Friday, April 24, 2009

Bài học nhiều giá trị nhưng cũng lắm xót sa - Phan Ðức Minh

Bài này đã đoạt giải "Thi viết về Ngày Quốc Hận 30 tháng 4" do "Viet Democratic Side’s International Forum" tổ chức và long trọng công bố kết quả tại Toronto – Canada -

*
**
Nam Việt Nam
Ngày 30 – 4 - 1975

(Kính tặng các chiến hữu, đồng bào và những người bạn trẻ của tôi)

Ngày kỷ niệm đau buồn 30 tháng 4 lại tới.. Nói đến chuyện đó, trước hết ta nên nhớ lại câu nói hàm chưá cả một âm mưu, tham vọng của Lenine, cha đẻ của cách mạng tháng 10 ở Nga, của Ðệ Tam Quốc Tế cộng sản, sư phụ của Hồ Chí Minh, sư tổ của phong trào cộng sản thế giới " … First, we will take eastern Europe, then the masses of Asia, then we will encircle United States which will be the last bastion of capitalism. We will not have to attack.

- Lenin - it will fall into our hands like an overripe fruit …" (The Death Of A Nation - John A. Stormer - 1978.- Liberty Bell Press,. Florissant, Missouri - U.S.A - Page 14). Tư tưởng, tham vọng này từ lâu đã sai bét hết cả rồi !

Nhà lãnh tụ được coi là vĩ đại nhất của phong trào cộng sản quốc tế này, trước đó hơn nửa thế kỷ, đã từng vạch ra một chiến lược để đánh thắng Hoa Kỳ mà không cần phải tấn công trực tiếp vào Hoa Kỳ, chỉ cần đem phong trào cộng sản đến thống trị Ðông Aâu, rồi thống trị khối nhân dân khổng lồ ở Á Châu , sau đó bao vây Hoa Kỳ, thành luỹ cuối cùng của chế độ tư bản. Hoa Kỳ sẽ như trái cây chín nẫu, rơi vào tay cộng sản. Chủ quan ghê gớm thật !

Sau vụ tấn công khủng bố kinh hoàng 11 tháng 9 -2001, đánh thẳng vào nước Mỹ, tháng 2 -2002, những cuộc thăm dò ý kiến dân Mỹ môâït cách đại quy mô: Tại sao nước Mỹ hùng cường, nhân đạo, từng giúp đỡ biết bao nhiêu quốc gia, dân tộc khi họ gặp cơn khốn kho,ù thoát cảnh bom đạn, máu xương, cơ cực, lầm than, đói khổ vv… mà sao nước Mỹ lại có quá nhiều kẻ thù ghét, không có nhiều bạn tốt, ít kẻ biết ơn chân thành, nước Mỹ lại phải nhận lãnh 2 trận tấn công khủng khiếp đánh vào chính ngay nước Mỹ, xưa nay vốn được coi là bất khả xâm phạm: Trung Tâm Thương Mại Thế Giới (World Trade Center) hoàn toàn xụp đổ, gây chết chóc cho mấy ngàn người, còn số bị thương, kẻ đau khổ, mất mát người thân và những trụ cột của gia đình thì phải hàng chục ngàn. Rồi Trung Tâm chỉ huy quân lực Hải-Lục-Không Quân Mỹ (Central Headquarters) tức là Ngũ Giác Ðài (Pentagon) ngay tại Thủ Ðô Hoa Thịnh Ðốn bị thiệt hại nặng về vật chất, tinh thần, nhân vật quân sự, uy tín của 1 Siêu Cường Quốc (Superpower). Tất cả đã gây ra sự tổn thất nặng nề về nhiều mặt không những cho nước Mỹ mà cho cả thế giới nữa ?

Câu trả lơì của 78% dân Mỹ thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, được hỏi ý kiến đại để là: Nước Mỹ hay các thế hệ chính quyền Mỹ đã phạm nhiều sai lầm lớn lao, chủ quan, dựa vào sức mạnh kinh tế và quân sự của mình để áp đặt, ép buộc nhiều quốc gia khác phải đi theo kiểu cách của mình, thiếu chung thuỷ với đồng minh, phản bội bạn bè nhược tiểu một cách dễ dàng vô tội vạ,ít tôn trọng tổ chức Liên Hiệp Quốc cũng như các quốc gia thành viên, nghiã là những sai lầm của nước Mỹ trong những vấn đề nằm trong các sách-lược đối ngoại (Foreign Policies & Strategies).

Có ai ngờ là nước Mỹ bị loại ra khỏi Uỷ Ban Nhân Quyền và Uỷ Ban Bài Trừ Ma Tuý của Liên Hiệp Quốc trong năm 2001, là những tổ chức do chính nước Mỹ chủ động lập ra để làm lợi khí gây áp lực trên các quốc gia khác ? Chuyện lạ nhưng có thực ! Lúc đó, Mỹ có đem vấn đề nhân quyền ra để gây áp lực với quốc gia khác, thí dụ Việt Nam thì Hà Nội lại bảo "Này ! Về nhà coi lại vấn đề nhân quyền của chính anh đi đã ! Anh bị đuổi ra khỏi tổ chức nhân quyền thế giới rồi đấy nghe !"

Năm 2002,trong dịp Lễ kỷ niệm 77 năm thành lập Học Viện Quân sự Whampoa, nơi huấn luyện Sĩ Quan cho cả Quốc Dân Ðảng và quân đội Giải Phóng Nhân Dân (cộng sản) trước khi cuộc nội chiến bắt đầu, 20 Tướng Lãnh cả về hưu và đang tại chức của Quân Lực Ðài Loan đã nâng ly trao đổi tại nhà khách sang trọng Diaoyutai Guest House tại Bắc Kinh với Phó Thủ Tướng Chu Dung Cơ và những Tướng Lãnh hàng đầu của quân đội cộng sản Trung Quốc, Tướng Ðài Loan Wang Wu-Mon 65 tuổi đã nói "Nếu Ðảng cộng sản tiếp tục thay đổi thì sẽ không có chiến tranh, nhưng là sự thống nhất". Một số Tướng Lãnh quân đội Ðài Loan đã trả lời phỏng vấn của Báo Chí là: Chúng tôi liên minh với Mỹ, một siêu cường quốc đứng đầu thế giới ngày nay là một điều tốt, nhưng kinh nghiệm lịch sử thế giới dậy cho chúng tôi thấy rằng: phải luôn luôn cảnh giác, đề phòng khi nước Mỹ vì quyền lợi của chính nước Mỹ mà bỏ rơi chúng tôi thì tự chúng tôi phải lo liệu lấy để tránh những thiệt hại to lớn nhất khi phải đối đầu quân sự với Trung Hoa Lục Ðịa … Một Tướng Lãnh Ðài Loan khác nói "Hoa Kỳ đã một thời đóng vai trò tích cực bảo vệ Ðài Loan chống Trung Quốc bằng mọi giá, nhưng sự gắn bó kinh doanh giưã giới tài phiệt Mỹ và Trung Quốc đang tăng lên gấp bội theo đà tiến rất mạnh với sự gia nhập của Trung Quốc vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO - World Trade Organization) bất kể tình trạng Trung Quốc vi phạm nhân quyền một cách dữ dội thô bạo,và Trung Quốc còn là bạn đường có tầm mức quan trọng của Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố quốc tế " thì chúng tôi phải cảnh giác, coi chừng kẻo bị người ta “ lật ngửa lá bài “ trao đổi lấy một món hàng quan trọng hơn lúc nào không biết. Một Tướng Lãnh Ðài Loan khác nói " Chúng tôi không dám coi Hoa Kỳ là người bạn tin cậy lâu dài. Ðây là cuộc chiến của chúng tôi. Nếu không thắng được Hoa Lục thì tốt nhất là tìm cách gia nhập vào nó một cách êm đẹp".

Thời gian gần đây vì hao người, tốn của, mang tai mang tiếng với nhiều quốc gia đồng minh, bè bạn, cũng như đông đảo dân chúng trong nước về cuộc chiến tranh Iraq, thành quả đạt được không cân xứng với cái vốn bỏ ra, lại còn phải trải rộng quân lực trên khắp các “Tiền đồn chiến lược – Strategic advanced posts“ ngăn chặn sự bành trướng thế lực rõ ràng của Trung Quốc, ngăn chặn sự cố gắng cạnh tranh phục hồi vị trí siêu cường của Nga, lo tiêu diệt phong trào khủng bố quốc tế, quân số thiếu hụt, sự tuyển quân bị khó khăn (vì thanh niên ngán cuộc chiến tranh cù cưa, không chiến tuyến ở Iraq hiện nay, giông giống khá nhiều lối đánh nhau ở nam Việt Nam) cho nên tiếng nói có thẩm quyền của Mỹ đã vài phen nhắn nhe với giới lãnh đạo, quân dân Ðài Loan: hãy tự lo tối tân hóa quân đội, trang bị vũ khí hiện đại nhất (mua của ta tốt hơn là mua của Nga, Pháp, Ðức ...) đề phòng Trung Quốc tạo thời cơ bất thần tấn công hòn đảo Ðài Loan xưa nay vốn được coi là một phần lãnh thổ của Trung Quốc. Chuyện đó trước sau rồi cũng phải thống nhất về một mối, bằng phương cách hòa bình không được thì bằng vũ lực cũng là điều hợp với tư tưởng Mao – Trạch – Ðông “Hòa bình, thống nhất ở đầu mũi súng“. Hiện nay Trung Quốc là cường quốc nguyên tử, kinh tế phát triển với tốc độ mạnh nhất thế giới, quân đội hiện dịch tác chiến (Combattant Active Forces) trang bị tối tân, tinh thần cuồng tín và quân số đông đảo bằng tổng số quân đội nhiều cường quốc cộng lại, chưa kể chủ lực quân của từng địa phương, mỗi Tỉnh có từ 2 đến 3 trung Ðoàn (Regiment) tùy theo tầm quan trọng về vị trí, lãnh thổ. Hải và Không Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp không còn giống như thời chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953), 700 phi đạn ngày đêm sẵn sàng chĩa vào mục tiêu Ðài Loan, chỉ chờ lệnh là phóng đi ào ạt ... Nếu Ðài Loan ho he lên tiếng chuyện ly khai, độc lập là Trung Cộng sẽ lập tức dập liền. Anh nào can thiệp, xía vô chuyện nội bộ của nó là bán đảo Triều Tiên lập tức có Hải-Lục-Không quân, thiết giáp của Trung Cộng sẽ cùng với quân lực Bắc Hàn (cả hai cùng có vũ khí nguyên tử và cuồng tín, dù có hi sinh hàng trăm ngàn quân để đạt chiến thắng cũng coi như chuyện vặt) tràn qua vĩ tuyến 38 như hồi năm 1950, nhưng sẽ không có chuyện quân Liên Hiệp Quốc dính vô đó. Ai cũng biết rồi ... Rồi chiến tranh sẽ bùng lên ở nhiều nơi khác và vũ khí nguyên tử cỡ nhỏ, phi đạn chống phi đạn sẽ có cơ hội để thử nghiệm mức độ chính xác cũng như hiệu quả thực sự.

Ngày 12 tháng 4 – 1975, thủ đô Nam-Vang của nước láng giềng, Cambodia, sắp thất thủ và Sứ Quán Hoa Kỳ đang vội vàng thoát ra khỏi Nam-Vang thì Thủ Tướng của nước này đã gửi khẩn cấp cho Ðại Sứ Mỹ 1 điện văn “... Tôi chân thành cảm ơn Ngài đã gửi thư và dành chỗ cho tôi để đến một nơi tự do, an toàn. Tôi rất tiếc không thể ra đi trong những điều kiện hèn nhát như vậy. Tôi chưa bao giờ dám nghĩ rằng có lúc Ngài và nước Mỹ lại ra đi hốt hoảng, bỏ lại những người bạn đồng minh ở nơi này mà không cần biết họ sống chết ra sao. Ngài và nước Mỹ đã bỏ mặc chúng tôi không như lúc ban đầu .... Tôi đã mắc một sai lầm trọng đại trong đời là đã đặt lòng tin của mình vào những người Mỹ.” Ông Thủ Tướng Sirak Matak can trường này đã ở lại đến phút cuối cùng của đất nước, và sau đó bị Khmer đỏ giết chết.

Chiến tranh vùng Vịnh 1991, Quân đội xâm lăng của Hung Thần Saddam Hussein bị quân dội Hoa Kỳ, trong chiến dịch “Bão Sa Mạc – Desert Storms“ dưới quyền Tư Lệnh của Tướng 4 sao Norman Schwarzkopf, đánh cho tan tác, rách như cái mền, phải bỏ mộng ciếm đóng Kuweit với những mỏ dầu quan trọng. Nếu gặp “Ông số 1“ ngày nay thì kể như bất cần trời đất, Ổng sẽ xóa sổ, bắt Saddam Hussein ngay từ hồi đó. Nhưng “Ông Bush Cụ“ nghỉ chơi, giao và yểm trợ cho các lực lượng chống đối và dân Kurds làm nốt nhiệm vụ. Công việc không xong, phe ta cũng lửng lơ bỏ rơi các lực lượng chống Saddam Hussein để cho tay Hung Thần này được dịp trả thù, đánh giết hết bất cứ đứa nào chống nó, giết luôn cả các Tướng Lãnh không trung thành, có dấu hiệu chống nó, giết cả Tướng Lãnh là con rể nó chạy trốn sang nước láng giềng, nó dụ dỗ gọi về, bảo là tha tội, cho phục hồi chức quyền, nhưng rồi nó cũng cho giết luôn ngay sau khi trở về trình diện. Ðem con bỏ chợ, bao nhiêu tội va, chết chóc, máu xươngï đổ hết lên đầu dân Kurds, các lực lượng chống đối, người dân thuộc giáo phái không phục tùng triệt để tay Hung Thần Saddam. Chiến thắng “Bão sa-Mạc 1991“ đã làm cho danh dự của Siêu Cường Hoa Kỳ được khôi phục lại phần nào sau thất bại đau đớn đầu tiên của Lịch Sử Siêu Cường Huê kỳ tại chiến trường Việt Nam. Tuy nhiên cuộc chiến Iraq năm 1991 (thắng chớp nhoáng bằng chiến tranh quy ước – Conventional War - là sở trường của quân đội Hoa Kỳ hùng mạnh, trang bị tối tân nhất hoàn vũ, có chính nghĩa (just cause) cho cuộc chiến, Saddam Hussein xâm lăng Kuweit, chiếm các nguồn dầu mỏ có liên hệ đến quyền lợi của cả thế giới, Liên Hiệp Quốc Ô Kê cho đánh. Cuộc chiến đó hoàn toàn khác hẳn cuộc chiến Iraq 2003 đến ngày nay về nhiều mặt: thiếu chính nghĩa, những lý do để đánh nó tìm hoài không ra, những người lãnh đạo cuộc chiến không “thuộc bài học, không biết tí ti con kiến nào về cuộc chiến Việt Nam trước kia“ cho nên một “Ðại Siêu Cường Quốc“ dốc toàn lực hùng hậu nhất loài người để đánh một quốc gia cò con, đã bị thương nặng từ lâu, sức chống cự chẳng có bao nhiêu, chiếm xong Thủ Ðổ, lật đổ chính quyền, nắm cổ Saddam Hussein nhốt vào tù, lập chính quyền mới, bầu cử này nọ đàng hoàng mà “chúng nó“ vẫn đánh, người Hồi Giáo từù những quốc gia khác vẫn kéo đến đánh hung hãn, đánh ngay tại Thủ Ðô và các thành phố phe ta đã chiếm đóng và kiểm soát cả mấy năm nay. Chưa chắc chắn đến bao giờ thì quân đội phe ta mới rút đi được hết, để giao lại thực quyền trọn vẹn cho chính quyền mới do phe ta yểm trợ, mà cái quốc gia đã và còn đang tan hoang, chết người hàng ngày đó được yên ổn không đánh nhau loạn xà ngầu liên tu, bất tận để giành nhau quyền lực, quyền lợi, vị trí thượng tôn của Giáo Phái, làm chủ các mỏ dầu như nhiều vùng đất trên thế giới này.

Biết như vậy rồi, bây giờ chúng ta bắt đầu nhìn lại những biến cố đã xẩy ra trên đất nước mình : ngày 30 – 4 – 1975, để rồi cùng nhau dưạ vào kinh nghiệm lịch sử , vào trào lưu tiến hoá nhân loại, cầu xin các Ðấng thiêng liêng phù trợ mà tìm ra một phương cách tự cứu lấy bản thân, cứu lấy dân tộc, quê hương, đất nước của mình.

Ngày 6 - 1 - 1975: Tỉnh Phước Long và Thị Xã Phước Bình, cách Sài Gòn 60 dặm về phiá Bắc, rơi vào tay quân cộng sản Bắc Việt. Sau vụ "Mùa Hè đỏ lửa" ở vùng điạ đầu giới tuyến Quảng Trị, năm 1972 thì Phước Bình là Thị Trấn đầu tiên của Nam Việt Nam bị quân cộng sản đánh chiếm. Không Quân Việt Nam Cộng Hoà thiệt hại 20 máy bay trong công cuộc bảo vệ Tỉnh Phước Long. Nhiều máy bay bị bắn hạ bằng hoả tiễn SA-7 của Liên Sô (The South Vietnamese Air Force loses 20 planes defending the province, many to SA-7 missiles made by the Soviet Union).

Sự thiếu phản ứng quân sự của Hoa Kỳ càng xúi giục cộng sản làm tới vì các chiến lược gia của cộng sản biết rằng đã đến lúc Hoa Kỳ phải rời bỏ Việt Nam. Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản Việt Nam Lê Duẫn và Bộ Chính Trị của Ðảng cộng sản quyết định tăng cường các cuộc tấn công trên toàn lãnh thổ Nam Việt Nam để phát động một cuộc Tổng nổi dậy vào năm 1976. Cộng sản chỉ dám mong điều đó vào năm 1976 mà thôi.

Ngày 28 - 1 - 1975: Tổng Thống Hoa Kỳ, Gerald Ford , yêu cầu Quốc Hội tăng thêm quân viện cho Nam

Việt Nam và Kampuchia với ngân khoản 522 triệu Mỹ Kim vì lúc này Tổng Thống Ford được biết quân cộng sản Bắc việt đã có mặt tại Nam Việt Nam tơiù mức 289.000 người. Xe tăng, trọng pháo, hoả lực phòng không, do Liên Sô và Trung Quốc chi viện rất hùng hậu. Ðể giữ vững "Một tiền đồn chống cộng" ở Ðông Nam Á Châu thì ngân khoản 522 triệu đô la có là bao ? Thế mà cũng không xong. Người ta đã muốn bỏ đi rồi.

Ngày 5 - 2 - 1975: Ðại Tướng Bắc Việt Văn Tiến Dũng vào Nam để chỉ huy quân đội cộng sản.

Ngày 10 - 3 - 1975: Quân Bắc Việt, với những Sư Ðoàn thiện chiến , phương tiện chiến tranh hiện đại của Liên Sô và Trung Quốc , tấn công Ban Mê Thuột từ ngày 10 - 3. Ba ngày sau, quân cộng sản tràn ngập thị trấn này, trong khi những trận đánh lớn khác bùng nổ trên mặt trận Cao Nguyên Trung Phần.

