Sunday, May 17, 2009

Vài Suy Tư Về Ngày Quốc Hận 2009 - Hoàng Ðạo Thế Kiệt

Hoàng Ðạo Thế Kiệt

Từ 34 năm nay, mỗi năm người Việt tỵ nạn khắp nơi đều làm lễ tưởng niệm ngày Quốc Hận 30-4-75 (NQH) để đánh dấu ngày miền Nam tự do bị rơi vào tay cộng sản xâm lăng miền Bắc. Dĩ nhiên tổ chức NQH không đơn giản chỉ để tưởng nhớ đến nỗi đau thương tột cùng của dân tộc mà còn để tiếp tục công cuộc tranh đấu chống chế độ bạo tàn, thủ phạm của Ngày Quốc Hận, hiện còn đang thống trị dân ta. Chừng nào Việt cộng còn đó, còn chưa nhận tội và đền tội, và hơn nữa còn đang reo rắc hận thù, chừng đó Ngày Quốc Hận còn mang nặng ý nghĩa hận thù và đấu tranh. Ðây là điều đương nhiên, tất yếu.

Nói về ý nghĩa của Ngày Quốc Hận thì vô cùng tận. Ở đây người viết chỉ xin nói đến mấy suy tư chủ chốt chúng ta thường nghĩ đến trong mỗi mùa quốc hận, mà qua đó nói lên ý nghĩa tại sao lại có NQH, tại sao phải duy tri tinh thần Ngày Quốc Hận, và người Việt tự do cần có thái độ thế nào về Ngày Quốc Hận.

Trước hết là về Quy mô vô tiền khoáng hậu cuả Ngày Quốc Hận 75

Chúng ta ai cũng biết là trong lịch sử nước ta đã có nhiều cuộc chiến tranh, cả ngoại xâm lẫn nội chiến, và đặc biệt đã có 3 quốc hận. Đó là Hận Sông Gianh, do Trịnh/Nguyễn phân tranh gây ra. Hận Bến Hải, do Việt cộng / Thực dân toa rập gây ra. Và Hận 30-4-75, cũng do Việt cộng và cộng sản Nga-Hoa gây ra. Nhưng trong tất cả các cuộc chiến tranh và trong 3 quốc hận đó không có cuộc chiến tranh nào (kể cả với Tàu) và quốc hận nào đau thương bằng quốc hận 75, bởi vì nó tàn hại nhất và khủng khiếp nhất. Nó là là hậu quả và cũng là nguyên nhân đưa đến cái chết của trên dưới 3 triệu người, đất nước bị tan hoang, dân tộc bị cùm kẹp, nghèo đói, lạc hậu, vào hàng nhất nhì thế giới.

Trong suốt thời gian từ khi cướp được chính quyền năm 1945 cho đến khi chiếm được miền Nam năm 1975, Việt cộng đã tàn sát hàng loạt đồng bào, nhất là qua các vụ cải cách ruộng đất, chôn sống Tết Mậu thân, tập trung cải tạo, thủ tiêu các công chức cán bộ Quốc Gia xã ấp. Tệ hại hơn nữa là các cuộc chiến trực tiếp hay gián tiếp do chúng gây ra: xâm lăng miền Nam, đánh Cambốt, bị Tàu cộng trả thù (cho Cam bốt)... đã đưa đến cái chết của bao nhiêu thanh niên ưu tú. Riêng trong cuộc xâm lăng miền Nam, chúng ta đã chứng kiến những cuộc bắn giết cực kỳ dã man biết bao nhiều đồng bào trẻ thơ vô tội, đất nước khắp nơi bị tàn phá tan hoang.

Qua sự thôn tính miền Nam Tự do, Vc đã đưa cả nước ta vào tay cộng sản quốc tế, một bọn giặc chuyên lấy việc đấu tranh bạo lực làm chủ trương, cướp của giết người làm mục tiêu, và không loại trừ bất cứ biện pháp thâm độc nào để thống trị đồng bào. Hàng chục triệu người đã bị bóc lột đến tận xương tủy. Hàng triệu dân lành đã bị tàn sát, tù đầy, khủng bố. Hàng triệu người khác phải chạy trốn khỏi quê hương miền Bắc, và khỏi quê hương miền Nam, trong đó không biết bao nhiêu ngàn người đã phải bỏ thây trên đường tìm tự do.

Trong quá khứ gần 5000 năm lịch sử chưa bao giờ nước ta có một chính quyền tàn bạo hại dân hại nước đến mức độ thảm khốc như thế, chỉ thua có Khờ-me đỏ!

Ðã vậy, trên 30 năm sau chiến tranh và sau Ngày Quốc Hận, ách thống trị của kẻ gây hận không những đã không chấm dứt mà còn tiếp tục đè nặng lên dân tộc ta, cho đến tận ngày nay, và ra cả đến hải ngoại...

Với quy mô tội ác Trời không dung Ðất không tha như thế, với tội bán nước hại dân như thế của đảng Vc, lịch sử và dân tộc không bao giờ có thể tha thứ được.

Thứ đến là chính sách hận thù của Việt cộng

Chính sách hận thù của Vc trong quá khứ chắc ai cũng đã thấy. Chẳng hạn, chúng triệt hạ các giai cấp trí phú địa hào không phải vì chúng thù với cá nhân họ mà vì chính sách cuả đảng bảo phải giết hết thì chúng thẳng tay giết. Nhiều khi giết một cách tận tình, thích thú, coi như một thành tích. Cũng vậy, chúng giật mìn xe đó hay xe hoả không phải vì thù ai trên đó mà vì chính sách khủng bố của đảng, chủ trương phải giết để cho dân sợ và chính phủ gặp khó khăn.

Vì thế trước sau Vc rất quyết liệt và kiên trì trong việc thực hiện tội ác của chúng, đặc biệt là đối với các thành phần bất đồng chính kiến, đối nghịch với chúng, những người Quốc Gia. Ðiều này có nghĩa là: gây hận thù là việc tất yếu cuả đảng và chính quyền cộng sản.

Vì không thấu triệt điều đó nên có người rất ngạc nhiên là tại sao Vc một mặt ra sức kêu gọi xóa bỏ hận thù một mặt lại tiếp tục gây hận thù, với cả người sống lẫn người chết?

Chỉ cần đặt vài câu hỏi ngược lại là ta sẽ thấy phần nào tại sao:

- Tại sao trước đây Vc ra rả chửi người tỵ nạn là ôm chân đế quốc, là đĩ điếm.mà bây giờ lại đổi giọng, kêu gọi họ xóa bỏ hận thù? Vì Vc thật tâm từ bỏ chính sách hận thù hay chỉ vì tiền? Ai dám nói chúng không vì tiền mà vì đã bỏ chính sách hận thù?

- Nếu người Việt tự do dứt khoát không chịu hòa hợp hòa giải và đem người đem tiền về xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa cuả chúng thì liệu Vc có còn kêu gọi xóa bỏ hận thù nữa không? Ai dám trả lời là không? (Nghị quyết 36 đã dọa sẽ có biện pháp đối với những người ngoan cố).

- Vc đã hết gây hận thù với đồng bào trong nước chưa hay vẫn duy trì một chính sách đàn áp vô cùng khắc nghiệt, bỏ tù, khủng bố bất cứ ai bất đồng chính kiến, đòi hỏi tự do? Ai dám bảo là chúng đã xóa bỏ hận thù, hòa hợp hợp hòa giải với người dân trong nước?

- Tại sao Vc lại trả thù cả những người đã chết, những Chiến sĩ VNCH vị quốc vong thân, và đã tìm mọi cách để xóa bỏ dấu vết của nghĩa trang Quân đội Biên hoà, và hơn nữa còn áp lực cả chính phủ Mã-lai phải đục bỏ bia tưởng niệm thuyền nhân chết trên biển cả vì đi tìm tự do? Ðấy là xóa bỏ hận thù hay gây thêm hận thù?

Tóm lại chính sách của Vc là theo đuổi đến cùng để tiêu diệt người Quốc gia, xóa sạch mọi dấu vết liên hệ đến quốc gia, nhất là lá cờ Quốc-Gia và Ngày Quốc Hận. Hai biểu tượng đó làm cho chúng nhưc nhối vì nhắc nhở cho mọi người không những nhớ đến các tội ác tày trời của chúng mà còn gây trở ngại cho các mưu đồ đen tối của chúng.

Chính vì vậy mà Vc và bọn tay sai đã nỗ lực kêu gọi người Việt hải ngoại xoá bỏ hận thù. Xoá bỏ bằng mọi thủ đoạn, kể cả ma giáo, lừa gạt, bịp bợm, nhằm làm cho ta quên đi Ngày Quốc Hận, hoặc lái ngày đó sang một ý nghĩa khác, hoặc tìm cớ không tổ chức Ngày Quốc Hận. Chúng tuyên truyền rằng chỉ những kẻ ăn trên ngồi trước của chế độ miền Nam mới hận thù chúng, rằng tưởng niệm NQH mãi cũng chẳng đi đến đâu, hãy quên đi qúa khứ đau thương, hãy xoá bỏ hận thù để về góp sức xây dựng cho quê hương giầu mạnh. Chúng còn đi xa hơn, cho tay sai mập mờ biến đổi Ngày Quốc Hận thành ngày giải phóng, ngày tự do. Nhưng chúng đã thất bại. Ngày Quốc Hận vẫn được tổ chức ở khắp mọi nơi. Trong mọi hoàn cảnh, người Việt Quốc Gia chân chính vẫn luôn nhớ đến ý nghĩa Ngày Quốc Hận, và cố nóí cố làm bất cứ điều gì, dù nhỏ bé đến đâu, để duy trì Ngày Quốc Hận. Lập trường đó còn giúp chúng ta nhận diện được bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào, dèm pha, bài bác và cố tình kêu gọi xóa bỏ hận thù hay làm biến thái ý nghĩa Ngày Quốc Hận, là cs nằm vùng hay tay sai của chúng.

Xóa bỏ hận thù hay phục thù rửa hận ?

Luật pháp nước nào cũng trừng trị kẻ phạm tội, từ tội nhỏ đến tội lớn. Ðảng Vc đã bán nước hại dân, đã gây ra quốc hận và đang cỏn tiếp tục gây hận thù, thì tất cũng phải xử tội. Nhưng khác với tội phạm cá nhân, đây là tội phạm tập thể, hơn nữa lại là tập thể cầm quyền nên phải có biện pháp đặc biệt của toàn dân mới có thể phục thù xét xử được.

Nhưng rửa hận bằng cách nào cho có hiệu quả mới là điều quan trọng. Ðiều này đã được rất nhiều người quan tâm ở hải ngoại bàn đến trong suốt 34 năm qua nhưng rất tiếc chưa tìm ra giải pháp thích đáng. Tuy cùng nêu cao mục tiêu giải trừ cộng sản, có người chủ trương phải dùng vũ lực để đánh bại chúng; Có người chủ trương phải hòa hợp hòa giải với Việt cộng để dân chủ hóa chế độ của chúng; Và có người chủ trương phải quên hận thù để về hợp tác với chúng xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa của chúng.

Trong 3 giải pháp đó chúng ta thấy ngay giải pháp thứ nhất không khả thi, giải pháp thứ ba chỉ là một sự đầu hàng. Còn gỉai pháp thứ hai thì đã và đang gây ra nhiều tranh cãi. Một thiểu số tán thành giải pháp này vì bảo đó là con đường duy nhất, đi với cộng sản để loại trừ cs. Nhưng tuyệt đại đa số người Việt hải ngoại, chống cộng dứt khoát, thì coi đây là một cạm bẫy của cộng sản, chỉ nhằm dụ người Quốc gia về làm đẹp, làm tay sai cho chúng, chứ không bao giờ chúng chịu chia xẻ quyền lực với ai, nhất là chịu dân chủ hóa chế độ.

Dù sao đây chỉ là một mặt của vấn đề, mặt hải ngoại. Mặt chính là ở quốc nội. Ðồng bào trong nước sẽ tìm ra giải pháp thích đáng nhất để phục hận, giành lại tự do. Hải ngoại chỉ hỗ trợ quốc nội chứ không thể, và không có tư cách cũng như khả năng để thay thế quốc nội giải quyết vấn đề. Nhưng dù chọn giải pháp nào thì kết cục vẫn phải là rửa được quốc hận, không nhân nhượng không thỏa hiệp, có nghĩa là phải loại trừ được chế độ độc tài, tham nhũng và bất lực Vc.

Tóm lại, với quy mô tội ác vô tiền khoáng hậu của Vc, với chính sách quyết liệt và kiên trì gây thù diệt thù của chúng, người Việt tự do không còn chọn lựa nào hơn là phải duy trì bằng được NQH, nuôi dưỡng tinh thần phục thù rửa hận, cho đến khi chế độ độc tài đảng trị Việt cộng bị gỉai trừ.

Ngày Quốc Hận 2009 với hiện tình đất nước

Ai theo dõi tình hình đều thấy rõ là trong thời gian qua, nhất là từ đầu năm nay, tình hình trong nước đã trở nên rất căng thẳng. Vụ hiện gây sôi động nhất là vụ “bauxite”.

Vụ bauxite bắt đầu ra công khai từ khoảng giữa năm 2008, khi thủ tướng Vc Nguyễn tấn Dũng tuyên bố dự án bô xit là một chủ trương lớn cuả “đảng” và chính phủ, và loan báo là Trung cộng sẽ vào Cao nguyên Trung Việt để bắt đầu khai thác các mỏ bô xít tại Lâm đồng và Ðắc nông (2 mỏ Nhân Cơ và Tân Rai). Rồi chẳng bao lâu sau, Tàu cộng đã đem hàng ngàn nhân công sang để bắt tay vào việc. Mọi sự đã diễn ra rất có lớp lang, chứng tỏ Việt cộng và Tàu cộng đã bí mật dàn xếp với nhau vụ này từ lâu, nhưng vì lý do thầm kín nào đó nên không nói ra, cho đến khi khởi công khai mỏ.

Vì khai thác mỏ bô xít là một vấn đề vô cùng quan trọng, liên hệ đến mọi mặt: môi sinh, văn hoá, kinh tế, và cả quân sự v.v. mà không được đảng cộng sản đem ra bàn, ngay quốc hội cũng không hề được hỏi đến, và chỉ được biết vào phút chót, nên dư luận đã vô cùng công phẫn.

Dù Nguyễn tấn Dũng đã lớn tiếng cảnh báo rằng đây là chủ trương lớn của đảng và nhà nước, để tạo áp lực, bịt miệng những người chỉ trích và đòi hỏi phải đình chỉ việc khai thác.

Nhưng mọi tầng lớp nhân dân, từ dân thường đến các nhà khoa học, các nhà trí thức, các tu sĩ, và cả giới cựu quân nhân, như công thần hàng đầu Võ nguyên Giáp cũng đã mấy lần lên tiếng phản đối. Một số đoàn thể tranh đấu cho tự do dân chủ và nhân quyền cũng ra tuyên cáo yêu cầu chính phủ phải chấm dứt ngay việc này. Mới nhất là gần 1,000 người, trong đó có nhiều nhân sĩ, trí thức tiếng tăm hạng nhất trong nước cũng đã nhập cuộc, đòi phải xét lại dự án.

