Friday, May 15, 2009

VIỆT NAM ĐẦU HÀNG ĐẠI HÁN? - Luật sư Nguyễn Hữu Thống

Xin gửi quý vị và các bạn bản cáo giác đính kèm và yêu cầu phổ biến rộng rãi cho các giới đồng bào trong và ngoài nước. Xin quý vị và các bạn tham gia ý kiến về vấn đề trọng đại này.
Chúng tôi xin thành thật cảm tạ.
    KÍNH NHỜ PHỔ BIẾN VỀ VIỆT NAM
Luật sư Nguyễn Hữu Thống
nguyenhthong@earthlink.com
*
* *
    VIỆT NAM ĐẦU HÀNG ĐẠI HÁN?
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống

Ngày 7-5 vừa qua Chính Phủ Hà Nội đã đệ trình đơn đăng ký từng phần (partial submission) để yêu cầu Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc cho Việt Nam mở rộng thềm lục địa pháp lý 200 hải lý (370km) thành thềm lục địa mở rộng hay thềm lục địa địa chất tới mức 350 hải lý (650 km) chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982.

Đơn đăng ký đã được đệ nạp trong thời hạn luật định và sẽ được Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc đăng đường vào khóa họp tại Nữu Ước từ trung tuần tháng 8 đến trung tuần tháng 9 tới đây. Sau khi cứu xét hồ sơ căn cứ vào những tiêu chuẩn đặc thù ghi trong Bản Cương Lĩnh về Khoa Học Kỹ Thuật ngày 13-5-1999, Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa sẽ công bố những khuyến cáo có hiệu lực chấp hành chung quyết buộc các quốc gia đăng ký phải tôn trọng và thi hành.

Về mặt pháp lý, chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, tại Biển Đông Nam Á hay Biển Đông, các quốc gia duyên hải như Trung Quốc, Việt Nam, Nam Dương, Mã Lai, Brunei, Phi Luật Tân được hưởng quy chế thềm lục địa pháp lý rộng 200 hải lý từ biển lãnh thổ ra khơi. Chiếu Điều 77 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển thềm lục địa 200 hải lý thuộc chủ quyền tuyệt đối và đặc quyền chuyên hữu của quốc gia duyên hải trong việc thăm dò và khai thác dầu khí.

Mọi sự xâm chiếm dầu có võ trang hay không của ngoại bang đều vô giá trị và vô hiệu lực. Chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam tại các thềm lục địa Hoàng Sa và Trường Sa không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm cứ (occupation) , thăm dò (exploration) , khai thác (exploitation) hay công bố minh thị (express proclamation) . Do đó dầu không còn chiếm cứ 13 đảo tại Hoàng Sa từ 1974, và một số đảo, cồn , đá, bãi tại Trường Sa từ 1988, Việt Nam vẫn không mất chủ quyền lãnh thổ tại các hải đảo này.

Tại quần đảo Hoàng Sa về phía đông bắc có 7 đảo thuộc Nhóm An Vĩnh (Amphitrite) là các đảo Phú Lâm, Lincoln, đảo Cây, đảo Hòn Đá, đảo Bắc, đảo Trung và đảo Nam. Về phía tây nam có 6 đảo thuộc Nhóm Lưỡi Liềm (Crescent, tiếng Pháp là Croissant) là các đảo Hoàng Sa, Quang Hòa, Duy Mộng, Quang Ảnh, Hữu Nhật và Trí Tôn. Các hải đảo này nằm trên thềm lục địa Việt Nam
tại các Vỹ Tuyến 17-16-15 cách bờ biển Việt Nam khoảng 160 hải lý. Riêng đảo Trí Tôn phía cực nam tọa lạc tại Vỹ Tuyến 15.47 Bắc cách Quảng Ngãi 135 hải lý.Theo Tòa Án Quốc Tế The Hague muốn thủ đắc chủ quyền các đảo vô chủ, phải có sự chiếm cứ hòa bình trong một thời gian liên tục và trường kỳ.

Tháng 1-1974 thừa dịp quân lực Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam, Trung Quốc đã dùng võ trang xâm chiếm 6 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm Lưỡi Liềm. Trước đó, vào cuối năm 1946, thừa dịp Hải Quân Pháp rút khỏi Biển Đông, Trung Quốc đã xâm chiếm bất hợp pháp 7 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm An Vĩnh. Sự chiếm cứ võ trang này đi trái với án lệ cố định của Tòa Án Quốc Tế The Hague cũng như trái với Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.

Hơn nữa từ thế kỷ 16 dưới đời Nhà Nguyễn Xứ Đàng Trong, kế đến đời Nhà Nguyễn Tây Sơn và Quốc Gia Việt Nam thống nhất đời Nhà Nguyễn Gia Long, Việt Nam đã chiếm cứ ôn hòa, trường kỳ và liên tục các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời minh thị công bố chủ quyền và hành sử chủ quyền tại các quần đảo này. Như vậy các hải đảo của Việt Nam tại Biển Đông không phải là đất vô chủ (terra nullius) vì thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam liên tục ít nhất từ 5 thế kỷ nay.

Năm 1949, do Hiệp Định Elysee, Pháp trao trả chủ quyền độc lập và thống nhất cho Quốc Gia Việt Nam với sự toàn vẹn lãnh thổ từ Nam Quan đến Cà Mâu. Lãnh thổ có nghĩa là đất liền, hải phận và không phận. Như vậy không có sự chối cãi rằng Quốc Gia Việt Nam đã thủ đắc chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Sự xâm chiếm Biển Đông bằng võ trang của Quân Đội Trung Quốc trong những năm 1946, 1974 và 1988 không được Tòa Án và Luật Pháp nhìn nhận. cũng như sự xâm chiếm võ trang các hải đảo tại Biển Đông của Quân Đội Nhật Bản thời Thế Chiến II.

Năm 1951, 51 quốc gia đồng minh tham dự Hội Nghị San Francisco để ký Hiệp Ước Hòa Bình và Tái Thiết Nhật Bản. Tại Hội Nghị Nhật Bản tuyên bố khước từ chủ quyền tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhưng không nói để trả cho nước nào. Trong Dự Án Hiệp Ước Hòa Bình San Francisco 1951, các quốc gia đồng minh tham dự Hội Nghị chỉ quyết định trao trả cho Trung Quốc đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ tại Thái Bình Dương.

Trong một phiên họp khoáng đại Ngoại Trưởng Liên Sô đệ nạp bản Tu Chính Án yêu cầu Hội Nghi trao cho Trung Quốc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên tu chính án của Liên Sô đã bị Đại Hội bác bỏ với 46 phiếu chống và 3 phiếu thuận. Sau đó trưởng phái đoàn Quốc Gia Việt Nam là Thủ Tướng Trần Văn Hữu đã lên diễn đàn công bố chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp sự phản kháng nào, kể cả của Liên Sô (lúc này là quốc gia đồng minh với Anh, Mỹ, Pháp và Trung Hoa từ thời Thế Chiến II).

Năm 1954, 7 quốc gia tham dự Hội Nghị Geneva về Việt Nam trong đó có ngũ cường Anh, Mỹ, Pháp, Liên Sô và Trung Quốc cùng 2 nước Việt Nam là Quốc Gia Việt Nam (Miền Nam) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc). Anh Quốc và Liên Sô là đồng chủ tịch Hội Nghị. Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 một lần nữa đã minh thị xác nhận chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Quốc Gia Việt Nam từ Vỹ Tuyến 17 vào Nam (Quảng Trị-Cà Mâu).

Điều 4 Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 quy định như sau:

Giới tuyến giữa Miền Nam và Miền Bắc kéo dài ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển. Quân đội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải rút khỏi tất cả các hải đảo về phía Nam giới tuyến (Vỹ Tuyến 17) để trao trả chủ quyền các hải đảo này (tại Hoàng Sa và Trường Sa) cho Quốc Gia Việt Nam (năm 1954) và Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1955. Các hải đảo này tọa lạc từ Vỹ Tuyến 17 (Quảng Trị) đến Vỹ Tuyến 7 (phía Đông Nam Cà Mâu)

Năm 1954 Pháp và Trung Quốc đã chủ xướng triệu tập Hội Nghị Geneva về Việt Nam với Liên Sô và Anh Quốc là đồng chủ tịch Hội Nghị. Như vậy về mặt quốc tế công pháp Trung Quốc có nghĩa vụ phải tôn trọng và thi hành những điều khoản của Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954, đặc biệt là Điều 4 xác nhận chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    VỀ ĐƠN THỈNH NGUYỆN CỦA VIỆT NAM YÊU CẦU MỞ RỘNG THỀM LỤC ĐỊA
Ngày 7-5-2009 Chính Phủ Việt Nam đệ trình Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc bản báo cáo có kèm theo Họa Đồ (Figure) và Bản Tọa Độ (Table) với 45 điểm ranh mốc xác định giới tuyến thềm lục địa mở rộng (extended continental shelf). Như đã trình bày đơn thỉnh nguyện (submission) của Việt Nam sẽ được Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa đăng đường vào khóa họp tại Nữu Ước từ trung tuần tháng 8 đến trung tuần tháng 9 tới đây.

Phản ứng tiên khởi của Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền là ngỡ ngàng và xót xa.
Vì hai lý do:

1. Theo Họa Đồ số 1 (Figure 1 Outer limits of the Vietnam's extended continental shelf: North Area (VNM-N) do Chính Phủ Hà Nội xuất trình, điểm khởi hành của ranh giới Thềm Lục Địa Mở Rộng (Vietnam 350M), về hải phận phía Bắc đối diện với Trung Quốc chỉ khởi sự từ ranh mốc số 1 tọa lạc tại Vỹ Tuyến 15.06 Bắc (ngang tầm với Quảng Ngãi) và Kinh Tuyến 115.14 Đông.

2. Điểm 45 kết thúc giới tuyến Thềm Lục Địa Mở Rộng tọa lạc tại Vỹ Tuyến 10.75 Bắc (ngang tầm với Phan Thiết) và Kinh Tuyến 112.62 Đông. Như vậy Chính Phủ Việt Nam đã chính thức xác nhận với Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc rằng Thềm Lục Địa Mở Rộng của Việt Nam tại hải phận phía Bắc chỉ chạy từ Vỹ Tuyến 15.06 Bắc xuống Vỹ Tuyến 10.75 Bắc (từ Quảng Ngãi xuống Phan Thiết).

Trong trường hợp này Chính Phủ Hà Nội đã mặc nhiên khước từ chủ quyền lãnh hải của Việt Nam từ Vỹ Tuyến 15.06 Bắc (Quảng Ngãi) lên Vỹ Tuyến 17 (Quảng Trị). Nghĩa là Việt Nam đã cống hiến cho Trung Quốc một hải phận gồm 3 Vỹ Tuyến 15- 16-17 trong đó tọa lạc 13 đảo Hoàng Sa.

Về mặt vị trí, đảo Trí Tôn tại cực nam (với tọa độ 15.47 Bắc) cũng nằm về phía Bắc tọa độ 15.06 Bắc mà Chính Phủ Hà Nội chọn làm điểm ranh mốc cao nhất về phía Bắc của Thềm Lục Địa Mở Rộng Việt Nam. Kết quả là từ nay Trung Quốc có tư thế để đòi chủ quyền lãnh hải từ bờ biển Quảng Đông tại Vỹ Tuyến 22 xuống tới vùng biển Quảng Ngãi tại Vỹ Tuyến 15 nghĩa là toàn thể Quần Đảo Hoàng Sa.

3. Cũng theo Họa Đồ (Figure 1 nói trên), giới tuyến Thềm Lục Địa Pháp Lý 200 hải lý (Vietnam 200M) theo hướng Bắc-Nam, chạy song hành với bờ biển Việt Nam, từ Vỹ Tuyến 16 (Đà Nẵng) xuống Vỹ Tuyến 7 (Bãi Tứ Chính: Vanguard) dọc theo Kinh Tuyến 112 Đông.

Địa hình này xác nhận rằng Thềm Lục Địa Việt Nam chỉ khởi sự từ Vỹ Tuyến 16 (Đà Nẵng) xuống Vỹ Tuyến 7 phía đông nam Cà Mâu. Do đó nó mặc nhiên nhìn nhận rằng ngoại trừ đảo Tri Tôn tại Vỹ Tuyến 15.47 Bắc, vùng hải phận từ Vỹ Tuyến 16 trở về Bắc, trong đó tọa lạc 12 đảo Hoàng Sa, không thuộc chủ quyền lãnh hải của Việt Nam.

Theo hiểu biết thông thường, nếu không có Thềm Lục Địa thì không có lục địa. Nếu không có lục địa thì không có hải phận. Mà nếu không có hải phận thì cũng không có các hải đảo tọa lạc trong đó.Trong cả hai trường hợp do Chính Phủ Hà Nội viện dẫn về Thềm Lục Địa Mở Rộng và Thềm Lục Địa Pháp Lý, Việt Nam đã khước từ chủ quyền ít nhất 12 hải đảo thuộc Quần Đảo Hoàng Sa tọa lạc tại các Vỹ Tuyến 17 và 16 Bắc từ Quảng Trị xuống Quảng Nam. (Đảo Hoàng Sa có vỹ độ 16.32 Bắc; đảo Phú Lâm có vỹ độ 16.50 Bắc).

