếu như họ sa cơ lỡ vận
Gia đình:
- Phụ thân của TCS là một quân nhân phục trong quân đội Pháp, nghành tình báo, phòng 2. Ông bị tử nạn xe hơi do xe của quân đội Pháp gây ra.
- TCS có một người Cậu ruột là Lê văn Tông, một thương gia giàu có tại đường Phan Bội Châu, Huế. Ông nầy có vợ lai Pháp hiện định cư tại Pháp. Ông ta là võ sư Nhu Đạo Judo club Huế. Thật ra TCS không học nhu đạo ngày nào cả. Có lẽ Trịnh Cung không biết, nên đã viết TCS có tập nhu đạo. Trịnh Công Hà, em TCS mới học nhu đạo. Hà là người từng gây chấn thương cho Trịnh Công Sơn khi Trinh công Hà dùng một thế võ khóa chặt TSC giữa sàn nhà, trong lúc hai anh em giỡn chơi với nhau.
- TCS là anh đầu trong một gia đình đông con. Các em trai là:
1- Trịnh Công Hà. Sĩ Quan Quân Lực VNCH, Cấp bậc cuối cùng : Đại úy
2- Trịnh xuân Tịnh. Trốn quân dịch.
Các em gái:
1- Trịnh vĩnh Thúy: Chồng là giáo sư Ngô Kha.
2- Trịnh vĩnh Tâm. Chồng là Đại úy QLVNCH Hoàng Tá Tích. Hoàng Tá Thích có anh ruột là Hoàng Xuân Tùy cấp bậc Đại Tá, Chính ủy Sư Đoàn Điện Biên Việt cộng. Sau 1975 làm Thứ trưởng bộ Đại Học.
3- Trịnh thị Hồng Diệu. Không có gì đặt biệt.
4- Trịnh thị vĩnh Ngân. Không có gì đặc biệt.
5- Trinh vĩnh Trinh, em út. Theo ghi nhận, Trịnh vĩnh Trinh cùng mẹ khác cha với những người trên.

Đã có quá nhiều tranh cải về TCS, quá nhiều câu hỏi được đặt ra: ‘Trịnh Công Sơn bên mô? Bên Ni? Bên tê”.
Trong chức vụ và trách nhiệm của một Phó trưởng Ty CSĐB và sau đó là Chỉ Huy Truởng BCH/CSQG/Tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế trong 9 năm, từ tháng 6/1966 đến đầu năm 1975, và là người đích thân áp lực, móc nối và sau đó điều khiển TCS trong chiến dịch xâm nhập vào các bộ phận trí thức vận, tôn giáo vận. học sinh sinh viên Giải Phóng Thành Phố Huế, qua những phòng trào quần chúng đấu tranh tại đô thị của cộng sản, tôi có thể xác nhận rõ ràng và minh bạch về con người của Trịnh Công Sơn:

- Trịnh công Sơn: Bên ni. Quốc gia
- Trịnh Công Sơn cũng là: Bên tê. Cộng sản Hà nội
- Trinh Công sơn còn có khả năng là: Bên nớ. Tình báo ngoại quốc
Hay nói một cách thẳng thắn, theo danh từ chuyên môn của ngành tình báo, thì Trịnh Công Sơn là điệp viên hai mang 100% và có khả năng mang thứ ba là làm cho cơ quan tình báo ngọai quốc. Nhưng vấn đề đuợc đặt ra là, mang nào là mang chính ?

I- Trịnh Công Sơn: Bên ni.

Có phần đúng, TCS bên ni. Chính tôi đã tổ chức TCS làm tình báo viên cho ngành Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế. Mặc dầu trong khoảng thời gian từ 1966 đến ngày 28 tháng 4 năm 1975 cũng có lúc gián đoạn tạm thời vì anh ta không ở Huế. Nhưng chung chung thì anh ta đã hợp tác với chúng tôi trong khoảng thời gian không phải là ngắn.
Có người sẽ đặt câu hỏi, cái gì đã làm cho Trinh Công Sơn hợp tác với Liên Thành, hay nói thẳng ra là chấp nhận làm tình báo viên cho CSĐB/ thuộc BCH/CSQG/Thừa Thiên- Huế:
1- Vì có máu phiêu lưu ưa mạo hiểm nuốn thành điệp viên?
Câu Trả lời: Không phải.
2- Vì tình cảm cá nhân giữa Liên Thành và Trịnh Công Sơn? Vì hai người quen biết với nhau từ lâu?
Câu trả lời: cũng không phải.
3- Vì tinh thần ái quốc, tinh thần trách nhiệm của người quốc gia, tinh thần trách nhiệm của một người trẻ đối với hiện tình đất nước vào thời điểm đó?
Cậu trả lời: lại càng không phải.
4- Vì quyền lợi bản thân, vì an ninh bản thân?
Câu trả lời: Đúng. Hoàn toàn đúng!
Khi tổ chức TCS, tôi đã dùng chiến thuật “Cây gậy và củ rà rốt”:
Tôi đã đưa ra những bằng chứng rành rành hành động tiếp tay của TCS trong việc đào thoát của hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, do cơ quan B5 và thành ủy Huế trực tiếp tổ chức. Rồi việc một số cơ sở nội thành VC trong giới trí thức, sinh viên tiếp xúc thường xuyên với TCS, và nhất hạng là việc cán bộ Thành ủy Việt Cộng Huế Lê Khắc Cầm, đã nhiều lần tiếp xúc vói TCS.
Tôi đã nói với TCS: “Với chừng đó sự việc đủ cho tôi có thể ký lệnh bắt giữ anh, cho thẩm vấn, thiết lập hồ sơ, không đưa ra tòa, mà trong quyền hạn và chức vụ của tôi, ngoài Chỉ huy Trửởng CSQG, Tổng thư ký điều hành Ủy ban Phượng Hoàng tỉnh, tôi còn giữ chức vụ là tổng thư ký Hội Đồng An Ninh Tỉnh, tôi có thể đề nghị vì tình hình an ninh, giữ anh hai năm tại Phú Quốc và sau hai năm lại tái xét. Cứ như vậy mỗi đợt 2 năm. Có bao nhiều lần hai năm tại đảo Phú Quốc trong đời người, Anh có chịu nỗi không? “ Đó là cây gậy mà tôi dùng làm áp lực với TCS.
Vậy còn củ cà rốt?
Ngoài những giúp đỡ, phe lờ những việc không tiện nói ra, để gia đình TCS có thể kiếm sống, củ cà rốt rất ngọt là một Sự Vụ lệnh đặt biệt đại khái:
“ Họ và tên…….
Người mang giấy nầy là viên chức Đặc Biệt thuộc BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế. Yêu cầu các cơ quan Quân, Dân, Chính giúp đỡ, trong khi thừa hành phận sự.
Huế , ngày….
Chỉ Huy Truởng CSQG TT-Huế
Kiêm Tổng Thứ ký Ủy Ban Phượng Hoàng Tỉnh.
Thiếu tá Liên Thành. “

Bề mặt và bề trái của tấm giấy này chỉ để bảo vệ cho TCS trốn lính.
Để đổi lại, TCS cung cấp những tin tức địch mà chúng tôi cần. Tỷ như:
Danh tánh tổ chức, cá nhân các cơ sở nội thành VC trong các tổ chức trí vận, dân vận, tôn giáo vận của Thành ủy VC. Các đường dây các trạm liên lạc nội thành của bọn chúng, kế hoạch hành động của bọn chúng v…v…Tóm lại những gì mà TCS biết được.
Nhưng những gì áp lực, những gì gượng ép, bắt buộc, thường kết quả không như mình mong muốn. Những gì TCS cung cấp cho chúng tôi chỉ là 1/10 những sự việc mà TSC biết được. Có nhiều việc rất quan trọng mà TCS đã tham gia, biết rõ ràng, tường tận, nhưng y vẫn giữ im lặng, không hề báo cáo. Trong khi đó, thì một đường dây nội tuyến khác của chúng tôi đã phúc trình sự việc lại cho chúng tôi. Xin đơn cử một vài trường hợp sau đây:
1-Tại bờ sông Hương thuộc vùng Gia Hội, đọan đối diện với rạp Ciné Châu Tinh có một bến đò, thường xuyên có một chiếc đò neo tại đó, của một cặp vợ chồng nghèo, bán chè cháo độ nhật trên sông Hương về đêm. Người chồng là cơ sở nội thành của VC, nhưng thật ra lại là người của chúng tôi. Chiếc đò đó chúng tôi đã bỏ tiền ra mua và giao cho cơ sở sử dụng làm trạm liên lạc gặp mặt của cán bộ nội thành VC. Rất nhiều cán bộ, cở sở việt công trong tổ chức học sinh, sinh viên giải phóng thành phố Huế đến đó để hội họp, như: Bửu Chỉ, Ngô Kha, Trần Hoài, Hoàng thị Thọ, Phạm thị Xuân Quế…và ngay cả đương sự là TCS cũng đã đến đó hội họp một đôi lần. Nhưng tuyệt đối không bao giờ TCS cho chúng tôi biết trạm liên lạc này.
2-Cũng như vậy, trạm thứ hai là một quán café gần nhà Thượng Nghị sĩ Trần Điền. Đây cũng là trạm liên lạc hội họp nội thành của bọn chúng. Chính TCS đã đi cùng Ngô Kha đến đây nhiều lần, nhưng đương sự vẫn tuyệt đối không báo cáo lên.
Chúng tôi cũng phát hiện rất nhiều thư từ, tài liệu VC từ nội thành Huế chuyển vào Saigon do TCS giao cho Nguyễn Hữu Đống chuyển đi. Lợi dụng những chuyến bay quân sự của một số bạn bè Không Quân, nên không bị ai soát hỏi.