Trước làn sóng phẫn nộ của đồng bào, Việt cộng phải cho mở mấy cuộc hội thảo nói là để cứu xét vấn đề. Nhưng cuộc hội thảo quan trọng nhất do viên phó thủ tướng Hoàng trung Hải chủ trì cũng chỉ đi đến kết luận là dự án có một số sơ hở cần phải điều chỉnh lại, nhưng nói chung vẫn đúng...có nghĩa là vẫn cứ tiến hành theo quyết định của “đảng”!.

Bên bênh vực dự án thì cho rằng đây là một chủ trương lớn của đảng và chính phủ, và đã được nghiên cứu kỹ về mọi mặt, chỉ có một ít sơ hở nhỏ, chỉ cần điều chỉnh lại là xong. Mới đây phe bênh còn nói rằng có cả công ty Mỹ tham dự dự án chứ không phải chỉ có Trung cộng...

Bên chống thì nói dự án rất tai hại về mặt môi sinh (hầu hết các nhà khoa học, văn hoá trong nước đều đồng ý như vậy), không có lợi về mặt kinh tế (giá thị trường không cao hơn giá thành, nhân công Tàu tranh việc của nhân công Việt), và nhất là việc đưa hàng ngàn, có thể hàng chục ngàn công nhân Tàu vào Cao Nguyên là điều rất bất lợi cho quốc phòng, nhất là sau những sự lấn át của chúng ở biên giới và biển cả. Tin nói có cả công ty Mỹ tham dự, mãi nay mới được tung ra, chỉ có tính cách chữa cháy, vì chỉ giữ vai trò phụ, còn ở công trường khai thác thì chỉ thấy toàn người Tàu và chữ Tàu thôi, không thấy Mỹ đâu cả.

Hiện tình đang tạm đứng ở đó, chờ đợi một biến cố khác quan trọng hơn. Chỉ lúc ấy mới biết “đảng” thắng, dân lùi, hay “đảng” lùi, dân thắng.

Dù sao đây mới là điều quan trọng, chưa từng xẩy ra: sự đối đầu công khai giữa người dân với đảng cộng sản. Một khúc quanh đang xẩy ra.

Giọt nước làm tràn ly.

Vụ bô xít gần như đã trở thành “tụ điểm” cuả mọi sự phản kháng vì nó là nối tiếp của rất nhiều vụ “bô xít” khác. Nền độc tài ác trị của Việt cộng đã gây ra không biết bao nhiêu tội ác đối với dân tộc. Gần đây là các vụ dâng đất hiến biển của nước ta cho kẻ thù truyền kiếp Bắc phương. Tàu cộng đã ngang nhiên bắt Việt cộng phải cắt mấy trăm cây số vuông đất biên giới, kể cả aỉ Nam-Quan và thác Bản Giốc cho chúng, bắt Việt cộng phải mau hoàn thành việc cắm mốc biên giới để hợp thứ hóa phần đất bị xâm lấn. Hàng ngàn dặm vuông biển cả cũng đã được Việt cộng hiến cho Tàu. Tất cả đều làm trong bóng tối, không một ai được biết, trừ bọn cầm đầu Việt cộng. Khi Tàu cộng ngang nhiên chính thức sáp nhập các quần đảo Hoàng sa và Trường sa của ta vào lãnh thổ của chúng thì người dân quá uất hận, đã đứng lên biểu tình phản đối, nhưng lại bị chính bọn cầm quyền Vc thẳng tay đàn áp.

Ðến vụ làm đơn xin LHQ xác nhận chủ quyền về thềm lục điạ cuả ta, kể cả 2 quần đảo Hoàng sa và Trường sa, đến nay chỉ còn 2 tuần nữa là hết hạn (13-5-2009) mà vẫn chưa thấy Việt cộng làm, chắc chỉ vì sợ đụng tới Tàu cộng, vì chúng đã vẽ bản đồ công khai đưa các quần đảo Hoàng sa và Trường sa cuả ta vào lãnh thổ của chúng!

Sự sợ sệt của Việt cộng đối với Tàu cộng đã làm nhục quốc thể đến độ không còn chấp nhận được nữa.

Tuy mới đây Việt cộng có tổ chức hội thảo về biển đông, và lại vừa tuyên bố ngày 25-4-2009 sẽ lập huyện Hoàng-sa, trực thuộc Ðà Nẵng, nhưng nếu chỉ làm trên giấy tờ cho có lệ, cho đỡ bẽ mặt, như đã từng nhiều lần lên tiếng xác nhận Hoàng sa và Trường sa là của Việt-Nam, rồi thôi không làm gì thêm nữa, trong khi Tàu cộng vẫn cứ lầm lì lấn chiếm từng phần của các quần đảo đó, thì trên thực tế cũng chẳng ích gì mà còn làm cho tình thế mỗi lúc mỗi suy đồi thêm.

Tất cả những uất hận bị dồn ép đó, cùng với những bất mãn chất chứa từ bao lâu nay của dân oan v.v. nay có dịp được bùng lên trong vụ bô xít. Ðó là lý do mọi thành phần dân chúng, nhất là trí thức, đã đứng lên để phản đối chính quyền về vụ này.

Sự thần phục Trung cộng.

Vụ bô xít làm cho người ta tự hỏi, trong khi không giải quyết được bao nhiêu khó khăn to lớn khác với Tàu cộng, tại sao Việt cộng lại vác thêm gánh nặng bô xít hiểm nguy vào người? Chẳng lẽ Việt cộng không hiểu được tính cách ‘bùng nổ’ của vụ này và không biết nó sẽ đi đến đâu? Có thể nói thành công hay thất bại cũng đều bất lợi cho cả đôi bên, nhất là bên Việt cộng và Việt-Nam.

Nhìn những gì đã xẩy ra từ trước đến nay giữa 2 bên Việt/Tàu cộng, người ta buộc lòng phải nghĩ rằng Việt cộng đã bị Tàu cộng khống chế, chúng bắt làm những điều bất lợi, nhục nhã đến đâu cũng phải làm. Nhưng theo thiển ý thì đây là một sự “miễn cưỡng bị nắm đầu”, không phải vì Việt cộng quá hèn kém mà chỉ vì quyền lợi bản thân của đảng Việt cộng, đúng hơn của đám chóp bu Việt cộng. Chắc nhiều người còn nhớ, trước đây không lâu Việt cộng đã từng mấy phen chọi nhau với Tàu cộng mà không sợ, thì cớ gì bây giờ lại sợ quá đỗi như vậy, trong khi hoàn cảnh của thế giới ngày nay khó cho phép Tàu cộng đem quân xâm lăng Việt-Nam như trước?

Câu trả lời là, lúc đó Việt cộng dám chống Tàu vì được Liên bang Sô viết che chở. Mà Liên bang Sô viết thì vừa là cộng sản, vừa ở xa, lại vừa đang chống nhau với Tàu cộng, nên nhờ Liên Bang Sô Viết là đương nhiên, vì theo mà không sợ mất quyền. Còn bây giờ tuy Mỹ lớn mạnh hơn Liên Bang Sô Viết trước kia cũng như Tàu cộng hiện nay, nhưng Việt cộng biết rõ nhờ Mỹ thì Mỹ chỉ lo buôn bán trục lợi chứ không bảo đảm che chở cho chế độ Việt cộng tồn tại như Tàu. Cho nên Việt cộng đành phải đi theo Tàu cộng để Tàu cộng che chở cho bám giữ chính quyền, dù bị bọn này bóc lột vô cùng trắng trợn, dã man, và bị dân chúng nguyền rủa thậm tệ.

Như thế là Việt cộng đã tính toán kỹ lưỡng và đã làm một sự chọn lựa: thà cắt bỏ những cao điểm trọng yếu ở biên giới và nhượng những vùng biển rộng lớn lao đầy tài nguyên cho Tàu chứ không theo Mỹ để giữ nước mà mất quyền. Chính sách đi giây cuả Vc do đó là: o bế để lợi dụng Mỹ, nhưng đi với Tàu để giữ quyền bính.

Từ đó suy ra ta có thể đi đến một kết luận khá vững chắc là, Vc sẽ bám quyền bằng mọi giá, kể cả dâng đất hiến biển, cho khai mỏ, cho dânTàu ồ ạt sang làm ăn sinh sống ở Việt-Nam v.v.. Trước sự kiện đó, nếu dân tộc Việt-Nam không muốn bị nạn Tàu cộng xâm thực lần mòn, không muốn bị Vc làm nhục, thì chỉ còn có cách nổi dậy lật đổ chúng. Mong rằng sẽ có một cơ hội giúp cho dân ta rửa được cái hận 75, khi dân chúng nổi lên lật đổ bạo quyền và quân đội chợt tỉnh ngộ về vai trò của mình, còn TC thì bận tay với Mỹ.

NQH 2009 với hiện tình đất nước

Tuy việc tổ chức tưởng niệm và nuôi dưỡng tinh thần NQH hiện nay chủ yếu là do các cộng đồng người Việt tự do hải ngoại thực hiện, nhưng ai cũng biết QH 75 là cho chung cả dân tộc chứ không cho riêng dân miền Nam. Ngày đó đánh dấu một trang sử đen tối nhất của cả nước. Một chế độ cực kỳ tàn bạo đã vây phủ khắp nơi. Mất miền Nam là mất một hy vọng tràn trề để gỉai thoát đồng bào miền Bắc khỏi bàn tay sắt máu Vc.

Nhưng lịch sử dân tộc đã chứng tỏ không bạo chúa nào có thể tồn tại mãi mãi. Người dân đang dần dần đứng lên để đòi lại tự do dân chủ mà bọn cầm quyền cộng sản đã cướp đoạt của họ từ bao năm qua. Những biến chuyển mới đây đã cho thấy đồng bào không còn chịu đựng được nữa những áp bức và tủi nhục mà bạo quyền Vc gây ra. Mối liên hệ bạo quyền / người dân đã đến lúc phải được giải quyết thỏa đáng.

Là người Việt tỵ nạn cộng sản, chúng ta không khỏi vui mừng khi được thấy đồng bào quốc nội can đảm đứng lên đòi đảng cộng sản phải tôn trọng tự do và lắng nghe tiếng nói của người dân. Nếu toàn dân đồng lòng nắm lấy thời cơ, đẩy mạnh cuộc tranh đấu thì sẽ chắc chắn sẽ tạo được áp lực với chính quyền, mở rộng được con đường tranh đấu cho tự do, dân chủ.

Về phần người Việt hải ngoại, nếu chúng ta quan niệm rằng quốc nội là chính, và nay quốc nội đang chuyển mình, đang mở ra một vận hội mới mà người Việt hải ngoại hằng mong đợi, thì thiết nghĩ chúng ta cũng cần phải có thái độ tích cực hơn để kịp thời làm tròn nghĩa vụ của mình.

Tuy hải ngoại cũng có những khó khăn lớn lao vì nếp sống tự do, vì sự lệ thuộc vào tình hình địa phương, và nhất là vì sự đánh phá của bọn cộng sản nằm vùng và tay sai, nhưng cũng đã đến lúc mọi người, mọi tổ chức của người Việt Quốc Gia hải ngoại phải có biện pháp thích đáng để ổn định cộng đồng và yểm trợ quốc nội.

Trong phạm vị này, theo thiển ý, chúng ta có thể đề ra những biện pháp cụ thể, khả thi, mà nếu dứt khoát thực hiện thì thế nào cũng có kết quả khả quan, phần nào ổn định được cộng đồng và yểm trợ được quốc nội hưũ hiệu hơn. Với mục đích trên, chúng tôi xin đưa ra đề nghị 3 điểm như sau để góp ý với những đồng hương quan tâm:

- Thứ nhất là phải phân định rõ ràng ta, địch, bằng các tiêu chuẩn minh bạch, để dễ nhận diện bọn nằm vùng, không để chúng tự do đánh phá tập thể tỵ nạn của ta. (Cuối năm 2002 và 2003 chúng tôi đã viết khá rõ về điểm này trong bài “Nhu Cầu Bảo Vệ Lằn Ranh Quốc/cộng” và bài “lập Trường Chung”).

- Thứ hai là cô lập, tẩy chay bọn nằm vùng và tay sai, sau khi đã nhận diện được chúng. Ðây là điều vô cùng cần thiết, vì chỉ có biện pháp đó mới giới hạn được nỗ lực khuynh đảo của địch. (Ðiểm này cũng đã được chúng tôi trình bày trong bài Lập Trường Chính trị” nói trên)

- Và thứ ba là tạo một sự phối hợp hoạt động (chứ không phải thống nhất) giữa các tổ chức của người Việt Quốc Gia với nhau, để có đủ khả năng tranh đấu hữu hiệu với Vc.

Ðây là những việc khả thi, do ta chủ động, có thực hiện được hay không, thành hay bại, chủ yếu là do chính mình chứ không phải do ai khác. Rửa hận và tranh đấu cho tự do dân chủ không thể mãi mãi chỉ bằng lời nói hay bài viết. Phải có cả việc làm. Nếu ta có một lập trường chống cộng thực sự, và quyết tâm thực hiện thì sẽ nắm được chìa khoá thành công. Bằng không, nếu cứ bỏ lửng, thì tình trạng sẽ suy đồi thêm. Còn nếu nhẹ dạ, nghe theo luận điệu xóa bỏ hận thù, quên NQH (cũng như bỏ chào cờ Quốc Gia), thì sẽ không còn vấn đề rửa hận nữa, không còn vấn đề tranh đấu nữa, và như thế không khác gì chấp nhận vĩnh viễn chế độ độc tài đảng trị, vừa bạo tàn vừa tham nhũng lại vừa bất lực của Vc.

Hoàng Ðạo Thế Kiệt



Saturday, May 16, 2009

Tàn dư Cộng sản ở nước Nga và nước Việt - Lê Sáng


Lê Sáng

1. Tàn dư cộng sản ở nước Nga

Mặc dù tổng thống nước Nga hiện nay là Medvedev nhưng cứ nói đến nước Nga hôm nay, người ta lại gán cho cái tên Putin, có lẽ bởi ngài cựu tổng thống này vẫn đang nắm thực quyền, và sẽ quay lại với quyền lực chính thức vào kỳ bầu cử tới.

Kể từ khi được Boris Yelsin lựa chọn đưa lên làm tổng thống tạm quyền nước Nga, Putin đã cho thi hành một chính sách đầy tham vọng, hòng lấy lại vị thế của nước Nga, của dân tộc Nga đã bị tan nát vì ứng dụng, và xuất khẩu chủ thuyết cộng sản gây thù chuốc oán không chỉ cho dân tộc Nga …

Putin xuất thân từ một sĩ quan an ninh xô viết – đương nhiên ông ta phải là đảng viên cộng sản. Theo quy định của xã hội cộng sản, bắt đầu từ chức vụ trung úy phải là đảng viên cộng sản, nếu không phải chờ người đó được kết nạp đảng, mới phong chức cho dù đã thừa các tiêu chuẩn khác. Như thế, dù Putin không muốn cũng phải vào đảng cộng sản Liên Xô mới có thể thăng tiến được.