Ngày 14 - 3 - 1975: Sau khi họp bàn với một số Tướng Lãnh và nhân vật thân cận (?), Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, bỏ vùng cao nguyên Trung Phần và các Tỉnh phiá Bắc của Nam Việt Nam. Các Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn 2, Phạm Văn Phú, và Quân Ðoàn I, Ngô Quang Trưởng, ngỡ ngàng, sửng sốt, không biết tại sao lại bỏ những vùng đất quan trọng, cưả ngõ, quyết định sự sống chết của Nam Việt Nam vào lúc này, chưa đánh nhau chi cả,trong khi các lực lượng chiến đấu của 2 Quân Ðoàn (Army Corps) Việt Nam Cộng Hoà rất hùng mạnh, sẵn sàng đọ sức với quân đội cộng sản. Mất Ban Mê Thuột đâu có nghĩa là phải mất luôn cả Quân Khu I và Quân Khu 2 ! Ông Thiệu làm như thế để gây áp lực với chính phủ Mỹ: phải quyết tâm tăng cường viện trợ mọi mặt cho Nam Việt Nam, nếu không thì "Tiền đồn chống cộng ở Ðông Nam Á Châu của Mỹ" là Nam Việt Nam sẽ xụp đổ . Ông Thiệu khờ khạo quá trời quá đất ù! Tại sao ? - Bởi vì người Mỹ đã tìm cách tháo lui khỏi cái "Vũng lầy Việt Nam" để ra đi một cách ít phũ phàng, ít mất mặt chừng nào hay chừng đó , sau khi ông Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Mỹ, Henry Kissinger đã cố dọn đường, mở lối cho Tổng Thống Richard Nixon sang Trung Cộng năn nỉ với Mao Trạch Ðông vào năm 1972 , qua sự giàn xếp của Tổng Thống Hồi Quốc Yahya Khan. Mao Trạch Ðông với sức mạnh đàn anh, từng viện trợ, cố vấn tích cực cho cộng sản Hà Nội, đãõ ép cộng sản Hà Nội bớt ương ngạnh, ngưng chơi trội và bắt bí Mỹ ở Hội Nghị Paris, diễn ra tại Salle de Conférence Kléber. Trong vụ này, Mỹ được tí chút lợi lộc là ký được cái "Hiệp Ðịnh Ngưng Bắn - Agreement of Cease-Fire" để tháo lui có văn bản đàng hoàng, mà phe cộng sản coi như mớ giấy lộn, chẳng có giá trị gì cả, nhưng trong đó Mỹ phải bấm bụng làm lơ , không được nói năng chi tới cái chuyện quân Bắc Việt đã vào Nam cả mấy chục Sư Ðoàn (Divisions) rồi. Tội vạ đổ lên đầu người bạn đồng minh Việt Nam Cộng Hoà hết cả..Phái đoàn Việt Nam Cộng Hoà phản đối mấy cũng hoài hơi mà thôi vì "Xếp" đã chơi đòn " tháu cáy "rồi thì ráng mà chịu cho quen. Dân nhược tiểu chơi với anh bạn khổng lồ là vậy! Việc Mỹ làm cú đi đêm (Furtive Conspiracy) liên kết với Trung Cộng để chống Liên Sô thì kể như 2 bên cùng có lợi, nhưng riên phần Trung Cộng thì lời to: Trung Cộng nhẩy vào ngồi cái ghế "Hội viên thường trực - Permanent Member" của Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, với quyền phủ quyết (Veto) đáng giá cả … tỉ tĩ Mỹ Kim, đánh văng Ông Quốc Dân Ðảng Trung Hoa ra Ðài Loan mà chơi luôn, mặc dầu Trung Cộng đánh thắng và kiểm soát lục địa Trung Hoa từ năm 1949. Thêm cái lợi nữa là chính quyền Nixon phải lén lút, dấu diếm bán vũ khí tối tân cho Trung Cộng để chống Liên Sô mà không được cho ai biết hết, nhất là Liên Sô, kể cả Quốc Hội, Dân Chúng và Báo Chí Mỹ nữa. Ðó ! Mỹ dã tìm cách tháo lui bằng mọi giá, với thế bị đánh bại rồi thì Ông Thiệu có bỏ 2 Quân Khu 1 và 2, chớ Ông Thiệu có bỏ luôn cả Quân Khu 3, Quân Khu 4 và Biệt Khu Thủ Ðô, bỏ hết miền Nam Việt Nam chăng nữa thì Mỹ cũng chẳng bao giờ dại dột quay đầu trở lại để cứu Nam Việt Nam nữa. Nếu nói là cứu thì cứu hết sức từ 1965 đến 1973, với 58 ngàn quân nhân Mỹ hi sinh, mấy ngàn người mất tích, hàng trăm ngàn bị thương, hàng triệu người đau khổ, mất mát, mà đâu có cứu nổi ! Nay trong lúc đã tan hàng, bỏ chạy thì còn cứu cái nỗi gì nữa đây? Rút mau chừng nào hay chùng đó ! Ông Thiệu phải biết chớ ! Dù cách nào đi nữa, Ông Thiệu ra lệnh bỏ 2 Quân Khu, bắt 2 Quân Ðoàn phải bỏ chạy khi chưa đánh nhau với ai cả thì: Làm rối loạn hàng ngũ quân đội và dân chúng, làm mất nước mà không chiến đấu, không kháng cự gì cả là tội to tầy trời của Ông Thiệu ! Lịch sử cận đại Việt Nam không thể bỏ qua chỗ này ! Ðại quân cộng sản đã từng chiếm đóng thành phố Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968, đã từng đánh chiếm Quảng Trị và kiểm soát hoàn toàn Thị Trấn An Lộc trong Muà Hè đỏ lưả 1972 mà có Quân Khu nào bị mất, phải bỏ chạy đâu ? Trái lại, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã phản công một cách vô cùng anh dũng, để giành lại những địa điểm chiến lược đã rơi vào tay giặc. Thế thì tại sao mới mất có Ban Mê Thuột mà phải bỏ Quân Khu I, trong khi Danh Tướng Ngô Quang Trưởng của Muà hè Ðỏ Lưả 1972, từng được thế giới biết đến và kính phục, luôn luôn nắm vững tình hình Quân Khu của Ông, trong khi Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Khu 2, phải lớn tiếng cự lại Tổng Thống Thiệu trong hệ thống liên lạc Vô tuyến Siêu Tần Số, dù Ông biết rằng làm như thế là có thể mất lon, phải ra trước Toà Aùn Quân Sự Mặt Trận. Tướng Phú đang sẵn sàng chờ địch tiến đánh Pleiku, vì Tướng Phú biết rằng: đánh thì chưa chắc đã chết, nhưng tự dưng bỏ chạy thì chắc chắn cả lính lẫn dân đều phải chết bi thảm trong cảnh hỗn loạn, dưới những làn mưa bão pháo binh, hoả tiễn của cộng sản, tự do hoành hành mà không gặp sức chống trả.

Năm ngày sau, khi quân đội và dân chúng đang tháo chạy một cách thê thảm, hỗn loạn thì Ông Thiệu lại ra lệnh cho Tướng Ngô Quang Trưởng là phải "Tử thủ thành phố Huế" (… five days later, Thieu orders Hue held at all costs …). Ông Thiệu vốn được chính giới coi là khôn ngoan, mưu mô, xảo quyệt từ ngày còn là Ðại TáTư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, tham gia đảo chính lật đổ Ông Diệm năm 1963, rồi lên làm Trung Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, rồi lên làm Tổng Thống Việt Nam, Ðệ Nhị Cộng Hoà, nhiệm kỳ I, kỳ 2, rồi còn định vận động Quốc Hội sưả đổi Hiến Pháp để Ông làm luôn Tổng Thống keo thứ 3 nữa, mà sao lúc này Ông Thiệu lại khờ khạo đến mức độ… nhiều người, nhất là nhiều Sĩ Quan trong quân đội cho là (xin lỗi) đại ngu xuẩn, để ra lệnh bỏ 2 Quân Khu, không đánh đấm chi cả, trong khi 2 Quân Ðoàn Việt Nam Cộng Hoà đang trong tư thế sẵn sàng chờ địch để thêm một lần nữa cho cộng sản học lại những bài học Mậu Thân 1968 và Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972. Tướng Ngô Quang Trưởng trả lời là: không thể nào làm được việc đó vì trước đó 5 ngày, Ông Thiệu đã hạ lệnh rút bỏ Quân Khu I. quân đội và cả triệu dân chúng hỗn loạn rút chạy suốt 5 ngày rồi, làm sao mà trở lại vị trí cũ, tổ chức, phối trí lực lượng để mà "tử thủ !" Ông Thiệu là Tướng Lãnh, là Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh quân đội mà không biết việc đó hay sao ? Chẳng lẽ Ông ta (xin lỗi) điên hay ngu dại đến mức kỳ lạ như vậy ?

Ngày 24 - 3 - 1975: Thấy tình thế thuận lợi, cộng sản Hà Nội quyết định chính thức mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh. Hà Nội giao cho Tướng Văn Tiến Dũng một "Thời khoá biểu" phải kịp thời đánh chiếm hoàn toàn Nam Việt Nam trước khi mùa mưa bắt đầu vào tháng 5. Muốn vậy, quân Bắc Việt phải vào chiếm Sài Gòn chậm nhất là tuần lễ cuối cùng của tháng 4, trước khi quân đội miền Nam có thể tái phối trí lực lượng hầu bảo vệ Sài Gòn và Quân Khu 4 ở miền Tây.

Ngày 25 - 3 - 1975: Ông Thiệu ra lệnh bỏ thành phố Huế. Trong có mấy ngày mà ra lệnh bỏ Quân Khu 1, có Huế trong đó, rồi lại ra lệnh Tử thủ Huế, rồi lại ra lệnh bỏ Huế ! Ðúng là điên hạng nặng ! Vào lúc này, dân chúng đông tới hàng triệu người. Họ không quên cảnh cộng sản tàn sát tập thể dân chúng cũng như viên chức chính quyền, nhân vật Ðảng Phái vào dịp Tết Mậu Thân- 1968 - nên đã kéo nhau tràn xuống thành phố Ðà Nẵng, lúc đó đang bị quân cộng sản tấn công từ xa bằng hoả tiễn 122 ly của Trung Cộng và đại bác 130 ly của Liên Sô. Ông Thiệu còn ra lệnh: Không giữ được Huế thì cũng phải cố mà giữ lấy vùng duyên hải Ðà Nẵng, coi như vị trí chiến lược làm đầu cầu cho quân đội Mỹ đổ bộ lên, một khi chính quyền Mỹ quyết định trở lại cứu vớt Việt Nam Cộng Hòa, đương đầu với cuộc xâm lăng đại quy mô của cộng sản. Trời Ðất quỷ thần ơi ! Tới lúc này mà Ông Thiệu còn hi vọng Mỹ trở lại cứu Việt Nam Cộng Hòa thì trên thế gian này, Lãnh Tụ Quốc Gia, Tổng Tư Lệnh Quân Ðội chỉ có Ông là một mà thôi ! Không thể có kẻ thứ 2 kiểu như thế ở cõi đời này ! Ông Thiệu là Tổng Thống, “chơi“ với Mỹ, đồng minh thân thiết của Mỹ, lãnh tụ “Tiền đồn chống cộng“ của Mỹ tại Ðông Nam Á Châu mà Ông Thiệu đâu có biết gì về Mỹ: ngày 29 - 6 - 1973 Hạ Viện Hoa Kỳ đã biểu quyết dự luật cấm các hoạt động quân sự của Hoa kỳ trên toàn lãnh thổ Ðông Nam Á Châu. Dự luật này được lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua ngày 21 – 9 – 1973. Kế theo đó, ngày 12 – 10 – 1973, lưỡng Viện lại thông qua dự luật hạn chế quyền của Tổng Thống Mỹ trong việc đưa quân đội Hoa Kỳ ra ngoại quốc (sau bài học cay đắng tại Việt Nam ). Kissinger, trong chuyến “đi đêm“ với Trung Quốc, đã nâng ly “vui vẻ“ với Chu – Ân – Lai, Thủ Tướng Trung Quốc: “... Quý vị hãy ngăn chặn, chỉ cho Hà Nội đánh chiếm hoàn toàn Nam Việt Nam, sau khi quân đội Mỹ của chúng tôi đã ra đi an toàn, với khoảng cách thời gian đủ coi là...chúng tôi không thua trận, bỏ chạy, và Nam Việt Nam sụp đổ là do lỗi của họ không chịu chiến đấu để bảo vệ chính mình...” Cay đắng chưa ! Nếu Kissinger bỏ chạy, nhưng Hoa Thịnh Ðốn vẫn tiếp tục viện trợ cho Nam Việt Nam, nhất là phương tiện chiến đấu cần thiết như Cộng Sản Quốc Tế đang viện trợ tối đa cho Hà Nội thì dù cho Kissinger và Hoa Thịnh Ðốn có bỏ chạy đi nữa, quân đội Việt Nam Cộng Hòa vẫn dư sức đánh bật cộng sản trở lại bên kia vĩ tuyến 17 như “mùa hè đỏ lửa 1972“ để luôn luôn giữ vững trận địa của mình. Ông Thiệu lúc này loạng quạng, quáng gà là đúng thôi vì Ông không biết gì về người bạn dồng minh và cũng chẳng biết gì về công việc phải làm của mình nữa...

Ngày 29 - 3 - 1975: Cộng sản chiếm thành phố Ðà Nẵng, đang rối loạn, mà chẳng tốn 1 viên đạn nào. Dân chúng tìm mọi cách thoát khỏi vùng này bằng mọi giá, chấp nhận chết chóc , đau đớn chia lià trong máu và nước mắt … Kẻ viết bài này kẹt lại Ðà Nẵng, rồi đi tù cải tạo hơn 12 năm vì trước đó phi đạo Ðà Nẵng bị hỏa tiễn Trung Cộng cầy nát, không sử dụng được nữa, trực thăng không có, tầu Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa từ trong Nam kéo ra bãi biển Mỹ Khê, Quận 3 Ðà Nẵng cứu nạn, nhưng đủ thứ người trốn chạy cộng sản giành nhau leo lên tầu bằng đủ mọi cách đã gây nên cảnh kinh hoàng, người già, trẻ con rơi xuống biển như những chíếc lá mùa thu. Kẻ này phải vỗ vai Ðại Úy Từ Khánh Sinh, Quản Ðốc Quân Lao Ðà Nẵng, cựu Ðại Ðội Trưởng nhẩy dù: “Không đi bằng cách này được ! Mấy đứa trẻ này sẽ chết hết !". Ðại Úy Sinh kiếm được tay Nghĩa Quân, đàn em, hắn lôi cái thuyền nhỏ xíu dìm dưới nước lên và tính chuyện ra khơi, lên tầu Mỹ. Ngay tức khắc, hàng chục mũi súng AK của du kích địa phương đã chĩa vào cái thuyền: thuyền ra là bắn tất cả ngay ! Cả 2 chúng tôi cùng đi tù cải tạo với nhau nơi rừng sâu, núi thẳm ghê người! Ðiều an ủi cho kẻ này là trước đó chỉ non một ngày, nhân danh Sĩ Quan cấp chức cao nhất của 2 Tòa Án Quần Sự Mặt Trận và Thường Trực tại Quân Khu I còn có mặt, tôi đã ra lệnh phóng thích tất cả non 1 ngàn quân phạm, bất kể loại nào, tiểu hay đại hình, xếp hàng , cứ 10 người một chạy ra khỏi Quân Lao, về lo chuyện gia đình trước họa cộng sản đang tràn đến. Ai cũng có thân nhân, gia đình, ai cũng là người cả !

Ngày 6 đến 15 - 4 - 1975: 2 Trung Ðoàn thuộc Sư Ðoàn 2 Bộ Binh V.N. Cộng Hòa cùng với 1 Lữ Ðoàn nhẩy dù được đổ xuống phi trường Phan Rang vào ngày 6 để hi vọng đánh trận phản công. Côâïng sản thấy hơi khó ăn vì ngán quân nhẩy dù nên để cho tình hình yên tĩnh 3 ngày. Thế là Lữ Ðoàn nhẩy dù được bốc đi Xuân Lộc là nơi đang có trận đánh lớn giưã Sư Ðoàn 18 Bộ Binh VN. Cộng Hoà dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê Minh Ðảo với 2 Sư Ðoàn quân Bắc Việt. Thay thế cho Lữ Ðoàn nhẩy dù thiện chiến, người ta đưa tới đó 1 đơn vị Biệt Ðộng Quân. Lập tức quân cộng sản cho xe tăng T-54 của Liên Sô ào ạt tiến vào, chọc thủng phòng tuyến Phan Rang và chiếm đóng vùng này không khó khăn.

Ngày 7 - 4 - 1975: Lê Ðức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính Trị cộng sản Hà Nội, tới Tổng Hành Dinh quân cộng sản ở Miền Nam, đóng tại Lộc Ninh để xem xét tình hình và quyết định kế hoạch cho giai đoạn chót của cuộc đánh chiếm miền Nam. Lúc này, cộng sản đã kiểm soát được 2/3 lãnh thổ Nam Việt Nam.

Ngày 8 đến 21 - 4 -1975: Sư Ðoàn 18 Bộ Binh VN Cộng Hoà do Tướng Lê Minh Ðảo chỉ huy, chống giữ oanh liệt trước sức tấn công vũ bão của 2 Sư Ðoàn cộng sản nhằm tiến chiếm Sài Gòn bằng cách phá vỡ phòng tuyến cuối cùng này. Một Trung Ðoàn thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh và Lữ Ðoàn nhẩy dù từ Phan Rang được đưa vào tăng viện. Tướng cộng sản Văn Tiến Dũng phải tung vào mặt trận này 2 Sư Ðoàn nữa là 4 Sư Ðoàn tất cả để hòng dứt điểm càng sớm càng tốt. Ðánh chiếm miền Nam muà xuân năm 1975, đây là mặt trận duy nhất quân cộng sản gặp sức chiến đấu dũng mãnh, oanh liệt của quân đội VN Cộng Hoà, cộng sản phải dùng số quân 4 đánh 1, trong lúc thế mạnh mọi mặt đang ở phiá chính họ. Tướng Homer Smith, tùy viên Quốc Phòng Mỹ tại Sài Gòn, ngày 13, đã gửi 1 bức điện văn cho Tướng George S. Brown, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu Hoa Ky,ø ca ngợi ý chí và tinh thần chiến đấu can đảm, dũng mãnh tuyệt vời của Quân Dội Việt Nam Cộng Hòa, dù những bất lợi đang đè nặng tên vai họ. Tướng Smith, sau khi theo dõi cuộc chiến đấu tại Xuân Lộc, đã nói: “Sự dũng cảm và chiến đấu anh hùng của quân chính phủ Miền Nam, kể cả Ðịa Phương Quân Tỉnh Long Khánh đã chứng tỏ họ chiến đấu giỏi hơn đối phương của họ rất nhiều ...” Nếu Ông Nguyễn Văn Thiệu không ra lệnh bỏ 2 Quân Khu 1 và 2 ngay từ lúc chưa đánh nhau chi cả thì quân đội miền Nam Việt Nam sẽ có biết bao nhiêu trận đánh oanh liệt như thế này, và nếu chính quyền Mỹ không cố ý bỏ chạy khỏi Việt Nam thì làm sao cộng sản chiếm nổi Nam Việt Nam một cách dễ dàng như đã xẩy ra ? Cuối cùng phòng tuyến Xuân Lộc chỉ rơi vào tay quân cộng sản, đông và hoả lực mạnh gấp 4 lần, vào ngày 21 - 4 - 1975, khi Tướng Tư Lệnh Quân Đồn 3 ra lệnh rút bỏ phịng tuyến cuối cùng này vì ơng khơng nỡ bắt những chiến sĩ anh hùng dũng cảm này phải hy sinh tất cả, bị tiêu diệt trong thế trận bất quân bình quá lớn lao, cay nghiệt này… Ngày 21 đến 25 - 4 - 1975: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bị áp lực từ nhiều phía, phải tuyên bố từ chức, chuyển giao quyền hành cho Phó tổng Thống Nguyễn Văn Hương để ra ngoại quốc, đem theo những gì Ông đã lo liệu từ trước cho cuộc sống ở nước ngoài, bỏ lại đằng sau: Quê Hương, Chiến Hữu và Ðồng Bào của Ông, là những gì thiêng liêng mà Ông đã từng long trọng tuyên đọc lời thề khi nhậm chức Tổng Thống, cũng như trong các dịp Quốc Lễ là sẽ sống chết bảo vệ đến hơi thở cuối cùng.

Ngày 23 - 4 - 1975: Tại Hoa kỳ, Tổng Thống Ford (Gerald Rudolph Ford – Tổng thống thứ 38 – ÔngTổng Thống duy nhất của Hoa Kỳ làm Tổng Thống mà không hề được dân chúng, cử tri bầu vào chức vụ Tổng Thống hay Phó Tổng Thống, dù là chỉ 1 phiếu) nói "Chiến tranh Việt Nam kể như chấm dứt". Dư luận hiểu rằng "Chính quyền Mỹ lúc đó đã buông tay và … chạy làng" bằng mọi giá, trong khi Liên Sô và Trung Cộng hồ hởi, phấn khởi là đã hoàn thành nhiệm vụ "Dứt điểm tiền đồn chống cộng của Mỹ tại Á Châu".