II- Trịnh Công Sơn : Bên tê?

Những ai đã nghĩ rằng TCS là người Cộng Sản, hoạt động cho Cộng Sản điều đó đúng, đúng 100%. Tôi khẳng định như vậy .
Câu hỏi Trinh Công Sơn: Bên tê?
Câu trả lời của tôi: Trịnh Công sơn bên tê. Y hoạt động cho cộng sản. Cán bộ điều khiển và chỉ đạo trực tiếp đương sự là: Lê Khắc Cầm.
Như đã biết trong một buổi họp mặt tại Tuyệt Tinh Cốc của Hoàng Phủ Ngọc Tường, vào thời điểm cao trào tranh đấu Miền trung đang lên cao 1965-1966, trước sự hiện diện của Hoàng Phủ Ngọc Tường, HP Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Đinh Cường, Nữ văn sĩ Túy Hồng, Trần Vàng Sao, Trần Quang Long, những tay SV tranh đấu gộc và cũng là đám cơ sở của Thành Ủy Huế, Trịnh Công Sơn đã hát một ca khúc mới. Bài này chỉ nói lên nỗi bất hạnh của tuổi trẻ bị cuốn vào cơn bảo của cuộc chiến, nhưng hoàn toàn không nói gì đến nguyên nhân của cuộc chiến, di hại của nó, cũng như cách giải quyết vấn đề, như là nhạc của các nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, Anh Bằng, Phạm Duy vv. Bài hát đó là bài“Vết lăn trầm”:
“Bài ca dao trên cồn cát, trên ngai vàng quê nhà một thời ngủ yên tuổi xanh….rồi một hôm chợt thấy hoang vu quanh mình…”
Đó là bài nhạc phản chiến đầu tiên của Trịnh Công Sơn. Tác phẩm này được thai nghén trong một cái lò cộng sản nằm vùng, theo ý muốn của cộng sản HN, thì dĩ nhiên nó là con đẻ của CS. Trong khi bao nhiêu thanh niên cùng trang lứa với TCS đang cầm súng chiến đấu tất bật, thì TCS không làm gì cả. Chỉ ăn xổi ở thì, đến nỗi chợt thấy hoang vu quanh mình, nên đi làm cộng sản
Sau nầy TCS viết nhạc nói về cuộc chiến theo nhu cầu đấu tranh tại đô thị của đám SV, trí thức, hoạt động nằm vùng. Nhu cầu đó là làm tê liệt tinh thần bất khuất truyền thống của người VN, không muốn chiến đấu, bi quan nhu nhược, ỷ lại cầu an. Nhiệm vụ của TCS là chế ra những loại thuốc độc như thế!
Cũng đã có một vài phúc trình nói rằng, có một vài bài nhạc phản chiến của TCS, nhạc của TCS nhưng lời của Phan Duy Nhân. Phan Duy Nhân là một sinh viên, cán bộ cộng sản. Tôi nhớ không lầm thì y đã bị bắt và giam tại Côn Sơn từ sau Mậu Thân 1968

III- Trinh Công Sơn: Bên nớ ? tức cơ quan tình báo ngọai quốc

Tôi không muốn trả lời là YES, hay NO.
Không thể trả lời Yes vì chưa có thể công bố lúc này
Nhưng cũng không thể: SAY NO vì:
1- có một số tin tức khá chính xác, cho rằng một số bài nhạc gọi là “Phản Chiến”, TCS đã viết theo đơn đặt hàng của tình báo ngọai quốc. Loại nhạc này được tung ra để tạo thêm chứng cớ là dân Miền Nam không muốn chiến tranh, muốn đầu hàng CS?. Bối cảnh phản chiến như thế, rất thích hợp và xác đáng cho việc “ Đồng minh tháo chạy”.
2- Như Trịnh Cung đã viết:
“Ngày 30 tháng 4 thì Sơn ở lại. Tôi nhớ buổi chiều đó Đỗ Ngọc Yến đến đón Sơn với một nhà báo Mỹ, đề nghị Sơn là đã có máy bay đưa gia đình Sơn đi Hoa Kỳ”.

Đỗ Ngọc Yến là ai?

Ông Đỗ Ngọc Yến là nhân viên Tình báo xuất sắc của chính phủ VNCH. Nhiệm sở phục vụ là Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo.
Tình báo ngọai quốc đã phát hiện được những hoạt động của Ông Đỗ Ngọc Yến trong sinh viên hoặc báo chí tại Sài Gòn, như là một cán bộ nội thành VC. Họ đã không biết rằng Đỗ Ngọc Yến là nhân viên của phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH, được gài vào nằm vùng trong tổ chức địch, nên đã móc nối ông Đỗ Ngọc Yến. Là một người trung thành với đất nước, ông Yến trình sự việc nầy lên thượng cấp để xin chỉ thị. Ông đã được Phủ Đặc Ủy Trung Ương chấp thuận để ông làm việc cho tình báo ngọai quốc.
Tôi bạch hóa trưởng hợp của ông ĐNY, bởi lẽ, chính thể VNCH không còn, và Ông ĐNY cũng đã yên nghĩ. Nhưng ông còn để lại một nỗi oan sai trên cõi đời phiền muộn này. Và những điều tôi nói ra không còn vi phạm an ninh cá nhân của ông nữa, cho nên tôi phải nói. Mục đích của tôi là chỉ muốn minh oan, hay đúng hơn là trả lại danh dự cho một nhà báo tài ba, yêu nước. Khi tấm hình ông Yến ngồi chung với tên Nguyễn Tấn Dũng Thử tướng chính phủ Cộng sản Việt Nam được tung ra, thì dư luận liền cho Ông Yến là Cộng Sản. Mục đích của việc làm này chắc ai cũng hiểu.
Tấm hình đó, hơi giống truờng hợp tấm hình của nhiếp ảnh gia Mỹ Adam chụp Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn tên đặc công Cộng sản Bảy Lốp, trong Mậu Thân 1968 tại Sàigon. Tấm hình đó chỉ có thể nói lên được một nửa những gì mà Adam muốn nói. Còn một nửa kia thì cần phải phân tích thật kỹ càng, rồi hãy kết luận về Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, cũng chưa muộn .
Cũng vậy, Đỗ ngọc Yến ngồi chung với Nguyễn Tấn Dũng có thể vì nghiệp dĩ tình báo và mối dây vương vấn của ông ta chưa dứt. Bởi vì ngày xưa ông đã phải vì nhiệm vụ, tuân lệnh thượng cấp, là Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH, họat động cho tình báo ngọai quốc. Và con tằm lại phải tiếp tục nhả tơ. Đó cũng là chuyện bình thường của một người làm tình báo chuyên nghiệp như ông mà thôi. Còn trái tim ông vẫn để lại VNCH
Xin trả lại công bằng, công lý và danh dự cho Ông Đỗ Ngọc Yến, một chiến sĩ tình báo xuất sắc của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH
Vậy thì, chuyện Đỗ Ngọc Yến đi cùng nhà báo Mỹ đến, đề nghị đón Sơn và gia đình đi Mỹ vào ngày 30/4/1975 theo lệnh của ai?
- Phủ Đặc Ủy Trung uơng tình báo VNCH? Điều này không có
- Tình báo Việt Cộng?
- Tình báo Ngoại Quốc?
Chắc quí vị đã biết câu trả lời, là ai đã phái Đỗ Ngọc Yến và nhà báo Mỹ đến đưa TCS và gia đinh đi Mỹ, không cần tôi phải nói ra.