Là một sĩ quan an ninh Liên Xô, một cơ quan tình báo phản gián khét tiếng, mà tội ác của nó chính những người cộng sản phải công khai thừa nhận (Tìm xem vụ ANXV thủ tiêu gần mấy chục ngàn binh lính sĩ quan Ba Lan trong thế chiến II). Đương nhiên Putin có đầy đủ các phẩm chất của sĩ quan an ninh Xô Viết. Là đảng viên cộng sản, đương nhiên Putin có đầy đủ lý luận cũng như hành động của người cộng sản. Lý tưởng và phẩm chất này của Putin hẳn là đã ăn sâu vào tận tiềm thức. Nhưng Putin cũng là con người thức thời, ông ta nhận thức rất nhanh xu thế của thời đại: Một thời đại không chấp nhận thứ chủ thuyết vô luân cộng sản, với đủ mánh khoé lưu manh hiện diện từ những chính trị gia cho đến tận một thường dân trong cái xã hội quái gở đó.

Vì vậy Putin phải công khai tuyên bố đoạn tuyệt với cộng sản. Tức là ông ta đoạn tuyệt với cái ngày trước ông ta đặt tay lên ngực mà tuyên thệ suốt đời trung thành. Kể như thế cũng là kẻ làm tôi hai chủ. Người ta dễ dàng tha thứ và chấp nhận sự sám hối. Nhưng sám hối để có cơ hội mà làm tổng thống thì có lẽ không được đường hoàng lắm và bất cứ kẻ cơ hội nào cũng có thể làm được. Dân Nga chắc quá ít người nhận ra sự thật này cho nên Putin đắc cử nhiều lần … Và như để “thưởng công“ cho những người bỏ phiếu cho ông ta, Putin cho thi hành một chính sách an sinh xã hội theo kiểu chủ nghĩa dân tuý, ve vãn thoả mãn nhu cầu vật chất của người dân.

Nhưng như thế thôi thì chưa đủ yên dân. Vì xã hội Nga đang bị trống tư tưởng – ý thức hệ sau một thời gian dài thực thi chính sách cộng sản vô tổ quốc, vô dân tộc, vô tôn giáo, quan hệ gia đình huyết thống lỏng lẻo. Để lấp chỗ trống đó, Putin ngấm ngầm kích động tinh thần dân tộc đại Nga. Mang nỗi nhục dân tộc Đại Nga suy vong để khơi dậy tinh thần dân tộc đã rất cũ kỹ trong xã hội ngày nay … Thật là nực cười! Dân tộc đại Nga bị hạ nhục có phải là vì họ đem ứng dụng học thuyết cộng sản không tưởng? Và ai là kẻ góp phần không nhỏ vào cái sai lầm chết người đó? Có lẽ một sinh viên đại học cũng có thể trả lời: PUTIN có đóng góp.

Ngay như thứ chủ nghĩa dân tuý mà Putin cho thực hiện tại nước Nga cũng là một cuộc phiêu lưu… Thực chất Putin chỉ bán tài nguyên để thoả mãn nhu cầu vật chất của dân mà thôi. Tài nguyên thì không phải của Putin, nó cũng không được hình thành từ chính sách của Putin. Đương nhiên nó là của toàn dân tộc Nga, nó thấm máu tiền nhân. Nhưng dứt khoát không liên quan gì đến Putin. Putin chỉ có công khi giữ lại tài nguyên cho con cháu mà thôi. Người dân Nga thật ngây thơ. Được người ta lấy cái của mình, cắt xén ra, rồi cho chút đỉnh mà cũng vui mừng … (?) Nói chủ nghĩa dân tuý mà Putin thực hiện mang tính phiêu lưu là vì tài nguyên luôn có giới hạn. Và có giai đoạn giá thành khai thác nó còn cao hơn cả giá trị bán nó. Thực tiễn đã chứng minh điều này. Và cơn giận của những người bị lừa dối thì nước Nga đã chứng kiến khi Liên Xô sụp đổ rồi.

Còn chủ nghĩa dân tộc mà Putin khêu gợi thì sao? Có lẽ ông ta cũng hiểu rằng nó chỉ có thể dùng để lên dây cót tinh thần người dân Nga hiền lành chất phác thôi. Chứ dùng nó để gây chiến thì dân Nga với 100 Triệu cộng với kho vũ khí cứ cho là thứ nhì thế giới đi, cũng chẳng có nghĩa gì. Phát xít Đức khi xưa có tiềm lực quân sự, kinh tế gấp 8-10 lần nước Nga mà vẫn thua đó thôi. Người Nga thừa hiểu Phát xít Đức thua vì là kẻ gây chiến trước, chẳng có tí chính nghĩa nào … Không lẽ Nga lại đi gây chiến trước hay sao?

Có lẽ Putin hiểu rõ vấn đề, nên ông ta chủ yếu kích động từ trong ra ngoài, và hình như ông ta muốn một quốc gia nào đó, một thế lực nào đó gây chiến trước để ông ta thị uy trong một cuộc chiến mà nước Nga chắc thắng. Và dùng nó để tạo tình huống cả thế giới phải thương lượng với nước Nga … Nhưng có ai mà dại dột như thế? Ngay như cuộc chiến vài ngày với Gruzia hồi 2008 giới phân tích chính trị cũng cho rằng nước Nga đã thua trí tổng thống Sacatvili. Sau cuộc chiến, ai còn mơ hồ về ý đồ đế quốc của Nga trong khu vực cũng đều tỉnh ngộ. Đến như Trung Cộng, kẻ thực dụng nhất trong thế giới ngày nay cũng ngoảnh mặt đi trước việc Nga công nhận hai vùng đất của Gruzia thành hai quốc gia độc lập, và thiết lập ngoại giao. Họ sợ hãi khi nghĩ đến việc Đài Loan được công nhận độc lập … Sacatvili được giới phân tích chính trị ví như một “mụ đàn bà” nhảy vào đánh một ông võ sĩ giữa chợ, biết thừa là thua nhưng mụ đàn bà này mồm loa mép giải, giật mũ xé áo ông lực sĩ kia, để cho ông lực sĩ tát chảy máu mồm … làm xôn xao góc chợ … mọi người đổ xô đến, ông lực sĩ có gan Trời, có đai nhất đẳng cũng chẳng dám giết con đàn bà liều mạng nhưng là loại tép riu này. Thật tội nghiệp cho Ngài Putin … Vậy mà ngài vẫn già mồm. Thế mới biết làm chính trị khó hơn làm tình báo.

Khi giá dầu lửa về lại với giá trị thực, Putin bắt đầu lo sợ. Những đại dự án về quân sự, về “kinh tế liên doanh chính trị” với nước này để răn đe nước kia kiểu thời Xô Viết bỗng dưng có nguy cơ dừng lại trên giấy. Thế là âm mưu chẳng những không thành mà còn làm nước Nga bị cả thế giới nghi ngờ về tính chất hội nhập, về đóng góp cho hoà bình nhân loại … Cái giá đau nhất mà Putin phải trả là cả Chủ tịch Cu Ba lẫn tổng thống Venezela vừa hôm trước còn lớn tiếng mời nước Nga thành lập liên minh quân sự này nọ để chống Mỹ, cho mượn căn cứ quân sự trên lãnh thổ nọ kia để tăng cường ảnh hưởng nước Nga ở sân sau nước Mỹ. Bỗng dưng quay ngoắt 180 độ xin muốn làm bạn với Obama, Obama thì gỡ bỏ hạn chế này nọ cho Cu Ba … Putin chết đứng. Như khi xưa Liên Xô làm Cu Ba chết đứng vậy. Thế là hoà 1-1. Làm chính trị không thể chỉ dùng “đòn gió”, không thể chỉ dùng thủ đoạn … Nếu không sẽ ăn lại thủ đoạn của chính mình.

Tuy vậy có vẻ như Putin đã đi quá xa, và không còn dừng lại được nữa cho nên ngày 14.05.2009 tổng thống trên danh nghĩa của nước Nga là Medvedev chẳng ngần ngại mà huỵch toẹt ra rằng: “Trong bối cảnh cạnh tranh năng lượng, vấn đề sử dụng vũ lực không thể bị loại trừ và có khả năng phá vỡ cân bằng lực lượng tại các khu vực có biên giới với Liên bang Nga và các nước đồng minh” - Bản chiến lược an ninh quốc gia Nga đến năm 2020. Không hiểu Putin cho công bố cái chiến lược này làm gì? Nếu buộc phải làm như vậy thì để nó là tài liệu mật có lẽ tốt hơn. Đến 2020 chắc gì Putin còn tại vị. Người kế nhiệm đâu đã mù quáng mà rập theo cái ông ta vẽ vời phi thực tế đến thế? Putin thì không thể sống mãi. Nhưng dân tộc Nga thì không thể chết. Và thế là người Nga tốn bao nhiêu thời gian công sức để gột rửa cái tiếng cộng sản. Nay lại một lần nữa phải gột rửa cái tiếng hậu cộng sản. Nước Nga còn lâu mới thành cường quốc văn minh được thế giới vừa sợ vừa kính nể, vừa ngưỡng mộ muốn theo gương.

Càng ngày Putin càng “lộ bài” và không xứng tầm một nguyên thủ cường quốc. Người ta e dè Putin và nước Nga theo kiểu tránh va chạm với một anh lực sĩ khùng. Chứ chẳng phải nể vì với một nguyên thủ cường quốc nói đâu chết đó. Chính trị hậu cộng sản thì mang mầu sắc cộng sản, và chẳng ai muốn chơi vì nó cũng nguy hiểm chẳng kém cộng sản. WTO chẳng cầu nước Nga. Nước Nga biết rằng cầy cục chẳng vào được nên họ đứng ngoài.

2. Tàn dư Cộng sản ở nước Việt:

Nói là tàn dư vì thực tế cộng sản ở Việt Nam không còn gì là cộng sản theo học thuyết của Mac-Lenin nữa. Thậm chí nó đã cho tay chân phát ngôn thăm dò dư luận về việc vứt cái tên cộng sản đổi thành đảng nhân dân, đảng lao động hay đảng XXX nào đó…

Cộng sản Việt Nam thực chất là tập hợp những kẻ học hành nửa vời, nhận thức mù loà, biết một mà không biết hai. Sở dĩ họ lên nắm quyền là nhờ cấu kết được với quốc tế cộng sản, và trở thành tên lính xung kích cho việc bành trướng cái chủ thuyết đó thôi – Họ là Việt gian, bán nước để lên nắm quyền.

Sau khi cộng sản sụp đổ trên bình diện thế giới, lúc đầu việt gian cộng sản hô hoán lên rằng: “Học tập xây dựng chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung Quốc”. Nhưng sau một hồi lần mò chẳng định nghĩa được CNXH mang mầu sắc Trung Quốc là thế nào. Hỏi đến quan thầy Trung Cộng thì bị gạt toe đi vì Trung Cộng cũng không còn hứng thú gì với “đồng chí Cộng sản Việt nam vô ơn bạc nghĩa” ăn nói lèo lá lấy lòng chỉ vì sắp chết. Đến hôm nay không ai còn nghe thấy VGCS nói đến chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung Quốc nữa. Mà nó chắp vá lý luận cố nặn ra cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong khi Hồ là kẻ thực hành chủ nghĩa Cộng sản với những mánh lới của kẻ du thủ du thực chứ hoàn toàn không có năng lực tổng hợp vấn đề lên hàng Lý Luận Hệ Tư Tưởng. Lúc còn sống Hồ cũng công khai thừa nhận như thế.

Cho nên có thể nói Cộng sản Việt nam không có năng lực gì, từ năng lực nhận thức đến năng lực hành động. Từ hành động chính trị đến hành động kinh tế để lèo lái nền kinh tế chính trị thoat hiểm. Vì thế mà nó phải bán tài nguyên, phải bán đất bán biển đổi lấy tiền bạc kéo dài sự sống. Còn hành động quân sự trong chiến tranh - Cái csvn vẫn tự hào trong cuộc chiến nướng quân nướng dân khi xưa, nay chiến tranh công nghệ cao sẽ xử lý được trong nháy mắt. Csvn thừa biết họ sẽ thảm bại thế nào nếu đem áp dụng cái chiến thuật man rợ đó. Cho nên csvn vẫn là kẻ chẳng có năng lực hành động gì trong thế giới văn minh ngày nay.

Có vẻ như ông đại tướng Võ Nguyên Giáp không hiểu rằng, ông để lại cho hậu duệ một nền kinh tế khố rách mà lại bắt họ phải ngẩng mặt đi ra quốc tế, bảo vệ chủ quyền này nọ. Không bán Bô-xít Tây Nguyên được sao? Không bán thì họ lấy gì mà sống? Các nhà khoa học thì chẳng hiểu biết chính trị phê phán lãnh đạo cộng sản là thiển cận là không biết tính toán. Nhưng thực chất lãnh đạo csvn tính toán rất kỹ. Không bán bô-xít Tây Nguyên, không gán đất gán biển thì chết ngay. Bán đi thì có chết cũng dần dần. Biết đâu tình thế xoay chuyển có thể giúp csvn thoát hiểm như đầu thập niên 1990? Đây là lựa chọn phương án tối ưu của csvn. Mọi lời khuyên, lời cảnh báo đều vô ích.

Tàn dư cộng sản trong bộ máy nhà nước của csvn thì chưa được như nước Nga. Nhưng giới lãnh đạo csvn đang mơ tới đó chứ không phải tới mô hình Trung Cộng. Csvn cũng biết rằng Trung Cộng là người khổng lồ có đôi chân bằng đất sét. Khi nào nó to lớn quá hạn, tự sức nặng sẽ làm nó sụp đổ. Đặc tính người Á châu là đoàn kết vâng phục rất kém … càng đông, càng khó thống nhất ý kiến … Lịch sử đã chứng minh không có một đại quốc nào ở Á châu bền vững cả. Nước Tàu khi xưa thực chất cũng không thống nhất. Thiên tử vẫn phải phong vương phong hầu chứ đâu với tay tới các vùng đất xa xôi. Nay CSTQ tìm cách xiết chặt mọi dân tộc rất khác nhau trên lãnh thổ cưỡng bức của họ, chắc chắn lòng người không phục.

