Sunday, April 26, 2009

Xin Bình An Cho ... Những Người Đã Chết - Phạm Hậu

Lời Giới Thiệu: Trước 30.4.1975, tôi quen biết Đại Tá Phạm Hậu qua chức Giám Đốc Đài Phát Thanh Quân Đội và sau này qua các chức vụ quan trọng hơn như Tổng Giám Đốc Việt Nam Thông Tấn Xã, Tổng Giám Đốc Hệ Thống Truyền Thanh Việt Nam và đặc biệt tôi quen biết ông qua bút hiệu Nhất Tuấn, nhà thơ nổi tiếng thời bấy giờ với thi phẩm bất hủ "Chuyện Chúng Mình"...

Tôi có đọc qua bản thảo bài viết của Đại Tá Phạm Hậu cách đây chừng hơn 2 tháng nhân ông hứa sẽ viết 1 bài để đăng vào đặc san của Khóa 12 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam - Đà Lạt và khóa này đã đào tạo Đại Tá Phạm Hậu và nhiều sĩ quan ưu tú khác dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu và sau này là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa thời Đệ Nhị Cộng Hòa.

Đại Tá Phạm Hậu và tôi cùng có quan điểm chung là nên viết chuyện thật người thật dù không nhiều thì ít cũng gặp sự phê bình, chỉ trích khắc khe hay dưới một góc nhìn của người khác không cùng mình nhìn về một hướng. Vì vậy, Cựu Đại Tá Phạm Hậu - nhà thơ Nhất Tuấn chỉ muốn dùng bài viết: Xin Bình An Cho Những Người Đã Chết đăng trong đặc san của Khóa 12 Đà Lạt, nhưng tôi nghĩ đây là một bài viết có tính lịch sử, có cái nhìn của một người học trò trông nhìn vào thần tượng ông thầy của mình và những tâm tình của cựu Đại Tá Phạm Hậu viết về cựu Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt và cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, một bài viết có giá trị về nhiều mặt.

Với tư cách là người đồng tuế với cựu Đại Tá Phạm Hậu, sinh năm 1935, với cấp bậc trong Quân Đội tôi kém hơn 2 mai bạc và cũng là người bạn thân của bào đệ ông là cựu Thiếu Tá Phạm Huấn, cùng ám số chuyên nghiệp quân sự 470.0 - sĩ quan thông tin báo chí. Tôi xin mạo muội gởi bài viết này để xin bình an cho những người đã chết cho quốc gia dân tộc. Cựu Thiếu Tá Trần Văn Ngà, Khóa 13 Thủ Đức, cựu Sĩ Quan Thông Tin Báo Chí QLVNCH.


*
* *

    XIN BÌNH AN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT
Kính truy tặng cố Trung Tá CHT, Cố Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu

Phạm Hậu, K12/VBĐL

1. Những năm tháng đau buồn ấy


Được mời bất ngờ, cùng các bạn Đài Phát Thanh QĐ và Báo Diều Hâu & Phòng Báo Chí Cục Tâm Lý Chiến dự bữa cơm tối tại hoa viên Dinh Độc Lập với Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, rồi khoảng 2 tháng sau tôi bàn giao đài Phát thanh Quân Đội cho anh Văn Quang để theo học Khóa 7 Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp (CHTM/CC). Mãn khóa, 1/1971, về lại TC/CTCT và sau đó tôi qua Bộ Thông Tin, quản trị Nha Vô Tuyến Truyền Thanh (VTTT).

Việc đề cử tôi về VTTT khi tôi còn đang học lớp CHTM/CC trên Đàl Lạt là do ông Hoàng Đức Nhã, khi đó là Bí Thư Tổng Thống kiêm Tham Vụ Báo Chí Phủ Tổng Thống, và được sự chấp thuận của TT Nguyễn văn Thiệu.

Hơn 30 năm sau, ông Nhã kể lại khi trình hồ sơ với những lý do tại sao chọn tôi trong danh sách ứng viên do nhiều cơ quan, yếu nhân, đoàn thể đề nghị, Tổng Thống Thiệu coi hồ sơ, và thấy tên tôi, tốt nghiệp VBĐL/K12, ông mỉm cười nói với ông Nhã:

- Còn nhớ anh chàng này !

Từ ngày tôi về điều hành VTTT (20/07/1971), sau đổi là Hệ Thống Truyền Thanh VN (HTTT/VN) thuộc Bộ Dân Vận và Chiêu Hồi (BDVCH), tiếp theo qua đảm trách Tổng Giám Đốc Việt Nam Thông Tấn Xã, (trực thuộc Bộ DV & CH) tôi và hai cơ quan truyền thông trọng yếu này đã hòa nhập ngay vào “guồng máy quốc gia” cùng Đệ Nhị Cộng Hòa và toàn dân Miền Nam, nổi trôi theo Mệnh Nước, qua Mùa Hè Đỏ Lửa cùng Bình Long Anh Dũng, Kontum Kiêu Hùng Trị Thiên Vùng Dậy …

Và rồi … Tháng Tư Đen 30/4/1975, như một trận Bão Thần kinh hoàng ập tới, kéo sụp Miền Nam của chúng ta.

Nhớ tới những tháng ngày kinh khủng và cuộc đổi đời đó, tôi cũng viết vài bài đề cập tới giờ phút chót thoát khỏi VN (1), và “Những Kỷ Niệm với Ngành Phát Thanh” (2)

Nhân dịp phát hành “Kỷ Yếu Khóa 12”, vào tuổi “cổ lai hy” tôi muốn viết ít cảm nghĩ về “ Trung Tá Thiệu, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu” để các bạn Khóa 12 rõ ; và nếu cuốn kỷ yếu này tới tay các độc giả bên ngoài, xin quý vị tùy nghi tìm hiểu thêm những năm tháng đau buồn ấy của Miền Nam thân yêu.

2. Hoàn cảnh VN thời Đệ Nhị Cộng Hòa

Khác xa với Đệ Nhất Cộng Hòa thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, khi Ông Thiệu làm Tổng thống thì Hoa Kỳ đã áp đặt được nền Dân Chủ kiểu Mỹ mà họ rất hãnh diện, để chỉ bảo cho các quốc gia nhược tiểu chậm tiến trông vào Mỹ mà bắt chước.

Thấy vậy nhưng không phải vậy, vì trên thực tế, Việt Nam bị những áp chế lấn luớt dưới đây của anh bạn Đồng Minh kiêu căng:

a. Cùng một lúc họ cử 2, 3 Đại Sứ, Phó Đại sứ tới thường trực tại VN; về phía quân sự, họ đưa qua cả chục tướng lãnh sao đầy trên vai, trên cổ áo. Thêm vào đó, tại Miền Nam VN còn có hơn nửa triệu quân của Mỹ, và quân của đồng minh (Đại Hàn, Thái Lan, Phi, Tân Tây Lan, Úc …)

b. Các cố vấn Hoa Kỳ thì lan xuống tới cấp Tiểu Đoàn, Chi khu.

c. Mỹ có các Đài Phát Thanh riêng, có các Đơn Vị Dân Sự Chiến Đấu và tiêu tiền dollars riêng. Đại Hàn cũng có đài phát thanh riêng tại VN cho quân đội của họ.

Quân đội Mỹ tràn vào VN đúng vào thời gian nội các quý ông Phan Huy Quát & Bùi Diễm (nhóm Đại Việt) cùng kỹ sư Phan Khắc Sửu điều khiển guồng máy quốc gia và quý vị lãnh đạo này, tiếc thay, không ai dám phản đối quyết liệt.

Thương quá anh em Tổng Thống Ngô đình Diệm của Đệ Nhất Cộng Hòa trước đó đã bị thảm sát vì chống đối không chịu để Mỹ trực tiếp tham chiến tại miền Nam. Anh em ông Diệm, Nhu, Cẩn … họ không muốn cuộc chiến đấu chống Cộng mất hết chính nghĩa qua sự hiện diện của quân ngoại quốc tại Miền Nam.

Gần đây, cuốn sách Triumph Forsaken: the Viet Nam War,1954-1965, của Tiến sĩ Mark Moyar, hiện là giảng viên tại đại học Thủy Quân lục Chiến của Hoa Kỳ ở Quantico, tiểu bang Virginia, “đã phản bác phương cách giải thích thông thường về vai trò của HK trong cuộc chiến. Sự đóng góp lớn của ông Moyar là đã cho thấy rằng quyết định của HK bỏ rơi ông Diệm và giúp lật đổ ông ta là lỗi lầm lớn nhất trong cuộc chiến” (3).

3. Thuợng tôn Pháp Luật

Sau nhiều cuộc chỉnh lý, đảo chính … những ngôi sao mọc nhanh hơn nấm, đủ loại tướng. Nhưng có một số nhỏ tướng bất tài, vô kỷ luật cũng như vài chính trị gia không đặt quyền lợi Tổ Quốc lên trên và còn làm bậy, làm hại cho tinh thần chiến đấu chống Cộng của quân dân Miền Nam, xét theo luật, ông Thiệu trừng trị họ thẳng tay.

Ông Thiệu nổi tiếng là rất kỹ khi ban tặng các huy chương, nhất là Bảo Quốc Huân Chương với nhành dương liễu; và khi các cơ quan Tư Pháp trình lên, những vụ nhũng lạm, phạm pháp, nếu có đầy đủ chứng cớ, Ông cũng đã xử phạt nhiều tướng lãnh khá nghiêm ngặt bất ngờ.

Trong số này nhiều vị đã là sỹ quan cấp tá, Tư Lệnh Liên Đoàn BB ở ngoài Bắc trước 1954 khi ông Thiệu còn ở cấp đại uý, cũng như nhiều vị là cựu bộ trưởng, đương kim tư lệnh sư đoàn do chính ông bổ nhiệm, hay có vị đã từng đảm nhận chức Tư lệnh Sư Đoàn, Tư lệnh Binh Chủng trước ông ngay từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa, bị phạm kỷ luật nặng có chứng cớ thật rõ ràng thì cũng không khoan nhượng.

3. Truy tố, tống giam hay quản thúc trong khi chờ Tòa xét xử

Ô. Nguyễn tấn Đời, Bác sĩ Trần Kim Tuyến, Dân Biểu Trần Ngọc Châu, Nghị sĩ Nguyễn văn Chức ….

4. Cho ký giả ngoại quốc … biết phép nước

Từ cuối thập niên (19)60, VN là nơi rất đông ký giả ngoại quốc tới thuờng xuyên. Một số, nhất là ký giả Hoa Kỳ, lộng hành làm trời làm đất, coi dân Việt, cảnh sát và giới chức thông tin của ta … bằng nửa con mắt.

Khi ông Nhã, em họ Tổng thống Thiệu, giữ chức vụ Bí Thư Tổng Thống (1968), tiếp kiêm Tham vụ báo chí Phủ TT (1969), và sau coi Bộ Bộ Dân Vận & Chiêu Hồi, ngay từ đầu đã chỉ thị Trung Tâm Báo Chí (TTBC) theo dõi thật sát để giữ đám ký giả ngông nghênh này trong khuôn phép.

Những chuyên viên của TTBC đa số đều tốt nghiệp Cử Nhân, Cao Học tại ngoại quốc. Họ tình nguyện về phục vụ Đất Nước với quyền lợi lương bổng bằng ½ nhiều khi bằng 1/5 so với các hãng ở Mỹ, Pháp, Đức, Úc, Nhật trả cho họ.

Ví dụ ông Cục Phó Cục Thông Tin Quốc Ngoại, trong đó có Trung Tâm Báo Chí (TTBC) mà ông trông coi. Ông Trần Khánh Vân này có bằng kỹ sư hầm mỏ tại trường University of Missouri, School of Mines. Ông đậu Thủ Khoa, nhưng đặc biệt, điểm tốt nghiệp của ông cao nhất trong lịch sử từ khi ngôi trường rất danh tiếng này được thành lập.

Phối hợp trước vói cơ quan An Ninh, nhiều phóng viên ngoại quốc (đa số là Hoa Kỳ) gây rối loạn nơi công cộng, uống rượu say lái xe, đánh nhau dành gái bị “các em” khiếu nại … và xe Cảnh Sát … rất tình cờ … tới lúc đó, để nhân viên công lực còng tay ngay trên phố đông, hay nơi khách sạn, giữa tiệm ăn … rồi đẩy kẻ phạm pháp lên xe về bót nằm ít giờ hay 1, 2 ngày. Văn phòng ông Vân là cứu tinh của họ trong các trường hợp này, và lẽ dĩ nhiên tùy “lý lịch riêng” của mỗi người, Ông Vân sẽ giúp họ khác nhau.

Có người 1,2 giờ ngồi cho muỗi đốt. Có người ... phải chờ vài ngày, nằm ép rệp, ngửi mùi nước tiểu khai nồng, thèm thuốc điên người.

Trường hợp “đặc biệt” 3, 4 phóng viên bị trục xuất khỏi VNCH, trong đó có trưởng phòng đại diện của báo New York Times, dù đại sứ Bunker đích thân can thiệp với Ông Nhã, nhưng cuối cùng hắn vẫn bị đuổi về Mỹ!

Đây là thành tích ngoạn mục nhất, ông Vân theo lệnh ông Nhã, cho ký giả ngoại quốc ở VN "biết phép nước"… mà các trào truớc, thời cụ Diệm, thời quý ông Phan Huy Quát, Bùi Diễm, Phan Khắc Sửu, thời tướng Kỳ … chưa có trường hợp tương tự.

5. Rất thương quân sĩ và vô cùng can đảm

Ông Thiệu là một trong những sỹ quan có bằng nhẩy dù tuy không bắt buộc vì ông không ở binh chủng này. Trước đó khi là sĩ quan cấp úy, ông đã phục vụ tại Đệ Tam quân Khu Bắc Việt cùng các sỹ quan cấp úy cấp tá như: Trần Thiện Khiêm, Phạm văn Đỗng, Dương Quý Phan, Nguyễn BảoTrị, Tôn Thất Đính, Trần Văn Cường, Đỗ ngọc Nhuận, Đỗ Mậu.v ..v..

Khi biết chuyện Quỹ Tiết kiệm Quân Đội có sự mờ ám và bọn đầu nậu lon to lấy tiền lính góp hàng tháng để đầu tư riêng cho phe cánh tài phiệt của họ, ông cho lệnh điều tra ngay. Có chứng cớ rõ ràng, ông bãi bỏ quỹ này, trả lại tiền cho lính cùng nghiêm phạt các giới chức liên hệ .

Mùa Hè Đỏ Lửa, tháng 5/1972, ông Thiệu ra thanh sát chiến trường Trị Thiên. Đoàn xe 6 chiếc Jeep quân đội mui trần. Ông ngồi xe đầu bên cạnh tướng Trưởng, Tư Lệnh QK1.

Xe thứ 2 là Lữ Đoàn trưởng Thiết Kỵ và Bộ Tham Mưu Quân Đoàn.

Xe thứ 3 có tướng Đặng Văn Quang, ông Hoàng Đức Nhã và vài sỹ quan tham mưu.

Các toán truyền tin, cận vệ chất trên những chiếc Jeep sau.

Suốt lúc đi cũng như khi về, pháo và hỏa tiễn địch rơi dọc hai bên đường khi xa lúc gần ở cả phía trước và phía sau đoàn xe.

Lúc đó thì bom đạn tránh người và bà gọi ai người ấy thưa! Biết đâu mà né trốn?

Đó là Chiến Trường Trị Thiện Vùng Dậy.

Rồi ngày 7/7/72, Tổng Thổng Thiệu và Đại Tướng Viên với 2 trực thăng bất chợt nhào vào Bình Long Anh Dũng thăm chiến sĩ mặt trận An Lộc khi tiểu khu này còn đang mịt mù khói lửa.

Xin trích 1 đoạn bài viết của CÙI 12 TBX: viết trên đặc san trường VBĐL:


"TT Thiệu tới trước Đài Chiến Sĩ Trận Vong của Biệt kích 81 quỳ xuống tưởng niệm. Khi đứng dậy, ông rút khăn mùi-xoa lau mắt đỏ hoe.

Ông chỉ thị cho Đại Tướng Cao Văn Viên: - Bộ TTM xét trình thăng thưởng đặc cách mỗi người 1 cấp và thiết lập loại huy chương đặc biệt, đặt tên là “Bình Long Anh Dũng”, ân thưởng cho những quân nhân đã dự chiến trường tại An Lộc.

Trọng pháo vẫn nổ ì ầm, khi xa lúc gần. Nhưng khi ông Thiệu vừa dứt tiếng, bỗng pháo địch rơi ào ạt quanh khu Bắc An-Lộc, có trái rớt cách phái đoàn vài trăm thước đất cát tung mờ mịt. Từ TT Thiệu, tới các tướng tá và cả ông Bí Thư dân sự Nhã không một ai hoảng sợ nằm xuống hay chạy nấp sau các bao cát.

Trái lại mấy người cùng cười vang khi TT Thiệu quay qua nói với tướng Pháp Vanuxem:

- Nó lại pháo nữa như mọi ngày, cả hơn 3 tháng rồi. Chắc nó biết tôi đến hôm nay nên nó đón chào tôi đấy!"


Tại chỗ Vòm Chợ, có một số đồng bào và anh em quân sĩ đứng ngồi rải rác xung quanh chờ đợi. TT Thiệu tới, đứng trên chiến xa giữa cả đống chiến xa địch đã bị bắn cháy. Ông nói rất hay, hùng hồn lưu loát. Ông khen quân dân An Lộc không chịu khuất phục bọn CS ác ôn. An Lộc rất xứng đáng là Bình Long Anh Dũng cũng như Kon Tum Kiêu Hùng. Đặc biệt ông khen các đơn vị Địa Phương Quân cũng như Nghĩa Quân của Tiểu Khu Bình Long không tiếc lời vì họ chiến đấu dũng cảm không thua sút đơn vị chính quy.

Cùng với đơn vị phòng thủ, ĐPQ/NQ cũng bắn hạ các chiến xa đủ loại của địch, từ thiết vận xa PT76, chiến xa phòng không ZSU 57/2 và ngay cả chiến xa số 1 của Nga viện trợ cho CSBV, chiếc T 54 nổi tiếng khắp thế giới, cũng bị anh em ĐPQ bắn cháy !

Ông còn nói thêm: - Đồng bào đừng quên, tướng Hưng và Đại Tá Nhựt cùng các chiến sĩ giữ vững An lộc tới giờ phút này là nhờ toàn dân hậu thuẫn, sát cánh với các chiến sĩ. Vậy đây là thành tích chung của Quân Dân An Lôc.

Chỉ ít ngày sau chuyến vào An lộc của TT Thiệu, 1 trực thăng HK, thả tướng Tallman và phái đoàn rồi vút lên rất nhanh. Bắc Quân vẫn còn phục sẵn ở Đồi Gió, dùng súng không giật 75 ly bắn vào bãi đáp. Trực thăng thoát, nhưng tướng Tallman và một số sĩ quan Mỹ chết tại chỗ.” (4).

6. Quyết liệt bảo vệ Đất Nước

Miền Nam mất đã hơn 30 năm. Đọc các lời tuyên bố, bài báo và hồi ký của yếu nhân Mỹ: Ô Nixon, Kissinger, Johnson, Ford, hay những bài viết trung thực mới đây của tiến sỹ Lewis Sorley (5), họ đều có nhận xét ông Thiệu đã quyết liệt tranh đấu tới phút cuối cùng cho quyền lợi của VNCH trong vụ Hòa Đàm Ba Lê.