Đây là một Thảm Họa cho Việt Nam
.
Và là một Đại Thắng của Đế Quốc Đại Hán.


Tất cả những phản ứng đạo diễn của Bắc Kinh và Hà Nội nằm trong chiến thuật hỏa mù để đánh lạc dư luận quần chúng và đánh lừa dân tộc Việt Nam. Vì như ai cũng biết cho đến nay, Bắc Kinh vẫn nằng nặc đòi chủ quyền hơn 80% hải phận Biển Đông Nam Á mà họ gọi là Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc.Chúng tôi kêu gọi các bậc thức giả tham gia ý kiến về vấn đề này.

Thay Mặt Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống
(13-5-2009
)


Wednesday, May 13, 2009

Tống Biệt Hành - Thâm Tâm

* Thâm Tâm tên thật là Nguyễn Tuấn Trình sinh ngày 12/5/1917 tại Hải Dương.

Viết cho các báo: Tiểu Thuyết Thứ Bảỵ Tiểu Thuyết Thứ Năm, Ngày nay. Mất ở Cao Bằng năm 1950. Thâm Tâm viết không nhiều, ông mất sớm, cả đời thơ chưa được hai mươi bài. Nhưng nếu chọn mười bài tiêu biểu của thời kỳ Thơ mới, chắc chắn có Tống biệt hành. Thâm Tâm và TTkh là đầu đề cho một câu chuyện tình nửa hư nửa thực và trở thành một giai thoại thi ca kỳ thú nhưng cho đến nay người ta cũng không biết gì nhiều hơn.

    Tống Biệt Hành

    Đưa người ta không đưa qua sông
    Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng?
    Bóng chiều không thắm không vàng vọt
    Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

    Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
    Một giã gia đình, một dửng dưng ...

    - Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
    Chí lớn không về, bàn tay không
    Thì không bao giờ nói trở lại
    Ba năm mẹ già cũng đừng mong.

    Ta biết người buồn chiều hôm trước
    Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
    Một chị, hai chị cũng như sen
    Khuyên nốt em trai giòng lệ sót

    Ta biết người buồn sáng hôm nay
    Trời chưa vào thu tươi lắm thay
    Em nhỏ thơ ngây đôi mắt ướt
    Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay ...

    Người đi? Ừ nhỉ, người đi thật
    Mẹ! thà coi như chiếc lá bay
    Chị! thà coi như là hạt bụi
    Em! ừ xem như hơi rượu cay

    Người đi? Ừ nhỉ, người đi thật
    Mẹ! thà coi như chiếc lá bay
    Chị! thà coi như là hạt bụi
    Em! thà coi như hơi rượu cay

    Thâm Tâm 1940

Tuesday, May 12, 2009

Tài Liệu Mật Của Cộng Sản Việt Nam

Đây là một tài liệu mật vừa được chuyển ra hải ngoại. Những điều viết trong tài liệu này đã được CSVG áp dụng thi hành trong và ngoài nước từ 33 năm nay và tại miền Băc từ năm 1954. Rất mong các cộng đồng người tỵ nạn khắp nơi tại hải ngoại nghiên cứu để tìm cach bẻ gãy nghị quyết 36 của VGCS. Đặc biệt với người Việt Nam trong nước đang tranh đấu cho dân chủ tự do cho quê hương nên học hỏi thêm để tìm cách tránh né những mưu mô gian xảo của nhóm Việt Gian bán nước này.
***

  • Thưa các đồng chí,

  • Đảng quang vinh của chúng ta muốn tồn tại và phát triển, giữ vai trò là đảng tiên phong và duy nhất lãnh đạo đất nước, thì có mấy mục tiêu quan trọng sau đây phải được quan tâm đúng mức:

    1. Phải làm cho dân chúng vừa yêu vừa sợ. Nếu không thể làm cho người dân yêu mến; điều mà tôi e là sự thật cay đắng cần chấp nhận thì cũng phải tuyệt đối duy trì nỗi sợ hãi để họ không bao giờ có đủ ý chí mà nổi loạn.

    2. Phải giữ cho cái gọi là “phong trào dân chủ đối lập” không thể trở thành phong trào đúng nghĩa, không thể bén rễ và lan rộng. Phải làm sao để nó chỉ là hoạt động manh mún, rời rạc, tự phát của các cá nhân đơn lẻ; làm cho có nhiều “lãnh tụ” mà ít hoặc không có quần chúng; có nhiều “nhân sĩ trí thức” mà ít hoặc không có một tổ chức nào có thực lực; có nhiều những hoạt động lãng mạn hời hợt có tính phô trương mà người dân có biết đến cũng chỉ mỉm cười ý nhị chứ ít hoặc không có những hoạt động thiết thực có tầm mức ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội; có thật nhiều những hoạt động “chống cộng cực đoan” có tính chất phá hoạt từ bên trong, gây phản cảm đối với người dân lao động, thậm chí làm cho những gia đình cách mạng và đội ngũ cựu chiến binh phẫn nộ … Tóm lại, phải làm cho người dân nếu không quay lưng thì cũng thờ ơ với cái gọi là “đấu tranh dân chủ”. Cụ thể như thế nào thì tôi đã có dịp trình bày.

    3. Phải chủ động trong việc nâng cao dân trí để làm bàn đạp mà phát triển kinh tế, nhưng lại phải lèo lái để “dân trí cao” không đồng nghĩa với “ý thức dân chủ cao”. Phải làm sao để chất lượng giáo dục bậc đại học được cải thiện nhưng đa số sinh viên phải trở nên thực dụng hơn, có tinh thần “entrepreneurship” khao khát tiền bạc và công danh, mạo hiểm và sáng tạo trong kinh doanh, cầu tiến trong sự nghiệp riêng, tôn thờ Bill Gates và chủ nghĩa tiêu thụ nhưng đồng thời cũng tuyệt đối thờ ơ với những lý tưởng và hoài bão cải biến xã hội, xa lạ với những tư tưởng trừu tượng viễn vông, tìm kiếm những giải pháp cá nhân thay cho ý thức công dân, và đặc biệt là tránh xa âm mưu thay đổi chế độ.

    4. Phải chủ động trong việc mở rộng xã hội dân sự, thuần phục và trung hòa giai cấp trung lưu đang lớn mạnh (gọi là “co-optation”)… Làm sao để trong mỗi tổ chức dân sự đều có chân rết của ta. Các tổ chức trung gian như mặt trận Tổ quốc, công đoàn, hội phụ nữ, các hội cựu chiến binh, các câu lạc bộ hưu trí … phải phát huy vai trò tối đa trong việc trung hòa những nhân tố nguy hiểm, điều hòa những xung đột nếu có giữa nhà nước và xã hội, giảm thiểu sự bất mãn của dân chúng … Làm sao để xã hội dân sự vẫn được mở rộng nhưng theo hướng có kiểm soát của chúng ta, chứ không trở thành mối đe dọa.

    Quan trọng hơn cả là chúng ta phải tiếp tục nuôi dưỡng nỗi sợ hãi – dù chỉ là nỗi sợ mơ hồ trong tiềm thức; nhưng đồng thời cũng không để cho nhân dân cảm thấy tuyệt vọng. Cho dù người dân có bất mãn về chuyện này chuyện kia thì vẫn làm cho họ nuôi hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Và phải làm điều này một cách hết sức tinh vi, kiên nhẫn, đôi lúc phải can đảm cắt bỏ những khối u trong đảng để làm nguội bớt nỗi tức giận của nhân dân.

    Trong trường hợp này thì việc thả Nguyễn Việt Tiến và việc bắt giam hai nhà báo là sai lầm. Lẽ ra chúng ta phải không tiếc một số ít các đồng chí tham lam quá mức, biến họ thành dê tế thần để giành lại niềm tin của nhân dân, hoặc ít nhất cũng làm họ giảm bất mãn, trong nỗ lực chống tham nhũng của chúng ta.

    Một người bất mãn cực độ là một người nguy hiểm. Một người tuyệt vọng đôi khi còn nguy hiểm hơn. Một người lạc quan, nhiều hy vọng, thì thường cũng là một người dễ bảo, yêu chuộng sự ổn định và do đó không có ý định phản kháng.

    Chúng ta phải biết dùng mồi để nhử, đánh vào thói tham lam ích kỷ lẫn thói háo danh của người đời, vừa phải làm sao để tinh thần thực dụng và chủ nghĩa mánh mung chụp giật trở thành bản tính của dân tộc; vốn đã rã rời về ý chí, tan vỡ về niềm tin, chán ngán các loại ý thức hệ; nhưng đồng thời cũng phải chuẩn bị sẵn những cái van để dân chúng có chỗ giải tỏa ẩn ức.

    Tuyệt đối không để sự bất mãn trong xã hội tích tụ lại vượt quá ngưỡng kiểm soát của chúng ta. Kiên quyết tiêu diệt mọi mầm mống có khả năng dẫn đến các loại hoạt động đối kháng có tổ chức, có sự phối hợp rộng rãi; tuyệt đối ngăn chặn khả năng huy động được đông đảo quần chúng tham gia.

    Chúng ta phải nghiên cứu tất cả những tư tưởng gia vĩ đại trong việc chiếm đoạt quyền lực và duy trì vị trí độc tôn, từ Tôn Tử, Ngô Khởi, Trương Tử Phòng, Lý Tư … và Mao Trạch Đông ở phương Đông, cho đến Machiavelli; tác giả cuốn cẩm nang “The Prince” nổi tiếng ở phương Tây, thậm chí cả Napoleon, Hitler, Stalin … hoặc Hugo Chavez thời nay. Tất cả đều có những điều rất đáng để chúng ta học hỏi, từ nghệ thuật mị dân cho đến những thủ đoạn cứng – mềm linh hoạt trong việc đối phó với địch, và cả những sai lầm chiến thuật của các vị này.

    Phải làm sao để chúng ta vẫn trấn áp được đối lập dân chủ, nhưng vẫn không làm sứt mẻ quan hệ ngoại giao đang ngày một tốt hơn với Hoa Kỳ và phương Tây – vốn là những kẻ đạo đức giả, duy lợi và thực dụng nhưng thích rao bán tấm áo “dân chủ tự do” cùng với những khẩu hiệu cao đẹp khác.

    Tuy nhiên, chúng ta cần phải khái quát những luận điểm của Machiavelli để có thể áp dụng cho một chế độ, một đảng phái có cơ cấu phức tạp, chứ không phải là một nhà độc tài quân phiệt giản đơn.

    Một nhà độc tài dù tàn độc đến đâu, ranh ma đến đâu, thì cũng chỉ là một kim tự tháp trên sa mạc, tĩnh lặng và không tiến hóa; nên trước sau cũng sẽ để lộ sơ hở chết người.

    Nhưng một đảng chuyên quyền thì luôn luôn biến động, thay đổi và lớn lên không ngừng; biết bù đắp khiếm khuyết, che dấu yếu điểm, phô trương sức mạnh một cách vô cùng linh động … và đặc biệt có đủ tài lực và nhân lực để lan tỏa chân rết đến mọi ngõ ngách của xã hội, kiểm soát cả dạ dày lẫn linh hồn của nhân dân.

    Bác Hồ (hay có thể là bác Lê Nin) đã dạy: người cách mạng phải không ngừng học hỏi, học từ nhân dân và học từ kẻ địch; phải không ngừng tiến hóa về mặt tư duy lẫn thủ đoạn để sống sót mà vươn lên trong bất cứ hoàn cảnh nào; phải luôn uyển chuyển và linh động để sẵn sàng thay máu đổi màu khi cần thiết, thậm chí sẵn sàng đào thải cả những đồng chí quá tham lam và ngu dốt có hại đến lợi ích chung của đảng. Đối với địch thủ thì phải thiên biến vạn hóa, ranh ma tàn độc đủ cả … và đặc biệt phải biết dùng hình nộm kết hợp với thủ đoạn đấu bò tót kiểu Tây Ban Nha để thu hút ám khí và sừng bò của đối thủ.

    Trong lúc đối thủ tiêu hao lực lượng vì đánh vào những hình nộm rơm, hoặc phung phí thời gian và sức lực vào những mục tiêu viễn vông, thì chúng ta lạnh lùng quan sát, phân tích thấu đáo địch tình, ra đòn bất ngờ và hợp lý để địch chết không kịp ngáp.

    Đặc biệt chúng ta ngầm khuyến khích những hành động tự sát theo kiểu “không thành công cũng thành nhân”, tất nhiên là phế nhân. Chúng ta cũng phải biết lắng nghe những phê phán của địch thủ mà thay đổi cho thích hợp. Kẻ đối địch luôn có những bài học quí giá mà chỉ có những người bản lĩnh và khôn ngoan mới nhìn ra.

    Nếu kẻ địch lãng mạn viễn vông với những khẩu hiệu trừu tượng như “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do” … thì chúng ta phải thực tế với những tiêu chí cụ thể như “ổn định xã hội”, “tăng trưởng kinh tế”, “xóa đói giảm nghèo”…

    Nếu kẻ địch hô hào những điều khó hiểu du nhập từ phương Tây như “đa nguyên”, “đa đảng”, “pháp trị”, “khai phóng”… thì chúng ta phải tích cực cổ vũ mô hình Nhân Trị của đấng Minh Quân, nhưng ở đây Minh Quân phải được hiểu là đảng cộng sản, cũng như đề cao những “giá trị Á châu” một cách khéo léo.