Có thể nói tàn dư cộng sản nguy hiểm nhất ở Việt Nam là tính chất băng đảng Mafia. Người cộng sản và cả những kẻ cơ hội theo cộng sản đều có hoạt động theo kiểu Mafia … Họ đang tìm cách thoát khỏi cái xác cộng sản, để thành những nhà tư bản, thậm chí nhà dân chủ. Họ đang tìm cách kết nối với thế giới bên ngoài để làm một cuộc cách mạng “Kim thiền thoát xác” rồi đổ mọi tội lỗi lên đầu cái xác kim thiền cộng sản rỗng tuếch kia … Còn họ sẽ xé thẻ đảng, đốt sách Mác như Putin đã làm rồi đứng ra thành lập đảng nước Việt Thống Nhất … Hay đảng XY gì gì đó … Dùng xảo thuật dân tộc chủ nghĩa, thông qua bầu cử “tự do dân chủ” với hơn 70% phiếu dân bầu mà lên nắm quyền. Rồi họ sẽ lại tiếp tục đưa dân tộc Việt, nước Việt vào một cuộc phiêu lưu mới.

Người Mỹ xưa đã bán rẻ Việt Nam Cộng Hoà nay lại mua được rẻ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tội gì họ phải đắn đo? Trung Cộng xưa đã được Mỹ nhượng cả Đông Dương, nay Mỹ đòi lại cái giải Việt Nam thì có gì quá đáng??? Dân tộc Việt còn trầm kha vì thiếu thốn đủ thứ, trước tiên là thiếu hiểu biết.

Xin các quý vị người Việt có địa vị cao trên trường quốc tế, có môi trường tự do, có năng lực trình độ hãy đem đến cho dân tộc Việt sự hiểu biết bắt đầu bằng việc xé bức màn bưng bít thông tin. Sự thật sẽ giải thoát người dân Việt và chính họ mới có thể kết liễu mọi ý đồ đen tối, mọi băng đảng Mafia dù chúng gớm ghiếc đến đâu.

Hà nội, ngày 14.5.2009
Lê Sáng


Học giả Toan Ánh qua đời



Toan Ánh để lại cho đời hơn 120 tác phẩm về văn hóa Việt Nam

Học giả Toan Ánh, người nổi tiếng với các tác phẩm về văn hóa Việt Nam, đã qua đời sau nhiều ngày nằm bệnh ở một bệnh viện ở Sài Gòn.

Báo chí trong nước cho biết nhà văn Toan Ánh, sinh năm 1915, ra đi lúc 23h50 ngày 14.5 tại bệnh viện Nhân dân Gia Định.

Với hơn 120 tác phẩm, ông thuộc trong số không nhiều các tác giả dành cả đời để viết về phong tục tập quán Việt Nam.

Bài biên khảo đầu tiên của Toan Ánh là về tục hát quan họ ở vùng quê ông, Thị Cầu, Bắc Ninh, in trên Trung Bắc tân văn năm 1937.

Kể từ ngày đó, ông cho ra mắt nhiều bộ sách giá trị, như bộ 11 cuốn, Nếp cũ, nói về vòng đời của con người Việt Nam.

Nhiều tác phẩm khác vẫn được nhiều người ưa thích như Hương nước hồn quê, Hồn muôn năm cũ, Phong lưu đồng ruộng, Thờ cúng tổ tiên...

Các cuốn như Cao nguyên miền Thượng, Làng xóm miền Nam là tư liệu quý để tìm hiểu văn hóa, phong tục các miền.

Trong một cuộc phỏng vấn với báo trong nước năm 2004, ông nói băn khoăn của mình là "xã hội Việt Nam thay đổi quá nhanh, những nét đẹp truyền thống ngày mỗi mai một".

Dự kiến lễ động quan sẽ diễn ra hôm 19.5, sau đó linh cữu được đưa đi hỏa tang ở nghĩa trang Bình Hưng Hòa.

(Nguồn: yahoo mail)


Đại Lễ Phật Đản Phật Lịch 2553 tại Chùa Điều Ngự - California

Đoàn Thiếu Nữ Chùa Điều Ngự hát mừng Phật Đản

VĂN PHÒNG II VIỆN HÓA ĐẠO HPGVN HẢI NGOẠI TẠI HOA KỲ
CHÙA ĐIỀU NGỰ

Vì đại nguyện cứu độ muôn loài nơi trần thế, Bậc Đại Giác Thế Tôn đã thị hiện đản sanh. Văn Phòng II Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ/Chùa Điều Ngự đã long trọng tổ chức Đại Lễ Phật Đản Pl.2553 vào lúc 1:30 pm ngày Chủ nhật 10.5.2009 nhằm ngày 16 tháng 4 năm Kỷ Sửu.

Mặc dầu Trời nắng gắt nhưng đến 1 giờ trưa Đồng bào Phật Tử và Quan khách đã vân tập về Chùa đông đảo để viếng cảnh và lễ Phật trong Vườn Lâm Ty Ni với cây cảnh xanh tươi, nước phun mát mẽ qua hoạt cảnh Phật giáng trần với bảy bước hoa sen xinh đẹp. Đúng 1giờ 30 hội trường đã đông đảo,Pháp Sư Thích Giác Đức đăng đàn giảng một thời Pháp ngắn gọn. Sau đó là ba hồi chuông trống bát nhã cung nghinh Xá Lợi Phật, Phật Đản sanh và cung thỉnh Chư Tôn Đức Giáo Phẩm quang lâm lễ Đài.

Buổi lễ hôm nay được sự chúng minh của Đức Phó Tăng Thống Đại Lão Hoà Thượng Thích Hộ Giác, Đại Lão Hoà Thượng Phó Viện Trưởng Viện Hoá Đạo Thích Chánh Lạc, Pháp Sư Niên Trưởng Thích Giác Đức Tổng Ủy viên Kế Hoạch cùng đông đảo Chư Tôn Hoà Thượng Thượng Toạ Đại Đức Tăng Ni trong Hội Đồng Điều hành Văn Phòng II Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ và hơn 150 Chư Tăng các Giáo Hội Nhật Bản, Nam Hàn, Hoa Kỳ, Thái Lan, Tây Tạng, Miến Điện,Đài Loan, Tích Lan, Lào, Cam Bốt và Ông Đại Sứ Phó Chủ Tịch Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế giới tham dự.

hần quan khách có Ông Loucorea Nghị sĩ Tiểu bang California, Dân Biểu Tiểu Bang Trần Thái Văn, Phó Thị Trưởng Thành phố Westminster Tạ Đức Trí, Ông Contres Ủy viên Giáo dục Học Khu Westminster và nhiều vị khác.

Về Quan khách Việt Nam có Quí Vị đại diện các Tôn Giáo bạn như Công Giáo, Tin Lành, Phật Giáo Hoà Hảo v.v.. Quí Vị Cựu Tướng Lãnh, Sĩ quan cao cấp, Trung Cấp, Quí Vị Cựu Nghị sĩ, Dân Biểu, Nhân sĩ Trí thức, các Tổ chức Đòan thể, Chính Đảng, Các Cơ quan truyền thông báo chí và đồng bào Phật Tử các giới đông nghẹt cả hội trường . Sau nghi thức thường lệ, Thượng Tọa Thích Viên Lý Trưởng ban Tổ chức đã lên máy vi âm đọc diễn văn khai mạc, tiếp theo là Đạo từ của Đức Phó Tăng Thống Thích Hộ Giác , sau đó Hoà Thượng Thích Chánh Lạc tuyên đọc Thông Điệp Phật Đản 2553 của Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, kế tiếp là phần phát biểu của Ông Đại Sứ Phó Chủ Tịch Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới , phát biểu của Thượng nghị sĩ Tiểu bang Loucorea và Dân biểu Tiểu bang Trần thái Văn cùng có nội dung chào mừng Đại Lễ và nổ lực yểm trợ công cuộc đấu tranh giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn mà Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất do Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo. Thượng nghị sĩ Loucorea cũng đã đai diện Thượng Viện Tiểu bang California trao tặng văn phòng II Viện Hoá Đạo một bằng khen ngợi sự đóng góp về mặt tôn giáo cho Xã Hội. Sau đó Phó Thị Trưởng Tạ Đức Trí thay mặt Hội Đồng Thành phố Westminster lên phát biểu và đã trao tặng cho Thượng Tọa Trưởng Ban Tổ chức một bằng tưởng lục khen ngợi Chùa Điều Ngự đã góp phần phát triển văn hoá trong thành phố Westminster.

Cũng cần nên biết trước ngày cử hành Đại Lễ từ Văn phòng Tổng Thống OBAMA có gọi điện thoại đến Văn Phòng II Viện Hoá Đạo cho biết vì đang bận đối phó với tình trạng kinh tế suy thoái nên Tổng Thống chưa thể gởi thông điệp Phật Đản đến Đại lễ của Giáo Hội , hy vọng năm tới chúng ta sẽ có thông điệp của Tổng Thống Hoa Kỳ. Tiếp theo chương trình là phần cung thỉnh 15 Chư Tôn Đức Giáo Phẩm Việt Nam và Ngoại Quốc cùng mời 15 vị Quan Khách Chính quyền, Dân Cử và Nhân Sĩ Phật Giáo mỗi vị thắp một ngọn nến Chánh Pháp và tự cắm lên hai giàn nến để cầu nguyện cho Thế giới hoà bình, lảnh thổ lãnh hải Việt Nam được bảo tồn nguyên vẹn.

Sau đó nghi thức Đản sanh đã diễn ra thật trang nghiêm cả hai truyền thống Nam, Bắc Tông cùng thực hiện lễ Mộc Dục (tắm Phật) và lễ Phóng sanh.

Hôm nay cũng là ngày lễ Mẹ nên Đoàn Phật Tử Chùa Diệu Pháp cùng Ban Tổ chức đã thân kính trao đến năm Cụ Bà Cao niên nhất có tuổi thọ từ 87,86,85,84, 83 mỗi Cụ một bó hoa tươi thắm với lời cầu chúc an lạc và trường thọ. Đồng thời trao tận tay 1000 bông hoa hồng tươi đẹp đến 1000 hiền mẫu hiện diện với lời cầu chúc An vui, hạnh phúc và may mắn. Hội trường trở nên vui nhộn đầy tình đạo vị giữa những người con Phật cùng hướng về những Bà Mẹ Việt Nam nhiều thế hệ luôn luôn đầy tình thương bao la.

Tiếp theo Bình Luận Gia Lý Đại Nguyên, Giáo Sư Lưu Trung Khảo đã tuần tự lên phát biểu giới thiệu tác phẩm CỘI TÙNG TRƯỚC GIÓ, vinh danh Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ với tiếng vỗ tay vang dậy cả hội trường. Hôị trường cũng đã vỗ tay nồng nhiệt khi người điều khiển chương trình loan báo tin vui Thượng Tọa Thích Viên Lý sẽ nhận Bằng Tiến Sĩ Triết học về Tôn Giáo vào thứ bảy tuần tới.

Tiếp theo,Thượng Tọa Thích Viên Huy Phó Ban Tổ chức về kế hoạch đã lên phát biểu lời Cảm tạ với sự hiện diện cuả toàn Ban Tổ chức.

Sau cùng là chương trình văn nghệ của Gia Đình Phật Tử Chùa Điều Ngự phụ diển mừng ngày Đản sanh kết hợp xen kẻ là xổ số trong khi mọi người được Ban Tổ Chúc trao mời tận tay một phần ẩm thực chiều.

Cùng thời điểm này trong Chánh Điện Thượng Toạ Tổng Thư Ký cùng sáu Chư Tôn Đức trang nghiêm cử hành lễ Thọ giới Qui Y cho 50 giới tử đã ghi danh từ một tuần trước đó, ai nấy hân hoan với phát nguyện từ nay quyết giữ gìn Tam Qui Ngũ giới và an tâm vui mừng với Pháp danh vừa được ban của mình .

Buổi Văn nghệ kết thúc đúng 6 giờ chiều sau khi đại diện Ban Tổ Chức một lần nữa ngõ lời cảm ơn tất cả Quí vị đã ở lại đến giờ chót và cám ơn văn nghệ sĩ cùng các Cháu trong đội Lân và ca vũ Gia đình Phật Tử Chùa Điều Ngự đã cùng nhau tạo nên chương trình phụ diễn mừng Phật Đản thành công tốt đẹp.

Ra về mọi người hân hoan vui cười và từng nhóm kháo với nhau hôm nay quá đông, từ vườn Lâm Tỳ Ny vào đến Chánh Điện, từ Khuôn viên Phật Bà cho đến khu ẩm thực và nhất là trong Hội trường Lễ Đài Chính, nơi nào cũng đông nghẹt vậy thì khoảng bao nhiêu người ? nhóm thì nói 3 ngàn, nhóm thì phân tách trong hội trường vừa ngồi, và đứng chật khoảng 3000, còn trong Chánh Điện và các khu vực khác cũng đông nghẹt do đó mà ước khoảng 5000.

Riêng người viết biết được lượng ghế thuê và cơ hữu của Chùa đã ngoài 4000, người Lễ bái trong Chánh Điện và đi lại trong các khu vực thì lúc cao điểm (sau 2 giờ chiều) số người đến Chùa khoảng 5000 người , không kể lượt người viếng cảnh lễ Phật vào ra suốt ngày và theo những người giữ trật tự bên ngoài cho biết thì nếu có nhiều địa điểm đậu xe cũng như hội trường hành lễ rộng lớn hơn thì số lượng đồng hương Phật Tử tham dự sẽ đông hơn nữa. Thực ra con số không là gì cả mà quan trọng là tấm lòng và chí hướng. Biết để vui với nhau và để cùng cố gắng, cùng cảm thông, để cùng ước mong những ngày lễ hội sau này tránh được nhửng khuyết điểm ngoài ý muốn, mỗi ngày một cải tiến hoàn thiện, hầu đáp ứng lòng mong ước tốt đẹp của mọi người con Phật luôn hướng về Văn Phòng II Viện Hoá Đạo/ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ/Chùa Điều Ngự.

Westminster, thứ hai 11/5/2009

Chơn Diệu.

Liên Khuôn Phật Học
Tâm Vị

Trang trí Lễ Đài trước giờ hành lễ

Vườn Lâm Tì Ni trong ngày Phật Đản PL 2553

Các CHT chuẩn bị rước Chư Tôn Đức vào Lễ Đài

Cung thỉnh Chư Tôn Đức vào lễ đài

Chư tăng và đồng bào Phật tử nghiêm trang trong lễ chào cờ


Friday, May 15, 2009

Cho tao chưởi mầy một tiếng - Trạch Gầm

    Cho tao chưởi mầy một tiếng

    Đụ má, cho tao chưởi mầy một tiếng,
    Đất của Ông Cha sao mầy cắt cho Tàu?
    Ngậm phải củ gì mà mầy cứng miệng,
    Đảng của mầy, chết mẹ … đảng tào lao.

    Chế độ mầy vài triệu tay cầm súng,
    Cầm súng làm gì … chẳng lẽ hiếp dân.
    Tao không tin lính lại hèn đến thế,
    Lại rụng rời … trước tai ách ngoại xâm.

    Mầy vỗ ngực. Anh hùng đầy trước ngõ,
    Sao cứ luồn, cứ cúi, cứ van xin
    “Môi liền răng” à thì ra vậy đó
    Nó cạp mầy, mầy thin thít lặng thinh.

