Saturday, April 18, 2009

Hoàng Sa, Trương Sa Là Lãnh Thổ Của VN Từ Lâu Đời Ðã Bị csVN Dâng Bán Cho Tàu Cộng - Mường Giang


Mường Giang

Tháng 7-1954 ngay khi chữ ký trên văn bản ngưng bắn tại Genève chưa ráo mực, thì Hồ Chí Minh đã nghĩ ngay tới chuyện chiếm miền Nam. Do ý đồ trên, Hồ đã gài lại một số lớn cán binh bộ đội nằm vùng khắp lãnh thổ VNCH, khi có lệnh tập kết. Ðể chuyển quân cũng như tiếp tế, Hồ mở con đường chiến lược Trường Sơn trên bộ, xuyên qua lãnh thổ Lào và Kampuchia . Về mặt biển, Hồ thành lập đường 559B giao cho Ðồng văn Cống chỉ huy. Và dĩ nhiên dĩ nhiên, muốn an toàn, đầu tiên là phải nhổ tuyệt hai tiền đồn của QLVNCH trấn đóng trên quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, đất đai thuộc lãnh thổ từ lâu đời của dân tộc Ðại Việt, đã được tổ tiên bảo toàn từ thời Hậu Lê, Nhà Nguyễn.. nằm trong Ðông Hải.

Theo bản tin của UPI-AFB ngày 23-9-1958, được báo chí của Trung Cộng lẫn Việt Cộng đăng tải. Những tài liệu này, hiện vẫn được lưu trữ tại các thư viện quốc tế như Luân Ðôn, Paris, Hoa Thịnh Ðón, Bắc Kinh ... kể cả Hà Nội. Nhờ đó, ta mới biết được, vào ngày 14-9-1958, Phạm Văn Ðồng lúc đó là thủ tướng,theo lệnh của chủ tịch nước và đảng VC là Hồ Chí Minh, đả cam kết với Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Cộng, bằng văn kiện xác quyết như sau ‘ Chính phủ VNDCCH, tôn trọng quyết định, lãnh hải 12 hải lý cũng như hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, là Tây Sa-Nam Sa, của Trung Cộng’. Ngày 22-9-1958, Ðại sứ VC tại Bắc Kinh là Nguyễn Khang, dâng văn kiện xác nhận điều trên, do Phạm Văn Ðồng ký, lên Thiên Triều. Ngay cả khi đã cướp chiếm được hoàn toàn miền Nam VN, vào tháng 5-1976, trên tờ Sài Gòn Giải Phóng của VC nằm vùng Ngô Công Ðức, Lý Quý Chung.. vẫn còn đăng lời xác nhận của đảng VC, là Hoàng Sa-Trường Sa là của Trung Cộng. Khôi hài hơn, VC nói, vì ta và Tàu sông liền sông, núi dính núi, nên Hoàng Sa-Trường Sa, của ai cũng thế thôi, nên VC muốn lấy lại đảo,lúc nào Trung Cộng vẫn sẵn sàng giao trả ‘. Luận điệu trên, rõ ràng VC đã xác nhận VN là thuộc địa của Tàu Cộng. Dù ngày 14-3-1988, VC và Trung Cộng đã giao tranh đẳm máu tại Trường Sa. ngay sau đó, trên tờ Nhân Dân, số ra ngày 26-4-1988, VC vẫn xác nhận sự kiện Hồ Chí Minh bán hai đảo cho Tàu năm 1958 là đúng. Bởi có vậy, Trung Cộng mới viện trợ súng đạn, gạo tiền và cả triệu quân , để VC đánh chiếm VNCH từ 1955-1975.

Theo sử liệu cũng như những di tích còn sót lại tại Quảng Ngãi, đã xác nhận từ thời Các Chúa Nguyễn Ðàng Trong vào giữa Thế Kỷ XVII, đã có Ðội Hoàng Sa với nhiệm vụ bảo vệ hải đảo này. Ðội được tập trung tại Vươn Ðồn, để luyện tập cũng như sửa chữa thuyền bè và nhận lệnh thượng cấp. Trước khi xuất quân, Ðội đến Miếu Hoàng Sa tế lễ. Ðây là một ngôi nhà gồm 3 gian, làm bằng gỗ tốt, lợp tranh dầy, mặt Miếu quay ra cửa Sa Kỳ, trước có 2 cây gạo cổ thụ. Trong Miếu thờ Một Bộ Xương Cá Ông rất lớn. Theo người địa phương, hơn 300 năm về trước, Ông lụy tại Hoàng Sa, nhưng đã được Hải Ðội dìu về đất liền. Sau ba năm chôn cất, những người lính, thỉnh cốt vào thờ trong Miếu . Từ đó về sau, hằng năm vào tháng 6, khi những người lính ,mãn phiên từ Hoàng Sa trở về, dân làng tổ chức cúng lễ tại Miếu, gọi là ‘ Ðánh Trống Tựu Xôi’.

Từ thị xã Quảng Ngãi qua cầu Trà Khúc, bỏ quốc lộ 1 vào quốc lộ 24B, ngang qua Làng Sơn Mỹ dưới chân Núi Thiên Ấn chừng 5 km, thì rẽ vào một con đường đất đỏ, chạy giữa sông Kinh và rừng dương sát biển. Ðó là xã Tịnh Kỳ, thuộc Huyện Sơn Tịnh, nơi khai sinh Hải Ðội Hoàng Sa, khoảng mấy trăm về trước, thời các Chúa Nguyễn, Nam Hà, thuộc Ðại Việt.

Theo Quảng Ngãi địa dư chí, vùng đất này trước năm 1898 thuộc trấn Bình Sơn. Năm Thành Thái thứ 10, tách ra thành 2 Huyện Bình Sơn và Sơn Tịnh.. Sau tháng 8-1945, khu Tịnh Kỳ được hoàn thành bởi ba xã An Kỳ-An Vịnh và Kỳ Xuyên. Xưa vùng này là một cù lao, nằm cách đất liền, phải dùng ghe vào các bến Mỹ Khê, Chợ Mới, Sa Kỳ hay xa hơn là Thị Xã Quảng Ngải và các Thị Trấn Ba Gia, Ðồng Ké, Sông Vê, Ba Tơ.

Từ năm 1993, qua việc xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất nên hải cảng Sa Kỳ đã được mở rộng, đồng thời với con đường , chạy từ cầu Khê Kỳ, qua Cửa Lở tới Kỳ Xuyên. Có lẽ do địa thế sông nước bao quanh, nên từ mấy trăm năm về trước, Các Vị Chúa Nguyễn đã chọn An Vĩnh làm căn cứ , đặt Hải Ðội Hoàng Sa, với nhiệm vụ bảo vệ hải đảo, cũng như khai thác các tài nguyên ngoài Ðông Hải. Ðình làng An Vĩnh trước đây rất đồ sộ, là nơi Xuân thu nhị kỳ cúng tế những người lính Hoàng Sa, nay đả đổ nát chỉ còn lại Chiếc Cổng Tam Quan. Ðiều này đủ để minh chứng với thế giới, việc Quần Ðảo Hoàng Sa-Trường Sa là lãnh thổ lâu đời của Ðại Việt. Người Tàu chỉ ỷ vào sức mạnh cũng như lợi dụng tờ văn khế bán nước của Phạm Văn Ðồng năm 1958 nhưng trên hết là sự đồng thuận của CSVN, để cướp chiếm lảnh thổ nước ta, như sau này chúng đã làm tại biên giới Việt Trung, Biển Ðông, Quần Ðảo Hoàng Sa-Trường Sa và mới nhất là Cao Nguyên Nam Trung Phần qua cái gọi là khai quặng Bau-xít.

Ở đây, hiện còn nhà thờ Cai Ðôi Phạm Quang Ánh, là người được Vua Gia Long cử ra Hoàng Sa năm 1815, đo đạc, khảo sát lộ trình và tổ chức Hải Ðội. Ông được nhà Nguyễn phong chức Thượng Ðẳng Thần khi mất. Tóm lại, từ thời các Chúa Nguyễn (1558-1783), nhà Tây Sơn (1788-1802), Nhà Nguyễn (1802-1945), đã có Hải Ðội Hoàng Sa. Ðặc biệt, năm 1836, Minh Mạng thứ 17, quần đảo Paracel hay bãi cát vàng, được Công Bộ, đặt tên là ‘ Bản Quốc Hải Cương Hoàng Sa Xứ, Tối thị Hiểm Yếu’.

Từ năm 1954, Hoàng Sa là một đơn vị hành chánh thuộc tỉnh Quảng Nam-VNCH, được Tiểu Ðoàn 1/TQLC bảo vệ. Từ năm 1959 tới 1974, Ðảo do các Ðơn Vị DPQ/Quảng Nam trú đóng. Quần Ðảo Trường Sa ở phía Nam, cũng là một đơn vị hành chánh , của tỉnh Phước Tuy và do DPQ của tỉnh này bảo vệ, cho tới ngày 30-4-1975. Hai quần đảo trên luôn được Hải Quân VNCH yểm trợ, tiếp ứng và canh chừng cho tới đầu tháng 1-1974, Hoàng Sa mới mất vào tay Tàu đỏ sau một trãn Hải Chiến kinh hoàng tại Biển Ðông giữa QLVNCH và Trung Cộng.

1. QUẦN ÐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA CỦA VN:

Về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, theo chính sử cũng như những tài liệu của ngoại quốc như Ðại Nam thực lục, Ðại Nam nhất thống chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn, Hoàng Việt địa dư chí thời vua Minh Mạng, Quảng Ngãi tỉnh trí của các Tuần Vũ Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Ðình Chi, Quảng Ngãi nhất thống chí của Lê Ngại.đều đề cập tới và xác nhận đó lãnh thổ lâu đời của Ðại Việt. Với các tác phẩm ngoại quốc, có nhiều thiên ký sự của các giáo sĩ Thiên Chúa trên tàu Amphitrite, viết năm 1701, của Ðô Ðốc Pháp tên là D’Estaing viết năm 1768 rằng :’ Sự giao thông giữa đất liền và các đảo Paracel (Hoàng Sa) rất nguy hiểm, khó khăn nhưng Người Ðại Việt chỉ dùng các thuyền nhỏ, lại có thể đi lại dễ dàng.’ Nhưng quan trọng nhất, là tác phẩm viết về Hoàng Sa của Ðổ Bá tự Công Ðạo, viết năm Chính Hòa thứ 7 (1686), trong đó có bản đồ Bãi Cát Vàng :’ Ðảo phỏng chừng 600 dặm chiều dài và 20 dặm bề ngang. Vị trí nằm giữa cửa Ðại Chiêm và Quyết Mông. Hằng năm vào cuối mùa đông, các chúa Nguyễn Ðàng Trong, cho Hải Ðội Hoàng Sa gồm 18 chiến thuyền đến nơi tuần trú.’ Năm 1776, trong tác phẩm ‘ Phủ Biên tạp lục’, Lê Quý Ðôn đã viết một cách rõ ràng: ’Trước đây, các Chúa Nguyễn đã đặt Ðội Hoàng Sa 70 suất, tuyển lính tại Xã An Vĩnh, cắt phiên mỗi năm vào tháng 2 ra đi, mang theo lương thực 6 tháng. Dùng loại thuyền câu nhỏ, gồm 5 chiếc, mất 3 ngày 3 đêm, từ đất liền tới đảo.’

Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ của VN ngay khi người Việt từ đàng ngoài tới định cư tại Phủ Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi vào khoảng thế kỷ thứ XV sau tây lịch. Hai qua72n đảo trên nằm ngoài khơi Ðông Hải : Hoàng Sa ở phía bắc và Trường Sa nằm về cực nam gần Côn Ðảo.

+ QUẦN ÐẢO HOÀNG SA

Nằm giữa hai kinh tuyến đông 111-112 độ và vĩ tuyến bắc 15 độ 45 - 17 độ 05. Ðây là một chuổi đảo gồm 120 hòn lớn nhỏ nhưng qui tụ thành bốn nhóm chính. Muốn tới đảo, nếu khởi hành từ Ðà Nẳng, bằng tau của Hải quân phải mất 10 giờ (chừng 170 hải lý), theo hướng 083. Bốn nhóm đảo chính là :

- NHÓM NGUYỆT THIỀM (CROISSANT): gồm các đảo Cam Tuyền hay Hửu Nhật (Robert), hình tròn, diện tích om2032, là đảo san hô nên có nhiều phốt phát. Toàn đảo chỉ có chim hải âu trú ngụ , tuyệt nhiên không có bóng người. Ðảo Quang Hòa Ðông (Duncan), diện tích 0 km2 48, phía đông đảo là rừng cây phốt phát và nhàn nhàn, phía tây toàn san hô là mơi trú ngụ của chim hải âu. Ðảo Quang Hòa Tây (Palon Island) , hình tròn, diện tích 0km241, trên đảo toàn cây nhàn nhàn và phốt phát , đảo toàn san hô chỉ có chim ở. Ðảo Dung Mộng (Drummond) hình bầu dục, diện tích 0km241, toàn đảo chỉ có nhàn nhàn và phốt phát. Giữa đảo có một vùng đất rộng, thời Ðệ 1 Cộng Hòa trước tháng 11-1963, Tiểu Ðoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến trấn đóng tại đây để bảo vệ lãnh thổ. Hiện trên đảo vẫn cò hai ngôi mộ lính VNCH và 3 ngôi mộ cổ khác với mộ bia viết bằng chử Hán.

Trong số này quan trong nhất vẫn là đảo Hoàng Sa (Pattle) có hình chữ nhật, chu vi 2100m, diện tích 0km230. Ðảo nay đã được khai phá từ lâu đời, nên có nhiều công trình kiến trúc như Ðồn quân trú phòng, Sở khí tượng, Hải đăng và cầu tàu để các chiếm hạm Hải quân/VNCH cập bến. Trên đảo có một ngôi miếu cổ thờ Bà Chúa Ðảo và do một Trung đội Ðịa Phương Quân thuộc Tiểu Khu Quảng Nam trấn đóng.

Ðảo Vỉnh Lạc hay Quang Ảnh (Money) nằm biệt lập không thuộc nhóm đảo Nguyệt Thiềm, hình bầu dục, diện tích 0, 50 km2. Trên đảo toàn nhàn nhàn, phốt phát và một loại cây cao trên 5m, có trái như mít. Toàn đảo không có người ở.

Ðảo Linh Côn (Lincoln) cũng năm biệt lập và đã bị Ðài Loan cưởng chiếm vào tháng 12-1946 khi Trung Hoa Dân Quốc, được lệnh LHQ tới đảo giải giới quân Nhật đang trú đóng trên đảo.