Ngày 28 - 4 - 1975: Bị áp lực nặng nề cũng từ nhiều phiá, Tổng Thống Trần Văn Hương phải trao quyền hành cho Tướng 4 sao Dương Văn Minh, người đã đóng vai chính trong vụ đảo chính lật đổ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm tháng 11 năm 1963, để cho chính quyền Mỹ đổ quân tác chiến vào Nam Việt Nam và lãnh đạo cuộc chiến tranh ở đây theo kiểu "chiến tranh nhà giầu của Mỹ" nhưng hoàn toàn vô hiệu đối với kiểu "chiến tranh nhân dân - People's War" không có mục tiêu, không trận tuyến, lẫn lộn với nhân dân của cộng sản. Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống theo đúng với sự sắp xếp của Hà Nội, qua trung gian của người em ruột Dương Văn Nhựt , Sĩ Quan cao cấp của cộng sản, đã có liên lạc với Dương Văn Minh từ hồi Tướng Minh được Ông Diệm cho thăng Trung Tướng sau khi Tướng Minh đánh tan các lực lượng giáo phái vũ trang ở miền Tây. Chuyện đó bại lộ. Tướng Minh, vì có công trạng, và Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, người bà con, cùng quê quán xin cho, nên được 2 Ông Diệm, Nhu tha tội, chỉ bị mất chức cầm quân, ngồi ghế Tổng Thanh Tra hữu danh nhưng vô vô thực. Tổng Thống Dương Văm Minh luôn luôn phải nhận lệnh qua điện thoại với Ông Thích Trí Quang, cua cong san tu 1946, một nhân vật trong hàng lãnh đạo tôn giáo, người gốc Bắc Việt, đã 2 lần bị Tây bắt từ hồi chiến tranh Việt-Pháp vì tình nghi hoạt động cho Việt Minh cộng sản, người đã lãnh đạo dân chúng đấu tranh tôn giáo lật dổ Ông Ngô Ðình Diệm (… Thích Trí Quang, a politically sophisticated Monk of North Vietnamese origin, twice arrested by French on suspicion of Vietminh connections , stirs the people against Ngo Dinh Diem …) đấu tranh tôn giáo chống chính quyền Thiệu - Kỳ - Có hồi 1966 ở Miền Trung Việt Nam, nhưng cuối cùng bị Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ, với cương vi Thủ Tướng, cùng 1 tôn giáo với Ông, cho quân đội và quân cảnh từ trong Nam ra dẹp tan, bắt Ông Thích Trí Quang nhốt lại, dẹp yên chuyện đấu tranh rối loạn lung tung, làm nát bét xã hội miền Nam, hoàn toàn chỉ có lợi cho cộng sản. Nhân vật Thích Trí Quang, sư phụ của ông Dương Văn Minh đã chính thức hoạt động cho cộng sản Việt Nam từ năm 1946.

Tướng Dương Văn Minh, một Tướng đánh giặc giỏi nhưng hoàn toàn không biết gì về chính trị, lại nhẩy ra làm Tổng Thổng trong giai đoạn nước sắp mất, với 1 cổ 2 tròng, nhận lệnh từ 2 nơi (Cả ông Thích Trí Quang lẫn đại diện cộng sản Hà Nội đều hưá hẹn với Ông những điều tốt đẹp) thì làm được cái gì đây ? Ông Minh làm Tổng Thống chỉ làm được có mỗi một việc : theo lệnh của cộng sản, đã chiếm xong dinh Ðộc Lập, lên tiếng tuyên bố "đầu hàng vô điều kiện" mà thôi. Ôi ! Giây phút xót sa, đau đớn cho biết bao nhiêu tâm hồn, nhất là những người quốc gia đã bao năm quyết tâm chống cộng sản Hà Nội để giữ vững Nam Việt Nam. Kẻ viết bài này đã bật khóc, hai tay ôm lấy mặt, trong lúc đang bị tạm giam tại trại tập trung Vĩnh-Ðiện, Quảng Nam cùng với hàng chục ngàn người trong hoàn cảnh tan hàng, thua trận, bị cầm tù một cách đau buồn và tủi nhục. Năm 1951, với tuổi 20, đang đi kháng chiến chống Pháp, mình bị Tây bắt ở Huyện Tiên Hưng, Thái Bình, đem về tập trung ở sân vận động tĩnh Thái Bình, rồi đưa về giam ở Nhà Máy Rượu, thành phố Nam – Ðịnh mà có sao đâu, coi là chuyện thường vì đấu tranh cho đại cuộc là như thế, không thấy đau buồn tủi nhục bằng hơn 20 năm chống cộng sản, bị cộng sản cầm tù, đưa đi cải tạo, rồi phải theo lệnh bộ đội cộng sản, dí súng vào sau lưng, bắt vỗ tay hoan hô khi nghe Dương Văn Minh, qua hệ thống truyền thanh, tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Thế là nước mất, nhà tan, đau buồn, uất hận vì... mất hết ! mất hết ! mất cả thể xác lẫn tâm hồn.

Xin trở lại: rạng sáng Ngày 30 tháng 4, quân cộng sản tiến vào Sài Gòn, vẫn còn gặp vài ổ kháng cự lẻ tẻ. Xe tăng cộng sản hung hăng ủi xập cổng Dinh Ðộc Lập để quân cộng sản tiến vào. Dương Văn Minh cứ yên trí theo bài bản đã nhận được từ "cấp trên" qua điện thoại, ra đón tiếp quân "giải phóng" và sau đó "xin bàn giao chính quyền". Viên Ðại Tá chỉ huy quân cộng sản lúc đó quát vào mặt Dương Văn minh "Các Anh còn cái gì nữa vào lúc này mà đòi bàn giao ? Chỉ có chấp nhận đầu hàng vô điều kiện mà thôi !" Ðại Tá cộng sản Bùi Tín (đã bỏ đi Pháp) lúc đó đóng vai Chính Uỷ bên cạnh viên Ðại Tá Chỉ huy quân giải phóng, vào Dinh Ðộc Lập. Bùi Tín khôn ngoan, nhỏ nhẹ hơn nên nói "Chúng tôi chấp nhận việc đầu hàng của các Ông. Các Ông không có chi phải sợ cả. Người Mỹ là kẻ xâm lăng đã bị đánh bại. Nếu các bạn là những người yêu nước thì hãy coi giờ phút này là niềm vui chung của dân tộc, và trên đất nước của chúng ta, chiến tranh đã chấm dứt !" Buổi sáng hôm đó, cộng sản bắt Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng trước quân cộng sản. Chiến tranh đã chấm dứt, đất nước đã thống nhất nhưng dân chúng miền Nam không vui mừng, sung sướng, hạnh phúc mà lại xô nhau chạy đi mọi ngả, tìm cách thoát chạy khỏi chính quê hương, đất nước của mình để tránh họa cộng sản, bất kể mọi gian nguy, bị giết chóc, cướp bóc, hải tặc hãm hiếp, quăng xác xuống biển. Chính quyền mới truy lùng, tiêu diệt, bắt bớ những kẻ đã phục vụ cho chế độ cũ, nhân vật Ðảng Phái chính trị, tống họ vào những trại tập trung cải tạo ở các vùng rừng núi âm u, hiểm hóc, cách biệt hẳn với xã hội loài người. Nam Bộ là cái túi đựng người quá đông đảo mà lại không có rừng núi thích hợp cho việc thiết lập các trại cải tạo, vưà an toàn lại có lợi nhiều cho nên cộng sản mới phải đưa số đông "kẻ thù" của họ ra Bắc, tống lên các trại cải tạo vùng Thượng Du Bắc Việt.

Cán bộ cộng sản từ lớn đến nhỏ, ngơ ngáo nhìn Sài Gòn và Nam Việt Nam trong sảnh xác sơ, buồn thảm nhưng vẫn không làm mất, che dấu được sự phồn thịnh, phát triển quá cao so với “thiên đàng hay địa ngục Bắc Bộ“, thi nhau vơ vét tài sản của kẻ bỏ chạy, của nhân dân Miền Nam "tay sai Mỹ Ngụy" đem về Bắc như những chiến lợi phẩm của 1 cuộc chiến thắng. Sau này, có cơ hội tiếp xúc với người thân ở Bắc Việt Nam, từng giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền cộng sản thời gian này, kẻ viết được biết mật lệnh của cộng sản Hà Nội lúc đó có những điểm rất kinh khủng: bắt nhốt hết mọi kẻ có khả năng chống cự, nổi dậy sau này, tịch thâu mọi loại vũ khí có tầm sát hại tập thể hay cá nhân, khi có dấu hiệu hay mầm mống biến động thì tất cả những kẻ ít nguy hiểm nhất cũng phải tập trung cải tạo (vì thế khi Trung Cộng tràn vào đánh phá 6 Tỉnh miền Bắc Việt Nam tháng 2 – 1979 để “dậy cho cộng sản Hà Nội 1 bài học“ thì ngay ngày hôm sau, tất cả mọi Sĩ Quan đã giải ngủ lâu hay mau, không đi cải tạo sau 30 – 4 – 1975, cũng phải nhốt đầu lại hết), cán bộ, nhất là công an phải tìm cách dụ dỗ vợ con, làm áp lực để phá tan các gia đình sĩ quan đã đi cải tạo để lấy hết, vét hết, không cho lực lượng sĩ quan khi trở về, còn có thể làm chi được nữa, chỉ còn lo miếng cơm ăn cũng không nổi. Thân phận của một Ðất Nước nhỏ bé đã có "Ngàn năm nô lệ giặc Tầu - Trăm năm nô lệ giặc Tây" nhưng cũng có 900 năm độc lập, tự chủ, sau trận đánh thắng lẫy lừng của Ngô Quyền trên sông Bạch Ðằng, đánh bại đạo quân xâm lược khổng lồ của nhà Nam Hán, lúc này lại như thế đó !

Ðất nước Việt Nam cuối cùng chỉ là bãi chiến trường để 2 phe đối nghịch ý thức hệ quốc tế tiêu thụ vũ khí chiến tranh và thử nghiệm chính sách của mình: 1 bên là chính sách ngăn chặn (Containment Policy) của Mỹ chống lại Chủ nghiã bành trướng (Expansionism) của phong trào cộng sản quốc tế. Sự việc này thực ra đã được nhìn thấy truớc và ra sức ngăn chặn không cho Nam Việt Nam rơi vào hoàn cảnh đó: Ngô Ðình Diệm và Ngô Ðình Nhu. Hai nhân vật này đã bị những người thân cận chung quanh lợi dụng uy thế để kiếm danh kiếm lợi, làm hỏng kế hoạch chống cộng có sách lược hiệu quả (Effective Policy & Strategy) hẳn hoi, đã bị sức ép, mưu hại từ phiá người bạn đồng minh khổng lồ, lúc đó bị bị giới tài phiệt (Financial Oligarchy) khynh đảo, chủ trương buôn bán chiến tranh, tìm cách loại trừ bằng sức mạnh quân đội và tôn giáo của chính Miền Nam Việt Nam.

Có bao giờ những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dám nghĩ rằng: Một ngày nào đó Hoa Kỳ phải chịu sự thua trận đầu tiên, với cái giá quá cao, thê thảm như vậy không ? Thê thảm đến nỗi Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, Graham Martin, suýt nữa thì không kịp ôm lá cờ "Bách chiến bách thắng" chui vào phi cơ trực thăng để tháo chạy hay không ? Thật là đau đớn ! Tuy nhiên, ở đây kẻ viết cũng xin nói lên lời ghi ơn ông Ðại Sứ Martin đã cương quyết và khéo léo chống lại kế hoạch của Hoa Thịnh Ðốn muốn di tản hàng ngàn người Mỹ bị kẹt lại ở Sài Gòn vào lúc quân cộng sản đã chuẩn bị vào làm chủ vùng đất này, theo phương cách: đưa Thủy Quân Lục Chiến Mỹ vào Sài Gòn giữ vòng đai an ninh quanh khu vực Tòa Ðại Sứ để phi cơ trực thăng từ Hạm Ðội Thái Bình Dương liên tục bốc người Mỹ và một số nhân viên làm việc cho Tòa Ðại Sứ và các cơ sở phụ thuộc của Mỹ mà thôi, không cho dân chúng Sài Gòn, Nam Việt Nam dính ké vào vụ di tản kinh hoàng này. Ông Ðại Sứ khôn ngoan và ít nhiều nhân đạo Martin đã chống lại quyết định của Hoa thịnh Ðốn với lý luận: Sĩ Quan, quân lính Nam Việt Nam còn đông đảo tại Sài Gòn và vùng phụ cận với tâm trạng tức giận lẫn bàng hoàng, họ còn các loại vũ khí lớn nhỏ trong tay. Nếu người Mỹ di tản theo cách ích kỷ và tàn nhẫn đó thì những chiếc trực thăng sẽ bị bắn hạ như trái cây chín rụng và cuộc chiến đẫm máu, tàn khốc giữa những chiến binh Nam Việt Nam và thủy quân lục chiến Mỹ bắt buộc phải xẩy ra, Sài Gòn và dân chúng vô tội sẽ lãnh nhiều hậu quả không cách nào lường trước được.

Giới truyền thông của Mỹ, trước và sau ngày Miền nam xụp đổ, đa số đã sa vào mê hồn trận của Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, bị ảnh hưởng của phong trào phản chiến do Ðảng Cộng sản Mỹ chủ trương và lãnh đạo, đánh giá Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoà qua hình ảnh những ngày rút quân, bỏ chạy tán loạn do lệnh của ông Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Báo chí Mỹ bị mặc cảm lần đầu tiên thua trận, bỏ cuộc, chạy làng cho nên đã không tiếc lời đổ hết mọi tội lên đầu Quân Ðội VN Cộng Hoà là thiếu tinh thần chiến đấu. Họ đâu có biết Quân Ðội VN Cộng Hoà chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt ra sao, chiến đấu không ngưng nghỉ, phương tiện thiếu thốn chớ đâu có được chiến đấu trong hoàn cảnh "nhà giầu" như quân đội Mỹ ở Việt Nam lúc đóùõ, được bảo vệ, yểm trợ một cách gần như tuyệt đối. Họ đâu có biết chính quyền của Ông Johnson ở Hoa Thịnh Ðốn đổ quân vào Việt nam, hòng tiêu diệt cộng sản ở đây trong vòng 3 năm, nhưng lại làm cái việc kỳ quái, mà chỉ có giới tài phiệt Mỹ mới hiểu được là "… Johnson's administration made agreements to sell or give the Soviet Union and her commuinist satellites hundreds of millions of dollars worth of food, electronics computers, chemical plants. oil refinery equipment, airborne radar apparatus, jet aircraft engines, machine tools for an $800-million auto assembly plant and military rifles…" Ðó! Bán hoặc cho cộng sản Liên Sô và các nước cộng sản chư hầu thực phẩm, máy điện toán, dụng cụ, hoá chất, động cơ máy bay phản lực, máy Radar, nhà máy chế tạo xe cộ,súng đạn, để rồi tất cả những thứ đó lại đổ lên quân cảng Hải Phòng, đem vào chiến trường Miền Nam để giết lính Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà! Chỉ có Trời mới hiểu nổi !

Ở đây, kẻ viết chỉ muốn nói lên một điều: Quân Ðội VN Cộng Hoà nói chung, đã chiến đấu rất anh dũng, kiên cường, bất chấp mọi trở ngại, khó khăn, thiếu thốn. Miền Nam xụp đổ, nhiều Tướng Lãnh: Nguyễn khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng vv... và nhiều Sĩ Quan cao cấp đã tự sát trong khung cảnh vô cùng oanh liệt, chưa từng có trong quân đội 1 quốc gia nào trên thế giới, họ không chịu đầu hàng hay để bị bắt làm tù binh, hàng triệu quân nhân, viên chức chính phủ, nhân vật Ðảng Phái chính trị bị nhốt vào các trại tù cải tạo khổng lồ nơi rừng thiêng, nước độc, dân chúng ồ ạt bỏ nước ra đi, bỏ hết tài sản, không kể sống chết, thảm hoạ kinh hoàng trên biển cả vv… là những vấn đề vượt quá khả năng và tầm tay của người Việt Miền Nam chúng ta. Chỉ có các Ðấng thiêng liêng, chỉ có Lịch Sử mới hiểu được mà thôi !

Ðiều đáng mừng cho chúng ta là càng ngày, dân chúng Hoa Kỳ cũng như thế giới loài người càng hiểu ra sự thật của cuộc chiến tranh Việt Nam (mà có những nhà chính trị, Giáo Sư Ðại Học lẩm cẩm kêu là cuộc nội chiến, tức là người Việt Nam đánh lộn với nhau) một Bài Học Ðắt Giá , quý báu cho người Việt Nam, cho siêu cường quốc Hoa Kỳ và tất cả các quốc gia nhược tiểu khác trên thế giới. Nước nhỏ yếu mà chỉ trông cậy, giao vận mạng dân tộc mình vào tay một nước lớn mạnh khác lo hộ hoàn toàn thì nhiều chuyện nguy hiểm bắt buộc sẽ phải đến. Nước lớn, dù là Ðệ Nhất Siêu Cường Quốc mà thiếu chung thủy, coi thường Ðồng Minh, bạn bè, phản bội dễ dàng những người đã từng sống chết với mình trên cùng một chiến tuyến, coi thường Liên Hiệp Quốc là cơ quan quốc tế có thẩm quyền cao nhất để giải quyết những khó khăn, tháo gỡ những rắc rối, tranh chấp điên khùng của loài người ngày nay có nhiều tham lam, ích kỷ, ưa dùng bạo lực, ít biết đến giá trị của hòa bình ... thì không được đồng minh, bạn bè chân thành kính nể, rồi không lúc này thì cũng lúc khác sẽ bị những thế lực thù địch khác, mà tất nhiên có nhiều kẻ thù lớn nhỏ, tìm cơ hội đánh cho những đòn chí mạng, thảm khốc, kinh hoàng, loài người xưa nay chưa từng thấy, chưa dám nghĩ đến, nhất là trong một thế giới ngày nay khoa học, kinh tế, vũ khí chiến tranh, quyền lợi, tôn giáo xung đột, phát triển mau hơn, mạnh hơn so với mức độ hòa giải, tuy có, nhưng khó khăn và chậm chạp. Cho đến tháng 3 – 2006, một số các nhân vật chính trị, các Giáo Sư Sử Học, Chính Trị Học mới tụ họp nhau lại ở Boston để tìm ra phần nào những sai lầm, thiếu sót của chính quyền Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam, như đã nói sơ lược ở trên, trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài báo, không phải là 1 cuốn sách, hầu cải thiện tình trạng bế tắc, hiểm nghèo, sa lầy của cuộc chiến tranh tại Iraq giữa 1 Siêu Cường Quốc (Superpower) hàng đầu của thế giới loài người với 1 quốc gia nhỏ bé, tầm thường, đã bị thương nặng trong cuộc chinh phạt thần tốc (lighting-speed expedition) của lực lượng Ðồng Minh, Dân Chủ, Tự Do mà chính yếu là Hoa Kỳ, vào năm 1991. Chúng ta có quyền hy vọng ở tương lai: thế hệ trẻ Việt Nam, những người yêu nước trong cũng như ngoài nước, với trình độ kiến thức, hiểu biết rộng rãi về "Tiến trình của nhân loại - Process of Human Society", hiểu biết về khoa học, kỹ thuật, nhất là với niềm tự hào của một Dân tộc tuy nhỏ bé, gần như suốt đời này qua đời khác, luôn luôn bị xâm lăng, thống trị dã man, tàn bạo, nhưng không bao giờ đánh mất Niềm Tin vào Tổ Quốc, từng có những trang sử oanh liệt của Ngô Quyền, Lê Lợi, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Quang Trung Nguyễn Huệ vv… sẽ mãi mãi muôn đời có mặt trong Cộng Ðồng Thế Giới Tự Do, Tiến bộ và thật sự Văn Minh.

San Diego, California
Phan Ðức Minh

Tài liệu tham khảo:

* The Death of A Nation.- John A. Stormer.- Liberty Bell Press.- Missouri - 1978.
* The World Almanac of The Vietnam War -John S. Bowman ( General Editor ).- Bison Books Corp, New York.-1985
* Vietnam - The History & The Tactics.- Ashley Brown & Adrian Gilbert.- Orbis Publishing Limited, London -1982.
* Kennedy.- Theodore Sorensen.- Harper & Row. New York - 1965.
* New Standard Encyclopedia. Standard Educational Corporation. Chicago – 1981.
* Henry Kissinger’s Diplomacy.- Simon & Schuster.- New York, 1994.
* A Book of U.S. Presidents.- George Sullivan.-Scholastic Incorporation, New York - 1984.
* Một số tài liệu chọn lọc trên Internet của những Nhân Vật chính trị, Giáo Sư Chính Trị và Sử học danh tiếng.

LỘT TRẦN HUYỀN THOẠI HỒ CHÍ MINH - Trần Gia Phụng


Trần Gia Phụng

1. HUYỀN THOẠI VỀ NGƯỜI CHA

Theo sách Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, của nhà xuất bản Sự thật (Hà Nội), Hồ Chí Minh "sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân. Cụ thân sinh ra Người [họ Hồ] là Nguyễn Sinh Huy, tức Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929) ...đỗ phó bảng và sống thanh bạch bằng nghề dạy học. Ðối với các con, cụ giáo dục ý thức lao động và cho học tập để hiểu "đạo làm người". Sau khi đỗ phó bảng, bị bọn thống trị thúc ép nhiều lần, cụ ra làm quan, nhưng thường tỏ thái độ tiêu cực, không hợp tác với chúng. Cụ thường nói: "Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ", nghĩa là "Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn". Vốn có tinh thần yêu nước, khảng khái, cụ thường chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp, cho nên sau một thời gian rất ngắn, cụ bị chúng cách chức. Cụ vào Nam bộ làm nghề thầy thuốc, sống cuộc đời thanh bạch, cho đến lúc từ trần."(1)

Ông Nguyễn Sinh Sắc quả thật đã đỗ phó bảng năm 1901 (tân sửu) cùng một lần với Nguyễn Ðình Hiến, Phan Chu Trinh.(2) Tuy nhiên, Nguyễn Sinh Sắc không hề bị "bọn thống trị thúc ép nhiều lần" sau khi đỗ phó bảng mới chịu ra làm quan. Ông Sắc đã xin đi làm quan ngay sau khi đỗ cử nhân và trước khi đỗ phó bảng. Nguyên vào năm 1894, Nguyễn Sinh Sắc đỗ cử nhân tại trường thi Nghệ An. Năm sau (1895), ông Sắc vào Huế thi hội bị hỏng, đã xin đi làm hành tẩu bộ Hộ. Ba năm sau, ông hỏng kỳ thi hội một lần nữa vào năm 1898.(3) Trước khi dự kỳ thi hội năm 1901, ông Sắc còn tham dự hội đồng giám khảo chấm thi kỳ thi hương tại Bình Ðịnh năm 1897 và Thanh Hóa năm 1900.(4) Sau khi đỗ phó bảng trong kỳ thi hội và thi đình năm 1901, ông làm thừa biện bộ Lễ từ 1902 đến 1909, rồi đi tri huyện Bình Khê (Bình Ðịnh) tháng 5 năm đó. Từ thừa biện đi tri huyện là thăng chức chứ không phải xuống chức.(5).

