Sunday, May 17, 2009

Quả BOM thả trong trận Long Khánh - Trần Lý


Trần Lý

Trong Trận Long Khánh (Tháng 4 năm 1975), Không Quân Việt Nam Cộng Hòa có thả một quả bom đặc biệt, tiêu diệt cả Sư đoàn (?) quân CSBV, chặn đứng được cuộc tiến quân của chúng. Cho đến nay hảy còn nhiều câu hỏi quanh quả bom này và nhiều câu trả lời chưa được chính xác.

- Đại tá Hùa Yến Lến (Tham mưu trưởng Hành quân SĐ 18 BB) gọi nó là CBU 82 (Daisy Cutter), cho rằng do Tướng Lê Minh Đảo (Tư lệnh SĐ 18 BB) đề nghị, và được Bộ TTM QLVNCH chấp thuận qua trung gian của Tướng Nguyển văn Toàn (Tư lệnh Quân Đoàn 3) để được sử dụng.

- Tướng Trần Quang Khôi (Tư lệnh Lực lượng Xung Kích QĐ3) ghi lại rằng: chính Ông sử dụng 2 quả bom CBU của KQ Biên Hòa trên chiến trường Long Khánh để chặn đứng quân địch và giải cứu Chiến đoàn 52 /SĐ 18 BB của ĐT Dũng khỏi bị tiêu diệt.

- Khi trả lời các câu hỏi của Nhà báo Vũ Mạnh Hùng trong cuộc phòng vấn dành cho Đài truyền hình Little Saigon TV tại Santa Ana và Hệ thống Truyền hình VN VBN tại New Jersey, Tướng Lê Minh Đảo cho biết: Ông không cần biết VNCH còn mấy quả bom loại này, CQ cứ tấn công thì Ông sẽ ... tiêu diệt chúng; và các cấp chỉ huy CSBV đã nhiều lần đến Trại Tập trung để hỏi Ông về quả bom này mà họ cho là bom neutrons của Mỹ (?)

- Nhà báo Mỹ Alan Dawson trong ’55 days-The Fall of South VN’ thì ghi rẳng đây là các quả bom CBU được đưa từ Utapao đến Biên Hòa vào đãu tháng 4 năm 1975.

- Tác giả Chính Đạo (Tiến sĩ Sử học), trong tâp sách 55 Ngày đêm, Cuộc xụp đổ của VNCH ghi rằng VNCH đã sử dụng cả CBU lẫn ‘Daisy Cutter’ (nghĩa là 2 loại bom..khác nhau !) tại Mặt trận Long Khánh.

- Tác giả Nguyển đức Phương trong ‘Những Trận đánh Lịch sử trong Chiến tranh VN 1963-1975 cho rằng: Tướng Toàn đã ra lệnh thả 2 quả Daisy Cutter tại Trận Long Khánh và giải thích lý do chỉ 2 quả được thả (trong số 5 quả còn lại) vì Hà nội phản kháng (!)

- Tác giả Trọng Đạt trong bài "Trận Xuân lộc Chiến thắng cuối cùng" (Nguyệt San Việt Nam Online) có ghi khá nhiều chi tiết về các quả bom này kể cả tên (viêt tắt) của các phi công đã thả (xin xem phần dưới) các quả bom đặc biệt này.

- Viện Khoa Học Quân sự của CSVN thì ghi lại (theo tài liệu của Dawson) là KQ VNCH đã thả 1 quả bom CBU-55 xuống Ngã ba Dầu Giây Long Khánh vào ngày 21 tháng 4 năm 1975.

- Như vậy quả bom thả tại Long Khánh là bom gì ?. Tác dụng của các quả bom này đã khiến CS phài la hoảng thì tại sao lại chỉ thả 1, 2 quả và ai thả ?

- Từ CBU.

Chiến trường Việt Nam đã được xem là nơi Hoa Kỳ thử nghiệm rất nhiều loại võ khí, từ võ khí quy ước đến những võ khí điện tử tối tân. Cũng tại VN, Hoa Kỳ đã tiêu thụ được khá nhiều bom-đạn còn tồn trữ từ sau Thế chiến thứ 2. Một trong những vũ khí được KQ HK sử dụng nhiều nhất là bom, và bom còn được chia thành 2 nhóm : Bom khôn (Smart bomb) và Bom ngu (Dumb bomb). Bom ngu, dĩ nhiên là do Phi công thả và do tài của Phi công để bom rơi trúng mục tiêu, còn Bom khôn thì được điều khiển bằng laser, radar để tự tìm đến mục tiêu.

Một trong những sáng kiến về Bom mà các kỹ sư võ khí HK đưa ra áp dụng tại VN là CBU hay Cluster Bomb Unit. Thật ra CBU chỉ là một áp dụng của việc nghiên cứu về loại vỏ khí có tên là Rổ bánh mì Molotov (Molotov bread basket) dùng năm 1937 trong Trận Nội chiến Tây Ban Nhạ Rổ bánh mì, đơn giản, chỉ là một thùng lớn chứa nhiều quả bom nhỏ để khi phi cơ thả xuống, thùng mở ra và rải các quả bom nhỏ trên một diện tích rộng lớn. Như thế Cluster Bomb hày Bom chùm chỉ có mục đích là mở rộng vùng sát thương của Bom khi thả xuống mục tiêụ.

Tại chiến trường VN, nhiều loại CBU đã được chế tạo: loại chống bộ binh là loại thường được dùng nhất, rồi đến loại chống chiến xa, chống các tiếp liệu quân sự có loại chứa đầy mìn và có loại chứa nhiên liệu đặc gây cháy.

- CBU chống bộ binh cũng có nhiều loại như CBU-24 chứa 600 quả bom nhỏ cở trái banh golf, mỗi quả golf nhỏ này khi nổ còn phóng ra 300 mảnh thép nhỏ chứa bên trong; CBU-46 bom chùm dạng như quả dứa, khi nổ còn tung mảnh ra xa hơn, vùng sát thương rộng hơn..Các loại CBU này thường được KQ HK sử dụng khi bay tấn công đường mòn HCM.

- Một trong những loại CBU chống chiến xa được dùng tại VN là MK-20 Rockeye, khi nổ sẽ phóng ra những bom nhỏ hình mũi tên dài 9 inches, chứa đầu nổ có thể xuyên phá lớp vỏ thép của chiến xa.

- Về CBU chứa mìn: 2 loại chính dùng trên chiến trường VN là Dragonteeth và WAAPM (Wide Area Anti Personnel Munition). Dragonteeth chứa những mìn nhỏ có khả năng gây mất..chân binh sĩ địch khi nổ, nhưng không gây chết người còn WAAPM, được giử rất bí mật trong chiến tranh VN: WAAPM được thả xuống trong các thùng nhựa plastic, khi chạm đất sẽ phóng ra các sợi thép mỏng manh như chân nhện, nếu chạm vào sợi thép, mìn sẽ nổ Bom được dùng thể thả vào các ổ phòng không của CSBV.

- Loại CBU thứ tư là là loại Bom chùm gây cháy (Cluster bomb incendiary device). Loại bom này cũng có tên là Fuel Air Explosives CBU-55 là bom thuộc loại này, chứa nhiên liệu propane: CBU-55 nặng 750 pound (khoảng 340 kg) gồm 3 ngăn: một ngăn chứa propane, một ngăn chứa hỗn hợp khí khác và một ngăn chứa ngòi nổ. CBU-55 dài khoảng 2.3 m, đường kính 0.36 cm. Có 2 loại CBU-55: Loại thứ nhất CBU-55/B chứa 3 bom BLU-73A/B đặt chung trong Hệ thống chứa SUU-49/B và loại thứ nhì là CBU-55 A/B chứa 3 BLU-73A/B trong thùng SU-49 A/B. Sự khác biệt là SUU-49B chỉ có thể thã bằng trực thăng hay phi cơ bay chậm, trong khi đó SUU-49A/B có thêm vi đuôi xếp lại nên có thể thả bằng các phi cơ bay nhanh như A-37, OV-10.. Các bom BLU nhỏ nặng khoảng 45 kg chứa ethylen oxyde lỏng. Khi nổ bom sẽ làm văng các giọt ethylen, tạo thành một đám mây nhiên liệu đường kính từ 17-25 m ở độ cao 2-3m. Đám mây này được kích hỏa bằng một ngòi nổ.. tạo thành một quầng lửa gây ngạt do thiếu oxy cho các sinh vật trong vùng.

Theo Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam của Hà nội thì tại Việt Nam CBU-55 đã được sử dụng tại chiến trường Quảng trị (1972) và tại Bến Tre (tháng8-72) thả xuống ấp 1, xả Tam Phước và giữa tháng 7-1973, thả xuống Giồng Trôm.. Cũng theo CSBV, thì CBU-55 cũng là quả bom thả xuống Xuân lộc trong tháng 4 năm 1975 ?!.

Trong bài: ’Kỷ niệm nhỏ với Đồng đội Chiến trường xưa’ trên Nguyệt San Việt Nam On-line, Tác gỉa NgyThanh ghi lại như sau: ‘ Khi chiến xa T-54 của Cộng sản từ Tỉnh lộ 8B ở thôn Cam Võ trên bờ Bắc tràn qua sông Miếu Giang, Bộ TTM QL VNCH bí mật cho phép sử dụng lần đầu tiên trên chiến trường VN loại bom CBU-55. Trưa 1 tháng 5 năm 1972, sau khi ném ‘trái bom nguyên tử bỏ túi’ vào đoàn xe tăng đang vượt cầu Đông Hà và làm cả đoàn xe chết khựng ngay trền cầu, Thiếu úy phi công Nguyễn Hàn mang chiếc A-37 về lại Phi đoàn 528 ở Đà Nẵng bình an.. (Thiếu Úy Nguyễn Hàn sau đó đã hy sinh trong một phi vụ yểm trợ cho TĐ 8 TQLC vào đầu tháng 10-1972 tại Chợ Sài (Quảng Trị)

... đến Daisy Cutter:

Chiến trường VN được các Nhà quân sự Mỹ xem là chiến trường của trực thăng, vì trực thăng giữ nhiều vai trò quan trọng như đổ quân, chuyển tiếp liệu, tản thương. Trực thăng rất cần có được những bải đáp an toàn, đũ rộng để xoay trở tại những vùng rừng rậm nơi chiến trường. Nhu cầu được đaạt ra cho Bộ Chỉ huy QLHK là tìm một loại bom nào có đủ sức công phá để tạo ra một khoảng trống càng rộng càng tốt có thể dùng làm bãi đáp cho trực thăng.

Năm 1968, khi kiểm soát lại các kho tồn trữ võ khí, một sĩ quan KQ HK đã tìm được một số bom loại 4.5 tấn (10,000 lb) lưu trữ tại Trung Tâm tồn trữ võ khí của KQ tại Căn cứ Kitland (New Mexico). Đây là những quả bom của thập niên 50, khi Bộ Chỉ huy Không quân Chiến thuật HK còn sử dụng các Pháo đài bay B-36 làm lực lượng răn đe chính. B-36 đã được thay thế bằng các B-52 trong thập niên 60. KQ HK đã nghĩ rằng các quả bom 10,000 lb này có thễ sẽ đáp ứng được nhu cầu của Lục quân cho Lực lượng trực thăng ?

Nhưng vấn đề quan trọng nhất được đặt ra là : làm cách nào để thả những quả bom khổng lồ này ?
Không quân, trên nguyên tắc, sẽ là quân chủng đảm nhận việc thả bom, nhưng ngay lúc này KQ HK không có loại phi cơ phóng pháo nào để thả được quả bom cỡ này: Bom không thể đưa vào khoang bụng của B-52, còn các phi cơ loại phóng pháo- chiến đấu như F-100, F-105 lại không chở nổi loại bom quá nặng này, và biện pháp sau cùng là dùng các trực thăng hạng nặng hay Phi cơ vận tải để thả chúng. Có thể dùng trực thăng, nhưng với sức nặng của quả bom thì chỉ một vài loại trực thăng có đủ khả năng để chở nổi chúng: Trực thăng cần cẩu khổng lồ của US Army loại CH-54 Skycrane có thể đeo được 1 quả, nhưng bay quá chậm và mỗi phi vụ chỉ thả đưỡc 1 quả nên chi phí để thả quả bom tăng lên quá cao.

Biện pháp thứ nhì là dùng Phi cơ vận tải C-130: C-130 đã được dùng trong các phi vụ thả dù tiếp tế, khoang bụng đủ lớn để có thể chở một lúc 2 quả bom và hơn nữa tầm hoạt động của phi cơ cũng rất thích hợp nhưng vì Lục quân muốn dùng trực thăng nên họ dành quyền thả trước và không đạt được kết quả mong muốn !

Đến tháng 6 năm 1968, Chương trình dùng C-130 để thả những quả bom này được giao cho Không đoàn Vận tải Chiến thuật 463 tại Căn cứ KQ Clark (Philippines) nghiên cứu thực hiện. Thiếu tá Robert Archer, thuộc Phi đoàn 29 (KĐ 463) là ngưới đã thử thả những quả bom đầu tiên tại Căn cứ Kirtland.

Tháng 10 năm 1968, những quả bom đầu tiên được thả thử tại Vùng 1 CT dùng Hệ thống Radar MSQ-77, hướng dẫn mục tiêu, đặt dưới đất tại PleiKu và Huế. Từ tháng 12-1968, bom được thả thử theo sự hướng dẫn của các Hệ thống radar thuộc TQLC HK, và từ mùa Xuân 1969, bom 10,000 lb đã được thả thường xuyên với tên gọi là Hệ thống võ khí M121

Ngay từ đầu, việc chọn C-130 để thả bom đã được xem là rất thích hợp. Một phi cơ C-130 có thể cất cánh từ Cam Ranh, chở 2 quả bom, có thể thả tại bất cứ mục tiêu tại Nam VN chỉ sau 1 giờ baỵ Các phi công của KĐ 463 có lẽ là những nhà thả bom chuyên nghiệp nhất, thả theo sự chỉ dẫn của radar MSQ-77 và theo tín hiệu của các nhân viên điều hành dưới đất.

Để biến đổi một phi cơ vận tải C-130 bình thường sang thành phi cơ thả bom 10,000 lb, cần phải sửa đổi hệ thống liên lạc trên phi cơ để chuyên viên kỹ thuật ‘chất và thả hàng’ (loadmaster) ở trong khoang hàng hóa, có thể theo dõi được các làn sóng phát đi từ đài đặt dứới đất. Mỗi C-130 còn được trang bị thêm Hệ thống thả hàng 463L : gồm nhửng đường rầy đôi đặt trong khoang bụng phi cơ để giúp kiểm soát ‘hàng’ đặt sẵn trên một giàn gỗ (pallet), và khi thả thì sẽ thà cả giàn. Bom đặt trên giàn và được đưa trực tiếp vào khoang bụng phi cơ.