- NHÓM TUYÊN ÐỨC (AMPHITRITE): cũng bị Ðài Loan chiếm năm 1946, nằm về phía bắc đảo Hoàng Sa, gồm 16 đảo nhỏ , trong số này quan trong nhất có đảo Phú Lâm (Woody Island) , dài 3700m, rộng 2800m. Trên đảo có nhiều cây ăn trái như dừa, được Nhật Bổn khai thác phốt phát từ thời Pháp thuộc. Năm 1950, Trung Cộng đánh đuổi Tưởng Giới Thạch chạy ra đảo Ðài Loan, chiếm lục địa và luôn các hải đảo của VN, xây phi trường, làm đường xá, lập căn cứ quân sự. Ðây là nơi giặc Tàu phát xuất, tấn công chiếm các đảo của VN sau này.

* QUẦN ÐẢO TRƯỜNG SA:


Gồm chín đảo lớn nhỏ, nằm giữa hải phận của cac nước VN, Phi Luật Tân, Srawak. Trong số này đảo lớn nhất là Trường Sa (Sparley) , dài 700m, ngang 200m, nằm ở kinh tuyến 114 độ 25 và vĩ tuyến 19 độ 10 bắc. Ðảo cấu tạo bởi san hô, có nhiều hải âu trú ngụ, đẻ trứng rất to. Trên đó có nhiều loại cây ăn trái vùng nhiệt đới như dừa, bàng, mù u, nhàn nhàn, rau sam

2. TRUNG CỘNG CƯỚP CHIẾM HOÀNG SA CỦA VN:

Thật sự người Tàu chỉ chú ý tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN từ đầu thế kỷ XX vì dầu hỏa, khí đốt và vị trí chiến lược của hai đảo trên. Sự tranh dành cướp chiếm bắt đầu từ thời VN bị thực dân Pháp đô hộ, vì mất chủ quyền nên không vòm binh lực để bảo vệ lãnh thổ riêng của mình.

- 1907 Tổng đốc Quảng Châu đòi chủ quyền trên đảo Hoàng Sa.
- 1909 Hải quân Nhà Thanh tới Hoàng Sa hai lần, cắm cờ trên đảo và bắn 21 phát đạn đại bác để thị oai.
-Ngày 30-4-1921 chính quyền Quảng Ðông, ký văn thư số 831 tự động sáp nhập quần đảo Hoàng Sa của VN vào đảo Hải Nam nhưng đã bị Triều đình Huế phản đối dữ dội vào năm 1923.
- Năm 1933 , Pháp vì bị báo chí trong nước phản đối dữ dội, nên đã đem hải quân ra đánh đuổi quân Tàu, chiếm lại quần đảo Hoàng Sa, lập đồn binh, cầu tàu, đài khí tượng trên hai đảo chính Hoàng Sa, Trường Sa.
- Tháng 12/1946 Ðài Loan lợi dụng việc giải giới Nhật, đã chiếm đảo Phú Lâm trong nhóm Tuyên Ðức trong quần đao Hoàng Sa. Ðảo này lại lọt vào Trung Cộng khi Mao Trạch Ðông chiếm lục địa Trung Hoa.
- Ngày 4/12/1950 Chu Ân Lai lớn tiếng đòi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN.
- Năm 1956 Trung Cộng lén lút chiếm thêm đảo Linh Côn trong quần đảo Hoàng Sa, đang thuộc chủ quyền VNCH.
- Ngày 21/12/1959 Hải quân VNCH với sự trợ chiến của Tiểu đoàn 1 Thủy Chiến Lục Chiến , đã đánh Tàu Cộng , chiếm lại các đảo Cam Tuyền, Duy Mộng, Quang Hòa trong nhóm Nguyệt Thiềm, bắt giữ 84 tù binh và 5 thuyền binh nguy trang tàu đánh cá. Ngày 27/2/1959 Trung Cộng sau khi thua trận, đã ra thông cáo mạt sát Chính phủ VNCH xâm phạm chủ quyền của Tàu, vì chính Hô Chí Minh cũng như Pham văn Ðồng đã chính thức xác nhận bằng văn kiện, là hai quần đảo trên qua tên Tây Sa, Nam Sa là lãnh thổ của Trung Hoa. Tuy nhiên để giữ hòa khí giữa hai nước, Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đã thả hết số tù binh trên về nước.

Từ ngày 4-9-1958, Trung Cộng vẽ bản đồ mới và tuyên bố lãnh hải của mình là 12 hải lý. Bản tuyên cáo này chỉ có Bắc Hàn công nhận đầu tiên. Tại Bắc Việt, Hồ Chí Minh họp đảng để nhất trí và ban lệnh cho Phạm Văn Ðồng , ký nghị định công nhận ngày 14-9-1958. Ngày 9-1-1974, Kissinger tới Bắc Kinh mật đàm với Mao Trạch Ðông, được cho coi văn kiện mà Phạm Văn Ðồng đã ký xác nhận , hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VNCH, chính là hai đảo Tây Sa-Nam Sa của Tàu. Theo văn kiện và tuyên cáo lãnh hải 12 hải lý, thì chính VNCH đã chiếm đất của Trung Cộng, từ năm 1958, do VC làm chứng và xác nhận. Ðược cơ hội vàng ròng, tên cáo già Kissinger tương kế tựu kế, nhân danh Nixon, bật đèn xanh, cho Mao đánh VNCH, đề thu hồi lãnh thổ.

+ HẢI CHIẾN HOÀNG SA THÁNG 1/1974 GIỮA QLVNCH VÀ TÀU ÐỎ:

Tính đến năm 1974, khi xảy ra trận hải chiến Hoàng Sa, Hải quân VNCH rất hùng hậu với quân số trên 40.000 người (sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ) , phân thành 5 vùng duyên hải và 2 vùng sông ngòi. Hải quân có một hạm đội gồm 83 chiến ham đủ loại. Ðể bảo vệ các sông ngòi, kênh rạch ở Nam phần, Hải quân đã thành lập 4 Lực lượng dặc nhiệm hành quân lưu động, gồm LL tuần thám 212, LL thủy bộ 211, LL trung ương 214 và LL đặc nhiệm 99. Ngoài ra còn Lực lượng Duyên phòng 213, Liên đoàn Tuần giang, 28 Duyên đoàn, 20 Giang đoàn xung phong, 3 Trung tâm Huấn Luyện Hải quân và nhiều căn cứ yểm trợ khắp nơi. Khi xảy ra cuộc hải chiến, Ðề đốc Trần Văn Chơn là tư lệnh Hải quân. Tóm lại Hải quân VNCH rất hùng mạnh trong vùng Ðông Nam Á.

Ngay từ thời thượng cổ , người Tàu luôn kính nể dân Việt vì ‘ họ tuy ở núi mà rất thạo thủy tánh, láy thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa. Ðến thì như gió thoảng, đi thì khó đuổi theo. Tính tình khinh bạc, hiếu chiến, không bao giờ sợ chết và luôn luôn quật khởi với kẻ thù ‘.Bởi vậy suốt dòng lịch sử , Hải quân Việt đã ba lần oanh liệt chiến thắng quân Tàu trên Bạch Ðằng Giang và sông Như Nguyệt. Sau năm 1975, nhiều tài liệu mật nhất là của Mỹ được bạch hóa, trong đó có tương quan lực lượng hải quân giữa Trung Cộng vùng đảo Hải Nam so vớo Hải quân của VNCH thì thua xa và rất yếu. Tình trạng này tới năm 1979 tình trạng quân sự của Trung Cộng vẫn còn lạc hậu, cho nên khi Ðặng Tiểu Bình muốn dạy VC một bài học về quân sự, lại bì thằng đàn em phản bội đá giò lái. Nhưng dù bị Mỹ dùng viện trợ ngăn cản, đâm sau lưng, Hải quân VNCH trong suốt hai mươi năm (1955-1975) , đã anh dũng giữ vững lảnh hải của đất nước một cách gần như trọn vẹn, trước sự dòm ngó tranh dành hải đảo của cac nước Trung Cộng, Ðài Loan, Phi Luật Tân, Mã Lai Á, Nam Dương và Kampuchia..

Sau khi đạt được thắng lợi ngoại giao với Hoa Kỳ qua cặp Nixon-Kissinger, đồng thời với sự đồng lỏa của Việt Cộng, nên giặc Tàu quyết tâm chiếm cho bằng được hai quần đảo ngoài Ðông Hải của VNCH. Dã tâm càng lớn từ năm 1973, sau khi được tin các hảng dầu thăm dò cho biết vùng này có trử lượng rất lớn về dầu khí. Lúc đó VNCH cũng đã bắt đầu ký nhiều hợp đồng, cho phép các hảng dầu tới hai vùng đảo trên khai thác.Thế là ngày 11-1-1974, Trung Cộng lại tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa. Ngày 19-1-1974, bất thần Trung Công tấn công Hoàng Sa, gây nên trận hải chiến, tuy ngắn ngủi nhưng đẫm máu. Trung Cộng dù chiếm được đảo nhưng thiệt hại gấp 3 lần VNCH.

Quần đảo Hoàng Sa thời Ðệ I Cộng Hòa (1955-1963) thuộc tỉnh Quảng Nam. Cũng trong thời kỳ này, chính phủ đã ban hành sắc lệnh số 134/NV ban hành năm 1956, sáp nhập quần đảo Trường Sa, vào tỉnh Phước Tuy. Nghị định số 241/BNV ban hành ngày 14-12-1960, do chính Tổng thống Diệm bổ nhiệm Nguyễn Bá Thước làm Phái viên hành chánh Hoàng Sa. Lại phối trí Tiểu đoàn 1 TQLC trú đóng khắp các đảo, để bảo vệ lãnh thổ VNCH.

Theo sử liệu, trong trận hải chiến này, lực lượng hải quân của Trung Cộng rất hùng hậu vì đã chuẩn bị trước. Thành phần tham chiến gồm : Hộ tống hạm 271 Kronstadt, Ðại Tá Vương Kỳ Uy là hạm trưởng, tử thương. Hộ tống hạm 274 Kronstadt, Hạm trưởng là Ðại Tá Quan Ðức. Ðây cũng là Soái hạm, chỉ huy trận chiến, gồm Tư lệnh là Ðô Ðốc Phương Quang Kính, cũng là Phó tư lệnh của Hạm Ðội Nam Hải. Sau trận đánh, toàn bộ chỉ huy của Trung Cộng trên Soái Hạm này, gồm 2 Ðề Ðốc, 4 Ðại Tá, 6 Trung Tá, 2 Thiếu tá và 7 Sĩ Quan Cấp uý, đều bị trúng đạn đại bác tử thương. Trục lôi hạm 389, hạm trưởng là Trung Tá Triệu Quát tử thương. Trục lôi hạm 396, Hạm trưởng là Ðại Tá Diệp Mạnh Hải, tử thương. Phi Tiễn Ðỉnh 133 Komar, có hỏa tiễn địa điạ Styx, Hạm trưởng là Thiếu tá Tôn Quân Anh. Phi tiễn đỉnh 137 Komar, có hỏa tiễn địa địa Styx, Hạm trưởng là Thiếu Tá Mạc Quang Ðại. Phi tiễn đỉnh 139 Komar có hỏa tiên, Hạm trưởng là Thiếu tá Phạm Quy. Phi tiễn đỉnh 145 Komar có hỏa tiễn, Hạm trưởng là Thiếu Ta Ngụy Như và 6 Hải Vận Hạm chở quân chiến đấu. Ngoài ra còn một lực lượng trừ bị gồm 2 Tuần Dương Hạm, 4 Pháo Hạm, 4 Khu trục Hạm , trang bị hỏa tiễn Kiangjiang, 2 Phi đội Mig 19 và 2 phi đội Mig 21, do tư lệnh Hạm Ðội Nam Hải, tổng chỉ huy.

Bên VNCH, lực lượng tham chiến gồm Khu Trục Hạm HQ4 Trần Khánh Dư, Hạm Trưởng Trung Tá HQ.Vũ Hữu San. Tuần Dương Hạm HQ5 Trần Bình Trọng , Hạm trưởng Trung Ta HQ Phạm Trọng Quỳnh. Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10, Hạm Trưởng Thiếu Tá HQ.Ngụy Văn Thà. Trong khi giao chiến, HQ10 bị trúng đạn, toàn thể thủy thủ xuống xuồng nhỏ, thì Hạm Trưởng ở lại tuấn quốc với chiến hạm. Tuần Dương Hạm HQ16, Hạm Trưởng là HQ.Trung Tá Lê Văn Thư. Về lực lượng trừ bị,, có Tuần Dương Hạm HQ6 Trần Quốc Toản, Hộ Tống Hạm HQ11 Chí Linh và Phi Ðoàn F5-A37, nhưng vì ở cách xa chiến trường, nên khi chưa tới nơi, thì chiến cuộc đã tàn. Riêng Sư Ðoàn 1 Không Quân, không can thiệp.. Kết quả, phía VNCH, các chiến hạm 4,5 và 16 bị hư hại nặng nhưng chạy được về Ðà Nẳng sửa chữa và tiếp tục hoạt động sau đó. Chỉ có Chiến Hạm HQ10 bị chìm, Hạm trưởng Ngụy Văn Thà, bị thương nhưng quyết ở lại chết với tàu. Về phía Trung Cộng, Tư Lệnh Mặt Trận, Bộ Tham Mưu và 4 Hạm Trưởng tử thương. Hộ Tống Hạm 274 bị chìm, Hộ Tống Hạm 271 và 2 Trục lôi hạm 389-396 bị hư nặng và phá hủy cùng với 4 ngư thuyền bị bắn chìm

Có một điều bi thảm mà hiện nay ai cũng biết, là hầu hết các Chiến hạm mà Hoa Kỳ đã viện trợ cho Hải Quân VNCH, đều được hạ thủy năm 1940, loại phế thải được tân trạng. Bốn Chiến hạm tham chiến năm 1974, được coi là tối tân nhất , vì HQ4 hạ thủy năm 1943, HQ5 hạ thủy năm 1944, HQ10 hạ thủy năm 1942 và HQ16 hạ thủy năm 1942. Riêng các vũ khí trên tàu, các loại súng liên thanh đều được gở bỏ , khi cho VNCH. Nhưng dù quân lực Miền Nam ít, chiến hạm vừa cũ kỹ lại nhỏ, vũ khí trang bị, chỉ có đại bác nhưng vì Các Sĩ Quan Hải Quân VNCH đều được huấn luyện như Âu Mỹ, rất thiện chiến và tài giỏi. Cho nên đã tác xạ rất chính xác, làm nhiều tàu giặc cũng như Hạm trưởng tử thương. Tệ nhất là người Mỹ, lúc đó vẫn còn là đồng minh của QLVNCH, vẫn đang có hiệp ước hỗ tương chiến đấu và bảo vệ cho nhau. Vậy mà khi cuộc chiến xảy ra, Hạm Ðội 7 Hoa Kỳ đang tuần hành gần đó, chẳng những đã không lên tiếng, không can thiệp mà ngay thủy thủ VNCH bị chìm tàu,, cũng không thèm cứu vét, theo đúng luật hàng hải quốc tế.