    Phát Huy dân chủ cơ sở tập trung. Chúng ta cũng phải phát huy “dân chủ cơ sở”, “dân chủ tập trung”, “dân chủ trong đảng”… để làm sao cho dân thấy đảng không phải là cái gì đó cao xa vời vợi, mà đảng cũng là dân, ở ngay trong dân, từ dân mà ra, đã và đang đồng hành cùng với dân.

    Phải cho dân thấy là nếu đảng có xe hơi thì dân cũng có hon đa – chứ không phải đi bộ; nếu đảng có đô la thì dân cũng có tiền in hình Bác đủ tiêu xài – chứ không quá túng thiếu; nếu đảng có cao lương mỹ vị thì dân cũng có gạo ăn – không chết đói mà còn dư thừa để đem xuất khẩu.

    Đặc biệt là phải tích cực tuyên truyền và giải thích để người dân hiểu được ý nghĩa của “dân chủ” theo cách có lợi cho chúng ta: “dân chủ” nghĩa là đảng luôn lắng nghe dân, phản ánh ý nguyện của dân (phần nào thôi) qua những chính sách vĩ mô và vi mô, thỏa mãn niềm tự ái của dân vì được dạy dỗ đảng, cũng như kích thích lòng tự hào dân tộc của dân để hướng nó vào những kẻ thù mơ hồ dấu mặt ở bên ngoài.

    Đối thủ của chúng ta thường lãng mạn và nhiều nhiệt tình nhưng ít chịu học hỏi, hoặc nếu có học thì chỉ qua quýt đủ để thuộc lòng những khẩu hiệu trừu tượng như “nhân quyền”, “dân chủ”… rồi nhai đi nhai lại làm dân chúng phát nhàm. Nói chung, đối thủ của chúng ta thường chỉ biết đến một số cuốn cẩm nang về dân chủ có ngôn từ rất kêu, rất đẹp, nhưng nghèo nàn về phương pháp thực tế, lẫn lộn giữa cứu cánh và phương tiện.

    Ngược lại, chúng ta cần phải tích cực nghiên cứu sâu sắc những trước tác của các học giả phương Tây về khoa học chính trị và kinh tế học. Chúng ta phải nhận thức được đã có rất nhiều những nghiên cứu khoa học về mối quan hệ biện chứng giữa “thể chế chính trị” và “phát triển kinh tế”.

    Hai phạm trù “dân chủ” và “phát triển” có quan hệ hết sức phức tạp, phi tuyến, chứ không phải là quan hệ nhân – quả. Nghiên cứu kỹ về vấn đề này sẽ rất có lợi cho chúng ta trong việc chủ động phát triển kinh tế mà không cần phải “dân chủ hóa”.

    Chúng ta cũng phải nhìn nhận một thực tế là: phát triển kinh tế làm phát sinh một số yếu tố hiểm nguy cho chế độ. Tuy nhiên, điều này còn tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, tùy thuộc vào khả năng “tháo ngòi nổ” của chúng ta, cũng như khả năng khai thác những yếu tố hiểm nguy này của đối lập dân chủ.

    Chẳng hạn, học giả Daron Acemoglu của đại học MIT danh tiếng đã có nhiều phân tích về “nguồn gốc kinh tế của các chế độ độc tài và dân chủ”. Trong đó ông đã chỉ ra rằng phát triển kinh tế kèm theo việc phân bố của cải vật chất một cách tương đối công bằng, đồng thời với việc nới lỏng một cách chừng mực những tự do dân sự, thì bất mãn của xã hội sẽ không quá cao, do đó hoàn toàn có thể duy trì chế độ độc tài mà vẫn thúc đẩy kinh tế phát triển. Đó là trường hợp của Singapore, điển hình của một nhà nước độc tài sáng suốt.

    Một ví dụ nữa là những nghiên cứu của Bruce Bueno de Mesquita, đã chỉ ra cho chúng ta những kinh nghiệm quí báu trong việc đàn áp cái gọi là “coordination goods”, tức là những yếu tố vốn không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, nhưng nếu được vận dụng bởi đối lập dân chủ thì lại trở thành những vũ khí đáng sợ. Đó là nghệ thuật “đàn áp có chọn lọc” mà tôi đã có dịp phân tích.

    Giới trẻ và sinh viên học sinh: Một kết quả bất ngờ mà theo tôi cũng là một kinh ghiệm quí trên mặt trận tuyên truyền nhồi sọ; việc chúng ta bắt ép sinh viên phải học tập chủ nghĩa Marx Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã đem lại những kết quả ngoài mong uớc.

    Thanh công của chúng ta không phải đã đạt được mục đích ban đầu là làm cho thế hệ trẻ tôn thờ thứ chủ nghĩa mà ngay cả chúng ta cũng không tin. Ngược lại, thành công của chúng ta là đã làm cho thế hệ trẻ chán ngán đến tận cổ khi phải học mãi một thứ ý thức hệ lỗi thời, bị nhồi nhét đến phản cảm những tư tưởng cũ kỹ. Nhờ vậy chúng ta đã đào tạo ra một thế hệ trẻ thờ ơ vô cảm với tất cả các loại tư tưởng và ý thức hệ, chai sạn với lý tưởng và hoài bão mà thanh niên thường có, trở nên thực dụng và ích kỷ hơn bao giờ hết.

    Thế hệ trẻ hôm nay, ngoài cái đức tính thực dụng và tinh thần chụp giật, cũng như niềm khao khát tiền bạc, công danh, ám ảnh bởi chủ nghĩa hưởng thụ, thì chỉ còn le lói “tinh thần dân tộc” vẫn còn sót lại trong máu huyết của mỗi người Việt.

    Đây là con dao hai lưỡi, là con giao long đang nằm yên, mà chúng ta cần phải biết lèo lái một cách khôn ngoan để không xảy ra một tiểu Thiên An Môn ở Ba Đình. Dưới chế độ chuyên chế nào cũng vậy, sinh viên và trí thức trẻ luôn luôn là những kẻ nguy hiểm nhất, là ngòi nổ của quả bom, là kíp mìn hẹn giờ, là hạt nhân của các phong trào đấu tranh. Các cuộc cách mạng nhằm lật đổ chế độ độc tài bao giờ cũng do sinh viên và trí thức dẫn đầu; công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động khác chỉ là sức mạnh cơ bắp. Chỉ có trí thức và sinh viên mới đủ lý luận để huy động được đông đảo quần chúng, mới có lý tưởng để dấn thân, và mới có khả năng tổ chức và phối hợp.

    Triệt tiêu được những phong trào sinh viên, cô lập được những trí thức phản kháng, chính là đánh vào đầu não chỉ huy của địch. Những thứ còn lại như “dân oan biểu tình”, “công nhân đình công”… chỉ là cơ bắp của một cơ thể đã bị liệt não.

    Như trên đã nói, chúng ta đã thành công trong việc làm cho sinh viên trở nên lãnh cảm về các loại ý thức hệ, thờ ơ với những tư tưởng tự do khai phóng từ phương Tây. Chúng ta chỉ còn phải đối phó với tinh thần dân tộc của sinh viên đang có nguy cơ thức dậy, mục đích là để nó ngủ yên, nếu không phải lèo lái nó theo hướng có lợi cho chúng ta.

    Trí thức


    * Đối với tầng lớp trí thức, những biện pháp “vừa trấn áp vừa vuốt ve” từ xưa đến nay đã đem lại kết quả khả quan. Chúng ta đã duy trì được một tầng lớp trí thức hèn nhát, háo danh, và nếu không quá ngu dốt thiển cận thì cũng chỉ được trang bị bởi những kiến thức chắp vá, hổ lốn, lỗi thời.

    * Nói chung, đa số trí thức của chúng ta đều hèn, đều biết phục tùng theo đúng tinh thần “phò chính thống” của sĩ phu xưa nay. Phần lớn những kẻ được coi là trí thức cũng mang nặng cái mặc cảm của việc học không đến nơi đến chốn, ít có khả năng sáng tạo, và so với trí thức phương Tây về cả tri thức lẫn dũng khí đều cách xa một trời một vực.

    * Trí thức của chúng ta vẫn mãi mãi giữ thân phận học trò, kiểu sĩ hoạn mơ ước được phò minh chủ, hanh thông trên đường hoạn lộ, chứ không bao giờ vươn lên thành những nhà tư tưởng lỗi lạc.

    * Tầm mức ảnh hưởng của trí thức đến xã hội không đáng kể, không dành được sự kính trọng từ các tầng lớp nhân dân, thậm chí còn bị người đời khinh bỉ bởi sự vô liêm sỉ và thói quen ném rác vào mặt nhau.

    * Chỉ có một số ít trí thức vượt qua được cái vỏ ốc hèn nhát, nhưng thường là quá đà trở nên kiêu ngạo tự mãn, coi mình như núi cao sông sâu, là lương tâm thời đại. Những người này quả thật có dũng khí, nhưng cũng không đáng sợ lắm bởi đa phần đều có tâm mà không có tài, có đởm lược mà ít kiến thức.

    * Đa phần trong số này cũng chỉ đến khi về hưu mới thu gom được dũng khí mà ra mặt đối đầu với chúng ta, do đó sức cũng đã tàn, lực cũng đã kiệt. Một số ít trẻ trung hơn, nhiệt huyết còn phương cương, thì lại chưa có kinh nghiệm trường đời, chưa được trang bị lý luận chu đáo, chưa có kiến thức về dân chủ sâu rộng. Với những kẻ này chúng ta đàn áp không nương tay, bỏ tù từ 3 đến 7 năm. Đó là phương cách giết gà từ trong trứng.

    Thử tượng xem một tài năng trẻ phải thui chột những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời trong lao tù, cách ly với môi trường học ấn, gặm nhấm nỗi cô đơn thay cho việc học hành nghiên cứu, thì sao có thể phát triển hết khả năng? Khi ra tù thì cũng đã quá tuổi trung niên, mệt mỏi, chán chường. Nếu vẫn còn dũng khí thì cũng đã tụt hậu về kiến thức, bị trì néo bởi gánh nặng gia đình, còn làm gì được nữa?

    Với những phân tích như trên tôi cho rằng chế độ của chúng ta vẫn còn bền vững ít nhất thêm hai mươi năm nữa. Nhưng thời thế đổi thay. Chúng ta không thể kiêu ngạo mà tin rằng sẽ trường tồn vĩnh viễn.

    Chúng ta luôn học hỏi và thay đổi để sống còn và vươn lên, nhưng cũng nên biết rằng đối thủ của chúng ta có lẽ cũng không quá ngu ngốc. Nếu kẻ địch cũng nhìn ra được mạnh, yếu của chúng ta, cũng biết tự đổi thay để thích nghi, cũng biết học cách đấu tranh có phương pháp, có tổ chức, có chiến lược… thì chuyện gì sẽ xảy ra sau hai mươi năm nữa thật khó mà biết được.

    Đó là một cuộc đua đường trường mà kẻ nào dai sức hơn, bền chí hơn, khôn ngoan hơn, thì sẽ đến đích trước.

    Chúc các đồng chí chân cứng đá mềm và luôn nhớ lời dạy của Hồ Chủ Tịch: “khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

    Nguồn: http://www.hoivanhoanguoiviettudo.com/


    Monday, May 11, 2009

    CHẾ LINH VÀ NGƯỜI LÍNH “HÈN”

    CA SĨ CHẾ LINH VÀ NGƯỜI LÍNH “HÈN”

    Người Lính Hèn

    “Thưa các bạn, để trở lại chương trình phần 2, tôi xin hát tặng các bạn những bài hát về LÍNH, do lời yêu cầu. Mặc dù tôi không phải là Lính trước đây, những bài hát này không phải chỉ dành riêng cho LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA, mà xin tặng luôn cho các anh lính bộ đội, đặc biệt là anh Hải Bộ Đội có lời yêu cầu tôi. Vì theo tôi, người Lính nào cũng đáng ca tụng vì cùng hoàn cảnh chiến tranh phải đi lính mà thôi”

    Đó là những gì mà ca sĩ Chế Linh đã phát biểu mà tôi không hề thêm bớt, vào buổi tối Thứ Sáu, ngày 1 tháng 5 năm 2009, trước khá đông thực khách ở nhà hàng Đại Dương, Hopkins Street, Footscray Victoria Australia.

    Là một người Lính Việt Nam Cộng Hòa trước đây, tôi chợt nhói buốt con tim, nhìn quanh đám thực khách nhà hàng xa lạ vô tư: Phía trước mặt tôi là những bàn tiệc của các vị thương gia quen mặt đang cụng ly vui cười hể hả. Kế đó là các bàn của bạn bè bộ đội Hải đang phì phèo thuốc lá, mặc dầu lệnh cấm hút thuốc trong nhà hàng của chính phủ. Họ vỗ tay hoan hô nồng nhiệt lời phát biểu của ca sĩ Chế Linh.

    Tôi bỏ dở bữa ăn cuối tuần, cùng vợ bước ra khỏi nhà hàng, lòng vừa đau, vửa giận mình HÈN, không có can đảm bước lên sân khấu cướp micro để có đôi lời với người ca sĩ này.