    Ông Cha mình bốn ngàn năm dựng nước,
    Một ngàn năm đánh tan tác giặc Tàu.
    Thân phận mầy cũng là Lê, là Nguyễn
    Hà cớ gì .... mầy hèn đến thế sao!

    Chuyện mầy làm Toàn Dân đau như thiến,
    Mầy chết rồi, tao nghĩ chẳng đất chôn.
    Hãy tỉnh lại ôm linh hồn sông núi,
    Cứ đà nầy... chết tiệt còn sướng hơn.

    Đàn gảy tai trâu .... xem chừng vô ích,
    Giờ mầy nghe tao chưởi còn hơn không ...

    Trạch Gầm

Ðài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam - Ðỗ Thái Nhiên



Ðỗ Thái Nhiên


Ðài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam, vừa mới được khánh thành, nằm bên trong khuôn viên nghĩa trang Westminster ở Quận Orange, Nam California.

Ðứng bên trong khuôn viên vừa kể, quay lưng lại với đường Bolsa, khách viếng tượng đài sẽ thấy một bãi cỏ xanh và rộng. Kế đến là lư hương đồng đen. Ðàng sau lư hương là kiến trúc trọng tâm của tượng đài. Kiến trúc này bao gồm một hồ nước hình quả trám, lớn bằng chiếc thuyền vượt biên. Chung quanh hồ nước là những tảng đá màu trắng ngà, mặt mài bằng, diện tích non một thước vuông. Trên mỗi tảng đá, danh vị của thuyền nhân tử nạn được ghi bằng mực đen, nét khắc sâu và sắc. Tại một tảng đá bên hông tượng đài, gần trung tâm mặt đá, tình cờ tôi bắt gặp phương danh “Tô Lai Chánh”. Anh này là bạn rất thân của tôi tại trường Luật Saigon từ 1963. Hồi bấy giờ, Tô Lai Chánh là chủ tịch Ban Ðại Diện Sinh Viên Luật Khoa Saigon. Khi nhập ngũ, Tô Lai Chánh trở thành chánh án công tố của Tòa Án Quân Sự Nha Trang. Giữa năm 1985, Tô Lai Chánh từ trại tù “cải tạo” về. Tôi từ khám Chí Hòa ra. Hai chúng tôi gặp nhau tại một quán cóc bên đường Trần Quang Khải, gần Cầu Bông. Sau đó tôi mất liên lạc với Chánh. Tôi có hơn hai thập niên đi tìm tông tích người ban họ Tô nhưng tuyệt vô âm tín. Mãi cho tới sáng 25/04/09 tôi mới gặp lai Tô Lai Chánh trên phiến đá này, bên hông Tượng Ðài Thuyền Nhân. Ðây là tin tức ngắn nhất, bất ngờ nhất, chính xác nhất, bàng hoàng và xoáy tim óc nhất. Nhìn không chớp mắt vào danh vị Tô Lai Chánh, tôi thấp thoáng thấy đôi mắt to và đen của anh chủ tịch Sinh Viên Luật Khoa Saigon vài thập niên về trước...

Bây giờ hãy trở lại với cấu trúc của Tượng Ðài Thuyền Nhân. Ở giữa hồ nước mang hình dáng chiếc thuyền như đã nói ở trên là một tảng đá lớn, biểu tượng cho đảo tỵ nạn. Bên trên tảng đá kia là hình tượng một gia đình gồm năm người: bà cụ già, cặp vợ chồng trẻ và một cháu bé khoảng dưới một tuổi. Người phụ nữ gần ngã sấp nhưng vẫn cố vươn mình lên cao, tay trái ôm cháu bé mắt nhắm nghiền, tay phải đưa ra phía trước như một cầu cứu. Cạnh đó là chiếc nón lá của phụ nữ Việt Nam và chai sữa dành cho trẻ em nằm lăn lóc trên mặt đất. Tiếp sau là hình tượng người thanh niên, tóc tai rũ rượi đang dìu bà lão đi tới. Toàn cảnh tượng đài là bức tranh ghi nhận: ba thế hệ Việt Nam chịu chung một tai họa. Thế hệ thứ nhất là bà cụ mà người chồng có thể đang bị khổ sai ở trại tù cải tạo nào đó. Thế hệ thứ hai là cặp vợ chồng trẻ. Thế hệ thứ ba là cháu bé với đôi mắt nghiền trước một tương lai mịt mù mây xám. Trong ngôn ngữ của biểu tượng: ba thế hệ là nhiều thế hệ, là toàn bộ dòng sống của dân tộc. Bảo là một tai họa nhưng đây là loại tai họa có chọn lựa. Trên bước đường vượt biên có một ngàn lẽ một tai họa khác nhau, tai họa nào cũng khủng khiếp, cũng vượt ra ngoài trí tưởng tượng của loài người. Trong phạm vi của một bài bình luận ngắn, bài viết này xin trình bày một tai họa điển hình. Hồ sơ của tai họa này được tìm thấy trong văn khố của cơ quan Cao Ủy Tỵ Nạn của Liên Hiệp Quốc năm 1979. Diễn tiến của sự việc được trình bày như sau:

“Anh Huỳnh Văn Trân, 34 tuổi, ngồi trên 1 băng ghế gỗ ở trại tị nạn Songkhla ở một bờ biển cực nam của Thái Lan, thuật lại câu chuyện của mình lần thứ ba. Anh ra đi trên một chiếc tàu gồm 62 người: đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Họ may mắn gặp thời tiết và gió thuận lợi, không bị rắc rối gì với máy tàu. Vào ngày thứ 5 trên biển, một chiếc tàu mã lực lớn dài 15 mét đến cặp sát mạn tàu anh. Có 12 người đàn ông trên thuyền, tất cả đều trang bị vũ khí đầy đủ. Trước hết, chúng ra lệnh cho hai người trong số phụ nữ sang tàu chúng. Một trong hai người này là vợ anh Huỳnh Văn Trân. Cô này bị ghì chặt xuống, súng trường kê sát thái dương, và bị ra lệnh không được kêu la. Cô bị bọn chúng cưỡng hiếp.

Bọn hải tặc sau đó nhảy qua tàu tỵ nạn, cướp đi mọi thứ có giá trị, bắn một người đàn ông còn do dự khi chúng cướp. Sau đó chúng tăng tốc độ phóng đi với các món của cải chiếm được, nhưng thình lình quay ngoắt lại. Vẫn giữ nguyên tốc độ tối đa, chúng nhắm thẳng vào tàu tỵ nạn và đâm mạnh. Chiếc tàu hải tặc đã lập đi lập lại hành động này trong khi nhóm người tỵ nạn đang hốt hoảng ngoi ngóp giữa biển khơi. Bọn cướp biển cố ý lái tàu cán qua vô số chiếc đầu đang nhấp nhô, có lẽ vì không muốn để sót lại nhân chứng nào. Khi vợ anh Trân còn đang chới với trên mặt nước, với đứa con trai mới lên 3 đang níu chặt cổ mẹ, cả hai đã bị tàu cán qua và chết đuối, 10 người trong số họ sống sót, sau đó được vớt lên và đưa tới Songkhla, Thái Lan.”
(Hết lời dẫn)

Tai họa kể trên cùng hàng vạn tai họa khác cho thấy thuyền nhân bị giết chết trong những tình huống vô cùng tàn ác nhưng cũng vô cùng bi tráng.

Bi tráng bởi lẽ: không phải những người chuẩn bị vượt biên không biết tất cả những hung hiểm trên sông, trên biển. Thế nhưng thuyền nhân vẫn quyết tâm vượt biên, quyết tâm bước vào con đường chỉ có thể chọn lấy một trong hai giải pháp: “Tự do hay là chết”. Con người có nhiều phương cách để diễn đạt tư tưởng. Con người có thể nói bằng ngôn ngữ bình thường, có thể nói bằng quả đấm, bằng tiếng thở dài, bằng cái nhíu mày, cau mặt. Trong tất cả những kiểu nói và cách nói kia, tiếng nói của im lặng là tiếng nói của tận cùng lạnh lùng và quyết liệt. Im lặng chôn dầu vượt biển, im lặng đút hối lộ cho công an, im lặng qua mặt các toán tuần duyên CSVN, im lặng đối mặt với hải tặc, im lặng viết tên của chính mình trên phiến đá ở Ðài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam. Tất cả các im lặng vừa diễn tả chỉ dễ nói lên một điều:

Chúng tôi là con người Việt Nam, Chúng tôi không thể sống không có tự do. Chúng tôi sẵn sàng mang sinh mạng của mình để đổi lấy tự do. Ðiều kỳ lạ là thuyền nhân Việt Nam đi vào cõi chết nhưng vẫn nheo mắt nhìn đời với miệng cười ngạo nghễ. Thông thường mỗi thuyền nhân trước giờ vượt biên đều thấy trước ba con đường: nếu vượt biên thoát thì đương sự sẽ làm việc kiếm tiền trợ giúp gia đình. Nếu bị bắt thì gia đình phải đi thăm nuôi. Nếu gặp tai họa giữa biển cả thì an giấc ngàn thu dưới đáy biển. Chúng ta hãy nghe một thuyền - nhân - trẻ từ giã mẹ già trước giờ vượt biên. Từ giã rằng:
    “Một là con nuôi Má,
    Hai là Má nuôi con,
    Ba là con nuôi cá.”
Rõ ràng lời giã từ rất đắng cay nhưng vẫn không thiếu phần hài hước. Chính tính hài hước trong hỏa ngục mới diễn tả trọn vẹn niềm thống hận của thuyền nhân. Trong niềm thống hận kia thuyền nhân gói ghém hai ước mơ:

Ước mơ một: Vượt biên vừa để phản kháng CSVN độc tài, phản nhân tính vừa để tìm lại cho gia đình, cho bản thân một đời sống đầy đủ tự do và dân chủ. Ðồng thời, giúp cho các thế hệ tương lai được giáo dục và đào tạo thành con người.

Ước mơ hai: từ giã đất tạm dung, quay trở về quê cũ, quyết tâm xây dựng lại một Việt Nam tự do dân chủ. Triệt để loại bỏ mọi bùa phép dân chủ ngụy trá của CSVN.

Thật là đau đớn, mỗi người hai ước mơ, hàng triệu ước mơ đã bị vùi sâu dưới đáy biển. Với thời gian, ước mơ của thuyền nhân từ lòng biển đã vang vọng về với dương thế làm xao xuyến hàng triệu triệu quả tim Việt Nam. Cuối con đường xao xuyến là Ðài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam. Tưởng niệm không chỉ là hương khói với hoa tươi. Tưởng niệm phải biểu hiện bằng quyết tâm biến ước mơ của thuyền nhân thành hành động cụ thể. Hành động cụ thể đó chính là đào thải chế độ Hà Nội ra khỏi vị trí cầm quyền, buộc chế độ này phải trả lời trước công lý về vô số tội ác tham ô, độc tài và bán nước

Ðỗ Thái Nhiên



VIỆT NAM ĐẦU HÀNG ĐẠI HÁN? - Luật sư Nguyễn Hữu Thống

Xin gửi quý vị và các bạn bản cáo giác đính kèm và yêu cầu phổ biến rộng rãi cho các giới đồng bào trong và ngoài nước. Xin quý vị và các bạn tham gia ý kiến về vấn đề trọng đại này.
Chúng tôi xin thành thật cảm tạ.
    KÍNH NHỜ PHỔ BIẾN VỀ VIỆT NAM
Luật sư Nguyễn Hữu Thống
nguyenhthong@earthlink.com
*
* *
    VIỆT NAM ĐẦU HÀNG ĐẠI HÁN?
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống

Ngày 7-5 vừa qua Chính Phủ Hà Nội đã đệ trình đơn đăng ký từng phần (partial submission) để yêu cầu Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc cho Việt Nam mở rộng thềm lục địa pháp lý 200 hải lý (370km) thành thềm lục địa mở rộng hay thềm lục địa địa chất tới mức 350 hải lý (650 km) chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982.

Đơn đăng ký đã được đệ nạp trong thời hạn luật định và sẽ được Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc đăng đường vào khóa họp tại Nữu Ước từ trung tuần tháng 8 đến trung tuần tháng 9 tới đây. Sau khi cứu xét hồ sơ căn cứ vào những tiêu chuẩn đặc thù ghi trong Bản Cương Lĩnh về Khoa Học Kỹ Thuật ngày 13-5-1999, Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa sẽ công bố những khuyến cáo có hiệu lực chấp hành chung quyết buộc các quốc gia đăng ký phải tôn trọng và thi hành.

Về mặt pháp lý, chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, tại Biển Đông Nam Á hay Biển Đông, các quốc gia duyên hải như Trung Quốc, Việt Nam, Nam Dương, Mã Lai, Brunei, Phi Luật Tân được hưởng quy chế thềm lục địa pháp lý rộng 200 hải lý từ biển lãnh thổ ra khơi. Chiếu Điều 77 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển thềm lục địa 200 hải lý thuộc chủ quyền tuyệt đối và đặc quyền chuyên hữu của quốc gia duyên hải trong việc thăm dò và khai thác dầu khí.

Mọi sự xâm chiếm dầu có võ trang hay không của ngoại bang đều vô giá trị và vô hiệu lực. Chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam tại các thềm lục địa Hoàng Sa và Trường Sa không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm cứ (occupation) , thăm dò (exploration) , khai thác (exploitation) hay công bố minh thị (express proclamation) . Do đó dầu không còn chiếm cứ 13 đảo tại Hoàng Sa từ 1974, và một số đảo, cồn , đá, bãi tại Trường Sa từ 1988, Việt Nam vẫn không mất chủ quyền lãnh thổ tại các hải đảo này.

Tại quần đảo Hoàng Sa về phía đông bắc có 7 đảo thuộc Nhóm An Vĩnh (Amphitrite) là các đảo Phú Lâm, Lincoln, đảo Cây, đảo Hòn Đá, đảo Bắc, đảo Trung và đảo Nam. Về phía tây nam có 6 đảo thuộc Nhóm Lưỡi Liềm (Crescent, tiếng Pháp là Croissant) là các đảo Hoàng Sa, Quang Hòa, Duy Mộng, Quang Ảnh, Hữu Nhật và Trí Tôn. Các hải đảo này nằm trên thềm lục địa Việt Nam
tại các Vỹ Tuyến 17-16-15 cách bờ biển Việt Nam khoảng 160 hải lý. Riêng đảo Trí Tôn phía cực nam tọa lạc tại Vỹ Tuyến 15.47 Bắc cách Quảng Ngãi 135 hải lý.Theo Tòa Án Quốc Tế The Hague muốn thủ đắc chủ quyền các đảo vô chủ, phải có sự chiếm cứ hòa bình trong một thời gian liên tục và trường kỳ.