Theo các nhân chứng đã tham dự cuộc hải chiến kể lại, thì lúc đó các chiến hạm của Hải quân/VNCH , đã chống trả với giặc rất dũng mãnh, nên chỉ trong mấy phút đầu, đã có nhiều tàu chiến của Trung Cộng đã bị bắn chìm. Về phía VNCH, Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HO.16, bị bắn trúng bánh lái và sườn tàu, được HQ.11 dìu về Ðà Nẳng. Trên chiến trường lửa máu, chỉ còn HQ.10 và Hộ tống hạm Nhật Tảo, vùng vẩy chiến đấu vời hằng chục chiến hạm của Trung Cộng, được Không quân từ các căn cứ trên dảo Hải Nam tới yểm trợ.

Cuối cùng Hộ tống hạm Nhật Tảo đã bị bắn cháy và chìm giữa biển Ðông. Hạm trưởng chiến hạm này là Trung Tá HQ.Ngụy Văn Thà,tốt nghiệp khóa 12 sĩ quan hải quan Nha Trang, sinh năm 1943 tại Trảng Bàng, Tây Ninh. Khi tàu lâm nạn, với tư cách là chỉ huy trưởng, Trung Tá Thà đã ra lệnh cho Hạm Phó là Thiếu Tá HQ. Nguyễn Thành Trí, sinh năm 1941 tại Sa Ðéc, Tốt nghiệp khóa 17 sĩ quan hải quân/Nha Trang, hướng dẫn số quân nhân còn sống sót, trong tổng số 80 người trên tàu, dùng bè cao su về đất liền. Riêng Ông ở lại chết với tàu.

Trên biển, Thiếu tá Trí vì bị thương nặng nên đã chết trên bè, trước khi các quân nhân còn lại, được thương thuyền Skopionella của Hòa Lan, trên đường từ Hồng Kông đi Tân Gia Ba, cứu sống vào đúng đêm giao thừa Tết âm lịch Nhâm Dần (1974). Sau đó 22 quân nhân này được một chiến hạm cũa Hải Ðội 1 Duyên Phòng, đón về đất liền. Còn 16 Biệt Hải của Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt, có lệnh giữ đảo Vĩnh Lạc, sau khi Hòang Sa thất thủ, đã dùng bè cao su vượt biển về đất liền. Lênh đênh nhiều ngày trên sóng nước, nắng mưa gió lạnh, cuối cùng cũng được một Tàu đánh cá cứu thoát đưa về điều trị tại Quân Y Viện Qui Nhơn, 2 người chết vì đói lạnh, số còn lại may mắn thoát được tử thần.

Cuộc hải chiến chấm dứt, các chiến hạm của VNCH đều rút lui, vì Hoàng Sa đã thất thủ. Bấy giờ giặc Tàu mới bắt đâu thu dọn chiến trường và xua quân chiếm đóng tất cả các đảo. Về phía VNCH còn kẹt lại trên đảo, gồm Trung đội DQP.Quảng Nam, các quân nhân Hải quân, 7 Sĩ quan công binh trong toán khảo sát địa chất, 4 nhân viên sở khí tượng và 1 người Mỹ làm việc ở Tòa lãnh sự Hoa Kỳ thuộc Quân đoàn 1. Tổng cộng là 42 người, đều bị giặc bắt làm tù binh, giải về thành phố Quảng Châu và giam trong một trại tù, cạnh dòng sông Sa Giang. Ðây cũng chính là nơi mà hơn mấy chục năm về trước, liệt sĩ Phạm Hồng Thái đã gieo mình tự vẫn, để không bị sa vào tay giặc Pháp, sau khi ném bom ám sát hụt Merlin, toàn quyền Ðông Dương đang có mặt tại Hồng Kông.

Lúc đó đúng 8 giờ sáng ngày mồng một tết nguyên đán, thời gian hạnh phúc nhất của các dân tộc Á Ðông vui xuân theo âm lịch, trong đó có VNCH. Riêng 42 tù binh VN liên tục bị bọn an ninh Trung Cộng , tra vấn, bắt buộc phải nhận tội là đã chiếm đóng bất hợp pháp lãnh thổ của Tàu. Nhưng rồi không biết vì sao, Ðặng Tiểu Bình ra lệnh phóng thích tất cả, đưa tới Hồng Kông để mọi người hồi hương.

Lịch sử lại tái diển, ngày 14-3-1988, Trung Cộng lại nổ súng vào Hải quân Việt Cộng, tại quần đảo Trường Sa. Trong cuộc hải chiến ngắn ngủi này, vì VC chỉ phản ứng có lệ, nên tài liệu cho biết phía Trung Cộng , không có ai bị tử thương cũng như tàu chìm. Ngược lại, bên VC có nhiều tàu chiến bị chìm, gồm : Chiến Hạm Thượng Hải của Tàu viện trợ , 1 Tuần Dương Hạm củ của VNCH để lại, 1 Hải Vận Hạm của Nga Sô viện trợ và trên 300 lính Hải quân bị thương vong.

Từ sau ngày 30-4-1975 chiếm được cả nước VN, đảng VC lúc nào cũng rêu rao khoắc lác về độc lập tự do, vẹn toàn lãnh thổ. Thế nhưng mọi sự đã lộ nguyên hình, khi thành tích bán nước cho Tàu, phản bội quê hương bị toàn dân trong và ngoài nước phanh phui nguyền rủa. Nhờ đó, mà những cái loa Việt Gian bợ đít VC từ bấy lâu nay tại hải ngoại, mới chịu khép miệng, vì không còn biết đâu mà mò.

Theo đó, ta biết trong năm 1999 và 2000, bọn chóp bu đảng gồm Ðổ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Ðức Mạnh, Trần Ðức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Minh Triết và nhất là Nguyễn Tấn Dũng cùng toàn lũ trong Chính trị Bộ, đã lén lút , ký kết 2 Hiệp Ước bất bình thường, vô lý, phản bội dân tộc, trong sự Bán Ðất Biên giới và Bán Vịnh Bắc Phần, cho giặc Tàu

Từ năm 1884, Pháp coi như chính thức đô hộ VN. Từ đó thực dân độc quyền ký kết , các hiệp ước song phương và những công ước quốc tế, về luật biển, hải đảo cũng như biên giới giữa các nước. Năm 1885, Pháp ký với Mãn Thanh hiệp ước Thiên Tân, hủy bỏ sự liên hệ giữa Nhà Nguyễn VN và Trung Hoa, hủy bỏ ấn phong vương, phân định lại đường ranh giới bằng cọc cắm và bản đồ. Năm 1887, Pháp và Trung Hoa lại ký Hiệp Ước Brévié, phân ranh vùng Vình Bắc Phần, từ Trà Cổ (Móng Cáy), dọc theo kinh tuyến Ðông 108. Theo đó, phía tây đảo Bạch Long Vĩ là lãnh hải của VN, phía đông là của Trung Hoa. Về sự tranh chấp hai quần đảo Hoàng SaTrường Sa, cũng được quốc tế giải quyết năm 1882, theo công ước luật biển. Tháng 11-1993, công ước trên được LHQ phê chuẩn và thi hành vào năm 1994, với 170 quốc gia công nhận, trong đó có Trung Cộng và VC. Tóm lại đảng VC đã dối trá quốc dân VN, lén lút họp kín với Giặc Tàu trong 20 phiên họp kín. Rồi cũng tự động bí mật ký kết, còn quốc hội VC thì cũng lén lút thông qua.

Tóm lại, tất cả những ký kết điều hoàn toàn sai trái về pháp lý quốc tế và đạo lý dân tộc, đi ngược lại truyền thống hòa bình, tự chủ, không lấy thịt đè người của bản tuyên ngôn nhân quyền. Tất cả đều là những âm mưu xâm lăng, hay nói đúng hơn chính Hồ Chí Minh và đảng VC đã rước voi Tàu về dầy mã Việt, ngay từ khi bắt đầu nhận viện trợ của Trung Cộng năm 1950 cho tới cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2 (1960-1975) chấm dứt. Trung Cộng lợi dụng quân viện và nhất là trong cuộc chiến biên giới năm 1979 giữa Việt-Trung, đã xua hàng triệu dân Tàu gốc thiểu số tại các tỉnh biên giới, lấn đất dành dân, sâu trong nội địa VN. Theo báo chí ngoại quốc, VC đã bán cho Trung Cộng tại biên giới Việt Hoa, hơn 15.600 km2 và 20.000 km2 lãnh hải trong vịnh Bắc Phần.. Như vậy tại Miền Bắc, ngày nay VN đã mất hẳn những địa danh hồn thiêng sông núi như Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, và Ðồng Ðăng với Phố Kỳ Lừa

Từ năm 1930 tới nay, Hồ Chí Minh và đảng VC, chỉ vì lợi lộc cá nhân và đảng hệ, mà cõng voi về đầy xéo đất nước, làm cho voi quen đường, chẳng những lấn đất dành biển, mà còn ngổ ngáo sử dụng một mình một chợ thượng nguồn các con sông thiêng của VN, từ sông Hồng, sông Ðà, Lô, Thái Bình ở Bắc Phần cho tới sông Cửu Long tại miền Nam, khiến cho nước ta, từ hăm chin năm nay, chịu không biết bao nhiêu thiên tai bảo lụt, thiệt hại mùa màng tật bệnh, vì những hiện họa của Tàu đổ xuống các dòng sông, theo nước xuống tận đồng bằng sông Cửu Long và ra biển. Rồi đây, VN sẽ lãnh tất cả những chất độc như Cyanide, arsenic, acid.. từ các quặng mỏ trong tỉnh Vân Nam, đổ xuống dòng sông Mekong ra biển. Chưa hết, Trung Cộng chẳng những đã xây các đập thủy điện khổng lồ tại Mãn Loan, Cảnh Hồg, Ðại Chiến Sơn.. và Hồ chứa nước Lạn Thương Giang, trên sông Mêkong. Mà còn xúi các nước Thái, Miến, Lào cũng góp phần làm hủy hoại tận tuyệt con sông thiêng, khiến cho một ngày đó, phù sa sẽ không còn bồi đắp Mũi Cà Mâu và hủy diệt toàn bộ thủy tộc trên biển đông, vì hệ sinh thái cạn kiệt.

Dân chúng VN bao đời sống nhờ biển cá, VC ngày nay đem biển bán cho giặc Tàu, khiến cho nguồn lợi thủy sản bị hao hụt trầm trọng, tài nguyên dưới đáy biển bao đời, nay thuộc về ngoại bang.

Tháng 1-2005, ngư dân tỉnh Thanh Hóa, như thường lệ hành nghề trong lãnh thổ của tổ tiễn tại Vịnh Bắc Việt nhưng đã bị lực lượng quân sự của Trung Cộng bắn giết một cách tàn nhẫn tận tuyệt, bất chấp lòng nhân đạo và luật lệ của quốc tế. Sự cố đau lòng tủi nhục trên, khiến cho cả nước kể cả hải ngoại, ai cũng rớt nước mắt vì thường đồng bào mình, cũng như thân phận nhược tiểu VN và kiếp đời nô lệ dưới thiên đường xã nghĩa. Thì ta VC đã đồng thuận với Trung Cộng, cố tình dàn ra một bẩy để ngư dân sụp và coi như chuyện đã có không cần phải giải thích hay thông báo gì gì, cho tất cả người trong nước biết, là từ nay cấm bất cứ ai, không được bén mảng, tới nơi chốn, mà hai đảng đã mua bán xong xuôi, nếu không bị Trung Cộng giết hay cướp bóc tài sản, thì ráng chịu. Rồi nay mai, Trung Cộng sẽ khai thac dầu hỏa trong vịnh Bắc Phần, nạn tràn dầu, ô nhiễm chất phế thải sẽ khiến cho đồng bào duyên hải gánh chịu. Ðó là chưa nói tới, ngư dân sẽ bị Tàu cấm hành nghề , vì biển củ đả bị đảng bán cho giặc, vịnh Bắc Việt trở thành Vịnh Hải Nam của người Tàu.

Năm 1473, khi Thái bảo kiến dương bá Lê Duy Cảnh, được giao nhiệm vụ trấn giữ Ải Nam Quan, Vua Lê Thánh Tông đã ân cần nhắn gửi người ra đi :’ Một thước núi, một tấc sông của ta, không được bỏ. Nếu ngươi làm mất, tội đó phải tru di’. Lý Thường Kiệt khi đại chiến với quân Tống, dã viết ‘ Nam Quốc Sơn Hà, Nam Ðế Cư’ xác quyết đất đai của người Việt muôn đời là của Nước Việt, không có ai được quyền xâm lấn hay bán nhượng. Trái lại VC thì lúc nào cũng to miệng nhục mạ nhà Nguyễn, vua Gia Long là cõng rắn cắn gà nhà, quy tội cho người Việt không cọng sản là Việt gian, Mỹ Ngụy.. Nhưng cuối cùng, khi Pháp rời Ðông Dương năm 1955, đã trả lại sông núi cho người Việt, không thiếu một tất đất, kể cả những cơ sở, đồn điền cũng giao hoàn. Suốt thời gian nội chiến 1955-1975, VNCH không hề bán nhượng cho Hoa Kỳ một cọng cỏ vì tới sáng ngày 30-4-1975, Mỹ đã rút hết về nước. Trái lại VC trong suốt bao năm, làm đủ chuyện phản tặc, từ công nhận Hoàng Sa-Trường Sa là của Tàu, rồi tiếp tục bán nhượng đất đai, sông núi của Tổ Quốc, đó là chưa nói tới, cái sự đem đất thế chấp làm vốn, để đầu tư với Tư bản kiếm tiền bỏ túi.

Trước năm 1975, lúc nào cũng nói VNCH tham nhũng, độc tài, Diệm-Nhu, Thiệu ốKỳ chạy theo Mỹ, nay rõ ràng hơn chính đảng VC và Hồ Chí Minh, mới đích thực sự là đầy tớ, hết Nga tới Tàu, nay sắp bỏ chân qua Mỹ-Nhật. Còn Cán bộ đảng thì tham nhũng, hốt trọn tài sản của dân nước, chuyển hết ra nước ngoài, rửa tiền , đầu tư, làm giàu và hưởng thụ, ai chết mặc bây. Ðó chính là thành tích lịch sử của Ðảng VC trong ba mươi năm quốc hận.

Mạnh được yếu thua là phương châm xử thế lâu đời của Trung Hoa. Bởi thế qua suốt mấy ngàn năm lập quốc, vì thái độ trên đã làm cho nước Tàu loạn lạc triền miên hầu như thời nào cũng có. Tóm lại người Hán dù là ai chăng nửa, chắc sẽ chẳng bao giờ quên đuợc nổi hận nhục trong thời gian nước Tàu bị liệt cường xâu xé từng mảnh. Người Anh đã chiếm Hồng Kông làm thuộc địa, còn Thượng Hải là tô giới. Tại đâythực dân đã lập bảng niêm yết nghiêm cấm, không cho người Hoa và Chó vào vườn hoa hay những nơi công cộng, dành cho người ngoại quốc. Trước cảnh đau hận của dân tộc Hán, một học giả Nhật đã cảm khái viết :

'Á lục tiên hiền, ưng nhất tiếu
Anh nhân diệt hoản, sở cầm tù
Tùng kim hoán cải, công viên bảng
bất cám Anh nhân, cập cẩu lai ‘.