    Bông dưng phía sau tôi có tiếng ồn ào: Độ ba, bốn thanh niên vừa kéo một người bạn ra ngoài cửa, vửa can ngăn:

    - Ông đừng nóng, bây giờ mà ông lên lấy micro, nóng nẩy la lối là phiền lắm đó!

    - Nhưng các ông phải để cho tôi nói chứ! Nơi đây là Cộng Đồng Tỵ Nạn, cớ sao lại nhập các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa với bọn bộ đội Việt Cộng? Lính VNCH chiến đấu để giành tự do dân chủ đất nước. Còn lính VC chúng chỉ chiến đấu cho chủ nghĩa cộng sản.

    Người bạn trẻ nóng tính cố gắng dằng tay những người bạn can mình đễ hướng miệng vào cửa nhà hàng trong cơn giận dữ.

    Tôi tưởng có một mình tôi tôi bất bình, không ngờ lại có các bạn trẻ cùng chia xẻ nỗi đau này. Tôi tiến tới nhóm bạn trẻ này, ôn tồn khuyên can:

    - Bọn chúng đông lắm, các em nóng nẩy sẽ sinh chuyện lớn, phiền lắm.

    Sau một hồi thảo luận, nhóm bạn trẻ này đồng ý giải pháp cùng trở lại bàn ăn để yêu cầu ban tổ chức cho lên sân khấu phảt biểu cảm tưởng về lời nói của ca sĩ Chế Linh. Một người trong bọn nói với tôi:

    - Chú đừng về, hãy theo tụi cháu vô để hỗ trợ tụi cháu. Bảo đảm với chú, sẽ không có chuyện gì gây gỗ, đánh nhau đâu.

    Tôi cùng đám bạn trẻ này bước trở vào nhà hàng. Nhưng trong khi chờ đợi, vợ tôi, vì lo cho tuổi già sức yếu của tôi, nên đã kéo tôi đi về, nên tôi đã không biết các bạn trẻ của tôi đã hành động ra sao?

    Hỡi ơi! Tên lính già khiếp nhược! Thực đáng phỉ nhổ!

    Tôi xin lỗi các bạn. Xin cúi đầu tạ lỗi!

    Thưa quý bạn và các bạn trẻ,

    Bài viết này, lại thêm một lần nữa lấy ẩn danh là “Người lính hèn”, với mục đích tạ lỗi cùng các bạn, đã hèn hạ chạy trốn trong lúc bầu máu nóng của các bạn đang cố giành lại danh dự cao đẹp nhất cho những người lính năm xưa , thới mà các bạn còn là những đứa trẻ đùa giởn trong sân trường hoặc là những sinh viên đang mài đũng quần trước ngưỡng cửa đại học.

    Và bài viết nầy mong rằng sẽ được đưa lên báo chí và internet xin lên tiếng với cộng đồng hải ngoại như lời trần tình cùng ca sĩ Chế Linh, một trong những “Tứ Đại Danh Ca” mà ông Nam Lộc đã từng coi trọng trong những show diễn âm nhạc do ông làm MC.

    (Thực sự, tôi đã đưa tên và địa chỉ cho ban biên tập để dễ bề đối chiếu và liên lạc).

    Thưa quý bạn đọc,

    Thực ra, xưa nay, tôi chưa từng ái mộ mà thậm chí còn ghét cay ghét đắng tiếng hát Chế Linh mà trước đây, ngày còn trong lính, chúng tôi thường gọi nháy đi là “Lính Chê”. Theo tôi, những bài hát do ông sáng tác, toàn là loại nhạc “SẾN” qua tiếng hát của Chế Linh nỉ non ai oán dễ đưa nguời lính tác chiến buồn thảm, nhớ nhà, buông súng đầu hàng giặc hoặc đào ngũ. Do đó, có dạo Bộ Thông Tin Chiêu Hồi và Tổng cục Chiến Tranh Tâm Lý đã ra lệnh cấm tiếng hát Chế Linh trên các đài truyền thanh, truyền hình.

    Sau những năm tháng tù đầy rồi vượt thoát ra được hải ngoại, tôi lại bắt gặp được hình ảnh Chế Linh qua các video, DVD do các trung tâm băng nhạc phát hành, vẫn với các âm điệu nhạc “SẾN” nỉ non, ai oán của một kẻ thất tình hoặc anh lính xa nhà nhớ vợ con. Nhưng tôi đã thay đổi phần nào những điều mình không thích năm xưa: Phần vì qua hình ảnh những bộ đồ lính trận ông mặc trong các show diễn rất chỉnh, rất giống những bộ quân phục chúng tôi đã mặc ngày xưa, và những bài hát tôi đã ghét cay ghét đắng ngày xưa bây giờ lại giúp tôi gợi nhớ lại những hình ảnh khó phai mờ của các chiến hữu của tôi ngày nào nghêu ngao trong các “Đồn vắng chiều xuân”. Phải nói, cung cách và những lời phát biều của Chế Linh trong các show ca nhạc đã quay thành DVD làm cho tôi có phần nào đã có chút cảm tình với anh.

    Vừa qua, trên báo chí và internet có những bài viết chỉ trích và chê trách anh về việc anh về lại Việt Nam xin phép chính quyền Cộng Sản cho phép anh hát lại. Thực sự, điều này tôi có đọc qua và không mấy quan tâm vì cá nhân tôi thông cảm hoàn cảnh sinh sống và nghề nghiệp của các ca sĩ hải ngoại khi về già: Tiếng hát của họ đã hết thời, quá nhàm chán với khán thính giả hải ngoại, lại còn bị giới trẻ đang lên lấn áp dành chỗ đứng. Các show lưu diễn chẳng còn ai mời mọc nữa, nên đành về kiếm sống trong nước vậy! Kể cả bọn linh già chúng tôi cũng có người mỗi năm ky cóp ít tiền còm pension và nhục nhã đem thân về quê nhà mà quên đi nỗi thù vong quốc.

    Nhưng hôm nay, tôi xin thưa với anh Chế Linh, cứ như tối thứ Sáu vừa qua, anh cứ hát, cứ ca, cứ thân tình với khán thính giả trong giới hạn của người nghệ sĩ với giới mộ điệu, đừng nói những lời nói có vẻ sỉ nhục người lính VNCH, xếp họ ngang hàng với bọn Việt Cộng, thì mọi người ra về lòng thơ thới hân hoan, vui biết mấy,

    Thế mà anh nỡ lòng nào đem những bài hát ngày xưa để tặng cho các bộ đội và lại còn nói “Lính nào cũng giống nhau”.

    Giả sử đây là buổi diễn trong nước, anh có dám tặng các bộ đội bài hát “Đêm buồn tỉnh lẻ” hoặc “Trên bốn vùng chiến thuật” hay chăng?

    Thưa anh Chế Linh, anh đang sống trong một đất nước tự do dân chủ, anh lại có cơ hội đi lưu diễn khắp các nơi và anh đã lợi dụng cái tự do này đễ khuynh đảo cả một trật tự lương tâm của con người. Tôi nghĩ, anh là một nghệ sĩ lớn, chắc anh cần giữ tiếng thơm đời đời chứ không cần tiền đâu. Tôi đề nghị, nếu mai đây có dịp gặp lại các bộ đội hào sảng bao anh ăn nhậu, biếu xén tiền bạc, anh cố học thêm vài bài hát như “Tiếng chầy trên sóc Bombo” hoặc “Cô gái tải đạn” mà tặng cho họ, thì quý giá hơn biết chừng nào. Chẳng ai dám chỉ trích, làm khó dễ anh đâu. Còn những bài hát ngày xưa, hoặc do anh, hoặc do các nhạc sĩ khác sáng tác, đó là những tâm tư, tình cảm của các anh dành cho các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, xin anh giữ lại như chút lòng tri ân của chúng tôi.

    Thưa anh Chế Linh,

    Đau lắm, anh ạ! Chúng tôi, những người lính thua trận, sau những năm tháng tù đày và nhục nhã bị đối phương tàn nhẫn trả thù, chúng tôi đã mất tất cả. Giờ đây chúng tôi đang cố gắng chữa lại vết thương lòng rướm máu, chúng tôi chỉ còn chút quá khứ ôm ấp để làm niềm vui và hãnh diện với con cháu mai sau.

    Xin anh, hãy cho chúng tôi chỗ dứng riêng với các bộ đội của anh.

    Thưa các bạn trẻ ở nhà hàng Đại Dương đêm Thứ Sáu 01 05 2009 vừa qua, tôi vẫn còn nhớ những gương mặt quả cảm của các bạn. Hai đêm nay tôi thao thức nhớ lại cơn giận dữ của các bạn vì lời phát biểu làm nhục các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa của ca sĩ Chế Linh, để kính phục tuổi trẻ của các bạn. Đáng lý ra, tôi phải là người cùng các bạn tiến lên sân khấu để nói chuyện phải quấy với ông bạn “Đại Danh Ca” này, rồi tới đâu thì tới. Nhưng tôi đã hèn hạ chuồn sớm.

    Một lần nữa, xin các bạn tha thứ cho tên lính già hèn mọn này.

    Bài viết của: Người Lính Hèn
    (Tên thật và địa chỉ đã được gởi cho tòa báo Việt Luận cùng với thư này).
    (Nguồn Vietluan)



    Sunday, May 10, 2009

    Những Chuyện Có Thật - Kiêm Ái


    Kiêm Ái

    Cộng đồng người Việt tị nạn Cộng Sản vừa qua ngày 30 tháng Tư thứ 34, những buổi tưởng niệm, thắp nến, hội thảo v.v… tất cả đều chung một điểm: phải nhớ đất nước đang bị tàn phá bởi cộng sản, đất nước đang đứng bên bờ vực thẳm và có thể bị xóa tên trên bản đồ thế giới, vì Việt Cộng đang làm nô lệ cho Tàu Cộng, đang là cánh tay đắc lực của Trung Cộng để thôn tính Việt Nam. Do đó, người Việt khắp nơi trên thế giới và trong nước phải đứng lên lật đổ chế độ Việt Cộng. Trong khi đó, với nghị quyết 36, VC đã tung nhiều tiền ra hải ngoại để phá hoại hàng ngũ của người chống Cộng, bày những trò “từ thiện”, những chiến dịch cải tên ngày quốc hận thành những ngày khác để đồng bào quên đi “quốc hận”, bày những màn “con rắn trong giỏ lươn” để làm rối loạn hàng ngũ người Việt. Do đó, cương quyết giữ danh xưng cho ngày 30 tháng Tư là NGÀY QUỐC HẬN, những kẻ manh tâm thay đổi tên ngày này đều thuộc hạng nịnh bợ VC mà thành tích của chúng đã chứng minh. Cũng xin đừng vinh danh cho bọn này hai chữ VC, vì chúng chỉ là bọn tay sai và phản bội đê tiện.

    Một định nghĩa sai: Những tên tay sai Việt Cộng thường la ó rằng chúng bị chụp mũ là Việt Cộng, nhiều người vì thấy rõ hành động của chúng là hành động có lợi cho Việt Cộng đã gọi chúng là Việt Cộng để có dịp cho chúng thưa kiện, rồi từ những vụ thưa kiện này, những tờ báo, radio thân cộng có dịp hô hoán chúng bị chụp mũ, chúng bị thiệt hại, với mục đích làm cho những ai chống Cộng nhụt chí, nản lòng không dám chống Cộng. Đó chẳng qua là vì một định nghĩa sai. Tất cả những kẻ ở hải ngoại phản lại tinh thần chống Cộng, phá hoại công cuộc chống Cộng, nịnh bợ Việt Cộng, dè bỉu những người chống Cộng đi biểu tình mỗi khi cán bộ Việt Cộng xuất hiện, (khiến những tên VC này phải trốn chui trốn nhủi, đi cửa sau mà bà con thường cho một danh xưng là “chun luồn hậu môn”. Hậu là sau, môn là cửa), hoặc khi Việt Cộng bên quê nhà bị thế giới lên án, bị đồng bào trong và ngoài nước tố cáo là phản dân hại nước v.v… bọn tay sai Việt Cộng hải ngoại ra sức binh vực chúng bằng cách đánh lạc hướng, nói xấu những người chống cộng hải ngoại để những ai chống cộng chú ý trả lời chúng, lên án chúng mà quên đi việc lên án Việt Cộng. Những hành động này rõ ràng là có lợi cho Việt Cộng. Nhưng dù cho có làm lợi cho Việt Cộng bao nhiêu, đối với Việt Cộng, bọn đón gió trở cờ ở hải ngoại cũng chỉ là hạng TAY SAI VIỆT CỘNG mà thôi. Việt Cộng không bao giờ cho chúng lên hàng VIỆT CỘNG!