Những phân tích của CSQG Thừa Thiên Huế và suy nghĩ, ý kiến của tôi về Trịnh Công Sơn

Là một cán bộ điều khiển TCS trong chiến địch xâm nhập vào hàng ngũ các tổ chức Cộng Sản tại Huế, trong một thời gian khá dài, BCH CSQG Thừa Thiên Huế và tôi có những nhận xét sau đây.
1- Mặc dầu hợp tác với cơ quan tình báo quốc gia nhưng trái tim của TCS đã dành cho cộng sản.
2-Những xáo trộn chính trị, những cuộc biểu tình, đình công bãi thị, những ngày tuyệt thực, những đêm không ngủ, những màn văn nghệ đấu tranh phản chiến, đòi hòa bình (như đòi kẹo? nghe thật là dễ! thật là ngây thơ!), đòi người Mỹ rút quân, của đám trí vận nội thành, diễn ra triền miên tại Đại Học Huế, trên khắp ngỏ đường của cố đô. Công khai, hoặc bí mật, TCS đều góp tay vào.
3- Nỗi sợ lớn nhất trong đời TCS là sợ đi lính. Vì thế, bằng mọi giá, chấp nhận mọi điều kiện, để y được bao che trốn lính. Ngoài ra, để chắc ăn, TCS còn quyết tâm ve vãn các giới chức cao cấp của chính quyền VNCH thích nhạc của y, để cho y dễ dàng trốn lính. TCS đã trở thành con người hèn hạ thiếu tư cách
Trịnh Cung nói:
“TCS sai lầm với ngừoi Cộng sản như sau: Không ở trong đường dây của một tổ chức và chịu sự lãnh đạo của một tổ chức đó.”
Phát biểu của Trịnh Cung hoàn toàn dựa trên cảm tính, không dựa trên sự kiện. Phát biểu này hoàn toàn sai sự thật.
Ông Trịnh Cung, theo ghi nhận của CSQG, đã đổi tên từ Nguyễn văn Liễu ra thành Trịnh Cung, không chỉ bởi tình bạn với TCS, mà còn bởi quan hệ tình cảm với cô em gái TCS là Trịnh Vĩnh Thúy. Có thể vì mối ràng buộc tình cảm nhiều mặt đã che mờ sự sáng suốt, nên Trịnh Cung đã không biết rằng ông anh rễ hụt đang hoạt động cộng sản.
Tôi xin xác định: Trịnh Công Sơn nằm trong tổ chức trí vận của cơ quan Thành Ủy Việt Cộng Huế hẳn hoi. Và cán bộ lãnh đạo chỉ huy TCS là Lê Khắc Cầm
TCS đã nằm trong tổ chức nằm vùng tại Huế. Từng nhúng tay phối hợp giải thoát Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng phủ Ngọc Phan, theo chỉ thị của B5 và thành ủy. Sau này, những tên đại ác đó trở thành đao phủ thủ Tết Mậu Thân. TCS nghĩ gì khi viết và hát: “Chiều đi qua bãi dâu, hát trên những xác người, tôi đã thấy, những hố hầm, đã chôn vùi thân xác anh em…”
Xin hỏi vong hồn TCS, ai chôn xác anh em? Ai đã đập đầu anh em? Và ai đã giúp giải cứu những đại đồ tể này, để trở về giết dân lành Huế? TCS có trách nhiệm trong chuyện này hay không? Xin hỏi vong hồn ông?
Biết rất rõ ai gây ra chuyện thảm sát rùng rợn tại quê hương của chính mình, nhưng TCS sau đó vẫn tiếp tục hoạt động nằm vùng. TCS còn có trái tim không? Có tình nguời không? Rồi TCS vẫn viết nhạc phản chiến, mục đích phản đối chiến tranh một chiều. Có nghĩa là TCS chỉ phản đối cuộc chiến đấu của người đang phải tự vệ. Còn thì TCS ủng hộ và tiếp tay cho sự xâm lăng bằng vũ khí của CS đối với người dân Miền Nam. Như vậy, thử hỏi TCS có lương thiện không? Những lời lẽ mang tính triết lý về thân phận con người, trong nhạc TCS có thật sự từ trái tim anh ta? Nó có chút tình người nào không? Hay chỉ là những giai điệu vay mượn dối trá, phục vụ cho ác quỷ?
Trịnh Công Sơn phối hợp thưởng xuyên với lực lượng Sinh Viên Giải phóng thành phố Huế của trường Đại Học Huế, nhằm thi hành công tác dân vận, trí vận, qua những hội thảo, ca nhạc phản chiến. Tên tuổi đám CS nằm vùng có liên hệ chặt chẽ với y tôi đã viết ở phần trên.
Theo Trịnh Cung, Trinh Công Sơn:
“Không dám thoát ly theo MTGPMN”. Điều này hoàn toàn không đúng, bởi lẽ:
Vai trò và trách nhiện của TCS rất quan trong trong việc gây suy sụp tinh thần yêu nước của nhiều tầng lớp thanh niên Miền Nam Việt Nam. Qua những bản nhạc phản chiến, TCS đã tạo được một tình trạng tâm lý ươn hèn chủ bại cho một số người Miền Nam. Một số khác phản ứng chống chính quyền, gây bất lợi về mặt chính trị cho quốc gia. Như vậy, TCS đã và đang thực hiện được sứ mạng mà CS rất cần thời bấy giờ
Nếu TCS thoát ly, thì nhạc TCS sẽ bị chính quyền cấm. Và như thế thì làm sao có những buổi hội thảo chống chiến tranh? Làm sao TCS có thể đích thân tham dự, phổ biến nhạc phản chiến? Làm sao trở thành thần tượng, lôi cuốn đông đảo giới trẻ tham dự tại các trường Đai học Huế, Saigòn, Đà Lạt?
Về phương diện nầy, ta thấy ngay, MTGP đã khôn ngoan để TCS ở lại hậu phương địch, có lợi nhiều hơn là rút TCS ra mật khu.
Hơn nữa nếu TCS thoát ly ra mật khu, thì không phải tự ý y quyết định được, mà do Thành ủy Huế. Y không gặp nguy hiển như Tường và Phan, thì tại sao phải điều y ra mật khu? Trong khi nhu cầu hiện diện của y tại các đô thị, để hổ trợ cho các tầng lớp quần chúng đấu tranh, rõ ràng có lợi cho MTGP nhiều hơn.

Có một vài sự việc liên quan đến TCS tôi vẫn thuởng nghe trên một số báo chí, diễn đàn tranh cãi bàn luận:

1- Trinh Cung và một vài người đã: nói trong Mậu thân 1968 Trinh Công Sơn bị công sản giết hụt.
Ai giết hụt TCS? Hoàng phủ ngọc Tường? Hoàng Phủ Ngọc Phan? Nguyễn Đắc Xuân?
Ba tên ác quỷ này khi đó đang ở cánh Bắc của trận đánh Huế. Tức vùng chiến trận Quận I và Quận II. Cả ba đang say sưa lấy máu tươi, giết đồng bào vô tội, làm gì có thì giờ để mà sang quận III, nơi TCS trú ngụ? Mà nếu có qua được Quận III chăng nữa, thì cũng chỉ để ôm nhau vui mừng, cùng hát bài: “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Vì TCS với bọn này “vừa là đồng chí, vừa là anh em mà”
Tôi khi đó là phó Trưởng ty CSĐB, và là Quận trưởng quân III, vùng TCS trú ngụ. Vì vậy tôi biết rõ chuyện nầy lắm, xin đừng bịa đặt.
2-Ngày 30/4/1975 TCS cùng gia đình đã vào Phi trưởng Tân Sơn Nhất để đi cùng Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, nhưng TCS và gia đình đã bị ông Kỳ bỏ rơi. Lại một chuyện bịa đặt nữa.
Ngày 28 tháng 4/ 1975 tôi gặp TCS tại một địa điểm đã hẹn trước, tại thành phố Saigon. Tôi nói với TCS:
- “Tôi là người sẽ đưa anh đi. Đã có phương tiện cho anh và gia đình. Mỗi người chỉ mang một xách tay nhỏ mà thôi”.
TCS đã trả lời tôi:
- “Cám ơn Liên Thành, nhưng mình quyết định ở lại. Người cần đi là Liên Thành, nên đi gấp đi”.
Tôi chia tay TCS khoảng 11 giờ trưa ngày 28 tháng 4 năm 1975.
Sáng 30 tháng 4 năm 1975 khi tôi đang ở trên tàu ngoài vùng biển Vũng Tàu, thì TCS hát bài “Nối Vòng Tay Lớn” trên đài phát thanh Saigòn. TCS đón những người anh em đồng chí của TCS vào thành phố, để nối vòng tay lớn của quỷ, của lạc hậu, nghèo đói, cơ cực. Người chở TCS đến đài phát thanh Saigon sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngoài Nguyễn Hữu Đống còn có Nguyễn Hữu Thái. Nguyễn hữu Thái là tên đặc công thuộc thành ủy Saigòn, thủ phạm tung lựu đạn giết chết Giáo sư Nguyễn văn Bông Viện trưởng Học viên Quốc Gia Hành chánh
Cuộc chiến đã chấm dứt hơn 34 năm qua, nhưng vòng tay của qủy mà TCS đã mơ uớc để “nối vòng tay lớn” vẫn còn siết chặt vận mệnh dân tộc. Hẳn TCS dưới suối vàng vẫn còn vui lắm, vì có nhiều người vẫn còn ngưỡng mộ bài hát “Nối Vòng Tay Lớn” này!
Cái phi lý của hồi kết thúc của cuộc chiến này, mà một người thuộc thế hệ một rưỡi như Bác sĩ Châu An Huy Thành, trong một bài viết, đã phải ngậm ngùi:
“ Kể từ ngày 30/4/1975 đến nay, trong tâm khảm của tất cả ngừoi Việt Nam đều không nguôi câu hỏi: Tại sao Miền Nam lại thua? Tại sao cái đúng lại thua cái sai? Tại sao cái ác lại thắng cái thiện? Câu hỏi này không những đối với người Việt ở Miền Nam mà còn là câu hỏi cho cả thế hệ thanh niên lớn lên sau cuộc chiến tranh trong cả nuớc. Và mãi mãi sẽ là câu hỏi đau thuơng cho lịch sử việt Nam muôn đời sau”.
Tôi đã phải cúi mặt khi đọc câu hỏi này
Phải, đúng, thế hệ của chúng tôi đã có lỗi với quê hương, với đồng bào. Chúng tôi đã để cho “Cái đúng thua cái sai. Cái ác thắng cái thiện”. Thế nhưng chúng tôi đã thua vì không còn súng đạn, để chống lại súng đạn của toàn bộ lực luợng CS quốc tế. Chúng tôi có lỗi, nhưng chúng tôi cũng đã tận lực.
Ai đã gây ra chuyện không còn súng đạn này? Truy nguyên câu hỏi, chúng ta phải nhận thấy rằng, cái đau của Miền Nam là đã có những kẻ thờ ma CS, nối giáo cho giặc. Đã giúp tạo ra những biến động chính trị tại Sài Gòn và tại Miền Trung. Lửa của những cuộc xuống đường, tự thiêu, đấu tranh bạo động, đã là nguyên nhân cho phong trào phản chiến quốc tế và tại Mỹ. Cuối cùng, một số kẻ phản chiến tại Mỹ trở thành những vị dân cữ, nghị sĩ.. thẳng tay cắt viện trợ cho Miền Nam, một xu cũng chẳng! CS đã đi bộ vào Miền Nam, ngồi xổm lên ngôi vị thống trị, gây bao tàn hại cho đất nước, bán đứng tiền đồ non sông cho Bắc Kinh.
Trong suốt chiều dài cuộc chiến, Quân Lực VNCH, lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia, đã chế ngự được cái sai, họ đã bóp nát đựơc cái ác. Họ đã bảo vệ được bở cõi, bảo vệ được sinh mạng và tài sản của đồng bào. Thế nhưng, bên cạnh đó, là những kẻ lãnh đạo quân sự cũng như hành chánh, các vị gọi là “ chính trị gia” đã ươn hèn xu nịnh, đã bợ đỡ những thế lực tôn giáo đen tối để được vinh thân. Họ nhắm mắt làm ngơ, mặc đầu biết rõ rằng, những kẻ lãnh đạo tôn giáo mà họ đang dựa vào, là những tên Việt Cộng nằm vùng. Như Trí Quang, Thiện Siêu, Đôn Hâu, Chánh Trực, Như Ý v..v… họ không dám cuỡng, dám chống lại bọn chúng. Vì chống lại, họ sẽ mất hết danh vong tiền tài chức tước. Họ thuần phục Trí Quang, Đôn Hậu, Thiện Siêu, Chánh Trực thuần phục thần linh.
Ngoài những tên Cộng Sản đội lốt tu hành mà tôi vừa kể trên ,còn có một đám trí thức khoa bảng, sinh viên, đã được ông bà cha mẹ của bọn chúng dùng tiền bạc, dùng lúa gạo, dùng thực phẩn, dùng tinh hoa lễ nghĩa, đạo đức của miền Nam nuôi nấng dạy dỗ, đào tào chúng nên người, để rồi, một sớm một chiều, chúng quay lại phản bội ông bà, cha mẹ, anh em, bạn bè, đi theo Cộng Sản. Chúng đem AK về thành phố bắn phá, sát hại đồng bào. Bọn này là ai? bọn chúng là đám VC nằm vùng, là đám thành phần thứ ba, là đám giáo sư và sinh viên tại Huế mà tôi đã nêu tên họ nhiều lần ở phần trên. Và tôi sẽ lập đi lập lại những cái tên này cho đến mãn đời tôi. Điển hình là: Lê văn Hảo, Hoàng phủ ngọc Tuờng, Ngô kha, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Đắc Xuân, Phan duy Nhân, Phạm thị Xuân Quế. Và quá nhiều....

Từ sau 1963 đến 1972 đám VC đội lốt tu hành phối hợp với đám trí thức, SV cơ sở nội thành VC, đã phá nát miền Nam, đặt biệt là Huế. Hậu quả của những vụ tranh đấu của Trí quang 1966, vụ tàn sát đồng bào Huế trong Mậu Thân 1968, vụ mưu toan tổng nỗi dậy tại Huế vào 5/1972 để chiếm Huế làm thủ đô cho MTGPMN, trước khi ký hòa đàm Paris 1973, tất cả chính là con đường dẫn tới hậu quả đau thương của ngày 30/4/1975.
Sau 30/4, TCS đã không đuợc sử dụng. Tình trạng này là chung cho tất cả nhóm chính trị thuộc cái gọi là MTGPMN, chứ không riêng gì TCS. Cũng may cho TCS, sau này gặp bà Phan Lương Cầm, vợ thứ hai của Võ văn Kiệt. Bà Phan Luơng Cầm là con nuôi của Thiếu úy Phan tử Lăng trong quân đội Pháp tại Huế. Sau này Phan Tử Lăng trở thành đại tá trong quân đội Nhân dân của Võ nguyên Giáp. Bà Cầm say mê nhạc Trịnh Công Sơn, và nhờ đó, Trịnh Công Sơn được Sáu Dân, tức Võ văn Kiệt cứu vớt. Đời TCS bắt đầu sang một trang mới. Cất cánh giàu sang phú quí, quay lại hất hủi đám Trịnh Cung , Nguyễn hữu Đống và đám bạn bè tranh đấu cũ tại Huế, mà đã một thời tận sức, tận lòng giúp đõ TCS và gia đình y,.

Giấc mộng cưối đời của TCS là mong muốn trở thành đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam. Đúng như như Trịnh Cung đã viết trong bài “TCS và tham vong chính trị”. Khi giấc mộng vàng này bị Hoàng Hiệp, chính trị viên của Hội Âm Nhạc thành phố HCM, và cũng là cán bộ trách nhiệm quản lý TCS ngăn chận, bóp nát, thì TCS tức giận, phản ứng bắng lời những lẽ tục tĩu mà tôi không dám lập lại. Nhưng tôi không hề ngạc nhiên là TCS đã nói như vậy. Xin đọc bài của TC để biết TCS đã nói gì với Hoàng Hiệp
TCS muốn trở thành đảng viên CS chẳng phải vì lý tưởng hoặc thiết tha gì với đảng CS Việt Nam lúc đó nữa, mà vì quyền lợi của một đảng viên được hưởng khi còn sống và ngay cả khi đã chết.
Những ngày bênh họan, gần kề cái chết, mong ước của CTS là được an nghỉ trong nghĩa trang dành cho những đảng viên cộng sản.
Ngày 1/4/2001 TCS trút hơi thở cuối cùng. Gia đình TCS và nhất là Trịnh Xuân Tịnh, người em trai thứ hai của TCS đã vất vả chạy chọt, để cho TCS đuợc an nghỉ tại nghĩa trang dành cho đảng viên CS trong thành phố Sài Gòn, nhưng đã thất bại.
TCS bị chôn tại nghĩa trang Gò Dầu Hạ. Đó là nghĩa trang bình thuờng, không như uớc muốn. Nơi an nghỉ của những người mà bọn cộng Sản thường gọi là Ngụy Quân, Ngụy Quyền, Ngụy dân của chính quyền cũ.