Quân Dân Miền Nam, dưới sự lãnh đạo của ông đã tin tưởng và đánh thắng CSBV nhiều trận rất oai hùng (TCK/Mậu Thân, Hạ Lào, Mùa Hè Đỏ Lửa..)

Dịch bài của Sorley xong, những giòng kết luận, cựu Trung Tá Không Quân Trần Đỗ Cung, người dịch, đã viết:

“Trong phần dành cho Thiệu tôi thấy thương ông ta khổ tâm nhiều trong thời kỳ mười năm nắm vận mệnh quốc gia, đương đầu với Mỹ, với đe dọa đảo chính và với tình hình đa đoan của nước nhà.

Được đọc bài phỏng vấn cựu Phụ Tá thân cận Nguyễn Văn Ngân của Trần Phong Vũ tôi càng nhìn rõ sự cô đơn của một lãnh tụ, thông minh, mưu trí nhưng sinh bất phùng thời. Và tôi càng thông cảm nỗi bất hạnh của ông để đặt câu hỏi “một người khác nắm quyền có khá hơn không hay là chúng ta lại phải trải qua một bất hạnh lớn hơn ?

Ngoài ra chúng ta có thể tìm đọc thêm những tài liệu vừa đựơc Hoa kỳ cho giải mật, ví dụ cuộc thảo luận giữa Chu Ân Lai và Kissinger ngày 20/6/1972, đề cập tới sự sắp xếp của các đại cường Tư Bản và Cộng Sản quốc tế mà Mỹ & Trung Cộng, gạt Nga ra ngoài, để Mỹ và Trung Cộng giữ vai trò then chốt (6). Nhưng có một câu hỏi tới nay chưa ai trả lời rõ ràng được:

Vụ rút quân khỏi Vùng 2 và Vùng 1 Chiến Thuật?

Còn nhớ, tháng 7/2000, nhân dịp đám cưới con gái Lôi Hổ (LH) Đoàn Hữu Đ. ở VA., một số đông anh em LH quanh vùng mà 1/3 là tù cải tạo vừa qua Mỹ đoàn tụ nghe tin Ông Bà Thiệu đến, họ tự động tới nơi tổ chức tiệc cưới; phần để chung vui với LH Đ. phần để âm thầm bảo vệ Ông bà Thiệu như khi ông Thiệu còn là Tổng thống VNCH của họ năm xưa.

Bàn ông Thiệu trong tiệc cưới có nhiều tướng lãnh ngồi chung, nhưng không có Tướng Trưởng.

Một trung tá, học trò Ông Thiệu, người đã thăng cấp đại úy trước tướng Trưởng 3 năm, từ Seattle qua VA mừng gia đình bạn đồng nghiệp ở bộ Dân Vận & Chiêu Hồi ngày nào nhân dịp cháu Hải V., trưởng nữ của bạn vu quy, nghe LH Đ. nói, có ÔB Thiệu ngồi bàn gần đó nên vội dẫn vợ con lại chào và thấy ông vẫn còn khỏe mạnh vui vẻ.

Ai ngờ, năm sau vào ngày đám cưới Hải N., thứ nữ của LH Đ., tuy đã nhận lời, nhưng ÔB Thiệu không thể tới dự vì đúng ngày 29/9/2001, Ông Thiệu mất do biến chứng của bệnh xuất huyết trên não.

7. Tin Đồn và…có những câu hỏi !

Ngày 7/2/2007 tôi đọc 2 bài báo. Bài mới của Nguyễn kỳ Phong (NKP), và bài cũ cho đăng lại của Phạm Kim (PK). Vào cuối tháng 1/2007, tướng Trưởng tạ thế, nên dịp này họ viết nhiều về ông.

Phạm Kim thuật lại khá chi tiết lúc tướng Trưởng, mặc quần áo xám của lính Hải Quân, không có cấp bậc, ngồi trên bãi bể chờ Hải Quân cứu.

Ông bị bắt ngay khi về tới Saigon.

Lại thêm nhiều bí mật hé lộ.

Bí mật và tin đồn thì nhiều lắm lắm. Phe Ông Kỳ dọa đảo chánh liên miên. Một ông Tướng mà ông Thiệu vừa đeo sao và bổ nhậm làm Tư Lệnh 1 đại đơn vị, sau này viết trên báo ở Hải Ngoại, tiết lộ … đã nói với ông Trưởng - bạn cùng khóa - để ông đem đơn vị đang tăng phái tại V1, về đập tan Dinh Độc Lập, nhưng ông Trưởng không thuận.

Xin bình yên cho những người đã chết

Bài của Phạm Kim đã đăng trên nhật báo NVCali và Quán Văn từ 4/2005, và Phạm Kim nói với người viết ngày 12/2/07, Đô Đốc Chung Tấn Cang xác nhận là PK viết đúng sự thực mặc dù vị tướng HQ này là một người tu xuất bên đạo CG và rất ít nói.

Nhiều quân nhân VNCH bị chết thảm vì phi cơ của ta oanh kích “lầm” (?) trên chiến hạm HQ 404 - nơi mà Saigon biết … như là có tướng Trưởng ở trên tầu này.

Một trong những người chết là Trung Úy Nguyễn Độ, người Bắc, bạn của Phạm Kim. Phạm Kim, cựu SQ Báo Chí của Hải Quân trước 1975, một ký giả chuyên nghiệp yêu nghề và rất thành đạt trong báo giới, cũng là người hơn 15 năm trước giới thiệu nhà thơ trẻ Trần Mộng Tú, và đúng như sự kỳ vọng của anh, Trần Mộng Tú là một nữ thi sĩ nổi danh khắp thế giới sau đó, và có đông độc giả ở VN hiện nay.

Phạm Kim còn nhấn mạnh, chính vị Tư Lệnh HQ cuối cùng do Đại tướng Dương Văn Minh chỉ định, Đại Tá Nguyễn VănTấn, 1 trong những người tù lâu năm nhất trong Trại Cải Tạo của CS, cũng xác nhận bài viết của PK trung thực.

Lại xin bình an cho những người đã chết

Lịch sử sau này sẽ có nhiều việc, rất nhiều viêc phải làm cho rõ trắng đen. Cấp chỉ huy nào đã ra lệnh cho chuẩn tướng Chức để ông dám sẵng giọng hỏi trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân ĐOÀN I:

- Ai cho anh về? (7) Tướng Trần Văn Đôn tân Tổng Trưởng Quốc Phòng, hay ông Thiệu?

Nhưng trong bài mới nhất viết về tướng Trưởng, ông đã trả lời sau khi Nguyễn Kỳ Phong, gặng hỏi ông nhiều lần, v/v rút quân khỏi V1:

“Tướng bại trận thì không thể nói mình anh dũng. Bậc trí sĩ, đại phu, khi để mất nước không thể nói mình có mưu lược.”(8)

Có thể qua câu nói này, với tuổi đời ngày một già, và đọc thêm nhiều tài liệu đã giải mật, ông Trưởng phần nào hiểu được tại sao có vụ thảm bại Tháng Tư Đen.

Và đặt địa vị ông vào chỗ ông Thiệu, ông sẽ làm như thế nào?

Có khá hơn chăng?

Có giữ được Miền Nam chăng, dù rút hay không rút khỏi 2 VCT (I và II)?

Gác bỏ ra ngoài mọi nghi vấn, tôi vẫn nghĩ: ông Trưởng là một dũng tướng rất đáng kính phục của binh chủng Dù chúng tôi.

Hơn nữa, ông là vị tướng thanh liêm, ăn ở tròn trịa. Cùng 3 sao, nhưng Tư Lệnh Quân Khu Ngô Quang Trưởng vẫn ra tận sân bay nghiêm chỉnh chào đón Tư lệnh Sư đoàn Dù, xếp cũ của mình, mỗi lần Trung tướng Dư Quốc Đống tới Vùng 1/CT.

Hơn nữa tình hình đâu đã quá bi đát ??

Cổ Thành Quảng Trị còn lấy lại được, huống hồ giữ Huế dù gay cấn cho lắm thì cũng chỉ như hồi Mậu Thân 1968 là cùng!

Nhưng lệnh từ Dinh Độc Lập, rồi từ Tổng Tham Mưu ... nhiều lệnh và cấp bách quá. Chuyện quốc gia, người nào cũng rối như tơ vò và mấy ai hiểu cho lòng tướng biên thùy lúc này ?

"…Lệnh sáng: giữ, lệnh chiều: bỏ Huế
Bao chiến công cũng thế mà thôi
Tro thiêu rải bốn phương trời
Hạt tro nào …dạt vào nơi Cổ Thành”
(nhất tuấn /TCM)

Và … nơi quê người, mặc dù tướng Trưởng bị TT Thiệu phạt, ông vẫn đích thân lên Boston dự lễ an táng của TT Thiệu, khác với nhiều tướng lãnh, tổng trưởng, đại sứ … trước đây nhận ngập ơn mưa móc; nay nghĩa tử là nghĩa tận, lại viện cớ không tới dù ở cách thành phố Boston chẳng bao xa.

Mấy ông tai to mặt lớn này thua tướng Trưởng, và các anh Mạch Văn T., Lưu Vĩnh L. K12 chúng tôi rất xa!

Nhiều lần ông Nhã tâm sự với người viết, những ngày hòa đàm Hiệp Định Ba Lê, đôi khi thật tột cùng cô đơn, vì với bao nhiêu tướng lãnh bộ trưởng trong phòng họp ở Dinh Độc lập, nhìn quanh … không còn một ai là dám cãi lại Đồng Minh dù thấy rõ là họ đang ép mình tới nghẹt thở, và nước sắp mất tới nơi.

Chỉ có TT Thiệu và ông Bí Thư Nhã, hai người dân Phan Rang, nhất định chống kỳ cùng để “còn nước còn tát’, chịu chung trách nhiệm với quân dân đang ngày đêm chống giặc thù từ tuyến đầu lửa đạn.

Khi tính mạng bị đe dọa sỗ sàng kín, hở, ông Nhã đã nói thẳng với viên đại tướng da trắng tóc hung đó:

- Các ông ám sát chúng tôi là cùng chứ gì! (9).

Trong một buổi chiều trung tuần tháng 10/1972, khi ông Kissinger sang Saigòn để ép TT Thiệu ký hiệp định Ba Lê mà ông ta (Kissinger) đã kết thúc với Bắc Việt trước đó vài ngày, nhưng Đại sứ Bunker và phái đoàn của Kissinger phải ngồi chờ hơn nửa giờ mới được DĐL tiếp, tiếp một cách rất miễn cưỡng, và Kissinger về tay trắng, bẽ bàng vì không giữ được lời hứa trước chắc chắn hòa đàm Ba Lê sẽ được ký ngày đó … tháng đó ...

Và ngay lập tức HTTT/VN chúng tôi … mấy ngày liên tiếp … đã đả kích đích danh “cố vấn” Kissinger cùng Thượng nghị sĩ McGovern (ứng cử viên TT của đảng DC, vua phản chiến và gọi Saigon/VN là ổ điếm) và nói thẳng, giải pháp của Mỹ trong hòa đàm ở Ba Lê đã ép VNCH và làm lợi cho CSBV quá nhiều.

Mới đây, các nhà viết sử đã nghiên cứu viết lại cho thật chính xác về: Lê Ngọa Triều, về «Ngụy Tây Sơn», về «Việt Gian theo Pháp Nguyễn Thân» khi tiểu loạn Cần Vương, đào mả cụ Phan Đình Phùng, thiêu ra tro, trộn với thuốc súng bắn khắp 4 phương (10).

8. Lịch Sử sẽ xét lại hết

Xin hãy để lịch sử xét công và tội của TT Nguyễn Văn Thiệu.

Khi ông chết, các Sỹ Quan K12 trên Miền Tây Bắc Hoa Kỳ chúng tôi vẫn tổ chức lễ truy điệu ông rất trang trọng, do Thượng Tọa Trụ Trì Chùa Phật Giáo VN chủ lễ, dù có sự chống đối đả kích ở địa phương.

Là khóa đầu tiên của nền Cộng Hòa, chúng tôi có nhiều người khi ra trường được tuyển chọn làm Sỹ quan tùy viên của TT Ngô đình Diệm, như các anh Lê công Hoàn, Nguyễn Cửu Đắc, Đỗ Thọ.

Khóa 12 cũng có nhiều người đảm trách các chức vụ dân cử, công cử, tiểu khu trưởng. Chúng tôi cũng có nhiều anh mang cấp đại tá; có vị lên tướng, như anh hùng An-Lộc, Chuẩn tướng Mạch Văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB.

Ra trường tôi không làm việc trực tiếp dưới quyền ông Thiệu.

Mang cấp đại úy từ 10/1960, cấp bậc Thiếu tá do Niên Trưởng Vũ Đức V. (K1 VBNĐ) đề nghị vì thấy tôi đeo 3 mai vàng cùng với ông, nay ông đeo 2 mai bạc là Tổng Giám Đốc Cục VTTT, tôi coi đài PT Nha Trang vẫn còn ở cấp đại úy.

Còn thăng cấp Trung Tá đầu năm 1972 không phải do Bộ Thông Tin đề nghị mà theo danh sách thăng thưởng thường niên tự động nếu đủ tiêu chuẩn của BTTM/TQT.

Tuy chỉ là một cấp chỉ huy điều hành các cơ quan thừa hành trong chính phủ, nhưng hàng ngày nghe tường thuật của các phóng viên khi họ ra tiền tuyến làm phóng sự chiến trường hoặc theo cấp lãnh đạo vào Trị thiên, Kontum, An Lộc (11); và trên hết, vì được làm gần cấp lãnh đạo trong giờ phút nghiêm trọng của Đất Nước, tôi mới cảm nhận thấy hết được sự phẫn hận đau đớn tủi nhục tột cùng của nguời dân một nước VN nhược tiểu.

Cũng vì thế tôi càng thêm kính phục Tổng Thống Thiệu cùng ông Nhã về tinh thần yêu nước của hai người. Họ không sợ đảo chánh, ám sát, dù rất cô đơn mà vẫn quyết một lòng tranh đấu cho Quê Hương.

Còn ai làm hơn họ lúc đó?

Dù bài viết này có thể không vừa ý nhiều người, nhưng tôi không thể ngậm tăm mãi!!

Tôi muốn nói rõ ra sự can đảm của những cấp chỉ huy đáng kính của tôi vì tôi biết họ chịu muôn áp lực từng giờ phút, mà vẫn xả thân lo việc nước..

Cá nhân tôi, tới bây giờ vẫn kính trọng vị cựu Chỉ Huy Trưởng, Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu, như thời gian tôi và các bạn K12, khóa đầu tiên của nền Cộng Hòa (12), khi mái tóc còn xanh, mộng đời còn đầy ắp, hăm hở xin nhập học trường VBLQĐL hơn nửa thế kỷ trước.

Ngay cuối thập niên (19)49 và giữa thập niên (19)50 ông Thiệu đã được cử du học ở Pháp (khóa Sỹ Quan BB) và Hoa Kỳ, khóa dành cho sỹ quan cao cấp, học về nghệ thuật quân sự và phương cách lãnh đạo chỉ huy cấp sư đoàn cùng sự điều động cấp quân đoàn trong các cuộc hành quân phối hợp. Đặc biệt tại Fort Leavenworth, Kansas, Khóa dậy Nghệ Thuật Chỉ Huy và Lãnh Đạo, chính các sỹ quan Khóa Sinh Mỹ than là lớp học rất khó, có nhiều người phải tự tử.

Niên Truởng Thiếu tướng Trần Quang K., khóa 6/VBDL, là khóa sinh của trường này, cũng xác nhận với tôi đó là sự thật qua lá thư của Tổng thống Eishenhower cựu khóa sinh, đã than phiền «khóa học hết sức căng thẳng, thời gian quá dài»…

Lá thư này hiện nay còn đóng khung treo tại Nhà trường.

Là con người, hẳn ông Thiệu cũng có nhiều lỗi lầm trong binh nghiệp cũng như nơi chính trường. Có nhiều câu hỏi như trên tôi đã viết, lịch sử cần phải làm cho sáng tỏ.

Và thêm vài điều như:

- Năm 1972-1974, mình đánh bao nhiêu trận hào hùng, tinh thần Dân Quân Cán Chính lên như diều dù lúc đó Bắc Quân đã vượt Bến Hải đánh khắp mọi nơi vô cùng nguy ngập mà vẫn giữ được nước.

Qua năm 1975 chưa đánh trận nào đã mất ½ lãnh thổ và 2 Quân Đoàn (13); và “tại sao Miền Nam VN với một quân đội được trang bị đầy đủ và thiện chiến như vậy, chỉ trong 40 ngày đã biến mất?” (14)

- Tại sao những dũng tướng của QL/VNCH, ngoài tướng Trưởng, ví dụ 1 ông tướng trước khi về đảm nhận trách vụ tư lệnh 1 đại đơn vị, đã từng nổi danh là Tư lệnh Lữ đoàn Ưu Tú nhất trong tứ trụ: Lịch, Nam, Lưỡng, Trưởng, rất dạn dầy chinh chiến của SĐ Nhẩy Dù; nếu bỏ tù ông vì liên hệ tới các vụ buôn lậu, tại sao một vị trung tướng khác và “mấy bà lớn nổi tiếng với những áp phe kinh người” mà dư luận chú ý tới nhiều hơn … vẫn bình chân như vại?

Cả việc bắt giữ BS Trần Kim Tuyến và LS Nguyễn văn Chức cũng có nhiều dị nghị.

Hẳn có nhiều uẩn khúc phức tạp mà chỉ có giới chức Tư Pháp cao cấp mới có thể hiểu rõ được!

Và cũng quan trọng hơn hết, thực sự công tội ông ra sao? Ông tháu cáy với Mỹ ??

Tuy không là sử gia, nhưng tôi có thể nói ngay điều này: chắc chắn chính Tổng Thống Thiệu là người phải chịu trách nhiệm nặng nề nhất vì để mất Miền Nam!

Nhưng tôi tin ông không bán nước cầu vinh. Và tôi cũng không tin ông thấy Miền Nam Tự Do sắp mất, mà sợ hãi, lo giữ lấy thân, cắm đầu nhắm mắt tuân theo lệnh ngoại bang; hoặc diễn trò ma giáo "nhận dollars của Mỹ còn chống Mỹ giả vờ !" như luận điệu của các phần tử chống đối ông đã ác ý xuyên tạc.

Chê trách thì nhiều lắm lắm và ai cũng nói được; nhưng, như GS Nguyễn Ngọc Linh trong bài gần đây nhất, sau khi thống trách các nhà lãnh đạo Đệ II VNCH về thảm nạn Tháng Tư Đen:

- người ra lệnh vội rút quân rồi chạy thoát thân;

- người không biết xoay sở nên đã lấy quyết định bất hợp pháp;

- kẻ chưa bao giờ được dân cử dù là chức xã trưởng, mà lúc đó cũng tranh đòi điều khiển quốc gia …

cuối cùng tác giả Râu Cáo dịu giọng:

- “Trách là trách đấy thôi, chứ đến 10 ông Thiệu, ông Hương, ông Minh cũng không làm sao cứu vãn được tình thế một khi Mỹ đã nhất quyết cắt hết viện trợ quân sự khiến vào những ngày cuối cùng của chiến tranh, mỗi người lính chỉ còn được phát mỗi ngày có mấy viên đạn và một trái lựu đạn mà thôi.” (15)

Và thành thật mà nói, trong hoàn cảnh này, liệu ai có phép thần thông để giữ được Miền Nam? Hay “một người khác nắm quyền có khá hơn không hay là chúng ta lại phải trải qua một bất hạnh lớn hơn ”? như dịch giả Trần Đỗ Cung đã viết ở trên.