Giàn bom được thả bằng dù, khi ra khỏi bụng phi cơ, dàn tự vỡ tung ra và bom được rơi tự động, giữ chậm lại bằng một dù nhỏ hình tam giác. Một ngòi nổ xuyên qua cây cối gắn nơi mũi bom sẽ được khởi động bằng một chong chóng nhỏ: khi bom chạm đến cây sẽ phát nổ, đốn ngã hết cây cối trong vùng như chém hoa cúc (daisy cutter), và kết quả là tạo ra một khu vực tròn, trụi cây, có thể rộng đũ để 1 đến 3 trực thăng đáp xuống. Nhưng nếu ngòi nổ gắn nơi đảu bom bị tịt, thì ngòi nổ thứ nhì gắn nơi đuôi bom sẽ giúp gây nổ. Bom thường được gây nổ ở độ cao khoảng 6 m trên mặt đất và tạo ra một bãi đất trống đường kính khoảng 100 feet (33 m).

Như thế: Daisy Cutter là tên , đầu tiên, đặt cho Hệ thống võ khí M-121 này và những quả bom thả tại Long Khánh.

Đến 1970, loại bom 10,000 lb còn lại từ Thập niên 50 đã được sử dụng hết. Trung tâm Võ khí HK đã chế tạo loại bom mới, khác hơn, dùng nhiên liệu lõng, pha trộn với thuốc nổ TNT, đặt trong những ngăn khác nhau (do đó có thể xem là một loại CBU).

Loại bom này với ký hiệu BLU-82 nặng đến 15,000 lb, hình dạng như một bình chứa gaz propane khổng lồ dài 141.6 in, đường kính 54 in và được thả theo cùng phương thức như thả M-121. Đầu đạn của BLU-82 chứa 12,600lb nhiên liệu gây nỗ gồm ammonium nitrate, bột nhôm và nhựa dẻo polystyren.

BLU-82 được sử dụng lần đầu tiên trên chiến trường VN vào ngày 23 tháng 3 năm 1970 và KQ Chiến thuật HK đặt tên cho chiến dịch thả bom này là Commando Vault BLU-82 đã được dùng trong cuộc hành quân qua Campuchea (70), để tạo các bãi đáp cho trực thăng, pháo binh. Trong cuộc hành quân Lam sơn 719 của QL VNCH qua Lào, một số BLU-82 cũng đã được thả. Năm 1971, khi Không đoàn 463 HK giải tán, việc thả BLU được giao cho KĐ 374 Chiến thuật và đây là KĐ C130 sau cùng của HK hoạt động tại Đông Nam Á.

Khi sử dụng để đánh nơi tập trung quân cũa CQ, BLU-82 được thả, lúc rơi xuống cao độ 30 m, nhiên liệu rãi tỏa thành đường dài đến 300m, và đám mây nhiên liệu này được kích nổ, khi cháy nổ sẽ hút hết dưỡng khí trong một vùng, gây ngạt thở và tạo ra một chấn động theo sau.

... Ai thả và ai cho phép thả?

Không quân VNCH có 2 chiếc C-130, trang bị hệ thống thả BLU-82. Tổng cộng số BLU được giao cho KQ VN là 17 quả (trong một lớp huấn luyện cấp tốc bên Hot Cargo, thuyết trình viên cho biết sẽ mang từ Thai Lan sang 15 trái (?).

Chiếc phi cơ sau cùng của KQHK bị tổn thất tại VN là một chiếc C-130 bay từ Căn cứ Clark đến TSN, chở 2 quả BLU-82 để giao cho VNCH.

Theo tài liệu của Tác giả Trọng Đạt trong bài ‘Trận Xuân lộc, Chiến thắng cuối cùng’ trên Nguyệt San Việt Nam On-line thì qua cuộc phỏng vấn Đại Úy NHL , Phi công VN đầu tiên thả Daisy Cutter thì :

Đại Úy NHL đã thi hành 3 phi vụ thả 3 trái bom:

- Trái thứ nhất thả ở Bắc Khánh Hòa
- Trái thứ 2 ở phía Tây Nha Trang
- Trái thứ 3 , không nhớ địa điểm, nhưng nhớ là thuộc phi vụ sáng 24-4-75 (?)

Đại úy NHL cho biết: Khoảng 10 ngày trước khi Sài gòn thất thủ, phía M³ yêu cầu Không đoàn 53 Chiến thuật (thuộc SĐ 5 KQ VNCH) cử 2 sĩ quan thả bom cao độ xuất sắc để thả bom Daisy Cutter mục đích lảm chậm lại cuộc tiến quân của CSBV. KĐ 53 CT cử 2 sỉ quan trưởng phi cơ xuất sắc nhất trong việc thả bom cao độ là Đại Úy NHL thuộc PĐ 437 và Thiếu tá ĐQA thuộc PĐ 435.

Ngoài ra Đ/u cũng cho biết KQVN CH đã thả tổng cộng 10 quả Daisy Cutter, nhưng không nhớ thả lúc nào và thả tại đâụ Các quả bom do Th/t ĐQA và Th/t HN thả.

Tuy nhiên, một thân hữu KQ qua e-mail riêng có cho biết:

‘... Theo tôi biết, quả thả vào Xuân lộc 90% là do Th/T Nguyễn Tấn Minh PĐ 435. Thiếu tá Nhân , Th/tá Ngô Xuân Nhật PĐ 437 cũng đã thả BLU nhưng không chắc có phải tại Xuân Lộc không ?.
Một thân hữu khác cho biết Phi công NHL có thể (?) là Đ/u Mạc Hữu Lộc và ngoài ra còn các phi công Nguyễn Quế Sơn và Đ/u Của cũng có khả năng thả các BLU-62.

Về con số bom BLU-62 giao cho VNCH : các tài liệu hiện có vẫn chưa đồng ý với nhau:

- Tập ‘Quân Sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa’ trang 197 viết:

‘’..Trận Xuân lộc. Trong trận này các vận tải cơ C-130 Hercules thực hiện 150 phi xuất oanh tạc, sử dụng bom xăng ‘tự chế’ (gồm nhiều thùng xăng 200 lít có gắn ngòi nổ), bom chùm (gồm 3,4 trái bom nổ liên kết lại), và đặc biệt là bom CBU loại 7 tấn (15,000lb) Daisy Cutter, có sức công phá bình địa một vùng đường kính 150 m và sức sát hại trên một quy mô rộng lớn. Trái CBU đầu tiên được thả xuống cách Xuân lộc 4 km, đã khiến cả thành phố bị rúng động và mất điện, đưa tới những tin đồn B-52 oanh tạc trở lại, kết quả trọn Bộ Chỉ huy SĐ 341 của CSBV bị tiêu diệt.. Trước sau đã có 9 trái CBU được thả xuống Xuân lộc và các khu vực phụ cận ...’

- Tác giả Robert Mikesh trong ‘Flying Dragons : The South Vietnamese Air Force’ ghi lại (trang 141): ‘ Việt Nam được cung cấp tất cả 17 quả Daisy Cutter, .đả thả 15 quả, chỉ còn lại 2 quả.’

... Ai ra lệnh thả.

Cho đến nay, sau hơn 30 năm các quả bom được thả..câu hỏi ai ra lệnh thả những quả bom này vẫn chưa có câu trả lới chính thức !

Theo hệ thống quân gian thông thường, quyết định thả bom sẽ được Bộ TTM ban hành theo yêu cầu của Vị Tư lệnh chiến trường và KQ sẽ thi hành quyết định nàỵ(Trong Hồi Ký của ĐT Cao văn Viên thì đây là những yêu cầu bình thướng theo Hẹ thống Chỉ huy của QL VNCH). nhưng trên thực tế Chiến trường VN vào những ngày cuối cùng của VNCH có nhiều điều phi lý và khó giải thích !

- Tướng Nguyễn văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 cho biết:

‘… Sau khi Phòng tuyến của Chiến đoàn 52BB tại Ngã Ba Dầu Giây Long Khánh.bị vỡ vào đêm 15 tháng 4 năm 1975, Ông đã xin Bộ TTM cho ném bom Daisy Cutter để ngăn sức tiến quân của CSBV. Sáng 16 tháng 4 vào lúc 11 giờ sáng 2 trái bom đã được thả xuống khu vực đóng quân của CS BV tại khu vực từ Định Quán xuống Ngã Ba Dầu Giây, loại khỏi vòng chiến hơn 10 ngàn quân CS, phá hủy nhiều Chiến xa và đại pháo của CS. Tôi đã đề nghị thả thêm 5 bom Daisy Cutter nữa nhưng được thông báo là tuy còn bom nhưng không còn đầu nổ !’.

- Tường Trần Văn Nhật (Tư lệnh SĐ 2), viết trong Hồi Ký:

‘... Chính Tướng Toàn là Tư lệnh Chiến trường đã chấp thuận cho sử dụng 2 trong số 6 trái bom (vì chỉ còn có 2 đầu đạn) Daisy Cutter thả xuống yểm trợ cho mặt trận Xuân lộc. Đáng lý ra chúng ta có đến 27 trái bom này theo quyết định của ĐT Weyand trong chuyến viếng thăm VN vào tháng 2/75 cùng với Ông Phụ Tá Bộ trưỡng QP Eric Von MarbodẨRất tiếc chỉ có 6 trái đến được VN vào cuối tháng 4/75 và không hiểu tại sao chỉ có 2 ngòi nổ’

- Vào những ngày cuối cùng của VNCH, Hệ thống Chỉ huy Quân sự của QL VNCH đã gặp nhiều trắc trở, Tướng Nguyễn Cao Kỳ, tuy không còn chức vụ chính thức trong KQ, đã tự động trở về Quân đội và vẫn ra lệnh được cho các phi công ! Trong ‘The Buđha’s Child’ (trang 331) Ông ghi lại:

‘... vì quả bom có sức công phá mạnh, nên TT Thiệu sợ rằng sẽ có kẻ ném quả bom này vào Dinh do đó chỉ được phép sử dụng bom do chính Ông Ta quyết định (?). Một hôm Phòng Hành quân yêu cầu yểm trợ. Tôi không có sẵn võ khí trong tay, nên yêu cầu Vị Chỉ huy KQ cho thả , ông cho biết không có thẩm quyền. Tôi yêu cầu Vị Tổng Tham mưu trưởng ... câu trả lời tương tự ... Tôi gọi nhiều Vị Tưóng khác, tất cả đều cùng câu trả lời. Tôi biết nếu tôi gọi Thiệu, ông ta sẽ còn phải suy nghĩ, do đó tôi gọi Thủ Tướng Khiêm ... Ông trả lời ... tùy tôi và sau khi tôi giải thích nhu cầu của tình hình. Ông Khiêm cho biết: Đồng ý ... Tôi gọi lại cho Vị Chỉ Huy Hành quân và nói: OK , thả các quả bom.’ Ông này ... chấp nhận thi hành lệnh của tôi ... và các quả bom được thả ‘.

Trần Lý (Tháng 3 năm 2009).









(Nguồn: Cánh Thép)

Lính Chê Ranh Ca "Chế Linh" Đã Đồng Hóa Lính VNCH Với "Nính Vẹm"


Trương Minh Hòa

Trong hàng nam ca sĩ Việt Nam, được trung tâm Asia liệt vào tứ trụ gồm: "Hùng Cường, Nhật Trường, Chế Linh, Duy Khánh", thì ba trụ đã "giã từ gác trọ" và không ai biết: "Giờ nầy anh ở đâu?" đang tiêu diêu nơi miền Cực Lạc hay nước Chúa? Và ba trụ ấy có còn được "thế giới mới" nầy ái mộ, cho làm nghề ca hát không?.Do đó, nay chỉ còn Chế Linh, là người sống dai, sống mạnh và sống thoải mái ở hải ngoại, tiếp tục hát những bài ca Lính, dù ông nầy không đi lính, được hoãn dịch trước 1975.

Cũng giống như một số người chưa bao giờ đi lính Việt Nam Cộng Hòa, lúc đất nước đang cần thì trở thành "cư sĩ tại gia" thay vì "chiến sĩ" bảo vệ quê hương, làm "lính oan hùng đó", nên đã trở thành "cà nhỏng chống xâm lăng" trong tinh thần thề quyết: "chống Cộng tại gia" với "đánh trận đêm bảy ngày ba với vợ ... cho non nước bình yên" mà làm gia tăng quân số gia đình. Nhưng khi những cư sĩ vượt biển thành công, ra hải ngoại tự mạo nhận là quân nhân cho oai, dù không ai trả lương, chưa kể đến một số người cấp nhỏ, bỗng "vinh thăng" không người lái tại "nhà" và trở thành những ông sĩ quan lớn, từng "ngồi trực thăng, khu trục hạm, thiết giáp, nhảy dù ..." đánh nam dẹp bắc, trấn giữ biên cương, mà không cần phải học quân trường đào tạo nào cả; chắc chắc là những sĩ quan tốt nghiệp trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam Đà Lạt, sau khi "phát giác" ra một số sĩ quan ngang hông mà chán ngán, vì bây giờ không còn Quân Cảnh để bắt mang về đồn về tội giả mạo, nên những ông quan loại nầy cũng nghi là đã tốt nghiệp trường đào tạo "sĩ quan tại gia" mà giới bình dân học vụ gọi là: "SĨ QUAN HIỆN VẬT VỎ CHUỐI" lắm! Chớ Võ Bị thì không tìm thấy tên trong cái CÙI.