    Từ bọn tay sai đầu sỏ như những tên “lãnh đạo” Mặt Trận Giải Phóng Mìền Nam, trên thực tế chúng là những kẻ hoạt động cho Việt Cộng thực sự, đã được gia nhập đảng, đã có tiếng trên trường quốc tế v.v… thế mà đối với Việt Cộng, chúng chỉ là kẻ TAY SAI không hơn không kém. Những tên tay sai đắc lực nhất là bọn “THÀNH PHẦN THỨ BA” trước năm 1975, thế mà khi chiếm được miền Nam, Việt Cộng cũng “sát nhập” lại, đẩy chúng trở về THÀNH PHẦN THỨ HAI, nghĩa là trở lại “đơn vị gốc”, vì Việt Cộng vẫn dùng những phần tử này nhưng khinh bỉ chúng là KẺ PHẢN BỘI. “Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào”. Những tên nằm vùng tại miền Nam, có kẻ đóng vai thầy bói, có kẻ ở đợ, có kẻ giả điên v.v… để phục vụ cho Việt Cộng, lúc Việt Cộng chiếm được miền Nam rồi, bọn này rất hí hửng, sẽ nhận chức này, chức nọ, nhưng chỉ một thời gian ngắn, chúng đều bị loại “ngồi chơi xơi nước” như các lãnh tụ kếch xù của chúng Dương Quỳnh Hoa, Nguyễn Thị Bình, Huỳnh Tấn Phát. Tội nghiệp nhất là bọn “Cán Bộ 30 tháng Tư”, bọn này chẳng Việt Cộng, cũng không là tay sai VC, chúng chỉ là “người dân bình thường”, nhưng chúng là bọn lưu manh, ngu xuẩn, chúng tưởng VC ngây ngô, sẽ dùng chúng vì chúng có công “dọn đường” cho VC, thế nào VC cũng cho chúng “chức vụ”. Có chứ không phải không, nhưng cái chức VC cho chúng chỉ là “có chức” mà thôi, một thời gian ngắn rồi chúng, lớp bị về vườn, lớp bị tù vì bất mãn, lớp vượt biên hoặc đổi vùng tự túc vì bị đồng bào gọi châm biếm là “cán bộ 30 tháng tư”. Nhưng làm sao được, cái máu phản phúc từ cha ông mười mấy, hai chục đời vẫn lưu thông trong cơ thể họ, làm sao mà bỏ được. Lão Móc thường thuật lại cho bà con ở San Jose biết chuyện miền quê Biên Hòa Hố Nai, quê quán Lão Móc, rằng có một tên trốn quân dịch, chui vào làm Nghĩa Quân kiểng, đến khi VC vào, hắn ta bèn nghĩ rằng đường công danh của hắn ta có cơ hội để “phất”, vội vã kiếm một miếng giẻ màu đỏ, quấn vào tay, tạo cấp tốc một lá cờ, gắn vào chiếc xe jeep nhà binh chạy từ Saigon về Hố Nai la ó vung vít, hoan hô “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”, giúp cho những tên VC thứ thiệt lục soát những gia đình Quân Cán Chính VNCH, khuyến khích VC ăn cướp của những người này và dĩ nhiên, hắn cũng được VC thí cho một t..í. Một thời gian sau, hắn bị VC đá đít, đồng hương khinh bỉ vì đã lợi dụng lúc chộn rộn chui ra ăn cướp. Bây giờ, đã qua được Hoa Kỳ tị nạn vì hắn là “nghĩa quân”. Nhưng cái máu phản phúc, lưu manh bao đời vẫn tồn tại trong huyết quản hắn, thế là đón gió, thế là trở cờ. Đấy, những kẻ làm lợi cho VC chỉ là tay sai VC mà thôi. Không bao giờ VC cho chúng lên chức VC. Và rất thảm thương cho chúng, VC dùng chúng mà vẫn khinh bỉ chúng: BỌN PHẢN BỘI. Đừng định nghĩa chúng là VC. Sai. Chúng chỉ là tay sai, nói nôm na là đầy tớ.

    Kiêm Ái có một người bạn đồng nghiệp, khi mới chân ướt chân ráo qua đây, tôi đã nói qua để anh ấy “nắm” tình hình những tên tay sai VC ở San Jose. Trời xui đất khiến làm sao anh ta gặp tên tay sai VC đang làm báo, chuyên cà khịa người Quốc gia chống Cộng, ví dụ người ta đi biểu tình chống Cộng hàng ngàn người, hắn đem chia mười lấy một rồi hô hoán đi biểu tình không được một trăm mà la ó om sòm. Ví dụ ai hăng hái chống Cộng thì hắn lập tức cho họ một cái tên khác với ý nghĩa mỉa mai, nhất là những ai ở trong nước mà nổi lên chống đối VC, dù chống đối với mục đích gì thì tên này cũng vu oan giá họa cho họ, và bôi bẩn cho cả người binh vực người chống Cộng ở trong nước. Hắn còn làm nhiều điều bịa đặt khác nữa và đã bị tòa trừng trị, tòa trừng trị hắn không phải vì “được chụp mũ” là Việt Cộng, mà vì những tội hình sự như vu cáo người này chứa gái, kẻ khác loạn luân, v.v…

    Anh bạn đem nhận xét của Kiêm Ái nói cho tên này hay. Đồng hương biết tên này trả lời sao không? Xin theo dõi mẩu đối thoại:

    - Đúng là vậy, nhưng anh nghĩ, tờ báo của tớ “chuyên chở” biết bao nhiêu bài chống Cộng? - Nhưng cái quan điểm, cái tự anh viết ra chống người chống Cộng, đúng không?
    - Đúng, nhưng anh nghĩ ở San Jose này cả vạn người chống Cộng, một mình tôi không chống Cộng ăn nhằm gì. Con mèo quào làm sao “xuể” đám đất?
    - Nếu sau này VC bị lật đổ, thân phận anh ra sao?
    - Dễ quá, cái bọn người Quốc Gia mau quên, hôm nay VC giết cha chém chú nó, nó căm phẫn, nó thù, nó chống Cộng nhưng khi chúng thắng lợi thì lại dĩ hòa vi quý. Tôi nhờ vậy cũng sẽ bình an. Điều đáng kể là hiện nay tôi có “chút ít” tiền, sống không đến nỗi chật vật, rất “hiện thực”. Anh thấy vợ con bọn tập kết ở lại miền Nam cũng hưởng được tất cả quyền lợi của người Miền Nam , có mất cái gì đâu. Đó là cái tốt của người miền Nam nhưng cũng vì vậy mà … thất bại. Nói cho cùng, ăn thì phải trả, quá lắm thì tôi “đổi vùng tự túc” là xong.

    Trên đây là một trường hợp điển hình để chúng ta nhận định rõ, và đặt tên đúng cho những kẻ làm tay sai VC, đừng phong chức VC cho nó, vì nó chỉ là đầy tớ, và VC cũng không … muốn. VC chỉ muốn chúng an phận với “chức vị” tay sai mà thôi. Bọn này mà được gọi là VC khiến VC nó “mất mặt bầu cua”, nó hổng chịu đâu. Một tên đón gió trở cờ ở hải ngoại có hạng lắm, dám binh VC công khai, được một vài tên VC thứ thiệt khi qua Hoa Kỳ “tỏ lòng ái mộ”. Hắn ta tưởng bở, trèo cao, bắn tiếng xin cưới dâu là con gái ruợu của một “đại VC”. Tên này, cũng chấp thuận, nhưng đến khi cô dâu trình diện 2 họ, lúc đó mới hởi ôi. Nàng là con gái cưng của tên cận vệ cho “Đại VC”. Tên này đã mở mắt chưa, thưa quý vị? Chưa. Tại sao Kiêm Ái biết hắn chưa mở mắt? Vì những tin tức báo chí vừa cho hay tên Thủ Tướng VC đã kén rể là người hải ngoại, nhưng rể của hắn ta là con cựu thứ trưởng VNCH, hiện giàu có, và cũng có một chút máu mặt tại Mỹ. Tên háo danh ở đây, chỉ là hạng cắc ké, làm sao bì với “gia thế” của tên rể VC? Thế mà hắn, tên trèo cao té nặng này, vẫn nịnh bợ VC. Có người cho hắn vô liêm sỉ, nhưng thực tế thì nó đã có liêm sỉ hồi nào đâu mà mất!

    Sở dĩ Kiêm Ái đem mấy chuyện điển hình trên kẻ cho đồng hương biết là vì trong dịp tưởng niệm Ngày Quốc Hận 30 tháng Tư vừa qua, có nhiều đồng hương đặt câu hỏi với Kiêm Ái và vài anh em rằng: tại sao bọn Việt Cộng bán nước buôn dân rõ ràng như vậy, từ tên đầu sỏ Hồ Chí Minh cho đến những tên cắc ké làng xã đều là những kẻ lưu manh, phản bội mà vẫn có người theo? Nhất là những tên đã ra hải ngoại, đã núp bóng chống Cộng để Hoa Kỳ cho “tị nạn chính trị” mà vẫn làm lợi, vẫn nịnh bợ VC? Lúc đó, phần vì tâm tư không được bình an khi nghĩ đến ngày 30 tháng Tư năm 1975, phần vì buổi lễ đang tiếp diễn, không tiện nói, mà nói thì các vị cũng nghe câu được, câu mất, hẹn gặp nhau một bữa khác, nhưng khi đến dự tiệc gây quỹ cho vụ kiện Brown Act thì cũng … rứa. Bị chia chỗ ngồi xa nhau, ồn ào vì có tới hơn 60 bàn trong một nhà hàng, không thể nói chuyện, nên hôm nay, nhờ báo Tiếng Dân, Kiêm Ái xin trả lời chung một lần và xin quý bạn hữu xa gần cảm phiền vì không đáp lễ từng người được.

    Như trên đã trình bày, đón gió trở cờ, làm tay sai Việt Cộng có nhiều hạng: thứ nhất là những tên có máu phản phúc truyền kiếp trong người thì bất kỳ chỗ nào chúng cũng phản bội mà trường hợp tên “Cán Bộ Ba Mươi Tháng Tư” Kiêm Ái đã tường thuật ở trên. Thứ hai là những tên có máu nịnh bợ, mà nịnh bợ thì luôn luôn kèm theo háo danh qua chuyện tên đón gió hạng nặng “cưới vợ cho con” nói trên. Thứ Ba là những kẻ có máu láu cá vặt, ưa làm chuyện ngược đời để thiên hạ chửi. Càng bị chửi hắn càng nổi tiếng, ví dụ tên mang danh tướng lãnh, nhưng dốt đặc cán mai, sự nghiệp bắt đầu bắt cách gia nhập lính khố xanh, chuyên cắt cỏ cho ngựa. Gặp thời được lên làm tướng, qua Hoa Kỳ muốn nổi nang, nhưng dốt, bị tay sai VC thổi ống đu đủ, nhờ tay sai VC khác viết sách chống người chống Cộng, bịa điều đặt chuyện nói xấu chế độ đã nuôi dưỡng nó. Mọi người chửi nó, thế là nó nổi danh. Vì dốt nên hắn không biết rằng danh của hắn là loại xú danh! Thứ bốn là những kẻ “đi tu thì con c. không chịu” nên làm chuyện “trái gió lộn lèo” (chữ của ông Tú Xương, không phải chữ Kiêm Ái) ngồi vào đâu người ta cũng không chịu, thôi thì ngồi vào mâm nịnh VC cho bỏ ghét, cho những tên chống Cộng thấy gai mắt chơi! Thứ Năm là những tên thất tình, buồn chuyện gia đình sinh ra làm bậy. Một bữa nọ, trong khi đi làm hay đi học, đi dạy, thấy trong người bất an, trở về nhà, hắn nghe vợ đang la ú ớ trong phòng, đạp cửa bước vào, mong cứu vợ đang bị “xì trốt”, không ngờ, vợ và bạn đang đóng trò con heo. Giận đời, hận người, hắn đi làm tay sai VC, hắn luận rằng: bọn chúng (vợ và bạn) có gan làm bậy, tao làm bạ. Người ta nói Lê Duẫn hồi còn trai, yêu một cô gái bên nhà, bị cha cô cho trượt vỏ chuối, mắc cỡ bỏ đi làm “cách mạng”. Trường hợp những tên tương tự như vậy bỏ hàng ngũ quốc gia theo làm tay sai VC cũng là chuyện chẳng hãn hữu. Thứ sáu là hạng chính khách xa lông. Bọn này chỉ đấu tranh trên giấy, chúng như đám cá tra chờ mồi, nghiên cứu gió Mỹ, gió Việt Cộng thổi chỗ nào thì chúng theo chỗ đó, bọn này có nhiều đứa bị tẩu hỏa nhập ma, làm chuyện Đồng Ky Sốt, tuyên bố ngang xương rằng Mỹ sắp cử chúng về Việt Nam nhận bàn giao từ tay VC, chúng đã thuê bao máy bay, đã may vét tông, đã chuẩn bị vê a gra. Nghe Đại Sứ Hoa Kỳ thăm bác sĩ Nguyễn Đan Quế: ĐẤY, VC đang thương lượng với Mỹ để chúng ra đi bình yên, an toàn hạ cánh, phen này tụi này sẽ về chấp chánh. Nghe Bush qua Việt Nam , chúng la toáng lên: đích thân Tổng Thống Mỹ đã qua Việt Nam thì mọi chuyện đều xong xuôi, ĐẤY, Nguyễn Tấn Dũng đã bị xỏ mũi, v.v… Nhưng hỡi ôi, Mỹ Chú Sam là Chú Sam, lâu lâu các ngài ở Tòa Đại Sứ đi thăm người này, tiếp xúc người kia, chẳng có gì ngoài chuyện cò mồi để cho những kẻ đấu tranh hy vọng, chờ đợi phép lạ của Chú Sam mà cứ yên chí , tin tưởng diễn biến hòa bình của Mỹ, có khi kéo dài cả hàng thế kỷ! Thứ bảy là những kẻ làm tay sai VC chỉ vì muốn hưởng thụ, bọn này cho rằng chúng đã quá cực khổ ở quê nhà, làm thuê làm mướn còng lưng rồi, qua đây phải kiếm tiền, chui vào làm “từ thiện” vừa kiếm được tiền, vừa kiếm được hai cái chức “thân cộng”. Còn nhiều trường hợp khác, nhiều trường hợp rất là vu vơ. Nhưng Mẹ Việt Nam phải chịu những tên phản bội này, dù chúng đã được đất Mẹ nuôi dưỡng, tạo cho chúng thành người.