Tháng 1-1974 thừa dịp quân lực Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam, Trung Quốc đã dùng võ trang xâm chiếm 6 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm Lưỡi Liềm. Trước đó, vào cuối năm 1946, thừa dịp Hải Quân Pháp rút khỏi Biển Đông, Trung Quốc đã xâm chiếm bất hợp pháp 7 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm An Vĩnh. Sự chiếm cứ võ trang này đi trái với án lệ cố định của Tòa Án Quốc Tế The Hague cũng như trái với Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.

Hơn nữa từ thế kỷ 16 dưới đời Nhà Nguyễn Xứ Đàng Trong, kế đến đời Nhà Nguyễn Tây Sơn và Quốc Gia Việt Nam thống nhất đời Nhà Nguyễn Gia Long, Việt Nam đã chiếm cứ ôn hòa, trường kỳ và liên tục các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời minh thị công bố chủ quyền và hành sử chủ quyền tại các quần đảo này. Như vậy các hải đảo của Việt Nam tại Biển Đông không phải là đất vô chủ (terra nullius) vì thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam liên tục ít nhất từ 5 thế kỷ nay.

Năm 1949, do Hiệp Định Elysee, Pháp trao trả chủ quyền độc lập và thống nhất cho Quốc Gia Việt Nam với sự toàn vẹn lãnh thổ từ Nam Quan đến Cà Mâu. Lãnh thổ có nghĩa là đất liền, hải phận và không phận. Như vậy không có sự chối cãi rằng Quốc Gia Việt Nam đã thủ đắc chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Sự xâm chiếm Biển Đông bằng võ trang của Quân Đội Trung Quốc trong những năm 1946, 1974 và 1988 không được Tòa Án và Luật Pháp nhìn nhận. cũng như sự xâm chiếm võ trang các hải đảo tại Biển Đông của Quân Đội Nhật Bản thời Thế Chiến II.

Năm 1951, 51 quốc gia đồng minh tham dự Hội Nghị San Francisco để ký Hiệp Ước Hòa Bình và Tái Thiết Nhật Bản. Tại Hội Nghị Nhật Bản tuyên bố khước từ chủ quyền tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhưng không nói để trả cho nước nào. Trong Dự Án Hiệp Ước Hòa Bình San Francisco 1951, các quốc gia đồng minh tham dự Hội Nghị chỉ quyết định trao trả cho Trung Quốc đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ tại Thái Bình Dương.

Trong một phiên họp khoáng đại Ngoại Trưởng Liên Sô đệ nạp bản Tu Chính Án yêu cầu Hội Nghi trao cho Trung Quốc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên tu chính án của Liên Sô đã bị Đại Hội bác bỏ với 46 phiếu chống và 3 phiếu thuận. Sau đó trưởng phái đoàn Quốc Gia Việt Nam là Thủ Tướng Trần Văn Hữu đã lên diễn đàn công bố chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp sự phản kháng nào, kể cả của Liên Sô (lúc này là quốc gia đồng minh với Anh, Mỹ, Pháp và Trung Hoa từ thời Thế Chiến II).

Năm 1954, 7 quốc gia tham dự Hội Nghị Geneva về Việt Nam trong đó có ngũ cường Anh, Mỹ, Pháp, Liên Sô và Trung Quốc cùng 2 nước Việt Nam là Quốc Gia Việt Nam (Miền Nam) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc). Anh Quốc và Liên Sô là đồng chủ tịch Hội Nghị. Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 một lần nữa đã minh thị xác nhận chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Quốc Gia Việt Nam từ Vỹ Tuyến 17 vào Nam (Quảng Trị-Cà Mâu).

Điều 4 Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 quy định như sau:

Giới tuyến giữa Miền Nam và Miền Bắc kéo dài ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển. Quân đội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải rút khỏi tất cả các hải đảo về phía Nam giới tuyến (Vỹ Tuyến 17) để trao trả chủ quyền các hải đảo này (tại Hoàng Sa và Trường Sa) cho Quốc Gia Việt Nam (năm 1954) và Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1955. Các hải đảo này tọa lạc từ Vỹ Tuyến 17 (Quảng Trị) đến Vỹ Tuyến 7 (phía Đông Nam Cà Mâu)

Năm 1954 Pháp và Trung Quốc đã chủ xướng triệu tập Hội Nghị Geneva về Việt Nam với Liên Sô và Anh Quốc là đồng chủ tịch Hội Nghị. Như vậy về mặt quốc tế công pháp Trung Quốc có nghĩa vụ phải tôn trọng và thi hành những điều khoản của Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954, đặc biệt là Điều 4 xác nhận chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    VỀ ĐƠN THỈNH NGUYỆN CỦA VIỆT NAM YÊU CẦU MỞ RỘNG THỀM LỤC ĐỊA
Ngày 7-5-2009 Chính Phủ Việt Nam đệ trình Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc bản báo cáo có kèm theo Họa Đồ (Figure) và Bản Tọa Độ (Table) với 45 điểm ranh mốc xác định giới tuyến thềm lục địa mở rộng (extended continental shelf). Như đã trình bày đơn thỉnh nguyện (submission) của Việt Nam sẽ được Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa đăng đường vào khóa họp tại Nữu Ước từ trung tuần tháng 8 đến trung tuần tháng 9 tới đây.

Phản ứng tiên khởi của Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền là ngỡ ngàng và xót xa.
Vì hai lý do:

1. Theo Họa Đồ số 1 (Figure 1 Outer limits of the Vietnam's extended continental shelf: North Area (VNM-N) do Chính Phủ Hà Nội xuất trình, điểm khởi hành của ranh giới Thềm Lục Địa Mở Rộng (Vietnam 350M), về hải phận phía Bắc đối diện với Trung Quốc chỉ khởi sự từ ranh mốc số 1 tọa lạc tại Vỹ Tuyến 15.06 Bắc (ngang tầm với Quảng Ngãi) và Kinh Tuyến 115.14 Đông.

2. Điểm 45 kết thúc giới tuyến Thềm Lục Địa Mở Rộng tọa lạc tại Vỹ Tuyến 10.75 Bắc (ngang tầm với Phan Thiết) và Kinh Tuyến 112.62 Đông. Như vậy Chính Phủ Việt Nam đã chính thức xác nhận với Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc rằng Thềm Lục Địa Mở Rộng của Việt Nam tại hải phận phía Bắc chỉ chạy từ Vỹ Tuyến 15.06 Bắc xuống Vỹ Tuyến 10.75 Bắc (từ Quảng Ngãi xuống Phan Thiết).

Trong trường hợp này Chính Phủ Hà Nội đã mặc nhiên khước từ chủ quyền lãnh hải của Việt Nam từ Vỹ Tuyến 15.06 Bắc (Quảng Ngãi) lên Vỹ Tuyến 17 (Quảng Trị). Nghĩa là Việt Nam đã cống hiến cho Trung Quốc một hải phận gồm 3 Vỹ Tuyến 15- 16-17 trong đó tọa lạc 13 đảo Hoàng Sa.

Về mặt vị trí, đảo Trí Tôn tại cực nam (với tọa độ 15.47 Bắc) cũng nằm về phía Bắc tọa độ 15.06 Bắc mà Chính Phủ Hà Nội chọn làm điểm ranh mốc cao nhất về phía Bắc của Thềm Lục Địa Mở Rộng Việt Nam. Kết quả là từ nay Trung Quốc có tư thế để đòi chủ quyền lãnh hải từ bờ biển Quảng Đông tại Vỹ Tuyến 22 xuống tới vùng biển Quảng Ngãi tại Vỹ Tuyến 15 nghĩa là toàn thể Quần Đảo Hoàng Sa.

3. Cũng theo Họa Đồ (Figure 1 nói trên), giới tuyến Thềm Lục Địa Pháp Lý 200 hải lý (Vietnam 200M) theo hướng Bắc-Nam, chạy song hành với bờ biển Việt Nam, từ Vỹ Tuyến 16 (Đà Nẵng) xuống Vỹ Tuyến 7 (Bãi Tứ Chính: Vanguard) dọc theo Kinh Tuyến 112 Đông.

Địa hình này xác nhận rằng Thềm Lục Địa Việt Nam chỉ khởi sự từ Vỹ Tuyến 16 (Đà Nẵng) xuống Vỹ Tuyến 7 phía đông nam Cà Mâu. Do đó nó mặc nhiên nhìn nhận rằng ngoại trừ đảo Tri Tôn tại Vỹ Tuyến 15.47 Bắc, vùng hải phận từ Vỹ Tuyến 16 trở về Bắc, trong đó tọa lạc 12 đảo Hoàng Sa, không thuộc chủ quyền lãnh hải của Việt Nam.

Theo hiểu biết thông thường, nếu không có Thềm Lục Địa thì không có lục địa. Nếu không có lục địa thì không có hải phận. Mà nếu không có hải phận thì cũng không có các hải đảo tọa lạc trong đó.Trong cả hai trường hợp do Chính Phủ Hà Nội viện dẫn về Thềm Lục Địa Mở Rộng và Thềm Lục Địa Pháp Lý, Việt Nam đã khước từ chủ quyền ít nhất 12 hải đảo thuộc Quần Đảo Hoàng Sa tọa lạc tại các Vỹ Tuyến 17 và 16 Bắc từ Quảng Trị xuống Quảng Nam. (Đảo Hoàng Sa có vỹ độ 16.32 Bắc; đảo Phú Lâm có vỹ độ 16.50 Bắc).

Đây là một Thảm Họa cho Việt Nam
.
Và là một Đại Thắng của Đế Quốc Đại Hán.


Tất cả những phản ứng đạo diễn của Bắc Kinh và Hà Nội nằm trong chiến thuật hỏa mù để đánh lạc dư luận quần chúng và đánh lừa dân tộc Việt Nam. Vì như ai cũng biết cho đến nay, Bắc Kinh vẫn nằng nặc đòi chủ quyền hơn 80% hải phận Biển Đông Nam Á mà họ gọi là Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc.Chúng tôi kêu gọi các bậc thức giả tham gia ý kiến về vấn đề này.

Thay Mặt Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống
(13-5-2009
)


Wednesday, May 13, 2009

Tống Biệt Hành - Thâm Tâm

* Thâm Tâm tên thật là Nguyễn Tuấn Trình sinh ngày 12/5/1917 tại Hải Dương.

Viết cho các báo: Tiểu Thuyết Thứ Bảỵ Tiểu Thuyết Thứ Năm, Ngày nay. Mất ở Cao Bằng năm 1950. Thâm Tâm viết không nhiều, ông mất sớm, cả đời thơ chưa được hai mươi bài. Nhưng nếu chọn mười bài tiêu biểu của thời kỳ Thơ mới, chắc chắn có Tống biệt hành. Thâm Tâm và TTkh là đầu đề cho một câu chuyện tình nửa hư nửa thực và trở thành một giai thoại thi ca kỳ thú nhưng cho đến nay người ta cũng không biết gì nhiều hơn.

    Tống Biệt Hành

    Đưa người ta không đưa qua sông
    Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng?
    Bóng chiều không thắm không vàng vọt
    Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

    Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
    Một giã gia đình, một dửng dưng ...

    - Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
    Chí lớn không về, bàn tay không
    Thì không bao giờ nói trở lại
    Ba năm mẹ già cũng đừng mong.

    Ta biết người buồn chiều hôm trước
    Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
    Một chị, hai chị cũng như sen
    Khuyên nốt em trai giòng lệ sót

    Ta biết người buồn sáng hôm nay
    Trời chưa vào thu tươi lắm thay
    Em nhỏ thơ ngây đôi mắt ướt
    Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay ...

    Người đi? Ừ nhỉ, người đi thật
    Mẹ! thà coi như chiếc lá bay
    Chị! thà coi như là hạt bụi
    Em! ừ xem như hơi rượu cay

    Người đi? Ừ nhỉ, người đi thật
    Mẹ! thà coi như chiếc lá bay
    Chị! thà coi như là hạt bụi
    Em! thà coi như hơi rượu cay

    Thâm Tâm 1940

Tuesday, May 12, 2009

Tài Liệu Mật Của Cộng Sản Việt Nam

Đây là một tài liệu mật vừa được chuyển ra hải ngoại. Những điều viết trong tài liệu này đã được CSVG áp dụng thi hành trong và ngoài nước từ 33 năm nay và tại miền Băc từ năm 1954. Rất mong các cộng đồng người tỵ nạn khắp nơi tại hải ngoại nghiên cứu để tìm cach bẻ gãy nghị quyết 36 của VGCS. Đặc biệt với người Việt Nam trong nước đang tranh đấu cho dân chủ tự do cho quê hương nên học hỏi thêm để tìm cách tránh né những mưu mô gian xảo của nhóm Việt Gian bán nước này.
***

  • Thưa các đồng chí,

  • Đảng quang vinh của chúng ta muốn tồn tại và phát triển, giữ vai trò là đảng tiên phong và duy nhất lãnh đạo đất nước, thì có mấy mục tiêu quan trọng sau đây phải được quan tâm đúng mức:

    1. Phải làm cho dân chúng vừa yêu vừa sợ. Nếu không thể làm cho người dân yêu mến; điều mà tôi e là sự thật cay đắng cần chấp nhận thì cũng phải tuyệt đối duy trì nỗi sợ hãi để họ không bao giờ có đủ ý chí mà nổi loạn.

    2. Phải giữ cho cái gọi là “phong trào dân chủ đối lập” không thể trở thành phong trào đúng nghĩa, không thể bén rễ và lan rộng. Phải làm sao để nó chỉ là hoạt động manh mún, rời rạc, tự phát của các cá nhân đơn lẻ; làm cho có nhiều “lãnh tụ” mà ít hoặc không có quần chúng; có nhiều “nhân sĩ trí thức” mà ít hoặc không có một tổ chức nào có thực lực; có nhiều những hoạt động lãng mạn hời hợt có tính phô trương mà người dân có biết đến cũng chỉ mỉm cười ý nhị chứ ít hoặc không có những hoạt động thiết thực có tầm mức ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội; có thật nhiều những hoạt động “chống cộng cực đoan” có tính chất phá hoạt từ bên trong, gây phản cảm đối với người dân lao động, thậm chí làm cho những gia đình cách mạng và đội ngũ cựu chiến binh phẫn nộ … Tóm lại, phải làm cho người dân nếu không quay lưng thì cũng thờ ơ với cái gọi là “đấu tranh dân chủ”. Cụ thể như thế nào thì tôi đã có dịp trình bày.

    3. Phải chủ động trong việc nâng cao dân trí để làm bàn đạp mà phát triển kinh tế, nhưng lại phải lèo lái để “dân trí cao” không đồng nghĩa với “ý thức dân chủ cao”. Phải làm sao để chất lượng giáo dục bậc đại học được cải thiện nhưng đa số sinh viên phải trở nên thực dụng hơn, có tinh thần “entrepreneurship” khao khát tiền bạc và công danh, mạo hiểm và sáng tạo trong kinh doanh, cầu tiến trong sự nghiệp riêng, tôn thờ Bill Gates và chủ nghĩa tiêu thụ nhưng đồng thời cũng tuyệt đối thờ ơ với những lý tưởng và hoài bão cải biến xã hội, xa lạ với những tư tưởng trừu tượng viễn vông, tìm kiếm những giải pháp cá nhân thay cho ý thức công dân, và đặc biệt là tránh xa âm mưu thay đổi chế độ.