Ngay trong quân đội đồng minh, thỉnh thoảng có một vài người trốn lính trong cuộc chiến Việt Nam, bỗng đeo huy chương đi diễn hành và tự nhận có tham dự vào "Vietnam war". Như vậy, dù trước đây, phong trào phản chiến khuynh tả có xuyên tạc, bôi nhọ cuộc chiến chống Cộng tại Việt Nam, nay thì họ đã nhìn thấy những người từng bị họ mạt sát, được công nhận và vinh danh, nên mới có hiện tượng mạo nhận từ quân nhân quân lực VNCH đến các chiến sĩ đồng minh. Trái lại, khi nói về cái thứ "quân hại nhân dân" Cộng Sản Bắc Việt và bọn du kích tay sai khủng bố miền Nam, được thế giới dùng hai chữ VIỆT CỘNG, từ báo chí đến lối nói của dân chúng, tức là bọn khủng bố Việt Cộng trở thành từ quốc tế hóa như Al Qaeda ngày nay vậy. Một số người từng trốn lính như ông Bill Clinton, hay chưa hề đi lính như Obama .... khi được bầu làm tổng thống Hoa Kỳ, trở thành "tổng tư lịnh quân đội", cũng hay có thói quen "chào tay" theo đúng quân phong quân kỷ ... đó là những "lính kiểng cao cấp" theo hiến pháp Hoa Kỳ. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tại vùng chiến khu trên đất Thái, Mặt Trận Hoàng Cơ Minh tuyên bố có hơn 10 ngàn kháng chiến quân nhưng đây là "mờ trong bóng chiều, từng đoàn quân thấp thoáng ...." là thứ lính ma, dùng để lừa đảo hàng triệu người Việt yêu nước hải ngoại để biến anh em Hoàng Cơ Minh thành "triệu phú kháng chiến", nên sau nầy khi phát giác là dỏm, nhiều người đã KHIẾN CHÁN nên "tại từ Mặt Trận" khi mà "từ đó em buồn" vì bị bè lũ "đầu tư kháng chiến" lừa đảo lòng tin mọi người.

Nam Ranh ca Chế Linh, người từng được hưởng nhiều ơn huệ miền Nam, sống và nổi tiếng nhờ xương máu biết bao chiến sĩ ngoài mặt trận, ngày đêm "trên bốn vùng chiến thuật", hy sinh hạnh phúc cá nhân để bảo vệ quê hương "xuân nầy con không về" và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Chế Linh được ra nước ngoài, tiếp tục ca hát, trở thành ca sĩ hát nhạc lính, dù là người bị LÍNH CHÊ, nên không mặc quân phục, chỉ mặc trên sân khấu, có khi đeo cả lon lá oai hùng như những chiến sĩ "dỏm" nhưng đánh trận "giả" trên sân khấu, cũng súng nổ liên hồi, đêm đêm "ánh mắt hỏa châu" và những pha trong "rừng lá thấp" và một điều chắc chắn tới 1, 000 phần trăm, là hổng bao giờ có chuyện: "Kỷ vật cho em" để rồi "ngày mai đi nhận xác chồng"; nhưng chắc chắn là sau khi "làm tròn nhiệm vụ chàng trai thời loạn chỉ có trên sân khấu" thì được trả tiền thù lao hậu hỷ, nhận những "tràng pháo kích đại pháo ... tay" của kháng thính giả ái mộ. ..... do đó, dù là LÍNH CHÊ, nhưng ca sĩ CHẾ LINH được cảm tình với đa số quân nhân và những người Việt không Cộng Sản coi là lính không đơn vị, không số quân, là lính ngang hông, chỉ thấp thoáng trên sâu khấu nhưng "Anh không chết đâu anh?".

Thời gian gần đây, Chế Linh bắt đầu tập làm quen với nón cối, dép râu, cờ đỏ sao và và Hồ Chí Minh qua vài lần về "tham quan" có lần dưới tàng lộng của Unesco về người Chàm. Cho nên cây trụ cuối cùng trong tứ trụ vang danh ngày nào trong làng tân nhạc, hình như đã được "sơn thành màu đỏ", thấp thoáng đàng sau là hình của Hồ Chí Minh. Dù có vài lần từ chối cộng tác với văn công Việt Cộng qua lời mời của Nguyễn Công Khế (Chua), như bài viết của tay nhà béo Nguyễn Vi Túy, chủ bút tờ báo Văn Nghệ ở Úc Châu trên trang Take 2 Tango, nhằm "giải độc" cho Chế Linh. Tờ báo Văn Nghệ được dân chúng đặt tên là tờ DÂM NGHỆ, là truyền thông rất ư là "nghiệp chuyên", điển hình là hết lòng binh vực cho huề thượng Thích Phước Huệ trong vụ "tịnh thất" với tín nữ Diệu Đức suốt 15 năm mới bể. Từ cái "thói đời" với: "trong thói đời, cười ra nước mắt", mà như trường hợp của Chế Linh cũng đã thay đổi khi tuyên bố "Lính nào cũng đáng ca tụng", để đáp lời yêu cầu hát nhạc lính của một trung úy bộ đội già Hồ, đi du hý tại Úc, trong lần văn nghệ ngày 1 tháng 5, năm 2009 tại nhà hàng Đại Dương, Hopkins Treet, Footscray, Victoria, Úc Châu. Đây là lời tuyên bố hết sức bất ngờ, làm bất bình những người từng ái mộ Chế Linh trong thời gian qua.

Trong Phật Giáo, bên cạnh những tu sĩ chân chính, còn có một số "mượn đạo tạo tiền" và có một số khác thì vẫn cạo đầu, y phục cà sa, đọc kinh, niệm Phật rì rầm, nhưng không hiểu Phật Pháp, trở thành "Tứ diệu Tệ: gian, dâm, tham ác" tăng, nhan nhản trong thời mạt pháp. Ca sĩ Chế Linh, người mặc chơi quân phục trên sâu khấu, hát nhạc lính, lãnh lương cao nhờ hát nhạc lính .... thế mà lại không hiểu lính thì quả không đáng làm bạn lính Việt Nam Cộng Hòa. Lính Việt Cộng gọi là bộ đội, khác xa quân lực VNCH từ y phục, "quân hàm", ý nghĩa chiến đấu ..... nên "lính Việt Cộng cũng đáng ca tụng hay sao?".

Bộ đội Cộng Sản, còn gọi là bộ đội cụ Hồ, qua tên gọi, thì đạo quân nầy là "sở hữu" riêng cho tên quốc tặc Hồ Chí Minh, còn được tục danh là "quân hại nhân dân" dù đạo quân nầy tự nhận là "quân đội nhân dân", là đạo quân phi chính nghĩa, lợi dụng hai chữ "nhân dân" để phục vụ quyền lợi ngoại bang, đàn áp nhân dân. Đây là một đạo quân chỉ có nhiệm vụ bảo vệ đảng, chớ "nhân dân, tổ quốc" thì "nào có xá chi dân người Việt Nam ....". Do chiến đấu không có mục đích chính đáng, nên không có chính nghĩa, chỉ là công cụ cho một đảng cướp, là đạo quân chỉ nhằm bảo vệ tập đoàn "Quan Thái Thú Nga Sô gốc Việt" từ 1954 đến 1991 và nay là "Tập đoàn quan Thái Thú Trung Cộng gốc Việt", do đó bộ đội Cộng Sản được coi là "đạo quân xâm lược ngoại bang gốc Việt", chỉ" bảo vệ đảng như bảo vệ con ngươi trong tròng mắt". Bộ đội chỉ nhắm mắt làm theo mệnh lệnh cấp trên, đúng là "đạo quân ROBOT bằng xương thịt" nên cứ nhào vô mục tiêu chết như con thiêu thân qua chiến thuật Biển Người, và trong bất cứ trận đánh vào, quân Cộng Sản thường lấy câu tục ngữ: "địch chết ba, tá chết láng" để làm châm ngôn chỉ đạo cho các cấp chỉ huy Việt Cộng. Là một đạo quân "xâm lược Trung Cộng gốc Việt" mới đúng là thứ "Ngụy quân", nên cái "quân hại nhân dân" đúng là "anh chàng khổng lồ nhưng câm" như lời quân công Orléans nói, khi nghe tin vua Louis 16 bị hạ bệ, lúc đó ông đang chỉ huy một đơn vị ở Algeria, nên có thái độ "án binh bất động", trong một ý nghĩa khác, áp dụng cho đạo quân "thảo khấu" của chế độ độc tài Cộng Sản, chỉ biết thi hành lịnh trên, từ trung ương đảng, mà không cần biết làm hại cho đất nước. Do lính Việt Cộng là thứ công cụ đắc lực cho một băng đảng siêu cướp Cộng Sản Việt Nam, nên "tịnh khẩu" dù biết đất nước bị chủ nó là đảng và nhà nước bán dâng cho Trung Cộng, biết mõ boxít sắp bị giặc Tàu chiếm nhưng vẫn "thanh tâm trường yên lặng", chỉ có vài tướng ngố phục viên như Võ Nguyên Giáp là ọ ẹ cho có lệ, chứ lúc tại chức thì ngậm miệng để ĐỚP chút lợi lộc do ngoại bang bố thí.

Thành tích gọi là "bảo vệ tổ quốc" của đạo quân robot Việt Cộng chỉ là bảo vệ quyền lợi ngoại bang qua:

- Cuộc chiến biên giới Việt-Trung năm 1978, mà bộ đội Việt Cộng chỉ là thứ lính "đánh dùm" cho quan thầy Liên Sô, khi thầy nghịch với Trung Cộng.

- Cuộc chiến biên giới Tây-Nam với quân Khmer Đỏ cũng mang ý nghĩa tương tự, là sự xung đột giữa hai quan thầy Nga-Tàu và hai đàn em Cộng Sản đánh nhau chí chóe.

- Trận hải chiến 1988 với Trung Cộng ở Hoàng Sa, cũng nhằm làm theo chỉ đạo của quan thầy Liên Sô.


Trong khi đó, quân lực VNCH dù không còn sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, mà một trong những lý do chánh là: bị bức tử do chính ông tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, vì lòng ích kỷ mà phá nát quân đội trước khi "thành chiến sĩ ra khơi" qua các lịnh truyền bất nhất "sớm rút, chiều tái chiếm" biến cuộc "tái phối trí lực lượng" thành "di tản chiến thuật" đưa đến thảm cảnh nầy. Nếu ông Thiệu có tấm lòng yêu nước, thì để nguyên quân đội ở quân khu 1 và 2, ra đi êm thấm, người kế vị còn đủ lực lượng để biến "mùa xuân 75" thành "tết Mậu Thân thứ hai" và không chừng tình hình Việt Nam có khả năng đảo ngược, khi mà toàn bộ lực lượng Cộng Sản Bắc Việt và du kích khủng bố miền Nam bị loại ra khỏi vòng chiến, từ đó có thể "bắc tiến", lập lại chiến thắng Đống Đa mà vua Quang Trung đã làm trong lịch sử chống ngoại xâm. Tuy không còn nữa, nhưng hình ảnh hào hùng, tinh thần chiến đấu vì dân, bảo vệ tổ quốc, mà trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974 đích thực là "chống quân xâm lược Trung Cộng".

Do đó, tại hải ngoại, nhạc lính rất thịnh hành và trong nước thì nhạc lính bị chụp mũ là NHẠC VÀNG và nay còn bôi nhọ là NHẠC SẾN, nhưng dân chúng ngưỡng mộ, nghe hát hoài mà không bao giờ chán. Trải quan nhiều cuộc "khủng bố nhạc" do bộ thông tin văn hóa Việt Cộng phát động nhiều lần, mà nhạc lính vẫn "anh không chết đâu anh", vì hình ảnh người lính VNCH sống mãi mãi trong trái tim mọi người dân Việt Nam. Cho nên các sâu khấu, trung tâm nhạc hải ngoại, có ai cho hát những bài ca Việt Cộng và ca sĩ mặc đồ "chánh qui bắc Việt" với nón cối, dép râu .... nhưng lính VNCH vẫn là hình ảnh: "dù Úc Châu, hay sang Mỹ Quốc .... các anh là mãi mãi Việt Nam". Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt Cộng tìm đủ mọi cách để triệt hạ quân lực VNCH, dù đã tập trung gần hết vào các trại tù khắc nghiệt để giết dần mòn trong chính sách "tắm máu khô", năm 1976, Việt Cộng vội vàng tung ra quyển sách mang tựa đề: "Bộ Mặt Thật Tướng Ngụy" để bêu xấu, nhưng không kết quả, trái lại còn phản tác dụng nữa. Trong dân chúng, Việt Cộng gọi là "Nguỵ quân" và còn dùng cả lối ca dao để tuyên truyền như câu:

"Ca đây trốc gốc cây đa trồi.
Lấy chồng lính Ngụy, ưng thằng cùi sướng hơn".

Nhiều thủ đoạn thâm độc vẫn không có kết quả, tuy nhiên, bọn Việt Cộng đã làm sai tư tưởng của sư phụ chúng là tên Hồ Chí Minh, từng "rét" quân lực VNCH trong trận Mậu Thân 1968, nên Hồ có câu: "Mỹ thua về Mỹ, anh em BINH SĨ về đâu?", chứ Hồ nào dám gọi là "lính Ngụy" mà phải gọi là "binh sĩ" là điều có thực. Quân lực VNCH từng làm bạt vía kinh hồn Viêt Cộng trong các trận đánh: Mậu Thân, Mùa Hè Đỏ Lửa .... vang lừng địa danh "Bình Long, An Lộc, Trị Thiên, Bình Định ... khắp các nơi đều bị đánh tơi tả bởi địa Phương quân, nghĩa quân; nên sau 20 năm bảo vệ quê hương, tiêu diệt hết 1,5 triệu tên bộ đội Cộng Sản và tay sai, nay còn hơn 300 ngàn tên còn "biệt vô âm tín" mà đảng và nhà nước nào đi tìm, họ chỉ "hạ quyết tâm" đi tìm hài cốt lính Mỹ để có tiền mà thôi.

Do đó, khi nam danh ca CHẾ LINH, người về nước được những "đỉnh cao trí tuệ" gọi là nam RANH CA CHẾ NINH cho là "lính nào cũng đáng ca tụng" là việc làm có "ý đồ" chứ không phải tự nhiên mà Chế Linh nói như thế trước mặt nhiều người vốn từng mến mộ tài năng qua tiếng hát và những sáng tác lấy tên Tú Nhi. Người ta có quyền nghi ngờ là: gã trung úy bộ đội già Hồ tên Hải đã có "quan hệ hữu cơ" với Chế Linh trước, nên giả vờ đứng lên yêu cầu anh ca 2 bản nhạc lính của Nhật Trường để thăm dò phản ứng của người Việt hải ngoại và những người lính VNCH trong các hội quân nhân; nếu không phản ứng, thì từng bước, hình ảnh người lính VNCH và cán binh Việt Cộng được "hòa hợp hòa giải" trên sâu khấu và dần dần nhạc Việt Cộng được những trung tâm nhạc "xanh vỏ đỏ lòng" rỉ rả từng bước trình bày với "anh bộ đội". Một điều không thể đảo ngược là: trung úy bộ đội tên Hải nầy phải là dân giàu (lương bộ đội không đủ sống) nhưng có tiền xuất ngoại du hý là thành phần "đỉnh cao trí tuệ bốc lột" có quyền thế, được cử ra ngoài làm công tác. Tên Hải không thể và cũng không dám đề nghị Chế Linh hát những bài mà hắn nằm lòng như: Tình đất đỏ miền Đông, Anh quân bưu vui tính, Chào em cô gái Lam Hồng, Trường Sơn Đông-Trường Sơn Tây, như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng, Hà Nội niềm tin và hy vọng ..... nếu hắn đề nghị những bản đó, thì trong buổi trình diễn văn nghệ nầy có những phản ứng ngay. Đây là điều bắt buộc mà tên bộ đội già Hồ phải "nhập gia tùy tục" để làm một cuộc thăm dò phản ứng của người Việt hải ngoại.