Ba mưoi bốn năm đã trôi qua, nhiều tranh luận về “thiên tài” TCS, hắn là ai? là Quốc gia hay Cộng sản?
Là người, vì lý do nghề nghiệp, cùng thế hệ, tuổi đời suýt soát nhau, TCS là bạn của anh tôi, thành phố Huế lại nhỏ, nên tôi biết rất rõ và sâu về TCS. Nhưng tôi vẫn im lặng. Không phải vì sợ khi phải đụng đến “Thiên tài” Trịnh Công Sơn của một số không nhỏ những người đã và đang hết lòng xuýt xoa ngưỡng mộ, mà thật tình vì trong lòng xem thường TCS.
Bất hạnh thay quê hương xứ Huế và đất nước Việt Nam lại có “thiên tài” kiểu này. Đã từ lâu rồi, ít khi tôi muốn nhắc đến tên TCS. Rất nhiều người hỏi tôi về TCS, vì họ biết là tôi biết tận kẻ răng chân tóc toàn bộ nhóm nằm vùng Huế. Họ muốn tôi xác nhận TCS là ai? Có hoạt động CS không? tôi chỉ cười mà không nói. Thật ra thì cũng có phần muốn chờ xem có ai đó ngoài tôi ra, nói lên điều này. Bởi vì tôi tin rằng, tôi không phải là nguời duy nhất biết con người thật của TCS
Nhưng sau hai bài viết của Trịnh Cung, và anh Bằng Phong Đặng văn Âu, gây tranh luận giữa hai phe chống và bênh TCS, tôi quyết định nói ra toàn bộ sự thật. Vì bản thân hai bài viết cũng như rất nhiều ý kiến về TCS đều thiếu sót, mù mờ. Cũng dễ hiểu, vì cả hai tác giả trên có lẽ đều không biết nhiều, biết sâu về TCS, thì làm sao độc giả có thể tìm cho mình một thái độ, một lý do nào đó để tiếp tục, hoặc yêu, hoặc hận. Vì thế mà tôi đã phải nói ra những gì mà tôi biết, rồi quý vị và lịch sử tùy nghi suy nghĩ. Yêu vẫn cứ yêu, ghét vẫn cứ ghét. Không sao cả!.
Hay là quý vị có thể bình tĩnh hơn, để đánh giá và chọn cho mình một thay đổi tình cảm nào đó?
Đương nhiên, những gì tôi vừa trình bày trên sẽ gây sóng gió đụng chạm. Con người bình thường ai cũng muốn sóng yên biển lặng, tôi cũng không khác. Nhưng vì là người mang bản chất đương đầu, thấy việc sai trái khó thể làm ngơ, thì giữa sự thật và sóng gió, tôi chọn sự thật.
Tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm những gì tôi nói về TCS. Tôi sẵn sàng tranh luận với bất kỳ cá nhân nào, tổ chức nào muốn cùng tôi tranh luận về TCS ở bất cứ nơi nào, ngày giờ nào, trên các diễn đàn công luận. Nhưng tôi sẽ không tranh luận với bất cứ ai chỉ dùng bút danh, bút hiệu mà không có tên tuổi lý lịch thật, cũng như những ai không có những quan hệ ràng buộc tuơng đối với TCS, để có thể đưa ra những thông tin khả tín. Bởi vì nếu như thế, thì tôi xin trả lời như thế này: tục ngữ VN mình có câu: “ nói chuyện với cái đầu gối còn sướng hơn”
Có một điều làm tôi áy náy. Đó là khi nghĩ đến người bạn, người đồng đội cũ, một người rất dễ thưong, đại úy Trịnh Công Hà. Xin cho tôi gởi một lời xin lỗi độc nhất đến người bạn thân này.
“Xin lỗi Trịnh Công Hà. Tôi không còn cách nào khác, tôi phải nói ra sự thật. Mất miền Nam là trách nhiệm của chúng ta. Tôi và bạn cùng chung lý tưởng và chiến tuyến. Nhưng bất hạnh thay, anh của bạn thì không. Anh của bạn đã nối giáo cho giặc, rồi thì giặc bán đứng giang sơn!. Tôi có còn chọn lựa nào không?,
Trịnh Công Hà! Xin lỗi bạn.
Và có ai đó đặt câu hỏi cho tôi là sao không viết khi TCS còn sống? Sao không để TCS yên nghĩ. Thưa quý vị, tôi khó có thể viết khi TCS còn sống là bởi TCS có nhiều khả năng vẫn còn đang hoạt động cho tình báo ngoại quốc, có nhiều điều không thể bạch hóa. Còn câu hỏi sao không để TCS an nghĩ? Thưa quý vị, những tội lỗi với đất nuớc và dân tộc như thế, có chết ngàn năm cũng phải lôi ra….
Và lời cuối của tôi cho bài viết này, và cho TCS, đó là những nhận xét của Tố Hữu về những nhân vật nỗi tiếng của miền Nam, trong đó có TCS. Tố Hữu đã nhận xét về TCS như sau:
“TCS là thành phần không đáng tin cậy, lý lịch xấu. Cha và nhiều người trong gia đình thời trước đã tham gia quân đội Pháp, làm phòng nhì của quân đội Pháp tại Huế. Thằng này sống ngã theo chiều gió”.
“TCS đã bị Trần Hoàn trù yểm thì cũng chẳng có gì lạ”.
Tôi không biết khi còn sống, Trịnh Công Sơn có biết cộng sản đã nhìn TCS như vậy không? Chẳng lẽ tôi còn biết mà TCS lại không biết? Phủ phàng và nhục nhã quá! Thật uổng công nô bộc tận tụy với chính quyền Cách Mạng.
Tủi nhục cho thay cho bất cứ ai mãi tìm danh vọng trong địa ngục, như đám nằm vùng Trịnh Công Sơn.

Liên Thành


Nguồn: http://hoivanhoanguoiviettudo.com/HVHNVTD/main.php?div=B5s0mEMFxe5cTc1BwHhfr&idm=0&str=rLtcFmRdWQXETyZfw4525&ids=33&elc=nZ9D3MEt4n6rQ527LFqsW&ida=390&idv=R28GDPrDcX4ZcYq55RTpb&page=1&id=yXw3Y8fY7r2Bk8TLQEe07

“Của mình nhưng mà là phía Trung Quốc phụ trách” - Ngô Nhân Dụng

Ngô Nhân Dụng

Ngày còn nhỏ mỗi lần được thầy giáo trả bài luận văn, chúng ta thường nghe thầy dặn dò: Không được viết những câu đầy những chữ “rằng, thì, là, mà.” Câu văn trích dẫn trên tựa bài này thuộc loại văn thầy dậy nên tránh. Ðó là lối nói lòng thòng của các cụ già đời xưa quen dùng chữ Hán cổ khi nói năng, mở miệng ra là đầy những chữ “chi, hồ, giả, dã.”

Câu văn trên đây là văn của báo Sài Gòn Tiếp Thị. Nhưng nhà báo không tự viết mà đã dẫn nguyên văn lời nói của ông Nguyễn Thanh Hưng, cục trưởng một cái cục có tên khá dài cho thấy đây là một cục rất to, đó là "Cục Thương mại Ðiện tử và Công nghệ Thông tin", thuộc Bộ Công Thương. Ông Hưng nói rằng phần viết tiếng Việt trong trang “Website Hợp tác Kinh Tế Thương Mại Việt Nam và Trung Quốc” là do Trung Quốc “phụ trách”.

Sở dĩ phải có những lời giải thích “rằng, thì, là, mà.” trên đây vì phần tiếng Việt trong trang web này đã đăng những lời tuyên bố của quan chức nước láng giềng phía Bắc khẳng định rằng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền của chính phủ Bắc Kinh và họ dùng tên mà họ quen gọi, Nam Sa và Tây Sa.

Một trang web viết bằng tiếng Việt Nam lại có đuôi với những chữ “...gov.vn” tức là do chính quyền Hà Nội nắm quyền kiểm soát trong tay, giống như một thứ “công báo” của nhà nước. Nếu trang web đó lại đăng những lời xác định hai quần đảo của nước ta là thuộc một nước khác, thì đây là một hiện tượng đáng ngạc nhiên. Ai cũng phải ngạc nhiên. Trừ ba trường hợp:

a. những người khiếm thị nặng (mù); b. những người không biết và không bao giờ đọc tiếng Việt; hoặc c. những người hoàn toàn đồng ý với quan điểm chính phủ nước ngoài; và d. những người bán nước.

Vậy cái chính phủ làm chủ trang web trên của các ông Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng thuộc loại nào? Cả nước Việt Nam phải hỏi nhau câu hỏi đó. Nhiều người hỏi quá, sau cùng ông nhà nước Cộng Sản phải giải thích: Rằng trong trang web đó phần tiếng Việt Nam “của mình nhưng mà là phía Trung Quốc phụ trách.”

Người dân Việt lại càng thắc mắc: Vậy thì trong trang web này người Việt Nam phụ trách phần nào? Phần tiếng Congo, tiếng Nepal, hay tiếng Tagalog?

Chắc phải chờ các quan chức trong chính phủ Việt Nam trả lời cho câu hỏi này. (Xin quý vị lưu ý, chữ “chính” trong từ “chính phủ” hoặc “chính quyền” chỉ có nghĩa là thuộc về việc hành chính hoặc về chính trị, không có nghĩa tốt như khi nói “chính đáng,” “chính thống,” hoặc “chân chính,” dùng một chữ chính khác).

Sau khi nghe ông chính phủ cho biết phần thông tin bằng tiếng Việt trong một thứ công báo của chính quyền Việt Nam lại do người Trung Quốc phụ trách thì người dân nước Việt lại càng thắc mắc hơn. Ðồng bào ta muốn kiến nghị với các ngài rằng: Ngoài phần tiếng Việt trong cái trang web này ra, có những cái gì khác mà quý ngài đang làm là “của mình” nhưng “mà là do người Trung Quốc phụ trách,” mà người dân Việt Nam vẫn chưa biết? Xin quý ông Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng làm ơn thông báo hết những thứ “do người ngoại quốc phụ trách” để cho nhân dân không bị “sốc” vì những “cú” ngạc nhiên chết người như vầy.