Các vị này đã có lý khi nêu những nhận xét khách quan trên, vì trong cùng số báo Ngày Nay 594, mục thường xuyên, cũng có bài bác sĩ Việt Nguyên viết căn cứ theo cuốn sách “Nixon and Mao“ của bà Magaret Macmillan, một sử gia Gia Nã Đại, cho thấy những bí mật tình báo bất ngờ tới nay mới được khám phá:

“Chánh phủ Trung Quốc đã trợ giúp cho Bắc Việt lên đến 20 tỷ Mỹ kim từ năm 1950 tới 1975 khi Saigon sụp đổ. Trung quốc gửi hàng trăm ngàn súng đạn, quân cụ, quân trang, quân dụng, mùng chống muỗi; tổng cộng 320,000 quân vào cuối thập niên 1960. Trung quốc xây cầu đường nhưng đồng thời xử dụng điều khiển đại pháo chống phi cơ và hỏa tiễn phòng không.

Sự hiện diện của lính Trung Cộng giúp Bắc Việt rảnh tay đánh lại VNCH và Hoa Kỳ” (16)

Ngay từ 1955, không phải lệnh nào của Mỹ cũng phải tuân theo vì Trung Tá Nguyễn văn Thiệu đã bênh vực tôi khi xảy ra sự lộn xộn giữa tôi và viên giáo sư Mỹ, dậy Anh Ngữ trong trường rồi ông này vu cáo tôi, đòi đeo súng cũng như phải có người theo bảo vệ mỗi khi tới trường VBDL vì nếu không SVSQ Phạm Hậu sẽ giết ông ta.

Gần đây, Niên Trưởng Ngô văn N., học trước tôi nhiều lớp ở Chu Văn An Hanoi, cựu y sỹ Liên Đoàn Nhẩy Dù VN, đã khen ông Thiệu, khi nhớ lại lúc bên Hành Pháp mời 10 người, trong đó có Ông N. vào dự dạ tiệc tại Dinh Độc lập.

Số người này thuộc bên Lập Pháp (Quốc Hội Lập Hiến) dù đã nhiều lần được phía quân đội khéo léo dò hỏi rồi thuyết phục, họ vẫn không dứt khoát thuộc phe Thuận hay Không Thuận trong số phiếu quyết định cuối cùng để cho liên danh Thiệu Kỳ đắc cử hợp pháp.

Trái với dự đoán của mọi người, không có vụ đe dọa, hay mua chuộc bằng chức vụ, cho các ghế đại sứ, bộ trưởng ….

Vào điểm chính, sau bữa ăn, khi gần tiễn khách, ông Thiệu nói với mọi người, đại ý:

- Việc Nước là việc Chung. Thế cờ đã như thế, các anh OK thì cùng làm, bằng không thì chúng ta xóa bài làm lại !

Từ truớc 1970 cho tới nay, lời dặn dò của TT Thiệu đôi khi như văng vẳng bên tai: "Đừng nghe những gì CS nói mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm !".

Tới bây giờ câu nói này vẫn còn rất đúng!!

Và ngay đầu năm 1974, dù biết Đồng Minh không yểm trợ chúng ta, nhưng trong trận hải chiến Hoàng Sa ,TT Thiệu đã chỉ thị rõ ràng cho HQVN: "Chúng ta không để mất một tấc đất nào cả ! " (17)

9. Cái Quan Định Luận

Làm người thật khó. Người lãnh đạo một nước còn khó hơn gấp bội!!

Đọc Sử VN cận đại, anh hùng Nguyễn Huệ đại thắng quân Thanh, chết rồi còn bị quật mồ, phân thây, đầu lâu là bình nước tiểu mỗi ngày cho người thắng trận.

Cận thần nam nữ danh tướng của mình thì bị voi dầy ngựa xé và mấy trăm năm sau chính sử nhà Nguyễn vẫn gọi triều đại Tây Sơn là Ngụy Tây.

Tổng thống một cường quốc bên kia Thái Bình Dương của VN, hai anh em lần lượt cùng bị bắn chết trong mùa tranh cử.

Người chết có thể lờ mờ đoán được ai là kẻ thù, nhưng chính hung thủ còn sống cũng không sao hiểu được, phút chót lệnh tới, họ phải bấm cò nhả những viên đạn oan nghiêt vào mặt vào ngực những người rất đáng kính trọng này.

Còn TT Ngô đình Diệm?

Phe CS chôn sống anh và cháu ông năm 1945. Gần 20 năm sau, tới luợt 3 anh em ông bị đâm, bắn trên Thiết vận xa, bị xử bắn bởi lệnh các tướng lãnh của VNCH, quốc gia Miền Nam Tự Do mà chính ông thành lập nên gần 10 năm trước đó!

Và TT Nguyễn Văn Thiệu?

Không bị giết chết, nhưng cũng quá tệ!! Lính đập phá mồ mả, đốt nhà cửa xóm làng ông, viết trên mộ trên tường những lời chửi bới tàn độc. Rồi suốt bao năm nơi viễn xứ lưu đầy, ông nhận chịu bao nguyền rủa, thù hận của thuyền nhân, của tù cải tạo, của cô nhi tử sĩ … qua các cơ quan truyền thông, trút hết cho ông chỉ vì 4 chữ «TỘI QUY VU TRƯỞNG ».

Tám năm làm Tổng Thống, chẳng biết quyền rơm vạ đá ra sao, chỉ thấy ông phải chịu hơn 30 năm ngậm hờn cho tới lúc chết.

Tôi chưa từng nghe 1 bạn nào cùng Khóa 12 nặng lời chê trách Ông Thiệu bao giờ.

Họ chỉ nói ông giỏi tham mưu, rất kỹ trong công việc khi ra lệnh thì kiểm soát việc thi hành lệnh từng chi tiết, và nhớ dai để … quên đeo sao cho ông này ông nọ (các đạị tá Đỗ Ngọc N., Nguyễn Quốc Q, Trần Văn C. vv ….), phòng xa tránh hậu hoạn, nhưng không đuổi tận diệt tuyệt, và người có khả năng vẫn cho làm việc tương xứng.

Với tôi và rất đông các bạn K12, ông Thiệu là một vị tướng lãnh tài giỏi, can đảm; vị Tổng Thống Yêu Nước Thương Dân Thương Lính và cũng như vị tiền nhiệm của ông, Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã tận lực bảo vệ Miền Nam thân yêu của chúng ta.

Tiếc thay việc lớn không thành!!

Từ ngàn xưa mấy ai đem thành bại luận anh hùng ???

Lần cuối, lại “Xin Bình Yên cho những người đã chết. (XBYCNN ĐC)

Phạm Hậu
(Tháng Tư Đen , 2007)

(1). Một lời cám ơn rất muộn , Phạm Hậu Nguyệt San Khởi Hành số 42, tháng 4/2000

(2). Những kỷ niệm với ngành Phát Thanh, Phạm Hậu - Đặc San Truyền Thông Quốc Gia (TTQG) 2005.

(3). Này Kia Kia Nọ, Râu Cáo - Ngày Nay số 590, tháng 2/2007.

Râu Cáo là bút hiệu của giáo sư Nguyễn Ngọc Linh, cựu Giám Đốc Nha VTTT, Tổng Giám Đốc Tổng Nha Thông Tin, và TG Đ Việt Tấn Xã . Cũng trong bài báo , GS Linh đã tóm tắt một trong những điểm chính của cuốn sách này : “cuộc đảo chính lật đổ ông Diệm vào ngày 1/11/1963, do ông Cabot Lodge đề xướng mà không có sự thỏa thuận của TT Kennedy, theo ông Moyar, là một nhầm lẫn đưa đến thất bại của Mỹ và làm mất Miền Nam VN vào tay Cộng Sản một cách lãng nhách.”

Có thể đọc thêm sách của TS Mark Moyar: “Phoenix and the birds of Preys”: The CIA ‘s Secret Campaing to Destroy the Viet Cong, 11/1997

(4). Ông Bush đi Bagdah, ông Thiệu vào An-Lộc, Cùi 12 TBX - Đặc San Đa Hiệu, 2001

(5). Xác định giá trị QLVNCH, TS. Lewis Sorley - Đặc San Không Quân Bắc Cali, Xuân 2007, dịch bởi Trung tá Không Quân Trần Đỗ Cung (cựu Tổng Cục Trưởng TC Tiếp Tế) và xin đọc chi tiết đầy đủ trong website www.kbchaingoai.net/XacDinhGiaTriQLVNCH.html.

(6). Sự Thực Về Cái Gọi Là “Đại -Thắng Mùa Xuân”, Trần Bá Hợi, 2007.

Phần mở đầu bài dịch tài liệu của Tòa Bạch Ốc, Ông Hợi, cựu sỹ quan cao cấp của KQVN đã viết như sau: ” Kể cả cái gọi là Đại Thắng Mùa Xuân mà tướng Dũng huyênh hoang cũng không đáng được coi là một chiến thắng vẻ vang. Đó thực ra chỉ là một kết quả tất nhiên khi Hoa Kỳ, đồng minh của Việt Nam Cộng Hòa, thay đổi chính sách đối ngoại. Để tái lập bang giao với Trung Cộng hầu khai thác thị trường to lớn trong lục địa, ngoài việc không muốn tiêu diệt hoặc đánh bại cộng sản Bắc Việt, Hoa Kỳ còn rút quân và bỏ ngỏ Việt Nam Cộng Hòa. Sau đó Hoa Kỳ cắt quân viện cho Việt Nam Cộng Hòa trong khi cộng sản Bắc Việt được Nga và Tầu Cộng tiếp tục yểm trợ tối đa để cưỡng chiếm miền Nam. Trong hoàn cảnh thiếu thốn tận cùng về vũ khí và nhiên liệu, không riêng gì Việt Nam Cộng Hòa mà bất cứ quân lực của một quốc gia nào vào hoàn cảnh tương tự cũng phải chịu bó tay. Tương quan hỏa lực và phương tiện giữa hai phe lâm chiến quá chênh lệch.”

(http://vietnameseamericanvets.com/page-freedom)

(7) - Di Tản về Miền Tây, Phạm Kim - NgườiViệtCali 4/2005 va NVTayBac Online , 2/2007.

Trung uý Pham Kim, SQ Báo Chí Hải Quân, khi đó đứng sau TLHQ Chung Tấn Cang, lúc tướng Trưởng từ HQ 404 đáp vào Bến Bạch Đằng, trước mặt BTL/HQ , đã nghe được câu hỏi này và tới nay (13/02/2007), PK xác nhận với người viết là vẫn còn nhớ rõ.

Nhưng ngày 18/05/07 Pham Kim lại gửi thêm 1 email xin sửa 2 chi tiết nhỏ:

a. Trung tướng Trưởng mặc đồ lục quân ngồi ở bãi biển chờ tầu HQ đón. Trên tầu ông được “biếu” 1 bộ đồ xám và ngủ giường đôi (crew bunker) của đoàn viên.

b. Nhiều quân nhân bị chết thảm vì phi cơ của ta (?) oanh kích “lầm” (?) trên chiến hạm HQ 404, xin sửa và thêm là:

“chẳng lẽ là HQ 404(!) –mà có thể là một hộ tống hạm mà trên máy vô tuyến lúc báo cáo là chiến hạm loại 400.

Nhưng theo Đô Đốc HVKỳThoại cho biết lúc bấy giờ quá hỗn loạn không còn là vấn đề có thể là “Hộ Tống Hạm Vạn Kiếp”- Bị trúng đạn máy bay trong giờ phút hỗn loạn không còn báo cáo được nữa”

http://www.nguoiviet-taybac.com/btl-haiquan30-4-1975.html

(8) - Nguyễn Kỳ Phong coi web site: http://www.tqlcvn.org/tqlc/tl-tuongniem-tuong-ngt.htm

(9) - Có bạn như vậy, ai cần kẻ thù? Hoàng đức Nhã - Đặc San Không Quân Bắc Cali, Xuân 2005

(10) - Diên-Lộc Quận Công Nguyễn Thân, Nguyễn Đức Cung - Nhà xuất bản Nhật Lệ, 2002 , Kearny, NJ 0703

(11) -Nhật Ký Phóng Viên, Năm 72 ở VTVN, Nguyễn Mạnh Tiến Đặc San Truyền Thông Quốc Gia, 2005.

(12) -Trong lễ mãn khóa (12/1956) , Trung tá Nguyễn văn Thiệu, CHT/VBLQDL, xin vị chủ tọa đặt tên khóa cho các sỹ quan vừa tốt nghiệp đang quỳ dưới Vũ Đình Trường, và được TT Ngô Đình Diệm đặt tên Khóa 12 là Khóa Cộng Hòa.

(13) - Các bài rải rác trên báo Việt Ngữ ở Hải Ngoại -1976-1986- của trung tá Nguyễn Đạt Thịnh, cựu Chủ Nhiệm Tuần báo Diều Hâu và Trưởng Phòng Báo Chí Cục Tâm Lý Chiến TC/CTCT trướcc 1975 (email nguyendatthinh@aol.com)

(14) - Viết Mà Chơi, “Can trường trong chiến bại”, Tú Gàn - Tuần san SàiGònNhỏ số 537, ngày 30/3/2007

(15) -Này Kia Kia Nọ, Râu Cáo. Ngày Nay số 594, ngày 15/04/2007. Râu Cáo là bút hiệu của giáo sư Nguyễn Ngọc Linh, cựu Giám Đốc Nha VTTT, Tổng Giám Đốc Tổng Nha Thông Tin, và TGĐ Việt Tấn Xã .

(16) -Từ Bàn Viết Houston, Việt Nguyên Ngày Nay số 594, ngày 15/04/2007

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=58487&z=100

(17) Can Trường Trong Chiến Bại, tái bản, 2007, Hồ Văn Kỳ Thoại, 252 N. Washington St., Suite 103, Falls Church, VA 22046

Email: thoai.hovanky@gmail.com
Điện thoại : (703) 802-0999

XBACNNĐC đã viết xong từ cuối tháng 4/2007, nhưng vì Kỷ Yếu Võ Bị Đà Lạt (KYVBĐL) K12- 2007 không ấn hành như dự định; do đó ..bài này phải đăng phần lớn trên tờ báo SaiGon Nhỏ và trên 2 websites .

a. (Anh Ngữ) do Niên Trưởng Trần Đỗ Cung dịch posted trên website của cựu KQVN Thiếu Tá Trần Bá Hợi chủ trương:

- http://www.vietamericanvets.com/Page-PointOfViewrequiescat_in_pace.htm

b. (tiếng Việt) Viet Kieu Ai Lao NET

Nhân dịp (KYVB ĐL Khóa 12 - 2009 có thể phát hành chúng tôi một lần nữa … hy vọng sẽ có bài XBYCNNĐC này trên đó.

Vì thế, 31/3/2009, chúng tôi ghi thêm những tài liệu đặc biệt sau đây và sẵn sàng đăng lời đính chính của bất cứ cơ quan Mỹ Việt nào liên hệ tới các sự việc ghi trong sách, để rộng đường dư luận.