Một điều đáng lưu ý là: ở Việt Nam, trong thời gian về dưới tàng lộng Unesco hay là giúp người Chăm .... nam danh ca Chế Linh có dám đứng trước đám đông ái mộ mà nói là: "Lính Việt Nam Cộng Hòa, bộ đội cụ Hồ .... đều đáng ca tụng" không? Chắc chắc là: "không, không, không, trăm lần không, vạn lần không", như vậy Chế Linh là thứ "khôn nhà dại chợ", khi ở nước tự do thì nói năng có lợi cho Việt Cộng, lúc về nước lại "co đầu rút cổ". Đây là thứ "văn nghệ sĩ CON DƠI", lúc ở hải ngoại thì là "bạn LÍNH VNCH" nhưng khi về Việt Nam là "đồng chí NÍNH BỘ ĐỘI CS".

Không biết Chế Linh về nước có thấy nghĩa trang "lính Việt Cộng đáng ca tụng" được giữ gìn và nghĩa trang của "lính VNCH" bị đào xới, ủi, san bằng làm kinh tế ...? Nay trong hàng ngũ ca sĩ, lại có thêm một "chuẩn văn công" với Phạm Duy, Tuấn Ngọc, Phương Dung, Hương Lan ...... đúng như người xưa đã nói: "xướng ca vô loại". Nam Ranh Ca Chế Linh được gọi là LÍNH CHÊ, nay thì cả dân và LÍNH CHỬI qua hành vi "núp bóng cầm ca, theo ma Cộng Sản".

Trương Minh Hòa
17.5.2009


Vài Suy Tư Về Ngày Quốc Hận 2009 - Hoàng Ðạo Thế Kiệt

Hoàng Ðạo Thế Kiệt

Từ 34 năm nay, mỗi năm người Việt tỵ nạn khắp nơi đều làm lễ tưởng niệm ngày Quốc Hận 30-4-75 (NQH) để đánh dấu ngày miền Nam tự do bị rơi vào tay cộng sản xâm lăng miền Bắc. Dĩ nhiên tổ chức NQH không đơn giản chỉ để tưởng nhớ đến nỗi đau thương tột cùng của dân tộc mà còn để tiếp tục công cuộc tranh đấu chống chế độ bạo tàn, thủ phạm của Ngày Quốc Hận, hiện còn đang thống trị dân ta. Chừng nào Việt cộng còn đó, còn chưa nhận tội và đền tội, và hơn nữa còn đang reo rắc hận thù, chừng đó Ngày Quốc Hận còn mang nặng ý nghĩa hận thù và đấu tranh. Ðây là điều đương nhiên, tất yếu.

Nói về ý nghĩa của Ngày Quốc Hận thì vô cùng tận. Ở đây người viết chỉ xin nói đến mấy suy tư chủ chốt chúng ta thường nghĩ đến trong mỗi mùa quốc hận, mà qua đó nói lên ý nghĩa tại sao lại có NQH, tại sao phải duy tri tinh thần Ngày Quốc Hận, và người Việt tự do cần có thái độ thế nào về Ngày Quốc Hận.

Trước hết là về Quy mô vô tiền khoáng hậu cuả Ngày Quốc Hận 75

Chúng ta ai cũng biết là trong lịch sử nước ta đã có nhiều cuộc chiến tranh, cả ngoại xâm lẫn nội chiến, và đặc biệt đã có 3 quốc hận. Đó là Hận Sông Gianh, do Trịnh/Nguyễn phân tranh gây ra. Hận Bến Hải, do Việt cộng / Thực dân toa rập gây ra. Và Hận 30-4-75, cũng do Việt cộng và cộng sản Nga-Hoa gây ra. Nhưng trong tất cả các cuộc chiến tranh và trong 3 quốc hận đó không có cuộc chiến tranh nào (kể cả với Tàu) và quốc hận nào đau thương bằng quốc hận 75, bởi vì nó tàn hại nhất và khủng khiếp nhất. Nó là là hậu quả và cũng là nguyên nhân đưa đến cái chết của trên dưới 3 triệu người, đất nước bị tan hoang, dân tộc bị cùm kẹp, nghèo đói, lạc hậu, vào hàng nhất nhì thế giới.

Trong suốt thời gian từ khi cướp được chính quyền năm 1945 cho đến khi chiếm được miền Nam năm 1975, Việt cộng đã tàn sát hàng loạt đồng bào, nhất là qua các vụ cải cách ruộng đất, chôn sống Tết Mậu thân, tập trung cải tạo, thủ tiêu các công chức cán bộ Quốc Gia xã ấp. Tệ hại hơn nữa là các cuộc chiến trực tiếp hay gián tiếp do chúng gây ra: xâm lăng miền Nam, đánh Cambốt, bị Tàu cộng trả thù (cho Cam bốt)... đã đưa đến cái chết của bao nhiêu thanh niên ưu tú. Riêng trong cuộc xâm lăng miền Nam, chúng ta đã chứng kiến những cuộc bắn giết cực kỳ dã man biết bao nhiều đồng bào trẻ thơ vô tội, đất nước khắp nơi bị tàn phá tan hoang.

Qua sự thôn tính miền Nam Tự do, Vc đã đưa cả nước ta vào tay cộng sản quốc tế, một bọn giặc chuyên lấy việc đấu tranh bạo lực làm chủ trương, cướp của giết người làm mục tiêu, và không loại trừ bất cứ biện pháp thâm độc nào để thống trị đồng bào. Hàng chục triệu người đã bị bóc lột đến tận xương tủy. Hàng triệu dân lành đã bị tàn sát, tù đầy, khủng bố. Hàng triệu người khác phải chạy trốn khỏi quê hương miền Bắc, và khỏi quê hương miền Nam, trong đó không biết bao nhiêu ngàn người đã phải bỏ thây trên đường tìm tự do.

Trong quá khứ gần 5000 năm lịch sử chưa bao giờ nước ta có một chính quyền tàn bạo hại dân hại nước đến mức độ thảm khốc như thế, chỉ thua có Khờ-me đỏ!

Ðã vậy, trên 30 năm sau chiến tranh và sau Ngày Quốc Hận, ách thống trị của kẻ gây hận không những đã không chấm dứt mà còn tiếp tục đè nặng lên dân tộc ta, cho đến tận ngày nay, và ra cả đến hải ngoại...

Với quy mô tội ác Trời không dung Ðất không tha như thế, với tội bán nước hại dân như thế của đảng Vc, lịch sử và dân tộc không bao giờ có thể tha thứ được.

Thứ đến là chính sách hận thù của Việt cộng

Chính sách hận thù của Vc trong quá khứ chắc ai cũng đã thấy. Chẳng hạn, chúng triệt hạ các giai cấp trí phú địa hào không phải vì chúng thù với cá nhân họ mà vì chính sách cuả đảng bảo phải giết hết thì chúng thẳng tay giết. Nhiều khi giết một cách tận tình, thích thú, coi như một thành tích. Cũng vậy, chúng giật mìn xe đó hay xe hoả không phải vì thù ai trên đó mà vì chính sách khủng bố của đảng, chủ trương phải giết để cho dân sợ và chính phủ gặp khó khăn.

Vì thế trước sau Vc rất quyết liệt và kiên trì trong việc thực hiện tội ác của chúng, đặc biệt là đối với các thành phần bất đồng chính kiến, đối nghịch với chúng, những người Quốc Gia. Ðiều này có nghĩa là: gây hận thù là việc tất yếu cuả đảng và chính quyền cộng sản.

Vì không thấu triệt điều đó nên có người rất ngạc nhiên là tại sao Vc một mặt ra sức kêu gọi xóa bỏ hận thù một mặt lại tiếp tục gây hận thù, với cả người sống lẫn người chết?

Chỉ cần đặt vài câu hỏi ngược lại là ta sẽ thấy phần nào tại sao:

- Tại sao trước đây Vc ra rả chửi người tỵ nạn là ôm chân đế quốc, là đĩ điếm.mà bây giờ lại đổi giọng, kêu gọi họ xóa bỏ hận thù? Vì Vc thật tâm từ bỏ chính sách hận thù hay chỉ vì tiền? Ai dám nói chúng không vì tiền mà vì đã bỏ chính sách hận thù?

- Nếu người Việt tự do dứt khoát không chịu hòa hợp hòa giải và đem người đem tiền về xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa cuả chúng thì liệu Vc có còn kêu gọi xóa bỏ hận thù nữa không? Ai dám trả lời là không? (Nghị quyết 36 đã dọa sẽ có biện pháp đối với những người ngoan cố).

- Vc đã hết gây hận thù với đồng bào trong nước chưa hay vẫn duy trì một chính sách đàn áp vô cùng khắc nghiệt, bỏ tù, khủng bố bất cứ ai bất đồng chính kiến, đòi hỏi tự do? Ai dám bảo là chúng đã xóa bỏ hận thù, hòa hợp hợp hòa giải với người dân trong nước?

- Tại sao Vc lại trả thù cả những người đã chết, những Chiến sĩ VNCH vị quốc vong thân, và đã tìm mọi cách để xóa bỏ dấu vết của nghĩa trang Quân đội Biên hoà, và hơn nữa còn áp lực cả chính phủ Mã-lai phải đục bỏ bia tưởng niệm thuyền nhân chết trên biển cả vì đi tìm tự do? Ðấy là xóa bỏ hận thù hay gây thêm hận thù?

Tóm lại chính sách của Vc là theo đuổi đến cùng để tiêu diệt người Quốc gia, xóa sạch mọi dấu vết liên hệ đến quốc gia, nhất là lá cờ Quốc-Gia và Ngày Quốc Hận. Hai biểu tượng đó làm cho chúng nhưc nhối vì nhắc nhở cho mọi người không những nhớ đến các tội ác tày trời của chúng mà còn gây trở ngại cho các mưu đồ đen tối của chúng.

Chính vì vậy mà Vc và bọn tay sai đã nỗ lực kêu gọi người Việt hải ngoại xoá bỏ hận thù. Xoá bỏ bằng mọi thủ đoạn, kể cả ma giáo, lừa gạt, bịp bợm, nhằm làm cho ta quên đi Ngày Quốc Hận, hoặc lái ngày đó sang một ý nghĩa khác, hoặc tìm cớ không tổ chức Ngày Quốc Hận. Chúng tuyên truyền rằng chỉ những kẻ ăn trên ngồi trước của chế độ miền Nam mới hận thù chúng, rằng tưởng niệm NQH mãi cũng chẳng đi đến đâu, hãy quên đi qúa khứ đau thương, hãy xoá bỏ hận thù để về góp sức xây dựng cho quê hương giầu mạnh. Chúng còn đi xa hơn, cho tay sai mập mờ biến đổi Ngày Quốc Hận thành ngày giải phóng, ngày tự do. Nhưng chúng đã thất bại. Ngày Quốc Hận vẫn được tổ chức ở khắp mọi nơi. Trong mọi hoàn cảnh, người Việt Quốc Gia chân chính vẫn luôn nhớ đến ý nghĩa Ngày Quốc Hận, và cố nóí cố làm bất cứ điều gì, dù nhỏ bé đến đâu, để duy trì Ngày Quốc Hận. Lập trường đó còn giúp chúng ta nhận diện được bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào, dèm pha, bài bác và cố tình kêu gọi xóa bỏ hận thù hay làm biến thái ý nghĩa Ngày Quốc Hận, là cs nằm vùng hay tay sai của chúng.

Xóa bỏ hận thù hay phục thù rửa hận ?

Luật pháp nước nào cũng trừng trị kẻ phạm tội, từ tội nhỏ đến tội lớn. Ðảng Vc đã bán nước hại dân, đã gây ra quốc hận và đang cỏn tiếp tục gây hận thù, thì tất cũng phải xử tội. Nhưng khác với tội phạm cá nhân, đây là tội phạm tập thể, hơn nữa lại là tập thể cầm quyền nên phải có biện pháp đặc biệt của toàn dân mới có thể phục thù xét xử được.

Nhưng rửa hận bằng cách nào cho có hiệu quả mới là điều quan trọng. Ðiều này đã được rất nhiều người quan tâm ở hải ngoại bàn đến trong suốt 34 năm qua nhưng rất tiếc chưa tìm ra giải pháp thích đáng. Tuy cùng nêu cao mục tiêu giải trừ cộng sản, có người chủ trương phải dùng vũ lực để đánh bại chúng; Có người chủ trương phải hòa hợp hòa giải với Việt cộng để dân chủ hóa chế độ của chúng; Và có người chủ trương phải quên hận thù để về hợp tác với chúng xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa của chúng.

Trong 3 giải pháp đó chúng ta thấy ngay giải pháp thứ nhất không khả thi, giải pháp thứ ba chỉ là một sự đầu hàng. Còn gỉai pháp thứ hai thì đã và đang gây ra nhiều tranh cãi. Một thiểu số tán thành giải pháp này vì bảo đó là con đường duy nhất, đi với cộng sản để loại trừ cs. Nhưng tuyệt đại đa số người Việt hải ngoại, chống cộng dứt khoát, thì coi đây là một cạm bẫy của cộng sản, chỉ nhằm dụ người Quốc gia về làm đẹp, làm tay sai cho chúng, chứ không bao giờ chúng chịu chia xẻ quyền lực với ai, nhất là chịu dân chủ hóa chế độ.

Dù sao đây chỉ là một mặt của vấn đề, mặt hải ngoại. Mặt chính là ở quốc nội. Ðồng bào trong nước sẽ tìm ra giải pháp thích đáng nhất để phục hận, giành lại tự do. Hải ngoại chỉ hỗ trợ quốc nội chứ không thể, và không có tư cách cũng như khả năng để thay thế quốc nội giải quyết vấn đề. Nhưng dù chọn giải pháp nào thì kết cục vẫn phải là rửa được quốc hận, không nhân nhượng không thỏa hiệp, có nghĩa là phải loại trừ được chế độ độc tài, tham nhũng và bất lực Vc.