Một thí dụ, nhiều người Việt tự hỏi không biết những bản nhạc được trình diễn trên sân khấu ở nước ta là do người nước nào quyết định. Một nước kiểm duyệt cả những bài báo cho tới bài ca đã là một mối nhục, nếu việc kiểm duyệt lại do người nước khác phụ trách thì “ê” lắm! Nghe nói nhạc sĩ Phạm Duy đã vô cùng mừng rỡ, mừng rớt nước mắt, khi được nhà nước Cộng Sản cho phép các ca sĩ hát bài “Tôi yêu tiếng nước tôi” của ông trên sân khấu. Người Việt Nam sống trên đất Việt Nam, muốn nói “yêu nước” cũng phải chờ được “trên cho phép!” Cái danh sách những bản nhạc được trình diễn chắc cũng là “của mình.” Nhưng không biết do người nước nào phụ trách? Nhạc sĩ Tô Hải, người đã gọi Phạm Duy là “chuyên viên trở cờ” trong cuốn hồi ký mới xuất bản của ông, đã than phiền mãi là hiện giờ tai ông phải nghe nhiều bài ca bắt chước nhạc ngoại quốc “chói tai” chịu không nổi. Ông Tô Hải cứ than như thế mãi, biết đâu có ngày ông sẽ ngạc nhiên vì có vị quan chức văn hóa tư tưởng nào đó tiết lộ: Danh sách các bản nhạc được trình diễn là “của mình” nhưng lại do các cô con gái của ông bà Obama phụ trách!

Nguyễn Thanh Hưng
Những lời giải thích của ông Nguyễn Thanh Hưng, cục trưởng cái cục to tướng, được đưa ra sau khi các quan chức khác trong chính quyền Hà Nội đã công nhận rằng việc đăng những lời của quan chức Trung Quốc nói ngược hẳn với các tuyên bố của bộ Ngoại giao Việt Nam là một “sai sót.” Ðó là một lời hiếm hoi, vì thường thì chỉ sau khi giết hàng trăm ngàn người oan chết oan nhà nước Cộng Sản mới chịu công nhận là mình làm sai và xin được sửa sai.

Nhưng sai sót như thế nào? Ngày 15 Tháng Năm có tin ông Lưu Vũ Hải, Cục trưởng một cái cục còn to hơn vì cái tên dài hơn, là “Cục Quản lý phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử”, cho biết ông đã coi trang web www.vietnamchina.gov.vn, và thấy có “những thông tin 'không có lợi'.”

Không có lợi cho ai, không có lợi về cái gì? Một bản tin của nhà nước nói rõ hơn: “ ... nội dung không có lợi cho chính sách ngoại giao” của nhà nước cộng sản. Chỉ có thế thôi: Không có lợi.

Lưu Vũ Hải
Nghe cũng giống như một ông bố nghe thằng con nó đi đâu về nhà, nó chỉ mặt bố “chửi cha” cả ông bà nội nó, mà ông bố chỉ khuyên con: Ngài nói thế không có lợi! Việc xác định chủ quyền của một nước khác trên phần đất của tổ tiên mình, lại viết trên trang báo của mình, thì lối chửi đó còn nặng hơn là chửi cha nữa. Trước hành động ngang ngược đó, một chính phủ biết bảo vệ quyền lợi quốc gia thì phải lập tức công khai lên án nghiêm khắc. Phải nói ba năm rõ mười rằng: “Nội dung bản thông tin đó sai, hoàn toàn sai.” Phải long trọng nói: “Chúng tôi cực lực cải chính và chính thức phản đối việc thông tin xuyên tạc sự thật này.” Có như vậy mới xác định được chủ quyền quốc gia và gỡ được danh dự quốc gia. Không thể chỉ nói suông: Không có lợi! Mà lại chỉ nói cho trong nước nghe với nhau thôi!

Một chính quyền có danh dự thì sau khi thấy người nước khác dùng ngay một web site của nước mình viết những lời phủ nhận chủ quyền của nước mình trên đất đai của tổ tiên mình, thì tuyên bố suông cũng không đủ. Phải lập tức gửi công hàm ngoại giao phản đối, phản đối chính thức và làm ầm lên cho cả thế giới cùng nghe. Chứ không thể nào cứ đóng cửa im ỉm rồi quay ra nói nho nhỏ đủ trong nhà bố con nghe với nhau, rằng chúng nó làm như thế là “không có lợi.” Cái thằng ngoại quốc nó vào nhà mình viết bậy viết bạ ngay trên tường trong nhà mình, chửi cha mình lên, mà không dám mắng nó, chỉ khe khẽ bảo con cháu trong nhà rằng nó làm như vậy là “không có lợi!” Một chính quyền như vậy gọi là cái giống gì?

Hãy tạm trả lời câu hỏi cuối cùng này: Ðó là một chính quyền Cộng Sản! Nói như vậy tạm đủ.

Nhìn vào cách chính quyền Cộng Sản Việt Nam phản ứng lúng túng và hèn nhát trước cơn phẫn nộ của báo chí trong nước, chúng ta thấy những triệu chứng của một sự sụp đổ đang bắt đầu. Sự sụp đổ sẽ diễn ra khi nào chính các đảng viên Cộng Sản thấy rằng cái đảng đó cũng là “Của mình nhưng mà là phía Trung Quốc phụ trách!”

Ngô Nhân Dụng


Đế Quốc Bắc Phương Thôn Tính Biển Đông - Luật Sư Nguyễn Hữu Thống

    Đế Quốc Bắc Phương Thôn Tính Biển Đông.
    Đại Hán Trên Đường Suy Thoái
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống

Trở Về Với Nhân Loại Văn Minh?

Ngày 13-5-2009 là thời hạn cuối cùng cho các quốc gia duyên hải đăng ký đơn yêu cầu Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc cho mở rộng thềm lục địa từ 200 hải lý đến mức 350 hải lý. Đến ngày đó có hơn 50 quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc đã đệ đơn thỉnh nguyện (submission), hoặc từng phần hoặc toàn bộ, về việc định ranh thềm lục địa cho quốc gia mình.

Sau những tính toán và do dự, vào ngày chót Trung Quốc đã đệ đơn thỉnh nguyện tại Ủy Ban Phân Ranh. Đơn nạp chậm nhưng không trễ.

Từ năm 1994 khi Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển có hiệu lực chấp hành, Bắc Kinh không bao giờ lý vấn đến Công Ước mà họ đã ký tại Đại Hội Liên Hiệp Quốc về Luật Biển Kỳ III năm 1982. Năm 1992, họ tự tiện ban hành Luật Biển áp dụng riêng cho Trung Quốc, bất chấp các điều khoản và các thủ tục điều giải và tố tụng quy định trong Công Ước. Đó là những phương thức ôn hòa và đối thoại bình đẳng áp dụng cho các quốc gia văn minh trên thế giới dầu có gia nhập Công Ước hay không. Đối với các quốc gia không ký Công Ước Luật Biển, các quy luật cố định của Luật Tục Lệ Quốc Tế do Tòa Án Quốc Tế The Hague ban hành vẫn có giá trị toàn cầu. Ba nguyên lý căn bản trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Hòa Bình, Hữu Nghị và Công Lý, có hiệu lực đối với tất cả các quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc. Riêng về Luật Biển các đường lối giải quyết mâu thuẫn và tranh chấp là hòa giải, điều đình và thỏa hiệp. Sau mới nhờ tới các cơ quan trọng tài và tòa án về Luật Biển.

Vì vậy, do hành vi đệ đơn thỉnh nguyện, Trung Quốc đã minh thị thừa nhận thẩm quyền của Liên Hiệp Quốc qua Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa. Mà không thừa nhận sao được, vì Trung Quốc vẫn tự hào là một hội viên thường trực của Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết?

Vì đã thừa nhận Công Ước, từ nay Trung Quốc phải tuân hành Công Ước với những điều khoản và những phương thức điều giải và tố tụng nêu trên. Một trong nững phương thức này là không sủ dụng bạo hành võ trang.

Dầu sao đây cũng là một bước tiến đáng kể choTrung Quốc có cơ hội trở về với nhân loại văn minh.

Mà nếu đã chịu tuân hành Luật Pháp Quốc Tế và Luật Tục Lệ Quốc Tế thì từ đây về sau, Trung Quốc không còn được sử dụng Luật Rừng Xanh của loài cầm thú và loài tôm cá, với mạnh được yếu thua và cá lớn nuốt cá bé.

Nhìn lại lịch sử cận kim, trong thập niên 1960, cuộc Cách Mạng Văn Hóa đã phá nát Trung Quốc về văn hóa, kinh tế, nhân sự và những giá trị tinh thần. Qua thập niên 1970 Trung Quốc bắt đầu phục hồi. Được gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 1971 thay thế Đài Loan, Trung Quốc trở thành một ngũ cường. Sau khi thiết lập bang giao với Hoa Kỳ năm 1979, Trung Quốc hội nhập vào cộng đồng thế giới. Từ đó, với chính sách “mèo đen mèo trắng” của Đặng Tiểu Bình, chủ nghĩa xã hội độc quyền bị thay thế bởi chủ nghĩa thực dụng về mặt kinh tế.