Liên Bang Sô Viết nay đã tan rã, chỉ còn lại đế quốc Trung Hoa là một tập hợp của nhiều vùng đất của các dân tộc Mãn, Mông, Tạng, Hồi và Bách Việt , bị người Hán xâm lăng và cưởng chiếm . Một đất nước mênh mông với hàng ngàn dân tộc dị chủng, luôn mang thù hận và nghi kỵ, Trung Hoa không sớm thì muộn cũng sẽ bị tan rã như các đế quốc La Mã, Ai Cập, Thổ Nhỉ Kỳ, Mông Cổ, Hung Nô và gần nhất là Ấn Ðộ, Nam Tư và Liên bang Sô Viết.

Dân tộc Việt trong dòng sông lịch sử, cũng đã chấp nhận luật chơi ‘ mạnh được yếu thua’, cho nên nay vì bất hạnh bị đảng VC hèn mạt cầm quyền, đã phải liên tục mất mát đất đai biển đảo vào tay giặc Tàu. Nhưng lịch sử luôn là sự trùng hợp, chắc chắc con cháu người Việt trong tương lai gần, se quật khởi chiếm lại tất cả lãnh thổ. kể cả hai quân đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bị VC dâng bán cho giặc khi cầm quyền. Thời nhà Trần, quân Ðại Việt dưới tài lãnh đạo của các vua Trần và Hưng Ðạo Ðại Vương, một lòng tử chiến nên cuối cùng đã chiến thắng quân Mông-Nguyên ba lần, khi chúng xâm lăng Ðại Việt. Nhờ vậy :ngày nay ta mới có :

‘ Nam quốc sơn hà, Nam đế cư
tiệt nhiên định phận tại thiên thư
như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
nhữ đẳng hành khan thử bại hư ‘

Thương biết bao những anh hùng vị quốc, trong đó có những chiến sĩ Hải quân năm nào, đã anh dũng chống giặc Tàu xâm lăng, như tổ tiên ta đã bao đời banh thây đổ máu để có ‘ Nam quốc sơn hà, nam đế cư ‘ Ðảng CSVN bây giờ đã trốn hết trách nhiệm bảo vệ đất nước và sự tồn vong của dân tộc, chỉ biết cuí đầu tuân phục theo mệnh lệnh của Tàu Cộng ,độc tài độc ác, tham nhũng thối nát và mãi quốc cầu vinh một cách công khai thách đó cả nước qua hành động điên rồ khi rước kẻ thù không đội trời chung là Tàu Cộng vào Cao Nguyên Nam Trung Phần, qua cái gọi là ‘ khai quặng Bau-xít ‘

Nhưng giờ đây thế giới đã thấy rỏ, đồng bào trong và ngoài nước cũng thấy rõ. Cho nên mọi người đều nổi giận trước hành động bán nước công khai của đảng VC. Bởi vậy sớm muộn gì cả nước cũng sẽ đứng dậy để lật đổ ngụy quyền Hà Nội, dành lại quyền làm chủ đất nước, quyền chống lại sự xâm lăng của giặc Tàu. Lịch sử đã từng minh chứng ‘ không có một kẻ thù hay đế quốc nào có thể tồn tại ở VN khi cả nước đoàn kết quyết tâm chống giặc thù ‘.

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2009
Mường Giang



Tình nghĩa loài chim VS Tình nghĩa csVN với người dân

    Tình nghĩa loài chim
Here his wife is injured and her condition is fatal.
She was hit by a car as she swooped low across the road.



Here he brought her food and attended to her with love and compassion.


He brought her food again but was shocked to find her dead.
He tried to move her....a rarely-seen effort for swallows!


Aware that his sweetheart is dead and will never come


Back to him again, he cries with adoring love.
He stood beside her, saddened of her death.


Finally aware that she would never return to him, he
Stood beside her body with sadness and sorrow.


Millions of people cried after watching this picture in America and Europe and even in India ...
It is said that the Photographer sold these pictures for a nominal fee to the Most famous newspaper in France.

All copies of that newspaper were sold out on the day. These pictures were published.
And many people think animals don't have a brain or Feelings?
    Đây Tình nghĩa csVN với dân oan Huyện Kiên Lương
Dân Oan Huyện Kiên Lương Cương Quyết Bảo Vệ Đất








Cảnh sát cơ động chuẩn bị đàn áp dân.






Cảnh sát cơ động đàn áp dân oan.



Cảnh sát cơ động dùng chó uy hiếp dân



Những viên đạn CSCĐ bắn dân được thu gom lại tại hiện trường


Dân Oan Huyện Kiên Lương, Tỉnh Kiên Giang







Đã 34 Năm Rồi - Mặc Giao


Mặc Giao

Ngày 30 tháng 4 năm nay, chúng ta kỷ niệm 34 năm ngày mất Sài Gòn và toàn thể miền Nam. 34 năm là một chớp mắt của lịch sử nhưng là thời gian rất dài của một đời người. Thời gian có thể làm nguôi nỗi buồn nhưng không thể làm quên nỗi đau và nỗi nhớ, dù rằng không ít người đã có thái độ dửng dưng vì “hát lâu chầu mỏi”. Theo họ, nhớ tiếc mà làm gì? than vãn mà làm gì? đấu tranh thì được gì sau 34 năm vẫn không thay đổi được chế độ ở Việt Nam? Vì thế, nhiều người đã buông xuôi và nhìn những người hò hét, đôn đáo vận động như những kẻ không thức thời, nếu không nói là điên khùng, phí phạm năng lực vào công việc “dã tràng xe cát biển Đông”. Họ không nghĩ rằng nếu mọi người Việt ở hải ngoại đều buông xuôi và thụ động như họ thì cộng sản Việt Nam sẽ rất mừng vì được tự do xiết cổ nhân dân trong nước mà không ngại những phản ứng từ quốc nội hay quốc tế, nhân dân trong nước sẽ tuyệt vọng vì thấy không còn ai quan tâm tới họ và ngọn lửa hy vọng của tự do đã tắt vĩnh viễn. Con người sống bằng hy vọng. Càng trong cảnh khổ càng cần hy vọng. Vậy nếu ai không muốn tham gia công việc đấu tranh chung, xin hãy im lặng để cho những người khác sống bằng hy vọng và thắp sáng niềm hy vọng cho đồng bào quốc nội. Dĩ nhiên chúng ta không ngu dại đấu tranh kiểu húc đầu vào tường, nhưng phải tỉnh táo tìm ra những nguyên nhân vì sao chưa thành công và chuyển đổi phương cách cho thích hợp và hữu hiệu.

Nhìn vào thực tế, chúng ta thấy cộng sản Việt Nam hiện nay có những điểm mạnh và điểm yếu.
Những điểm mạnh:

1. Nắm được chính quyền, từ đó có 2 điểm mạnh khác:
2. Có tiền: tiền công qũy và tiền gian lận
3. Có guồng máy đàn áp hữu hiệu và gian ác

Những điểm yếu:

1. Mất lòng dân
2. Nạn tham nhũng gây tranh dành nội bộ, gây phẫn nộ trong dân chúng và làm xáo trộn mọi cơ cấu xã hội
3. Guồng máy chính quyền không hiệu qủa, trừ bộ phận đàn áp, và nhân sự thiếu hiệu năng.
4. Lệ thuộc ngoại bang: bị Trung quốc thao túng về chính trị, kinh tế, lãnh thổ và bị các nước tư bản khai thác, chèn ép
5. Không được thế giới nể trọng vì vi phạm nhân quyền và cư xử lươn lẹo.

Muốn đánh chế độ cộng sản thì phải nhắm vào những điểm yếu mà đánh. Nhắm vào những điểm mạnh là tự sát. Thí dụ, cộng sản nắm được chính quyền, được quốc tế công nhận và có chân trong Liên Hiệp Quốc mà lại lập chính phủ lưu vong đóng đô ở Mỹ với đủ bộ xậu quốc trưởng, thủ tướng v.v…thì hỏi có ích gì? Hay tuyển mộ được một ít tay súng, lập “chiến khu” ở biên giới Thái Lan mà đòi đương đầu với cả đạo quân cộng sản để giải phóng Việt nam, nếu có bị tiêu diệt trước khi đặt chân tới biên giới Việt Nam thì cũng là chuyện dễ hiểu thôi. Dĩ nhiên chúng ta không phủ nhận thái độ anh hùng của những chiến sĩ đã hy sinh nhưng phải buồn lòng mà nói rằng thành phần chủ xướng là những người “hữu dõng vô mưu”, đã đưa những người tin theo mình vào chỗ chết một cách qúa dễ dàng và làm sứt mẻ niềm tin của hàng ngũ chống cộng.

Có thể nói trong 5 điểm yếu của cộng sản, chúng ta mới chỉ đánh vào hai điểm 4 và 5. Liên quan tới điểm 4, chúng ta tố cáo Trung quốc và nhà cầm quyền Hà Nội trong âm mưu toa rập dâng đất, dâng biển cho Trung quốc. Chúng ta tìm kiếm những bằng chứng lịch sử và những luận cứ pháp lý để đòi bây giờ và mai sau những phần đất và biển đã bị mất. Về điều 5, chúng ta đã liên tiếp vận động các chính phủ và các tổ chức quốc tế làm áp lực để buộc Hà Nội phải lỏng tay đàn áp và tôn trọng nhân quyền. Kết qủa chưa được như ý muốn, nhưng phải công nhận nhờ ngững vận động và tố giác của chúng ta, thế giới đã biết dân Việt Nam bị đầy đọa như thế nào, đã có những can thiệp trực tiếp và gián tiếp, nhờ đó, dân Việt Nam cũng được dễ thở hơn đôi chút. Tất cả mọi hình thức đấu tranh đều không vô ích. Có người cho rằng những cuộc biểu tình hò hét, hô khẩu hiệu chỉ là hiện tượng lên đồng không làm rụng sợi lông chân nào của cộng sản. Thực ra nó cũng có giá trị hâm nóng tinh thần chống cộng, làm cho cộng sản và dư luận biết là những người Việt Nam yêu tự do, dân chủ vẫn còn đây, chưa ngủ hết, vẫn kiên trì tranh đấu và tỉnh táo phát giác những âm mưu xâm nhập và phá hoại của cộng sản. Nhờ thế, chưa có một cộng đồng người Việt nào ở hải ngoại bị rơi vào tay cộng sản. Dĩ nhiên việc đánh phá hai điểm yếu 4 và 5 chưa hữu hiệu như mong muốn. Chúng ta phải suy nghĩ và cải thiện thêm.

Bây giờ là lúc chúng ta phải tìm cách đánh mạnh vào 3 điểm yếu còn lại của địch. Một mình hải ngoại tấn công những điểm này không thể đem lại kết qủa khả quan. Cần có sự phối hợp trong ngoài. Nói tới phối hợp trong ngoài, nhiều người tỏ vẻ bi quan vì cho rằng guồng máy kiểm soát và đàn áp của cộng sản rất hữu hiệu, chưa thể làm được gì ở trong nước lúc này. Chúng tôi đồng ý một phần, vì ngoài Khối 8406 hoạt động trong những điều kiện khó khăn như chúng ta đã biết, một số tổ chức khác cũng gặp khó khăn khi tìm cách cấy người và xây dựng cơ sở. Dù khó, một số đầu cầu ở trong nước đã được thiết lập nhưng còn phải giữ bí mật tối đa và chưa có sự phối hợp. Đa số dân chúng vẫn còn thờ ơ với việc chung, chỉ biết lo cơm áo gạo tiền. Tuy phải thích ứng với hoàn cảnh đó, chúng ta cũng không được phép ngưng tay. Công việc đầu tiên là phải gia tăng công tác thông tin, tuyên truyền để người dân biết rõ đâu là những thiệt thòi, đâu là quyền lợi và bổn phận của họ. Khi người dân đã có ý thức, các cán bộ thuộc các tổ chức, đoàn thể, tôn giáo mới dễ làm công tác huy động quần chúng. Chúng ta không thể dứt điểm cộng sản bằng võ khí, nhưng chỉ bằng lực lượng quần chúng. Một khi lực lượng quần chúng lên cao như nước vỡ bờ, tại nhiều nơi cùng một lúc, guồng máy đàn áp sẽ vô hiệu, binh sĩ chưa chắc sẽ chiã sung bắn vào dân. Để làm được việc này, chúng ta đã có sẵn những phương tiện thông tin và truyền thông từ ngoài phóng vào trong, như e-mail, blog, paltalk. Ở trong nước đã có những blog tư nhân, những báo điện tử như Tự Do Ngôn Luận, Tổ Quốc, Sinh Viên v.v… Riêng báo Tự Do Ngôn Luận còn được in ra nhiều ngàn ấn bản mỗi kỳ và được phân phối cho sinh viên, trí thức. Dù vậy vẫn cần sự phối hợp trong ngoài và sự yểm trợ mọi mặt từ ngoài vào trong để phát triển mạnh hơn nữa những phương tiện truyền thông ở trong nước hầu tiếng nói của chính nghiã có thể đến tai hầu hết mọi người dân. Khí giới thông tin tuyên truyền phải được coi là quan trọng hàng đầu trong lúc này để tấn công những điểm yếu của địch.

- Tấn công điểm yếu 1: Cộng sản càng ngày càng làm mất lòng dân vì cách cai trị độc tài, hống hách, gia trưởng, bất công, vô luật lệ. Ngoài xã hội dân sự thì dân oan bị cướp nhà cướp đất khiếu kiện từ Nam ra Bắc, dân chúng đốt xe cảnh sát, rượt đuổi nhân viên công lực vì tội đánh dân, sinh viên và trí thức bức xúc vì nhà nước nhượng đất, nhượng biển cho Trung quốc, công nhân đình công vì bị bóc lột mà nhà nước không bênh vực họ. Trong phạm vi tôn giáo, giáo hữu nhiều nhà thờ Tin Lành, nhất là trên vùng cao nguyên, công khai đương cự với nhà cầm quyền để bảo vệ quyền hành đạo của họ, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vẫn cương quyết giữ thế độc lập, không chịu xáp nhập với Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh. Việc đàn áp và cách đối xử theo luật rừng của cộng sản đối với giáo dân Hà Nội đã đẩy Giáo Hội Công Giáo từ chỗ hợp tác sang phiá đương đầu. Các tín hữu Cao Đài và Hòa Hảo không chấp nhận những ban trị sự do người của nhà nước nắm giữ.