A. Các tài liệu mới được Hoa Kỳ giải mật (09/15/2008). Tài Liệu của Tòa Bạch Ốc về Cuộc Chiến VN chấm dứt sau 30 năm (Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ giải mật)
~~~~~~~~

THE NATIONAL SECURITY ARCHIVE

http://www.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB121/index.htm (1)
http://www.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB195/index.htm (2)

B. Bộ Tổng Tham MưuQLVNCH đã trình Tổng Thống Thiệu kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa năm 1974, nhưng …

Xin đọc bài của cựu trung tá pháo binh Nguyễn Văn Tý, Khóa 5 Thủ Đức trên đặc san Pháo Binh 2009. Có thể liên lạc với Ban Biên Tập

Mr. Lê Văn Trang:

9200 Westminster Ave. # SPC 35
Westminster, CA 92683-4775
Đ T : (714) 899-8190

C. và cuốn sách của Trung Tá Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ , Daniel Marvin (đặc biệt trang 292). EXPENDABLE ELITE - USA, 2003 cùng bài báo của cựu Thiếu Tá Trần Văn Ngà phổ biến ngày 22/12/2008.

Ông Ngà, căn cứ vào báo chí Hải Ngoại và sách của ông Daniel Marvin, về vụ CIA, cùng báo chí Hoa Kỳ bịa đặt tướng Đặng Văn Quang buôn lậu ma túy.

Thực ra lý do chính chỉ vì ông Quang chống không cho quân đội Đồng Minh tràn vào Miền Tây của Quân Đoàn IV, và chút xíu CIA đã thành công trong việc xử dụng một Trung Đoàn BB của QLVNCH đánh vào Khu Vực Hòa Hảo Miền Tây .

Và mặc dù bị áp lực rất mạnh , TT Thiệu vẫn bảo vệ ông Quang vì vừa là bạn cùng Khóa 1 VBDL, vừa biết thành tích chiến đấu sáng chói của vị Tư Lệnh Q Đ IV này.

Cần kiểm chứng, hay muốn hỏi thêm hoặc muốn có bài đọc này …xin liên lạc: Trần Văn Ngà (cựu Thiếu Tá - Khóa 13 Thủ Đức) Cựu Trưởng BanThông Tin Báo Chí QĐ4 & V4CT. Email: tranvannga@hotmail.com. điện thoại: (nhà) 916.427.) 6638 (Cell): 916.519.8961

D. Quyển sách của John Perkins: Confessions of an Economic Hit Man, 2004, USA (Lời Thú Tội Của Một Sát Thủ Kinh Tế) www.JohnPerkins.org

Qua quyển sách này, độc giả thấy từ mấy chục năm qua, nhiều cơ quan của Hoa Kỳ đã lũng đoạn các quốc gia đồng minh một cách quỷ quyệt thần sầu. Họ viện trợ đấy mà thật ra là cho vay nợ lãi cắt cổ … để người vay nợ không bao giờ có thể trả hết nợ và luôn luôn là kẻ chịu ơn.

Với sự khuynh loát của tài phiệt Hoa Kỳ, ngay cả những quốc gia đồng minh nào muốn tự lực sinh tồn, phát triển họ cũng ngăn chặn tối đa.

Đó là trường hợp Kế Hoạch Khu Trù Mật, Ấp Chiến Lược thời Đệ Nhất VNCH và Quỹ Tiết Kiệm Quân Đội thời Đệ Nhị VNCH.

Cố vấn Ngô Đình Nhu chết oan, tướng Nguyễn Văn Vỹ, tổng trưởng Quốc Phòng bị giải nhiệm tai tiếng dù các cộng sự viên ở Bộ Quốc Phòng đều biết ông là vị tướng lãnh rất thanh liêm và tận lực làm việc cho Quân Đội, cho Quốc Gia.

Hai quyển sách của John Perkins và Daniel Marvin đều có thể mượn rất dễ dàng ngay tại các thư viện công cộng ở thành phố.

GIÃ TỪ VIỆT NAM - Trần Trúc Lâm chuyển ngữ

GIÃ TỪ VIỆT NAM
Ed. Oshiro, MPH (Master of Public Health-Bác Sĩ Y Tế Công Cộng)

Trần Trúc Lâm chuyển ngữ

Ba mươi phút sau khi chuyến bay của hãng Hàng Không Việt Nam chở chúng tôi rời khỏi phi trường Tân Sơn Nhất thuộc thành phố ****, chúng tôi nhìn xuống những đồng bằng màu đỏ trơ trụi của xứ Cambodia, tôi và vợ tôi bỗng dưng có một cảm giác kỳ lạ của sự thoải mái và tự do. Hú vía, chúng tôi thực sự đã thoát khỏi những sự cách nhiễu, hăm dọa và tham nhũng thường nhật của các giới chức Việt Nam, và cái gánh nặng đè trên vai trong ba tháng qua chợt trút mất.

Mọi chuyện như bắt đầu từ mùa thu năm ngoái, khi tôi nhận làm quản lý hải ngoại vụ cho Cơ Sở Đông Gặp Tây (East Meets West Foundation) hiện đang trông coi một bệnh xá toàn khoa cho “kẻ nghèo nhất trong đám nghèo” và một cô nhi viện với 125 trẻ em ở ngoại ô thành phố Đà Nẳng, Việt Nam. Tôi đã quyết định chụp lấy cơ hội hưu trí sớm với đầy đủ cấp dưỡng do Group Health đề nghị và về hưu vào đầu tháng Giêng với ý định đi phục vụ tình nguyện khoảng một đến hai năm tại Việt Nam, bắt đầu vào giữa tháng Giêng.

Công tác của tôi là giúp bệnh xá hoạt động được hữu hiệu hơn và hướng dẫn những chương trình về giáo dục y tế công cộng cho bốn làng hẻo lánh. Vợ tôi thì được giao việc ở cô nhi viện như là giáo viên mỹ thuật và dạy Anh ngữ cho các nhân viên.

Một điều báo trước cho những việc sẽ gặp ở trong nước Việt Nam thực ra đã bắt đầu khi chúng tôi bay xuống San Francisco để nhận giấy hộ chiếu trên đường đi Việt Nam. Khi đến San Francisco thì chúng tôi được báo rằng viên chức Bộ Ngoại Giao (Việt Nam) muốn chúng tôi phải thuê căn phòng của y ở Đà Nẳng với giá 700 đô la mỗi tháng, với sáu tháng tiền nhà đưa trước. Chúng tôi phản đối và y không chịu cấp giấy nhập cảnh nữa, chúng tôi đành phải quay về lại Seattle để chờ Cơ sở tiếp tục thương lượng. Cuối cùng đến tháng Hai, sau khi đồng ý với vụ sắp xếp, trả cho y 4200 đô la, và dấu hộ chiếu cho ba tháng thay vì một năm, chúng tôi bay đi Việt Nam. Khi đến nơi thì căn phòng, hỡi ôi! còn đang sửa chữa và chúng tôi đành ở khách sạn với giá 15 đô la một ngày.

Vừa vào đến Việt Nam thì tất cả đĩa điện toán của chúng tôi đều bị tịch thâu ngay, và mãi đến ba tuần mới được trả sau khi đóng 40 đô la gọi là “lệ phí bảo quản” và có cả khối bản phụ được sao chép (để bán về sau).

Ngày đầu làm việc trong văn phòng, tôi nhắc máy điện thoại để gọi con gái tôi ở Seattle và đã có thể nghe rõ tiếng nhạc quân hành văng vẳng trong máy suốt cuộc điện đàm. Tôi nhắc lại chuyện đó với nhân viên người Việt thì được họ cho biết là công an và quân đội luôn theo dõi nghe trộm mọi cuộc điện đàm. Chúng tôi được khuyến cáo là ngay cả thư từ cũng được mở ra đọc ngang xương, cho nên phải cẩn thận khi viết. Có một lần công an gọi tôi phải đem tờ báo cáo tài chính cuối tháng cho họ xem để họ quyết định cho gởi hay không.

Vài ngày sau khi tôi bắt đầu làm việc, thì cô kế toán viên bay đi Florida để làm đám cưới với anh bác sĩ Mỹ mà cô đã quen trong thời gian anh ta phục vụ tình nguyện cho bệnh xá. Khi chúng tôi rao tuyển người thay thế thì viên Bộ Trưởng chuyển đến một danh sách ứng viên mà y muốn chúng tôi thâu dụng. Chúng tôi bác ngay vì họ không biết tí gì vế kế toán và chẳng có chút năng khiếu gì về Anh ngữ. Chúng tôi tuyển được một cô có bằng kế toán và nói giỏi tiếng Anh, nhưng viên Bộ trưởng và Sở Công An lại trì hoản việc chuẩn y thâu dụng, cho mãi đến khi tôi nghĩ rằng, có chút tiền đút lót hoặc cô ta chịu chia một phần lương của cô.

Chúng tôi được biết rằng tất cả nhân viên người Việt đều buộc phải đóng một phần tiền lương cho cho công an, các viên chức nhà nước, đảng viên, v.v... Đã mấy lần công an đến văn phòng chúng tôi hạch hỏi vì sao chúng tôi không dùng người của họ. Bất ngờ có một bác sĩ người Việt lại nộp đơn xin làm kế toán bởi vì anh đã thất nghiệp đến hơn 5 năm nay. Quả có hàng trăm bác sĩ thất nghiệp mặc dù họ thuộc hạng lao động có lương thấp nhất ở Việ Nam ... 30 đô la một tháng. Tôi chẳng thể nào hiểu được vì sao lại có quá nhiều bác sĩ thất nghiệp tại Việt Nam. Tôi được nghe kể rằng họ buộc phải đăng ký quỹ 1,500 đô la để được thực tập và lấy kinh nghiệm ở bệnh viện sau khi học xong. Không có kinh nghiệm ở bệnh viện là thất nghiệp. Tôi lại được biết có một sự kỳ thị nặng nề đối với dân trong Nam, đặc biệt là những người đã từng phục vụ cho chế độ cũ. Hầu hết những bác sĩ thất nghiệp mà chúng tôi đã gặp là dân miền Nam.

Trong phần họp định hướng tại Hoa Kỳ, chúng tôi được báo cho biết rằng các bác sĩ tại bệnh xá làng Hòa Bình rất lười và ù lì, vì họ chỉ biết có một điều là viết toa cho thuốc bổ sinh tố. Sau khi làm việc với họ vài ngày, tôi nhận thấy họ rất thông minh, rất ham học để hành nghề tốt và sẵn sàng đón nhận những sự giúp đỡ để trở thành thầy thuốc giỏi. Điều đáng tiếc là sự đào tạo của họ tệ quá, cho nên họ độc chỉ giỏi viết toa sinh tố cho mọi bệnh trạng.

Mỗi ngày trong một tuần, các bác sĩ đi khám bệnh ở một trong những làng lân cận. Tôi đi theo họ vài lần và nhận thấy rằng sinh tố được cấp cho mọi chứng: sốt rét, mù lòa, sốt nóng, bệnh ký sinh trùng, đái ra máu, ỉa chảy v.v... Họ đâu có thể làm gì khác hơn được? Họ chẳng có món thuốc nào ngoài vài lọ Ampicilin. Mấy bác sĩ bảo rằng ít ra cũng nên cho bệnh nhân món gì để đem về nhà, và họ cấp sinh tố. À ra thế! Trụ sinh thì ai cũng có thể mua được chẳng cần toa cho nên nhà nào cũng có vài lọ trữ sẵn. Ngay cả thông dịch viên của tôi cũng dùng trụ sinh cho nhức đầu, cảm, tiêu chảy, đau lưng, hoặc khi cô ta cảm không thấy được khỏe.

Một ông bác sĩ Sản Phụ Khoa từ San Diego đã làm việc vài ngày tại bệnh xá và đã chỉ cho các bác sĩ cách sử dụng mỏ vịt đế khám âm đạo. Năm sau, ông ta quay lại và bất bình vì các bác sĩ không dùng mỏ vịt. Ông ta báo cáo với Ban Quản Trị Cơ Sở Đông Gặp Tây ở San Francisco rằng các bác sĩ ở bệnh xá ù lì và lười biếng. Tôi báo cáo về Ban Quản Trị chất vấn sự giám định của ông ta. Các bác sĩ tại bệnh xá không thể nào học khám và chữa bệnh phụ khoa trong vài ngày được, và kỹ thuật viên phòng thí nghiệm chỉ làm được dăm ba xét nghiệm đơn giản mà thôi. Cho dù họ có chuẩn được điều gì đi nữa thì cũng chẳng có thuốc men và dụng cụ để điều trị. Tại sao phải đi học những chuyện mà dù có biết mình cũng đành bó tay? Tôi cảm thấy rằng bác sĩ Mỹ tình nguyện làm việc tại bệnh xá làng Hòa Bình thiếu nhạy bén và làm hại nhiều hơn là giúp đỡ.

Sau khi ổn định công việc, tôi liền gặp viên Bộ trưởng Y Tế (CSVN) để đề nghị xúc tiến dự án hướng dẫn y tế công cộng cho bốn làng, và ông ta cũng phấn khởi về ý kiến đó. Ông ta nhận bản dự án đó và bảo rằng ông ta sẽ thảo luận với Ủy Ban Nhân Dân rồi cho tôi biết sau, hai tuần sau, ông ta gửi cho chúng tôi một lá thư nói rằng bản dự án đó đã được chấp thuận và Bộ sẽ thi hành, nhưng họ lại muốn tôi tài trợ 25 ngàn đô la. Tôi trả lời rằng tôi không có tiền mà chỉ có sự hiểu biết, thời giờ và lòng nhiệt thành muốn huấn luyện và làm việc với các nhân viên y tế mà thôi, nhưng họ chẳng tha thiết mấy đến sự tham gia của tôi – mà chỉ nghĩ đến tiền của tôi thôi. Tôi không được mời trở lại Bộ Y Tế nữa.

Khi tôi đi thăm ngôi làng đầu tiên để lượng định về y tế thì tôi được gặp Chủ Tịch Nhân Dân xã và y dẫn tôi đi thăm những gia đình nghèo nhất. Tại mỗi nhà y đòi tôi giúp cho những món mà gia đình đó cần như một mái nhà nới, tiền mua gạo, áo quần, xe lăn v.v... Đến khi tôi nhắc đi nhắc lại rằng tôi đến đây không phải để cho tiền, y liền bảo thông dịch viên dẫn tôi ra khỏi làng ngay.

Ở một làng khác, các viên chức đòi tôi phải cấp một ngân khoản để xây một ngôi chợ mới, và khi họ biết tôi không thể làm được, họ bắt giữ tôi lại tại chỗ rồi ra lệnh cấm tôi rời khỏi trụ sở Ủy Ban. Đêm đó tôi bị buộc phải ngủ trên sàn gỗ bẩn thỉu với một manh mền rách, và một tên an ninh nằm ngủ bên cạnh canh phòng tôi trốn. Cho thêm phần khốn khỗ, tên an ninh này lại bị cụt tay vì mìn, y đặt cánh tay cụt lên bụng tôi suốt đêm mà ngủ. Còn tôi thì làm sao mà ngủ được, nằm nghĩ ngợi lung tung, mấy ai tin được rằng tôi lại ngủ trên sàn nhà một văn phòng đảng Cộng Sản, cạnh một tên công an Cộng Sản, mà cánh tay cụt của hằn lại đặt trên bụng tôi! Đó là một trong những đêm kinh dị và hãi hùng nhất trong đời. Tôi cứ ngỡ mình bị ác mộng.

Vì tôi trú trong khách sạn nên phải đi ăn tiệm. Chỉ có một nơi mà chúng tôi và hầu hết các du khách đến ăn mà không sợ bệnh là nhà hàng mang tên Christies. Mỗi đêm chúng tôi gặp nhóm Thủy Quân Lục Chiến và quân nhân Mỹ đến Việt Nam tìm kiếm lính mất tích trong cuộc chiến (MIA’s). Họ bảo ràng mỗi làng đều có mánh khóe làm ăn trong vụ này. Chức sắc ở làng có thể báo cáo là đã chôn hai hay ba xác lính Mỹ ngoài ruộng. Thế là Hoa Kỳ phải mất khoảng 10 ngàn đô la cho việc đào xới và mướn phu phen địa phương.

Các giới chức Mỹ mà tôi chuyện trò bảo rằng từ năm 1991, họ chẳng tìm ra cái gì ráo và cũng chẳng mong mỏi tìm thêm cái gì khác. Họ được yêu cầu trú tại khách sạn của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam với giá 75 đô la một đêm và phải thuê phi cơ trực thăng chở họ đến các làng, mà giá của một giờ bay trực thăng là 750 đô la. Có khoảng 30 quân nhân Hoa Kỳ tìm kiếm MIAs tại Đà Nẳng và ở mỗi thành phố lớn đều có một nhóm như vậy. Dĩ nhiên là Hoa Kỳ tốn hàng triệu đô la vào túi các viên chức người Việt!

Sau hai tháng rõ ràng là chẳng ai cần đến chúng tôi tại Việt Nam. Cô nhi viện thì đã được Chính Phủ Hoa Kỳ tài trợ dồi dào và nhân viên Việt Nam thì làm việc xuất sắc. Trẻ em học ở trường nhà nước, được dạy nghề mộc, may vá, điện toán, v.v... và một bác sĩ toàn thời gian chăm sóc sức khỏe cho chúng. Chúng có cả sân bóng rổ, bóng bàn, máy truyền hình, mày chiếu hình, xe đạp, máy điện toán, một nông trại trồng rau, và chúng nuôi gà và lợn để sinh lợi. Ai cũng biết rằng chúng sống khá hơn đại đa số trẻ con khác ở Việt Nam! Tôi đã tìm cách tăng lương cho tất cả các bác sĩ và nhân viên (Việt Nam) tại bệnh xá từ 30 đô la đến 50 đô la mỗi tháng. Nhà cầm q uyền lại đòi rằng ai cũng được trả đồng hạng dù là bác sĩ hay y công.

Tôi cũng đã giúp vào một chương trình phát triển dài hạn giáo dục liên tục cho các bác sĩ. Một bác sĩ tim mạch ở Nhật chịu đỡ đầu hàng năm, trong nhiều năm về sau, cho một bác sĩ của bệnh xá luân phiên qua tu học tại bệnh viện Okasa khoảng sáu tháng. Người đầu tiên đi Osaka đã rời hồi tháng Sáu. Tôi cũng đã bắt liên lạc với bệnh viện Huế xin các bác sĩ của bệnh viện thực tập và chúng tôi chịu trả tiền phí tổn huấn luyện. Tôi đã đệ trình dự án này với Ban Quản Trị Cơ Sở Đông Gặp Tây vào ngày công tác cuối cùng của tôi ở Việt Nam. Hi vọng rằng Ban Quản Trị sẽ biểu quyết tán đồng chương trình này. Tôi cảm thấy quá rẻ để huấn luyện một bác sĩ với giá 1500 đô la.

Vài tuần sau khi đến Đà Nẳng, viên chức Bộ Ngoại Giao đòi thêm tiền để dứt điểm việc tu bổ căn phòng và mua đồ bày biện. Nhưng chúng tôi được biết rằng một bác sĩ Việt Nam kiếm được 30 đô la một tháng và đã trả, có lẽ từ 10 đến 15 đô la tiền thuê căn phòng như thế nên chúng tôi đã lịch sự phất lờ đòi hỏi thêm tiền của y. Y bèn trở mặt chèn ép, đòi chúng tôi phải báo cáo trước chi tiết lộ trình mỗi hai tuần, không cứu xét yêu cầu gia hạn hộ chiếu và làm khó dễ các nhân viên người Việt của bệnh xá.

Ba tháng sau khi đến Việt Nam viên chức Bộ Ngoại Giao bảo rằng chúng tôi có thể vào ở được rồi, và chúng tôi chỉ trú – có mỗi một đêm. Căn phòng chỉ được tu sửa nửa chừng với dây điện còn lòng thòng từ trần nhà, tường được sơn một phần, ống nước chưa được nối vào, không có bàn ghế và gián thì ôi thôi! bò lổn ngổn khắp nơi. Chỉ trong mấy phút mà tôi xài hết một lọ xịt côn trùng và sàn nhà đầy la liệt cả dán dài khoảng 2 đốt tay đang nằm ngửa ngo ngoe.

Chúng tôi dọn trở lại khách sạn sau đúng một đêm. Viên chức Bộ Ngoại Giao rất bực dọc và gay gắt bảo chúng tôi nên rời khỏi nước nếu không hài lòng. Lần đầu tiên chúng tôi cảm thấy sợ hãi, chúng tôi biết rằng y có thể bỏ tù chúng tôi hoặc dàn cảnh một tai nạn mà chẳng ai có thể làm gì được.

Biết rõ rằng chẳng ai muốn và cần đến chúng tôi tại Việt Nam, sự đóng góp của chúng tôi cũng nhỏ nhoi, và có một sự đe dọa đến an ninh của chúng tôi, chúng tôi quyết định rời khỏi Việt Nam. Chúng tôi cũng bị dằn vặt bời quyết định này bởi vì chúng tôi đã đến và mến yêu trẻ mồ côi, những người làm việc chung và cái bệnh xá làng Hòa Bình. Chúng tôi mang theo một tình cảm rất nồng nàn đối với dân Việt, đối với đất nước tuyệt đẹp này, và mong một ngày nào đó sẽ trở lại để hoàn tất những công tác đã phát khởi.

Một ngày kia, cái thế hệ lãnh đạo hiện nay sẽ trao quyền lại và Việt Nam sẽ vươn mình như con bướm sặc sỡ của vùng Đông Nam Á.

Trần Trúc Lâm chuyển ngữ

Ed Oshiro hiện về hưu và ngụ tại Mereer Island (thành phố Seattle, tiểu bang Washington) nguyên là Phụ Tá Giám Đốc Chương Trình Giáo Dục Y Tế của Group Health Cooperatives.
http://hoanlan. multiply. com/journal/ item/1
*
* *
    GOOD-BYE VIETNAM
by Ed Oshiro, MPH (Master of Public Health)

Thirty minutes after our Vietnam Airline flight departed from Tan Son Nhut airport in Ho Chi Minh City, we looked down upon the denuded red plains and my wife and I instantaneously felt an incredible sense of relief and freedom. We were finally free from the daily harassment, intimidation and greed of the Vietnamese officials and we could actually feel the weight of the last three months lift off our shoulders.