Nguyễn Sinh Sắc bị sa thải chứ không phải bị cách chức.(6) Lý do sa thải cũng không phải vì "vốn có tinh thần yêu nước, khảng khái, cụ thường chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp ". Ông bị sa thải vì đã hành xử tàn bạo với dân chúng. Trong một cơn say rượu, Nguyễn Sinh Sắc đã dùng roi mây trừng phạt và đánh chết một người tù vào tháng 1-1910. Gia đình người nầy kiện lên cấp trên. Dù tri huyện Nguyễn Sinh Sắc đã chối cãi rằng không phải vì trận đòn của ông mà người kia chết, ông vẫn bị triều đình ra sắc chỉ ngày 17-9-1910 phạt đánh 100 trượng. Hình phạt nầy được chuyển đổi qua hạ bốn cấp quan lại và sa thải.(7) Lý do chuyển đổi hình phạt để Nguyễn Sinh Sắc khỏi bị đánh đòn có lẽ nhắm giữ thể diện của một quan chức triều đình, và nhất là vị nầy lại là người có học vị cao. Ông Sắc nghiện rượu từ khi còn ở Huế. Chị của Hồ Chí Minh, bà Nguyễn Thị Thanh (1884-1954), vào Huế thăm cha năm 1906. "Bà không thể chịu đựng lâu ngày thái độ cộc cằn thô lỗ của cha bà, nay đã mắc phải tật nghiện rượu và thường hay đánh đập bà ".(8) Do đó, năm sau bà bỏ Huế ra Nghệ An trở lại, mà không sống với cha.

Phải chăng câu: "Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ " (Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn) là do những cán bộ cộng sản bịa ra, rồi gán cho ông Nguyễn Sinh Sắc để đả kích chế độ quân chủ? Hay phải chăng vì bị đuổi ra khỏi ngành quan lại nên Nguyễn Sinh Sắc mới bất mãn và thốt lên câu: "Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ " (Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn). Nếu không, Nguyễn Sinh Sắc hăng hái xin đi làm quan làm gì, và sau nầy con ông, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) còn gởi thư đến viên Khâm sứ Pháp tại Huế xin cho ông một chức quan nhỏ nữa.

Ngày 26-2-1911, Nguyễn Sinh Sắc xuống tàu từ Ðà Nẵng vào Sài Gòn. Ông ở lại Sài Gòn một thời gian, dạy chữ Nho cho nhà báo Diệp Văn Kỳ,(9) rồi đi Lộc Ninh làm giám thị đồn điền. Từ đó, ông không bao giờ trở ra Nghệ An.Ông ng sống lang thang ở miền Nam bằng nghề đông y, và nghề viết liễn đối cho dân chúng. Gần cuối đời, ông đến định cư tại làng Hội Hòa An, Sa Ðec, và từ trần ngày 29-11-1929.(10)

Khi Nguyễn Sinh Sắc bị bãi chức và sống lang thang nghèo khổ ở miền Nam, con ông ta là Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh, ra nước ngoài năm 1911, đã viết thư từ New York ngày 15-12-1912 cho viên khâm sứ Pháp tại Huế tha thiết "... cầu mong Ngài [chỉ khâm sứ Pháp] vui lòng cho cha tôi [cha của Thành tức ông Sắc] được nhận một công việc như thừa biện ở các bộ, hoặc huấn đạo, hay giáo thụ để cha tôi sinh sống dưới sự quan tâm cao quý của Ngài..."(11)

Vậy huyền thoại về người cha của Hồ Chí Minh là một người yêu nước, chống đối chính quyền Pháp nên bị cách chức, là chuyện hoàn toàn bịa đặt do Ban Nghiên cứu Lịch sử trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam đưa ra nhắm là tăng giá trị cho lãnh tụ của họ.

Tưởng cũng nên thêm ở đây một phát hiện của ông Trần Quốc Vượng, sử gia Hà Nội hiện nay. Trong sách Trong Cõi của Trần Quốc Vượng, có bài "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dã)". Phần cuối của bài nầy cho biết rằng ông Nguyễn Sinh Sắc, phụ thân của Hồ Chí Minh, không phải là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm. Trước khi đám cưới, bà vợ của ông Nguyễn Sinh Nhậm đã có mang với cử nhân Hồ Sĩ Tạo, cho nên ông Nguyễn Sinh Nhậm chỉ là người cha trên giấy tờ của ông Nguyễn Sinh Sắc mà thôi. Ông Trần Quốc Vượng viết: "Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải là cụ Nguyễn Sinh Nhậm". (12)

2. HUYỀN THOẠI RA ÐI TÌM ÐƯỜNG CỨU NƯỚC

Tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam đều viết rằng ngày 5-6-1911, thanh niên Nguyễn Tất Thành đã xuống tàu Amiral Latouche-Tréville để ra đi tìm đường cứu nước. Sau đây là lời trong sách Lịch sử Việt Nam của nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội:

"Sự thất bại của các phong trào Ðông Du, Ðông Kinh Nghĩa Thục của cuộc vận động Duy Tân và phong trào chống thuế ở các tỉnh Trung Kỳ mà Người [Hồ Chí Minh] từng tham gia khi đang học ở trường Quốc Học Huế, đã thôi thúc Người [HCM] hướng về các nước Tây Âu, mong muốn được đến "tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những Tự do, Bình đẳng, Bác ái". Sau khi rời Huế vào Phan Thiết ... Ðược ít lâu, lấy tên là Văn Ba, Người [HCM] xin làm phụ bếp trên chiếc tàu thủy Ðô đốc La Tusơ Tơrêvin (La Touche Tréville), thuộc hãng vận tải hợp nhất của Pháp, để đi ra nước ngoài "xem nước Pháp và các nước khác làm như thế nào rồi sẽ trở về giúp đồng bào"..."(13)

Sách Chủ Tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp của nhà xuất bản Sự Thật giải thích sự ra đi của Hồ Chí­ Minh cũng gần giống như thế: "... Ít lâu sau, Hồ Chủ tịch vào Sài Gòn. Nam Kỳ dưới chế độ thuộc địa cũng chẳng khác gì Trung Kỳ dưới chế độ bảo hộ và Bắc kỳ dưới chế độ nửa thuộc địa, nửa bảo hộ. Ở đâu nhân dân cũng bị áp bức, bóc lột, đồng bào cũng bị đọa đày, khổ nhục. Ðiều đó càng thôi thúc Hồ Chủ tịch đi sang các nước Âu tây để xem nhân dân các nước ấy làm như thế nào mà trở nên độc lập, hùng cường, rồi sẽ trở về "giúp đỡ đồng bào" đánh đuổi thực dân Pháp. Ý định ấy của Người [HCM] đã dẫn Người từng bước đi tới tìm một phương hướng mới cho sự nghiệp cứu nước của nhân dân ta."(14)

Trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, cũng do nhà xuất bản Sự Thật ấn hành, trả lời phỏng vấn tác giả Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh nói về lý do ra đi như sau: "...Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta..."(15)

Trần Dân Tiên chính lại là Hồ Chí Minh. Ông dùng một tên khác viết sách tự ca tụng mình. Tại Việt Nam cũng như trên thế giới, đã có nhiều người viết sách về hoạt động của mình, đôi khi để tự khen mình, hoặc để biện hộ cho những việc làm của mình, nhưng họ đề tên thật, chịu trách nhiệm về những điều họ viết. Hồ Chí­ Minh dùng một tên khác tự ca tụng mình là một sáng kiến kỳ lạ chưa một người tự trọng nào dám nghĩ đến.

Như thế, qua các sách của nhà cầm quyền cộng sản và qua chính những lời viết của Hồ Chí Minh, ông ta đi ra nước ngoài nhắm mục đích tìm đường cứu nước, nhưng trong thời gian gần đây, nhiều tác giả đã tìm được những chứng liệu cụ thể cho thấy rằng Hồ Chí­ Minh ra đi không phải để tìm đường cứu nước, mà chỉ vì lý do kinh tế gia đình.

Trong bài "Từ mộng làm quan đến đường cách mạng Hồ Chí­ Minh và Trường Thuộc Ðịa", hai tác giả Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu đã phổ biến ảnh sao (photocopy) hai lá thư của Nguyễn Tất Thành đề ngày 15-9-1911 gởi cho tổng thống Pháp và bộ trưởng bộ Thuộc Ðịa Pháp, xin hai ông ban ân huệ cho Thành được đặc cách vào học Trường Thuộc Ðịa Paris, nơi đào tạo quan lại cho các thuộc địa Pháp trong đó có Ðông Dương. Phần chính trong nội dung của hai lá thư nầy hoàn toàn giống nhau. Ðó là: "Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng hảo tâm của ông ban cho tôi đặc ân được nhận vào học nội trú Trường Thuộc Ðịa. Tôi hiện đang làm công trong công ty Chargeurs Réunis để sinh sống (trên tàu Amiral Latouche-Tréville). Tôi hoàn toàn không có chút tài sản nào, nhưng rất khao khát học hỏi. Tôi ước mong trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời làm thế nào cho họ hưởng được ích lợi của nền học vấn..."(16)

Hai lá đơn trên đều bị bác, Nguyễn Tất Thành tiếp tục hành nghề trên các tàu biển. Ngày 15-12-1912, từ New York, Hoa Kỳ, Nguyễn Tất Thành gởi đến viên khâm sứ Pháp tại Huế một lá thư rất thống thiết xin một đặc ân là ban cho cha là Nguyễn Sinh Sắc, một chức việc nhỏ như giáo thụ hay huấn đạo, để ông nầy có điều kiện sinh sống.

Hai lá đơn trên cùng với lá thư gởi năn nỉ viên khâm sứ Pháp tại Huế cho thấy lúc mới ra đi, Nguyễn Tất Thành chỉ nhắm mục đích sinh nhai. Vì sinh kế gia đình, lúc đó Nguyễn Tất Thành sẵn sàng thỏa hiệp với người Pháp để kiếm một chức quan cho cá nhân ông (bằng cách xin vào học Trường Thuộc Ðịa), hoặc cho phụ thân ông.

Ðiều nầy là chuyện bình thường của đời sống con người. Lớn lên, ai ai cũng phải kiếm cách mưu sinh để tự nuôi sống mình và nuôi sống gia đình. Hơn nữa, điều nầy còn có nghĩa là Nguyễn Tất Thành không phải ra đi tìm đường cứu nước. Việc ra đi tìm đường cứu nước chỉ là sản phẩm tưởng tượng sau nầy của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, nhắm làm đẹp cho việc ra đi của họ Hồ để lôi cuốn quần chúng trên đường hoạt động chính trị.

3. HUYỀN THOẠI CUỘC SỐNG ÐỘC THÂN GIẢN DỊ

Hồ Chí Minh cũng như ban Nghiên cứu Lịch sử đảng trung ương luôn luôn đề cao rằng ông ta suốt đời sống độc thân, không lập gia đình, để có thể toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Sự thật, dù Hồ Chí Minh đi đâu, ở nơi nào, cũng đều có bóng dáng của người đàn bà trong suốt cuộc đời hoạt động của ông.

Theo giáo sư Nguyễn Thế Anh, khi hành nghề nhiếp ảnh ở Paris, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã gởi thư tỏ tình với cô Bourdon ngày 10-5-1923. Sau vài cuộc gặp gỡ và thư từ qua lại, cô Bourdon viết thư ngày 11-6-1923 cự tuyệt mối tình của Nguyễn Ái Quốc. Giáo sư Nguyễn Thế Anh còn trưng dẫn nhiều tài liệu cho thấy khi qua Moscow, nhà cầm quyền Liên Xô đã cung cấp cho Nguyễn Ái Quốc một "người vợ".(17)

Ðến Quảng Châu (Trung Hoa), Nguyễn Ái Quốc, lúc đó lấy tên là Lý Thụy kết hôn với một người phụ nữ Trung Hoa là Tăng Tuyết Minh năm 1926. Bà nầy bị thất lạc sau cuộc chiến Quốc Cộng ở Trung Hoa năm 1927.(18) Theo một tài liệu khác, thì trong thời gian nầy, Lý Thụy còn sống với một phụ nữ Trung Hoa thứ nhì là Lý Huệ Khanh, em của Lý Huệ Quần. Lý Huệ Quần là vợ của Lâm Ðức Thụ, một đồng chí của Lý Thụy. Tài liệu nầy giải thích rằng Nguyễn Ái Quốc đổi tên thành Lý Thụy là theo họ của Lý Huệ Khanh cho dễ hoạt động.(19) Khi cảnh sát Hồng Kông bắt Lý Thụy ngày 6-6-1931 tại thị trấn Cửu Long, gần Hồng Kông, ông đang sống với một phụ nữ Trung Hoa tên là Li Sam. Khi Lý Thụy đến Vân Nam, tướng Long Vân (Lung Yun) đã tìm cho ông một nhân tình người Tàu.(20)

Từ năm 1930, ở Hồng Kông, Lý Thụy dạy chính trị cho Nguyễn Thị Minh Khai tại trụ sở chi nhánh Bộ Ðông phương của Quốc tế cộng sản. Sau một thời gian, hai người trở thành vợ chồng, và khi qua Liên Xô tham dự đại hội cộng sản quốc tế ngày 25-7-1935, hai người công khai sống chung.(21) Năm 1944, Hồ Chí Minh về hoạt động tại vùng Pắc Bó, Cao Bằng. Ở đây, theo sử gia và nhà hoạt động chính trị Trần Trọng Kim, ông Hồ sống chung với bà Ðỗ Thị Lạc, bí danh "chị Thuần", và sinh hạ một người con gái.(22)

Sau cuộc sống chung tạm bợ với Ðỗ Thị Lạc, Hồ Chí Minh bị cuốn hút vào những biến chuyển lịch sử cho đến năm 1954, ông Hồ về Hà Nội. Theo tài liệu của Vũ Thư Hiên và Nguyễn Minh Cần, bộ chính trị đảng Lao Ðộng đã đưa một cô gái thuộc sắc tộc Nùng ở Cao Bằng là Nông Thị Xuân (có sách viết Nguyễn Thị Xuân) về phục vụ Hồ Chí Minh năm 1955. Lúc đó, ông Hồ khoảng 65 tuổi và bà Xuân có lẽ khoảng trên dưới 22 tuổi, khá xinh đẹp: "Cô Xuân rất xinh gái, da trắng nõn, miệng tươi như hoa".(23) Năm sau, bà Xuân sinh hạ một người con trai được đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Sau một thời gian chung sống, Hồ Chí Minh sa thải bà Xuân. Viên bộ trưởng công an Hà Nội là Trần Quốc Hoàn đã hiếp dâm bà Xuân, rồi cho người thủ tiêu một cách tàn bạo.(23)

Trong thời gian nầy, đảng Lao Ðộng còn có ý định đưa cô Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh uỷ viên tỉnh Thanh Hóa, về Hà Nội để làm vợ Hồ Chí Minh. Cô Phương Mai đòi công khai hóa cuộc hôn nhân giữa hai người, thì bị từ chối, nên cô rút lui.(24) Năm 1959, Ðào Chú, uỷ viên thường vụ bộ chính trị đảng Cộng Sản, Phó thủ tướng chính phủ Trung Quốc sang Việt Nam nghỉ dưỡng. Một bộ trưởng trong chính phủ Hà Nội đã nói riêng với Ðào Chú rằng Hồ Chí Minh muốn tái hôn với một người vợ Quảng Ðông. Ðào Chú rất hoan hỷ giúp đỡ, nhưng thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai đã thận trọng yêu cầu phía Việt Nam xem xét vấn đề cẩn thận. Hội nghị do Lê Duẩn triệu tập đã đi đến quyết định là phải bảo vệ hình tượng Hồ Chí Minh, nên việc ông Hồ muốn tái hôn với một phụ nữ Quảng Châu đã không thành.(25) Hồ Chí Minh cho Ðào Chú biết ông muốn tái hôn, có nghĩa là ông Hồ tự thú nhận đã kết hôn một lần nào đó rồi.

Như thế huyền thoại thứ ba về Hồ Chí Minh, hy sinh cuộc sống cá nhân, sống độc thân để toàn tâm toàn ý lo việc nước, là một câu chuyện bí mật giấu đầu lòi đuôi. Hồ Chí Minh có vợ là một chuyện bình thường, nhưng bản thân Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản trước sau luôn luôn che đậy việc nầy để lừa bịp nhân dân Việt Nam và dư luận thế giới. Kết hôn, lập gia đình là điều chẳng có gì xấu xa, nhưng xử sự tàn bạo với những người đã từng sống với mình, che đậy việc kết hôn, lừa bịp trắng trợn mọi người là điều mà không một nền luân lý nào chấp nhận.

Sau khi Hồ Chí Minh từ trần, trong lời kêu gọi đưa ra ngày 3-9-1969, đảng Lao Ðộng Việt Nam (tức đảng CSVN) đã viết: "...Cuộc đời của Người là một tấm gương chói lọi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của tinh thần đoàn kết, của đạo đức giản dị, khiêm tốn, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư..."(26) Hãy nhìn vào cách sống của Hồ Chí Minh để biết ông có phải là người "giản dị, khiêm tốn" hay không?

Trước hết, chế độ Hà Nội tuyên truyền rằng Hồ Chí Minh sống trong một ngôi nhà sàn bằng gỗ. Nghe chữ "nhà sàn", người Việt thường liên tưởng đến những ngôi nhà của người miền núi, làm bằng gỗ, cách mặt đất khoảng một thước, phía dưới dùng để cất giữ dụng cụ hay nhốt gia súc, hoặc liên tưởng đến những nhà sàn của một số cư dân ven sông hay dọc các kênh đào. Những ngôi nhà sàn nầy rất đơn sơ, giản dị. Ấn tượng giản dị khiến nhiều người tưởng tượng rằng ngôi nhà sàn của Hồ Chí Minh có lẽ cũng thế, và cũng tưởng rằng Hồ Chí Minh sống rất bình dân. Thực tế hoàn toàn không như vậy. Những du khách đã từng viếng ngôi nhà sàn của ông Hồ, hoặc những ai đã từng nhìn ngôi nhà sàn nầy qua phim ảnh, rồi so sánh với nhà sàn của người miền núi hoặc của những người sống ven sông, sẽ có cảm nghĩ khác. Ngôi nhà sàn của ông Hồ có vẻ giản dị một cách cố ý, lại rất sang trọng, xây dựng bằng loại gỗ cực tốt, trang bị đầy đủ theo tiện nghi thời đại, có người chăm sóc cẩn thận, và gần như là nhà nghỉ mát mùa hè, hoặc nơi ông đón tiếp du khách. Như vậy ngôi nhà sàn của ông Hồ chỉ là loại trang trí mắc tiền.

"Áo quần lên sân khấu rất quan trọng: luôn luôn giản dị (áo quần màu chàm). Ðối với Hồ cũng như Staline, Mao, hoặc Kim Nhật Thành, sự giản dị được nghiên cứu kỹ lưỡng. Áo quần cắt may thô sơ theo kiểu Kroutchev hoặc Ceaucescu, biểu tượng của một thế hệ lãnh đạo cộng sản. Ðiều đặc biệt của Hồ trong giới lãnh đạo cộng sản là Hồ đi dép lốp (trên nguyên tắc cắt từ lốp xe hơi) ... Còn gì ăn ảnh hơn dù là tiền chiến hay hiện đại "Bác" Hồ đi dép lốp trên màn ảnh."(27)

Hồ Chí Minh duy nhất chỉ để lộ một sở thích phàm tục rất người, đó là ông thích hút thuốc thơm Hoa Kỳ, đặc biệt là Camel hay Lucky Strike. (28) Không biết đây là dàn kịch để chứng tỏ ông ta cũng bình thường như mọi người, hay quả thật ông ta thích hút thuốc Mỹ. Dầu sao, cuộc sống của ông Hồ không giản dị như người ta tưởng.

Trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Trần Dân Tiên (chính là Hồ Chí Minh) đã viết trong phần đầu sách: "Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của người được?"(29) Một người dùng một cái tên khác viết sách, tự khen mình là khiêm tốn không muốn nói về mình, rồi sau đó, suốt trong quyển sách lại kể lể tự đề cao sự nghiệp của mình, thì không biết nên xếp ông ta vào loại người gì đây?