Vấn Đề Thềm Lục Địa

Năm 1982, phái đoàn Trung Quốc đến Montego Bay Jamaica tham dự Đại Hội Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Lúc này các cường quốc Anh, Mỹ không ký Công Ước vì họ chưa thỏa mãn về quy chế khai thác hải sản tại biển sâu ngoài vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia duyên hải. Ba ngũ cường còn lại, Liên Sô, Pháp và Trung Quốc đóng vai chủ chốt. Tự ái quốc gia được thỏa mãn, Trung Quốc hoan hỷ ký Công Ước. Ký xong Trung Quốc mới thấy lo. Ký Công Ước thì phải theo Công Ước. Những điều khoản Công Ước lại quá rõ rệt: Các quốc gia duyên hải chỉ được hưởng quy chế 12 hải lý Biển Lãnh Thổ và 200 hải lý vùng Đặc Quyền Kinh Tế để đánh cá đồng thời là Thềm Lục Địa 200 hải lý để thăm dò và khai thác dầu khí.

Tại Biển Nam Hoa hay Biển Đông Nam Á mà người Việt gọi là Biển Đông, từ các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa về Hoa Lục có 2 rãnh biển sâu tới 2600m trong hải phận Hoàng Sa phía bắc, và sâu hơn 5000m tại hải phận Trường Sa phía nam. Theo Tòa Án Quốc Tế The Hague và Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, vì đáy biển không phải là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa từ đất liền ra ngoài biển, Trung Quốc không có triển vọng đòi mở rộng thềm lục địa pháp lý 200 hải lý thành thềm lục địa địa chất 350 hải lý tính từ Biển Lãnh Thổ ra khơi.

Trong mọi trường hợp, các hải đảo Trường Sa nằm quá xa bờ biển Trung Quốc, (từ 550 hải lý đến 900 hải lý) nên không thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa có triển vọng có dầu khí do các chất hữu cơ tích lũy trong các thủy tra thạch (sediment) từ các nguồn nước phù sa Sông Hồng Hà và Sông Cửu Long, con sông dài nhất Đông Nam Á, từ cao nguyên Tây Tạng đổ ra biển. Không có con sông lớn nào từ đảo Hải Nam hay từ Hoa Lục chẩy ra Biển Đông.

Trong khi đó, tại vùng bờ biển Việt Nam, thềm lục địa địa chất hay nền lục địa (continental margin) chạy thoai thoải từ dẫy Trường Sơn ra vùng biển Hoàng Sa phía đông Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Độ sâu nhất quanh đảo Hoàng Sa là 900m. Về mặt địa chất và địa hình đáy biển, các đảo Hoàng Sa là một hành lang của dẫy Trường Sơn chạy từ Cù Lao Ré ra các đảo Tri Tôn, Hoàng Sa và Phú Lâm. Đây là những cao nguyên của thềm lục địa Việt Nam trên mặt biển. Năm 1925 nhà địa chất học quốc tế, Tiến Sĩ Khoa Học A. Krempt, Giám Đốc Viện Hải Học Đông Dương, sau hai năm nghiên cứu về địa chất, đo đạc và vẽ bản đồ hải đảo và đáy biển, đã lập phúc trình và kết luận “Về mặt địa chất những đảo Hoàng Sa là thành phần của Việt Nam” (Géologiquement les Paracels font partie du Vietnam).

Tại Trường Sa cũng vậy. Về mặt địa chất, độ sâu và địa hình đáy biển, các đảo Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền ra ngoài biển. Tại bãi Tứ Chính nơi khai thác dầu khí, biển sâu không tới 400m, và tại vùng đảo Trường Sa và cồn An Bang, độ sâu chỉ tới 200m. Bãi Tứ Chính nằm cách bờ biển Việt Nam 190 hải lý và cách lục địa Trung Hoa 800 hải lý. Như đã trình bày, Trường Sa cách Hoa Lục bằng một rãnh biển sâu tới 5062m, nên không được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Mở Rộng (Extended Continental Shelf). Mà dầu có mở rộng tối đa đến mức 350 hải lý, cũng không lấp được khoảng trống 800 hải lý từ đất liền ra hải đảo. Vì những lý do nói trên, các đảo Trường Sa không thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc trong mọi trường hợp.

Đuối về pháp lý, Trung Quốc không bao giờ đặt vấn đề tranh luận công khai về Biển Đông với các quốc gia Đông Nam Á. Mà cũng không dám đưa vụ tranh chấp hải đảo tại Nam Hải ra trước các cơ quan hòa giải, trọng tài hay tố tụng như Ủy Ban Hòa Giải, Hội Đồng Trọng Tài hay Tòa Án Luật Biển. Đó cũng là nhận định của học giả Trung Quốc Lô Chi-Kin trong Luận Án Tiến Sĩ đệ trình Đại Học Kinh Tế Chính Trị Luân Đôn năm 1986: “On its position over the islands, China has been most reluctant to subject the disputes to international legal arbitration”.

Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc.

Căn cứ vào những điều kiện tâm lý nói trên, chúng ta ghi nhận Trung Quốc đã tiến bộ khi nạp đơn thỉnh nguyện ngày 13-5-2009 tại Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên họ chỉ xuất trình mỗi một tấm Bản Đồ Lưỡi Bò để đòi chủ quyền hải phận theo hình lưỡi bò mà trước kia họ gọi là Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc.

Năm 1982, sau khi ký Công Ước về Luật Biển, Bắc Kinh tập hợp 400 học giả Trung Quốc, ngày đêm nghiên cứu, thảo luận trong suốt 10 năm để kết luận rằng Nam Hải là biển lịch sử của Trung Hoa từ hơn 2000 năm. Rồi họ hội nghị với 100 nhà trí thức Đài Loan để nhất trí xác nhận sự kiện lịch sử này.

Theo Bắc Kinh, Lưỡi Rồng Trung Quốc có một diện tích bao la bằng phân nửa lục địa Trung Hoa. Nó chiếm hơn 80% hải phận Biển Đông Nam Á, cách bờ biển Quảng Ngãi (Việt Nam) 40 hải lý, cách Natuna (Nam Dương) 30 hải lý, cách Sarawak (Mã Lai) và Palawan (Phi Luật Tân) 25 hải lý. Nó chiếm trọn 3 túi dầu khí đang khai thác là Bãi Tứ Chính (Vanguard Bank) của Việt Nam, bãi Natuna của Nam Dương và bãi Cỏ Rong (Reed Bank) của Phi Luật Tân.

Chiếu Điều 76 và 77 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, các quốc gia duyên hải có chủ quyền tuyệt đối và đặc quyền chuyên hữu 212 hài lý (gồm 12 hải lý Biển Lãnh Thổ và 200 hải lý Thềm Lục Địa) tính từ đường cơ sở của bờ biển quốc gia (thông thường là mực nước thủy triều xuống thấp). Trong trường hợp này Lưỡi Bò Trung Quốc đã “liếm sâu” 172 hải lý vào thềm lục địa Việt Nam, 182 hải lý vào thềm lục địa Nam Dương và 187 hải lý vào các thềm lục địa của Mã Lai và Phi Luật Tân. Đây là những vi phạm thô bạo vào chủ quyền lãnh thổ của 4 quốc gia hội viên của Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN). Để chống lại âm mưu xâm lấn thô bạo này, sự kết hợp giữa Việt Nam phía Tây và các quốc gia phía Đông Nam như Nam Dương, Mã Lai, Brunei và Phi Luật Tân là việc phải làm.

Đó là Sách Lược Bắc Cự Bá Quyền.

Kết Hợp Đông Nam.

Thuyết Biển Lịch Sử của Trung Quốc khiến chúng ta liên tưởng đến Thuyết Biển Lịch Sử Địa Trung Hải của Đế Quốc La Mã hồi đầu thế kỷ thứ nhất. La Mã gọi Địa Trung Hải là “Biển của Chúng Tôi” (Mare Nostrum). Vùng biển này còn rộng hơn cả Biển Đông Nam Á. Nó chạy từ Tây Ban Nha qua Pháp, Ý, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ đến toàn vùng biển Trung Đông và Bắc Phi.

Khách quan mà xét, trong thế kỷ 21, nếu còn nói đến Biển Lịch Sử Trung Quốc tại Đông Nam Á thì chỉ là đại ngôn hay một trò hề lố bịch. Lý do giản dị và dễ hiểu là Biển Đông Nam Á tọa lạc tại miền nhiệt đới Đông Nam Á, trong khi Trung Hoa nằm giữa miền ôn đới với Đông Trung Quốc Hải, Biển Hoàng Hải và Bắc Hải.

Tranh Nghị hay Bất Khả Tranh Nghị?