It all began last fall when I was accepted as the overseas manager for the East Meets West Foundation which operated primary care clinic for the "poorest of the poor" and an orphanage for 125 children on the outkirts of Da Nang, Vietnam. I had decided to take advantage of the early retirement package offered by Group Health and retired in January with the intention of volunteering in Vietnam for a year or two, beginning in mid-January. My mission was to help the clinic become more efficient and effective and to conduct pilot public health education programs in four remote villages. My wife was assigned to work with the orphanage as an art and recreation instructor, and to teach English to the staff.

A preview of what we were to experience in country actually began when we flew to San Francisco to pick up our visa on our way to Vietnam. Upon our arrival in San Francisco, we were advised that the Foreign Minister, who issues the visas, wanted us to rent his appartment in Da Nang for $700 a month, with a six month advance payment. We objected, he refused to issue the visas, so we return to Seattle while the Foundation continued the negotiations. Finally, in February, we agreed to the arrangement, paid him $4200, and with a 3 month instead of a 12-month visa, flew to Vietnam. When we arrived, the apartment, of course, still being renovated so we were compelled to stay in a hotel at $45 a day. Upon entering Vietnam, all of our computer discs were cofiscated and only after paying a $40 "handling fee" and copies had been made (for later resale) were they returned to us three weeks later.

On our first day in the office, I picked up the telephone to call my daughter in Seattle and noticed that martial music could be heard in the background during our conversation. I later mentioned that to the Vietnamese staff and they stated the police and military were listening in on all of our telephone calls. We were also warned that our letters were opened and read by the government, so we had to be careful what we wrote. Once, I was required to take a month-end financial report to the police and they decided whether it should be sent off or not.

A few days after we began working in the office, the Vietnamese accountant left for Florida to marry an American doctor she had met when he came to Da Nang to volunteer at the clinic. When we announced the position, the minister sent us candidates who had no accounting training nor English language skills and hired a certified accountant who spoke fluent English. The Minister and the Security Police delayed approval of the new employee, untill, we suspect, some money changed hands or she agreed to kick back a percentage of her salary. We were informed that all the Vietnamese employees were required to pay the police, government offcials, party member, ect, a portion of their salary. The Security Police came to our office to demand, several times, why we refused to hire their candidates.

Incidentally, a Vietnamese physician applied for the accounting job because he had been unemployed for over five years. Apparently, there were hundreds of doctors that were unemployed in spite of the fact that they are some of the lowest paid workers in Vietnam... $30 a month. I never learned why there were so many unemployed doctors. I was told that they had to pay upwards of $1500 to get practical training and experience in a hospital after they completed their training. Without the training, they were unemployable. I also became aware that there was tremendous discrimination against the South Vietnamese, especially these whose family members supported the defeated government. Most of the unemployed doctors we met were South Vietnamese.

During my orientation in the States, I was warned that the doctors at the Peace Village Clinic were lazy and unmotivated, and only knew how to prescribe vitamins. After spending a few days with the doctors, I found them to be very intelligent, very willing to learn to practice good medicine and were eager to receive any assistance that would enable them to become good practitioners. Unfortunately, their medical training was so poor and inadequate that they were only qualified to prescribe vitamins for every affliction. One day a week, the doctors visited one of the surrounding villages and provided care to the people. I accompanied them on several visits and noted that vitamins were precribed for every ailment, malaria, blindness, fevers, parasites, blood in the urine, diarrhea, ect. What else could they do? They didn't have any other drugs except a few bottles of Ampicillin. The doctors claim that they had to give the patients something to take home so they prescribed vitamins.. Made sense to me. Antibiotics may be purchased over the counter so every Vietnamese already had several bottles at home. My translater took antibiotics for headaches, colds, diarrhea, backache, and when she just was not feeling well.

An OB/GYN doctor from San Diego spent a few days at the clinic and showed the doctors how to use a vaginal speculum. A year later, he returned and was very upset that the doctors were not using the speculum and complained to the East Meets West Foundation Board in San Francisco that the doctors were unmotivated and lazy. My report to the Board questioned his assessment. The doctors could not be trained in diagnose and treat gynecological diseases in a few days and the lab tech was only able to do very simple tests. Even if they did, find something, there were no drugs or equipment to treat the problem. Why look for something if you can't do anything about it? I felt that some of the American doctors who volunteered at the Peace Village Clinic were very insensitive and did more harm than good.

As soon as I had settled in, I met with the Minister of Health with a proposal to conduct a pilot public health project in four villages and he seemed to be very enthusiastic about the idea. He accepted the proposal and informed me that he would discuss it with the People's Commitee and get back to me. Two weeks later, he sent me a letter stating that the project was approved and that the Ministry would implement it, but they wanted me to provide them with $20,000. I stated that I did not have the money, only the knowledge, time and willingness to do the training and work with the health workers, but they were not interested in my participation - only my money. I was not invited back to the Ministry.

When I visited my first village to do a health assessment. I was met by the Director of the People's Committee who took me around to the homes of the poorest families. At each farm house, he requested that I pay for something that the family needed, for example: a new roof, a new well, a new house, money for rice, clothes, wheel chair, etc. When I stated over and over that I was not there to give them money, he finally told my translator to get me out of the village. At another village, the officials demanded that I provide them with funds to build a new school and when they realized that I would not provide the funds, I was immediately put under house arrest and ordered not to leave the grounds of the People's Committe office. That night, I was ordered to sleep on the dirty wood floor of the office with only a tattered blanket, and one of the security police officer slept next to me to assure that I did not leave the building. To add to my misery, the officer, whose hand had been blown off by a land mine, place his stump on my stomatch all night while he slept. I, of couse, did not sleep a wink and keep thinking who would ever believe that I would be sleeping on the floor of a Communist party office, next to a Viet Cong policeman whose handless arm rested on my belly! It was one of strangest and scarrest night I have experienced. I kept wondering if I was having a nightmare.

Because we were living in a hotel, we had to eat our meals in restaurants. The only place we and most visitors could eat in Da Nang without getting sick was a restaurant called Christies. Every night, we met American marrines and soldiers who were in Vietnam searching for MIA's. They stated that every village had a scam in operation. The village leaders would claim to have burried in the rice fields two or three Americans who had died during the war. It would cost the American $10,000 to dig in the fields and to hire local workers. The officers we talked to claimed that since 1991 they had found nothing and they didn't expect to find anything.. They were required to stay in Vietnam Army Hotel for $75 a night and hire the Vietnam helicopter to take them to the village. We were informed that it cost $750 an hour for the helicopter ride. There were about 30 US military personel looking for MIA's in Da Nang and every major city had a silmilar team. It is coating the US milion of dollars and the Vietnamese are laughing all the way to the bank!

After a couple of months, it became very evident to us that we were not needed in VietNam. The orphanage was being very adequately funded by the US Government and the Vietnamese staff was excellent. The kids were attended in the government school, being provided with training in carpentry, sewing, computer, etc .... and a full time physician took care of the medical needs of the children. They had a basketball court, ping-pong tables, television, videos, bicycles, computers, a vegetable farm, and they raised chickens and pigs for income. The Vietnamese claimed that these chidren, in fact, lived better than all other children in Vietnam.

I was able to raise the salaries of all the doctors, and the rest of clinic staff from $30 to $50 a month. The government required every employee to be paid the same amount whether he/she were a doctor or janitor. I also assisted in development of a long term continuing education program for the doctors.. A cadiologist from Japan is sponsoring each year, one doctor from the Peace Village Clinic, who will spend six months in her hospital in Osaka for next few years. The first doctor left Osaka in June. I also opened communication with the Hue hospital to accept our doctors into their resisdency program with us paying for the training. I presented this proposal to East Meets West Foundation Board on my last day in the country. Hopefully, the Boad will vote favourably on this program. I feel that it is very inexpensive to train the doctor for $1600.

Several weeks after we arrived in Da Nang, the Forein Minister demanded more money to finish renovating the apartment to purchase furniture. We were aware of this fact that a Vietnamese doctor makes $30 a month and he would pay, perhaps $10-$15 a month to rent that apartment so we politely ignore his demand for more money. He tightened the screws by requiring us to to provide him with a detailed itinerary as to where we would be every hour, two weeks in advance, by holding up our request for a visa extention and by intimidating our Vietnamese office staff. Three months after we arrived, the Foreign Minister said we could move into the house and we did - for one night. It was only partially completed with electric wires dangling from the ceiling, walls partially painted, plumbing unconnected, no furniture and cockroaches crawling everywhere. In a few minutes, I used up a can of insecticide and the floor was covered with two-inch long cockroaches lying on their backs, leg flailing away. We moved back to the hotel after one night. The minister became very upset and advised us to leave the country if we were unhappy. For the first time ever, we experience real fear. We realized that he could jail us or arrange an accident and no one could do anything about it.

Realizing that we were not really wanted or needed in the country, that our contributions would be negligible, and that there was a real threat to our safety, we made the decision to leave Vietnam. We agonized over the decision because we had come to love the children in the orphanage and the people working there as well as at the Peace Village Clinic. We have very warm feelings for the Vietnamese people and the incredibly beautiful country, and we would, someday, like to return there complete the work we have begun.

One day, this generation of leaders will pass on and then Vietnamese will emerge to become to the butterfly of Southeast Asia.

By: Ed. Oshiro, MPH



TRÁCH NHIỆM VỀ AI? - Lê Văn Ấn

Lê Văn Ấn

Những tin tức dồn dập từ quê nhà gởi sang, từ khắp nơi trên thế giới gởi đến, chung qui cũng chỉ xác nhận một điều: Việt Nam hiện đang bị Trung Cộng xích hóa với nhịp độ nhanh chóng, nhờ Bộ Chính Trị Việt Cộng ra sức khuyển mã giúp rập. Do đó, Việt Nam đang đứng trước bờ vực diệt vong!

Kể từ khi csVN du nhập chủ nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam thì nước Việt yêu mến của chúng ta chịu không biết bao nhiêu tai họa. Ký hiệp ước rước Pháp vào Bắc Kỳ để tạo thêm cuộc chiến chống Pháp chín năm, bần cùng hoá dân Việt qua hình thức “tiêu thổ kháng chiến”, liên hiệp để tiêu diệt các tổ chức quốc gia, Cải Cách Ruộng Đất để bóc lột dân chúng, mở chiến dịch “chống Mỹ, giải phóng miền Nam” để nhuộm đỏ cả nước v.v… nhưng chưa có cái họa nào đẩy dân tộc đến bên bờ vực thẳm diệt vong như cái họa Cộng Sản làm đầy tớ Trung Cộng, mở cửa, mở ngõ cho Trung Cộng tiến vào toàn cõi Việt Nam mà không tốn một viên đạn!

Sau Đệ Nhị Thế Chiến, hầu hết các nước bị trị, bị đô hộ đều được trao trả độc lập mà không phải nạn chiến tranh. Riêng Việt Nam vì đảng Cộng Sản của csVN âm mưu rước Tây vào Bắc Việt để rồi cũng chính đảng Cộng Sản hô hào “toàn dân đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp” và nạn binh đao bắt đầu. Chuyện khó tin, nhưng đó là sự thật. Sự thật này đưa đất nước đến cuộc chiến tranh 9 năm để cuối cùng đất nước bị chia đôi! Ai không tin xin nhớ lại câu nói của Hồ Chí Minh: “thà ăn cứt Tây chứ không thà làm bạn với Tàu”. Nghĩa là thà rước Tây vào chứ không thể làm bạn với Tàu. Đến bây giờ thì đảng Cộng Sản Việt Nam đã vừa ăn cứt Tây, lại vừa làm nô lệ cho Tàu Cộng. Hành động nô lệ cụ thể nhất là văn kiện mà Hồ chí Minh, Chủ tịch Nước kiêm Tổng Bí Thư Đảng hồi đó, ra lệnh cho Phạm Văn Đồng ký ngày 14.9.1958, chấp nhận bản công bố của Chu Ân Lai, Thủ tướng Trung Cộng hồi đó, xác định lại bờ biển giữa Việt Nam và Trung Cộng một cách bất công, lấn ép một lãnh hải rộng lớn của ta, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa đang được quân đội VNCH bảo vệ. Đổi lại, Việt Nam được hưởng lợi lộc gì? Đảng Cộng Sản Việt Nam được Trung Cộng viện trợ quân sự để tấn công miền Nam trong khi chính quyền miền Nam đang ra sức củng cố đời sống mọi mặt cho dân chúng! Câu nói của Hồ Chí Minh đã xác nhận chính Hồ Chí Minh đã rước Tây vào Hà Nội. Cái gian dối của Hồ gây cho mấy triệu dân Việt Nam bị chết, bị thương tật, bao nhiêu tài sản bị hủy hoại.

Với chính sách “tiêu thổ kháng chiến”, Hồ Chí Minh ra lệnh đốt phá quê hương, phá hủy tài sản đồng bào với chiêu bài “để cho Tây không có đồ dùng, không có lương thực, không có chỗ ở, và rồi chúng sẽ chết đói và thế là chúng ta … thắng lợi. Nhưng Tây không ăn cơm Việt Nam , chỉ ăn bánh mì, không ở nhà dân mà ở trong đồn bót. Tiêu thổ kháng chiến chỉ làm cho dân kiệt quệ, đói nghèo phải chạy theo Cộng Sản mà thôi. Cái gian dối của
Hồ Chí Minh là ở chỗ đó, dân Việt phải trả một giá rất đắt vì chuyện “ăn cứt Tây, và nô lệ Tàu” của Hồ Chí Minh. Nếu còn nghi ngờ, quý vị cứ dở “Hồ Chí Minh Toàn Tập, trang 29, khi “chiến thắng Ðiện Biên Phủ nhờ Tàu chỉ huy, Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Nhận chỉ thị của Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, về vấn đề giải phóng Việt Nam , tôi đã hoàn thành sứ mạng”. Nói cách khác, xương máu của Việt Nam đổ ra theo lời xách động của Hồ Chí Minh, không phải để đánh đuổi thực dân Pháp cho dân hưởng độc lập, tự do hạnh phúc, nhưng là để “dịch chủ tái nô”, phục vụ cho Ðệ Tam Quốc Tế, vải mỗi năm 4 thước, gạo mỗi người 13 ký (lý thuyết), của mình mà phải ăn vụng, vì cán bộ nhi đồng do VC huấn luyện, theo sát mỗi gia đình!