Tóm lại, với quy mô tội ác vô tiền khoáng hậu của Vc, với chính sách quyết liệt và kiên trì gây thù diệt thù của chúng, người Việt tự do không còn chọn lựa nào hơn là phải duy trì bằng được NQH, nuôi dưỡng tinh thần phục thù rửa hận, cho đến khi chế độ độc tài đảng trị Việt cộng bị gỉai trừ.

Ngày Quốc Hận 2009 với hiện tình đất nước

Ai theo dõi tình hình đều thấy rõ là trong thời gian qua, nhất là từ đầu năm nay, tình hình trong nước đã trở nên rất căng thẳng. Vụ hiện gây sôi động nhất là vụ “bauxite”.

Vụ bauxite bắt đầu ra công khai từ khoảng giữa năm 2008, khi thủ tướng Vc Nguyễn tấn Dũng tuyên bố dự án bô xit là một chủ trương lớn cuả “đảng” và chính phủ, và loan báo là Trung cộng sẽ vào Cao nguyên Trung Việt để bắt đầu khai thác các mỏ bô xít tại Lâm đồng và Ðắc nông (2 mỏ Nhân Cơ và Tân Rai). Rồi chẳng bao lâu sau, Tàu cộng đã đem hàng ngàn nhân công sang để bắt tay vào việc. Mọi sự đã diễn ra rất có lớp lang, chứng tỏ Việt cộng và Tàu cộng đã bí mật dàn xếp với nhau vụ này từ lâu, nhưng vì lý do thầm kín nào đó nên không nói ra, cho đến khi khởi công khai mỏ.

Vì khai thác mỏ bô xít là một vấn đề vô cùng quan trọng, liên hệ đến mọi mặt: môi sinh, văn hoá, kinh tế, và cả quân sự v.v. mà không được đảng cộng sản đem ra bàn, ngay quốc hội cũng không hề được hỏi đến, và chỉ được biết vào phút chót, nên dư luận đã vô cùng công phẫn.

Dù Nguyễn tấn Dũng đã lớn tiếng cảnh báo rằng đây là chủ trương lớn của đảng và nhà nước, để tạo áp lực, bịt miệng những người chỉ trích và đòi hỏi phải đình chỉ việc khai thác.

Nhưng mọi tầng lớp nhân dân, từ dân thường đến các nhà khoa học, các nhà trí thức, các tu sĩ, và cả giới cựu quân nhân, như công thần hàng đầu Võ nguyên Giáp cũng đã mấy lần lên tiếng phản đối. Một số đoàn thể tranh đấu cho tự do dân chủ và nhân quyền cũng ra tuyên cáo yêu cầu chính phủ phải chấm dứt ngay việc này. Mới nhất là gần 1,000 người, trong đó có nhiều nhân sĩ, trí thức tiếng tăm hạng nhất trong nước cũng đã nhập cuộc, đòi phải xét lại dự án.

Trước làn sóng phẫn nộ của đồng bào, Việt cộng phải cho mở mấy cuộc hội thảo nói là để cứu xét vấn đề. Nhưng cuộc hội thảo quan trọng nhất do viên phó thủ tướng Hoàng trung Hải chủ trì cũng chỉ đi đến kết luận là dự án có một số sơ hở cần phải điều chỉnh lại, nhưng nói chung vẫn đúng...có nghĩa là vẫn cứ tiến hành theo quyết định của “đảng”!.

Bên bênh vực dự án thì cho rằng đây là một chủ trương lớn của đảng và chính phủ, và đã được nghiên cứu kỹ về mọi mặt, chỉ có một ít sơ hở nhỏ, chỉ cần điều chỉnh lại là xong. Mới đây phe bênh còn nói rằng có cả công ty Mỹ tham dự dự án chứ không phải chỉ có Trung cộng...

Bên chống thì nói dự án rất tai hại về mặt môi sinh (hầu hết các nhà khoa học, văn hoá trong nước đều đồng ý như vậy), không có lợi về mặt kinh tế (giá thị trường không cao hơn giá thành, nhân công Tàu tranh việc của nhân công Việt), và nhất là việc đưa hàng ngàn, có thể hàng chục ngàn công nhân Tàu vào Cao Nguyên là điều rất bất lợi cho quốc phòng, nhất là sau những sự lấn át của chúng ở biên giới và biển cả. Tin nói có cả công ty Mỹ tham dự, mãi nay mới được tung ra, chỉ có tính cách chữa cháy, vì chỉ giữ vai trò phụ, còn ở công trường khai thác thì chỉ thấy toàn người Tàu và chữ Tàu thôi, không thấy Mỹ đâu cả.

Hiện tình đang tạm đứng ở đó, chờ đợi một biến cố khác quan trọng hơn. Chỉ lúc ấy mới biết “đảng” thắng, dân lùi, hay “đảng” lùi, dân thắng.

Dù sao đây mới là điều quan trọng, chưa từng xẩy ra: sự đối đầu công khai giữa người dân với đảng cộng sản. Một khúc quanh đang xẩy ra.

Giọt nước làm tràn ly.

Vụ bô xít gần như đã trở thành “tụ điểm” cuả mọi sự phản kháng vì nó là nối tiếp của rất nhiều vụ “bô xít” khác. Nền độc tài ác trị của Việt cộng đã gây ra không biết bao nhiêu tội ác đối với dân tộc. Gần đây là các vụ dâng đất hiến biển của nước ta cho kẻ thù truyền kiếp Bắc phương. Tàu cộng đã ngang nhiên bắt Việt cộng phải cắt mấy trăm cây số vuông đất biên giới, kể cả aỉ Nam-Quan và thác Bản Giốc cho chúng, bắt Việt cộng phải mau hoàn thành việc cắm mốc biên giới để hợp thứ hóa phần đất bị xâm lấn. Hàng ngàn dặm vuông biển cả cũng đã được Việt cộng hiến cho Tàu. Tất cả đều làm trong bóng tối, không một ai được biết, trừ bọn cầm đầu Việt cộng. Khi Tàu cộng ngang nhiên chính thức sáp nhập các quần đảo Hoàng sa và Trường sa của ta vào lãnh thổ của chúng thì người dân quá uất hận, đã đứng lên biểu tình phản đối, nhưng lại bị chính bọn cầm quyền Vc thẳng tay đàn áp.

Ðến vụ làm đơn xin LHQ xác nhận chủ quyền về thềm lục điạ cuả ta, kể cả 2 quần đảo Hoàng sa và Trường sa, đến nay chỉ còn 2 tuần nữa là hết hạn (13-5-2009) mà vẫn chưa thấy Việt cộng làm, chắc chỉ vì sợ đụng tới Tàu cộng, vì chúng đã vẽ bản đồ công khai đưa các quần đảo Hoàng sa và Trường sa cuả ta vào lãnh thổ của chúng!

Sự sợ sệt của Việt cộng đối với Tàu cộng đã làm nhục quốc thể đến độ không còn chấp nhận được nữa.

Tuy mới đây Việt cộng có tổ chức hội thảo về biển đông, và lại vừa tuyên bố ngày 25-4-2009 sẽ lập huyện Hoàng-sa, trực thuộc Ðà Nẵng, nhưng nếu chỉ làm trên giấy tờ cho có lệ, cho đỡ bẽ mặt, như đã từng nhiều lần lên tiếng xác nhận Hoàng sa và Trường sa là của Việt-Nam, rồi thôi không làm gì thêm nữa, trong khi Tàu cộng vẫn cứ lầm lì lấn chiếm từng phần của các quần đảo đó, thì trên thực tế cũng chẳng ích gì mà còn làm cho tình thế mỗi lúc mỗi suy đồi thêm.

Tất cả những uất hận bị dồn ép đó, cùng với những bất mãn chất chứa từ bao lâu nay của dân oan v.v. nay có dịp được bùng lên trong vụ bô xít. Ðó là lý do mọi thành phần dân chúng, nhất là trí thức, đã đứng lên để phản đối chính quyền về vụ này.

Sự thần phục Trung cộng.

Vụ bô xít làm cho người ta tự hỏi, trong khi không giải quyết được bao nhiêu khó khăn to lớn khác với Tàu cộng, tại sao Việt cộng lại vác thêm gánh nặng bô xít hiểm nguy vào người? Chẳng lẽ Việt cộng không hiểu được tính cách ‘bùng nổ’ của vụ này và không biết nó sẽ đi đến đâu? Có thể nói thành công hay thất bại cũng đều bất lợi cho cả đôi bên, nhất là bên Việt cộng và Việt-Nam.

Nhìn những gì đã xẩy ra từ trước đến nay giữa 2 bên Việt/Tàu cộng, người ta buộc lòng phải nghĩ rằng Việt cộng đã bị Tàu cộng khống chế, chúng bắt làm những điều bất lợi, nhục nhã đến đâu cũng phải làm. Nhưng theo thiển ý thì đây là một sự “miễn cưỡng bị nắm đầu”, không phải vì Việt cộng quá hèn kém mà chỉ vì quyền lợi bản thân của đảng Việt cộng, đúng hơn của đám chóp bu Việt cộng. Chắc nhiều người còn nhớ, trước đây không lâu Việt cộng đã từng mấy phen chọi nhau với Tàu cộng mà không sợ, thì cớ gì bây giờ lại sợ quá đỗi như vậy, trong khi hoàn cảnh của thế giới ngày nay khó cho phép Tàu cộng đem quân xâm lăng Việt-Nam như trước?

Câu trả lời là, lúc đó Việt cộng dám chống Tàu vì được Liên bang Sô viết che chở. Mà Liên bang Sô viết thì vừa là cộng sản, vừa ở xa, lại vừa đang chống nhau với Tàu cộng, nên nhờ Liên Bang Sô Viết là đương nhiên, vì theo mà không sợ mất quyền. Còn bây giờ tuy Mỹ lớn mạnh hơn Liên Bang Sô Viết trước kia cũng như Tàu cộng hiện nay, nhưng Việt cộng biết rõ nhờ Mỹ thì Mỹ chỉ lo buôn bán trục lợi chứ không bảo đảm che chở cho chế độ Việt cộng tồn tại như Tàu. Cho nên Việt cộng đành phải đi theo Tàu cộng để Tàu cộng che chở cho bám giữ chính quyền, dù bị bọn này bóc lột vô cùng trắng trợn, dã man, và bị dân chúng nguyền rủa thậm tệ.

Như thế là Việt cộng đã tính toán kỹ lưỡng và đã làm một sự chọn lựa: thà cắt bỏ những cao điểm trọng yếu ở biên giới và nhượng những vùng biển rộng lớn lao đầy tài nguyên cho Tàu chứ không theo Mỹ để giữ nước mà mất quyền. Chính sách đi giây cuả Vc do đó là: o bế để lợi dụng Mỹ, nhưng đi với Tàu để giữ quyền bính.

Từ đó suy ra ta có thể đi đến một kết luận khá vững chắc là, Vc sẽ bám quyền bằng mọi giá, kể cả dâng đất hiến biển, cho khai mỏ, cho dânTàu ồ ạt sang làm ăn sinh sống ở Việt-Nam v.v.. Trước sự kiện đó, nếu dân tộc Việt-Nam không muốn bị nạn Tàu cộng xâm thực lần mòn, không muốn bị Vc làm nhục, thì chỉ còn có cách nổi dậy lật đổ chúng. Mong rằng sẽ có một cơ hội giúp cho dân ta rửa được cái hận 75, khi dân chúng nổi lên lật đổ bạo quyền và quân đội chợt tỉnh ngộ về vai trò của mình, còn TC thì bận tay với Mỹ.

NQH 2009 với hiện tình đất nước

Tuy việc tổ chức tưởng niệm và nuôi dưỡng tinh thần NQH hiện nay chủ yếu là do các cộng đồng người Việt tự do hải ngoại thực hiện, nhưng ai cũng biết QH 75 là cho chung cả dân tộc chứ không cho riêng dân miền Nam. Ngày đó đánh dấu một trang sử đen tối nhất của cả nước. Một chế độ cực kỳ tàn bạo đã vây phủ khắp nơi. Mất miền Nam là mất một hy vọng tràn trề để gỉai thoát đồng bào miền Bắc khỏi bàn tay sắt máu Vc.

Nhưng lịch sử dân tộc đã chứng tỏ không bạo chúa nào có thể tồn tại mãi mãi. Người dân đang dần dần đứng lên để đòi lại tự do dân chủ mà bọn cầm quyền cộng sản đã cướp đoạt của họ từ bao năm qua. Những biến chuyển mới đây đã cho thấy đồng bào không còn chịu đựng được nữa những áp bức và tủi nhục mà bạo quyền Vc gây ra. Mối liên hệ bạo quyền / người dân đã đến lúc phải được giải quyết thỏa đáng.

Là người Việt tỵ nạn cộng sản, chúng ta không khỏi vui mừng khi được thấy đồng bào quốc nội can đảm đứng lên đòi đảng cộng sản phải tôn trọng tự do và lắng nghe tiếng nói của người dân. Nếu toàn dân đồng lòng nắm lấy thời cơ, đẩy mạnh cuộc tranh đấu thì sẽ chắc chắn sẽ tạo được áp lực với chính quyền, mở rộng được con đường tranh đấu cho tự do, dân chủ.

Về phần người Việt hải ngoại, nếu chúng ta quan niệm rằng quốc nội là chính, và nay quốc nội đang chuyển mình, đang mở ra một vận hội mới mà người Việt hải ngoại hằng mong đợi, thì thiết nghĩ chúng ta cũng cần phải có thái độ tích cực hơn để kịp thời làm tròn nghĩa vụ của mình.

Tuy hải ngoại cũng có những khó khăn lớn lao vì nếp sống tự do, vì sự lệ thuộc vào tình hình địa phương, và nhất là vì sự đánh phá của bọn cộng sản nằm vùng và tay sai, nhưng cũng đã đến lúc mọi người, mọi tổ chức của người Việt Quốc Gia hải ngoại phải có biện pháp thích đáng để ổn định cộng đồng và yểm trợ quốc nội.

Trong phạm vị này, theo thiển ý, chúng ta có thể đề ra những biện pháp cụ thể, khả thi, mà nếu dứt khoát thực hiện thì thế nào cũng có kết quả khả quan, phần nào ổn định được cộng đồng và yểm trợ được quốc nội hưũ hiệu hơn. Với mục đích trên, chúng tôi xin đưa ra đề nghị 3 điểm như sau để góp ý với những đồng hương quan tâm:

- Thứ nhất là phải phân định rõ ràng ta, địch, bằng các tiêu chuẩn minh bạch, để dễ nhận diện bọn nằm vùng, không để chúng tự do đánh phá tập thể tỵ nạn của ta. (Cuối năm 2002 và 2003 chúng tôi đã viết khá rõ về điểm này trong bài “Nhu Cầu Bảo Vệ Lằn Ranh Quốc/cộng” và bài “lập Trường Chung”).