Cuối sách nầy, Trần Dân Tiên (tức Hồ Chí Minh) viết: "Nhân dân gọi Chủ tịch là cha già của dân tộc, vì Hồ Chủ tịch là người con trung thành nhất của Tổ quốc Việt Nam."(30). Lời nầy cho thấy Hồ Chí Minh muốn gợi ý để được người Việt Nam gọi ông là cha già của dân tộc, nhưng không được dân chúng hưởng ứng, nên ông quay qua dùng chữ "bác". Ở đây lại thấy ông Hồ thậm khôn, vì trong cơ cấu gia tộc Việt Nam, bác là anh của cha, bác lớn hơn cha và đứng trước cha trong sinh hoạt đại gia đình, hoặc lễ nghi tế tự.

Theo Thành Tín, tức Bùi Tín, cựu đại tá quân đội cộng sản Hà Nội, cựu phó tổng biên tập báo Nhân Dân, Hồ Chí Minh công khai tự xưng là "bác" năm 1945 trước quần chúng, lúc đó ông khoảng 55 tuổi.(31) Nói chuyện với dân chúng, trong đó có cả những người già cả, đáng tuổi ông, cha, chú, anh, chị mình mà xưng bác thì xin khỏi bàn về tư cách của "bác".

Chẳng những thiếu kính trọng với người đang sống, Hồ Chí Minh còn tỏ ra thiếu lễ độ đối với những người trước ông hàng mấy trăm năm. Hãy đọc những câu thơ của Hồ Chí Minh qua bài "Ngẫu hứng" ông viết vào dịp viếng đền thờ Hưng Ðạo Ðại Vương Trần Quốc Tuấn (1226-1300) khoảng trước năm 1950:

"Bác anh hùng, tôi cũng anh hùng,
Tôi, bác cùng chung nghiệp kiếm cung.
Bác thắng quân Nguyên thanh kiếm bạc,
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng.
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu đến đại đồng.
Bác có linh thiêng cười một tiếng
Rằng tôi cách mạng đã thành công."(32)

Tự phong mình là anh hùng đã là chuyện lạ, gọi một vĩ nhân của lịch sử sống cách đây hơn 600 năm bằng "bác" là một sự vô lễ chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử Việt Nam. Khi Quốc sử quán triều Nguyễn trình Khâm định Việt sử thông giám cương mục lên vua Tự Ðức (trị vì 1847-1883) duyệt, trong khung cảnh xã hội vua là thiên tử (con trời), nhà vua đã phê bình nhiều nhân vật lịch sử, đôi khi với lời lẽ gay gắt, nhưng chưa bao giờ nhà vua có ngôn ngữ sỗ sàng thiếu lễ độ như Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh tưởng rằng gọi Trần Hưng Ðạo bằng "bác" là có thể tự nâng mình lên ngang tầm với người xưa, nhưng ngược lại những lời nầy cho thấy hố cách biệt lớn lao giữa một vị thánh và một kẻ tự phụ hợm mình. Chẳng những thế, người Việt Nam xưng tụng đức Trần Hưng Ðạo là thánh, nên cách xưng hô của họ Hồ xúc phạm đến cả niềm tin của dân chúng Việt Nam. Nếu nói rằng bài thơ nầy là "thơ khẩu khí", thì càng thấy "khẩu khí" của Hồ Chí Minh chẳng khiêm cung tý nào.

Hồ Chí Minh là chủ tịch miền Bắc, ông có quyền sống một cách tiện nghi đầy đủ để làm việc; thậm chí ông có quyền tận hưởng mọi lạc thú trên đời sau khi đã dày công cực khổ tranh đấu; ông có quyền lực to lớn của một chủ tịch nhà nước độc tài; ông có thể vượt qua luật pháp ra lệnh sinh sát mọi người; ông có thể làm bất cứ việc gì ông muốn dưới chế độ độc tài; nhưng nói rằng họ Hồ là người "giản dị khiêm tốn" là điều hoàn toàn sai sự thật.

CHÚ THÍCH:

1. Ban Nghiên cứu Lịch sử đảng trung ương (BNCLSÐ), Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư (có xem lại và bổ sung), Nxb. Sự Thật, Hà Nội 1975, tt. 11-12. Chữ "Người" với N (hoa) là của nguyên bản.
2. Cao Xuân Dục, Quốc triều đăng khoa lục, bản dịch của Lê Mạnh Liêu, Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Sài Gòn, 1962, tt. 234-240.
3. Trần Quốc Vượng, Trong cõi, Nxb. Trăm Hoa, California, 1993, tr. 257
4. Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l ' Indochine au Vietnam [Hồ Chí Minh, từ Ðông Dương đến Việt Nam] , Nxb. Gallimard, Paris, 1990. tt. 131-132.
5. Bình Khê nằm về phía tây huyện Tuy Phước. (Bình Khê là quê của bà Bùi Thị Xuân, thi sĩ Quách Tấn). Thừa biện là một chức quan nhỏ ở một bộ, thừa hành một nhiệm vụ nào đó do cấp trên giao phó trong một thời gian. (Trần Thanh Tâm, Tìm hiểu quan chức nhà Nguyễn, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1996, tr. 229) Phan Chu Trinh đỗ phó bảng xong làm thừa biện bộ Lễ. Hoàng Diệu đỗ phó bảng xong làm hàn lâm viện kiểm thảo cũng là một chức quan nhỏ, lo việc biên duyệt sách vở cho Hàn lâm viện, rồi mới được bổ tri huyện Tuy Phước, Bình Ðịnh.
6. Cách chức là không được giữ chức vụ cũ, hạ thấp chức vụ và công việc, nhưng vẫn còn được làm quan. Ở đây, ông Nguyễn Sinh Sắc chẳng những bị hạ chức mà còn bị đuổi không cho làm quan nữa, tức sa thải ra khỏi ngành quan lại.
7. Daniel Hémery, sđd. tr. 133. Theo Thành Tín, tức Bùi Tín, nạn nhân của Nguyễn Sinh Sắc là một nông dân tên Tạ Ðức Quang. (Thành Tín, Mặt thật, Hồi ký chính trị của Bùi Tín, Nxb. Saigon Press, California, 1993, tr. 95.)
8. Daniel Hémery, sđd. tr. 133. Nguyên văn: "...elle ne put supporter longtemps les brutalités de son père qui avait contracté des habitudes d' ivrognerie et la frappait très souvent..." Thành Tín, trong sđd. tr. 95 viết: "ông Nguyễn Sinh Huy vốn nghiện rượu rất nặng khi còn ở Huế, bà Thanh kể rằng hồi ấy cứ lên cơn thèm rượu và say rượu là bà bị ông bố đánh bằng tay và bằng roi rất tàn nhẫn."
9. Diệp Văn Kỳ (1895-1945): ông là con của Diệp Văn Cương và Công Nữ Thiện Niệm. Bà nầy là em vua Dục Ðức (1883) và cô của vua Thành Thái (trị vì 1889-1907). Ông giỏi Nho học, Tây học, đã du học Pháp, đỗ cử nhân luật. Khi về Sài Gòn, ông sang tờ Ðông Pháp Thời Báo, rồi xuất bản tờ Thần Chung. Tờ nầy bị đình bản năm 1932. Ông mất tại Trảng Bàng năm 1945.
10. Daniel Hémery, sđd. tr. 134. Theo các tài liệu cộng sản Việt Nam, ông Sắc từ trần và chôn ở Cao Lãnh. Theo tổ chức hành chánh hiện nay ở Việt Nam, Cao Lãnh và Sa Ðéc là hai thị xã nằm gần nhau trong tỉnh Ðồng Tháp. Nghề viết liễn đối: ngày trước, khi trong nhà có việc vui hay buồn như đám cưới, đám ma..., người ta thường tặng những câu liễn đối bằng chữ Nho, mang nội dung chúc mừng hay chia buồn chủ nhà. Muốn viết hay, người viết phải có trình độ Nho học cao.
11. Thành Tín [tức Bùi Tín], Mặt thật, sđd. tr. 95-96. Lê Văn Tiến, nguyệt san Thế Kỷ 21, Garden Grove, California, số 116, tháng 12-1998 tt. 52-53. Thư ngày 15-12-1912 của Paul Tất Thành viết bằng chữ Pháp từ New York.
12. Trần Quốc Vượng, sđd. tr. 258. Trần Quốc Vượng còn thêm rằng chính ông Hồ Sĩ Tạo đã vận động cho Nguyễn Sinh Sắc vào học trường Quốc tử giám ở kinh đô Huế. (sđd. tr. 256)
13. Nguyễn Khánh Toàn chủ biên, và một số tác giả, Lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 145. Sách nầy viết sai chữ "La Touche Tréville". Ðúng ra là "Latouche-Tréville". Chữ "Người" với chữ N (hoa) trong nguyên bản. Chúng tôi giữ nguyên cách viết trong bộ Lịch sử Việt Nam.
14. BNCLSÐ, sđd. tr. 15.
15. Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb. Sự Thật, Hà Nội 1976, tr. 13.
16. Ðăng trên nguyệt san Ðường Mới số 1, Paris, 1983, từ trang 8 đến trang 25.
17. Nguyễn Thế Anh, "Hành trình chính trị của Hồ Chí Minh", đăng trong Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp, một nhóm tác giả, Nxb. Nam Á, Paris, 1990, tr. 25.
18. Daniel Hémery, sđd. tt. 63, 145.
19. Lữ Giang, Những bí ẩn lịch sử đàng sau cuộc chiến Việt Nam, quyển I, tái bản lần thứ nhất, có hiệu đính và bổ túc, California, 1999, tr. 109.
20. Nguyễn Thế Anh, bài và sách đã dẫn, tt. 25-26. Stanley Karnow, Vietnam A History, Nxb. Viking, New York, in lần thứ nhì, 9-1983, tr.
126. Karnow còn viết thêm:" A Communist official in Hanoi in 1981 told me that Ho had loved a Chinese woman, a doctor, who died before they could marry." (Một viên chức cộng sản ở Hà Nội vào năm 1981 đã nói với tôi rằng Hồ đã yêu một phụ nữ Trung Hoa, một bác sĩ; bà nầy từ trần trước khi họ định cưới nhau.)
21. Thành Tín, Về ba ông thánh, California, 1995, tr. 136. Sau đây là nguyên văn của ông Thành Tín: "...Bà Minh Khai ghi rõ chồng là "Lin", bí danh của Nguyễn Ái Quốc hồi ấy; cả những phiếu ghi nhận đồ đạc trong phòng riêng hai người tại nhà ở tập thể của cán bộ thuộc Quốc Tế Cộng Sản ghi rõ: hai vợ chồng Minh Khai và "Lin", chung phòng, chung giường, chung đồ dùng... Có tài liệu ghi rõ hai vợ chồng nầy cũng chung sống ở Hồng Kông một thời gian... Ðây không thể nào là tài liệu giả..." Chú ý: Nguyễn Thị Minh Khai là chị ruột của Nguyễn Thị Quang Thái. Bà Thái là vợ đầu của Võ Nguyên Giáp.
22. Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn, 1969, tr. 75. Sau đây là nguyên văn của Trần Trọng Kim trong đoạn nầy: "Về khoảng cuối năm 1944, Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội lại dời về tỉnh Quảng Tây, và cho ông Hồ Chí Minh về Bách Sắc để trù liệu kế hoạch nhập Việt. Sau đó, Hội cho ông Minh cùng 22 đảng viên, phần nhiều là người đảng Phục Quốc, về nước để khởi sự hành động. Trong số 22 người ấy có một nữ đảng viên tên là Ðỗ Thị Lạc là người sau có đứa con gái với Hồ Chí Minh. Về sau, thấy người ta nói khi đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng viên trong 22 người ấy bị giết vì không chịu theo cộng sản."
23. Vũ Thư Hiên, Ðêm giữa ban ngày (hồi ký chính trị của một người không làm chính trị), Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tt. 605-609. Nguyễn Minh Cần, "Thêm vài mẩu chuyện về cuộc đời của Hồ Chí Minh", nguyệt san Thế Kỷ 21, Garden Grove, số 96, tháng 4-1997, tt. 33-40.
24. Nguyễn Minh Cần, bđd., tt. 36-37.
25. Văn trích tuần báo, số tháng 1-1991. Bài báo nhan đề: "Hồ Chí Minh tằng tưởng tái hôn". Nguyệt san Phụng Sự, Glendale, Phoenix, Arizona, bộ mới, số 10, ngày 15-10-1996, chụp hình và dịch bài báo sang tiếng Việt.
26. BNCLSÐ, sđd. tr. 160. Chữ "Người" viết hoa theo nguyên bản.
27. Oliver Todd, "Huyền thoại Hồ Chí Minh", Nguyễn Văn dịch, đăng trong sách Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp, Nxb. Nam Á, Paris, 1990, tr. 276.
28. Oliver Todd, bđd., sđd. tr. 277. Stanley Karnow, "Ho Chi Minh", tạp chí Time, tập 151, số. 14, 13-4-1998, tr. 123.
29. Trần Dân Tiên, sđd. tr. 9. Những chữ viết hoa theo nguyên bản.
30. Trần Dân Tiên, sđd. tr. 149. Những chữ viết hoa theo nguyên bản.
31. Thành Tín, Hoa xuyên tuyết, Nxb. Nhân Quyền, California 1991, tr. 117.
32. Phạm Cây Trâm, "Về bài thơ viếng đền thờ Ðức Trần Hưng Ðạo của ông Hồ", mục "Bạn đọc viết", nguyệt san Thế kỷ 21, California, số 136, tháng 8-2000, tr. 8


*
* *

4. HUYỀN THOẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Hồ Chí Minh luôn luôn hô hào đoàn kết dân tộc. Một trong những khẩu hiệu ưng ý của họ Hồ là "đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công đại thành công."(33) Sau đây là các cách thức đoàn kết của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam.

* Đoàn kết là tiêu diệt tất cả mọi người bất đồng chính kiến bằng bất cứ giá nào để giành quyền lực: Khoảng giữa tháng 11-1924, Hồ Chí Minh, lúc đó có tên là Lý Thụy, đáp tàu từ Vladivostok (viễn đông Liên Xô) đi Quảng Châu (Trung Hoa) với vai trò thông ngôn của phái bộ cố vấn Borodin bên cạnh chính phủ Tôn Dật Tiên trong thời kỳ liên minh quốc cộng đầu tiên ở Trung Hoa. Đến Quảng Châu, Lý Thụy bắt đầu gây dựng cơ sở đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam uy tín nhất ở Trung Hoa thời bấy giờ là Phan Bội Châu. Để giành lấy tổ chức của Phan Bội Châu, một trong những việc làm đầu tiên của Lý Thụy ở Quảng Châu là bán tin tức cho Pháp bắt Phan Bội Châu khi ông Phan đi từ Hàng Châu đến Thượng Hải ngày 1-7-1925.(34) Từ đó, những người hoạt động cách mạng ở Trung Hoa thiếu người lãnh đạo, dần dần ngả về theo nhóm cộng sản của Lý Thụy. Chẳng những chỉ một mình Phan Bội Châu, mà những cán bộ cách mạng nào không theo phe Lý Thụy, đều bị Lý Thụy bán tin cho Pháp bắt trên đường về Việt Nam hoạt động.(35)

Trong cuộc tổng khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930, các đảng viên cộng sản áp dụng đúng sách vở của Lý Thụy, rải truyền đơn tố cáo Quốc Dân Đảng sẽ tấn công Bắc Kỳ để Pháp đề phòng và lùng bắt các đảng viên QDĐ. Nguyễn Thị Giang đã đưa các tờ truyền đơn nầy cho Nguyễn Thái Học xem, nhưng Nguyễn Thái Học vẫn không tin là những đảng phái cách mạng Việt Nam cùng chống Pháp lại có thể hại nhau như thế.(36)

Năm 1945, Nhật Bản thất trận và đầu hàng Đồng Minh. Tại hội nghị Potsdam (thị trấn ngoại ô Berlin), đại diện các nước Đồng Minh đưa ra tối hậu thư cho Nhật, trong đó quyết định về vấn đề Đông Dương như sau: quân đội Nhật sẽ bị giải giới do người Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) ở phía bắc vĩ tuyến 16, và do người Anh ở phía nam vĩ tuyến 16. Tối hậu thư không nói ai sẽ cầm quyền sau khi quân đội Nhật bị giải giới. Lợi dụng khoảng trống chính trị nầy, Mặt trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, gồm nòng cốt là đảng viên cộng sản, tổ chức cướp chính quyền. Việt Minh đã giết hại và thủ tiêu vô số người yêu nước không đi theo chủ trương đường lối của Việt Minh. Những tên tuổi lớn đều bị Việt Minh giết hại như Phạm Quỳnh (1945), Ngô Đình Khôi (1945), Tạ Thu Thâu (1945), Bùi Quang Chiêu (1945), Phan Văn Hùm (1945), Trương Tử Anh (1946), Huỳnh Phú Sổ (1947), Khái Hưng (1947)... Việt Minh thủ tiêu hàng loạt các đảng viên Quốc Dân Đảng, các nhà trí thức khác, bà hàng ngàn tín đồ đạo Cao Đài.(37) Việt Minh thủ tiêu tất cả những ai có thể tranh quyền với Việt Minh, từ trung ương, ở các thành phố lớn, đến những đơn vị nhỏ nhất ở các làng xã.

Như vậy, ý nghĩa thứ nhất về việc đoàn kết và liên hiệp đối với Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, là sự sáp nhập hay tiêu diệt tất cả các phe nhóm hay cá nhân đối lập với Cộng Sản bằng bất cứ giá nào, bằng bất cứ phương tiện gì, để chỉ còn lại những ai chịu "đoàn kết" chấp nhận vâng phục cộng sản. Chỉ khi nào thất thế, gặp nhiều trở lực, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản mới sử dụng cách đoàn kết thứ nhì.

* Đoàn kết là tạm thời nhượng bộ, liên minh giai đoạn để vượt khó khăn: Cũng trong năm 1945, sau khi lập chính phủ đầu tiên ngày 2-9, gồm đại đa số đảng viên cộng sản, Hồ Chí Minh gặp nhiều trở ngại về phía người Pháp theo chân người Anh đến Đông Dương, và từ từ tiến ra Bắc; về phía người Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) đang từ biên giới tiến xuống Hà Nội theo thỏa ước Potsdam; và về phía những đảng phái cách mạng Việt Nam như Việt Nam Quốc Dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách). Hồ Chí Minh đành phải nhượng bộ, tuyên bố giải tán đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 11-11-1945, thực chất là đảng Cộng Sản rút vào hoạt động bí mật.(38) Họ Hồ tổ chức tổng tuyển cử ngày 6-1, và thành lập chính phủ liên hiệp ngày 2-3-1946 gồm cả những lãnh tụ Việt Cách và Việt Quốc như Nguyễn Hải Thần, Trương Đình Tri, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Chu Bá Phượng, Nghiêm Kế Tổ ... Ngay sau khi ký kết được với Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3, tạm hòa hoãn với Pháp, và mua chuộc được các tướng lãnh Trung Hoa để họ rút quân về nước, nghĩa là vừa thoát qua được khó khăn, Hồ Chí Minh thẳng tay loại bỏ ngay các lãnh tụ không phải là Việt Minh ra khỏi chính phủ, khủng bố, giết hại nhân viên các đảng phái quốc gia, nuốt chửng những kẻ đã từng liên hiệp với họ.

Sách lược nầy được ứng dụng thêm một lần nữa với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thành lập ngày 20-12-1960. Lúc đầu, mặt trận nầy gồm một số đảng viên cộng sản làm nòng cốt và một số người chống chế độ Ngô Đình Diệm. Sau đó, những người không thuộc đảng Cộng Sản bị loại dần cho đến khi mặt trận chỉ còn lại những người của Cộng Sản Đảng mà thôi.