Có rất nhiều chuyện có thể khai thác để tấn công cộng sản về mặt này. Đừng ngại rằng cộng sản có cả một guồng máy tuyên truyền có thể lấn áp công tác phản tuyên truyền của chúng ta. Dân chúng tại Việt Nam hiện nay không còn tin những lời tuyên truyền láo khoét của nhà nước. Một người vừa đi thăm Hà Nội về kể cho chúng tôi một chuyện đáng suy nghĩ: Vào lúc cao độ của cuộc đấu tranh của giáo dân tại Thái Hà và Tòa Khâm Sứ, đài truyền hình Hà Nội liên tiếp cho chạy cả tuần lễ hàng chữ dưới màn hình tố cáo “Tổng Kiệt phản bội đất nước và là đầu sỏ khích động giáo dân”. Ngay sau đó, Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đi thăm viếng và làm công tác mục vụ tại một giáo xứ nhỏ gần Hà Nội chỉ có 400 bổn đạo. Chuyện không ngờ là khi Đức Cha Kiệt xuất hiện, có hàng ngàn người chen chúc bao quanh khu nhà thờ chờ đợi ngài. Nhiều người e ngại nhà nước mướn côn đồ đến đả đảo và hành hung Đức Cha. Sự thật trái ngược hẳn. Dân chúng quanh vùng kéo tới để coi mặt “Tổng Kiệt”, xem ông ta có ba đầu sáu tay như nhà nước tuyên truyền hay không. Sau khi thấy tận mắt, nhiều người công khai phát biểu đại ý: “Trông ông ấy hiền lành, nhân từ, tươi cười và thương dân như thế mà truyền hình nhà nước dám khoác cho ông ta đủ thứ tội”. Rõ ràng lòng dân không còn thuận lợi cho chế độ cộng sản. Hãy khai thác điểm này và làm cho sự bất mãn ngày càng lớn lên.

- Tấn công yếu điểm 2: Nạn tham nhũng đang tàn phá sự đoàn kết nội bộ của đảng cộng sản và làm ung thối mọi cơ cấu và tương quan xã hội. Trong đảng, mất đoàn kết vì tranh ăn, vì ghen tị kẻ nhiều người ít. Ngoài xã hội, từ lãnh vực công đến lãnh vực tư, không có hối lộ là không một việc gì có thể tiến hành trôi chảy. Xin một tờ giấy nhỏ tại một cơ quan hành chánh địa phương, lấy một món tiền quan trọng của chính mình từ một ngân hàng nhà nước, ngay cả việc ngân hàng nhà nước này chuyển tiền cho ngân hàng nhà nước kia, nếu không có phong bì hay qùa cáp thì sẽ bị làm khó dễ hay sẽ bị lờ đi. Ngay trong ngành giáo dục, ngành dậy người và đào tạo những công dân tốt cho đất nước, các vị thầy “khả kính” cũng tìm cách móc tiền của cha mẹ học sinh bằng những lớp dậy kèm, bằng đủ thứ lệ phí được phát minh tùy tiện, chưa kể những gian lận thi cử và mua bán đề thi. Nhà cầm quyền không thể giải quyết được nạn tham nhũng vì từ anh to nhất đến anh nhỏ nhất đều ăn bẩn, vì tham nhũng đã trở thành một “văn hóa” mới của chế độ cộng sản, trở thành một nếp sống mà người dân phải chịu đựng đã thành quen. Tấn công tệ trạng tham nhũng là làm cho người dân ý thức được sự bất công và những thiệt thòi họ phải chịu và giúp họ đứng lên đòi hỏi quyền lợi của mình.

- Tấn công yếu điểm 3: Guồng máy chính quyền của chế độ cộng sản không hiệu qủa vì không được tổ chức hợp lý: trùng dụng phí phạm và tranh chấp thường xuyên gữa hệ thống chính quyền và hệ thống đảng quyền, vì tệ nạn sứ quân “trên bảo dưới không nghe”, mỗi ông quan địa phương, dù là xã quan, đều là một ông trời con. Nhân sự làm việc trong bộ máy quyền hành thì thiếu khả năng và không có tinh thần phục vụ. Họ chỉ biết mỗi một việc là làm khó dân để tìm cách moi tiền. Cao cấp hơn thì bầy ra những đề án để xung công đất tư nhân, nặn ra những dự án xây cất để lấy công qũy thực hiện. Trong khi thực hiện, các thứ tiền lót tay, cắt xẻo có khi lên tới 75% ngân khoản, chỉ còn 25% thực sự chi cho công trình (Thư Hội Đồng Giám Mục VN gửi nhà nước 2002). Có thể nói guồng máy chính quyền cộng sản Việt Nam hiện nay và nhân sự của guồng máy ấy chỉ làm công việc kiểm soát, đàn áp nhân dân và tìm mọi cơ hội để moi của tư, ăn cắp của công. Nhân dân nhẫn nhục chịu đựng bề ngoài nhưng trong lòng thì đầy bực bội oán hờn. Hãy khuyến khích nhân dân bầy tỏ những uất ức bằng lời và bằng hành động bất tuân và bất hợp tác (civil disobedience).

Gia tăng một cách hiệu qủa những việc chúng ta vẫn làm, đánh mạnh vào những điểm yếu của địch mà chúng ta chưa quan tâm hoặc chưa làm đủ. Thấy phòng tuyến của địch có lỗ thủng, hãy khoét cho nó lớn ra. Thấy hàng phòng thủ của địch có chỗ yếu, hãy xô cho đổ và áp dụng chiến thuật “dậu đổ bìm bìm leo”. Điều cần là phải biết phối hợp hành động giữa trong và ngoài, chú ý đến hiệu năng công việc hơn là phô trương thành tích cá nhân và phe phái. Nói thì dễ, làm mới khó. Nhưng nếu chúng ta sợ khó, không chịu làm thì đừng nói tới chuyện chấm dứt chế độ cộng sản.

Một vấn đề đặt ra là giữa sự phân tán của các tổ chức hải ngoại cũng như các tổ chức trong nước, làm sao chúng ta có thể thống nhất hành động hay ít ra phối hợp hành động một cách nhịp nhàng? Chúng ta đang sống trong một xã hội tự do với ý niệm đa nguyên rất mạnh. Do đó, chúng ta khó có thể chấp nhận hình thức đấu tranh dưới sự lãnh đạo của một tổ chức duy nhất. Thật ra, chúng ta ở chung một chiến tuyến, nhắm cùng một mục tiêu. Chúng ta là những đơn vị độc lập, đóng chốt tại những vị trí khác nhau, nhưng khi phòng vệ cũng như khi tấn công, chúng ta dàn hàng ngang và nhắm chung một địch thủ. Trong hoàn cảnh bình thường, chúng ta có vẻ chia rẽ, nhưng khi dầu sôi lửa bỏng, chúng ta đã đoàn kết theo kiểu không hẹn mà gặp. Những vụ Trần Trường, Thái Hà, đất biên giới, biển Đông, cờ vàng tại Đại Hội giới trẻ bên Úc … đã chứng minh điều này. Vì vậy việc phối hợp theo hàng ngang là điều có thể thực hiện được. Điều quan trọng là hãy tránh cảnh “quân ta bắn quân mình”, tránh tình trạng mới có dịp đứng đầu một hội đoàn đã tưởng mình là đại lãnh tụ, xăm soi người khác bằng con mắt nghi ngờ, chỉ sợ họ sẽ chiếm mất cái ghế tổng thống, bộ trưởng hay dân biểu tương lai của mình. Nói tóm lại, chúng ta phải đoàn kết trong sự khác biệt. Người xưa đã dậy phải “hòa nhi bất đồng”. Nói đoàn kết một cách chung chung chẳng đem lại kết qủa gì. Hãy thử đoàn kết một cách cụ thể bằng việc không chống phá nhau, không coi sĩ diện và quyền lợi của cá nhân và phe phái lớn hơn quyền lợi của đất nước và dân tộc. Đoàn kết là cộng tác, không phải là đứng nhìn để bắt lỗi những ai không làm đúng ý mình.

Trên đây là vài nhận định và cảm nghĩ của tôi nhân ngày 30 tháng 4 gần đến. Tôi không dám hy vọng mọi người đều chia sẻ quan điểm của mình. Tôi chỉ đưa ra một ý kiến cá nhân với ý định khiêm tốn góp phần vào việc suy nghĩ chung về những gì chúng ta phải làm một cách cụ thể để cùng đồng bào trong nước chấm dứt chế độ cộng sản sớm ngày nào hay ngày nấy. Đảng cộng sản “trụ” lâu tới đâu thì đất nước tan hoang thêm tới đó. Than trách mà làm gì? Tiếc thương mà làm gì? “Hãy đốt một ngọn đèn nhỏ còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối”.

TÂN VÀ CỰU TỔNG THỐNG MỸ RỦ NHAU ĐI CANADA

Tổng thống Barack Obama vừa nhận chức hơn một tháng đã làm chuyến công du ngoại quốc đầu tiên tại Canada ngày 19-02-2009. Cựu Tổng thống George W. Bush cũng đến Calgary nơi tôi sống ngày 16 tháng 3 để đọc bài diễn văn đầu tiên kể từ khi rời Bạch Ốc. Đến tháng 5 sắp tới, cựu Ngoại trưởng Condoleezza Rice cũng sẽ đến Calgary nói chuyện theo lời mời của phân khoa “Public Policy” (Chính sách công, khoa chính trị) thuộc đại học Calgary. Đây cũng là cuộc nói chuyện đầu tiên của cựu nữ ngoại trưởng tại ngoại quốc.

Tại sao các lãnh đạo tân cựu hàng đầu của Hoa Kỳ lại ưu ái Canada và rủ nhau đi Canada tấp nập như thế? Tổng thống Obama đã trả lời:

“Tôi yêu đất nước này. Tôi đến Canada trong chuyến công du đầu tiên với tư cách tổng thống để nhìn nhận sự gần gũi và mối liên hệ quan trọng giữa hai quốc gia, đồng thời cũng để xác nhận sự cam kết của Hoa Kỳ trong vấn đề làm việc chung với các bạn hữu và đối tác nhằm đương đầu với những thử thách chung của thời đại chúng ta”.

Gớm, sao mà ông tân tổng thống nói khéo thế! Đúng như các cụ ta dậy: “Nhất cận thân, nhì cận lân”. Hoa Kỳ và Canada vừa cận thân vừa cận lân thì phải đối xử với nhau đặc biệt chứ. Có điều ông tổng thống không chịu nói huỵch toẹt là Mỹ rất cần dầu và hơi đốt của Canada. Khi kinh tế thịnh, mỗi ngày Mỹ mua của Canada 2 triệu 400 ngàn thùng dầu thô. Đến nay kinh tế xuống, Mỹ cũng vẫn còn phải mua mỗi ngày 2,033 triệu thùng. Canada là quốc gia số 1 cung cấp dầu cho Mỹ, bỏ xa quốc gia thứ hai là Saudi Arabia mỗi ngày bán cho Mỹ 1,394 triệu thùng. Chỉ cần Canada ngưng cung cấp dầu cho Mỹ một ngày là một phần nước Mỹ sẽ tê liệt. Vậy mà khi còn là ứng cử viên, ông Obama đã tuyên bố nếu ông đắc cử, ông sẽ không mua “dầu bẩn” (dirty oil) của Canada, tức dầu “oil sand” lấy từ cát dễ làm ô nhiễm môi trường. Bây giờ đắc cử rồi, ông phải vội chạy sang Canada để tìm bảo đảm cho nguồn dầu cung cấp dầu cho Mỹ không bị người anh em láng giềng cắt ngang. Ông không chê dầu dơ nữa nhưng vớt vát bằng thỏa hiệp miệng về việc hai nước sẽ nghiên cứu kỹ thuật làm sạch môi trường bằng cách “nhốt” khí carbon do kỹ nghệ khai thác dầu cát của Canada và những nhà máy chạy bằng than đá của Mỹ thải ra. Đó là kỹ thuật mới gọi là “carbon sequestration”, tức là bắt và nhốt khí carbon (carbon capture and storage) không cho bay ra bầu khí quyển. Bắt thì dễ làm, nhưng nhốt thì nhốt bao lâu, với số lượng càng ngày càng lớn, rồi sẽ xả vào đâu, có phải dưới lòng đất? Điệu này việc nghiên cứu còn lâu mới xong, tiền đổ vào cũng không phải ít. Trong khi chờ đợi, cứ vô tư xài dầu Canada, trong đó có 40% “dầu bẩn”.

Tổng thống Obama cũng nói chuyện với Thủ tướng Harper về khủng hoảng kinh tế. Dù dân số Canada chỉ có 31 triệu, hơn kém 10% dân số Mỹ, nhưng kinh tế Canada có vẻ đứng vững hơn kinh tế Mỹ trong cơn sóng gió hiện tại. Chưa có một ngân hàng nào của Canada bị phá sản, chưa có một công ty nào chạy làng, bảo hiểm sức khoẻ và hưu dưỡng vẫn được bảo đảm. Thủ tướng Harper cho rằng Hoa Kỳ và Âu Châu bị nặng gấp đôi Canada trong cuộc khủng hoảng kinh tế đang diễn ra. Kinh tế Canada sẽ chóng phục hồi vì hệ thống ngân hàng vững, nợ ít, lạm phát thấp, nguồn nhân lực khéo léo. Buôn bán giữa Canada và Mỹ lên tới 80% tổng số ngoại thương của Canada. Như vậy làm sao Tổng thống Obama không viếng thăm Canada trước tiên được?

Cuối cùng là chuyện Afghanistan. Canada gửi đến xứ này 2,500 binh sĩ để giữ hòa bình, chẳng dè lại phải chiến đấu với quân Taliban, khiến trên 100 quân nhân đã hy sinh nơi sa trường từ khi tham gia tới nay. So với những tổn thất của Mỹ tại đây và tại Iraq, con số tử vong trên 100 chẳng ăn nhằm gì. Nhưng so với dân số ít ỏi của Canada và với một quân đội chỉ có trên 60,000 binh lính, thì tổn thất như vậy cũng đã làm rúng động toàn dân, toàn quân. Vì vậy, chính phủ Canada đã quyết định rút quân về vào năm 2011. Tổng thống Obama có thuyết phục Canada lưu quân tại Afghanistan lâu hơn chăng ?

Trở lại cuộc viếng thăm của cựu Tổng thống George W. Bush tại Calgary. Ông đã đến đây vào ngày 16-3, du ngoạn thành phố và dùng cơm tối tại một tiệm ăn Ý trong khu Kensington, một khu thời thượng của dân chịu chơi Calgary. Trưa 17-3, ông nói chuyện tại Telus Convention Center ở trung tâm thành phố. Có gần 2,000 người đóng tiền mỗi người 400 đô la để ăn trưa và nghe ông nói. Họ xếp hàng dài tới hai « block » đường. Trong khi đó có khoảng 200 người biểu tình phản đối, đòi «Bush go home!». Có người treo cả chiếc giầy toòng teng trước hình ông Bush bị bịt miệng bằng băng keo. Có 4 người biểu tình bị cảnh sát còng tay đưa về bóp vì phản đối qúa lố.