Hồ Chí Minh kêu gọi các đảng phái Quốc Gia chống Pháp hợp tác trong Chính Phủ Liên Hiệp, nhưng kể từ đó, các đảng phái Quốc Gia lần lượt bị Việt Minh thủ tiêu bắt cóc, tiêu diệt! Ðó là “Ðoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” của Hồ Chí Minh.

Cái đau nhất cho dân tộc là tiếng súng chưa kịp ngưng,
Hồ Chí Minh đã tuân lệnh Mao Trạch Ðông mở chiến dịch Cải Cách Ruộng Ðất. Hầu hết những người mà Việt Cộng gọi là “địa chủ” chỉ có một vài mẫu ruộng, tự canh tác lấy, tức là thuộc hạng trung nông, nhưng vì phải giết cho đủ chỉ tiêu, Hồ Chí Minh cho lệnh “đôn” lên thành địa chủ. Có xã không có người, phải đưa những kẻ có 5, 3 sào ruộng lên làm địa chủ để chúng giết cho đủ số. Hậu quả là có hơn 200 ngàn người bị giết vì tội địa chủ và chỉ vì Hồ Chí Minh sợ Mao Trạch Ðông “quở” mà thôi!

Hồ Chí Minh và bè lũ Việt Cộng đã nướng bao nhiêu sư đoàn để “giải phóng” miền Nam ? Tính cả 2 miền Nam Bắc vừa chết vừa bị thương hơn mười triệu, khói lửa triền miên 2 mươi năm! Việt Cộng huênh hoang khoác lác rằng đã đánh tan 3 đế quốc, thực sự, nếu Quân Lực VNCH được trang bị đầy đủ, Việt Cộng chắc chắn phải thảm bại.

Và bây giờ, Việt Nam mất Bản Giốc, Suối Phi Khanh v.v… và nhiều nữa, nhiều cho đến nỗi Việt Cộng không dám phổ biến bản đồ biên giới cho dân chúng biết, cho quốc hội, dù là quốc hội bù nhìn biết. Trên biển thì coi như VC dâng hầu hết lãnh hải cho Trung Cộng. Ngặt nghèo nhất là Nguyễn Tấn Dũng đã để cho Trung Cộng khai thác 2 mỏ bâu xít ở Cao Nguyên Trung Phần, đưa hàng vạn dân công qua làm việc và cả một đạo quân Trung Cộng sẽ theo chân “bâu xít”, cắt đôi Việt Nam. Ngoài ra, còn có cả 130 ngàn công nhân Trung Cộng đang tự do làm việc trên đất nước Việt Nam . Ðó không phải là công nhân bình thường, nhưng là quân nhân trá hình! Khi cần đánh Việt Nam , Tàu đã có quân khắp 3 miền Việt Nam. Ngày xưa, một Cù Thị làm nội gián đã đưa nước nhà đến bờ vực thẳm, may nhờ có anh hùng Lữ Gia “nổi lên làm cách mạng”. Hôm nay, trước tình thế nguy ngập này, Trung Cộng chiếm Việt Nam dễ dàng như vậy, ai là người đứng lên lập lại kỷ cương cho đất nước? Ai có trách nhiệm lịch sử giai đoạn này?

Dĩ nhiên, trách nhiệm cứu nước là trách nhiệm chung, già trẻ lớn bé trai gái đều có trách nhiệm trước sự mất còn của đất nước! Người Việt tị nạn Cộng Sản ở nước ngoài, thành phần trí thức, tu sĩ, thanh niên, sinh viên nam nữ v.v… tất cả đều có bổn phận đứng lên lật đổ chế độ nô lệ Tàu Cộng, đem lại độc lập cho nước nhà, sau đó mới thanh toán bọn xâm lược Tàu Cộng. Ngày xưa nghe
Hồ Chí Minh hô hào chống Pháp, toàn dân đã đứng lên, những người “trai mùa thu 1945” nay còn sống, có kẻ giải ngũ, có kẻ tại ngũ, tất cả thành phần cầm súng lăn vào lửa đạn để ngày nay, bị Việt Cộng gạt gẫm, chiến công của tầng lớp thanh niên ngày xưa là một vật hy sinh để Hồ Chí Minh dâng chiến thắng cho Ðệ Tam Quốc Tế, mà gần gũi nhất là Tàu Cộng.

Ngày nay, đứng trước cơ nguy tổ quốc bị xóa tên trên bản đồ thế giới, ai là người Việt Nam hãy gắng sức mình đứng lên lật đổ chế độ VC. Rất nhiều tướng lãnh Việt Cộng đã ý thức trách nhiệm lịch sử của mình, ngay cả Võ Nguyên Giáp cũng phải mở miệng phản đối, nhưng Nguyễn Tấn Dũng coi Võ Nguyên Giáp là kẻ sắp chết, chẳng thèm lưu tâm, trái lại Dũng cho việc để Tàu khai thác bâu xít là “một việc lớn của Ðảng ta”. Các tướng lãnh, các sĩ quan Việt Cộng hôm nay phải đứng lên, đứng về phía nhân dân lật đổ Chính Trị Bộ, Trung Ương Ðảng, lấy lại quyền tự quyết của dân tộc. Ðây chẳng những là vấn đề sinh tử của nòi giống, mà còn là vấn đề sinh tử của CHÍNH quân đội VC, nhất là cấp lãnh đạo chỉ huy, thành phần ưu tiên một phải thanh toán khi Trung Cộng ra mặt chiếm được nước ta.

Qua các cuộc hội thảo, qua những tờ báo “không còn chịu đựng nổi sự bưng bít” đã la lên cho toàn thể đồng bào sự nguy ngập mà Việt Nam đang và sẽ gánh chịu. Và hầu hết dân chúng đã nghe, đã biết. Giờ lịch sử đã điểm, mọi người đều phải ý thức trách nhiệm mình, có trách nhiệm, có tội trước dân tộc nếu Trung Cộng xâm lăng Việt Nam và biến Việt Nam thành một tỉnh của chúng. Và cũng cần ý thức câu nói “Còn tổ quốc là còn tất cả, mất tổ quốc là mất tất cả”. Ðã đến lúc mọi người mọi giới phải đứng lên, nhất là quân đội Việt Cộng, một khi có cuộc binh biến, chính biến lập tức toàn dân sẽ đứng lên, một triệu ba gia đình dân oan, 8 triều tín đồ Công Giáo, nhiều triệu tín đồ Phật Giáo, Tin Lành, Cao Ðài, Hòa Hảo, tất cả cùng đứng lên một lượt, chắc chắn sẽ đạt thắng lợi, đem lại độc lập tự do cho toàn dân. Chỉ có con đường đó, toàn dân mới có tự do dân chủ, đất nước mới giữ được nguyên vẹn lãnh thổ. Hãy đứng lên lãnh trách nhiệm trước lịch sử.

Lê Văn Ấn


Đại Kỳ Việt Nam Cộng Hòa, Một Bảo Vật Lịch Sử - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Một cơ hội đặc biệt vì đây là lần đầu tiên, hai bảo vật của Việt Nam Cộng Hòa xuất hiện cùng lúc trong ngày Liên Hiệp Quốc kiểm điểm tình trạng nhân quyền của cộng sản Việt Nam tại Genève. Đó là lá Quốc Kỳ lớn treo trên chiến hạm của Hải Quân Việt Nam trước năm 1975 và Đại Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa, bảo vật của Tòa Đại Sứ VNCH tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn (Mỹ) đã xử dụng đến ngày cuối cùng 30.4.1975. Bảo vật Đại Quốc Kỳ chiều ngang 15 Ft (5 mét), chiều dài 25 Ft (8 mét), cân nặng khoảng gần 7 Kg và được dệt bằng một loại lụa đặc biệt. Đại Quốc Kỳ nầy được một nhân viên tòa Đại Sứ cất giữ từ 33 năm qua kể từ ngày cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam. Mãi đến ngày 07.3.2008, Đại Kỳ đã được trao lại cho Bảo Tàng Viện Fresno Discovery Museum ở California, USA.

Đại Kỳ VNCH lịch sử đại diện cho Chính Phủ và Nhân Dân Việt Nam tại Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ trước ngày 30.4.1975, đã được xử dụng trong đại lễ, tiếp đón nhiều vị quốc khách, nhiều chính khách tên tuổi trên thế giới. Đại Kỳ đã một thời biểu trưng cho sức mạnh hào hùng, ý chí bất khuất và tinh thần yêu chuộng Tự Do Dân Chủ của nhân dân miền Nam trước 1975.

Đây là một báu vật của dân tộc Việt Nam, của cộng đồng người Việt xuất hiện lần đầu tại Âu-Châu, chúng tôi kêu gọi các đoàn thể, tổ chức cũng như cộng đồng dành ngày 08.5.2009, đến biểu tình trước trụ sở Liên Hiệp Quốc để:
    1. Cùng đứng chung dưới Đại Kỳ lịch sử để chứng minh cho thế giới biết rằng nước Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn tồn tại trên hành tinh nầy và người Việt hải ngoại ngày đêm đang tranh đấu để mai kia sẽ cùng Đại Kỳ trở về kiến thiết quê hương.

    2. Cùng đứng chung dưới Đại Kỳ lịch sử để đặt vấn đề Nhân Quyền với đảng cộng sản cũng như đỏi hỏi LHQ phải có biện pháp với nhà nước Việt Nam hiện nay là một tập đoàn đang chà đạp lên quyền sống, quyền làm người của 80 triệu dân trong nước.
Đáp lời mời của Hội Văn Hóa Người Việt Tự Do, một phái đoàn thanh niên từ Hoa Kỳ sẽ rước Đại Kỳ qua Genève cùng tham dự ngày kiểm điểm nhân quyền trước trụ sở Liên Hiệp Quốc. Chúng tôi xin chân thành cảm tạ các bạn trẻ, bảo tàng viện Fresno Discovery Museum California đã chấp thuận yêu cầu của chúng tôi.

Cầu xin hồn thiêng sông núi và vong linh những anh hùng đã xả thân dưới màu cờ, hãy phù hộ cho cuộc tranh đấu của chúng ta chóng đến ngày thành công.

Đinh Lâm Thanh




***
  • THE GRAND NATIONAL FLAG OF THE REPUBLIC OF VIETNAM
This grand National Flag of the former Republic of Vietnam (South) flew, up till 30.4.1975 in front of the Embassy of the Republic of Vietnam in Washington, D.C; USA, representing the people and the Republic of Vietnam in the USA until the communist north Vietnamese armed forces aggressed and took over South Vietnam on April 30th 1975, in flagrant violation of the Paris International Peace Accords of January 1973.

This unique Flag, made of special rare silk from South Vietnam is 25ft long by 15Ft large, weighs 13lbs and has a surface area of more than 375 sq Ft (roughly 42M2).

It is now preserved as a national Treasure at Fresno Discovery Museum, Cal; USA and continues to symbolize the sacred spirit of Freedom and Democracy for the free Vietnamese inside and outside of Vietnam.

It has been brought from California; USA to Geneva; Switzerland to signify the support to the cause of freedom and Human Rights in Vietnam on the occasion of the Universal Periodic Review of the Communist Vietnamese government’s catastrophic performance in human rights by the UN HR Commission on May 8th 2009.

On this occasion, the representatives of the Free Vietnamese Community from the entire world is holding a Grand Meeting at the Place des Nations; in front of the UN Headquarters to denounce the flagrant and characterized violation of the liberties and human rights of the people of Vietnam by the communist Hanoi Administration.

The presence among them of this National Grand Flag is a sacred token of support for the cause of freedom and Justice and a message of hope and love to the people inside Vietnam, still under communist brutal rule.

Its presence today should stimulate the spirit of Unity among the free Vietnamese all over the world so as to create a strong force for freedom; the rule of law and justice, capable of working together with like minded forces inside Vietnam to build an open; free, clean and good government in the service of the now much impoverished population so that Vietnam may soon evolve into a state of law, prosperous and strong and well respected in the world.

The national Grand Flag carries with it the ardent desire and hope that it will soon be able to return to Vietnam alongside the free Vietnamese to accompany them in their action for Freedom, the Rule of Law; economic prosperity and justice for all and fraternity among all Vietnamese except for criminals and traitors who will be dealt with legally ,severely but justly by a National Commission for Justice and Reconciliation.

Its transfer to Geneva is made possible thanks to the generous initiative and donation the author of which has requested not to be named at this stage. This donation has enabled the Fresno Discovery Museum to cooperate with the HOI VAN HOA NGUOI VIET TU DO (The Free Vietnamese Society For Culture; chaired by M. DINH Lam Thanh; Paris, France) to bring it to Geneva, among you all on this Historic Day.
    Geneva, May 8th 2009.
    FRESNO DISCOVERY MUSEUM, California; USA
    The Manager: Jimmy VU.

Canberra: Tưởng niệm 30 - 4 - 2009

Buồn quá! Không buồn làm sao được khi mà dự báo thời tiết cho ngày hôm nay là mưa gió và trời lạnh giá với nhiệt độ cao nhất là 10 độ C. Hôm nay, Chủ Nhật 26/04, là ngày biểu tình tưởng niệm ngày Quốc Hận trước toà đại sứ VC tại Canberra mà thời tiết khắc nghiệt như vậy thì thật là tội tình cho đồng bào của chúng ta quá!

Nhưng thật quá đỗi ngạc nhiên, có đi tham dự biểu tình năm nay thì mới thấy rõ tấm lòng Người Việt Tỵ Nạn CS. Lòng người 34 năm qua vẫn không thay đổi, dẫu cho đường xá xa xôi vạn dặm, dẫu cho thời tiết buốt giá lạnh căm ... hàng ngàn đồng hương rong ruổi từ khắp các tiểu bang xa kéo về trên 10 chiếc xe buýt chưa kể một số xe nhà, mang tơi đội nón, áo ấm, trùm đầu... hăng say hô to các khẩu hiệu đả đảo CS, đòi Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền cho Việt Nam, đã giúp làm ấm lòng người Việt ly hương tỵ nạn CS.

Càng xúc động hơn khi nhận thấy sự có mặt đông đảo của các cháu nhỏ thuộc thế hệ thứ ba, thứ tư, các bạn trẻ sinh viên học sinh và đặc biệt nhất là các vị cao niên (có vị đã gần 100 tuổi) trong một thời tiết lạnh cóng nhiệt độ xuống còn trên dưới 5 độ C.

Ngày 30/04 là một ngày buồn cho toàn thể dân tộc Việt Nam, nhưng cũng là dịp chứng tỏ cho chúng ta thấy được tinh thần đấu tranh và tấm lòng trước sau như một của Cộng Ðồng Người Việt Tỵ Nạn CS.

Có một điều dị mắt trong cuộc biểu tình ngày hôm nay là lá cờ đỏ sao vàng treo trên cột cờ trước tòa đại sứ VC lại treo lộn ngược. Lá cờ là biểu tượng cho một quốc gia, mà khi nó lại treo ngược như vậy, đỉnh của ngôi sao trên lá cờ máu lại lộn đầu xuống đất. Có phải chăng đây là một điềm báo hiệu ngày tàn kề cận của một chế độ phi nhân!

Mong lắm thay!

Biểu tình trước tòa đại sứ CS



Đặt vòng hoa trước Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Úc-Việt

Trích từ: http://www.lyhuong.net/viet/index.php?option=com_content&view=article&id=915:915&catid=39:sinhhoatcongdong&Itemid=58

Saturday, April 25, 2009

Kha Tư Giáo – Người chiến sĩ bất khuất của tự do - Trần Văn Giang

Trần Văn Giang
* để tưởng nhớ ngày 30 tháng 4 năm 1975… TVG

Gần đây truyền thông và báo chí của người Việt hải ngọai đã tốn rất nhiều thời giờ, công sức, dài dòng về sự vô liêm sỉ, bất xứng, trở cờ của một số cỏ đuôi chó sống đời tị nạn ở hải ngọai. Các ngọn cỏ đuôi chó này đang uốn theo ngọn gió phỉnh gạt mới của cộng sản: ồn ào hô hào hòa hợp hòa giải với cộng sản, “quên đi qúa khứ, hướng về tương lai… (sic)” Trong đó, buồn thay, có cả những người đã từng nắm vai trò lãnh đạo của miền Nam Việt Nam trước 30/4/1975. Những tên tuổi này đã từng (bị cộng đồng lật tẩy) có thành tích lừa thầy, phản bạn và đâm sau lưng chiến sĩ, đồng đội. Đã đến lúc chúng ta nên quên họ đi. Hãy để mặc cho họ tha hồ múa may theo nhịp trống bịp bợm mà mafia CS đang đập, trước khi họ lại được chính bọn CS cho học một bài học lường gạt (cũ rich) của CS. Các bài học lịch sử của sự “liên minh” với vẹm năm 1945, của sự ký hiệp ước với CS (Paris Accord – Hiệp định Ba-lê) năm 1973 vẫn còn rành rành, chắc chắn sẽ cơ hội tái diễn.

Thay vì cất công bận tâm đến họ, chúng ta hãy dành chút ít thời giờ quí báu để nhắc nhở, tưởng nhớ các chiến sĩ (hầu như vô danh) của tự do đã sống bất khuất, cuối cùng đã chọn cái chết (vinh) hơn sự sống nhục. Các chiến sĩ bất khuất như Ngô Nghĩa, Kha Tư Giáo.

Bài này viết về chiến sĩ Kha Tư Giáo theo lời thuật lại của một đồng môn với tôi. Anh đã là bạn tù của Kha Tư Giáo kể từ ngày cùng đi trình diện (để đi gọi là “học tập cải tạo !”) tại trường đại học Kiến Trúc Sàigòn ngày 28 tháng 5 năm 1975 cho đến khi Kha Tư Giáo chết ở Long giao, Long Khánh và khỏang tháng 6 năm 1976.

Kha Tư Giáo tốt nghiệp trường Khóa I Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt (xem ảnh Kha Tư Giáo lúc còn là SV trường Đại học CTKD Đà lạt); nhập ngũ (khóa 9/68 Thủ Đức); và biệt phái về làm cho Kỹ Thương ngân hàng ở Sài gòn. Năm 1975, Kha Tư Giáo khỏang độ 30 tuổi mang cấp bậc cuối cùng, trước ngày tan hàng 30/4/1975, là Thiếu úy.

Kha Tư Giáo người cao ráo, trắng xanh theo kiểu nhân viên văn phòng và có dáng dấp thư sinh tương tự như hình ảnh “anh chàng văn sĩ” trong trại tập trung của Đức quốc xã mà chúng ta thấy trong phim “Giờ Thứ 25” của nhà văn người Romania - C. Virgil Gheorghiu. Kha Tư Giáo là một người trầm ngâm, ít nói. Nhưng khi nói thì rất rành mạch, đúng sách vở. Kha Tư Giáo cũng là một người bạn tốt, sòng phẳng và sẵn sàng giúp đỡ các bạn tù khác.

Theo lệnh của CS, Kha Tư Giáo đi trình diện tại trường Đại học Kiến Trúc Sài Gòn ngày 28 tháng 5 năm 1975. Vào đêm 28 tháng 5 năm 1975, Kha Tư Giáo và các sĩ quan VNCH khác đã trình diện tại truờng Đại học Kiến Trúc Sài gòn trong hai ngày 27 và 28 tháng 5 năm 1975 được chuyển đến “Thành Ông Năm” ở Bùi Môn, Hóc Môn bằng xe Molotova.

Kha Tư Giáo bị giữ ở trại T2-L19 tại Bùi Môn từ ngày 28 tháng 5 năm 1975 cho đến cuối năm 1975. Anh Giáo và các tù nhân sĩ quan VNCH được CS dùng tầu đổ bộ cũ của HQVN (HQ 504 ?) chở ra đảo Phú Quốc, Dương Đông. Tất cả tù nhân đặt chân lên đảo Phú Quốc đúng vào chiều ngày 30 tết Bính Thìn 1976.

Thời bấy giờ, Kha Tư Giáo có một người chú ruột là Kha Tư Ân làm Thứ Trưởng Bộ Công Nghệ Nhẹ của chính quyền CS Hà Nội. Người chú này đã có lần viết thư cho Kha Tư Giáo nhắn nhủ là: “Cháu cứ nhận tội (làm tay sai Mỹ, chống lại CS) thì họ (cán bộ quản giáo - cai tù cải tạo) sẽ cho về.” Người em ruột của Kha Tư Giáo là Kha Tư Huấn, mang cấp bậc Trung úy, đã nghe theo lời chú nhận tội (!) như vậy, chỉ bị tù một năm rồi được CS thả về. Kha Tư Giáo cương quyết nhất định không bao giờ nhận bất cứ tội gì; mặc dù chính ngay các cán bộ quản giáo đã nhiều lần khuyên Kha Tư Giáo cứ “nhận tôi” thì sẽ cho về. Đã không nhận tội, Kha Tư Giáo còn nói với cán bộ quản giáo là:

“Tôi không có thân nhân nào làm việc với CS cả!”

Và tiếp theo là:

“Nếu thấy tôi có tội thì cứ đem ra bắn; còn thấy tôi không có tội thì phải thả tôi ra tự do!”

Sau đây là một số tranh luận với quản giáo CS mà tôi xin ghi lại qua lời kể của ông Nguyễn Tất Đắc (cựu KQVN), một bạn tù khác của Kha Tư Giáo ở Thành Ông Năm:

(Trích)
… Anh Giáo người rất cao ráo khỏe mạnh, qua cặp kính trắng ra dáng là một nhà trí thức. Sở dĩ anh Giáo đã để lại nhiều ấn tượng với tôi vì sau khi làm những việc lao động như mọi người, anh thường mắc cái võng ở một xó; rồi qua cặp kính trắng, anh nằm đăm chiêu tư lự như không muốn nói chuyện với ai. Sau đó toàn trại đều biết đến anh vì anh dứt khoát không bao giờ nhận có tội với “cách mạng.” Ít lâu sau, anh Giáo được chuyển sang đội của tôi; do đó tôi và các bạn khi họp trong đội thường xuyên được nghe anh Giáo đấu khẩu bốp chát với tên cán bộ phụ trách khiến trên thành ủy phải đưa cán bộ thứ dữ đối thoại tay đôi với anh Giáo. Mặc dù hai người nói chuyện ở ngay trong phòng, xong chúng tôi đều lảng ra chỗ khác nhưng liếc thấy anh Giáo mặt mũi đỏ gay và cả hai người một đôi khi rất lớn tiếng với nhau nên chúng tôi cũng đoán là tên cán bộ đó chẳng thể nào khuất phục để anh Giáo phải nhận tội.

Đây là những lời đối thoại bốp chát trong những giờ học tập trong đội tôi giữa anh Giáo và các tên cán bộ khiến cho chúng phải cứng họng.

Một tên cán bộ đang thao thao đề cao những ưu việt của xã hội chủ nghĩa thì anh Giáo giơ tay xin phát biểu:

“Cán bộ đề cao xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi nghe thấy khó hiểu và cao xa quá xong thực ra chúng tôi không cần biết mà cũng không cần hiểu làm gì. Dân miền nam chúng tôi chỉ đơn giản hiểu cái chủ nghĩa nào mang lại cơm no áo ấm hạnh phúc cho người dân đó mới là chủ nghĩa ưu việt mà thôi.”

Một lần khi lên lớp trong đội của tôi tên cán bộ nói:

“Các anh ráng học tập tốt để về chứ nhà nước đâu có cơm gạo nhiều để nuôi các anh.”

Thấy anh Giáo giơ tay xin phát biểu. Tên cán bộ phải miễn cưỡng để cho anh Giáo nói:

“Cách mạng bảo chúng tôi đi học 10 ngày mà cho đến nay đã mấy tháng rồi vẫn giữ chúng tôi lại chưa cho về; nay lại nói là không có cơm gạo để nuôi chúng tôi là làm sao?”

Tên cán bộ sửng cồ:

“Ai nói với các anh là chỉ đi học tập có 10 ngày?”

Anh Giáo:

“Một lời nói của các mạng để 99% người dân hiểu lầm vậy thì đó là lỗi của người dân hay của cách mạng?”

Tên cán bộ bị cứng họng mặt mũi đỏ gay tức tối..

Và đó cũng là lý do trên thành ủy đã phải cử 1 tên cán bộ xuống đấu lý với anh Giáo và qua chuyện “có tội hay không có tội”
(hết trích)

Vì cãi không lại các lý luận của Kha Tư Giáo, cán bộ quản giáo phải mời Chính ủy của Trung đòan xuống để “góp ý” và tranh luận với Kha Tư Giáo. Đáng nhớ nhất trong tâm trí của các tù nhân sĩ quan VNCH tại trại Bùi Môn là sau vụ “góp ý” của Chính ủy trung đòan với Kha Tư Giáo không đi đến đâu cả, một tên cán bộ quản giáo nói với Kha Tư Giáo:

“Bây giờ tôi nói chuyện với anh như hai người ngang hàng. Anh định nghĩa cho tôi biết thế nào là tự do?”

Kha Tư Gíao trả lời ngay:

“Anh là kẻ chiến thắng, tôi là người thua trận, không bao giớ có thể có chuyện ‘nói ngang hang với nhau’ được. Còn anh hỏi tôi ‘định nghĩa thế nào là tự do’ thì tôi không định nghĩa được vì nghĩa của chữ tự do quá rộng. Nhưng mà khi tôi bị mất tự do là tôi biết liền.”

Tên quản giáo chỉ còn nước lắc đầu và bỏ đi.

Tại Phú quốc, Kha Tư Giáo bị giữ ở “nhà số 2” trong trại Cầu Sấu. Trại này là trại cuối cùng từ Dương Đông đi vào. Trong giai đọan này sức khỏe của các người tù nói chung xuống dốc rất mau vì vấn đề ăn uống rất thiếu thốn, sự kiểm sóat, kiểm thảo chặt chẽ của CS. Đây cũng là giai đọan mà Kha Tư Giáo phản kháng CS mạnh mẽ nhất. Kha Tư Giáo luôn luôn tuyên bố trong các buổi học tập, kiểm thảo là mình “chẳng có tội gì cả” và liên tục “đề nghị” là “nếu có tội thì cứ việc đem ra bắn ngay!”

Trong trại tù cải tạo, CS luôn hô hào, luôn tuyên truyền khẩu hiệu: “Lao động là vinh quang.” Một hôm, Kha Tư Giáo bị đau răng, khai bịnh và xin nghỉ lao động nhưng cán bộ quản giáo không cho, vẫn bắt anh đi lấy củi như mọi người. Trên đường về, anh chỉ vác một khúc củi to bằng chiếc đòn gánh. Một tên bộ đội bắt anh phải đổi một khúc cây to hơn. Kha Tư Giáo trả lời:

“Hôm nay tôi bịnh. Xin nghỉ các anh không cho; nên tôi làm như các anh nói ‘làm theo khả năng và hưởng theo nhu cầu.’ Tôi vác khúc cây này là đúng sức của tôi rồi.”

Tên bộ đôi nhất định bắt Kha Tư Giáo phải vác nhiều hơn, thì anh cũng nhất định không chịu tuân lệnh. Tên này bèn lên đạn súng AK, chĩa súng vào người anh hăm dọa sẽ bắn nếu anh không tuân lệnh. Kha Tư Giáo bình tĩnh tháo kiếng cận ra và chỉ ngón tay vào mặt của mình rồi nói với tên bộ đội:

“Anh hãy bắn vào đây này!”

Tên bộ đội giận run, chỉa súng lên trời bắn cả băng đạn AK mà không làm gì được anh. Câu chuyện này được đã được dân chúng ở Cầu sấu kể, truyền lại cho các trại tù khác ở Dương Đông, Phú quốc.

Kể từ hôm đó, bộ đội bắt đầu “chiếu cố” Kha Tư Giáo mạnh mẽ hơn.

Anh em trong trại tù đều biết rằng chẳng thà đi ra ngòai trại lao động còn hơn bị bắt ngồi ở trong tại học tập và viết tờ nhận tội. Vì sự chống đối không ngừng của Kha Tư Giáo, cán bộ quản giáo trại bắt tất cả tù cải tạo mỗi tháng học tập một lần để “giúp đỡ” (lời của cán bộ quản gíao trại) Giáo ra nhận tội của mình. Anh em tù ai cũng thấy ngại cho Kha Tư Giáo. Có người nói:

“Thôi! Giáo nhận tội đại đi để được chóng thả về.”

Anh Giáo chỉ nhìn anh em tù mà không trả lời.

Lần “góp ý” cuối cùng tại Phú quốc vào khoảng giữa tháng 5/1976. Sau 1 tuần lễ cả trại học tập “góp ý” để khuyên Kha Tư Giáo ra nhận tội của mình, cuối cùng mọi người đều thở phào nhẹ nhõm khi thấy anh giơ tay xin phát biểu. Sau khi đứng lên, sửa quần áo cho ngay ngắn, chỉnh lại cặp kính cận cho thẳng thắn, anh chậm rãi nói:

“Trước hết, xin cám ơn các bạn đã ‘góp ý’ cho tôi cả tuần nay; và bây giờ tôi nhận ra là tôi có một tội (nghe đến đây, tù nhân ai cũng thở phào vì sẽ sớm chấm dứt cảnh học tập; còn tên quản giáo thì miệng nở nụ cười chiến thắng). Cái tội của tôi là ‘Tôi đã không thể nói cho các bạn hiểu là TÔI KHÔNG CÓ TỘI. ”

Đám tù nhân cười ồ lên. Còn tên cán bộ quản gíáo thì đã tắt ngay nụ cười.

Ngay sau đó, trong một cuộc kiểm sóat trại, tên trại trưởng đã nói điều gì đó xúc phạm đến anh, anh quay đi và nhổ nước bọt xuống đất. Thế là anh bị đem đi biệt giam. Kha Tư Giáo bị nhốt theo kiểu chuồng cọp (ngồi không được mà đứng cũng không được, chỉ có một cách là nằm, nhiều lắm là co chân). Anh bị nhốt ở một chuồng kẽm gai bên cạnh trại, trên bãi đất trống trải. Phía trên chuồng có che mái sơ sài, bốn bên trống lốc. Cát, gió và kiến lửa tha hồ ùa vào. Khí hậu thì ngày nóng đêm lạnh. Suốt cả đêm, anh chỉ liên tục gào thét lên một câu trong bài hát “Đêm nguyện cầu” của Lê Minh Bằng:

“Thượng đế hỡi có thấu cho Việt Nam này…
Con tim chân chính không bao giờ biết đến nói dối!”

Kha Tư Giáo cứ la hét như thế cho đến khi khản hết tiếng tăm. Anh cũng luôn miệng kêu khát “Nước! Nước!” Nhưng cán bộ quản giáo chỉ cho nước khi cho anh ăn. Anh lại phản đối tuyệt thực luôn. Giai đọan này các trại giam ở Phú Quôc có lệnh của CS phải di chuyển tù vào đất liền (vì CS đang có chiến tranh với Khmer đỏ). Kha Tư Giáo đã kiệt sức. Lúc chuyển trại, phải có bạn tù xốc nách dìu anh đi bộ suốt 7 cây số từ trại Cầu sấu ra bến cảng. Trên tầu HQ 403, mặc dầu đứng không vững, nhưng anh vẫn bị còng tay bằng còng số 8 vào thành tầu. Còng sắt hoen rỉ đã cắt da thịt của anh sát đến tận xương trắng. Hai chân anh bị cùm bằng 2 thanh gỗ có khóet lỗ hình bán nguyệt kẹp vào nhau. Tầu HQ 403 (?) đã đưa tù nhân về lại bến Tân Cảng Sàigòn sau 2 ngày, và cuối cùng tất cả được đưa về Long Giao (Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh - hậu cứ và Trung tâm huấn luyện cũ của SĐ 18BB). Khi đến Long Giao thì Kha Tư Giáo chết vì hòan tòan kiệt sức. Cuối năm 1976, gia đình Kha Tư Giáo ở Sài gòn đã có lên thăm mộ của Kha Tư Giáo mà anh em bạn tù đã thu xếp chôn cất cho anh ở Long Giao.

Anh Kha Tư Giáo,

Chúng tôi xin thay mặt cho những người còn sống sót hôm nay, thay mặt cho những người không có được cái khí phách oai hùng bất khuất của anh, xin thắp lên một nén hương cầu nguyện cho linh hồn anh được ngàn thu an nghỉ. Cuộc đời vốn dĩ đã là bể khổ. Nhưng không có bể khổ nào có thể so sánh với cái địa ngục trần gian mà CS đã và đang dùng để đày đọa anh và dân tộc Việt Nam . Lich sử nhân lọai đã nhiều lần chứng minh là bạo lực không thể tồn tại mãi được. Anh đã sống bất khuất, đã từng khóc và cười theo mệnh nước, thì chắc chắn anh chết cũng linh thiêng. Xin vong linh anh hãy phù hộ cho dân tộc và nước Việt Nam sớm thóat cảnh lầm than vô tiền khóang hậu trong lịch sử 4000 năm của đất nước.

Sự bất khuất của Kha Tư Giáo đã thật sự phản ảnh tinh thần:

“Đừng sợ những gì cộng sản làm. Hãy làm những gì cộng sản sợ.”

Cuối bài, như đã trình bày, những chi tiết ở đây được ghi lại theo trí nhớ của một người lính gìa, chắc chắn sẽ có sơ xuất. Kính xin quí vị quan tâm sửa sai và bổ khuyết thêm vào bài này để giữ ngọn đuốc bất khuất Kha Tư Giáo tiếp tục cháy sáng, soi vào lương tâm của các ngọn cỏ đuôi chó.

Trần Văn Giang
07/2007
Cập nhật ngày 04/09/2009

Phụ chú:
Sau đây, xin giới thiệu một bài thơ do đọc gỉa Nguyên P. Thúy đã gởi đến để đóng góp với bài này:
    Người Tù Không có Tội!!!

    Kha Tư Giáo, ngươi là người có tội,
    Hãy nhận đi, rồi sẽ được về nhà,
    Hãy nhận mình theo Mỹ hại quốc gia,
    Hãy ăn năn, đảng sẽ mau ân xá.

    Tôi, Thiếu úy, tuổi 30, vất vả,
    Đem đời mình để bảo vệ quê hương,
    Chặn xâm lăng từ cõi Bắc phương,
    Nơi sa trường súng gươm không nhân nhượng.
    Vận nước đổi, nuốt hờn thân bại tướng,
    Làm tù nhân, nào dám tưởng mai sau,
    Đảng khăng khăng: tội máu với đồng bào,
    Tôi cương quyết: lương tâm nào có tội!
    Đảng cứ buộc thì bắn cho đáng tội,
    Còn nếu không thì phải thả tôi ra,
    Đừng hỏi tôi ý nghĩa chữ Tự Do,
    Bao la lắm, nhưng biết liền khi mất.
    Những trù dập, biệt giam, học tập,
    Đảng giúp tôi tìm tội của tôi,
    Dù đời tôi khốn khổ, xác tả tơi,
    Tôi có tội: nói không ra cái tội!
    Cát, gió, kiến hành hạ, ôi nhức nhối,
    Suốt cả đêm, chỉ gào thét, nguyện cầu,
    Thượng Đế hỡi, ở đâu? ngài có thấu?
    Con tim tôi chân chính chửa dối gian.
    Còng sắt hoen đã cắt hết thịt da,
    Trơ xương trắng, vẫn không làm nhụt chí,
    Mắt rực sáng, lộ anh hùng hào khí,
    Địa ngục này chỉ giữ được xác phàm.
    Đất Long Giao u uất mộ sơ sài,
    Nhưng khí phách oai hùng luôn bất khuất,
    Hồn có thiêng, xin theo phù hộ nước,
    Thoát lầm than và thoát nạn Cộng nô.

    Kha tư Giáo, người tù không có tội,
    Cũng có ngày người thong thả về nhà,
    Đất Mẹ ôm, rũ sạch nợ quốc gia,
    Trời bao la, gió gào vang “Không tội”…

    Nguyễn P. Thúy
    September 11, 2008
(Lấy ý từ bài viết “Kha Tư Giáo: Người chiến sĩ bất khuất của tự do” của Trần Văn Giang)


Friday, April 24, 2009

Những Người Trở Về Với Đại Gia Đình Dân Tộc - Đỗ Hữu Long:

Đỗ Hữu Long

Trang sử máu và nước mắt của dân tộc Việt Nam bước vào giai đoạn thảm khốc kể từ 30 tháng 4 năm 1975 !

Sau vài ngày tuyên truyền láo khoét, bọn cầm quyền Cộng Sản thi hành chiến dịch tập trung những người làm việc trong hàng ngũ quốc gia, truy tìm những ngươì đã tích cực chống Cộng, phân loại để biệt giam, thủ tiêu hoặc tuyên án tử hình.

Trong các tầng lớp quân, dân, cán, chính miền Nam đã giáng trả những đòn chí tử ngăn chận Cộng Sản xâm lăng, anh em hồi chánh viên và các toán võ trang tuyên truyền (armed propaganda teams) góp phần không nhỏ. Cộng Sản đã bị nhiều tổn thất nặng nề do những tin tức từ hồi chánh viên cung cấp và hướng dẫn hoặc các cuộc hành quân đột kích vào tận hang ổ Cộng Sản cuả cán bộ võ trang tuyên truyền, vì vậy chúng liệt họ vào hàng kẻ thù số một. Hàng trăm hồi chánh viên và cán bộ võ trang tuyên truyền bị giết hại từ khi miền Nam bị cuỡng chiếm.

Chính sách chiêu hồi, khai sinh từ Đệ Nhất Cộng Hòa, là một phần hành của Bộ Công Dân Vụ. Ông Bộ Trưởng Ngô Trọng Hiếu thường xuyên nhắc nhở công tác chiêu hồi, thảo luận, chọn lựa các danh từ thích hợp như là quy vị viên, quy chánh viên đến hồi chánh viên. Chương trình chiêu hồi ngày càng phát triển trở thành một Bộ và được sự hổ trợ mạnh mẽ của ngân sách ngoại viện. Hoạt động chiêu hồi dựa trên Huấn Thị Điều Hành 222, bao gồm các điều khoản từ định nghĩa hồi chánh viên đến nghĩa vụ và quyền lợi của hồi chánh viên như: Khai báo lý lịch và tin tức, tiêu chuẩn ẩm thực, tiêu vặt, y phục, huấn chính, huấn nghệ, thủ tục căn cước và cuối cùng hoàn hương với đầy đủ quyền công dân.

Cho đến tháng 4 năm 1975, tổng số hồi chánh viên vượt quá con số hai trăm ngàn, từ binh sĩ đến thượng tá, từ du kích địa phương đến chính quy Bắc Việt, từ giao liên đến tỉnh ủy viên. Mỗi hồi chánh viên khi rời bỏ Cộng Sản đều mang lại nhiều thuận lơị, đó là niềm tin vào chính nghĩa quốc gia và vô số tin tức giá trị. Sau đây là tóm tắt những đóng góp nổi bật cuả anh chị em hồi chánh viên và cán bộ võ trang tuyên truyền.

1. Chiến thắng trên Quốc Lộ 15.

Trong một buổi tiếp đón phái đoàn thanh tra chương trình Bình Định Phát Triển Quân Khu 3 taị toà hành chánh tỉnh Phước Tuy năm 1967, Trung Tá Lê Đức Đạt, tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng tường trình trường hợp Tiểu Khu Phước Tuy không những bảo vệ tỉnh ly - thị xã Phước Lễ - tránh được chiến trường đẫm máu mà còn có cơ hội tiêu diệt nhiều sinh lực Cộng quân trong lãnh thổ Quân Khu 3.

Vào buổi sáng cuối tuần tháng 5, Tiểu Khu Phước Tuy nhận được tin một đoạn dài trên quốc lộ 15 bị đào và đắp mô cản trở lưu thông. Như thường lệ, bộ chỉ huy Tiểu Khu cử Đại Úy Dung, Phó tỉnh trưởng nội an đưa một số đại đội Địa Phương Quân và Đại Úy Hiệp chỉ huy lực lượng biệt động quân đến nơi giải toả chướng ngại và tái lập lưu thông.

Khoảng một giờ trưa, từ hướng Long Sơn xuất hiện một cán binh Cộng Sản hơ hãi xin hồi chánh và yêu cầu gặp ngay trung tá tỉnh trưởng. Người hồi chánh ấy báo cho Trung Tá Tỉnh trưởng biết từ đêm hôm qua, hai sư đoàn cộng quân - Công Trường 5 và Công Truờng 7 - đã tập kết tại chân núi Thị Vải và các đơn vị đang di chuyển đến vị trí tác chiến áp sát tỉnh lỵ. Kế hoạch của cộng quân là dụ các lực lượng cơ hữu của Tiểu Khu đến đoạn đường bị đào đắp, chúng sẽ chận đánh và tiêu diệt đoàn xe khi trở về gần đến tỉnh vào buôỉ chiều đồng thời cũng là lúc khai hoả thọc những mũi tấn công ồ ạt vào tỉnh lỵ. Chúng dự tính có đủ quân số và vũ khí tràn ngập thị xã Phước Lễ, kế đến tiến chiếm thị xã Vũng Tàu.

Kinh nghiệm nhiều năm trong chức vụ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng từ Bình Tuy (1962) đến Phước Tuy, Trung Tá Đạt ra lệnh cho Đại Úy Dung và Đại Úy Hiệp không được di chuyển về tỉnh, phải đào công sự cố thủ ngay taị chỗ. Lệnh báo động ban hành trong toàn tỉnh, tập trung tất cả các đơn vị quân sự và bán quân sự còn lại của tỉnh sẵn sàng chiến đấu. Các cố vấn quân sự Mỹ được mời họp lập kế hoạch ngăn chận và tiêu diệt địch.

Được các phi cơ quan sát hướng dẫn, nhiều phi vụ F4, F105 ném bom xăng và bom mảnh vào đội hình Cộng quân một cách chính xác. Tiếp theo, các phi đoàn trực thăng vãi đạn vào lớp ngươì đội nón tai bèo đang tháo chạy vào hướng núi. Quân đội Hoa Kỳ đồn trú tại Long Bình nhanh chóng tham chiến, trải quân dọc theo Quốc Lộ 15 và pháo binh nả đạn vào các toạ độ xác định. Chiều tối, pháo đài bay B52 trải thảm đuổi theo đám tàn quân.

Sự xuất hiện đúng lúc cuả một hồi chánh viên đã phá vỡ một kế hoạch quân sự quy mô của địch, đồng thời tiêu điệt phần lớn sinh lực Công Trường 5 và Công Trường 7 Cộng quân với hơn ba trăm thương vong chỉ bằng hoả lực của Không Quân và Pháo Binh.

2. Trung Tá Phan Văn Xướng và Trung Đoàn Cửu Long hồi chánh tập thể.