Những người trước đây bất đồng chính kiến, nhưng khi gặp Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, chịu khuất phục và chịu đi theo họ Hồ thì được sử dụng trong những giai đoạn và hoàn cảnh cần thiết. Ví dụ Trần Huy Liệu (1901-1969), chủ bút Đông Pháp Thời Báo (1925-1927), chi bộ trưởng chi bộ đặc biệt của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Sài Gòn, bị Pháp bắt đày Côn Đảo trong năm năm. Mãn hạn tù, ông ra bắc năm 1935 và gia nhập đảng Cộng Sản năm 1936. Năm 1939, ông bị Pháp bắt trở lại, đày đi Sơn La, rồi an trí năm 1942 ở Thái Nguyên, và Yên Bái. Năm 1945, ông trốn về Hà Nội làm báo Cứu Quốc của Việt Minh trong vòng bí mật. Khi Việt Minh cướp chính quyền ngày 2-9, ông được Hồ Chí Minh giao làm bộ trưởng bộ Tuyên Truyền trong chính phủ Việt Minh đầu tiên. Ông được cử làm trưởng phái đoàn Việt Minh gồm cả Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận (tức nhà thơ Huy Cận) vào Huế chứng kiến việc thoái vị của vua Bảo Đại tại cửa Ngọ Môn ngày 30-8-1945.
Hồ Chí Minh giao Trần Huy Liệu làm bộ trưởng bộ Tuyên Truyền không phải vì tín nhiệm Trần Huy Liệu mà vì họ Hồ cần uy tín chính trị của ông. Trần Huy Liệu vốn là chi bộ trưởng chi bộ đặc biệt Quốc Dân Đảng tại Sài Gòn. Hồ Chí Minh sử dụng Trần Huy Liệu để tuyên truyền cho cái gọi là chính sách đoàn kết đảng phái của Việt Minh, nhắm lôi cuốn quần chúng theo họ, nhất là lôi cuốn các đảng viên Quốc Dân Đảng. Lúc bấy giờ do những hy sinh to lớn của Nguyễn Thái Học và các đồng chí, Quốc Dân Đảng rất có uy tín chính trị trên toàn quốc. Khi đã qua khỏi giai đoạn cần thiết, năm 1946, Hồ Chí Minh cử Trần Huy Liệu làm uỷ viên thường trực Quốc Hội. Cuối cùng, năm 1953, Trần Huy Liệu trở thành trưởng ban Nghiên cứu Sử Địa của nhà cầm quyền cộng sản, một chức vụ không có quyền hành.

Không chỉ riêng trường hợp Trần Huy Liệu, mà còn nhiều nhân vật tiếng tăm khác cũng rơi vào trường hợp ông, như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Anh, Nguyễn Phương Thảo (tức tướng Nguyễn Bình), Nguyễn Hữu Thọ... Như thế, ý nghĩa thứ nhì của việc đoàn kết với Hồ Chí Minh có nghĩa là quy thuận họ Hồ, theo đuôi đảng Cộng Sản và làm bù nhìn trong những thời điểm cần thiết cho họ Hồ hay nói cách khác là chỉ được họ Hồ liên minh giai đoạn. Thử kiểm điểm danh sách những lãnh tụ cộng sản từ trước đến nay, chỉ những người gia nhập đảng Cộng Sản ngay từ khi bước vào hoạt động chính trị, thuộc thành phần trung kiên mới nắm giữ thực quyền. Những người đã theo các đảng khác rồi sau đó gia nhập đảng Cộng Sản, hoặc những người ngoài đảng mà có công lao, chỉ giữ những chức vụ tượng trưng mà thôi, như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình ...

* Đoàn kết là sự vâng phục tuyệt đối lãnh đạo đảng: Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời tại Hà Nội. Trong di chúc, Hồ Chí Minh nhắn nhủ với các đảng viên đảng Cộng Sản: "...Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình..."(39) Vậy sự "đoàn kết nhất trí" trong nội bộ đảng là gì?

Trong sinh hoạt đảng Cộng Sản Việt Nam, khi các cấp lãnh đạo đưa ra những vấn đề thảo luận, nếu một đảng viên trình bày những ý kiến cấp tiến mới mẻ, thì được lãnh đạo gọi là "thành phần xét lại". Ngược lại, có những đảng viên không muốn thực hiện các cuộc cải đổi quan trọng, thì được đánh giá là "bảo thủ, trì trệ". Nói một cách khác, bất cứ ai có ý kiến gì cũng đều bị chụp mũ là tả khuynh hoặc hữu khuynh, lệch lạc hoặc xét lại, trừ ý kiến của lãnh đạo đảng. Đảng viên chỉ còn một giải pháp duy nhất là gật đầu vâng lệnh thượng cấp.

Như vậy, sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ đảng Cộng Sản Việt Nam là sự tuyệt đối vâng phục và trung thành của đảng viên đối với lãnh đạo đảng. Nếu không vâng phục lãnh đạo đảng, kết quả nhẹ nhất là sự trù dập, kỷ luật, và nặng nhất là thanh trừng.

Ở Việt Nam có một câu thành ngữ thời danh minh họa sự đoàn kết của Cộng Sản: "Đảng gọi thì dạ; đảng không gọi thì không dạ. Đảng gọi mà không dạ không được; đảng không gọi mà dạ cũng không được." Nói trắng ra, ý nghĩa thứ ba của sự đoàn kết theo quan điểm của đảng Cộng Sản có nghĩa là phải chịu sự lãnh đạo độc tài, độc đảng, và tuyệt đối vâng phục trung kiên với đảng Cộng Sản. Điều nầy đưa đến một kết quả tại hại là các đảng viên bị xơ cứng trí óc, sẽ không còn sáng kiến để làm việc.

Điểm đặc biệt là Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản chấp nhận một người trước đây chống đối họ, nhưng khi đã theo họ thì phải vâng phục tuyệt đối. Ngược lại, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản không bao giờ chấp nhận những người trước đây đã từng hoàn toàn phục tùng họ, mà sau đó lại có ý muốn cải cách theo chiều hướng nhân bản, dân chủ, tự do, dù vẫn tuân phục đảng và chủ nghĩa xã hội. Những người nầy cũng bị coi là kẻ thù và chắc chắn bị loại bỏ. Đó là trường hợp Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Trần Độ, Hà Sĩ Phu, Dương Thu Hương ...

Có lẽ cũng nên thêm một điểm nữa rất dễ thấy trong lịch sử, là đảng CSVN không bao giờ tôn trọng những hiệp ước quốc tế do họ ký kết. Hiệp ước là giải pháp thỏa thuận giữa các bên về một cuộc tranh chấp, cũng có nghĩa là một sự giải hòa giữa các bên, bước đầu để tiến dần dần đến sự đoàn kết thống nhất. Đối với đảng CSVN, ký kết hiệp ước chỉ là đánh lừa dư luận, tạm ngưng tranh chấp, nhắm dưỡng sức và củng cố nội bộ, để rồi tiếp tục bành trướng. Ví dụ rõ nét nhất là hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và hiệp định Paris ngày 27-1-1973. Đảng CSVN ký kết hai hiệp ước nầy với sự chứng kiến của các nước trên thế giới, mà họ còn trắng trợn vi phạm, xé bỏ hiệp ước, huống gì là sự cam kết giữa họ với những cá nhân hay những đoàn thể người Việt khác.

Do đó, hòa giải, liên hiệp và đoàn kết với cộng sản trước sau cũng sẽ bị cộng sản kiếm cách khống chế và hoàn toàn mất tự do. Những ai muốn hòa hợp, liên hiệp, đoàn kết với cộng sản, nên nhớ câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh với Daniel Guérin trong một lần gặp mặt ở Paris: "... Tất cả những ai không theo đường lối của tôi đều sẽ bị bẻ gãy..."(40)

* Đoàn kết là vắt chanh bỏ vỏ: Lúc Việt Minh cộng sản phát động chiến tranh chống Pháp, nhiều người yêu nước đã đứng lên hưởng ứng công cuộc kháng chiến. Chẳng những nhiều thanh niên lên đường theo tiếng gọi của quê hương, mà những người ở lại hậu phương cũng cố gắng đem tài vật ủng hộ công cuộc đấu tranh chống Pháp. Việt Minh đã xưng tụng những người nầy là những nhàø "hằng tâm hằng sản"(có lòng và có của). Một khi tạm đứng vững, và nhất là khi được Trung Cộng viện trợ ào ạt từ năm 1951 trở đi, cộng sản Việt Nam mở cuộc cải cách ruộng đất từ 1953, và quay mặt với những kẻ đã nuôi dưỡng mình từ khi còn trứng nước, coi họ như kẻ thù, tố cáo những nông dân " hằng tâm hằng sản" là địa chủ, đánh đập, hành hạ và giết họ mà không cho chôn xác. Một tác giả đã từng sống gần Hồ Chí Minh, kể lại rằng bà Nguyễn Thị Năm ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên có nhà là nơi căn cứ giao liên, đã nuôi nhiều cán bộ cao cấp qua lại, từ Hồ Chí Minh, đến Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Quốc Việt (Hạ Bá Cang); thế mà bà là một trong những người đầu tiên bị đấu tố trong cải cách ruộng đất, và đặc biệt đã kêu cứu đến tận tai Hồ Chí Minh mà ông lờ đi, để cho người ta giết bà.(41) Như vậy, với cộng sản, đoàn kết có nghĩa là lợi dụng một chiều theo giai đoạn, xong việc rồi "vắt chanh bỏ vỏ". Việc "vắt chanh bỏ vỏ" được thấy rõ nhất trong việc Hồ Chí Minh đối xử với bà Nông Thị Xuân. Hồ Chí Minh sống với bà Xuân như vợ chồng, và có với bà nầy một đứa con trai. Khi đã chán bà Xuân, ông Hồ để cho viên bộ trưởng công an là Trần Quốc Hoàn tự do hiếp dâm bà Xuân, rồi giết vứt xác bà Xuân ngoài đường để ngụy tạo một tai nạn.(42) Đối xử với người đã từng sống với mình và có với mình một đứa con, mà còn tàn bạo như vậy, thử hỏi Hồ Chí Minh còn có thể nói là chuyện tình nghĩa đoàn kết với ai được? Từ vụ cải cách ruộng đất năm 1953 đến vụ án "chống đảng" do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ khởi xướng ở Bắc Việt khoảng giữa thập niên 1960, vì muốn bảo vệ địa vị của riêng mình, Hồ Chí Minh đã im tiếng không can thiệp, để mặc cho các đồng chí thân thiết của ông ta bị thanh trừng, tù đày, hay tàn sát.(43) Chẳng những Hồ Chí Minh, mà Võ Nguyên Giáp cũng thế. Những tướng lãnh và sĩ quan thân cận của viên tướng nầy lần lượt bị thanh trừng mà ông ta không dám lên tiếng để bảo vệ sự thật. Như vậy, chẳng những trên phương diện chính trị đảng phái, mà cả trên phương diện cá nhân, đoàn kết với những người cộng sản chỉ có nghĩa là để cho họ lợi dụng xong rồi bị loại bỏ.

CHÚ THÍCH:


33. Hồ Chí Minh đưa ra khẩu hiệu nầy trong hội nghị ngày 3-3-1951, hợp nhất hai mặt trận của đảng Cộng Sản là Mặt trận Việt Minh và Mặt trận Liên Việt. (BNCLSĐ, sđd. tr. 110.)
34. Thượng Huyền, "Giới thiệu sách: Hồ Chí Minh tại Trung Quốc" [của tác giả Tưởng Vĩnh Kinh, người Đài Loan], nguyệt san Thế Kỷ 21, Garden Grove, California, số 108, tháng 4-1998.
Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại tập 2:1925-1945, Nxb. Văn Hóa, Houston, tt. 32-33. Charles Fenn, Ho Chi Minh: a biographical introduction, Studio Vista, London, 1973, tr. 50; phần chú thích, trích dẫn P. J. Honey viết trên báo Time ngày 12-9-1971.
35. Ngoài các tài liệu trong chú thích số 34, xin lưu ý câu chót của Trần Trọng Kim trong trích dẫn ở chú thích số 22 làm ví dụ.
36. Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, tái bản kỳ 2, Sài Gòn, 1970, tr. 108.
37. Trong Bạch thư Cao Đài giáo công bố San Bernardino ngày 9-4-1999, vị đại diện Cao Đài giáo Ngọc Sách Thanh cho biết rằng tại tỉnh Quảng Ngãi, chỉ trong ba tuần lễ kể tứ 19-8-1945, Việt Minh sát hại và chôn sống 2791 chức sắc, chức việc, và tín hữu Cao Đài giáo.
38. Cộng sản thay thế đảng Cộng Sản Đông Dương bằng hội Nghiên Cứu Mác-xít do cựu tổng bí thư đảng Lao Động là Trường Chinh Đặng Xuân Khu làm chủ tịch. Trong cuộc gặp gỡ Stalin năm 1950 tại Moscow, trả lời câu hỏi của Stalin tại sao giải tán đảng Cộng Sản, Hồ Chí Minh giải thích rằng việc giải tán đảng Cộng Sản cuối năm 1945 chỉ là giải tán giả, trên thực tế là đảng lùi vào hoạt động bí mật. (Thành Tín, Mặt Thật, tt. 67-68.) Sau cuộc gặp nầy trở về, Hồ Chí Minh tái tổ chức đảng dưới một danh xưng mới là đảng Lao Động ngày 19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm tổng bí thư.(Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, 1939-1975 (tập B: 1947-1954), Nxb. Văn Hóa, Houston, 1997, tr. 230.)
39. BNCLSĐ, sđd. tr. 170.
40. Jean Lacouture, Ho Chi Minh, Peter Wiles dịch từ tiếng Pháp qua tiếng Anh, Nxb. Penguin Books, Harmondsworth, 1969, p. 130. Nguyên văn: "All those who do not follow the line which I have laid down will be broken." Linh mục Cao Văn Luận, trong sách Bên giòng lịch sử Việt Nam, 1940-1975, Tantu Research, Sacramento, California, 1983, tt. 60-61 có tường thuật lại đầy đủ buổi tiếp tân ngày 25-6-1946 tại Paris, trong đó Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến trên đây. Lúc đó, họ Hồ qua Pháp theo phái đoàn Việt Nam do Phạm Văn Đồng dẫn đầu tham dự hội nghị Fontainebleau. Trong cuộc tiếp tân nầy, có một số người Việt tham dự, trong đó có linh mục Cao Văn Luận.
41. Vũ Thư Hiên, sđd. tr. 222.
42. Vũ Thư Hiên, sđd. tr. 607.
43. Một trong những nạn nhân nổi tiếng trong vụ nầy là ông Vũ Đình Huỳnh, người cộng tác thân tín của ông Hồ, phụ thân của tác giả Vũ Thư Hiên, đã được ông Hiên trình bày câu chuyện bạc đãi xuyên suốt trong tác phẩm Đêm giữa ban ngày.

*
* *

6. HUYỀN THOẠI "TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH"

Sau năm 1975, Việt Nam suy sụp dần dần với chính sách kinh tế chỉ huy và sự cai trị hà khắc của chế độ cộng sản. Cao điểm của sự suy sụp là việc ông Đỗ Mười, uỷ viên bộ Chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam, chỉ huy cuộc cải tạo công thương nghiệp miền Nam, thực chất là đánh "tư sản" năm 1978, ngăn sông cách chợ, cấm cản tiểu thương, đày ải dân thành thị đến các vùng hoang địa, cưỡng bách lao động trong những công tác thủy lợi thiếu nghiên cứu, tung quân xâm lăng Campuchia, chỉ để tránh sức mạnh của người dân trong nước. Dân chúng đói khổ ta thán, tinh thần cán bộ đảng viên sa sút theo.

Để kiếm cách tuyên truyền cổ võ dân chúng hưng phấn trở lại, nhà nước cộng sản Hà Nội đánh bóng hình tượng Hồ Chí Minh, đã chết từ năm 1969 trước khi miền Nam bị cưỡng chiếm. Họ tổ chức cuộc "rước đuốc bác Hồ" xuyên Việt, từ lăng mộ Hồ Chí Minh ở Hà Nội lên các tỉnh miền núi Bắc Việt, và quan trọng nhất là từ Hà Nội tiến xuống các tỉnh phía Nam vào khoảng tháng 10-1980, giống như kiểu rước đuốc của nhà độc tài Hitler năm 1933 ở Nuremberg (Đức).

Ánh đuốc bập bùng lung linh gây không khí huyền hoặc theo nghi lễ cổ xưa cũng không làm tan đi băng giá lạnh lùng trong tâm hồn dân chúng Việt Nam đã triền miên khổ đau vì nạn độc tài cộng sản. Càng về nam, dân chúng càng ít hưởng ứng, nên sau chặng đường từ Tuy Hòa vào Nha Trang thì cuộc rước đuốc tan rã. Dân chúng cần cái ăn cái mặc, chứ không phải là những lời nói suông. Vì không xuống quá Nha Trang, do đó ở Sài Gòn và trong nam, dân chúng ít nghe biết chuyện rước đuốc nầy.

Năm 1989, Đông Âu bắt đầu biến động và thoát khỏi đế quốc Liên Xô. Sau đó đến lượt Liên Xô, chiếc nôi của Cộng Sản Quốc Tế, sụp đổ năm 1991. Khẩu hiệu chiến lược hàng đầu mà đảng Cộng Sản Việt Nam thường sử dụng: "Chủ nghĩa Mác - Lê bách chiến bách thắng" không còn hiệu nghiệm. Đảng CSVN lâm vào tình trạng lúng túng, không biết làm sao tiếp tục tuyên truyền với đảng viên và dân chúng, vì nói rằng chủ nghĩa Mác-Lê bách chiến bách thắng, nay sao lại sụp đổ tan tành chóng vánh ngay tại quê hương của Lenin? Đảng CSVN vội quay qua cầu cứu Hồ Chí Minh lần nữa, đưa thêm "tư tưởng Hồ Chí Minh" tiếp theo sau chủ nghĩa Mác Lê, nghĩa là từ nay nền tảng của ý thức hệ cộng sản Hà Nội là chủ nghĩa Mác xít - Lê nin nít và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó mới xuất hiện chuyện "tư tưởng Hồ Chí Minh". Điều 4 chương 1 hiến pháp năm 1992 của cộng sản Hà Nội chính thức công khai việc nầy.(56)

Tưởng cũng nên thêm ở đây, khi Liên Xô sụp đổ, ở Hà Nội việc duy trì xác ướp Hồ Chí Minh gặp khó khăn cả về kỹ thuật lẫn tài chánh. Người ta đã nghĩ đến việc thiêu xác ông ta. Việc nầy đã được báo chí và đài phát thanh nói đến, nhưng do nhu cầu chính trị cần nêu cao "tư tưởng Hồ Chí Minh", nên Hồ Chí Minh vẫn còn được nằm trong ngôi mộ đồ sộ ở Hà Nội với sự cố vấn của các chuyên gia Nga.

Hồ Chí Minh từ trần ngày 2-9-1969, nhưng Lê Duẩn và bộ chính trị đảng CSVN sợ xui xẻo vì trùng với ngày quốc khánh của Hà Nội, đã sửa đổi ngày chết là 3-9, và sửa đổi luôn cả chúc thư của Hồ Chí Minh.(57) Đồng thời đảng CSVN xây dựng nấm mồ Hồ Chí Minh thật đồ sộ, tốn kém, gọi là lăng theo từ ngữ vua chúa thời quân chủ, nhắm lợi dụng huyền thoại và nấm mồ bề thế Hồ Chí Minh để uy hiếp tinh thần dân chúng, và tạo hào quang cho những kẻ kế thừa.(58)

"Tư tưởng Hồ Chí Minh" là gì? Không thấy đảng Cộng Sản Việt Nam trình bày một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đại hội tháng 2 năm 1951, Hồ Chi Minh phát biểu: "Về lý luận, đảng Lao Động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin...lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam.". Khi đó, đại biểu miền Nam là Nguyễn Văn Trấn đã trình bày với Hồ Chí Minh rằng: " Có đồng chí còn nói: hay là ta viết "tư tưởng Mao Trạch Đông và tư tưởng Hồ Chí Minh". Ông Hồ trả lời:"Không, tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác- Lê nin."(59) Một lần khác, có người đã hỏi Hồ Chí Minh vì sao ông không viết sách về lý thuyết cộng sản, thì ông trả lời ông không cần viết, vì đã có Mao Trạch Đông viết rồi.(60) Hồ Chí Minh không có tư tưởng gì, nên những kẻ thừa kế tha hồ vẽ vời sáng tác mọi chính sách và gắn cho nhãn hiệu Hồ Chí Minh.

Theo dõi những bài diễn văn, những khẩu hiệu do ông Hồ đưa ra, mọi người đều nhận biết rõ ràng tất cả đều do ông Hồ cóp nhặt từ các nhà tư tưởng văn hóa và chính trị đông tây. Ví dụ bài diễn văn khai sinh chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do ông Hồ đọc ngày 2-9-1945, thường được đảng Cộng Sản gọi là bản "Tuyên ngôn độc lập", hoàn toàn vay mượn của các văn bản Pháp và Mỹ.(61) Mọi người sẽ không lấy làm lạ nếu biết rằng người giúp ông Hồ viết bản văn nầy là một thiếu tá người Hoa Kỳ, Archimedes L. A. Patti.(62)

Trong bài nói chuyện tại lớp học tập chính trị khoảng hơn 3.000 giáo viên cấp 2 và cấp 3 miền Bắc (dạy từ lớp 6 đến lớp 12 trung học), do bộ Giáo Dục tổ chức tại Hà Nội ngày 13-9-1958, Hồ Chí Minh viết: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người ". (Báo Nhân Dân ngày 14-9-1958) Câu khẩu hiệu nầy được sách vở Cộng Sản xem là tư tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh về kế hoạch đào tạo nhân tài cho đất nước, thật ra là câu nói của Quản Trọng các đây hơn hai ngàn năm.(63)

Một trong những khẩu hiệu hàng đầu được xem là tư tưởng Hồ Chí Minh để huấn luyện và giáo dục cán bộ cộng sản là "Chí công vô tư, cầm kiệm liêm chính", thật ra rút từ lời dạy của Nho giáo cũng đã trên 2.000 năm. Với các phạm trù nầy, Nho giáo đã đào tạo không biết bao nhiêu thế hệ quan lại thanh liêm trước đây phục vụ quần chúng. Ngược lại, lời sao chép của Hồ Chí Minh chỉ là cái vỏ bọc che đậy một hệ thống cầm quyền tham ô nhũng lạm từ trên xuống dưới, mà bất cứ người nào ở trong cũng như ngoài nước, kể cả người ngoại quốc đều biết.