- Thứ hai là cô lập, tẩy chay bọn nằm vùng và tay sai, sau khi đã nhận diện được chúng. Ðây là điều vô cùng cần thiết, vì chỉ có biện pháp đó mới giới hạn được nỗ lực khuynh đảo của địch. (Ðiểm này cũng đã được chúng tôi trình bày trong bài Lập Trường Chính trị” nói trên)

- Và thứ ba là tạo một sự phối hợp hoạt động (chứ không phải thống nhất) giữa các tổ chức của người Việt Quốc Gia với nhau, để có đủ khả năng tranh đấu hữu hiệu với Vc.

Ðây là những việc khả thi, do ta chủ động, có thực hiện được hay không, thành hay bại, chủ yếu là do chính mình chứ không phải do ai khác. Rửa hận và tranh đấu cho tự do dân chủ không thể mãi mãi chỉ bằng lời nói hay bài viết. Phải có cả việc làm. Nếu ta có một lập trường chống cộng thực sự, và quyết tâm thực hiện thì sẽ nắm được chìa khoá thành công. Bằng không, nếu cứ bỏ lửng, thì tình trạng sẽ suy đồi thêm. Còn nếu nhẹ dạ, nghe theo luận điệu xóa bỏ hận thù, quên NQH (cũng như bỏ chào cờ Quốc Gia), thì sẽ không còn vấn đề rửa hận nữa, không còn vấn đề tranh đấu nữa, và như thế không khác gì chấp nhận vĩnh viễn chế độ độc tài đảng trị, vừa bạo tàn vừa tham nhũng lại vừa bất lực của Vc.

Hoàng Ðạo Thế Kiệt



Saturday, May 16, 2009

Tàn dư Cộng sản ở nước Nga và nước Việt - Lê Sáng


Lê Sáng

1. Tàn dư cộng sản ở nước Nga

Mặc dù tổng thống nước Nga hiện nay là Medvedev nhưng cứ nói đến nước Nga hôm nay, người ta lại gán cho cái tên Putin, có lẽ bởi ngài cựu tổng thống này vẫn đang nắm thực quyền, và sẽ quay lại với quyền lực chính thức vào kỳ bầu cử tới.

Kể từ khi được Boris Yelsin lựa chọn đưa lên làm tổng thống tạm quyền nước Nga, Putin đã cho thi hành một chính sách đầy tham vọng, hòng lấy lại vị thế của nước Nga, của dân tộc Nga đã bị tan nát vì ứng dụng, và xuất khẩu chủ thuyết cộng sản gây thù chuốc oán không chỉ cho dân tộc Nga …

Putin xuất thân từ một sĩ quan an ninh xô viết – đương nhiên ông ta phải là đảng viên cộng sản. Theo quy định của xã hội cộng sản, bắt đầu từ chức vụ trung úy phải là đảng viên cộng sản, nếu không phải chờ người đó được kết nạp đảng, mới phong chức cho dù đã thừa các tiêu chuẩn khác. Như thế, dù Putin không muốn cũng phải vào đảng cộng sản Liên Xô mới có thể thăng tiến được.

Là một sĩ quan an ninh Liên Xô, một cơ quan tình báo phản gián khét tiếng, mà tội ác của nó chính những người cộng sản phải công khai thừa nhận (Tìm xem vụ ANXV thủ tiêu gần mấy chục ngàn binh lính sĩ quan Ba Lan trong thế chiến II). Đương nhiên Putin có đầy đủ các phẩm chất của sĩ quan an ninh Xô Viết. Là đảng viên cộng sản, đương nhiên Putin có đầy đủ lý luận cũng như hành động của người cộng sản. Lý tưởng và phẩm chất này của Putin hẳn là đã ăn sâu vào tận tiềm thức. Nhưng Putin cũng là con người thức thời, ông ta nhận thức rất nhanh xu thế của thời đại: Một thời đại không chấp nhận thứ chủ thuyết vô luân cộng sản, với đủ mánh khoé lưu manh hiện diện từ những chính trị gia cho đến tận một thường dân trong cái xã hội quái gở đó.

Vì vậy Putin phải công khai tuyên bố đoạn tuyệt với cộng sản. Tức là ông ta đoạn tuyệt với cái ngày trước ông ta đặt tay lên ngực mà tuyên thệ suốt đời trung thành. Kể như thế cũng là kẻ làm tôi hai chủ. Người ta dễ dàng tha thứ và chấp nhận sự sám hối. Nhưng sám hối để có cơ hội mà làm tổng thống thì có lẽ không được đường hoàng lắm và bất cứ kẻ cơ hội nào cũng có thể làm được. Dân Nga chắc quá ít người nhận ra sự thật này cho nên Putin đắc cử nhiều lần … Và như để “thưởng công“ cho những người bỏ phiếu cho ông ta, Putin cho thi hành một chính sách an sinh xã hội theo kiểu chủ nghĩa dân tuý, ve vãn thoả mãn nhu cầu vật chất của người dân.

Nhưng như thế thôi thì chưa đủ yên dân. Vì xã hội Nga đang bị trống tư tưởng – ý thức hệ sau một thời gian dài thực thi chính sách cộng sản vô tổ quốc, vô dân tộc, vô tôn giáo, quan hệ gia đình huyết thống lỏng lẻo. Để lấp chỗ trống đó, Putin ngấm ngầm kích động tinh thần dân tộc đại Nga. Mang nỗi nhục dân tộc Đại Nga suy vong để khơi dậy tinh thần dân tộc đã rất cũ kỹ trong xã hội ngày nay … Thật là nực cười! Dân tộc đại Nga bị hạ nhục có phải là vì họ đem ứng dụng học thuyết cộng sản không tưởng? Và ai là kẻ góp phần không nhỏ vào cái sai lầm chết người đó? Có lẽ một sinh viên đại học cũng có thể trả lời: PUTIN có đóng góp.

Ngay như thứ chủ nghĩa dân tuý mà Putin cho thực hiện tại nước Nga cũng là một cuộc phiêu lưu… Thực chất Putin chỉ bán tài nguyên để thoả mãn nhu cầu vật chất của dân mà thôi. Tài nguyên thì không phải của Putin, nó cũng không được hình thành từ chính sách của Putin. Đương nhiên nó là của toàn dân tộc Nga, nó thấm máu tiền nhân. Nhưng dứt khoát không liên quan gì đến Putin. Putin chỉ có công khi giữ lại tài nguyên cho con cháu mà thôi. Người dân Nga thật ngây thơ. Được người ta lấy cái của mình, cắt xén ra, rồi cho chút đỉnh mà cũng vui mừng … (?) Nói chủ nghĩa dân tuý mà Putin thực hiện mang tính phiêu lưu là vì tài nguyên luôn có giới hạn. Và có giai đoạn giá thành khai thác nó còn cao hơn cả giá trị bán nó. Thực tiễn đã chứng minh điều này. Và cơn giận của những người bị lừa dối thì nước Nga đã chứng kiến khi Liên Xô sụp đổ rồi.

Còn chủ nghĩa dân tộc mà Putin khêu gợi thì sao? Có lẽ ông ta cũng hiểu rằng nó chỉ có thể dùng để lên dây cót tinh thần người dân Nga hiền lành chất phác thôi. Chứ dùng nó để gây chiến thì dân Nga với 100 Triệu cộng với kho vũ khí cứ cho là thứ nhì thế giới đi, cũng chẳng có nghĩa gì. Phát xít Đức khi xưa có tiềm lực quân sự, kinh tế gấp 8-10 lần nước Nga mà vẫn thua đó thôi. Người Nga thừa hiểu Phát xít Đức thua vì là kẻ gây chiến trước, chẳng có tí chính nghĩa nào … Không lẽ Nga lại đi gây chiến trước hay sao?

Có lẽ Putin hiểu rõ vấn đề, nên ông ta chủ yếu kích động từ trong ra ngoài, và hình như ông ta muốn một quốc gia nào đó, một thế lực nào đó gây chiến trước để ông ta thị uy trong một cuộc chiến mà nước Nga chắc thắng. Và dùng nó để tạo tình huống cả thế giới phải thương lượng với nước Nga … Nhưng có ai mà dại dột như thế? Ngay như cuộc chiến vài ngày với Gruzia hồi 2008 giới phân tích chính trị cũng cho rằng nước Nga đã thua trí tổng thống Sacatvili. Sau cuộc chiến, ai còn mơ hồ về ý đồ đế quốc của Nga trong khu vực cũng đều tỉnh ngộ. Đến như Trung Cộng, kẻ thực dụng nhất trong thế giới ngày nay cũng ngoảnh mặt đi trước việc Nga công nhận hai vùng đất của Gruzia thành hai quốc gia độc lập, và thiết lập ngoại giao. Họ sợ hãi khi nghĩ đến việc Đài Loan được công nhận độc lập … Sacatvili được giới phân tích chính trị ví như một “mụ đàn bà” nhảy vào đánh một ông võ sĩ giữa chợ, biết thừa là thua nhưng mụ đàn bà này mồm loa mép giải, giật mũ xé áo ông lực sĩ kia, để cho ông lực sĩ tát chảy máu mồm … làm xôn xao góc chợ … mọi người đổ xô đến, ông lực sĩ có gan Trời, có đai nhất đẳng cũng chẳng dám giết con đàn bà liều mạng nhưng là loại tép riu này. Thật tội nghiệp cho Ngài Putin … Vậy mà ngài vẫn già mồm. Thế mới biết làm chính trị khó hơn làm tình báo.

Khi giá dầu lửa về lại với giá trị thực, Putin bắt đầu lo sợ. Những đại dự án về quân sự, về “kinh tế liên doanh chính trị” với nước này để răn đe nước kia kiểu thời Xô Viết bỗng dưng có nguy cơ dừng lại trên giấy. Thế là âm mưu chẳng những không thành mà còn làm nước Nga bị cả thế giới nghi ngờ về tính chất hội nhập, về đóng góp cho hoà bình nhân loại … Cái giá đau nhất mà Putin phải trả là cả Chủ tịch Cu Ba lẫn tổng thống Venezela vừa hôm trước còn lớn tiếng mời nước Nga thành lập liên minh quân sự này nọ để chống Mỹ, cho mượn căn cứ quân sự trên lãnh thổ nọ kia để tăng cường ảnh hưởng nước Nga ở sân sau nước Mỹ. Bỗng dưng quay ngoắt 180 độ xin muốn làm bạn với Obama, Obama thì gỡ bỏ hạn chế này nọ cho Cu Ba … Putin chết đứng. Như khi xưa Liên Xô làm Cu Ba chết đứng vậy. Thế là hoà 1-1. Làm chính trị không thể chỉ dùng “đòn gió”, không thể chỉ dùng thủ đoạn … Nếu không sẽ ăn lại thủ đoạn của chính mình.

Tuy vậy có vẻ như Putin đã đi quá xa, và không còn dừng lại được nữa cho nên ngày 14.05.2009 tổng thống trên danh nghĩa của nước Nga là Medvedev chẳng ngần ngại mà huỵch toẹt ra rằng: “Trong bối cảnh cạnh tranh năng lượng, vấn đề sử dụng vũ lực không thể bị loại trừ và có khả năng phá vỡ cân bằng lực lượng tại các khu vực có biên giới với Liên bang Nga và các nước đồng minh” - Bản chiến lược an ninh quốc gia Nga đến năm 2020. Không hiểu Putin cho công bố cái chiến lược này làm gì? Nếu buộc phải làm như vậy thì để nó là tài liệu mật có lẽ tốt hơn. Đến 2020 chắc gì Putin còn tại vị. Người kế nhiệm đâu đã mù quáng mà rập theo cái ông ta vẽ vời phi thực tế đến thế? Putin thì không thể sống mãi. Nhưng dân tộc Nga thì không thể chết. Và thế là người Nga tốn bao nhiêu thời gian công sức để gột rửa cái tiếng cộng sản. Nay lại một lần nữa phải gột rửa cái tiếng hậu cộng sản. Nước Nga còn lâu mới thành cường quốc văn minh được thế giới vừa sợ vừa kính nể, vừa ngưỡng mộ muốn theo gương.

Càng ngày Putin càng “lộ bài” và không xứng tầm một nguyên thủ cường quốc. Người ta e dè Putin và nước Nga theo kiểu tránh va chạm với một anh lực sĩ khùng. Chứ chẳng phải nể vì với một nguyên thủ cường quốc nói đâu chết đó. Chính trị hậu cộng sản thì mang mầu sắc cộng sản, và chẳng ai muốn chơi vì nó cũng nguy hiểm chẳng kém cộng sản. WTO chẳng cầu nước Nga. Nước Nga biết rằng cầy cục chẳng vào được nên họ đứng ngoài.

2. Tàn dư Cộng sản ở nước Việt:

Nói là tàn dư vì thực tế cộng sản ở Việt Nam không còn gì là cộng sản theo học thuyết của Mac-Lenin nữa. Thậm chí nó đã cho tay chân phát ngôn thăm dò dư luận về việc vứt cái tên cộng sản đổi thành đảng nhân dân, đảng lao động hay đảng XXX nào đó…

Cộng sản Việt Nam thực chất là tập hợp những kẻ học hành nửa vời, nhận thức mù loà, biết một mà không biết hai. Sở dĩ họ lên nắm quyền là nhờ cấu kết được với quốc tế cộng sản, và trở thành tên lính xung kích cho việc bành trướng cái chủ thuyết đó thôi – Họ là Việt gian, bán nước để lên nắm quyền.

Sau khi cộng sản sụp đổ trên bình diện thế giới, lúc đầu việt gian cộng sản hô hoán lên rằng: “Học tập xây dựng chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung Quốc”. Nhưng sau một hồi lần mò chẳng định nghĩa được CNXH mang mầu sắc Trung Quốc là thế nào. Hỏi đến quan thầy Trung Cộng thì bị gạt toe đi vì Trung Cộng cũng không còn hứng thú gì với “đồng chí Cộng sản Việt nam vô ơn bạc nghĩa” ăn nói lèo lá lấy lòng chỉ vì sắp chết. Đến hôm nay không ai còn nghe thấy VGCS nói đến chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung Quốc nữa. Mà nó chắp vá lý luận cố nặn ra cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong khi Hồ là kẻ thực hành chủ nghĩa Cộng sản với những mánh lới của kẻ du thủ du thực chứ hoàn toàn không có năng lực tổng hợp vấn đề lên hàng Lý Luận Hệ Tư Tưởng. Lúc còn sống Hồ cũng công khai thừa nhận như thế.