    4. Phải chủ động trong việc mở rộng xã hội dân sự, thuần phục và trung hòa giai cấp trung lưu đang lớn mạnh (gọi là “co-optation”)… Làm sao để trong mỗi tổ chức dân sự đều có chân rết của ta. Các tổ chức trung gian như mặt trận Tổ quốc, công đoàn, hội phụ nữ, các hội cựu chiến binh, các câu lạc bộ hưu trí … phải phát huy vai trò tối đa trong việc trung hòa những nhân tố nguy hiểm, điều hòa những xung đột nếu có giữa nhà nước và xã hội, giảm thiểu sự bất mãn của dân chúng … Làm sao để xã hội dân sự vẫn được mở rộng nhưng theo hướng có kiểm soát của chúng ta, chứ không trở thành mối đe dọa.

    Quan trọng hơn cả là chúng ta phải tiếp tục nuôi dưỡng nỗi sợ hãi – dù chỉ là nỗi sợ mơ hồ trong tiềm thức; nhưng đồng thời cũng không để cho nhân dân cảm thấy tuyệt vọng. Cho dù người dân có bất mãn về chuyện này chuyện kia thì vẫn làm cho họ nuôi hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Và phải làm điều này một cách hết sức tinh vi, kiên nhẫn, đôi lúc phải can đảm cắt bỏ những khối u trong đảng để làm nguội bớt nỗi tức giận của nhân dân.

    Trong trường hợp này thì việc thả Nguyễn Việt Tiến và việc bắt giam hai nhà báo là sai lầm. Lẽ ra chúng ta phải không tiếc một số ít các đồng chí tham lam quá mức, biến họ thành dê tế thần để giành lại niềm tin của nhân dân, hoặc ít nhất cũng làm họ giảm bất mãn, trong nỗ lực chống tham nhũng của chúng ta.

    Một người bất mãn cực độ là một người nguy hiểm. Một người tuyệt vọng đôi khi còn nguy hiểm hơn. Một người lạc quan, nhiều hy vọng, thì thường cũng là một người dễ bảo, yêu chuộng sự ổn định và do đó không có ý định phản kháng.

    Chúng ta phải biết dùng mồi để nhử, đánh vào thói tham lam ích kỷ lẫn thói háo danh của người đời, vừa phải làm sao để tinh thần thực dụng và chủ nghĩa mánh mung chụp giật trở thành bản tính của dân tộc; vốn đã rã rời về ý chí, tan vỡ về niềm tin, chán ngán các loại ý thức hệ; nhưng đồng thời cũng phải chuẩn bị sẵn những cái van để dân chúng có chỗ giải tỏa ẩn ức.

    Tuyệt đối không để sự bất mãn trong xã hội tích tụ lại vượt quá ngưỡng kiểm soát của chúng ta. Kiên quyết tiêu diệt mọi mầm mống có khả năng dẫn đến các loại hoạt động đối kháng có tổ chức, có sự phối hợp rộng rãi; tuyệt đối ngăn chặn khả năng huy động được đông đảo quần chúng tham gia.

    Chúng ta phải nghiên cứu tất cả những tư tưởng gia vĩ đại trong việc chiếm đoạt quyền lực và duy trì vị trí độc tôn, từ Tôn Tử, Ngô Khởi, Trương Tử Phòng, Lý Tư … và Mao Trạch Đông ở phương Đông, cho đến Machiavelli; tác giả cuốn cẩm nang “The Prince” nổi tiếng ở phương Tây, thậm chí cả Napoleon, Hitler, Stalin … hoặc Hugo Chavez thời nay. Tất cả đều có những điều rất đáng để chúng ta học hỏi, từ nghệ thuật mị dân cho đến những thủ đoạn cứng – mềm linh hoạt trong việc đối phó với địch, và cả những sai lầm chiến thuật của các vị này.

    Phải làm sao để chúng ta vẫn trấn áp được đối lập dân chủ, nhưng vẫn không làm sứt mẻ quan hệ ngoại giao đang ngày một tốt hơn với Hoa Kỳ và phương Tây – vốn là những kẻ đạo đức giả, duy lợi và thực dụng nhưng thích rao bán tấm áo “dân chủ tự do” cùng với những khẩu hiệu cao đẹp khác.

    Tuy nhiên, chúng ta cần phải khái quát những luận điểm của Machiavelli để có thể áp dụng cho một chế độ, một đảng phái có cơ cấu phức tạp, chứ không phải là một nhà độc tài quân phiệt giản đơn.

    Một nhà độc tài dù tàn độc đến đâu, ranh ma đến đâu, thì cũng chỉ là một kim tự tháp trên sa mạc, tĩnh lặng và không tiến hóa; nên trước sau cũng sẽ để lộ sơ hở chết người.

    Nhưng một đảng chuyên quyền thì luôn luôn biến động, thay đổi và lớn lên không ngừng; biết bù đắp khiếm khuyết, che dấu yếu điểm, phô trương sức mạnh một cách vô cùng linh động … và đặc biệt có đủ tài lực và nhân lực để lan tỏa chân rết đến mọi ngõ ngách của xã hội, kiểm soát cả dạ dày lẫn linh hồn của nhân dân.

    Bác Hồ (hay có thể là bác Lê Nin) đã dạy: người cách mạng phải không ngừng học hỏi, học từ nhân dân và học từ kẻ địch; phải không ngừng tiến hóa về mặt tư duy lẫn thủ đoạn để sống sót mà vươn lên trong bất cứ hoàn cảnh nào; phải luôn uyển chuyển và linh động để sẵn sàng thay máu đổi màu khi cần thiết, thậm chí sẵn sàng đào thải cả những đồng chí quá tham lam và ngu dốt có hại đến lợi ích chung của đảng. Đối với địch thủ thì phải thiên biến vạn hóa, ranh ma tàn độc đủ cả … và đặc biệt phải biết dùng hình nộm kết hợp với thủ đoạn đấu bò tót kiểu Tây Ban Nha để thu hút ám khí và sừng bò của đối thủ.

    Trong lúc đối thủ tiêu hao lực lượng vì đánh vào những hình nộm rơm, hoặc phung phí thời gian và sức lực vào những mục tiêu viễn vông, thì chúng ta lạnh lùng quan sát, phân tích thấu đáo địch tình, ra đòn bất ngờ và hợp lý để địch chết không kịp ngáp.

    Đặc biệt chúng ta ngầm khuyến khích những hành động tự sát theo kiểu “không thành công cũng thành nhân”, tất nhiên là phế nhân. Chúng ta cũng phải biết lắng nghe những phê phán của địch thủ mà thay đổi cho thích hợp. Kẻ đối địch luôn có những bài học quí giá mà chỉ có những người bản lĩnh và khôn ngoan mới nhìn ra.

    Nếu kẻ địch lãng mạn viễn vông với những khẩu hiệu trừu tượng như “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do” … thì chúng ta phải thực tế với những tiêu chí cụ thể như “ổn định xã hội”, “tăng trưởng kinh tế”, “xóa đói giảm nghèo”…

    Nếu kẻ địch hô hào những điều khó hiểu du nhập từ phương Tây như “đa nguyên”, “đa đảng”, “pháp trị”, “khai phóng”… thì chúng ta phải tích cực cổ vũ mô hình Nhân Trị của đấng Minh Quân, nhưng ở đây Minh Quân phải được hiểu là đảng cộng sản, cũng như đề cao những “giá trị Á châu” một cách khéo léo.

    Phát Huy dân chủ cơ sở tập trung. Chúng ta cũng phải phát huy “dân chủ cơ sở”, “dân chủ tập trung”, “dân chủ trong đảng”… để làm sao cho dân thấy đảng không phải là cái gì đó cao xa vời vợi, mà đảng cũng là dân, ở ngay trong dân, từ dân mà ra, đã và đang đồng hành cùng với dân.

    Phải cho dân thấy là nếu đảng có xe hơi thì dân cũng có hon đa – chứ không phải đi bộ; nếu đảng có đô la thì dân cũng có tiền in hình Bác đủ tiêu xài – chứ không quá túng thiếu; nếu đảng có cao lương mỹ vị thì dân cũng có gạo ăn – không chết đói mà còn dư thừa để đem xuất khẩu.

    Đặc biệt là phải tích cực tuyên truyền và giải thích để người dân hiểu được ý nghĩa của “dân chủ” theo cách có lợi cho chúng ta: “dân chủ” nghĩa là đảng luôn lắng nghe dân, phản ánh ý nguyện của dân (phần nào thôi) qua những chính sách vĩ mô và vi mô, thỏa mãn niềm tự ái của dân vì được dạy dỗ đảng, cũng như kích thích lòng tự hào dân tộc của dân để hướng nó vào những kẻ thù mơ hồ dấu mặt ở bên ngoài.

    Đối thủ của chúng ta thường lãng mạn và nhiều nhiệt tình nhưng ít chịu học hỏi, hoặc nếu có học thì chỉ qua quýt đủ để thuộc lòng những khẩu hiệu trừu tượng như “nhân quyền”, “dân chủ”… rồi nhai đi nhai lại làm dân chúng phát nhàm. Nói chung, đối thủ của chúng ta thường chỉ biết đến một số cuốn cẩm nang về dân chủ có ngôn từ rất kêu, rất đẹp, nhưng nghèo nàn về phương pháp thực tế, lẫn lộn giữa cứu cánh và phương tiện.

    Ngược lại, chúng ta cần phải tích cực nghiên cứu sâu sắc những trước tác của các học giả phương Tây về khoa học chính trị và kinh tế học. Chúng ta phải nhận thức được đã có rất nhiều những nghiên cứu khoa học về mối quan hệ biện chứng giữa “thể chế chính trị” và “phát triển kinh tế”.

    Hai phạm trù “dân chủ” và “phát triển” có quan hệ hết sức phức tạp, phi tuyến, chứ không phải là quan hệ nhân – quả. Nghiên cứu kỹ về vấn đề này sẽ rất có lợi cho chúng ta trong việc chủ động phát triển kinh tế mà không cần phải “dân chủ hóa”.

    Chúng ta cũng phải nhìn nhận một thực tế là: phát triển kinh tế làm phát sinh một số yếu tố hiểm nguy cho chế độ. Tuy nhiên, điều này còn tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, tùy thuộc vào khả năng “tháo ngòi nổ” của chúng ta, cũng như khả năng khai thác những yếu tố hiểm nguy này của đối lập dân chủ.

    Chẳng hạn, học giả Daron Acemoglu của đại học MIT danh tiếng đã có nhiều phân tích về “nguồn gốc kinh tế của các chế độ độc tài và dân chủ”. Trong đó ông đã chỉ ra rằng phát triển kinh tế kèm theo việc phân bố của cải vật chất một cách tương đối công bằng, đồng thời với việc nới lỏng một cách chừng mực những tự do dân sự, thì bất mãn của xã hội sẽ không quá cao, do đó hoàn toàn có thể duy trì chế độ độc tài mà vẫn thúc đẩy kinh tế phát triển. Đó là trường hợp của Singapore, điển hình của một nhà nước độc tài sáng suốt.

    Một ví dụ nữa là những nghiên cứu của Bruce Bueno de Mesquita, đã chỉ ra cho chúng ta những kinh nghiệm quí báu trong việc đàn áp cái gọi là “coordination goods”, tức là những yếu tố vốn không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, nhưng nếu được vận dụng bởi đối lập dân chủ thì lại trở thành những vũ khí đáng sợ. Đó là nghệ thuật “đàn áp có chọn lọc” mà tôi đã có dịp phân tích.

    Giới trẻ và sinh viên học sinh: Một kết quả bất ngờ mà theo tôi cũng là một kinh ghiệm quí trên mặt trận tuyên truyền nhồi sọ; việc chúng ta bắt ép sinh viên phải học tập chủ nghĩa Marx Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã đem lại những kết quả ngoài mong uớc.

    Thanh công của chúng ta không phải đã đạt được mục đích ban đầu là làm cho thế hệ trẻ tôn thờ thứ chủ nghĩa mà ngay cả chúng ta cũng không tin. Ngược lại, thành công của chúng ta là đã làm cho thế hệ trẻ chán ngán đến tận cổ khi phải học mãi một thứ ý thức hệ lỗi thời, bị nhồi nhét đến phản cảm những tư tưởng cũ kỹ. Nhờ vậy chúng ta đã đào tạo ra một thế hệ trẻ thờ ơ vô cảm với tất cả các loại tư tưởng và ý thức hệ, chai sạn với lý tưởng và hoài bão mà thanh niên thường có, trở nên thực dụng và ích kỷ hơn bao giờ hết.

    Thế hệ trẻ hôm nay, ngoài cái đức tính thực dụng và tinh thần chụp giật, cũng như niềm khao khát tiền bạc, công danh, ám ảnh bởi chủ nghĩa hưởng thụ, thì chỉ còn le lói “tinh thần dân tộc” vẫn còn sót lại trong máu huyết của mỗi người Việt.

    Đây là con dao hai lưỡi, là con giao long đang nằm yên, mà chúng ta cần phải biết lèo lái một cách khôn ngoan để không xảy ra một tiểu Thiên An Môn ở Ba Đình. Dưới chế độ chuyên chế nào cũng vậy, sinh viên và trí thức trẻ luôn luôn là những kẻ nguy hiểm nhất, là ngòi nổ của quả bom, là kíp mìn hẹn giờ, là hạt nhân của các phong trào đấu tranh. Các cuộc cách mạng nhằm lật đổ chế độ độc tài bao giờ cũng do sinh viên và trí thức dẫn đầu; công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động khác chỉ là sức mạnh cơ bắp. Chỉ có trí thức và sinh viên mới đủ lý luận để huy động được đông đảo quần chúng, mới có lý tưởng để dấn thân, và mới có khả năng tổ chức và phối hợp.

    Triệt tiêu được những phong trào sinh viên, cô lập được những trí thức phản kháng, chính là đánh vào đầu não chỉ huy của địch. Những thứ còn lại như “dân oan biểu tình”, “công nhân đình công”… chỉ là cơ bắp của một cơ thể đã bị liệt não.

    Như trên đã nói, chúng ta đã thành công trong việc làm cho sinh viên trở nên lãnh cảm về các loại ý thức hệ, thờ ơ với những tư tưởng tự do khai phóng từ phương Tây. Chúng ta chỉ còn phải đối phó với tinh thần dân tộc của sinh viên đang có nguy cơ thức dậy, mục đích là để nó ngủ yên, nếu không phải lèo lái nó theo hướng có lợi cho chúng ta.