Trong kế hoạch tổng công kích Mậu Thân đợt 2, Trung Đoàn Cửu Long do Trung Tá Cộng Sản Phan Văn Xướng chỉ huy đã đột nhập khu Đồng Ông Cộ, cách tòa hành chánh tỉnh Gia Định khoảng 3 kilomet và đang bị bao vây. Mặc dù được lệnh tử thủ nhưng Trung Tá Phan Văn Xướng quyết định hưởng ứng lời kêu gọi hồi chánh. Toàn bộ Trung Đoàn Cửu Long được tiếp đón tại trung tâm chiêu hôì trung ương Thị Nghè, ngoaì anh Phan Văn Xướng còn có hai ca sĩ nổi tiếng Đoàn Chính và Bùi Thiện. Sự trở về của Trung Đoàn Cửu Long là một caí tát vào mặt Lê Đức Thọ đang vênh váo, khoác lác về những chiến thắng trên các mặt trận, bẻ gãy thủ đoạn bắt bí phái đoàn thương thuyết Việt Mỹ tại hòa đàm Paris.

Anh Phan Văn Xướng được Bộ Chiêu Hôì bổ nhiệm chức vụ tham nghị với lương bổng và phụ cấp cuả một giám đốc. Đoàn Chính và Bùi Thiện tiếp tục ca hát trên đài phát thanh và truyền hình. Đoàn Chính được ông Vũ Bá Ước, chủ tịch Phòng Thương Mãi Saì Gòn, bạn thân của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn đưa về nhà nuôi dưỡng và gả con gái, vài năm sau Bùi Thiện cưới vợ dược sĩ.

Sau 30/4/75, anh Phan Văn Xướng bị biệt giam và không có tin tức gì khác ngoài tin anh bị xử bắn. Gia đình Đoàn Chính và Bùi Thiện di tản khỏi Sài Gòn trong những ngày cuôí tháng 4/75.

3. Các hồi chánh viên của Ty Chiêu Hồi Kiến Hoà.

Những năm 1969, 1970, Ty Chiêu Hồi Kiến Hoà tiếp nhận vượt mức số lượng hồi chánh viên, nổi bật nhất là anh Xuân Vũ, văn sĩ hồi kết và anh Bùi Công Tương, uỷ viên tuyên huấn tỉnh Bến Tre.

Anh Xuân Vũ tên thật Bùi Quang Triết, bạn học cùng lớp với Tướng Ngô Quang Trưởng, tham gia kháng chiến chống Pháp năm 15 tuổi. Sự trở về với đaị gia đình dân tộc của anh Xuân Vũ không những đem laị cho Việt Nam Cộng Hoà một cây bút chống cộng giá trị mà còn cung cấp hai nguồn tin quan trọng, đó là sự chia rẽ Nam, Bắc trong hàng ngũ cao cấp Cộng Sản và tù binh Mỹ.

Anh kể lại, trên đường trở về miền Nam, anh đã nhìn thấy rải rác trong mỗi hố sâu thẳm là một tù binh gầy ốm, hôi thốí, rên rỉ, như một con thú. Những ngươì nầy sẽ chết vì đói khát, bệnh tật và hầm giam sẽ được vuì lấp bằng một vài tảng đá, kể cả tù binh còn sống nếu đơn vị Cộng Sản có nhu cầu rời khỏi vị trí. Anh cũng cho biết Cộng Sản Hà Nội đã chuyển giao cho Liên Xô một số tù binh phi công Mỹ để cơ quan tình báo Liên Xô khai thác những tin đặc biệt về không lực Hoa Kỳ.

Trong năm 2002 vừa qua, một vài giới chức nước Nga lên tiếng nhắc đến hồ sơ tù binh phi công Mỹ trong chiến tranh Việt Nam bị lưu đày tại Liên Xô liền bị khóa mồm ngay từ lúc mở miệng. Việc làm này cuả Cộng Sản Việt Nam thật dễ hiểu như động tác cuả một con chó thuần dưỡng chui vào bụi rậm tha con mồi đặt ngay dưới chân ông chủ. Vì vậy, vấn đề còn lại là liệu lập pháp và hành pháp Mỹ có đủ quyết tâm buộc Hà Nội thành thật khai báo.

Anh Buì Công Tương, ngay khi mơí ra hồi chánh đã hợp tác chặt chẽ vơí tiểu khu Kiến Hoà và quân đội Hoa Kỳ triệt hạ nhiều cơ sở tỉnh uỷ Cộng Sản Bến Tre. Anh Buì Công Tương có lối noí trôi chảy, thao thao bất tuyệt, không những được các cấp Bộ Chiêu Hôì khen ngợi mà còn được sự lưu ý cuả Thủ tướng Trần thiện Khiêm. Năm 1970, anh Tương giúp Bộ Chiêu Hồi hoàn thành một bạch thư tố cáo tội ác Cộng Sản. Anh Tương cung cấp một số hình ảnh ngụy tạo cuả cơ quan tuyên huấn Bến Tre như cán bộ Cộng Sản đóng vai linh mục trong thánh lễ, dàn dựng cảnh binh sĩ V.N.C.H. đánh đập phụ nữ, cầm đuốc đốt nhà trước vẻ mặt căm giận cuả một cụ già. Sách nầy được viết bằng hai thứ tiếng Việt và Anh.

Các hồi chánh viên của tỉnh Kiến Hoà cũng kể lại những thủ đoạn áp chế người dân quê chất phát trong thời kỳ phát động chiến dịch đồng khởi 1960. Chúng thúc ép dân chúng từ các thôn, ấp đến tập trung trước các Quận kể cả thị xã Bến Tre phất cờ đỏ, trương biểu ngữ, la ó, chửi bới, xô xát với nhân viên công lực… Sau vài lần quậy phá, chúng mở cuộc kiểm thảo, phê bình, hăm dọa những người mà chúng cho là thiếu tích cực hoặc không thực tâm phục vụ chính sách, nếu tái phạm sẽ bị trừng phạt bằng nhiều biện pháp. Do cách kiềm kẹp nầy nên đám đông quần chúng thường có những hành động liều lĩnh, quá khích. Một số người bị cơ quan an ninh tỉnh bắt giữ, bị thẩm vấn mạnh tay nhưng vẫn có thái độ chịu đựng, thản nhiên, một cách khó hiểu. Được gặn hỏi, họ thú nhận rằng nếu không có những vết tích chứng tỏ sự trung thành, khi trở về thôn ấp sẽ bị nghi ngờ và có thể bị kết tội như là khai báo tổ chức, bị móc nối làm tay sai… và sẽ lãnh bản án nặng nề làm gương cho kẻ khác.

Chiến dịch đồng khởi Bến Tre còn được thúc đẩy bằng biện pháp khủng bố ghê rợn khác nữa. Tại mỗi thôn ấp chúng lựa chọn một số công dân, buộc họ nhiều thứ tội từ ác ôn, cường hào ác bá, phản cách mạng đến gián điệp, tay sai Mỹ ngụy… và tập trung tại một bãi đất rộng gọi là tòa án nhân dân. Chúng trói các nạn nhân vào hai hàng cọc đối diện nhau. Sau thủ tục xét xử nham nhở, chúng tuyên án tử hình một số người và khoan hồng một số khác. Tên đao phủ cầm mã tấu lần lượt chém đầu những người bị kết tội. Kể từ đấy, những người được tha cũng trở nên mất trí, những người dân chứng kiến phiên toà hoặc nghe kể lại đều trở thành đám cừu non răm rắp tuân theo bất cứ mệnh lệnh nào của đám cán bộ Cộng Sản ! Câu chuyện đã xảy ra hàng nửa thế kỷ trước, nay có dịp nhắc lại những ẩn tích cuả đồng khởi Bến Tre và con quái vật Nguyễn thị Định.

4. Trận đột kích táo bạo của cán bộ võ trang tuyên truyền Ty Chiêu Hồi Kiên Giang.

Kể từ 1972, chính quy Bắc Việt gia tăng xâm nhập vào lãnh thổ Quân Khu 4, không những dọc theo biên giới Việt Miên từ Kiến Tường đến Hà Tiên mà còn vượt kinh Cái Sắn vào rừng U Minh. Giữa năm 1973, một trưởng trạm giao liên vùng U Minh, anh Lê Văn Be ra hồi chánh. Anh Be cho biết có nhiều chính quy Bắc Việt vừa xâm nhập và đang trú đóng tại khu rừng chồi. Ty Chiêu hồi Kiên Giang lên kế hoạch tiêu diệt địch và được sự chấp thuận cuả Đại Tá Chính, tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Kiên Giang.

Một toán cán bộ võ trang tuyên truyền (VTTT) mười hai người quen thuộc địa hình khu vực, cải trang thành bộ đội với dép râu, nón tai bèo, vũ trang tiểu liên AK47 do Trung Đội Trưởng Nguyễn Văn Tòng chỉ huy. Toán hành quân khởi hành từ sẫm tối trên bốn chiếc xuồng nhỏ do sự hướng dẫn cuả hồi chánh viên Lê Văn Be về lộ trình, mật khẩu và mật hiệu là một người ngồi tại mũi ghe với nón tai bèo, AK47 băng đạn đưa về phía trước. Toán hành quân vào đến vị trí vào lúc nửa khuya khi các cán binh Cộng Sản đang ngon giấc. Anh em cán bộ VTTT áp dụng phương pháp tác chiến đã dặn dò từ trước. Họ dùng dao găm cắt đây treo mùng để chiếc mùng phủ chụp trên thân người đang nằm vừa làm cản trở người đang ngủ muốn đứng dậy vừa giúp người bên ngoài phân biệt đầu và chân. Qua ánh sáng lờ mờ cuả mấy ngọn đèn dầu tại chỗ, cán bộ VTTT hướng mũi lê AK47 nhắm vào phần cổ, ngực đâm mạnh nhiều nhát. Mỗi chiến sĩ tấn công phải thanh toán từ hai đến bốn đối tượng bằng nhiều mũi lê chính xác.

Sau khoảng mười phút ra tay không một tiếng súng nổ, chiến trường đã thanh toán xong với hiện trạng hơn ba mươi cuộn vaỉ mùng đẫm máu, lăn lộn, rên rỉ. Đội giang đỉnh cuả tiểu khu Kiên Giang ứng chiến taị Rạch Sỏi nhận được tín hiệu nổ máy lao vào điểm hẹn tập trung đón các chiến sĩ VTTT trở về tỉnh lỵ. Tại Toà Hành Chánh Kiên Giang, Đại Tá Chính vẫn còn thức và chờ đợi, đích thân mở rượu, ân cần mời mỗi chiến sĩ một ly rượu nồng trong khi bình minh vừa ló dạng trên biển trời Rạch Giá.

Các cán bộ VTTT tham gia cuộc hành quân được tuyên dương công trạng vào buổi sáng thứ hai chào cờ tại sân toà hành chánh. Anh Lê Văn Be được tuyển dụng vào chức vụ tiểu đội trưởng VTTT. Kể từ đấy, anh Lê Văn Be cung cấp các tin tức chính xác, hướng dẫn các cơ quan an ninh và quân sự tỉnh Kiên Giang dọn dẹp sạch sẽ địa điểm trú ẩn của tỉnh uỷ Long Châu Hà tại rừng U Minh.

Chiều ngày 30/4/75 anh Lê Văn Be và vợ tự sát trong một hố chiến đấu tại trung tâm chiêu hồi Kiên Giang. Vài ngày sau, Trung Đội Trưởng Nguyễn Văn Tòng bị xử bắn tại chợ Rạch Giá.

Những tháng năm kế tiếp Cộng Sản tìm nhiều thủ đoạn khác lấy đi hàng chục mạng sống cựu cán bộ VTTT tỉnh Kiên Giang.

Con trai anh Lê Văn Be, cháu Lê Văn Kiên hiện là một chuyên viên điện tử, sinh sống cùng với gia đình tại San Jose. Hàng năm cứ vào Chủ Nhật cuối tháng 4 Dương Lịch, cũng như nhiều gia đình có người thân bị bách hại trong ngày đại tang của dân tộc, gia đình cháu Kiên kỵ giỗ cha mẹ với sự tham dự của các chú bác thân quen.

5. Tin tức từ hồi chánh viên của Ty Chiêu Hồi Châu Đốc.

Năm 1973 Ty Chiêu Hồi Châu Đốc đón nhận một số lượng hồi chánh viên đáng kể và cung cấp cho các cơ quan hữu trách các cấp - tỉnh, quân khu, trung ương - nhiều bản tin giá trị.

Anh Châu Dok, người Việt gốc Miên, bí thư huyện Tịnh Biên đã hướng dẫn cuộc hành quân phối hợp cán bộ VTTT và thám sát tỉnh PRU (provincial reconnaissance unit) lục soát đỉnh Tuk Chup khu vực Thất Sơn tịch thâu một số vũ khí do tỉnh uỷ Long Châu Hà chôn dấu trước khi bị xua đuổi khỏi hang ổ.

Cùng thời gian, hồi chánh viên Lâm Văn Tô trở về từ mật khu Lò Gò ( lãnh thổ Campuchia ) khai báo bí thư tỉnh Long Châu Hà, nữ cán bộ Tám Thành cư trú trên một chiếc ghe bỏ neo giữa vạn đò thị xã Long Xuyên. Hồi chánh viên Lâm Văn Tô hướng dẫn cuộc hành quân phối hợp gồm nhân viên cảnh sát thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Châu Đốc và cán bộ VTTT Ty Chiêu Hồi Châu Đốc đến tận nơi bắt gọn Tám Thành và toán bảo vệ. Qua thủ tục thẩm vấn tích cực taị Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Châu Đốc và tại Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quân Khu IV (Cần Thơ), Tám Thành nhận là tỉnh uỷ viên Long Châu Hà và đương sự được chuyển đi giam giữ tại Côn Đảo.

Từ vụ Tám Thành đến chuyện dài Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ẩn, Nguyễn Tá … cho chúng ta kinh nghiệm về nơi trú ẩn an toàn của cán bộ Cộng Sản. Cuộc chiến quốc cộng bằng vũ khí đuợc chuyển qua những hình thức đấu tranh khác và gián điệp hay là kế hoạch nằm vùng, vẫn là vũ khí lợi hại mà Cộng Sản không bao giờ bỏ lỡ cơ hội.

6. Hồi chánh viên Nguyễn Trường Sơn và Tiểu Khu Khánh Hòa.

Cũng như các tiểu khu khác, tiểu khu Khánh Hoà đặt trọng tâm vào việc bảo đảm an toàn các trục lộ giao thông huyết mạch. Vào giữa khuya một đêm tháng 10 năm 1974, một cây cầu trên quốc lộ 1 thuộc địa phận chi khu Ninh Hòa bị nổ sập mặc dầu từ sẩm tối, đích thân Trung Tá Nhơn, quận trưởng kiêm chi khu trưởng Ninh Hòa tuần tra, dặn dò các đồn bót và phân chi khu đóng trên quốc l.

Khoảng mười ngày sau, cán binh Nguyễn Trường Sơn, thượng úy đặc công thủy ra trình diện hồi chánh. Theo lời khai, chính anh Sơn là người đánh sập cây cầu trên quốc lộ 1 thuộc quận Ninh Hoà và đang nhận chỉ thị lập kế hoạch phá hủy đài radar đặt trên đảo trước bãi biển Nha Trang.

Anh Sơn tình nguyện hướng dẫn tiểu khu Khánh Hoà hành quân vào mật khu Đồng Bò thuộc quân Diên Khánh phá huỷ một trung tâm huấn luyện sĩ quan, tiêu diệt lực lượng trú đóng trong đó có khoảng trên mười sĩ quan cấp bực từ thiếu úy đến đại úy, tịch thu nhiều vũ khí với hàng chục K.54. Anh Sơn cũng cho biết nhiều tin tức quan trọng khác khiến Lãnh Sự Mỹ tại Nha Trang vội can thiệp, sử dụng anh vào một số công tác cần thiết và chuyển anh về Sài Gòn.

Trong một buổi sáng thứ hai chào cờ tại tiền đình trụ sở Bộ Dân vận Chiêu hồi đường Phan Đình Phùng, ông Tổng Trưởng Hồ Văn Châm tuyên dương công trạng hồi chánh viên Nguyễn Trường Sơn và trao tặng số tiền thưởng một triệu đồng.

7. Tưởng nhớ những hồi chánh viên đặc biệt đã nằm xuống.

Có dịp nhắc laị chính sách chiêu hồi và những thành quả, không thể nào quên những mẫu người tiêu biểu, khả ái và khả kính.

Anh Lê Xuân Chuyên: Anh Chuyên nguyên là trung tá chính quy Bắc Việt làm việc tại Trung Ương Cục miền Nam. Anh có dáng người tròn trịa, ít nói, hồi chánh năm 1967 tại xã Suối Kiết tỉnh Bình Tuy. Anh giúp Bộ Chiêu hồi khai sinh các đại đội Võ Trang Tuyên Truyền từ trung ương đến địa phương. Anh được Bộ Chiêu Hồi cử nhiệm chức vụ tham nghị đặc biệt - hàng tổng giám đốc - kiêm nhiệm chỉ huy trưởng Võ Trang Tuyên Truyền Trung Ương.

Vào những ngày căng thẳng cuối tháng 4/1975, anh vẫn điềm nhiên làm việc tại Bộ Dân Vận Chiêu Hồi đường Hiền Vương. Trong cuộc đàm luận thân mật, anh chậm rãi nói rằng, nếu Cộng Sản chiếm được miền Nam thì những công chức, quân nhân của Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị tù nhiều năm, từ mười đến hai mươi năm, còn những người hồi chánh - như các anh - sẽ ra trước pháp trường; tuy nhiên, dù tù tội hay bị giết chết là điều chấp nhận của kẻ thua cuộc, nhưng đáng buồn cho đất nước Việt Nam rồi đây sẽ trở thành cái sọt rác của Trung Quốc !

Anh Chuyên bị vây bắt trong ngày đầu tháng 5/75, bị biệt giam và bị tử hình tại miền Bắc. Không biết hiện nay chị Lê Xuân Chuyên và các cháu đang sinh sống tại nơi nào, trên một đất nước tự do hay vẫn còn lầm than trong điạ ngục trần gian Cộng Sản.

Anh Huỳnh Cự: Anh Huỳnh Cự hồi chánh tại Quảng Ngãi với cấp bậc trung tá.

Anh Huỳnh Cự cũng được Bộ Chiêu Hồi cử nhiệm chức vụ tham nghị đặc biệt kiêm nhiệm trưởng đoàn thuyết trình trung ương. Anh Huỳnh Cự tính tình bộc trực, cởi mở thường hướng dẫn các đoàn hồi chánh trình bày bộ mặt thật, gian xảo, tàn bạo, vô luân của chủ nghĩa Cộng Sản và đảng Cộng Sản từ các cơ quan tại Sài gòn đến các tỉnh, thị … Anh được thả năm 1990 và được cấp giấy xuất cảnh theo diện H.O.

Một buổi sáng đầu năm 1991, anh Huỳnh Cự và anh Mai Đình Tạo cựu trưởng Ty Chiêu Hồi Bình Dương gặp nhau tại một quán cà phê đường Hàng Xanh. Trong câu chuyện anh Tạo dặn dò anh Cự không nên nói nhiều, đợi đến Mỹ sẽ tính. Hai anh rời quán và vừa đặt chân xuống lòng đường, một chiếc xe jeep màu xanh lao vào và cán qua người anh Huỳnh Cự. Hai người trên xe ngoái cổ nhìn lại, lùi xe cho lăn bánh qua thi thể đang co giật thêm một lần nữa trước khi rồ máy đi thẳng.

Buôỉ sáng hôm đó, anh Tạo và dân chúng xung quanh chứng kiến cảnh Cộng Sản thủ tiêu anh Huỳnh Cự một cách ngang nhiên giữa thanh thiên bạch nhật.

Thuợng Tá Tám Hà.

Thượng Tá Tám Hà, chính ủy Sư Đoàn 5 Cộng Sản ra hồi chánh tại Bình Dương năm 1970. Những ngày đầu tiên taị Bộ Chiêu Hồi, anh Tám Hà giữ một thái độ lạnh lùng, kín đáo đối với các nhân viên phỏng vấn Việt Mỹ. Một hôm, một cố vấn Mỹ nhờ anh Trần Trường Khanh, chủ sự tại Nha Công Tác Bộ Chiêu Hồi trao tận tay anh Tám Hà một phong bì. Đây là một tài liệu gồm khoảng mười tấm hình chụp những hoạt động riêng tư và công vụ của anh Tám Hà, trong đó có những cảnh Thượng Tá Tám Hà đang thảo luận với các sĩ quan Cộng Sản trước sa bàn. Sau khi xem tập ảnh, anh Tám Hà nói với Trần trường Khanh: "Các anh đã biết đến thế nầy, tôi không còn điều gì để dấu giếm nữa". Kể từ đấy anh Tám Hà hợp tác hoàn toàn với các nhân viên hữu trách Việt Mỹ. Anh Tám Hà làm việc tại Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị Quân Lực VNCH và Tòa Đại Sứ Mỹ. Người Mỹ đưa Tám Hà ra khỏi Việt Nam cuối tháng 4/75 và anh qua đời tại Mỹ sau đó.

Trưởng Chi Dân Vận Chiêu Hồi Nguyễn Long Khẩn.

Anh Nguyễn Long Khẩn nguyên là sĩ quan quân báo Cộng Sản đã đem tất cả hiểu biết và kinh nghiệm góp sức với các cơ quan an ninh khu vực Cần Thơ - Chương Thiện truy lùng mạng lưới Cộng Sản. Cuối năm 1973 anh được cử nhiệm chức vụ trưởng chi Dân Vận Chiêu Hồi quận Châu Thành tỉnh Phong Dinh, cũng là lúc bị Cộng Sản tung lựu đạn vào nhà ban đêm nhưng cả gia đình may mắn thoát nạn. Cuối cùng, tháng 12 năm 1974, anh Khẩn bị một toán đặc công Cộng Sản phục kích bắn chết trên đường công tác !

Các hồi chánh viên và cán bộ võ trang tuyên truyền cũng là những chiến sĩ chống Cộng. Mặc dù không có một quy chế chính thức và không được liệt kê vào danh sách quân lực Việt Nam Cộng Hoà, tuy nhiên các anh đã thật sự chiến đấu, chiến đấu tận tình và gan dạ ngăn chận Cộng Sản xâm lăng. Cộng Sản xem các anh là kẻ thù nguy hiểm nhất và vì biết rõ bộ mặt thật ghê tởm của Cộng Sản nên trong cuộc chiến các anh không có chỗ lùi. Các anh chỉ biết tiến tới và tiến tới để chiến thắng hoặc chết ! Những hồi chánh viên hữu công và những cán bộ võ trang tuyên truyền là những chiến sĩ thật sự, những người con thân yêu của Mẹ Việt Nam.

Đỗ Hữu Long