Cho nên có thể nói Cộng sản Việt nam không có năng lực gì, từ năng lực nhận thức đến năng lực hành động. Từ hành động chính trị đến hành động kinh tế để lèo lái nền kinh tế chính trị thoat hiểm. Vì thế mà nó phải bán tài nguyên, phải bán đất bán biển đổi lấy tiền bạc kéo dài sự sống. Còn hành động quân sự trong chiến tranh - Cái csvn vẫn tự hào trong cuộc chiến nướng quân nướng dân khi xưa, nay chiến tranh công nghệ cao sẽ xử lý được trong nháy mắt. Csvn thừa biết họ sẽ thảm bại thế nào nếu đem áp dụng cái chiến thuật man rợ đó. Cho nên csvn vẫn là kẻ chẳng có năng lực hành động gì trong thế giới văn minh ngày nay.

Có vẻ như ông đại tướng Võ Nguyên Giáp không hiểu rằng, ông để lại cho hậu duệ một nền kinh tế khố rách mà lại bắt họ phải ngẩng mặt đi ra quốc tế, bảo vệ chủ quyền này nọ. Không bán Bô-xít Tây Nguyên được sao? Không bán thì họ lấy gì mà sống? Các nhà khoa học thì chẳng hiểu biết chính trị phê phán lãnh đạo cộng sản là thiển cận là không biết tính toán. Nhưng thực chất lãnh đạo csvn tính toán rất kỹ. Không bán bô-xít Tây Nguyên, không gán đất gán biển thì chết ngay. Bán đi thì có chết cũng dần dần. Biết đâu tình thế xoay chuyển có thể giúp csvn thoát hiểm như đầu thập niên 1990? Đây là lựa chọn phương án tối ưu của csvn. Mọi lời khuyên, lời cảnh báo đều vô ích.

Tàn dư cộng sản trong bộ máy nhà nước của csvn thì chưa được như nước Nga. Nhưng giới lãnh đạo csvn đang mơ tới đó chứ không phải tới mô hình Trung Cộng. Csvn cũng biết rằng Trung Cộng là người khổng lồ có đôi chân bằng đất sét. Khi nào nó to lớn quá hạn, tự sức nặng sẽ làm nó sụp đổ. Đặc tính người Á châu là đoàn kết vâng phục rất kém … càng đông, càng khó thống nhất ý kiến … Lịch sử đã chứng minh không có một đại quốc nào ở Á châu bền vững cả. Nước Tàu khi xưa thực chất cũng không thống nhất. Thiên tử vẫn phải phong vương phong hầu chứ đâu với tay tới các vùng đất xa xôi. Nay CSTQ tìm cách xiết chặt mọi dân tộc rất khác nhau trên lãnh thổ cưỡng bức của họ, chắc chắn lòng người không phục.

Có thể nói tàn dư cộng sản nguy hiểm nhất ở Việt Nam là tính chất băng đảng Mafia. Người cộng sản và cả những kẻ cơ hội theo cộng sản đều có hoạt động theo kiểu Mafia … Họ đang tìm cách thoát khỏi cái xác cộng sản, để thành những nhà tư bản, thậm chí nhà dân chủ. Họ đang tìm cách kết nối với thế giới bên ngoài để làm một cuộc cách mạng “Kim thiền thoát xác” rồi đổ mọi tội lỗi lên đầu cái xác kim thiền cộng sản rỗng tuếch kia … Còn họ sẽ xé thẻ đảng, đốt sách Mác như Putin đã làm rồi đứng ra thành lập đảng nước Việt Thống Nhất … Hay đảng XY gì gì đó … Dùng xảo thuật dân tộc chủ nghĩa, thông qua bầu cử “tự do dân chủ” với hơn 70% phiếu dân bầu mà lên nắm quyền. Rồi họ sẽ lại tiếp tục đưa dân tộc Việt, nước Việt vào một cuộc phiêu lưu mới.

Người Mỹ xưa đã bán rẻ Việt Nam Cộng Hoà nay lại mua được rẻ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tội gì họ phải đắn đo? Trung Cộng xưa đã được Mỹ nhượng cả Đông Dương, nay Mỹ đòi lại cái giải Việt Nam thì có gì quá đáng??? Dân tộc Việt còn trầm kha vì thiếu thốn đủ thứ, trước tiên là thiếu hiểu biết.

Xin các quý vị người Việt có địa vị cao trên trường quốc tế, có môi trường tự do, có năng lực trình độ hãy đem đến cho dân tộc Việt sự hiểu biết bắt đầu bằng việc xé bức màn bưng bít thông tin. Sự thật sẽ giải thoát người dân Việt và chính họ mới có thể kết liễu mọi ý đồ đen tối, mọi băng đảng Mafia dù chúng gớm ghiếc đến đâu.

Hà nội, ngày 14.5.2009
Lê Sáng


Học giả Toan Ánh qua đời



Toan Ánh để lại cho đời hơn 120 tác phẩm về văn hóa Việt Nam

Học giả Toan Ánh, người nổi tiếng với các tác phẩm về văn hóa Việt Nam, đã qua đời sau nhiều ngày nằm bệnh ở một bệnh viện ở Sài Gòn.

Báo chí trong nước cho biết nhà văn Toan Ánh, sinh năm 1915, ra đi lúc 23h50 ngày 14.5 tại bệnh viện Nhân dân Gia Định.

Với hơn 120 tác phẩm, ông thuộc trong số không nhiều các tác giả dành cả đời để viết về phong tục tập quán Việt Nam.

Bài biên khảo đầu tiên của Toan Ánh là về tục hát quan họ ở vùng quê ông, Thị Cầu, Bắc Ninh, in trên Trung Bắc tân văn năm 1937.

Kể từ ngày đó, ông cho ra mắt nhiều bộ sách giá trị, như bộ 11 cuốn, Nếp cũ, nói về vòng đời của con người Việt Nam.

Nhiều tác phẩm khác vẫn được nhiều người ưa thích như Hương nước hồn quê, Hồn muôn năm cũ, Phong lưu đồng ruộng, Thờ cúng tổ tiên...

Các cuốn như Cao nguyên miền Thượng, Làng xóm miền Nam là tư liệu quý để tìm hiểu văn hóa, phong tục các miền.

Trong một cuộc phỏng vấn với báo trong nước năm 2004, ông nói băn khoăn của mình là "xã hội Việt Nam thay đổi quá nhanh, những nét đẹp truyền thống ngày mỗi mai một".

Dự kiến lễ động quan sẽ diễn ra hôm 19.5, sau đó linh cữu được đưa đi hỏa tang ở nghĩa trang Bình Hưng Hòa.

(Nguồn: yahoo mail)


Đại Lễ Phật Đản Phật Lịch 2553 tại Chùa Điều Ngự - California

Đoàn Thiếu Nữ Chùa Điều Ngự hát mừng Phật Đản

VĂN PHÒNG II VIỆN HÓA ĐẠO HPGVN HẢI NGOẠI TẠI HOA KỲ
CHÙA ĐIỀU NGỰ

Vì đại nguyện cứu độ muôn loài nơi trần thế, Bậc Đại Giác Thế Tôn đã thị hiện đản sanh. Văn Phòng II Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ/Chùa Điều Ngự đã long trọng tổ chức Đại Lễ Phật Đản Pl.2553 vào lúc 1:30 pm ngày Chủ nhật 10.5.2009 nhằm ngày 16 tháng 4 năm Kỷ Sửu.

Mặc dầu Trời nắng gắt nhưng đến 1 giờ trưa Đồng bào Phật Tử và Quan khách đã vân tập về Chùa đông đảo để viếng cảnh và lễ Phật trong Vườn Lâm Ty Ni với cây cảnh xanh tươi, nước phun mát mẽ qua hoạt cảnh Phật giáng trần với bảy bước hoa sen xinh đẹp. Đúng 1giờ 30 hội trường đã đông đảo,Pháp Sư Thích Giác Đức đăng đàn giảng một thời Pháp ngắn gọn. Sau đó là ba hồi chuông trống bát nhã cung nghinh Xá Lợi Phật, Phật Đản sanh và cung thỉnh Chư Tôn Đức Giáo Phẩm quang lâm lễ Đài.

Buổi lễ hôm nay được sự chúng minh của Đức Phó Tăng Thống Đại Lão Hoà Thượng Thích Hộ Giác, Đại Lão Hoà Thượng Phó Viện Trưởng Viện Hoá Đạo Thích Chánh Lạc, Pháp Sư Niên Trưởng Thích Giác Đức Tổng Ủy viên Kế Hoạch cùng đông đảo Chư Tôn Hoà Thượng Thượng Toạ Đại Đức Tăng Ni trong Hội Đồng Điều hành Văn Phòng II Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ và hơn 150 Chư Tăng các Giáo Hội Nhật Bản, Nam Hàn, Hoa Kỳ, Thái Lan, Tây Tạng, Miến Điện,Đài Loan, Tích Lan, Lào, Cam Bốt và Ông Đại Sứ Phó Chủ Tịch Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế giới tham dự.

hần quan khách có Ông Loucorea Nghị sĩ Tiểu bang California, Dân Biểu Tiểu Bang Trần Thái Văn, Phó Thị Trưởng Thành phố Westminster Tạ Đức Trí, Ông Contres Ủy viên Giáo dục Học Khu Westminster và nhiều vị khác.

Về Quan khách Việt Nam có Quí Vị đại diện các Tôn Giáo bạn như Công Giáo, Tin Lành, Phật Giáo Hoà Hảo v.v.. Quí Vị Cựu Tướng Lãnh, Sĩ quan cao cấp, Trung Cấp, Quí Vị Cựu Nghị sĩ, Dân Biểu, Nhân sĩ Trí thức, các Tổ chức Đòan thể, Chính Đảng, Các Cơ quan truyền thông báo chí và đồng bào Phật Tử các giới đông nghẹt cả hội trường . Sau nghi thức thường lệ, Thượng Tọa Thích Viên Lý Trưởng ban Tổ chức đã lên máy vi âm đọc diễn văn khai mạc, tiếp theo là Đạo từ của Đức Phó Tăng Thống Thích Hộ Giác , sau đó Hoà Thượng Thích Chánh Lạc tuyên đọc Thông Điệp Phật Đản 2553 của Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, kế tiếp là phần phát biểu của Ông Đại Sứ Phó Chủ Tịch Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới , phát biểu của Thượng nghị sĩ Tiểu bang Loucorea và Dân biểu Tiểu bang Trần thái Văn cùng có nội dung chào mừng Đại Lễ và nổ lực yểm trợ công cuộc đấu tranh giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn mà Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất do Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo. Thượng nghị sĩ Loucorea cũng đã đai diện Thượng Viện Tiểu bang California trao tặng văn phòng II Viện Hoá Đạo một bằng khen ngợi sự đóng góp về mặt tôn giáo cho Xã Hội. Sau đó Phó Thị Trưởng Tạ Đức Trí thay mặt Hội Đồng Thành phố Westminster lên phát biểu và đã trao tặng cho Thượng Tọa Trưởng Ban Tổ chức một bằng tưởng lục khen ngợi Chùa Điều Ngự đã góp phần phát triển văn hoá trong thành phố Westminster.

Cũng cần nên biết trước ngày cử hành Đại Lễ từ Văn phòng Tổng Thống OBAMA có gọi điện thoại đến Văn Phòng II Viện Hoá Đạo cho biết vì đang bận đối phó với tình trạng kinh tế suy thoái nên Tổng Thống chưa thể gởi thông điệp Phật Đản đến Đại lễ của Giáo Hội , hy vọng năm tới chúng ta sẽ có thông điệp của Tổng Thống Hoa Kỳ. Tiếp theo chương trình là phần cung thỉnh 15 Chư Tôn Đức Giáo Phẩm Việt Nam và Ngoại Quốc cùng mời 15 vị Quan Khách Chính quyền, Dân Cử và Nhân Sĩ Phật Giáo mỗi vị thắp một ngọn nến Chánh Pháp và tự cắm lên hai giàn nến để cầu nguyện cho Thế giới hoà bình, lảnh thổ lãnh hải Việt Nam được bảo tồn nguyên vẹn.

Sau đó nghi thức Đản sanh đã diễn ra thật trang nghiêm cả hai truyền thống Nam, Bắc Tông cùng thực hiện lễ Mộc Dục (tắm Phật) và lễ Phóng sanh.

Hôm nay cũng là ngày lễ Mẹ nên Đoàn Phật Tử Chùa Diệu Pháp cùng Ban Tổ chức đã thân kính trao đến năm Cụ Bà Cao niên nhất có tuổi thọ từ 87,86,85,84, 83 mỗi Cụ một bó hoa tươi thắm với lời cầu chúc an lạc và trường thọ. Đồng thời trao tận tay 1000 bông hoa hồng tươi đẹp đến 1000 hiền mẫu hiện diện với lời cầu chúc An vui, hạnh phúc và may mắn. Hội trường trở nên vui nhộn đầy tình đạo vị giữa những người con Phật cùng hướng về những Bà Mẹ Việt Nam nhiều thế hệ luôn luôn đầy tình thương bao la.

Tiếp theo Bình Luận Gia Lý Đại Nguyên, Giáo Sư Lưu Trung Khảo đã tuần tự lên phát biểu giới thiệu tác phẩm CỘI TÙNG TRƯỚC GIÓ, vinh danh Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ với tiếng vỗ tay vang dậy cả hội trường. Hôị trường cũng đã vỗ tay nồng nhiệt khi người điều khiển chương trình loan báo tin vui Thượng Tọa Thích Viên Lý sẽ nhận Bằng Tiến Sĩ Triết học về Tôn Giáo vào thứ bảy tuần tới.

Tiếp theo,Thượng Tọa Thích Viên Huy Phó Ban Tổ chức về kế hoạch đã lên phát biểu lời Cảm tạ với sự hiện diện cuả toàn Ban Tổ chức.

Sau cùng là chương trình văn nghệ của Gia Đình Phật Tử Chùa Điều Ngự phụ diển mừng ngày Đản sanh kết hợp xen kẻ là xổ số trong khi mọi người được Ban Tổ Chúc trao mời tận tay một phần ẩm thực chiều.

Cùng thời điểm này trong Chánh Điện Thượng Toạ Tổng Thư Ký cùng sáu Chư Tôn Đức trang nghiêm cử hành lễ Thọ giới Qui Y cho 50 giới tử đã ghi danh từ một tuần trước đó, ai nấy hân hoan với phát nguyện từ nay quyết giữ gìn Tam Qui Ngũ giới và an tâm vui mừng với Pháp danh vừa được ban của mình .