Ông Bush đã nói về những kinh nghiệm cầm quyền ở chức vụ tối cao. Ông biết diễu cợt chính ông, không tự đề cao mình, nên được cử tọa đón nhận rất ấm áp. Ông cũng tỏ ra rất xã giao khi nói rằng nước Mỹ được chúc phúc vì có Canada là nước cung cấp dầu khí quan trọng nhất cho nước Mỹ. Về kinh tế, ông khẳng định ông không chỉ trích tân Tổng thống Obama, nhưng ông chống lại việc bảo hộ thương mại (isolationism) và việc chính phủ can thiệp qúa nhiều vào lãnh vực tư nhân. Phần lớn cử tọa tỏ ra hài lòng về buổi nói chuyện của cựu Tổng thống Bush. Một người tham dự phát biểu: «Với thành tích 8 năm làm tổng thống của một quốc gia hùng mạnh nhất thế giới, ông Bush có nhiều điều hữu ích để nói với chúng ta».

Chỉ có một điều ai cũng tò mò muốn biết là ông Bush nhận được bao nhiêu tiền thù lao cho buổi nói chuyện này. Với số tiền thu 400 đô la một người nhân lên gần 2,000, Ban tổ chức thu khoảng 700,000 đô la. Sau khi trừ các chi phí, số tiền còn lại không phải nhỏ. Cựu Tổng thống Bill Clinton, năm 2006, đã đến nói chuyện tại Edmonton, thủ phủ của tỉnh bang Alberta, cách Calgary 300 cây số về phiá Bắc, và được trả thù lao 160,000 đô la. Hèn chi người ta chẳng tranh nhau làm tổng thống Mỹ. Hết làm tổng thống, tiền vẫn còn vô như nước, không như nhiều nguyên thủ ở các nước chậm tiến và độc tài, hết chức vụ là phải ôm đồ tế nhuyễn chạy cho nhanh, nếu không muốn ngồi bó cẳng trong nhà tù.

Viết từ Canada
Mặc Giao


Friday, April 17, 2009

34 năm và "Họ Là Ai"? - Lão Gà Tre


Lão Gà Tre

Ba mươi bốn năm (34) so với chiều dài lịch sử của một triều đại thời xưa thì ngắn, nhưng với một đời người thì dài lắm, nhất là đối với những ai quan tâm đến thời cuộc, đến vận mệnh khổ đau của dân tộc Việt Nam thì nó lại càng dài hơn.

Ba mươi bốn năm trôi qua quả thật như một giấc mơ hãi hùng! Máu, nước mắt, khổ lụy, nghiệt ngã vẫn còn đây! Những cuộc vượt thoát vô tiền khoáng hậu của người Việt trốn chạy cộng sản – mà cả thế giới đều biết – vẫn còn ghi đậm trong lịch sử nhân loại. Riêng đối với người Việt tỵ nạn, làm sao có thể quên được những ngày tháng hãi hùng ấy. Có lẽ nó sẽ nằm sâu, nằm mãi trong tiềm thức của mỗi chúng ta.

Ba mươi bốn năm rồi mà người đi vẫn đi, không còn đi được bằng cách vượt biển, vượt biên thì cũng tìm cơ hội khác để đi: ODP (đoàn tụ), lấy vợ, lấy chồng, du học, chạy chọt làm sao để rời xa cái gọi là “thiên đường xã hội chủ nghĩa”. Chính ngay những người theo cộng sản cả đời, những người được hưởng ơn mưa móc như núi, nhưng nếu có cơ hội ra đi là họ đi ngay để trốn khỏi cái “thiên đường” quái đản ấy.

Chừng đó thôi cũng đủ để chứng minh một cách hùng hồn rằng con người không thể sống dưới chế độ cộng sản. Khổ thay, Việt Nam là một trong bốn nước cộng sản còn lại mà loay hoay mãi vẫn không thể nào thoát khỏi cái thiên đường mù đầy oan nghiệt ấy! Nếu miền Nam Việt Nam không bị bán đứng vào tay cộng sản vào 1975, thì chắc chắn, sau sự sụp đổ của khối cộng sản Ðông Âu và Nga Sô, toàn cõi Việt Nam bây giờ đã là một xứ tự do, giàu mạnh như bao nhiêu quốc gia văn minh khác. Ít ra cũng bằng Nam Hàn với nền văn minh nhân bản như ngày nay.

Khỏi cần phải tố cáo hay chê bai chế độ; khỏi cần luận tội tập đoàn cộng sản lãnh đạo đất nước đã tàn phá quê hương như thế nào sau 34 năm thống nhất hai miền Nam-Bắc; khỏi cần so sánh với các nước láng giềng và các quốc gia khác trên thế giới – cũng bằng ấy thời gian đã vươn lên như đi hia bảy dặm – mà cứ nhìn vào xã hội tan nát, luân thường đạo lý tiêu tan, thị trường cung cầu quái dị, con người chạy theo vật chất một cách điên cuồng là biết ngay.

Khỏi cần phải nghe những luận điệu vì cảm tính của một số người về thăm quê hương rồi trở lại hồ hỡi ca ngợi: “Ðất nước ngày nay khá rồi, thôn quê đã có điện nước, người dân có quyền đi lại và có quyền chửi luôn cán bộ cộng sản”. Thế sao? Chỉ có ba bóng đèn thắp sáng trong vài túp lều thô sơ, nghèo khổ, lạc hậu; chỉ có vài người vụt miệng chửi đổng cán bộ là đã có tự do, là đất nước khá rồi hay sao? Trong khi đó đa số các quốc gia tự do trên thế giới đã và đang tiến vào một đời sống sung túc và văn minh nhất của con người lại không đem ra so sánh!

Ðúng! Việt Nam đã có tự do, nhưng đó là thứ tự do của giai cấp cai trị được “tự do” ăn trên ngồi trước, “tự do” trấn lột quần chúng để thụ hưởng những xa hoa, phù phiếm trên nỗi thống khổ của toàn dân, vốn đã quá khổ trong một thế kỷ qua vì chiến tranh bom đạn. Phải, Tự là “tự” họ quyết định sự sống của người khác bằng họng súng và Do là “do” họ tạo nên những thủ đoạn đê hèn để áp đảo người dân, tước đoạt mọi thứ quyền tự do căn bản của con người.

Ðúng! Có tiến bộ, nhưng là thứ tiến bộ lừa đảo, mưu mô xảo quyệt cướp giựt để đàn áp mọi sự chống đối của người dân – khao khát hít thở không khí tự do – đã và đang đứng lên đòi tự do tôn giáo, tự do được sống làm người.

Nói tới chính trị là phải chứng minh bằng dữ kiện, bằng đường lối cai trị của một chế độ đang điều hành guồng máy quốc gia. Chế độ ấy như thế nào thì chúng ta đã thừa biết, khỏi cần nhắc lại làm gì cho tốn giấy tốn mực. Nếu họ thật tâm lo lắng cho quyền lợi của quê hương đất nước, cho người dân được hưởng những quyền tối thiểu của con người thì 34 năm qua đất nước đã khá lên rồi. Nếu họ có thật tâm xây dựng đất nước thì tại sao chúng ta phải bỏ nước ra đi, phải tiếp tục ra đi cho đến ngày nay, và phải chấp nhận sống chết trong đường tơ kẽ tóc để tìm tự do? Vì thế, những luận điệu nông cạn thiếu suy nghĩ ấy chỉ là mớ lý luận có lợi cho cục tuyên vận của CSVN.

Vậy, họ là ai?

Họ là những thành phần ích kỷ, chỉ biết sống cho mình, miễn sao có một đời sống sung túc trên xứ người là đã thỏa mãn. Còn quê nhà, bà con làng xóm có sống như thời kỳ “đồ đá” thì cũng mặc. Miễn sao lâu lâu ta về thăm cái xứ lạc hậu ấy để thí cho một vài đồng đô, vừa được tiếng, vừa được những người thọ ơn ca tụng cho thỏa cái tự ái vị kỷ của mình.

Họ là ai?

Họ là thành phần cán bộ được cộng sản cấy theo đoàn người tỵ nạn, nằm vùng khắp mọi nơi, đóng vai quốc gia trá hình, chờ cơ hội là bò dậy tấn công vào hàng ngũ người Việt Quốc Gia, vốn đã chia rẽ trầm trọng do bản chất vị kỷ, phi chính trị của những người sinh hoạt ngoài công cộng.

Họ có mặt sinh hoạt nội gian, nội gián trong mọi tổ chức, đảng phái chính trị. Mục tiêu chính của họ là phá nát các tổ chức chính trị chống cộng, bày mưu, chước kế đâm bên này, thọc bên kia, gây mâu thuẫn nội bộ, tung những nguồn tin giật gân ra ngoài làm cho quần chúng mất niềm tin. Mục tiêu của họ chỉ có thế thôi. Khi đã thành công vì phá được các tổ chức chính trị đi đến tình trạng gần như bị tê liệt thì họ đi đâu và làm gì? Dĩ nhiên là họ đã lặn thật kỹ, viện cớ chán ngán thế sự, lui về ngồi rung đùi đếm tiền và hưởng nhàn, ôm theo một đống tiền, gọi là công tác phí trọn đời.

Họ là ai?


Thà rằng tỏ rõ thái độ đầu hàng như một ông tướng, ông nhạc sĩ “nhớn” đã quay về với đảng và nhà nước, ăn năn sám hối để được hưởng “lộc” cuối đời. Dù xú danh muôn thuở, người đời nguyền rủa, nhưng ít ra họ đã biểu lộ thái độ chính trị dứt khoát theo cộng để người ta phân biệt lằn ranh biên giới rõ ràng giữa họ và chúng ta. Còn hơn những tên nằm vùng sống với nhiều mặt nạ khác nhau để quậy phá các tổ chức chính trị, hội đoàn, cộng đồng; thậm chí trong giới cầm bút cũng không thiếu những tên tự xưng là người cầm bút, nhưng bất xứng, lại háo danh, hám lợi. Chính họ là một thứ bồi bút không hơn không kém, viết lách theo đơn đặt hàng, núp bóng trong tổ chức Văn Bút, để “cố đấm ăn xôi” một cách quyết liệt với mục đích xé nát tổ chức nhằm xóa bỏ dấu tích còn lại của người Việt quốc gia trên diễn đàn quốc tế. Họ cố đấm dù không ăn được xôi đến độ một cách phi lý, phi văn hóa mà bất cứ ai có chút suy nghĩ cũng phải nghi ngờ chắc chắn đàng sau họ phải có một sức đẩy nào đó. Họ chính là “những kẻ vô lại may mắn” như nhà văn Phạm Ngũ Yên đã đặt tên trong một loạt bài tố cáo đích danh những tên vô lại này trước công luận vào năm 2008.

Họ là ai?

Họ cũng là những người vượt biển vượt biên ra đi tìm tự do, nhưng sống “với vật chất và vì vật chất” nên theo thời gian, thời thế thế thời phải thế. Họ đã quay lưng, cúi đầu phục vụ trực tiếp, hay gián tiếp cho cục tuyên vận CSVN, sẵn sàng đâm vào vết thương lòng của tập thể người Việt tỵ nạn để kiếm lợi.

Họ là ai?

Họ là những nhà “làm chính trị” theo kiểu lập dị, với mớ lý luận thiên tả, ưa bềnh bồng, không định hướng như con thuyền không bến. Họ sống bên này với thế giới tự do văn minh, phủ phê vật chất nhưng luôn luôn mơ mộng ở một “thiên đường” khác: thiên đường của hoang tưởng, thiên đường của không tưởng. Nhưng nếu họ được sống thực trong cái “thiên đường” ấy, chắc chắn là họ phải lên cơn điên và trở thành người điên sớm nhất. Tiếc thay, khi va chạm với thực tế trong cái xã hội tha hóa ấy thì hối hận cũng đã muộn màng!

Họ là ai?

Họ là thành phần làm chính trị theo kiểu salon, thích đọc diễn văn “xa đấm, gần đâm”. Nghĩa là ở xa thì hô hào “Ðấm” đá, những ở gần thì “Ðâm” đầu bỏ chạy. Họ cứ tưởng sẽ hòa hợp được với cộng sản bằng một mớ kiến thức về kỹ thuật mà họ học được từ hải ngoại. Về nước họ sẽ được trọng dụng và đảng cộng sản sẽ nghe theo họ. Ðúng là hoang tưởng!

Họ là ai?

Họ là những thương gia, với quan niệm “chỉ làm thương mại, không làm chính trị”. Giấc mơ của họ là giấc mơ của những “đại gia” thời mới, đượỳc nhà nước ca tụng và tâng bốc trên tận mây xanh. Trước khi đặt vấn đề đầu tiên là “tiền đâu”; dĩ nhiên là họ phải chạy theo giai cấp thống trị, làm theo lệnh của bạo quyền để kiếm lợi. Vì vậy, với thành phần chỉ biết mua bán để kiếm lợi thì trách họ làm gì cho bận tâm. Với họ. quê hương dân tộc không bằng một quả chanh, khi vắt hết nước là liệng vỏ ngay. Gần đây, nhiều “đại gia” đổ tiền về làm ăn vì được đảng nâng bi ca tụng hết mình, nhưng chỉ một thời gian sau thì những đại gia này đều bị trấn lột sạch sành sanh kêu Trời không thấu! Cái giá “không làm chính trị, chỉ biết làm ăn” họ đã phải trả một cách cay đắng.

Lời kết:

May thay, dân tộc Việt trường tồn qua mấy ngàn năm nay cũng nhờ vào hồn thiêng tổ tiên phù trợ, nên thành phần “Họ Là Ai” nói trên chỉ là thiểu số ung nhọt, sâu mọt trong đại gia đình dân tộc Việt mà thời nào cũng có trong lịch sử. Còn đại đa số những người bỏ nước ra đi tìm tự do thật sự từ năm 1975 đến nay, vẫn một lòng, một chí hướng, đó là giải thể chế độ cộng sản để đưa đất nước tiến lên trong tự do dân chủ. Ngày nào còn bóng dáng cộng sản là còn đấu tranh đòi quyền sống cho đồng bào ruột thịt đang chịu đựng trăm đắng ngàn cay ở quê nhà.