Điều khôi hài hơn nữa là, sau khi đòi cưỡng chiếm hơn 80% hải phận Biển Đông Nam Á mà không viện dẫn được điều khoản hay nguyên tắc nào của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển hay của Tòa Án Quốc Tế The Hague, Bắc Kinh còn võ đoán khẳng định rằng vấn đề chủ quyền của Trung Quốc tại biển Nam Hải là bất khả tranh nghị!

Trong kỷ nguyên hiện nay, với Luật Pháp Quốc Tế thay thế Luật Rừng Xanh, và với hội trường thay thế chiến trường, chúng ta khẳng định rằng không có điều gì, việc gì hay vấn đề gì là bất khả tranh nghị theo lối cả vú lấp miệng em của phe bá quyền Trung Quốc. Luận điệu này chỉ có thể đưa ra trong những triều đại độc tài phong kiến và độc tài đảng trị đời Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Minh Thành Tổ và Mao Trạch Đông.

Rút kinh nghiệm sinh hoạt nghị trường và sinh hoạt hội đoàn, mọi người đồng ý rằng có tranh luận mới tìm ra Chân Lý. Theo lời minh triết của cổ nhân “Từ tranh luận mới nẩy ra ánh sáng và sự thật.” (De la discussion jaillit la lumière; Light flashes from discussion; Truth springs from discussion). Sở dĩ ngày nay Bắc Kinh không dám tranh luận vì không có cơ sở pháp lý để đòi cưỡng chiếm hơn 80% thềm lục địa của các quốc gia ven bờ biển Đông Nam Á. Hơn nữa Điều 77 Luật Biển công nhận thềm lục địa thuộc chủ quyền tuyệt đối của các quốc gia duyên hải mà ngoại bang không được quyền cưỡng chiếm.

Điều mà chúng ta muốn nhắn nhủ nhà cầm quyền Bắc Kinh là Thuyết Biển Lịch Sử ngày nay đã bị nhân loại văn minh vứt vào thùng rác lịch sử.

Thật vậy, áp dụng Luật Tục Lệ Quốc Tế và Công Pháp Quốc Tế, Tòa Án Quốc Tế The Hague và Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển đã minh thị phán quyết và quy định như sau:

“Biển Lịch Sử là nội hải tọa lạc về phía bên trong đất liền, hay về phía bên trong đường cơ sở của biển lãnh thổ". (The International Court of Justice has defined “historic waters” as “internal waters”. Waters on the landward side of the baseline of the territorial sea form part of the internal waters of the State”: UK vs. Norway, 1951, ICJ 116, 130; Art. 8 LOS Convention 1982).

Và công trình 10 năm nghiên cứu của 500 trí thức và học giả Trung Hoa rốt cuộc chỉ là công “dã tràng se cát Biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì!”

Như vậy Biển Đông Nam Á hay Nam Hải không phải là Biển Lịch Sử của Trung Quốc vì nó là ngoại hải, cách bờ biển Trung Hoa đến 2000km.

Vấn Đề Chính Danh: Chủ Quyền hay Vị Trí?

Nói về danh xưng, chúng ta phải đặt vấn đề chính danh. Biển Nam Hoa chỉ là tên gọi do các nhà thám hiểm hàng hải quốc tế đặt ra khi họ vượt Ấn Độ Dương qua Eo Biển Malacca tới Thái Bình Dương. Trên bản đồ thế giới có nhiều tên biển tương tự như vậy.

Từ thế kỷ 15 phong trào thám hiểm đại dương bột phát với Columbus tại Mỹ Châu, Vasco de Gama và Magellan tại Á Châu.

Khi vượt Đại Tây Dương qua Mũi Hảo Vọng đến Ấn Độ Dương, các tàu xuyên dương chạy tới vùng biển của các quốc gia duyên hải như Saudi Arabia, Yemen, Iraq, Ba Tư, Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai. Tại Ấn Độ Dương, về phía tây bắc có biển Arabia (Arabian Sea) tiếp giáp Yemen, Oman, Saudi Arabia, Iraq, Ba Tư. Như vậy, Biển Arabia không thuộc chủ quyền riêng biệt của Saudi Arabia, cũng như Ấn Độ Dương không thuộc chủ quyền riêng biệt của Ấn Độ.

Tại Thái Bình Dương cũng vậy. Tại Biển Nhật Bản (Sea of Japan) các quốc gia duyên hải là Nhật Bản, Đại Hàn, Bắc Hàn và Công Hòa Nga nên không thuộc chủ quyền riêng biệt của Nhật Bản.

Nói tóm lại về mặt danh xưng, nếu Ấn Độ Dương không thuộc chủ quyền riêng biệt của Ấn Độ, Biển Nhật Bản không thuộc chủ quyền riêng biệt của Nhật Bản, thì Biển Nam Hoa hay Nam Hải (South China Sea) cũng không thuộc chủ quyền riêng biệt của Trung Quốc. Biển này tiếp giáp các quốc gia Đông Nam Á như Việt Nam, Tân Gia Ba, Nam Dương, Mã Lai, Brunei và Phi Luật Tân.

Theo Tự Điển Từ Hải xuất bản năm 1948 “Nam Hải thuộc chủ quyền lãnh thổ chung của 5 quốc gia là Trung Quốc, Việt Nam, Mã Lai, Phi Luật Tân và Đài Loan” (đúng ra là Nam Dương tại miền nhiệt đới). Khi các nhà thám hiểm hàng hải quốc tế đến vùng biển gần Ấn Độ, họ gọi đó là Ấn Độ Dương. Không phải để xác định chủ quyền hải phận của Ấn Độ, mà chỉ ghi nhận vị trí vùng biển này tiếp giáp Ấn Độ.

Tại Thái Bình Dương cũng vậy. Khi tầu vượt qua Eo Biển Malacca đến miền duyên hải Trung Quốc, muốn cho tiện, họ gọi đó là Biển Nam Hải (ngoại nhân xưng Nam Trung Quốc Hải). Mục đích chỉ để thông báo cho các thủy thủ biết vị trí vùng biển này tiếp giáp Trung Quốc.

Về mặt lịch sử, từ đời Tần Thủy Hoàng, Nam Hải là một quận của Trung Quốc thuộc tỉnh Quảng Đông, cách huyện Hải Phong 50 dặm về phía nam. Theo các học giả Trung Quốc, Nam Hải, trước kia mang tên Trường Hải, là “vùng biển kéo dài từ Eo Biển Đài Loan đến Quảng Đông” The Southern Sea stretches from the Taiwan Strait to Kwantung: A New Practical Chinese-English Dictionary, Hongkong 1971).

Năm 1982, sau khi ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, Trung Quốc phủ nhận Công Ước bằng cách vẽ lại bản đồ và đòi chủ quyền lãnh thổ toàn vùng Biển Đông Nam Á, bất chấp mọi phản kháng của các quốc gia duyên hải trong khu vực. Từ 1955, với Chính Sách Đại Hán do Mao Trạch Đông đề xướng, Bắc Kinh coi Biển Nam Hải là một thứ nội hải của họ theo kiểu Đế Quốc La Mã ngày xưa coi Địa Trung Hải là “Biển Của Chúng Tôi” (Mare Nostrum).

Ngày nay thuyết Biển Lịch Sử chỉ còn là một khẩu thuyết vô bằng. Bàn về yêu sách Lưỡi Rồng của Trung Quốc, các học giả tại Trung Tâm Hải Dương Đông Tây (Hawaii) phải kêu lên rằng: “Không có điều khoản hay ngyên tắc nào trong Công Pháp Quốc Tế cho phép Trung Quốc đòi như vậy!”.

Ngày 13-5-2009 Chính Phủ Bắc Kinh nạp phúc trình tại Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa, không phải để yêu cầu được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Mở Rộng 350 hải lý như 50 quốc gia duyên hải khác. Mà để đòi Liên Hiệp Quốc xác nhận chủ quyền hải phận của họ từ bờ biển Quảng Đông, qua các bờ biển Việt Nam, Nam Dương, Mã Lai, Brunei và Phi Luật Tân. Vùng hải phận này chiếm hơn 80% Biển Đông Nam Á, dài hơn 900 hải lý và rộng hơn 600 hải lý. Theo ngoa ngôn của Bắc Kinh, nó có một diện tích bao la bằng phân nửa toàn thể lục địa Trung Hoa.

Kết quả dễ thấy nhất là đơn thỉnh nguyện của Trung Quốc trước sau rồi cũng sẽ bị Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc không cứu xét hay bác bỏ.

Việc Trung Quốc có thực sự muốn trở về với Nhân Loại Văn Minh hay không còn là vấn đề chúng ta phải cảnh giác theo dõi.

Có điều hiển nhiên là, ngày nay, Đế Quốc Đại Hán đang đi trên đường suy thoái.

Luật Sư Nguyễn Hữu Thống
Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Bảo Vệ Dân Quyền
(Hạ tuần tháng 5-2009)