    Nhưng, xin đồng hương đừng nản chí khi thấy những sáu, bảy thành phần chạy theo xin chức làm tay sai Việt Cộng. Số này rất ít, chẳng qua vì chúng sẵn tiền Việt Cộng mua chuộc, có nhiều phương tiện la lên trên báo, trên đài, nhưng thành phần chống Cộng vẫn ngày càng đông, giới trẻ sinh trưởng ở Hoa Kỳ ngày càng hiểu rõ Việt Cộng, đã tích cực tham gia, nối bước cha anh chống Cộng, mà Ủy Ban Bãi Nhiệm nghị viên ăn cháo đái bát Madison Nguyễn là một, những kẻ đã thành danh, vẻ vang dân Việt mà vẫn chống Cộng triệt để như Dương Nguyệt Ánh, v.v… Chính những người trẻ này đã vạch mặt Hội Đồng Thành Phố San Jose phạm luật Brown Act. Vụ kiện này làm cho tay sai Việt Cộng “nhảy đầm trên lửa!”. Tại sao vậy? Tại lúc này tên nào mà nịnh Việt Cộng hăng hăng một chút là bị đồng bào phản đối, bị đồng bào xa lánh, do đó, chúng thấy việc gì mà phe chống Cộng, phe đấu tranh cho dân chủ, tự do ở tại Hoa Kỳ là chúng nhào vào gây rối, phá hoại, nhất là khi nghe nghị viên phản bội Madison Nguyễn tuyên bố với báo San Jose Mercury News rằng “thương nhân và dân cư trong vùng không ưa Little Saigon vì tên này hàm ý chống Cộng” (đại khái là vậy). Thế là chúng đoán già, đoán non, rằng Madison Nguyễn là người của Việt Cộng.. Không Việt Cộng làm sao lại về Việt Nam “dạy dân chủ” nhiều lần mà vẫn an toàn trên xa lộ, trong khi bác sĩ Phạm Hồng Sơn chỉ “phiên dịch dân chủ” đã bị tù, không Việt Cộng sao ông già trưng 2 bằng cớ “quốc gia” đều là bằng cớ giả! Không Việt Cộng sao lại phản bội cộng đồng người Việt tị nạn Cộng Sản, cộng đồng đã có công lao đưa cô ta lên chức nghị viên. Bất kể trúng trật, bất kể đúng sai, chúng nhào vào binh vực, ăn có. Trong khi đó thì những người Việt Quốc Gia tị nạn Cộng Sản, trong đó có Kiêm Ái không lý gì đến bà Madison Nguyễn có là tay sai Việt Cộng hay không, lại càng không lý đến Madison có là Việt Cộng hay không, nếu căn cứ câu nói trên thì bất quá Madison Nguyễn cũng chỉ là kẻ làm lợi cho VC, chúng ta chỉ chú trọng đến vụ Madison Nguyễn vận động ngầm các đồng viện khác mà cựu nghị viên Forrest William đã thú nhận trên đài VietTVonline. Hơn nữa, vừa khi nghe tin cộng đồng lên tiếng vụ Brown Act thì lập tức, Chuck Reed và Madison “hạ bảng” Saigon Business District liền, bất kể nó đã được Hội Đồng Thành Phố chấp thuận, bất kể đài Quê Hương và lâu la đã reo hò trên đài ăn mừng như bắt được vàng khi mới nghe cuộc họp báo “có 5 người chấp thuận SBD” thế là chúng ta thắng lợi, chỉ còn một “vé” nữa thôi! Thế là thế nào? Thế là lạy ông con ở bụi này. Không phạm Brown Act sao lại hạ bảng? Không phạm Brown Act sao một nghị viên đã lên đài tiết lộ?

    Trên đây là những chuyện có thực, sự thực đau lòng, nhưng bàn tay có ngón ngắn ngón dài huống chi mấy triệu người Việt tị nạn Cộng Sản trên khắp thế giới làm sao không có kẻ phản bội? Làm sao không có những con sâu bọ, những kẻ chưa bao giờ có liêm sỉ lộn sòng? Có điều bọn này chỉ là thiểu số, thiểu của thiểu số. trong khi chúng ta hàng ngũ chống Cộng khi cần đồng bào tập trung cả mấy ngàn như ở San Jơse . Một ví dụ cụ thể là trong khi 2 ngàn đồng hương hội họp tại GI Forum bàn chuyện recall Madison thì một nhóm gọi là Đại diện, đại dại gì đó, âm mưu “chia người” với chúng ta nhưng số người tham dự chỉ đếm đầu ngón tay.

    Kiêm Ái


    Các Cộng Đồng Liên-Châu Chào Đại Kỳ VNCH Trước Trụ Sở Liên Hiệp Quốc Ngày 08.5.2009

    Các Cộng Đồng Liên-Châu Chào Đại Kỳ VNCH Trước Trụ Sở Liên Hiệp Quốc Ngày 08.5.2009

    Hội Văn Hóa Người Việt Tự Do

    Khởi hành ở Paris đi Genève từ 9.00 giờ sáng ngày 06.5.2009 để đón Đại Kỳ đến từ California (USA). Chuyến bay của hãng hàng không Mỹ dự trù sẽ đến phi trường quốc tế Genève vào lúc 17.30 giờ cùng ngày.

    Đoàn đón Đại Kỳ gồm có ông Đinh Lâm Thanh, Chủ Tịch Hội Văn Hoá Người Việt Tự Do, một Nhân Sĩ tại Paris, ông Nguyễn Văn Đông, ký giả, phóng viên truyền hình, ông M. Banassat, nhà văn-nhà báo và nghiên cứu sử học. Vừa đến Genève thì được tin máy bay đến trể và sẽ đáp vào lúc 01,30 giờ sáng ngày 07.5.2009. Một giờ sáng chúng tôi lên phi trường và không thấy gì. Đến sáng 07.5.2008 thì được email xác nhận Đại Kỳ sẽ đến lúc 13.10 giờ bằng máy bay hàng không Mỹ. Nhưng mãi đến 14.30 thì phái đoàn Mỹ đến bằng công ty Pháp-Hòa Lan (AF-KLM) và phải thay máy bay từ Amsterdam cũng như Paris.

    Sau khi nhận bó hoa Màu Vàng với Ba Bông Đỏ tượng trưng cho Cờ Quốc Gia, anh trưởng đoàn đã nói với chúng tôi một thật cảm động:

    "Thưa Bác, đoàn của cháu phải đổi máy bay từ hãng này qua hãng khác 3 lần mới đem Đại Kỳ đến trước ngày 08.5.2009. Nhưng dù phải hy sinh tất cả bất cứ gì, cháu cũng phải bảo vệ và đem cho bằng được Đại Kỳ qua Genève để giao tận tay bác".

    Vì một vài vấn đề kỹ thuật nhỏ, nhưng đã đến giờ ấn định chào Đại Kỳ, ông Đinh Lâm Thanh phải qua hệ thống âm thanh của tổ chức tôn giáo để trình bày sơ lược lịch sử và một vài ý nghĩ của việc xuất hiện Đại Kỳ trước Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc cũng như với các đoàn thể, đại diện các quốc gia, tôn giáo (Phật Giáo, Cao Đài, Tin Lành, Công Giáo ….) và các cộng đồng bạn (Tây Tạng - Miến Điện – Người Khmer Krom - Ấn Độ) đến từ các lục địa: Anh – Pháp – Đức – Hòa Lan – Ba Lan - Đan Mạch – Thụy Sĩ - Bỉ - Ý Đại Lợi – NaUy- Thụy Điển - Mỹ - Canada – Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan … như sau:

    "Đại Kỳ của Nước Việt Nam Cộng Hòa mà chúng ta sắp trân trọng làm lễ chào tại đây là Đại Kỳ đã được treo lên và chào vào giây phút cuối cùng của ngày 30.04.1975 trước Tòa Đại Sứ Việt Nam ở Washington DC Mỹ Quốc. Hiện giờ Đại Kỳ là bảo vật của Bảo Tàng Viện Fresno, California và đây là lần đầu tiên bảo tàng viện Fresno đáp lời mời của Hội Văn Hóa Người Việt Tự Do để đưa Đại Kỳ qua Châu Âu trong dịp ngày thảo luận Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc.

    Sự xuất hiện của Đại Kỳ ngày hôm nay là một thông điệp để gởi cho thế giới hay rằng: Nước Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn sống mãi trên hành tinh nầy, vẫn còn sống mãi trong thế giới tự do và trong lòng người dân Việt Nam. Là một thông điệp để gởi cho bạo quyền cộng sản hãy chấm dứt ngay chế độ độc tài, trả lại Nhân Quyền, Tự Do, Dân Chủ và Ấm No Hạnh Phúc cho toàn thể Dân Tộc Việt Nam. Là thông điệp để gởi cho Liên Hiệp Quốc và yêu cầu Liên Hiệp Quốc phải có thái độ cũng như biện pháp mạnh mẽ đối với bạo quyền Hà Nội.

    Những người con của Việt Nam Cộng Hòa từ khắp năm Châu tụ họp về đây để nói lên tinh thần quốc gia dân tộc, để chứng tỏ tinh thần đoàn kết và đặt quốc gia dân tộc lên trên mọi quyền lợi cá nhân, đảng phái, tôn giáo đồng thời quyết tâm tranh đấu chống bạo quyển cộng sản cho đế ngày thành công. Những người con Quốc Gia từ khắp lục địa về đây, cùng đứng chung dưới Đại Kỳ để nung nấu tinh thần và giữ vững lập trường chống cộng, một mai sẽ cùng nhau rước Đại kỳ nầy về treo lại tại Sàigòn, thủ đô thân yêu của chúng ta."

    Tiếp theo, ông Đinh Lâm Thanh nhận Đại Kỳ và cùng đại diện cộng đồng đến từ các quốc gia Liên Âu dàn đội hình chào cờ ở một vị trí chính giữa các tổ chức cầu nguyện của các tôn giáo. Sau khi đồng thanh hát bài Quốc Ca, các cộng đoàn, cá nhân đến chụp hình lưu niệm với Đại Kỳ và một hình ảnh thật cảm động chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử hải ngoại, đó là rất nhiều người đã đến cúi đầu xuống hôn lên Đại Kỳ với hai giòng nước mắt. Đến 11 .30 giờ để giữ an ninh cho Đại Kỳ và chuyển qua các chương trình bày tỏ cảm tưởng, trình diễn ca khúc tranh đấu, Đại Kỳ được xếp lại và ông Đinh Lâm Thanh đã trao trả lại tận tay với đại diện Bảo Tàng Viện Fresno trước sự nuối tiếc của những người tham dự biểu tình ngay hôm nay.

    Dù còn một vài chi tiết thiếu phối hợp nhưng buổi lễ chào Đại Kỳ của các cộng đồng Liên-Âu đã xảy ra thật tốt đẹp trong tinh thần hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau và đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên tất cả những hình thức khác. Điều nầy chứng tỏ sự đoàn kết của các cộng đồng người Việt Hải Ngoại đồng thời buổi chào cờ đã đem lại vinh dự cho những ai có dịp đứng dưới lá Đại Kỳ nầy.

    Genève, 08.5.2009













    Saturday, May 9, 2009

    Biểu tình tại Geneva đòi dân chủ-nhân quyền cho Việt Nam

    Trà Mi, phóng viên đài RFA
    Âm thanh:

    Ngày hôm nay, 8-5-2009, đông đảo đồng bào Việt Nam từ khắp nơi quy tụ về trước trụ sở Công Trường Liên Hiệp Quốc (Place des Nations) ở thành phố Geneva của Thuỵ Sĩ, biểu tình kêu gọi Hà Nội tôn trọng dân chủ-nhân quyền, nhân dịp lần đầu tiên Việt Nam tham gia “Kiểm điểm nhân quyền định kỳ” tại Liên Hiệp Quốc.