Ba mươi bốn năm rồi, mặc dù những hiện tượng chia rẽ trong hàng ngũ của chúng ta đã xảy ra vì địch và vì chính chúng ta tạo nên cũng có, nhưng những chiến sĩ can trường đã và đang âm thầm hay công khai đấu đầu với CSVN ở khắp mọi nơi vẫn kiên trì, bất khuất, vẫn một lòng với đại cuộc đấu tranh chống cộng. Ở quốc nội, các vị chân tu của các tôn giáo, các nhà đấu tranh cho dân chủ vẫn không sờn lòng đứng lên đòi quyền sống, quyền hành đạo, quyền được phát biểu tư tưởng, mặc dù bị bắt bớ giam cầm dã man trong suốt 34 năm qua. Ở hải ngoại, vẫn những chiến sĩ xung trận ngăn chặn mọi sự xâm nhập của CSVN trên mọi chiến tuyến. Xin cầu chúc “chân cứng đá mềm” tới những tấm lòng bất khuất mà thời nào họ cũng đứng lên trong dòng sinh mệnh của dân tộc Việt.

Là những người may mắn thoát khỏi nanh vuốt của tập đoàn cộng sản, chúng ta không thể nào ngồi yên để hưởng thụ, mà đã đến lúc phải góp sức vào công cuộc chung, tiếp tay với những anh hùng đang xả thân vì nước bằng cách vận động, góp tinh thần – dù chỉ là lời nói – cho quí vị lãnh đạo tinh thần, những nhà đấu tranh cho dân chủ ở trong nước đang ngày đêm gian khổ, sống chết trước sự đàn áp dã man của bạo quyền cộng sản.

Có như thế thì chúng ta mới không phụ lòng những anh hùng liệt sĩ đã nằm xuống cho chính chúng ta được sống. Có như thế thì mới không hổ thẹn với chính lương tâm mình mỗi khi nhìn lại chặng đường lưu lạc gian khổ suốt ba mươi bốn năm qua: “Ta đã làm được gì cho quê hương dân tộc”? Có như thế mới làm gương cho thế hệ trẻ trong việc gìn giữ nguồn gốc và tinh thần trách nhiệm đối với sự sinh tồn của dân tộc. Một Brian Doan, một Madison Nguyễn, một John Nguyễn cũng chỉ là một thiểu số nhỏ bé, bé hơn cả những hòn sỏi khi ném xuống mặt hồ yên lặng, vẫn chưa đủ sức làm gợn sóng lăn tăn. Thế nhưng, mặt khác của vấn đề là sự tỉnh thức của chúng ta, của tập thể người Việt không cộng sản, đó là đoàn kết và cố gắng chăm sóc cho thế hệ nối tiếp gìn giữ truyền thống giáo dục gia đình.

Nhân mùa quốc nạn, xin được thắp nén hương lòng gửi đến hồn thiêng của các anh linh tử sĩ, đồng bào vượt biển, vượt biên đã anh dũng nằm xuống cho đất mẹ sớm nở hoa tự do. Ðồng thời cũng xin được nguyện cầu bình an cho những anh hùng dân tộc đang ngày đêm chiến đấu một mất một còn với CSVN trên mọi mặt trận.

Lão Gà Tre
hieptr@hotmail.com




Thursday, April 16, 2009

Xin mọi người hãy cảnh giác một "địa chỉ đỏ" tại Cam Bốt - Ngô Văn Tài

NHỮNG HIỂM HỌA TIỀM TÀNG CỦA NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN CỘNG SẢN TẠI CAM BỐT

Ngô Văn Tài

Tác giả Ngô Văn Tài

Từ sau ngày mất nước 30 tháng 4 năm 1975, hàng triệu người Việt nam đã bỏ nước ra đi tìm tự do bằng đường thủy, đường bộ, và bằng tất cả mọi phương tiện mà họ có thể có được. Cái giá của tự do dân chủ mà người dân Việt mất nước phải đánh đổi là chính tài sản và tính mạng của họ và gia đình. Tất nhiên để có được khoảng 3 triệu người Việt đến được bến bờ tự do, thì cũng có xấp xỉ con số đó, gồm cả phụ nữ và trẻ em, đã phải vĩnh viễn nằm lại đâu đó trên hành trình đi tìm tự do đó mà mối hiểm họa đến từ nhiều phía: sự truy sát của công an biên phòng và hải tuần của cộng sản Việt nam, bão tố phong ba, hải tặc cướp giết.

Kể từ sau tháng 4 năm 1989, khi Cao Ủy Liên Hiệp Quốc Đặc Trách Về Người Tỵ Nạn (UNHCR) không còn công nhận thuyền nhân Việt nam là những người tỵ nạn chính trị nữa, thì chính phủ CSVN càng mạnh tay hơn trong các chiến dịch đàn áp các tổ chức tôn giáo, các chức sắc tôn giáo, những nhà bất đồng chính kiến, những nhà dân chủ và cả các sắc tộc thiểu số ở Tây nguyên khi họ đòi quyền được tự do tín ngưỡng, được tự do bày tỏ chính kiến và được quyền sở hữu đất đai mà tổ tiên họ để lại. Hệ quả của những cuộc đàn áp mạnh tay này là một làn sóng vượt biên bằng đường bộ của những nạn nhân là người Thượng cũng như người Kinh bất đồng chính kiến lại ra đời: Hàng ngàn người lại rời bỏ tổ quốc, vượt biên giới sang Cam bốt, đến văn phòng của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc Đặc Trách Về Người Tỵ Nạn (UNHCR) tại đây để xin được quốc tế bảo vệ.



Bởi không thể ngăn chặn được tất cả những người dám đối diện với cái chết để đi tìm quyền được sống này, chính quyền cộng sản Việt nam đã phải xây dựng một hệ thống tình báo ngoại tuyến và cài cắm sang Cam bốt những nhân viên mật vụ máu lạnh để theo dõi, để gây ly gián và để thực hiện những những cuộc bắt cóc, truy sát đối với những người tỵ nạn là những nhà bất đồng chính kiến, những nhà đối lập chính trị dám tiếp tục lên án và tố cáo tội ác của chế độ bạo quyền cộng sản Việt nam. Những tên tình báo này và hệ thống chân rết của chúng trên đất nước Chùa tháp chính là mối hiểm họa tiềm tàng của những người Việt tỵ nạn cộng sản tại đây. Tuy nhiên do nghiệp vụ tình báo siêu việt cũng như sự lưu manh xảo quyệt vốn có của những tên cộng sản, mà những nạn nhân của chúng khó nhận diện được chúng là những tên tình báo cộng sản máu lạnh. Và cứ thế, hết thế hệ người tỵ nạn này đến thế hệ người tỵ nạn khác tiếp tục là những nạn nhân bi thảm của chúng, mà ngay cả một số người Việt đang định cư ở nước ngoài đang ủng hộ phong trào dân chủ quốc nội cũng từng bị lung lạc, lừa bịp bởi những tên tình báo cộng sản này, để rồi nhiều cá nhân, nhiều tổ chức đã quay lưng với các phong trào dân chủ này. Tuy nhiên, chúng tôi không có ý chỉ trích những cá nhân, những tổ chức của người Việt hải ngoại đã rơi vào kế ly gián của những tên tình báo cộng sản đang hoạt động tại Cam Bốt đã bỏ rơi những nạn nhân của chế độ cộng sản, hoặc quay lưng với công cuộc đấu tranh của họ, mà chúng tôi chỉ xin được trình bày những điều mắt thấy tai nghe về những tên tình báo cộng sản khát máu này, bởi bản thân tôi cũng từng là một nạn nhân của nó, mà nếu không có quyền năng của Chúa thì có lẽ tôi cũng đã trở thành mồi ngon cho cá sấu trong một trang trại cá sấu của Bộ Nội Vụ Cam Bốt và cơ quan tình báo CSVN nuôi tại Nam Vang để thủ tiêu những người Việt tỵ nạn là những nhà chính trị đối kháng như lời đe dọa của một trong những tên tình báo cộng sản đã len lỏi được vào cộng đồng người Việt tỵ nạn chúng tôi. Với mong muốn thật nhỏ nhoi là cảnh báo cho những người Việt đang tỵ nạn tại Cam bốt cũng như những nhà bất đồng chính kiến, những nhà dân chủ trẻ trong nước biết những “vùng báo động đỏ hiểm nghèo” tại Cam bốt để có thể tránh né, nếu tình thế bắt buộc phải đào thoát sang đó lánh nạn cộng sản.

Tôi tên là Ngô Văn Tài, sinh năm 1948 tại Hải Dương, Bắc phần Việt nam. Năm 1954 tôi theo gia đình di cư vào Nam để tránh họa cộng sản.

Năm 1970, tôi nhập ngũ, tùng sự tại toán Tây Sơn thuộc Chiến Đoàn 1 Lôi Hổ, đồn trú tại Non Nước, Đà Nẵng. Năm 1975 sau khi cộng quân Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam, cùng một số chiến hữu chúng tôi tham gia lực lượng Liên Bang Chí Nguyện Quân Đông Dương tiếp tục kháng cộng cứu quốc cho đến khi lực lượng bị tan rã, chúng tôi lại tiếp tục sát nhập với lực lượng FULRO tại khu vực M’ Răng để tiếp tục cuộc kháng cộng cứu nguy dân tộc. Đến năm 1978 sau những trận đánh không cân sức do thiếu cả nhân lực và vũ khí, lực lượng của chúng tôi và FULRO cũng hoàn toàn bị tan rã, phần lớn chiến hữu của chúng tôi đã hy sinh, một số rất nhỏ vượt thoát được đến rừng núi thuộc Đông-Bắc Cam Bốt lẫn trốn, số còn lại bị bắt, bị án chung thân hoặc tử hình. Tôi lại may mắn cùng một số chiến hữu cùng án chung thân vượt ngục thành công từ trại tù Đại Bình vào cuối năm 1978 và sống ngoài vòng pháp luật, sống lưu vong trên chính tổ quốc của mình suốt gần 30 năm qua trong thân phận của những con người không gia đình không tổ quốc. Đến tháng 8 năm 2006 khi một số chiến hữu của tôi bị lộ diện, bị bắt giam và qua những thông tin mà lực lượng an ninh của CSVN thu thập được sau các cuộc tra tấn nhục hình các chiến hữu của tôi, thì nhân thân của tôi cũng bị bại lộ. Các lực lượng an ninh của bộ công an CSVN bắt đầu các chiến dịch truy quét làng quê của tôi tại Lạc Lâm, Đơn Dương, Tuyên Đức đồng thời cũng triền miên xách nhiễu mẹ già cùng những người họ hàng thân thuộc của tôi để mong tôi sẽ bị yếu lòng mà ra đầu thú, đầu hàng cộng sản, nên tôi phải tìm đường sang Cam Bốt lánh nạn.



Tại Cam Bốt, tôi đã đến trình diện với văn phòng của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc Đặc Trách Về Người Tỵ Nạn (UNHCR) để xin được bảo vệ bởi tôi đang đối mặt với sự truy sát của các lực lượng an ninh của CSVN. Nhưng than ôi, thật là họa vô đơn chí! Vào thời gian này Phủ Cao Ủy Liên Hiệp Quốc Đặc Trách Về Người Tỵ Nạn (UNHCR) tại Cam Bốt đang trong giai đoạn chuyển giao quyền phỏng vấn, xem xét và cấp quy chế tỵ nạn cho Bộ Nội Vụ Cam Bốt đảm trách, mà bộ nội vụ của chính phủ Cam bốt thực chất chỉ là một cơ quan an ninh ngoại vi của chính phủ cộng sản Việt nam, cho nên sau vài lần được các nhân viên người Khmer gốc Bắc Việt công tác tại Bộ Nội Vụ của Cam bốt phỏng vấn thì tôi đã bị từ chối quy chế tỵ nạn chính trị với lý do là là tôi không có giấy chứng nhận đã từng bị tù đày hay bất cứ một loại giấy tờ tùy thân nào do CSVN cấp phát cả. Đến lúc này, tôi mới phát hiện ra là tôi đã tự chui vào cái bẫy giết người do Bộ Nội vụ Cam bốt cùng chính phủ CSVN áp lực lên Phủ Cao Ủy Liên Hiệp Quốc Đặc Trách Về Người Tỵ Nạn (UNHCR) tại đây, giăng ra để bắt giết những người bất cộng đái thiên với cộng sản đang sống ngoài vòng pháp luật như tôi. Quá tuyệt vọng vì đang ở vào tình thế tấn thối lưỡng nan, tôi tìm đến một Hội Thánh Tin Lành của người Việt tỵ nạn tại Phnom Penh để xin tá túc và tôi đã nhận được sự giúp đỡ của Hội Thánh cũng như sự che chở đùm bọc của lãnh đạo Hội Thánh và của các anh em tín hữu ở đây, cũng là người cùng cảnh ngộ. Chính tại nơi đây tôi có điều kiện gặp gỡ nhiều người tỵ nạn cộng sản khác và cũng chính từ nơi đây mà tôi cũng được mở mắt ra để biết thêm về cái thế giới tỵ nạn cộng sản tại Cam bốt sao mà nghiệt ngã và phức tạp đến thế! Chính cái thế giới tỵ nạn nhỏ bé này đã dẫn dắt tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, càng tìm hiểu về nó tôi càng bàng hoàng càng sững sốt, nhưng có lẽ điều mà tôi ngạc nhiên và sững sốt nhiều hơn cả là bên cạnh những gia đình người tỵ nạn sống nheo nhóc, nhếch nhác, chen chúc trong những căn phòng chật hẹp, u tối và bẩn thỉu với những kiếp đời tối tăm, không định hướng, không tương lai, với từng ngày sống áo chẳng đủ lành, cơm chẳng đủ no, thì lại tồn tại một người tỵ nạn khác rất quyền uy, rất quý tộc, rất đế vương, sở hữu cả súng ngắn, súng dài, sở hữu cả xe hơi đời mới TOYOTA 4RUNNER và sở hữu cả một tòa biệt thự nguy nga đồ sộ có tường cao hào sâu để bảo vệ: Đó là một người tỵ nạn mang tên Nguyễn Công Cẩm.

Nhưng rồi điều ngạc nhiên đó đã được sáng tỏ khi vào một ngày cuối tháng Ba năm 2007, khoảng 3 ngày sau khi tôi nhận được quyết định từ chối tư cách tỵ nạn của Phủ Cao Ủy Tỵ Nạn Của Liên Hiệp Quốc tại Cam bốt, thì Nguyễn Công Cẩm đến tìm gặp tôi tại Hội thánh nơi tôi đang tạm trú, anh ta gọi tôi ra một nơi vắng, không xa Hội Thánh mấy, để bắt đầu câu chuyện. Cẩm đã giới thiệu với tôi rằng ngoài quân hàm trung tá mà anh ta đang mang của ngành an ninh thuộc hoàng gia Cam Bốt, thì bản thân anh ta là sỹ quan tình báo thuộc tổng cục an ninh của Bộ Công An Việt nam, rằng cơ quan an ninh của Việt nam đã theo dõi và biết rất rõ những hoạt động chống cộng của tôi từ lâu.