    Trí thức


    * Đối với tầng lớp trí thức, những biện pháp “vừa trấn áp vừa vuốt ve” từ xưa đến nay đã đem lại kết quả khả quan. Chúng ta đã duy trì được một tầng lớp trí thức hèn nhát, háo danh, và nếu không quá ngu dốt thiển cận thì cũng chỉ được trang bị bởi những kiến thức chắp vá, hổ lốn, lỗi thời.

    * Nói chung, đa số trí thức của chúng ta đều hèn, đều biết phục tùng theo đúng tinh thần “phò chính thống” của sĩ phu xưa nay. Phần lớn những kẻ được coi là trí thức cũng mang nặng cái mặc cảm của việc học không đến nơi đến chốn, ít có khả năng sáng tạo, và so với trí thức phương Tây về cả tri thức lẫn dũng khí đều cách xa một trời một vực.

    * Trí thức của chúng ta vẫn mãi mãi giữ thân phận học trò, kiểu sĩ hoạn mơ ước được phò minh chủ, hanh thông trên đường hoạn lộ, chứ không bao giờ vươn lên thành những nhà tư tưởng lỗi lạc.

    * Tầm mức ảnh hưởng của trí thức đến xã hội không đáng kể, không dành được sự kính trọng từ các tầng lớp nhân dân, thậm chí còn bị người đời khinh bỉ bởi sự vô liêm sỉ và thói quen ném rác vào mặt nhau.

    * Chỉ có một số ít trí thức vượt qua được cái vỏ ốc hèn nhát, nhưng thường là quá đà trở nên kiêu ngạo tự mãn, coi mình như núi cao sông sâu, là lương tâm thời đại. Những người này quả thật có dũng khí, nhưng cũng không đáng sợ lắm bởi đa phần đều có tâm mà không có tài, có đởm lược mà ít kiến thức.

    * Đa phần trong số này cũng chỉ đến khi về hưu mới thu gom được dũng khí mà ra mặt đối đầu với chúng ta, do đó sức cũng đã tàn, lực cũng đã kiệt. Một số ít trẻ trung hơn, nhiệt huyết còn phương cương, thì lại chưa có kinh nghiệm trường đời, chưa được trang bị lý luận chu đáo, chưa có kiến thức về dân chủ sâu rộng. Với những kẻ này chúng ta đàn áp không nương tay, bỏ tù từ 3 đến 7 năm. Đó là phương cách giết gà từ trong trứng.

    Thử tượng xem một tài năng trẻ phải thui chột những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời trong lao tù, cách ly với môi trường học ấn, gặm nhấm nỗi cô đơn thay cho việc học hành nghiên cứu, thì sao có thể phát triển hết khả năng? Khi ra tù thì cũng đã quá tuổi trung niên, mệt mỏi, chán chường. Nếu vẫn còn dũng khí thì cũng đã tụt hậu về kiến thức, bị trì néo bởi gánh nặng gia đình, còn làm gì được nữa?

    Với những phân tích như trên tôi cho rằng chế độ của chúng ta vẫn còn bền vững ít nhất thêm hai mươi năm nữa. Nhưng thời thế đổi thay. Chúng ta không thể kiêu ngạo mà tin rằng sẽ trường tồn vĩnh viễn.

    Chúng ta luôn học hỏi và thay đổi để sống còn và vươn lên, nhưng cũng nên biết rằng đối thủ của chúng ta có lẽ cũng không quá ngu ngốc. Nếu kẻ địch cũng nhìn ra được mạnh, yếu của chúng ta, cũng biết tự đổi thay để thích nghi, cũng biết học cách đấu tranh có phương pháp, có tổ chức, có chiến lược… thì chuyện gì sẽ xảy ra sau hai mươi năm nữa thật khó mà biết được.

    Đó là một cuộc đua đường trường mà kẻ nào dai sức hơn, bền chí hơn, khôn ngoan hơn, thì sẽ đến đích trước.

    Chúc các đồng chí chân cứng đá mềm và luôn nhớ lời dạy của Hồ Chủ Tịch: “khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

    Nguồn: http://www.hoivanhoanguoiviettudo.com/


    Monday, May 11, 2009

    CHẾ LINH VÀ NGƯỜI LÍNH “HÈN”

    CA SĨ CHẾ LINH VÀ NGƯỜI LÍNH “HÈN”

    Người Lính Hèn

    “Thưa các bạn, để trở lại chương trình phần 2, tôi xin hát tặng các bạn những bài hát về LÍNH, do lời yêu cầu. Mặc dù tôi không phải là Lính trước đây, những bài hát này không phải chỉ dành riêng cho LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA, mà xin tặng luôn cho các anh lính bộ đội, đặc biệt là anh Hải Bộ Đội có lời yêu cầu tôi. Vì theo tôi, người Lính nào cũng đáng ca tụng vì cùng hoàn cảnh chiến tranh phải đi lính mà thôi”

    Đó là những gì mà ca sĩ Chế Linh đã phát biểu mà tôi không hề thêm bớt, vào buổi tối Thứ Sáu, ngày 1 tháng 5 năm 2009, trước khá đông thực khách ở nhà hàng Đại Dương, Hopkins Street, Footscray Victoria Australia.

    Là một người Lính Việt Nam Cộng Hòa trước đây, tôi chợt nhói buốt con tim, nhìn quanh đám thực khách nhà hàng xa lạ vô tư: Phía trước mặt tôi là những bàn tiệc của các vị thương gia quen mặt đang cụng ly vui cười hể hả. Kế đó là các bàn của bạn bè bộ đội Hải đang phì phèo thuốc lá, mặc dầu lệnh cấm hút thuốc trong nhà hàng của chính phủ. Họ vỗ tay hoan hô nồng nhiệt lời phát biểu của ca sĩ Chế Linh.

    Tôi bỏ dở bữa ăn cuối tuần, cùng vợ bước ra khỏi nhà hàng, lòng vừa đau, vửa giận mình HÈN, không có can đảm bước lên sân khấu cướp micro để có đôi lời với người ca sĩ này.

    Bông dưng phía sau tôi có tiếng ồn ào: Độ ba, bốn thanh niên vừa kéo một người bạn ra ngoài cửa, vửa can ngăn:

    - Ông đừng nóng, bây giờ mà ông lên lấy micro, nóng nẩy la lối là phiền lắm đó!

    - Nhưng các ông phải để cho tôi nói chứ! Nơi đây là Cộng Đồng Tỵ Nạn, cớ sao lại nhập các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa với bọn bộ đội Việt Cộng? Lính VNCH chiến đấu để giành tự do dân chủ đất nước. Còn lính VC chúng chỉ chiến đấu cho chủ nghĩa cộng sản.

    Người bạn trẻ nóng tính cố gắng dằng tay những người bạn can mình đễ hướng miệng vào cửa nhà hàng trong cơn giận dữ.

    Tôi tưởng có một mình tôi tôi bất bình, không ngờ lại có các bạn trẻ cùng chia xẻ nỗi đau này. Tôi tiến tới nhóm bạn trẻ này, ôn tồn khuyên can:

    - Bọn chúng đông lắm, các em nóng nẩy sẽ sinh chuyện lớn, phiền lắm.

    Sau một hồi thảo luận, nhóm bạn trẻ này đồng ý giải pháp cùng trở lại bàn ăn để yêu cầu ban tổ chức cho lên sân khấu phảt biểu cảm tưởng về lời nói của ca sĩ Chế Linh. Một người trong bọn nói với tôi:

    - Chú đừng về, hãy theo tụi cháu vô để hỗ trợ tụi cháu. Bảo đảm với chú, sẽ không có chuyện gì gây gỗ, đánh nhau đâu.

    Tôi cùng đám bạn trẻ này bước trở vào nhà hàng. Nhưng trong khi chờ đợi, vợ tôi, vì lo cho tuổi già sức yếu của tôi, nên đã kéo tôi đi về, nên tôi đã không biết các bạn trẻ của tôi đã hành động ra sao?

    Hỡi ơi! Tên lính già khiếp nhược! Thực đáng phỉ nhổ!

    Tôi xin lỗi các bạn. Xin cúi đầu tạ lỗi!

    Thưa quý bạn và các bạn trẻ,

    Bài viết này, lại thêm một lần nữa lấy ẩn danh là “Người lính hèn”, với mục đích tạ lỗi cùng các bạn, đã hèn hạ chạy trốn trong lúc bầu máu nóng của các bạn đang cố giành lại danh dự cao đẹp nhất cho những người lính năm xưa , thới mà các bạn còn là những đứa trẻ đùa giởn trong sân trường hoặc là những sinh viên đang mài đũng quần trước ngưỡng cửa đại học.

    Và bài viết nầy mong rằng sẽ được đưa lên báo chí và internet xin lên tiếng với cộng đồng hải ngoại như lời trần tình cùng ca sĩ Chế Linh, một trong những “Tứ Đại Danh Ca” mà ông Nam Lộc đã từng coi trọng trong những show diễn âm nhạc do ông làm MC.

    (Thực sự, tôi đã đưa tên và địa chỉ cho ban biên tập để dễ bề đối chiếu và liên lạc).

    Thưa quý bạn đọc,

    Thực ra, xưa nay, tôi chưa từng ái mộ mà thậm chí còn ghét cay ghét đắng tiếng hát Chế Linh mà trước đây, ngày còn trong lính, chúng tôi thường gọi nháy đi là “Lính Chê”. Theo tôi, những bài hát do ông sáng tác, toàn là loại nhạc “SẾN” qua tiếng hát của Chế Linh nỉ non ai oán dễ đưa nguời lính tác chiến buồn thảm, nhớ nhà, buông súng đầu hàng giặc hoặc đào ngũ. Do đó, có dạo Bộ Thông Tin Chiêu Hồi và Tổng cục Chiến Tranh Tâm Lý đã ra lệnh cấm tiếng hát Chế Linh trên các đài truyền thanh, truyền hình.

    Sau những năm tháng tù đầy rồi vượt thoát ra được hải ngoại, tôi lại bắt gặp được hình ảnh Chế Linh qua các video, DVD do các trung tâm băng nhạc phát hành, vẫn với các âm điệu nhạc “SẾN” nỉ non, ai oán của một kẻ thất tình hoặc anh lính xa nhà nhớ vợ con. Nhưng tôi đã thay đổi phần nào những điều mình không thích năm xưa: Phần vì qua hình ảnh những bộ đồ lính trận ông mặc trong các show diễn rất chỉnh, rất giống những bộ quân phục chúng tôi đã mặc ngày xưa, và những bài hát tôi đã ghét cay ghét đắng ngày xưa bây giờ lại giúp tôi gợi nhớ lại những hình ảnh khó phai mờ của các chiến hữu của tôi ngày nào nghêu ngao trong các “Đồn vắng chiều xuân”. Phải nói, cung cách và những lời phát biều của Chế Linh trong các show ca nhạc đã quay thành DVD làm cho tôi có phần nào đã có chút cảm tình với anh.

    Vừa qua, trên báo chí và internet có những bài viết chỉ trích và chê trách anh về việc anh về lại Việt Nam xin phép chính quyền Cộng Sản cho phép anh hát lại. Thực sự, điều này tôi có đọc qua và không mấy quan tâm vì cá nhân tôi thông cảm hoàn cảnh sinh sống và nghề nghiệp của các ca sĩ hải ngoại khi về già: Tiếng hát của họ đã hết thời, quá nhàm chán với khán thính giả hải ngoại, lại còn bị giới trẻ đang lên lấn áp dành chỗ đứng. Các show lưu diễn chẳng còn ai mời mọc nữa, nên đành về kiếm sống trong nước vậy! Kể cả bọn linh già chúng tôi cũng có người mỗi năm ky cóp ít tiền còm pension và nhục nhã đem thân về quê nhà mà quên đi nỗi thù vong quốc.

    Nhưng hôm nay, tôi xin thưa với anh Chế Linh, cứ như tối thứ Sáu vừa qua, anh cứ hát, cứ ca, cứ thân tình với khán thính giả trong giới hạn của người nghệ sĩ với giới mộ điệu, đừng nói những lời nói có vẻ sỉ nhục người lính VNCH, xếp họ ngang hàng với bọn Việt Cộng, thì mọi người ra về lòng thơ thới hân hoan, vui biết mấy,

    Thế mà anh nỡ lòng nào đem những bài hát ngày xưa để tặng cho các bộ đội và lại còn nói “Lính nào cũng giống nhau”.

    Giả sử đây là buổi diễn trong nước, anh có dám tặng các bộ đội bài hát “Đêm buồn tỉnh lẻ” hoặc “Trên bốn vùng chiến thuật” hay chăng?

    Thưa anh Chế Linh, anh đang sống trong một đất nước tự do dân chủ, anh lại có cơ hội đi lưu diễn khắp các nơi và anh đã lợi dụng cái tự do này đễ khuynh đảo cả một trật tự lương tâm của con người. Tôi nghĩ, anh là một nghệ sĩ lớn, chắc anh cần giữ tiếng thơm đời đời chứ không cần tiền đâu. Tôi đề nghị, nếu mai đây có dịp gặp lại các bộ đội hào sảng bao anh ăn nhậu, biếu xén tiền bạc, anh cố học thêm vài bài hát như “Tiếng chầy trên sóc Bombo” hoặc “Cô gái tải đạn” mà tặng cho họ, thì quý giá hơn biết chừng nào. Chẳng ai dám chỉ trích, làm khó dễ anh đâu. Còn những bài hát ngày xưa, hoặc do anh, hoặc do các nhạc sĩ khác sáng tác, đó là những tâm tư, tình cảm của các anh dành cho các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, xin anh giữ lại như chút lòng tri ân của chúng tôi.

    Thưa anh Chế Linh,

    Đau lắm, anh ạ! Chúng tôi, những người lính thua trận, sau những năm tháng tù đày và nhục nhã bị đối phương tàn nhẫn trả thù, chúng tôi đã mất tất cả. Giờ đây chúng tôi đang cố gắng chữa lại vết thương lòng rướm máu, chúng tôi chỉ còn chút quá khứ ôm ấp để làm niềm vui và hãnh diện với con cháu mai sau.

    Xin anh, hãy cho chúng tôi chỗ dứng riêng với các bộ đội của anh.

    Thưa các bạn trẻ ở nhà hàng Đại Dương đêm Thứ Sáu 01 05 2009 vừa qua, tôi vẫn còn nhớ những gương mặt quả cảm của các bạn. Hai đêm nay tôi thao thức nhớ lại cơn giận dữ của các bạn vì lời phát biểu làm nhục các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa của ca sĩ Chế Linh, để kính phục tuổi trẻ của các bạn. Đáng lý ra, tôi phải là người cùng các bạn tiến lên sân khấu để nói chuyện phải quấy với ông bạn “Đại Danh Ca” này, rồi tới đâu thì tới. Nhưng tôi đã hèn hạ chuồn sớm.

    Một lần nữa, xin các bạn tha thứ cho tên lính già hèn mọn này.

    Bài viết của: Người Lính Hèn
    (Tên thật và địa chỉ đã được gởi cho tòa báo Việt Luận cùng với thư này).
    (Nguồn Vietluan)