Còn việc Hồ Chí Minh bảo rằng "Không có gì quý hơn độc lập tự do", thì mọi người đều đã biết, chính nhờ lợi dụng tinh thần độc lập dân tộc và lòng yêu thích tự do của dân chúng mà Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã đưa dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ cộng sản Nga Hoa.

Nêu lên vài ví dụ trên đây để thấy rằng những điều gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ là sự cóp nhặt danh ngôn của những vĩ nhân thế giới, rồi đề tên họ Hồ vào. Sở dĩ ông Hồ và các thuộc hạ của ông mạnh dạn mượn tư tưởng của người khác làm của riêng ông Hồ, vì từ năm 1954 đến 1975, Bắc Việt sống hoàn toàn bưng bít, không có bất cứ một sách vở xưa cũ hay một phương tiện truyền thông nào đến với dân chúng, ngoài sách đảng, báo đảng, và đài phát thanh đảng. Trong tình hình đó, Hồ Chí Minh muốn cóp nhặt của ai thì tha hồ mà cóp nhặt, không ai biết gì để có thể so sánh. Rủi ro có người nào phát hiện, người đó cũng không dám lên tiếng dưới chế độ độc tài của ông. Ngay cái tên "Nguyễn Ái Quốc", ông Hồ mượn của Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền;(64) và cái tên "Hồ Chí Minh" ông Hồ mượn của Hồ Học Lãm.(65) Chẳng những lấy tên "Hồ Chí Minh" của Hồ Học Lãm, năm 1940, Nguyễn Ái Quốc còn chiếm dụng luôn danh xưng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt Minh do Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần lập ra ở Nam Kinh (Trung Hoa) vào năm 1936 để đánh lừa những người yêu nước Việt Nam và cả chính quyền Trung Hoa để được giúp đỡ.

Theo tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam, Bản án chế độ thực dân Pháp do Nguyễn Ái Quốc đưa ra năm 1922, do chính ông khởi viết từ 1921.(66) Thật ra, Nguyễn Ái Quốc không viết được sách nầy, vì lúc đó ông ta không đủ trình độ Pháp văn để viết sách,(67) và ông ta đã cóp nội dung bài "Đông Dương chính trị luận" của Phan Chu Trinh (đã được Jules Roux, bạn của Phan Chu Trinh, dịch ra tiếng Pháp để gởi cho chính phủ Pháp và Albert Sarraut sắp qua làm toàn quyền Đông Dương). "Bài nầy Quốc chỉ sửa chút ít, viết lại đề tựa khác "Bản án chế độ thực dân Pháp", nhờ luật sư Phan Văn Trường sửa chữa, viết lại nhiều trang, viết lời tựa trước khi in và phổ biến."(68)

Chẳng những ông Hồ "mượn" tư tưởng vĩ nhân thế giới làm tư tưởng của mình, cóp sách của người khác rồi sửa chửa làm sách của mình, ông ta còn mượn luôn thơ của người khác để làm thơ mình. Tác phẩm được coi là nổi tiếng của họ Hồ là Ngục trung nhật ký [Nhật ký trong tù]. Nhà nghiên cứu Lê Hữu Mục đã phân tách tỉ mỉ tác phẩm nầy và đi đến kết luận như sau: "Phần phân tích ở trên chứng thực già Lý là chủ nhân của những bài thơ xây dựng theo kĩ thuật thơ Đường; những bài thơ nầy chiếm hết ba phần tư tác phẩm. Phần còn lại có thể coi là của Hồ Chí Minh. Tôi chỉ nói là có thể vì tôi không khẳng định được rõ ràng bài thơ nào đích thực là của Hồ Chí Minh, bài thơ nào thuộc về các tác giả khác."(69) Từ phát hiện của nhà nghiên cứu Lê Hữu Mục, có lẽ cũng cần nên cẩn án lại cẩn thận những tác phẩm mang tên Hồ Chí Minh có phải thực sự là của ông ta không?(70)

Không biết ông Hồ đã tự cóp nhặt hoặc đạo văn, hay những thuộc hạ của ông muốn tâng bốc ông Hồ, đã cóp nhặt và đạo văn giúp cho ông Hồ. Nếu như thế thì họ đã hại hình tượng Hồ Chí Minh của họ. Tai hại một cách công khai nhất là bộ chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam đã thêm phần "tư tưởng Hồ Chí Minh" sau chủ nghĩa Mác-Lê. Hồ Chí Minh không bao giờ là một nhà tư tưởng, cũng không phải là một lý thuyết gia chính trị. Trong sách Ho Chi Minh, Jean Lacouture đã ít nhất hai lần nói rằng ông Hồ không phải là một lý thuyết gia, dù lúc viết sách nầy Lacouture là một ký giả còn thiên tả.(71) Mọi người đều đã từng nghe nói đến Marxism (Mác-xít), Leninism (Lênin-nít), Stalinism (Xìtalin-nít), Titoism (Titô-ít), Maoism (Mao-ít), nhưng không bao giờ nghe nói đến "Hoism" (Hồ-ít).(72) Ông Hồ thật sự chỉ là một nhà chính trị giỏi thực hành, một chiến thuật gia (tactician), ứng biến mau lẹ, có tài đóng kịch, đặc biệt rất sắc máu và tàn ác dị thường.(73) Việc bộ chính trị đảng CSVN đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, công khai đưa vào hiến pháp, làm cho người ta càng thêm chú ý, và càng để lộ trước mặt mọi người rằng ông Hồ chẳng có tư tưởng nào đặc sắc.(74)

Sau sự sụp đổ của các đảng cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu, bộ chính trị đảng CSVN tưởng rằng thổi phồng huyền thoại "tư tưởng Hồ Chí Minh" nhắm gây hưng phấn dân chúng. Thực chất việc trên đã làm cho chủ nghĩa nầy càng thêm mất ý nghĩa và không quyến rũ được ai. Ngày nay, chủ nghĩa Mác-Lê, và hình tượng Hồ Chí Minh chỉ còn là chiếc phao để đảng Cộng Sản duy trì quyền lực độc đảng độc tài dựa trên bạo lực mà thôi. Trong khi đó, dư luận trong nước cũng như trên thế giới đều lên tiếng hô hào loại bỏ điều 4 hiến pháp 1992, nghĩa là chẳng những loại bỏ đặc quyền tối thượng của đảng CSVN, mà còn loại bỏ luôn chủ thuyết Mac xít - Lê nin nít và cái gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh".

Tóm lại, những huyền thoại về Hồ Chí Minh do ông tự tạo ra, hay do các thuộc hạ của ông dựng nên, đều là những phấn son giả tạo tô điểm hình tượng Hồ Chí Minh.(75) Những huyền thoại nầy một thời đã đánh lừa được một số người Việt Nam và thế giới. Gần đây, trong một cuộc phỏng vấn, sử gia Jean Louis Margolin, giáo sư tại Université de Provence (Pháp), tác giả sách Livre Noir du Communisme [Sách đen chủ nghĩa cộng sản], đã nói: "Thành thật mà nói, vào những năm 60, tôi đã từng xuống đường biểu tình ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tôi đã từng reo mừng với những cuộc chiến thắng tại Cam-bốt cũng như tại Việt Nam. Tôi từng nghe nói đến những vụ tàn sát Tết Mậu Thân 68, nhưng tôi tin và nghĩ rằng đó chỉ là sự tuyên truyền của Mỹ. Không phải chỉ một mình tôi, mà tôi tin rằng rất nhiều người cùng thời với tôi đã bị sai lầm vì những tuyên truyền sai lạc của cộng sản." (76)

Dần dần, dòng sông thời gian đã rửa sạch lớp phấn son giả tạo, làm bay đi những huyền thoại, để lộ ra khuôn mặt thật của Hồ Chí Minh. Phải thẳng thắn thừa nhận rằng Hồ Chí Minh là một nhân vật lớn của lịch sử hiện đại Việt Nam. Ông đã lập nhiều thành tích đáng kể và đáng nể. Những thành tích nầy tốt hay xấu, có lợi hay có hại cho nhân dân Việt Nam, đó là sự phán xét của nhân dân.(77) Lột trần những huyền thoại Hồ Chí Minh là việc làm cần thiết để trả lại cho Hồ Chí Minh, tên thật là Nguyễn Sinh Cung, những gì thật sự là của Nguyễn Sinh Cung.

Trần Gia Phụng

CHÚ THÍCH:

56. Sau đây là nguyên văn điều 4 chương 1 của hiến pháp năm 1992 của chế độ cộng sản Hà Nội: "Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật." (Tài liệu rút từ Internet). Điều 4 nầy chẳng những chính thức xác nhận bên cạnh chủ nghĩa Mác Lênin, "tư tưởng Hồ Chí Minh" là kim chỉ nam hành động của đảng CSVN, mà còn đặt đảng CSVN đứng trên hiến pháp, và mọi quyền hành trong nước đều nằm trong tay đảng CSVN vì "là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội ".
57. Sau đây là nguyên văn của Thành Tín, tức Bùi Tín, trong Hoa xuyên tuyết, tr. 118: "Hồ Chí Minh bắt đầu viết Di chúc từ tháng 5-1965, sau đó cứ vào tháng 5 hằng năm lại viết lại, viết thêm. Cho nên có tới bốn bản Di chúc bổ sung cho nhau. Ông Vũ Kỳ kể chuyện là ngày 2-9-1969, sau khi ông Hồ Chí Minh mất, vào buổi tối, ông Phạm Văn Đồng đến nơi đặt thi hài ông Hồ. Ông Vũ Kỳ đưa ra chiếc phong bì lớn đựng cả bốn Di chúc. Ông Phạm Văn Đồng đưa cả hai tay ra ngăn lại: "Không, tôi không nhận. Đây là chuyện hệ trọng. Để sáng mai, có đầy đủ Bộ Chính trị, đồng chí đưa ra." Sáng 3-9-1969, có đầy đủ Bộ Chính trị, ông Vũ Kỳ đưa ra chiếc phong bì lớn ấy. Ông Lê Duẩn liền cầm lấy rồi gọi ông Hoàng Tùng, Tổng biên tập báo Nhân Dân vào phòng nhỏ bên cạnh. Ông Duẩn tự quyết định chỉ đưa ra một bản, cắt bỏ, sửa chửa vài chỗ rồi giao cho ông Hoàng Tùng công bố..." (Những chữ viết hoa theo nguyên bản.)
58. Chẳng những việc xây lăng và bảo vệ xác ướp rất tốn kém, việc duy trì lực lượng quân sự để bảo vệ lăng cũng vô cùng tốn kém từ 1969 đến nay. Tư lệnh quân đội bảo về lăng là một sĩ quan cấp tướng, với ít nhất hai tiểu đoàn chính quy, và không biết bao nhiêu cảnh sát vừa nổi vừa chìm đứng gác, với một lượng điện và nước tiêu dùng bằng một quận lớn, trong khi dân chúng thiếu thốn.
59. Nguyễn Văn Trấn, Viết cho mẹ & quốc hội, Nxb. Văn Nghệ, California, tái bản năm 1996, tr. 150-152. Theo đoạn văn nầy, trong một cuộc đối thoại ngắn, Hồ Chí Minh hai lần xác nhận mình chẳng có tư tưởng gì ngoài chủ nghĩa Mác-Lê.
60. Oliver Todd, bđd., sđd. tr. 277.
61. Lời mở đầu của bản tuyên bố ngày 2-9-1945:
"Hỡi đồng bào cả nước,
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.
"Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được tự do sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc."
"Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
"Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói:
"Người ta sinh ra tự do bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi."
"Đó là những lẽ không ai chối cãi được..." (Trần Dân Tiên, sđd. tr. 112.)
56. Stanley Karnow, sđd. tr. 138.
57. Quản Trọng: Tên là Quản Di Ngô, năm sinh năm và mất không rõ, sống vào thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên. Ông làm tể tướng, phò Tề Hoàn Công lập bá nghiệp thời Xuân Thu (722-479 tr CN). Ông có công trong cải cách kinh doanh, thuế vụ, được Tề Hoàn Công kính trọng gọi là "Trọng phụ"(cha già), nên người đời gọi là Quản Trọng. Quản Trọng cho hành nghề mãi dâm công khai và đánh thuế, nên ông cũng được thờ là tổ lầu xanh và là thần "Bạch mi" (Lông mày trắng). Tác phẩm để lại: Quản Tử, gồm những tư tưởng triết lý chính trị. Câu của Quản Trọng là: " Nhất niên chi kế tại ư thụ cốc; thập niên chi kế tại ư thụ mộc; bách niên chi kế tại ư thụ nhân" (Kế một năm trồng lúa, kế mười năm trồng cây, kế trăm năm trồng người.) Ban sáng lập viện Đại học Đà Lạt, Việt Nam Cộng Hòa, dùng ý câu nầy làm phương châm "Thụ Nhân" của nhà trường.
58. Nguyễn Thế Anh, bđd., sđd. tr. 29.
59. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Nxb. Văn Hóa, Houston, 1997, tt. 168-169. Lữ Giang, sđd. tt. 110-111. Hồ Học Lãm (? - 1942): Người Quỳnh Đôi, Nghệ An, qua Nhật theo cụ Phan Bội Châu trong cuộc Đông du (1905-1908). Năm 1909, ông bị trục xuất khỏi Nhật, qua Trung Hoa, học khóa 2 sĩ quan Bảo Định Quân, rồi phục vụ trong quân đội Trung Hoa. Trong thập niên 1920, Hồ Học Lãm sống ở Hàng Châu, giao thiệp thân cận với Cường Để, Phan Bội Châu và những nhà cách mạng Việt Nam ở Trung Hoa. Có thể nói ông là gạch nối giữa những nhà hoạt động cách mạng Trung Hoa và Việt Nam. Ông lấy tên Hồ Chí Minh khoảng năm 1937. Tên nầy được Nguyễn Ái Quốc "mượn" dùng lần đầu khoảng cuối 1940.
60. BNCLSĐ, sđd. tr. 29.
61. Tờ trình của viên chánh kiểm soát quân đội và người Đông Dương tại Pháp, gởi toàn quyền ngày 12-9-1923, nói về việc Nguyễn Ái Quốc viết và nói tiếng Pháp như sau: "...Những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc không phải do ông ta viết... Người Việt Nam ấy [Nguyễn Ái Quốc] chưa đủ khả năng nói và viết tiếng Pháp trôi chảy..." (Hứa Hoành, Những phú hộ lừng danh, Nxb. Văn Hóa, Houston, TX, 1999, tr. 226, trích dẫn tài liệu của Đặng Hữu Thụ, Nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền, tr. 124.) Điều nầy hữu lý vì Nguyễn Ái Quốc tức Nguyễn Sinh Cung (hay Côn) học chưa hết năm thứ nhất trường Cao đẳng tiểu học Quốc Học (tương đương với lớp 6 Trung học đệ nhất cấp ngày nay) thì đã bỏ học vào tháng 4-1908.
62. Hứa Hoành, sđd. tr. 224.
63. Lê Hữu Mục, Hồ Chí Minh không phải là tác giả "Ngục trung nhật ký", Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Canada, 1990, tr. 94. "Ông già họ Lý", người bị giam chung với họ Hồ vào đầu thập niên 30 tại khám lớn Victoria ở Hồng Kông.
64. Gần đây, tuyển tập Quốc Học, trường tôi do nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành tại Huế năm 1996 có đăng bài thơ "Tầm hữu vị ngộ" của Hồ Chí Minh. Tuyển tập trên chú giải rằng bài thơ nầy của Hồ Chí Minh gởi cho Võ Nguyên Giáp năm 1954, và "mới được phát hiện". Theo ông Tuệ Quang Tôn Thất Tuệ, trong bài "Ai là tác giả bài Tầm hữu vị ngộ?", tạp chí Hương Văn, California, số 5, 2-1999, tt. 91-96, nếu nói rằng bài thơ nầy của một lãnh tụ (Hồ Chí Minh) tặng cho một ông tướng (Võ Nguyên Giáp), được sáng tác năm 1954, mà sao đến năm 1990 mới phát hiện? Hai người nầy đều là những nhân vật quan trọng đầu não của chế độ Hà Nội, mà sao bài thơ có thể thất lạc một thời gian dài? Ông Tuệ Quang đi sâu vào chi tiết bài thơ và nhận xét: "Tóm lại, bài thơ "Tầm hữu vị ngộ", xét về hình thức lẫn nội dung, không phù hợp với thi cách và khuynh hướng của ông Hồ ".
65. Jean Lacouture sđd. tt. 58, 153: (1) tr. 58: Lacouture trình bày nhận xét của đảng viên cộng sản Pháp Joseph Ducroux, cùng hoạt động với họ Hồ ở Trung Hoa: "He devoted little time to doctrinal wranglings. He was first and foremost a militant, an organizer." (Ông ta ít dành thời giờ để bàn cãi chủ thuyết. Trước hết và trên hết ông là một người tranh đấu, một nhà tổ chức.) (2) tr. 153: "Ho ... has never been a theorist like Truong Chinh." (Hồ ... chưa bao giờ là lý thuyết gia như Trường Chinh.) Từ gần cuối thập niên 60 trở đi, khi chứng kiến chính sách hiếu chiến và tàn bạo của cộng sản, Jean Lacouture mới thấy mình sai lầm, dần dần từ bỏ lập trường thiên tả.
66. Charles Fenn, sđd. tr. 47.
67. Vũ Thư Hiên, sđd. tr. 459. Oliver Todd, bđd., sđd. tr. 276, 295.
68. Gần đây, trên tạp chí Cộng Sản số 24 ra ngày 15-12-1999 có đăng bài "Tư tưởng Hồ Chí Minh với quá trình trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta" của ông Võ Nguyên Giáp, đại tướng hưu trí quân đội cộng sản, được báo Lao Động đăng lại và đưa lên trang Web ngày 20-12-1999. Trong bài nầy, về tư tưởng Hồ Chí Minh, có đoạn ông Võ viết:"Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã có một chuyển biến nhảy vọt về chất, giải phóng dân tộc đã gắn với giải phóng giai cấp, giải phóng con người, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế chân chính."
Phần thời sự báo Nhân Dân [Hà Nội] ngày 19-5-2000 [rút từ Internet], có đăng bài tường thuật hội thảo khoa học tổ chức tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tại Hà Nội với đề tài: "Tư tưởng Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam", do ông Nguyễn Đức Bình, uỷ viên bộ Chính trị, chủ tịch Hội đồng lý luận trung ương, Giám đốc Học viện chính trị, chủ trì cuộc hội thảo. Ngoài ông Nguyễn Đức Bình, còn có các ông Võ Nguyên Giáp, Tố Hữu và các giáo sư, tiến sĩ, các nhà khoa học trong và ngoài học viện với 135 bài tham luận. Sau đây là đúc kết các ý kiến phát biểu của báo Nhân Dân: " Các bản tham luận đều nghiên cứu sâu nhiều khía cạnh như Hồ Chí Minh với giáo dục tư tưởng XHCN; Hồ Chí Minh với văn hóa và khoan dung văn hóa; tư tưởng Hồ Chí Minh với chiến lược con người trong cách mạng XHCN ở Việt Nam; những quan điển cơ bản về chỉnh đốn Đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh; về Nhà nước dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh; sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Hồ Chí Minh biểu tượng tinh thần quốc tế vô sản... và đi đến một nhận định thống nhất: Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, là kết quả sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin để giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam. Đó là hệ thống quan điểm, lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên CNXH ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, là tư tưởng của sự kết hợp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người mà hạt nhân trung tâm là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH."
Như thế, các nhà trí thức xuất sắc của đảng Cộng Sản Việt Nam hội họp tại Hà Nội để xác định một lần nữa rằng "tư tưởng Hồ Chí Minh" dựa trên căn bản học thuyết Mác-Lênin để giải phóng dân tộc...Quanh đi quẩn lại, vẫn không có gì mới mẻ, vẫn chừng đó chuyện, với những từ ngữ hoa mỹ theo kiểu cộng sản. Thật ra, chính Lenin đã dùng chiêu bài giải phóng và độc lập dân tộc, xúi giục các nước bị trị đứng lên chống các nước tư bản đế quốc, vì các các nước tư bản lúc đó là địch thủ của Liên Xô, đồng thời để Liên Xô bành trướng chủ nghĩa cộng sản, hình thành ra một loại đế quốc đỏ mới do Liên Xô lãnh đạo. Cũng vì Hồ Chí Minh đã gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa quốc tế cộng sản nên Việt Nam mới bị chiến tranh triền miên, và bị đói khổ như ngày nay.
Điều đáng ghi nhận là khi sống nhiều năm tại Liên Xô (hai lần) trong các thập niên 20 và 30, Hồ Chí Minh đã chứng kiến rõ việc áp dụng chủ thuyết Mác-Lênin tại Liên Xô đã làm cho dân chúng nước nầy nghèo đói đến mức nào, nhưng vì tham vọng cá nhân, ông ta chẳng những không từ bỏ mà còn quyết đem về áp dụng tại Việt Nam.
69. Sau đây là cuộc đối thoại giữa Oliver Todd và Nguyễn Khắc Viện, một tác giả cộng sản: "Tôi đùa với Viện: "Nếu Hồ không có thực thì chắc ông đã sáng chế ra." Viện cười ha hả: "Lẽ dĩ nhiên, ông nên nhớ rằng nước chúng tôi trước hết là một nước nông nghiệp, chúng tôi thích thần thoại. Huyền thoại và huyền thoại, phải công nhận là huyền thoại do chúng tôi tạo ra thật là hấp dẫn." (Oliver Todd, bđd., sđd. tt. 273-274.) Để hiểu thêm cung cách ngụy tạo huyền thoại của cộng sản, hãy cùng đọc đoạn sau đây của Trần Đăng Khoa. Năm 1998 ở trong nước, Trần Đăng Khoa ấn hành tác phẩm Chân dung và đối thoại, trong đó có bài "Tố Hữu và bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên". Trong bài nầy, Trần Đăng Khoa kể lại rằng, trong một lần nói chuyện, ông ta đã hỏi Tố Hữu: "Thế từ lúc mở màn đến khi kết thúc chiến dịch, anh có lên Điện Biên bao giờ không? " Tố Hữu trả lời:"Không! Nào mình có biết Điện Biên ở đâu mà đi. Đi sao được... Mình hỏi mấy chú đã đến Điện Biên rồi. Hỏi xem ở đấy có những cái gì, mới biết những địa danh như thế đấy chứ, biết cả ở đó có cam, có mơ ... Sau nầy khi viết, mình cứ lôi nó ra, đưa vào thơ, cứ nhét bừa vào... Này, xem ra không thể tin được vào cánh văn nghệ được đâu hỉ. Phịa, toàn là phịa. Chỉ có điều là mình phịa như thật..."
70. Cuộc phỏng vấn do Thanh Thảo thực hiện, nguyệt san Việt Nam Dân Chủ, số 40, California, tháng 1-2000, tài liệu rút từ Internet).
71. Sau đây là nhận xét về Hồ Chí Minh của một sử gia trẻ Hoa Kỳ, Robert Templer, trong một bài báo đăng trên Mercury News, được Trac Nguyen dịch đăng trên Việt Mercury ở California, ra ngày 31-3-2000, dưới nhan đề "Một quan điểm về vụ triển lãm chân dung Hồ Chí Minh": "Ông [Hồ Chí Minh] đã cho ám sát các kẻ thù chính trị, đã phát động những cuộc cải cách điền địa tàn bạo. Ông đã im lìm trong lúc các đồng chí thân thiết bị thanh trừng. Ông đã khởi sự một cuộc chiến tranh sát hại 3 triệu con người. Đối với ông Hồ, con người có thể bị hy sinh; cứu cánh luôn luôn biện minh cho phương tiện."