Họ cũng biết rất rõ là tôi đã sang Cam Bốt xin tỵ nạn và đã bị từ chối tư cách tỵ nạn, rằng sinh mạng của tôi đang nằm trong tay của cơ quan an ninh Việt nam mà đại diện cho cơ quan này tại đây chính là Nguyễn Công Cẩm; rằng anh ta có thể bắt tôi để giải giao về Việt nam bất cứ lúc nào anh ta muốn. Tuy nhiên “để thể hiện tính nhân đạo và khoan hồng của đảng và nhà nước, chỉ đánh người chạy đi, chứ không đánh người chạy lại”, cơ quan an ninh của Việt nam muốn mở cho tôi một con đường sống, đó là tôi phải hợp tác với cơ quan an ninh Việt Nam, làm ăng-ten cho anh ta, theo dõi mọi hoạt động của hội thánh nơi tôi đang ở, theo dõi mọi hoạt động của mục sư quản nhiệm, của ban chấp sự Hội thánh và của cả những người tỵ nạn Việt nam thường tới lui Hội Thánh, cũng như những mối quan hệ của Mục sư với bất cứ ai… tôi đều phải ghi nhận và báo cáo hàng tuần cho anh ta… Với thời gian làm việc cho anh ta là ba năm, sau đó bản thân anh ta và cơ quan của anh ta sẽ can thiệp với cơ quan pháp luật của Việt nam để họ chỉ xử án tôi 1 năm tù, và sau 1 năm tù ở thì tôi sẽ được trả tự do… Nếu tôi chấp nhận việc móc nối của anh ta, thì anh ta sẽ sắp xếp cho tôi được gặp cấp trên của anh ta. Để khủng bố tinh thần của tôi, hòng khiến tôi phải chấp nhận sự móc nối này, Nguyễn Công Cẩm đã không ngần ngại nói cho tôi biết rằng, trong thời gian vừa qua, có nhiều người Việt tỵ nạn tại Cam bốt đã từng bị bắt cóc dẫn độ về Việt nam chịu án, chắc với tuổi đời và sự từng trải như tôi thì tôi phải hiểu ai là tác giả của những vụ bắt cóc đó.

Không cần suy nghĩ gì thêm, tôi đã thẳng thắn trả lời với Nguyễn Công Cẩm rằng chống cộng để thủ tiêu chế độ cộng sản trên quê hương Việt nam là mục tiêu duy nhất của đời tôi và nhiều chiến hữu của tôi đã bỏ mình vì mục tiêu đó, nên tôi thà chết chứ không bao giờ phản bội lý tưởng của mình, không bao giờ phản bội lại những chiến hữu của mình. Vô cùng bất ngờ và tức giận trước câu trả lời của tôi, nhưng Nguyễn Công Cẩm cố giữ bình tĩnh, dặn dò tôi rằng anh ta nghiêm cấm tôi không được tiết lộ với ai rằng anh ta là sỹ quan an ninh của Việt nam cũng như tuyệt đối không được tiết lộ với ai về việc móc nối bất thành đó … rồi anh ta ra về. Tôi biết rằng, từ đây, Nguyễn Công Cẩm sẵn sàng thủ tiêu tôi vào bất cứ lúc nào để bịt đầu mối, nên liên tiếp những chuổi ngày sau đó tôi luôn sống trong tâm trạng âu lo triền miên. Dù vậy vì muốn bảo vệ an toàn tính mạng cho những người Việt tỵ nạn khác, tôi đã không ngần ngại tiết lộ cho họ biết Nguyễn Công Cẩm là ai để họ có biện pháp phòng tránh cho bản than. Thật đáng tiếc thay, một số nhà dân chủ trẻ khi đến Cam Bốt lánh nạn, dù đã nhận được lời cảnh báo của tôi rồi, nhưng do lòng hiếu thắng và khinh xuất của tuổi trẻ mà họ phải lâm nạn như trường hợp của nhà dân chủ trẻ Lê Trí Tuệ. Một số nhà dân chủ trẻ khác, trong một cuộc “đại yến” chia tay với “anh Cẩm”, để lên đường đi định cư ở Hoa kỳ, thậm chí còn mách lại với Nguyễn Công Cẩm rằng: “Chú Tài và mục sư Lũy nói với em rằng anh Cẩm là sỹ quan an ninh của cộng sản, nhưng em không tin đâu, em chỉ ước mong tất cả mọi người cộng sản đều tốt như anh vậy để dânViệt mình đỡ khổ, mà bản thân em cũng khỏi phải đi tỵ nạn như thế này”. Than ôi! Trung ngôn nghịch nhĩ! Trung ngôn nghịch nhĩ! Vi nhân nan! Vi nhân nan! Làm người sao khó quá! Chỉ vì lòng yêu thương, chỉ vì muốn che chở bảo vệ cho những chiến sỹ dân chủ trẻ mà tôi đã chuốc vạ vào thân! Không lâu sau khi nhà dân chủ trẻ này tiết lộ điều này với Nguyễn Công Cẩm thì anh ta đã đến nơi tôi đang trú ngụ gặp tôi, đưa cho tôi một gói cà phê bột và nói rằng thấy tôi không có việc làm, không có thu nhập, chắc là đời sống vật chất khó khăn lắm, nên Cẩm muốn giúp tôi có nguồn thu nhập bằng cách đưa tôi vào rừng đào cây kiểng cho anh ta, bù lại anh ta sẽ nuôi cơm tôi và trả công cho tôi thật bội hậu.



Nguyễn Công Cẩm là người sinh tại huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Tất cả mọi người ở Cam Bốt đều biết anh ta với tên CẨM và gọi theo tên NGUYỄN CÔNG CẨM, kể cả vợ con của anh ta. Nhưng trong giấy tờ do UNHCR cấp thì anh ta mang tên NGUYỄN CẨM CÔNG và sinh tại Sài Gòn. Ngoài ra trong quân đội Hoàng gia Cam Bốt thì Nguyễn Công Cẩm lại mang tên LY HENG.

Tôi hiểu được rằng ngày tôi phải trả giá cho lòng căm thù cộng sản của tôi đang đến rất gần nên tôi đã phải giả vờ ốm nặng không thể đi lao động được, để trì hoãn và tìm kế thoát thân. Và thừa lúc cuộc xung đột biên giới Thái-Miên nổ ra cả bộ nội vụ Cam Bốt lẫn Nguyễn Công Cẩm bị lôi vào những công tác liên quan đến cuộc xung đột này, tôi đã bí mật rời khỏi Cam Bốt, đến một nước láng giềng, vào tòa đại sứ của một quốc gia phương Tây xin tỵ nạn. Với sự giúp đở của các chiến hữu cũ của tôi trong lực lượng Lôi Hổ, với sự can thiệp kịp thời của các tổ chức quốc tế nhân quyền, và đặc biệt là với sự giúp đở của tiến sỹ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc điều hành của tổ chức cứu người vượt biển Boatpeople SOS, hồ sơ tái định cư ở đệ tam quốc gia để đoàn tụ với gia đình tôi đang ở vào giai đoạn cuối cùng. Với sự bình an trước những ngày được đến bến bờ tự do, tôi xin được ghi lại hành trình đi tỵ nạn của tôi, cũng như những nghiệt ngã, những uẩn khúc trong cuộc đời tỵ nạn và những hiểm họa tiềm tàng mà người Việt tỵ nạn tại Cam Bốt đã và đang phải đối mặt từng ngày. Với ước mong những thông tin của tôi sẽ góp một phần nhỏ, như một thông báo về một “địa chỉ đỏ” vô cùng hiểm nghèo trong thế giới người Việt tỵ nạn cộng sản tại Cam Bốt mà mọi người phải biết, cần phải tránh để giảm thiểu đến mức thấp nhất những rủi ro mà trước đây thầy Thích Trí Lực, nhà đối kháng chính trị Hồ Long Đức và nhà dân chủ trẻ Lê Trí Tuệ đã phải gánh chịu, bởi nếu lại cứ chủ quan, khinh xuất, hoặc nếu không nhận diện được ai là bạn, ai là thù trong cộng đồng tỵ nạn thì hiểm họa đến với bản thân sẽ thật khó lường!

Mùa Lễ Phục Sinh 2009
Ngô Văn Tài




Trích từ: http://tiengnoitudodanchu.org/modules.php?name=News&file=article&sid=7351


Đấu Tranh Bằng Lời Nói Và Đấu Tranh Bằng Hành Động Có Cùng Mang Tác Dụng? - Tuệ Vân

Tuệ Vân

Gần đây đã có một số người than van rằng “hành động đi, đừng nói nữa”. Nghe thì cũng đúng, nhưng trước khi nhắm mắt hành động thì cũng nên có câu hỏi rằng “nói có tác dụng đấu tranh hay không, nói có phải là vô ích hay không?". Nhưng muốn có giải đáp cho câu hỏi “đấu tranh bằng lời nói và đấu tranh bằng hành động có cùng mang tác dụng?” thì cần phải có một cái nền lượng giá. Cái nền lượng giá đó cần có ba yếu tố: thứ nhất là sở trường hoạt động. Thứ hai là tác dụng của việc làm. Thứ ba là ảnh hưởng tạo được.

Tại sao cần phải có cái nền lượng giá?

Cuộc sống con người luôn cần đến những sự so sánh hay lượng giá để tìm kiếm cho mình những vật thích hợp hay điều vừa ý. Chẳng hạn như chọn sách hay để đọc, chọn bạn thích hợp để quen, chọn thực phẩm có tiêu chuẩn bảo đảm sức khỏe để mua, vân vân. Càng nhiều dữ kiện để so sánh thì càng tốt. Tuy nhiên khi có quá nhiều dữ kiện mà lại không có một tiêu chuẩn chung và nền tảng để sàng lọc ra được những cái chính yếu cần thiết thì sự so sánh sẽ dễ dàng mất hướng và đi vào sai lệch. Do đó muốn có kết luận thực tế và hữu ích thì cần chọn ra những yếu tố căn bản để định giá sự việc.

Tại sao lại chọn 3 yếu tố trên làm cơ sở định giá?

Chọn lựa 3 yếu tố trên làm cơ sở định giá bởi vì con người thường sử dụng sở trường để phát huy tất cả những khả năng sẳn có vào sự tranh thủ thành công. Thực thế, sở trường một đàng mà đem sử dụng vào đàng khác thì khó có kết quả. Như người yếu mà đi làm nghề vác nặng vậy. Thứ hai là cần định giá xem việc đó có đem tới những tác động cụ thể, nghĩa là có tạo ra được những chuyển động mong muốn hay không. Thứ ba là xem coi những chuyển động sinh ra có đem tới được những ảnh hưởng tích cực cuối cùng hay không?

1. Sở trường hoạt động:

Trong môi trường sinh hoạt đối đầu CSVN, một cơ chế độc quyền đảng trị, với cả một hệ thống quyền lực chính trị và trấn áp trong tay, thì không có một tổ chức, đảng phái nào trong ngoài nước VN có thể tự nhận là có phương tiện đấu tranh hơn cộng sản. Mỗi nhóm, mỗi tổ chức, mỗi hội đoàn hay đảng phái vì thế phải dựa vào sở trường của tổ chức mình để hoạt động. Qua đó một số các phương thức đấu tranh đã được chọn lựa đưa ra. Chẳng hạn chủ trương dùng mặt trận truyền thông văn hoá để vận dụng người dân Việt Nam khắp nơi cùng đứng lên đấu tranh chấm dứt chế độ CS biến thái và xây dựng lại đất nước. Hay chủ trương đi về nước đấu tranh công khai bất bạo động với chính quyền CSVN, hay chủ trương sẵn sàng tham gia vào Quốc Hội VC, hay chủ trương hợp tác giúp chế độ CSVN sửa sai để phát triển đất nước theo chủ thuyết của cụ Phan Chu Trinh, hay kêu gọi thế giới ủng hộ để xây dựng XHDS cho CSVN, hay chọn lựa con đường từ thiện giải quyết vấn nạn xã hội dưới chế độ cộng sản và vận động người hải ngoại đóng góp tiền bạc để hỗ trợ việc làm từ thiện này vân vân … Ở đây chưa nói mỗi phương thức đúng sai ra sao, nhưng rõ ràng không thể nói truyền thông tuyên vận chỉ là nói (và vô ích?) còn làm việc từ thiện hay nhào vào sinh hoạt xã hội công dân trong chế độ CS biến thái mới là hoạt động, mới là hành động (!?). Để thấy rõ hơn, tuy nhiên cần phải có tiêu chuẩn lượng giá thứ hai, tức là:

2. Hiệu quả sự việc:

Những hành động hay lời nói mà vài thí dụ đã nêu ra ở trên, cần được đánh giá xem là có mang lại tác động cụ thể gì nơi đối tượng nhắm đến trong hành động, hay có mang lại tác dụng gì nơi người nghe hay người đọc hay không? Ở đây lời nói cần phải được hiểu là những phát biểu bằng lời hay bằng chữ.

Nhận định sự việc rõ ràng như thế thì chúng ta mới có thể thấy được những cái mà một số người gọi là “hành động” hay chê bai là “nói” bản chất ra sao. Và sẽ thấy chủ trương gọi là “hành động” công khai, đấu tranh bất bạo động, hợp pháp, giúp chế độ CS tốt dần lên, hay là hô hào làm từ thiện của một số tổ chức, có kết quả gì. Còn việc bị chê là “nói”, tức là sử dụng mặt trận văn hoá truyền thông để đánh bật những len lấn của CS trên các vùng đất tự do, để chỉ ra những quỷ biện, những ngụy luận, đưa ra những dữ kiện chính xác, để mọi người cùng tìm hiểu và cùng có thái độ dứt khoát với chế độ CS biến thái có tác động gì trong cuộc đấu tranh.

3. Ảnh hưởng tạo được:

Cơ sở cuối để định giá sự thành công hay hiệu quả là nhìn vào ảnh hưởng sau cùng đạt tới đối với chế độ và chính sách CS biến thái.

Thí dụ: vì “nói” qua mạng lưới thông tin điện tử cũng như trên báo chí, mà những dàn dựng tốn kém của chính trị thời cơ cũng như đối tác tài phiệt thế giới cho CS biến thái "êm xuôi" đã bể. Nguyễn Tiến Trung, Nguyễn Hoàng Lan, Trần Khuê, Nguyễn Xuân Ngãi, Phật giáo Về nguồn, Tin Lành đăng ký, Phạm Minh Mẫn hiệp thông vân vân … đã xẹp xuống một cách thảm hại, cũng như quốc hội CSVN 2007 được thổi lên là hình thái mở đầu cho chính trị đa nguyên đa đảng.

Chỉ vắn tắt như thế thôi, chúng ta đủ thấy rằng lời than phiền “hành động đi, đừng nói nữa” một là do không theo dõi tình hình và lười suy nghĩ mà sốt ruột, hai là một lối quỷ biện để lôi người nghe nhắm mắt làm theo những việc tầm phào, mất công mất sức, lạc hướng đấu tranh và vô tình phục vụ cho những toan tính thời cơ hay CS biến thái.

Tuệ Vân
Ngày 19 tháng 3 năm 2009