    Trụ sở Công Trường Liên Hiệp Quốc (Place des Nations) ở thành phố Geneva của Thuỵ Sĩ. Nơi gần 700 người Việt tập trung biểu tình đòi dân chủ-nhân quyền cho Việt Nam

    Người Việt từ khắp nơi trên thế giới

    Từ 7 giờ rưỡi sáng nay, 8/5/09 (giờ Thụy Sĩ), hàng trăm người Việt tại hải ngoại từ các nơi như Hoa Kỳ, Châu Âu, Châu Úc đã có mặt đông đủ trước trụ sở Công Trường Liên Hiệp Quốc, nơi phái đoàn Hà Nội sẽ hiện diện để báo cáo nhân quyền trong buổi “Kiểm điểm nhân quyền định kỳ” đầu tiên mà Việt Nam tham gia với quốc tế.
    Tất cả đồng bào về tham dự từ Úc, từ Hoa Kỳ, từ Tây Âu và Bắc Âu, khoảng 500 người và 36 hội đoàn - tổ chức - đảng phái và tôn giáo. Họ bắt đầu có mặt tại đây từ lúc 7 giờ rưỡi sáng, cho đến bây giờ là tới gần 2 giờ trưa mà đồng bào vẫn còn đông, cờ rất là nhiều. Tất cả các phái đoàn chính phủ, kể cả phái đoàn Hà Nội, trước khi vào Điện Quốc Liên đều phải đi ngang Công Trường LHQ và đã thấy rất nhiều biểu ngữ, rất nhiều cờ vàng ba sọc đỏ.
    Ông Võ Văn Ái
    Lúc 1:30h chiều, tức 1 tiếng đồng hồ trước khi buổi báo cáo của Việt Nam chính thức diễn ra, ông Võ Văn Ái, thuộc Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam, đại diện Ban Tổ Chức cuộc biểu tình, mô tả với chúng tôi về không khí của cuộc biểu tình:

    - "Tất cả đồng bào về tham dự từ Úc, từ Hoa Kỳ, từ Tây Âu và Bắc Âu, khoảng 500 người và 36 hội đoàn - tổ chức - đảng phái và tôn giáo. Họ bắt đầu có mặt tại đây từ lúc 7 giờ rưỡi sáng, cho đến bây giờ là tới gần 2 giờ trưa mà đồng bào vẫn còn đông, cờ rất là nhiều. Tất cả các phái đoàn chính phủ, kể cả phái đoàn Hà Nội, trước khi vào Điện Quốc Liên đều phải đi ngang Công Trường LHQ và đã thấy rất nhiều biểu ngữ, rất nhiều cờ vàng ba sọc đỏ. Chút nữa, 2 giờ rưỡi thì phái đoàn Hà Nội sẽ phúc trình. Chúng tôi sẽ trở lại LHQ để theo dõi cuộc phúc trình này.
    Cuộc biểu tình này theo dự trù thì chúng tôi bắt đầu từ 8 giờ sáng cho tới 5 giờ rưỡi chiều là bởi vì phái đoàn Hà Nội sẽ phúc trình từ 2 giờ rưỡi tới 5 giờ rưỡi chiều nay. Không phải là phúc trình suốt 3 tiếng đồng hồ đâu, nhưng mà sau khi lời phúc trình của phái đoàn Hà Nội thì tất cả các quốc gia thành viên có mặt ở đó sẽ chất vấn hay là khuyến thỉnh về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Chính vì lý do đó mà chúng tôi sẽ ở lại đây cho đến khi chấm dứt cuộc phúc trình ở trong Điện Quốc Liên.
    Chúng tôi sẽ chuyển kết quả của buổi kiểm điểm này đến Quốc Hội Châu Âu để thúc đẩy Ủy Ban Châu Âu phải lưu tâm đến những vi phạm nhân quyền của Hà Nội trước khi đặt bút ký kết bất cứ thoả thuận hợp tác kinh tế-thương mại nào với Việt Nam
    Thượng Nghị Sĩ Berduca từ Ý
    Trong số các nhân vật quốc tế đến đây để theo dõi buổi báo cáo nhân quyền của Việt Nam có Thựơng Nghị Sĩ Berduca từ Ý. Trước khi buổi báo cáo bắt đầu, ông đã có mặt trong cuộc biểu tình này và phát biểu trước hàng trăm đồng bào người Việt hải ngoại, cổ suý cho nhân quyền Việt Nam.

    Ông Berduca nói rằng "Buổi báo cáo nhân quyền của Việt Nam sẽ bắt đầu trong 1 tiếng nữa, và tôi cần phải nói chuyện với một số nhà ngoại giao quốc tế để nhắc nhở họ về thực trạng nhân quyền tại Việt Nam. Chúng tôi sẽ chuyển kết quả của buổi kiểm điểm này đến Quốc Hội Châu Âu để thúc đẩy Ủy Ban Châu Âu phải lưu tâm đến những vi phạm nhân quyền của Hà Nội trước khi đặt bút ký kết bất cứ thoả thuận hợp tác kinh tế-thương mại nào với Việt Nam."

    Thông điệp ủng hộ của các chính khách

    Ông Võ Văn Ái cũng cho biết một số chính khách các nước không tham dự được buổi báo cáo này cũng đã gửi thư bày tỏ sự ủng hộ công cuộc vận động kêu gọi Việt Nam tôn trọng nhân quyền:

    Ông Võ Văn Ái: Chúng tôi có được 8 thông điệp gửi tới hậu thuẫn cho cuộc biểu tình của người Việt hôm nay, đó là bà Mac Bride - Giải Nobel Hoà Bình, Dân Biểu Hoa Kỳ Chris Smith, bà Laurretta Sanchez, ông Ed Royce, ông Thượng Nghị Sĩ về dân quyền của Quốc Hội Anh và dân biêủ Pháp. Tất cả chúng tôi có được 8 thông điệp và 8 thông điệp đó đều tố cáo sự vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền Hà Nội và hoan nghênh cuộc biểu tình của người Việt năm châu đã gặp gỡ trước Điện Quốc Liên."
    Chúng tôi có được 8 thông điệp gửi tới hậu thuẫn cho cuộc biểu tình của người Việt hôm nay, đó là bà Mac Bride - Giải Nobel Hoà Bình, Dân Biểu Hoa Kỳ Chris Smith, bà Laurretta Sanchez, ông Ed Royce, ông Thượng Nghị Sĩ về dân quyền của Quốc Hội Anh và dân biểu Pháp.
    Ông Võ Văn Ái
    Trà Mi: Dạ vâng. Bây giờ ông vui lòng cho chúng tôi được thưa chuyện với một vài người biểu tình có mặt tại đó ạ.
    Ông Võ Văn Ái: Dạ. Tôi thấy bên cạnh đây có một chị Hội Phụ Nữ Tự Do ở Đức Quốc sang đây để tham dự biểu tình từ hồi sáng sớm.
    Trà Mi: Dạ. Cảm ơn ông.

    Tất cả đều là "Tự do - Dân chủ - Nhân quyền cho Việt Nam"

    Chị Thạnh Lộc: Alô! Tôi đây là Thạnh Lộc. Tôi đi từ Đức qua bên này mất 7 tiếng đồng hồ để dự biểu tình yêu cầu Liên Hiệp Quốc để ý đến vấn đề nhân quyền của Việt Nam. Bên Đức các phái đoàn chúng tôi đi bằng xe buýt và xe nhỏ vào khoảng 90 người.
    Trà Mi: Vâng ạ. Bây giờ bà có thể cho chúng tôi được hỏi thăm những người kế cận bên đó được không?
    Chị Thạnh Lộc: Thưa, ở đây bây giờ đang mưa lớn nhưng mà hãy còn đông lắm. Để tôi chuyển telephone lại.
    Chúng tôi đã mang đến đây một biểu ngữ rất là vĩ đại, dài 44 feet , chiều rộng 4 feet, để ủng hộ lời kêu gọi của Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ, đặc biệt là yêu cầu Đảng Cộng Sản Việt Nam phải chấm dứt ngay việc cho khai thác bauxite.
    LS Trương Ánh Thành
    Luật sư Thành: Dạ vâng. Tôi là LS Trương Ánh Thành. Chúng tôi đến Genève hôm nay với tư cách đại diện cho Uỷ Ban Người Việt Tị Nạn Hải Ngoại về vấn đề lãnh thổ lãnh hải của Việt Nam. Chúng tôi đã mang đến đây một biểu ngữ rất là vĩ đại, dài 44 feet , chiều rộng 4 feet, để ủng hộ lời kêu gọi của Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ, đặc biệt là yêu cầu Đảng Cộng Sản Việt Nam phải chấm dứt ngay việc cho khai thác bauxite. Thứ ba là yêu cầu Việt Nam phải nộp hồ sơ cho Uỷ Ban Luật Biển Quốc Tế (UNCLOS) trước ngày 13-5-2009. Chúng tôi hết sức vui mừng cuộc biểu tình ngày hôm nay phải nói là hết sức thành công, hết sức thành công, hết sức là đông đảo.
    Trà Mi: Thưa Luật Sư, theo chỗ ông ghi nhận thì ở đó bây giờ có sự hiện diện của bao nhiêu người biểu tình ?
    LS Thành: Trước Điện Quốc Liên này từ sáng tới chiều tôi ước tính đến khoảng 700 đồng bào và điều vui mừng là các tôn giáo đứng lại với nhau, các đoàn thể đứng lại với nhau, rồi đi tuần hành với các biểu ngữ, cờ vàng rực trời trước Điện Quốc Liên với khí thế đòi hỏi nhân quyền cho Việt Nam.
    Trà Mi: Dạ. Cảm ơn Luật Sư rất nhiều.
    Dù chúng ta đang sống trong một thế giới đang bị chi phối bởi rất nhiều vấn đề như là kinh tế, như là đại dịch cúm heo chẳng hạn, nhưng mà chúng ta đừng quên rằng có một đại khối đồng bào Việt Nam của chúng ta đang thiếu thốn tự do, đang thiếu thốn nhân quyền
    Thầy Giác Đẳng, Texas
    Chị Tánh: Dạ. Xin kính chào. Mặc dầu ở xa hơn nửa vòng trái đất, Võ Tánh đến đây trong buổi biểu tình tại Genève này và Võ Tánh rất là xúc động thấy cuộc biểu tình ngày hôm nay, và ước vọng là lúc nào cũng muốn cho mau sớm có tự do - nhân quyền cho quê hương Việt Nam.
    Trà Mi: Dạ. Thưa chị, chị vui lòng cho biết là bà con đến đây mang theo những thông điệp gì, những biểu ngữ gì, và họ có những khẩu hiệu như thế nào ?
    Chị Tánh: Tất cả đều là "tự do - dân chủ - nhân quyền cho Việt Nam".
    Thầy Giác Đẳng: Dạ. Tôi là thầy Giác Đẳng đến từ thành phố Houston, Texas, Hoa Kỳ.
    Trà Mi: Dạ. Và thông điệp mà thầy mang đến ngày hôm nay trong cuộc biểu tình này là gì?
    Thầy Giác Đẳng: Chúng tôi mong tất cả mọi người lưu tâm một điều rằng cho dù chúng ta đang sống trong một thế giới đang bị chi phối bởi rất nhiều vấn đề như là kinh tế, như là đại dịch cúm heo chẳng hạn, nhưng mà chúng ta đừng quên rằng có một đại khối đồng bào Việt Nam của chúng ta đang thiếu thốn tự do, đang thiếu thốn nhân quyền, và chúng ta phải tiếp tục công việc vận động cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam.
    Trà Mi: Dạ vâng. Thưa thầy, vui lòng cho biết là ngay giữa cuộc biểu tình này thầy có cảm nghĩ như thế nào ?
    Thầy Giác Đẳng: Chúng tôi đặc biệt rất là cảm kích sự hiện diện của một số rất lớn những đồng bào đến từ Úc Châu, từ Hoa Kỳ, từ Âu Châu, từ Đức, Hoà Lan, từ nhiều quốc gia đến đây. Có những người đến đây một mình, nhưng cũng đến cũng tham dự, đó là một điều chúng tôi rất là cảm kích. Chúng tôi cũng nhận ra tại đây, trong công trường này, mình có nhiều nhóm người, nhiều tổ chức, kể cả những nhóm người Kampuchia.

    Diễn tiến và nội dung buổi kiểm điểm nhân quyền định kỳ bên trong trụ sở Công Trường Liên Hiệp Quốc ở Geneva, Thụy Sĩ, sẽ được chúng tôi gửi đến quý vị trong thời gian sớm nhất. Mời quý vị đón theo dõi.

    Việt Nam ghi tên thềm lục địa chung với Mã Lai

    Hình bên: Bản đồ Biển Đông do Trung Cộng tự vẽ với lằn ranh chiếm gần hết diện tích như hình lưỡi bò. Các nước Đông Nam Á có bờ biển quanh biển Đông lại chỉ được “chia” cho một tí rẻo sát bờ biển. Sự tham lam và ngang ngược ỷ thế nước lớn bá quyền của Trung quốc hiện rõ trên tấm bản đồ này.

    HÀ NỘI 8-5 (TH) - Nhà cầm quyền CSVN nộp hồ sơ đăng ký thềm lục địa mở rộng với Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa của LHQ (Commission on the Limits of the Continental Shelf được gọi tắt là CLCS) và tức thời bị Bắc Kinh chống lại nhưng chỉ chống một nửa.

    “Ngày 7/5, chính phủ Việt Nam đã trình Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa của Liên Hợp Quốc báo cáo quốc gia xác định ranh giới thềm lục địa nằm ngoài phạm vi 200 hải lý tính từ đường cơ sở của Việt Nam.”

    Bản tin của TTXVN ngày 8/5/2009 viết. “Trước đó, ngày 6/5, Việt Nam và Malaysia cũng đã phối hợp trình Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa báo cáo chung về khu vực thềm lục địa kéo dài liên quan đến hai nước. Việc trình các báo cáo này là để thực hiện các quy định liên quan của Công Ước Luật Biển năm 1982 của LHQ.”