Thursday, April 23, 2009

Chùa Pháp Âm tại Nam Úc tuyên bố ly khai khỏi GHPGVNTN/HN UĐL TTL

Chùa Pháp Âm tại Nam Úc tuyên bố ly khai khỏi GHPGVNTN/HN Úc Đại Lợi Tân Tây Lan do HT Thích Như Huệ làm Hội Chủ Trì.

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Vùng Bắc Nam Úc
Chùa Pháp Âm
Lot 199 Angle Vale Rd,
Hillier SA 5116, Australia
Tel 08 8284 7764


Thông Báo

Kính thưa quý đồng hương và Phật tử

Sau một cuôc họp mặt và thảo luận giữa đồng hương Phật tử và Ban Trị Sự Chùa Pháp Âm, chúng tôi trân trọng thông báo với đồng hương Phật tử những việc sau đây:

1. Nhận thấy Viện Hóa Đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt (GHPGVNTN) với Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ là Viện trưởng, đã công bố không thừa nhận và không chịu trách nhiệm GHPGVNTN/HN UĐL TTL do HT Thích Như Huệ làm Hội Chủ, vì Giáo Hội nầy bất khâm tuân Giáo chỉ số 9 cùng các Thông Điệp, Thông Bạch, Thông Tư của Hội Đồng Lưỡng Viện và còn tiếm danh của GHPGVNTN.

2. Ngày 9 tháng 9 năm 2008, HT Thích Như Huệ và tập thể thành viên trong GHPGVNTN/HN UĐL TTL đã ký tên trên Tuyên Bố Chung, chánh thức công bố sinh hoạt độc lập, không trực thuộc GHPGVNTN do Đại Lão HT Thích Quảng Độ lãnh đạo, và tỏ ý chống báng với những lời lẽ bất kính.

3. Hoà Thượng Thích Như Huệ đã hợp tác với các giáo hội khác qua việc ký tên thành lập GHPGVNTN Liên Châu tại Sydney ngày 1 tháng 1 năm 2009 để minh định lập trường không trực thuộc GHPGVNTN trong quốc nội do Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo.

4. Nhận thấy lập trường của Người Việt tự do tị nạn cộng sản luôn luôn ủng hộ GHPGVNTN do Đại Lão HT Thích Quảng Độ lãnh đạo trong công việc tranh đấu cho tự do tôn giáo, dân chủ và nhân quyền cho VN.

  • Với những lý do nêu trên, đồng hương Phật tử và Ban Trị Sự của chùa Pháp Âm quyết định:
1. Không chấp nhận liên hệ dưới bất cứ hình thức nào với chùa Pháp Hoa do HT Thích Như Huệ làm Viện chủ.

2. Đặt chùa Pháp Âm hoàn toàn nằm trong sự lãnh đạo của HT Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN trong nước.

Những quyết định trên được áp dụng kể từ ngày ra thông báo nầy.

Lập tại chùa Pháp Âm ngày 6 tháng 4 năm 2009

TM Ban Trị Sự Chùa Pháp Âm
Âu Oanh Liệt

Bản Sao Kính Gởi:

- Hòa Thượng Thích Như Huệ, chùa Pháp Hoa
- Các cơ quan truyền thông, báo chí
- Phòng Thông tin Phật Giáo quốc tế
- Văn Phòng 2 Viện Hóa Đạo
- Hồ sơ - Lưu trữ


Wednesday, April 22, 2009

30 Tháng Tư Năm 1975: Ngày Đau Thương Của Cả Nước - Trần -Tinh Bạch Thái Tường

Trần -Tinh Bạch Thái Tường

Lịch sử nước Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm, biến đổi trong suốt chiều dài lịch sử hơn 4 ngàn năm dựng nước và giữ nước.

Mỗi giai đoạn biến đổi đều có một mốc thời gian nhất định để đất nước chuyển từ trạng huống này sang trạng huống khác, nói một cách rõ hơn là sự thay đổi của một chính thể hay một thể chế.

Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 là một dấu mốc lịch sử, là một bước ngoặc đổi thay cả một thể chế 20 năm Cộng Hoà của miền Nam Việt Nam. Kể từ đó, Cộng sản Việt nam tiến hành cưỡng đặt chính thể Việt nam Dân chủ Cộng hòa trên địa bàn cả nước (sau này đổi thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam, một danh xưng “mỹ miều” của chủ nghĩa Cộng sản).

Đi sâu hoặc phân tích để tìm hiểu cái hay , cái dở của từng chính thể hẳn phải đòi hỏi nhiều thời gian và tài liệu nghiên cứu.

Trong phạm vi của bài cảm nghĩ hôm nay, thử tìm hiểu xem ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày thế nào, hằn chứa những suy tư và ý nghĩa gì ?

Sau khi Tổng Thống (3 ngày) Dương Văn Minh ra lệnh cho toàn thể Quân, Cán, Chính ngưng mọi sinh hoạt để sẵn sàng bàn giao nhiệm sở cho “cái gọi là” lực lượng giải phóng miền Nam Việt Nam (hay theo ngôn từ của Tổng Thống Minh là “người anh em phía bên kia), thì tâm trạng của toàn quân, toàn dân miền Nam Việt Nam đều ngỡ ngàng và uất nghẹn. Sự uất nghẹn và ngỡ ngàng đó thậm chí đã làm cho một số Tướng lãnh, Sĩ quan, Hạ sĩ quan, binh sĩ và Cảnh sát tìm cái chết oanh liệt của họ là tự sát hay cố chiến đấu đến gần hơi thở cuối cùng rồi quay súng tự kết liễu đời mình.

Sau đó, rồi tới những chuỗi ngày tiếp nối, Sĩ quan các cấp (quân đội cũng như cảnh sát), các Hạ sĩ quan thuộc các thành phần nguy hiểm (theo đánh giá của Việt cộng lúc bấy giờ), các vị chỉ huy hành chánh , các cán binh Cộng sản chiêu hồi , các cảnh sát viên đặc biệt bị lùa vào các trại tập trung cải tạo bằng những thông cáo với ngôn từ mập mờ làm cho mọi người hiểu rằng chỉ đi học tập cải tạo 10 ngày (đối với sĩ quan cấp úy trở xuống) và một tháng (đối với sĩ quan cấp tá trở lên).

Về phần dân chúng thì không an tâm, lúc nào cũng nơm nớp về các vụ đấu tố hay tịch biên gia sản. Nên không ai bảo ai, lũ lượt mang các đồ đạc, tiện nghi trong nhà đi bán.

Thế rồi việc gì đến đã đến.

Những người gọi là đi học tập cải tạo đã không phải là 10 ngày hay một tháng mà bằng những thời gian không hạn định rõ rệt. “Các anh cứ học tập tốt, lao động tốt, rồi sẽ được nhà nước khoan hồng cho trở về xum họp với gia đình để xây dựng cuộc sống mới”. Đại để là ở trại tập trung nào, cán bộ quản giáo (bộ đội hay công an) cũng đều đưa ra những “khuyên nhủ” như vậy để vỗ về và trấn an.

Không có gì ngạc nhiên khi có một số anh em đã tìm cách trốn trại. Ai may mắn thì thoát, người xấu xố thì bị bắt lại hay bị bắn chết.Nguyên do chỉ vì học tập mà không biết thế nào là tiến bộ, mà chỉ biết được rằng khi nào được gọi tên thả về đấy là lúc mình đã học tập tiến bộ. (Điều này phù hợp với câu nói của một số cán bộ quản giáo: “Anh nào được nhà nước cho về tức là đã tiến bộ”.)

Thực tế thì đã có một số được cho về sớm không phải vì lý do “học tập tiến bộ” mà vì họ là những chuyên viên kỹ thuật hay những chuyên viên các ngành mà nhà nước cần sử dụng cấp thời để làm việc hay huấn luyện cho các cán binh Cộng sản trong lúc nhu cầu cho các hoạt động cần thiết đòi hỏi.Một số khác về sớm là vì có giây mơ giẫy má với “gia đình cách mạng”, hoặc giả thuộc thành phần sức khoẻ quá nguy kịch (bệnh nặng, hay sắp chết) không tiện lưu giữ trong trại.

Phải thẳng thắn mà nói rằng những sĩ quan , các hạ sĩ quan, các công chức cao cấp cùng thành phần cảnh sát viên đặc biệt, cán binh chiêu hồi, đã bị cầm tù không tuyên án trong các trại tập trung dưới một mỹ từ “cải tạo” để che mắt nhân dân trong nướcvà dư luận thế giới.

Còn về phần dân chúng và gia đình các tù nhân (cải tạo) thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa thì sao ? Nhà nước Cộng sản đã minh định: các gia đình giàu có là những thành phần tư sản mại bản, làm giàu trên xương máu của đồng bào. Còn gia đình của các tù nhân thuộc chế độ cũ là thành phần “ngồi mát ăn bát vàng”, phi lao động.

Do đó, họ (Cộng sản) đã trắng trợn tịch biên gia sản của những người giàu có đồng thời mở ra những buổi học tập ngắn hạn trong các phường, khóm lên lớp và tuyên truyền, thậm chí nếu cần cưỡng bức dân chúng thuộc các đối tượng nêu trên đi các vùng kinh tế mới với lý luận muốn giúp họ tạo dựng một cuộc sống mới tốt đẹp hơn theo đạo đức “xã hội chủ nghĩa”. Sự thật quá tàn nhẫn và đau thương khôn xiết khi những gia đình gọi là “tư sản mại bản” sau khi bị cướp đoạt của cải và nhà cửa đã phải lần lượt theo chân các gia đình tù nhân cải tạo đi về các vùng đất hoang vu “gọi là vùng kinh tế mới” để cuốc đất trồng khoai với những trợ giúp quá hạn hẹp của cơ quan chính quyền. Một số không ít những thương gia trước kia, vì quá uất ức, đã tìm cách quyên sinh để giải quyết nợ đời. Một số không nhỏ các gia đình khác vì không chịu được cảnh thiếu thốn quá cơ cực đã phải tìm cách trở về thành phố hay trôi dạt đến những vùng tương đối dễ kiếm sống hơn.

Chính sách “xây dựng các khu kinh tế mới” nhìn một cách khách quan giống như hình thức trả thù cho bõ ghét đối với một số “thành phần” nhất định của miền Nam Viêt Nam. Một vài chứng minh cụ thể (về sự trả thù) không chối cãi được: đó là, ngay sau khi có mặt tại Sài gòn, Cộng sản đã không ngần ngại sua đuổi các anh thương binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa ra khỏi các quân y viện, bệnh xá ngay lập tức dẫu rằng có thương binh vết thương còn đang rỉ máu chưa kịp được băng bó.

Rồi khi tình hình tạm ổn định, việc học được tiếp tục thì các em thuộc thành phần “gia đình ngụy quân ngụy quyền”thì không được thu nhận vào các trường đại học. Ngay cả, việc xin vào làm việc ở các xí nghiệp, công sở cũng bị phân biệt đối sử.

Cộng sản đã áp dụng guồng máy cai trị kềm kẹp một cách hết sức chặt chẽ qua hình thức “tổ dân phố” dưới sự giám sát của tổ trưởng, tổ phó, công an khu vực. Nhân dân trong mỗi tổ dân phố người người đều có một suy nghĩ tự đề phòng và cảnh giác , chỉ sợ nhỡ ra vô ý, sẽ bị có kẻ tố giác mình thế này, thế nọ.

Sau này, qua sự biến đổi của tình hình thế giới, nhất là sau khi có sự tan rã của chủ nghĩa cộng sản ở các nước Đông Âu và sự sụp đổ của Đế quốc Liên sô (cái nôi của chủ nghĩa cộng sản quái gở), tình hình chính trị ở Việt nam có phần nào thay đổi: dân tình dễ chịu hơn, các tù nhân cải tạo được lần lượt cho về xum họp với gia đình và cùng xuất ngoại sang định cư tại Hoa Kỳ theo chương trình HO (Humanitarian Organization Program) dựa trên sự thỏa thuận giữa hai chính phủ Hoa kỳ và Cộng sảnViệt nam.

Tuy đổi mới theo xu thế của thời đại, nhưng nhân dân Việt nam vẫn bị cai trị, kềm kẹp bởi một tập đoàn lãnh đạo bảo thủ thiếu văn hoá. Bộ máy cai trị từ thượng tầng xuống đến cơ sở gồm đa số các cán bộ có “máu” hủ hoá, quan liêu, cửa quyền nhất nhì Đông Nam Á. Chính những thành phần “sâu dân mọt nước” này đã là những thủ phạm tạo cho Việt nam trở thành một trong những quốc gia nghèo khó nhất với mức thu nhập bình quân của nhân dân vào hạng gần chót trên thế giới.

Việt nam ngày nay đã bị liệt kê là một quốc gia không có dân chủ và nhân quyền. Các tệ nạn tham ô nhũng lạm đã là quốc nạn trên địa bàn cả nước. Cờ bạc, đĩ điếm, xì ke, ma tuý,(kể cả căn bệnh hiểm nghèo AIDS) lan tràn đều khắp từ thành thị xuống đến thôn quê, từ đồng bằng ngược lên miền cao, những thiếu nữ đã phải ngậm đắng nuốt cay liều thân chấp nhận trong các cuộc hôn nhân gượng ép với đàn ông Đài loan, Đại hàn bất kể không tương xứng về gia cảnh, tưổi tác miễn là có ít tiền giúp gia đình trang trải những khó khăn cấp thời. Rồi những công nhân phải chạy đôn chạy đáo hay chấp nhận vay nợ cắt cổ để được xuất ngoại lao động cũng với mong mỏi giải quyết được những khó khăn vật chất của gia đình.

Tập đoàn lãnh đạo đã cố tình hay làm ngơ trước việc những phần da thịt của Tổ quốc Việt nam bị xâm phạm và gậm nhấm dần. Hiện tượng khai thác Bâu xít ở Cao nguyên Trung phần theo sự nhận dịnh và phân tích của các vị thức giả, của các khoa học gia là một hình thức xâm phạm chủ quyền Việt nam một cách dưới chiêu bài “hợp tác” kinh tế và phát triển khoa học. Dù rằng nhà cầm quyền Việt nam có bao biện cách nào đi chăng nữa nhưng nhân dân Việt nam và “những người bàng quang’ trên thế giới đều có một nhận định tương tự: Nước Việt nam đang bị xâm thực.

Nhìn vào hoàn cảnh cụ thể ở Trường sa, Hoàng sa, lãnh hải vịnh Bắc bộ, những Nam quan, Bản giốc nơi biên giới Việt Trung, có phải da thịt Mẹ Việt Nam đang bị Phương Bắc gậm nhấm không ?

Dân tộc ta rõ bị một cổ hai tròng: giặc ngoài thì xâm lấn biển, đất, bên trong thì bị “cường hào ác bá tân thời” cưỡng chiếm ruộng vườn mà khiếu kiệu bao năm cũng chẳng đi tới đâu.

Những tỉ phú đô la Việt nam, những thành phần lãnh đạo Việt nam từ 1975 đến nay hẳn biết rõ hơn ai hết về thực trạng của tổ quốc mình.

Làm một việc so sánh cuộc sống của nhân dân miền Nam giữa hai chế độ: Việt Nam Cộng Hòa trước 1975 và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau 1975 thì rõ ràng cuộc sống trước 1975 tự do, thoải mái hơn nhiều so với cuộc sống hiện tại.

Việt nam ngày nay, nếu chỉ nhìn vào những thay đổi và sinh hoạt nơi phố thị thì sẽ không phủ nhận có nhiều tiến bộ đáng kể. nhưng nếu nhìn dưới một lăng kính tổng thể, nghĩa là “đi sâu đi sát” vào quần chúng, phónh tầm nhìn vào những hang cùng ngõ hẻm “vùng xôi đậu” của thành thị, tỉnh lỵ hay xa hơn nữa nơi các làng mạc xã ấp vùng ngoại ô, vùng đồng bằng , chốn cao nguyên hay những nơi xa chốn đô hội thì người trung thực sẽ khách quan đánh giá : sự phồn vinh hiện hữu chỉ là giả tạo giữa hai bức tranh tương phản “thành thị và thôn quê”. Cái sự thay da đổi thịt nơi chốn phồn hoa không khác gì một thiếu nữ cố trau truốt nhan sắc để thu hút nhãn quan của tha nhân.

Những xa hoa, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật đang diễn ra ở thành phố, thị trấn chỉ có thể hiểu được là phát xuất từ những kẻ giàu tiền lắm bạc, của những doanh gia, của những thế lực cầm quyền, của những con ông cháu cha, của những người tiêu xài vô tội vạ do đô la đổ về từ thân nhân sống tha hương nơi xứ người, chứ không phải từ đại đa số quần chúng nghèo khó sống bữa nay lo bữa mai.

Mọi người dân Việt nam, ở hải ngoại cũng như trong nước, ngoại trừ một số ít vinh thân phì gia, gió chiều nào theo chiều đó (không cần biết ý nghĩa của các chữ “tổ quốc” và “dân tộc” là gì ), thảy đều mong muốn một nước Việt nam có TỰ DO, DÂN CHỦ thực sự, được lãnh đạo bởi những người biết vì dân, vì nước, biết tôn trọng nhân quyền, một lòng một dạ đưa dân tộc đến ấm no, hạnh phúc như dân tộc của các nước tiên tiến trên thế giới.

Ngày nào mà nước Việt nam vẫn còn là một Quốc gia thiếu dân chủ và không có nhân quyền thì nhân dân vẫn coi “30 THÁNG TƯ NĂM 1975 LÀ NGÀY ĐAU THƯƠNG CỦA CẢ NƯỚC”.

Trần -Tinh Bạch Thái Tường