Buổi Văn nghệ kết thúc đúng 6 giờ chiều sau khi đại diện Ban Tổ Chức một lần nữa ngõ lời cảm ơn tất cả Quí vị đã ở lại đến giờ chót và cám ơn văn nghệ sĩ cùng các Cháu trong đội Lân và ca vũ Gia đình Phật Tử Chùa Điều Ngự đã cùng nhau tạo nên chương trình phụ diễn mừng Phật Đản thành công tốt đẹp.

Ra về mọi người hân hoan vui cười và từng nhóm kháo với nhau hôm nay quá đông, từ vườn Lâm Tỳ Ny vào đến Chánh Điện, từ Khuôn viên Phật Bà cho đến khu ẩm thực và nhất là trong Hội trường Lễ Đài Chính, nơi nào cũng đông nghẹt vậy thì khoảng bao nhiêu người ? nhóm thì nói 3 ngàn, nhóm thì phân tách trong hội trường vừa ngồi, và đứng chật khoảng 3000, còn trong Chánh Điện và các khu vực khác cũng đông nghẹt do đó mà ước khoảng 5000.

Riêng người viết biết được lượng ghế thuê và cơ hữu của Chùa đã ngoài 4000, người Lễ bái trong Chánh Điện và đi lại trong các khu vực thì lúc cao điểm (sau 2 giờ chiều) số người đến Chùa khoảng 5000 người , không kể lượt người viếng cảnh lễ Phật vào ra suốt ngày và theo những người giữ trật tự bên ngoài cho biết thì nếu có nhiều địa điểm đậu xe cũng như hội trường hành lễ rộng lớn hơn thì số lượng đồng hương Phật Tử tham dự sẽ đông hơn nữa. Thực ra con số không là gì cả mà quan trọng là tấm lòng và chí hướng. Biết để vui với nhau và để cùng cố gắng, cùng cảm thông, để cùng ước mong những ngày lễ hội sau này tránh được nhửng khuyết điểm ngoài ý muốn, mỗi ngày một cải tiến hoàn thiện, hầu đáp ứng lòng mong ước tốt đẹp của mọi người con Phật luôn hướng về Văn Phòng II Viện Hoá Đạo/ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ/Chùa Điều Ngự.

Westminster, thứ hai 11/5/2009

Chơn Diệu.

Liên Khuôn Phật Học
Tâm Vị

Trang trí Lễ Đài trước giờ hành lễ

Vườn Lâm Tì Ni trong ngày Phật Đản PL 2553

Các CHT chuẩn bị rước Chư Tôn Đức vào Lễ Đài

Cung thỉnh Chư Tôn Đức vào lễ đài

Chư tăng và đồng bào Phật tử nghiêm trang trong lễ chào cờ


Friday, May 15, 2009

Cho tao chưởi mầy một tiếng - Trạch Gầm

    Cho tao chưởi mầy một tiếng

    Đụ má, cho tao chưởi mầy một tiếng,
    Đất của Ông Cha sao mầy cắt cho Tàu?
    Ngậm phải củ gì mà mầy cứng miệng,
    Đảng của mầy, chết mẹ … đảng tào lao.

    Chế độ mầy vài triệu tay cầm súng,
    Cầm súng làm gì … chẳng lẽ hiếp dân.
    Tao không tin lính lại hèn đến thế,
    Lại rụng rời … trước tai ách ngoại xâm.

    Mầy vỗ ngực. Anh hùng đầy trước ngõ,
    Sao cứ luồn, cứ cúi, cứ van xin
    “Môi liền răng” à thì ra vậy đó
    Nó cạp mầy, mầy thin thít lặng thinh.

    Ông Cha mình bốn ngàn năm dựng nước,
    Một ngàn năm đánh tan tác giặc Tàu.
    Thân phận mầy cũng là Lê, là Nguyễn
    Hà cớ gì .... mầy hèn đến thế sao!

    Chuyện mầy làm Toàn Dân đau như thiến,
    Mầy chết rồi, tao nghĩ chẳng đất chôn.
    Hãy tỉnh lại ôm linh hồn sông núi,
    Cứ đà nầy... chết tiệt còn sướng hơn.

    Đàn gảy tai trâu .... xem chừng vô ích,
    Giờ mầy nghe tao chưởi còn hơn không ...

    Trạch Gầm

Ðài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam - Ðỗ Thái Nhiên



Ðỗ Thái Nhiên


Ðài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam, vừa mới được khánh thành, nằm bên trong khuôn viên nghĩa trang Westminster ở Quận Orange, Nam California.

Ðứng bên trong khuôn viên vừa kể, quay lưng lại với đường Bolsa, khách viếng tượng đài sẽ thấy một bãi cỏ xanh và rộng. Kế đến là lư hương đồng đen. Ðàng sau lư hương là kiến trúc trọng tâm của tượng đài. Kiến trúc này bao gồm một hồ nước hình quả trám, lớn bằng chiếc thuyền vượt biên. Chung quanh hồ nước là những tảng đá màu trắng ngà, mặt mài bằng, diện tích non một thước vuông. Trên mỗi tảng đá, danh vị của thuyền nhân tử nạn được ghi bằng mực đen, nét khắc sâu và sắc. Tại một tảng đá bên hông tượng đài, gần trung tâm mặt đá, tình cờ tôi bắt gặp phương danh “Tô Lai Chánh”. Anh này là bạn rất thân của tôi tại trường Luật Saigon từ 1963. Hồi bấy giờ, Tô Lai Chánh là chủ tịch Ban Ðại Diện Sinh Viên Luật Khoa Saigon. Khi nhập ngũ, Tô Lai Chánh trở thành chánh án công tố của Tòa Án Quân Sự Nha Trang. Giữa năm 1985, Tô Lai Chánh từ trại tù “cải tạo” về. Tôi từ khám Chí Hòa ra. Hai chúng tôi gặp nhau tại một quán cóc bên đường Trần Quang Khải, gần Cầu Bông. Sau đó tôi mất liên lạc với Chánh. Tôi có hơn hai thập niên đi tìm tông tích người ban họ Tô nhưng tuyệt vô âm tín. Mãi cho tới sáng 25/04/09 tôi mới gặp lai Tô Lai Chánh trên phiến đá này, bên hông Tượng Ðài Thuyền Nhân. Ðây là tin tức ngắn nhất, bất ngờ nhất, chính xác nhất, bàng hoàng và xoáy tim óc nhất. Nhìn không chớp mắt vào danh vị Tô Lai Chánh, tôi thấp thoáng thấy đôi mắt to và đen của anh chủ tịch Sinh Viên Luật Khoa Saigon vài thập niên về trước...

Bây giờ hãy trở lại với cấu trúc của Tượng Ðài Thuyền Nhân. Ở giữa hồ nước mang hình dáng chiếc thuyền như đã nói ở trên là một tảng đá lớn, biểu tượng cho đảo tỵ nạn. Bên trên tảng đá kia là hình tượng một gia đình gồm năm người: bà cụ già, cặp vợ chồng trẻ và một cháu bé khoảng dưới một tuổi. Người phụ nữ gần ngã sấp nhưng vẫn cố vươn mình lên cao, tay trái ôm cháu bé mắt nhắm nghiền, tay phải đưa ra phía trước như một cầu cứu. Cạnh đó là chiếc nón lá của phụ nữ Việt Nam và chai sữa dành cho trẻ em nằm lăn lóc trên mặt đất. Tiếp sau là hình tượng người thanh niên, tóc tai rũ rượi đang dìu bà lão đi tới. Toàn cảnh tượng đài là bức tranh ghi nhận: ba thế hệ Việt Nam chịu chung một tai họa. Thế hệ thứ nhất là bà cụ mà người chồng có thể đang bị khổ sai ở trại tù cải tạo nào đó. Thế hệ thứ hai là cặp vợ chồng trẻ. Thế hệ thứ ba là cháu bé với đôi mắt nghiền trước một tương lai mịt mù mây xám. Trong ngôn ngữ của biểu tượng: ba thế hệ là nhiều thế hệ, là toàn bộ dòng sống của dân tộc. Bảo là một tai họa nhưng đây là loại tai họa có chọn lựa. Trên bước đường vượt biên có một ngàn lẽ một tai họa khác nhau, tai họa nào cũng khủng khiếp, cũng vượt ra ngoài trí tưởng tượng của loài người. Trong phạm vi của một bài bình luận ngắn, bài viết này xin trình bày một tai họa điển hình. Hồ sơ của tai họa này được tìm thấy trong văn khố của cơ quan Cao Ủy Tỵ Nạn của Liên Hiệp Quốc năm 1979. Diễn tiến của sự việc được trình bày như sau:

“Anh Huỳnh Văn Trân, 34 tuổi, ngồi trên 1 băng ghế gỗ ở trại tị nạn Songkhla ở một bờ biển cực nam của Thái Lan, thuật lại câu chuyện của mình lần thứ ba. Anh ra đi trên một chiếc tàu gồm 62 người: đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Họ may mắn gặp thời tiết và gió thuận lợi, không bị rắc rối gì với máy tàu. Vào ngày thứ 5 trên biển, một chiếc tàu mã lực lớn dài 15 mét đến cặp sát mạn tàu anh. Có 12 người đàn ông trên thuyền, tất cả đều trang bị vũ khí đầy đủ. Trước hết, chúng ra lệnh cho hai người trong số phụ nữ sang tàu chúng. Một trong hai người này là vợ anh Huỳnh Văn Trân. Cô này bị ghì chặt xuống, súng trường kê sát thái dương, và bị ra lệnh không được kêu la. Cô bị bọn chúng cưỡng hiếp.

Bọn hải tặc sau đó nhảy qua tàu tỵ nạn, cướp đi mọi thứ có giá trị, bắn một người đàn ông còn do dự khi chúng cướp. Sau đó chúng tăng tốc độ phóng đi với các món của cải chiếm được, nhưng thình lình quay ngoắt lại. Vẫn giữ nguyên tốc độ tối đa, chúng nhắm thẳng vào tàu tỵ nạn và đâm mạnh. Chiếc tàu hải tặc đã lập đi lập lại hành động này trong khi nhóm người tỵ nạn đang hốt hoảng ngoi ngóp giữa biển khơi. Bọn cướp biển cố ý lái tàu cán qua vô số chiếc đầu đang nhấp nhô, có lẽ vì không muốn để sót lại nhân chứng nào. Khi vợ anh Trân còn đang chới với trên mặt nước, với đứa con trai mới lên 3 đang níu chặt cổ mẹ, cả hai đã bị tàu cán qua và chết đuối, 10 người trong số họ sống sót, sau đó được vớt lên và đưa tới Songkhla, Thái Lan.”
(Hết lời dẫn)

Tai họa kể trên cùng hàng vạn tai họa khác cho thấy thuyền nhân bị giết chết trong những tình huống vô cùng tàn ác nhưng cũng vô cùng bi tráng.

Bi tráng bởi lẽ: không phải những người chuẩn bị vượt biên không biết tất cả những hung hiểm trên sông, trên biển. Thế nhưng thuyền nhân vẫn quyết tâm vượt biên, quyết tâm bước vào con đường chỉ có thể chọn lấy một trong hai giải pháp: “Tự do hay là chết”. Con người có nhiều phương cách để diễn đạt tư tưởng. Con người có thể nói bằng ngôn ngữ bình thường, có thể nói bằng quả đấm, bằng tiếng thở dài, bằng cái nhíu mày, cau mặt. Trong tất cả những kiểu nói và cách nói kia, tiếng nói của im lặng là tiếng nói của tận cùng lạnh lùng và quyết liệt. Im lặng chôn dầu vượt biển, im lặng đút hối lộ cho công an, im lặng qua mặt các toán tuần duyên CSVN, im lặng đối mặt với hải tặc, im lặng viết tên của chính mình trên phiến đá ở Ðài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam. Tất cả các im lặng vừa diễn tả chỉ dễ nói lên một điều:

Chúng tôi là con người Việt Nam, Chúng tôi không thể sống không có tự do. Chúng tôi sẵn sàng mang sinh mạng của mình để đổi lấy tự do. Ðiều kỳ lạ là thuyền nhân Việt Nam đi vào cõi chết nhưng vẫn nheo mắt nhìn đời với miệng cười ngạo nghễ. Thông thường mỗi thuyền nhân trước giờ vượt biên đều thấy trước ba con đường: nếu vượt biên thoát thì đương sự sẽ làm việc kiếm tiền trợ giúp gia đình. Nếu bị bắt thì gia đình phải đi thăm nuôi. Nếu gặp tai họa giữa biển cả thì an giấc ngàn thu dưới đáy biển. Chúng ta hãy nghe một thuyền - nhân - trẻ từ giã mẹ già trước giờ vượt biên. Từ giã rằng:
    “Một là con nuôi Má,
    Hai là Má nuôi con,
    Ba là con nuôi cá.”
Rõ ràng lời giã từ rất đắng cay nhưng vẫn không thiếu phần hài hước. Chính tính hài hước trong hỏa ngục mới diễn tả trọn vẹn niềm thống hận của thuyền nhân. Trong niềm thống hận kia thuyền nhân gói ghém hai ước mơ:

Ước mơ một: Vượt biên vừa để phản kháng CSVN độc tài, phản nhân tính vừa để tìm lại cho gia đình, cho bản thân một đời sống đầy đủ tự do và dân chủ. Ðồng thời, giúp cho các thế hệ tương lai được giáo dục và đào tạo thành con người.

Ước mơ hai: từ giã đất tạm dung, quay trở về quê cũ, quyết tâm xây dựng lại một Việt Nam tự do dân chủ. Triệt để loại bỏ mọi bùa phép dân chủ ngụy trá của CSVN.

Thật là đau đớn, mỗi người hai ước mơ, hàng triệu ước mơ đã bị vùi sâu dưới đáy biển. Với thời gian, ước mơ của thuyền nhân từ lòng biển đã vang vọng về với dương thế làm xao xuyến hàng triệu triệu quả tim Việt Nam. Cuối con đường xao xuyến là Ðài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam. Tưởng niệm không chỉ là hương khói với hoa tươi. Tưởng niệm phải biểu hiện bằng quyết tâm biến ước mơ của thuyền nhân thành hành động cụ thể. Hành động cụ thể đó chính là đào thải chế độ Hà Nội ra khỏi vị trí cầm quyền, buộc chế độ này phải trả lời trước công lý về vô số tội ác tham ô, độc tài và bán nước

Ðỗ Thái Nhiên