    Năm 1974, Trung cộng chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Từ năm 1988 đến 1995 Trung cộng chiếm một số đảo trong quần đảo Trường Sa từ Việt Nam và Phi Luật Tân. Sau đó, Trung cộng vẽ lại bản đồ biển Đông, ngang nhiên vạch vẽ ranh giới chiếm gần hết biển và các nước trực tiếp có bờ biển là Việt Nam, Phi Luật tân, Mã Lai chỉ còn một rẻo biển nhỏ sát bờ.

    Những diễn biến xảy ra gần đây cho thấy dấu hiệu Bắc Kinh không ngừng bành trướng bá quyền nước lớn dù đã chiếm đất của nhiều nước khác trên đất liền. Nay Bắc Kinh vẫn không ngừng ỷ thế nước lớn và có sức mạnh quân sự so với các lân bang nhỏ bé phía nam để lấn biển.

    Khi Việt Nam vừa nộp hồ sơ đăng ký thềm lục địa mở rộng như công ứơc quốc tế về luật biển ấn định, Bắc Kinh liền áp lực với tổng thư ký Liên Hiệp Quốc.

    Bản tin Tân Hoa Xã thuật lời một viên chức Trung Quốc tại LHQ nói “Phái đoàn thường trực của Trung quốc vừa trao một công hàm cho Tổng Thư Ký LHQ Ban Ki-moon yêu cầu CLCS không xét hồ sơ đăng ký chung của Việt Nam và Mã Lai về thềm lục địa mở rộng bên ngoài 200 dặm.”

    Trước áp lực của dư luận người Việt trong và ngoài nước, nhà cầm quyền Hà nội đã phải hoàn tất việc đăng ký nói trên trước hạn chót 13/5/09 theo Công Ước về Luật Biển 1982 (USCLOS) mà CSVN đã phê chuẩn năm 1994.

    Công ước này qui định mỗi nước ven biển có vùng đặc quyền kinh tế tối đa 200 hải lý tính từ đường cơ sở (bờ biển) của nước này. Công ước USCLOS cũng ấn định nếu thềm lục địa kéo dài hơn 200 hải lý thì nước đó có đặc quyền khai thác tài nguyên dưới đáy biển trong một vùng ngoài 200 hải lý gọi là thềm lục địa mở rộng.

    Sau khi đã lấn chiếm một số đảo và quần đảo của các nước trong khu vực, Bắc kinh coi gần hết biển Đông là của mình.

    “Mã Lai và Việt Nam trình bản đăng ký chung tới LHQ hôm Thứ Tư, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Trung quốc, quyền pháp lý ở biển Đông.”

    Tân Hoa Xã viết. “Chính phủ Trung Quốc, do đó, long trọng kêu gọi CLCS không xem xét đơn đăng ký chung (nói trên) căn cứ theo công ước về luật biển và thủ tục đăng ký CLCS.”

    Bản tin này không nói gì đến bản đăng ký riêng về thềm lục địa mà CSVN đệ nạp. Bản tin Tân Hoa xã nói rằng theo thủ tục ghie tên đặc quyền kinh tế thềm lục địa CLCS “trong những trường hợp mà đất liền hoặc biển tranh chấp tồn tại, ủy ban sẽ không xét đơn và công nhận hồ sơ đăng ký từ bất cứ một nước nào liên quan trong vụ tranh chấp”.

    Nếu đúng theo tinh thần này, hai hồ sơ đăng ký đặc quyền kinh tế trên thềm lục địa của Việt Nam và hồ sơ ghi tên chung Việt Nam-Mã Lai có thể gặp rắc rối.

    Từ Hà Nội, phản ứng lại sự chống đối của Bắc Kinh, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao CSVN, Lê Dũng, nói rằng, “Việc trình các báo cáo này là việc làm bình thường của quốc gia thành viên, nhằm thực hiện nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của Công Ước LHQ về Luật biển năm 1982. Nội dung công hàm của phía Trung Quốc và bản đồ kèm theo công hàm đó đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông. Đường yêu sách 9 đoạn của Trung Quốc thể hiện trên bản đồ đi kèm với công hàm là không có giá trị vì không có sơ sở pháp lý, lịch sử và thực tiễn”.

    Đây là một trong những lần hiếm hoi người ta thấy nhà cầm quyền Hà Nội nói thẳng tên nước Trung Quốc trong các vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ. Những lần khác, kể cả những lần hải quân Trung Quốc bắn giết ngư phủ Việt Nam ngay trong vùng biển của mình, Hà Nội hoặc nín lặng hoặc chỉ phản đối bóng gió chiếu lệ.

    Tuy nhiên, lời nói của Lê Dũng cũng như hồ sơ mà CSVN nộp tại cơ quan UNCLOS có nhiều điều đáng nghi ngờ.

    Trong bản hồ sơ nộp chung với Mã Lai, liên quan đến khu vực biển Đông ở phía Nam chung với Mã Lai, CSVN nói trong bản tóm tắt là hai nước (Việt Nam và Mã Lai) “có những tranh chấp chưa giải quyết ở những vùng xác định trong bản đăng ký chung” (The two coastal states wish to inform the Commission that there are unresolved disputes in the Defined Area of this Joint Submission).

    Nhưng trong bản nộp riêng về khu vực biển Đông ở phía Bắc, CSVN lại nói “không có trùng lặp và tranh chấp” (not a subject of any overlap and dispute) tuy vẫn nói chủ quyền Việt Nam gồm có cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

    Đây là lý do tại sao Bắc Kinh chỉ phản ứng đối với bản đăng ký mà CSVN nộp chung với Mã Lai chứ không đả động gì tới bản CSVN nộp riêng về vùng biển phía Bắc. Đây là nguyên văn phần 4 của bản văn CSVN nộp riêng về “Không có tranh chấp” (Absence of disputes):

    “Căn cứ theo đoạn 2(a) của Phụ bản I về Luật Lệ và Thủ Tục của Ủy Ban, Việt Nam kính loan báo cùng Ủy Ban rằng có một sự hiểu biết chung là khu vực thềm lục địa (là đối tượng của bản hồ sơ đệ nạp này) có sự trùng lặp lợi ích của các nước có bờ biển liên quan (Việt Nam và Trung Quốc). Tuy nhiên, chiếu theo Công Ước UNCLOS 1982, Việt Nam coi khu vực thềm lục địa này (đối tượng của bản hồ sơ đăng ký này) không là đối tượng của sự tranh chấp hay trùng lặp nào”.

    Sự mâu thuẫn này, theo sự phân tích của một người đấu tranh dân chủ thì “CSVN đã đồng ý chia quyền lợi với Bắc Kinh ở biển Đông rồi, không còn tranh chấp nữa”. Như vậy, CSVN không nhờ LHQ đứng ra tài phán các sự tranh chấp chủ quyền lãnh thở lãnh hải giữa CSVN với Trung Quốc. Nói khác, CSVN xác nhận những gì Trung Quốc nhìn nhận trên biển Đông của họ là của họ chăng? Dù bề ngoài vẫn ra bộ nói rằng hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa là của Việt Nam để đánh lừa dư luận quần chúng.

    Đây là hai cái link để mọi người có thể đọc hai văn bản mà nhà cầm quyền Hà Nội thông báo việc ghi tên thềm lục địa biển Đông:



    Hồi năm ngoái, công ty BP của Anh quốc và công ty Exxon Mobil của Mỹ đã nhìn nhận không tiếp tục tiến hành các dự án dò tìm dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam vì sự chống đối của Bắc Kinh.

    Được biết cơ quan CLCS không có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, vùng biển khi có sự chồng lấn lên nhau. CLCS chỉ xét đăng ký nếu vùng tranh chấp có sự thỏa thuận của các nước liên hệ.

    Theo sự khảo cứu của ông Dương Danh Huy về biển Đông, trường hợp có sự tranh chấp tồn tại, sự đăng ký có thể tiến hành như đăng ký toàn bộ thềm lục địa mở rộng và nêu rõ những vùng bị tranh chấp. Hoặc chỉ đăng ký cho phần không bị tranh chấp và sẽ đăng ký phần bị tranh chấp sau, có thể sau hạn kỳ 10 năm. Hoặc một số nước tranh chấp có thể đăng ký chung phần chỉ có những nước này tranh chấp và những nước này sẽ phân định những phần này với nhau sau.



    Việt Cộng Cản Trở Điều Tra Nhân Quyền LHQ - Nguyễn hoàng Quý


    Nguyễn hoàng Quý

    Geneva - Tổ Chức Nhân Quyền Quốc Tế hỗ trợ người Việt tỵ nạn cộng sản trên toàn thế giới tố cáo nhà cầm quyền Việt cộng đàn áp những nhà bất đồng chính kiến và dân tộc thiểu số, cũng như ngăn cấm quyền tự do báo chí, gây khó khăn cho người dân vào mạng lưới toàn cầu.

    Trong bản báo cáo đệ nạp Hội đồng nhân quyền LHQ đòi hỏi nhà cầm quyền Việt cộng trả tự do những người tù chính trị, những người nầy bị gán tội nguy hiểm đến an ninh quốc gia.

    Hồ sơ nhân qưyền của chế độ Hà nội đã bị đem ra tra vấn về những cáo buộc mà Hà Nội hiện đang vi phạm, tại phòng hội luận 47 quốc gia, của LHQ, Geneva, hôm thứ sáu, ngày 8 tháng 5, 2009.

    Ủy Hội Nhân Quyền Việt Nam và Hội Nhân Quyền Liên Quốc (FIDH) tố cáo nhà cầm quyền Việt cộng thi hành chính sách giam cầm, sách nhiễu tôn giáo, đàn áp, khủng bố những nhà bảo vệ nhân quyền, bóp nghẹt quyền tự do báo chí, và án tử hình bị lạm dụng thái quá.

    Chính sách hạn chế sinh đẻ dẩn đến hệ quả là tỷ lệ phá thai tăng vọt cao nhất thế giới, theo báo cáo của hai tổ chức có cơ sở tại Paris.

    Đại sứ LHQ của Việt cộng tại Geneva kịch liệt phản đối những cáo buộc vi phạm nhân quyền là vu khống và không chính xác.

    Phát ngôn viên ngoại giao Vũ Dũng phủ nhận tư cách hoạt động của tập thể người Việt hải ngoại trong việc vạch trần tội ác vi phạm nhân quyền của Việt cộng, và tuyên bố chỉ có chế độ Hà nội mới có đủ tư cách hợp pháp đại diện cho Việt Nam bàn thảo về nhân quyền với Liên hiệp Châu Âu và các quốc gia khác(!)

    Theo báo cáo mới nhất cho biết Hà Nội thường mang tội danh hoạt động tình báo kết án những người chống đối, hầu ngăn chận họ phát tán tin tức lên mạng toàn cầu.

    Hoạt động tình báo, tội danh dành cho những người có hành vi bạo động nguy hiểm như khủng bố, thế mà người tranh đấu ôn hòa thực hiện quyền tự do một cách bất bạo động lại bị kết tội như thế. Những ai bị kết tội sẽ phải nhận lấy án tù khổ sai, hoặc chung thân, có khi phải chịu tử hình. Có bảy trường hợp bị xử tử hình.

    Penelope Faulkner, Ủy ban nhân quyền Việt Nam, cho biết, hàng trăm người Việt lưu vong tạo ra một cuộc biểu tình rầm rộ phản đối Việt cộng bên ngoài trụ sở LHQ ở Geneva, cùng lúc một cuộc phê phán hiếm có đối với Hà nội xảy ra bên trong trụ sở LHQ.



    Bà ta còn cho biết thêm, những nước theo chế độ cộng sản như Trung cộng, Cuba và Hà nội đều áp dụng giống nhau biện pháp giam cầm độc ác đối với người dân của nước họ bằng mọi hình thức, kể cả hình phạt quản chế tại gia, một hình thức cầm tù mà nhà cầm quyền không cần phải nuôi.

    Công an đặc trách mạng của Việt cộng luôn tìm cách không cho phát tán tài liệu chống đối chính quyền lên mạng toàn cầu, họ cũng ra sức ngăn cản người xử dụng mạng vào những trang web có nội dung ủng hộ nhân quyền và dân chủ, theo bản báo cáo ghi nhận.

    Một người tù chình trị cho biết, sau khi mãn hạn tù giam, chị ta còn phải chịu thêm án tù giam lỏng tại nhà dưới sự kiểm soát của công an địa phương kéo dài đến 5 năm.

    Bà Faulkner tiết lộ, mỗi năm chế độ Hà nội xử án trung bình khoảng 100 người với 29 tội danh khác nhau dành cho tội phạm giềt người, kinh tế đến phản quốc.

    Trong báo cáo của người Việt không cộng sản nêu rõ đàn áp tôn giáo tại Việt Nam hiện nay khá thường xuyên và rộng khắp, mặc dù quyền tự do tôn giáo đã được bảo đảm trong hiến pháp của nước cộng sản nầy.

    Giáo hội phật giáo Việt Nam thống nhất đã bị cấm hoạt động từ năm 1981. Sắc tộc Thượng, dân tộc thiểu số trung du nam phần Việt Nam, theo đao Tin Lành, trong cuộc chiến tranh chống việt cộng họ đã chiến đấu bên cạnh quân đội Hoa Kỳ, là nạn nhân chính của tập đoàn cai trị Hà nội.

    Nguyễn Hoàng Quý