Thursday, April 16, 2009

Anh Hùng hay Anh Hèn - N Nguyen

N Nguyen

Các anh thấy không, cái đảng mafia CS của các anh lại làm hề, lại dở cái trò diễu dai, diễu dài, diễu dở ... cứ cố sức thọc lét thiên hạ nhưng chẳng làm được ai cười mà ngược lại mọi người chỉ còn biết lắc đầu ngao ngán sự đời.

Bấu lâu nay Trung Cộng tung hoành trên biển đông, ngang nhiên tiến vào lãnh hải Việt Nam, bắn giết ngư dân, đánh đắm ngư thuyền vậy mà cái đảng mafia CS của các anh lại không dám hở môi, câm như hến. Trong khi đó gia đình của các nạn nhân đã không nhận được một sự bảo vệ hay giúp đỡ gì của nhà nước, không cả một lời chia buồn, an ủi mà lại còn bị hăm he, đe doạ là không được than thở, oán trách ai cả! Các anh có thấy trên qủa đất này, từ cổ chí kim có cái chế độ nào khốn nạn như thế không ?!

Rồi đến khi Trung Cộng tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là của các chú (theo văn bản mua bán đã được Phạm văn Đồng ký vào ngày 14/09/1958) thì bao nhiêu cuộc biểu tình của người dân trong nước nổi lên bày tỏ sự phẫn nộ và lòng yêu nước đều bị dẹp tắt. Tai sao?! Dễ hiểu quá - nếu cha mẹ (không thông qua con cái trong nhà) đã lén ký giấy bán cái khoảnh đất sân trước nhà cho thằng cha hàng xóm mà bây giờ bầy con lại la lối, chửi mắng thằng cha hàng xóm thì coi sao cho đặng. Nên chi cha (lựu đạn) mẹ (mìn) phải ra tay bịt miệng bầy con lại nếu không thằng cha hàng xóm nổi giận đục cho phù mỏ thì bỏ mẹ.

Và thế là Nam Quan, Bản Giốc, cùng với hàng ngàn cây số vuông đất liền và biển Đông lặng lẽ ra đi không một lời từ biệt trong sự đắng cay, uất nghẹn của hơn 85 triệu con dân Việt Nam.

Một mặt thì lén lút ký giấy bán dần bán mòn giang sơn của Tổ Tiên Cha Ông để lại, một mặt thì đàn áp, đánh đập, bắt bớ tất cả những ai dám lên tiếng phản đối hay bày tỏ lòng yêu nước vậy mà bây giờ cái đáng mafia CS của các anh lại trân tráo, trơ trẽn bày ra những trò - nào là "Sổ Tay Pháp Lý Cho Người Đi Biển" (Lãnh hải Việt Nam, luật biển và Biển Đông - những điều cần biết) [1], nào là "Cần khơi dậy ý thức giữ gìn biển đảo của cha ông" [2], nào là "Việt Nam tổ chức thi tìm hiểu biển, đảo" [3], ...

Bu sịt!

Rồi bây giờ đùng một cái lại thêm tin là mới tìm thấy sắc chỉ cổ về Hoàng Sa của vua Minh Mạng [4]. Theo bản tin thì đây là một sắc chỉ được ban ra vào năm 1834, tính đến nay (2009) là đã 175 năm rồi, vậy mà cái màu son của dấu triện và nét chữ vẫn còn rõ ràng, sắc sảo như mới viết ngày hôm qua (?!) Sao mà nghi quá!

Thôi thì cứ tạm thời cho đây là "thứ thiệt", nhưng mà dùng sắc chỉ này để làm gì?! Đã có biết bao nhiêu chứng cứ lịch sử (những điều ghi chép trong sử sách, bản văn, bản đồ, cổ vật, ...) chứng minh và khẳng định Việt Nam là chủ nhân nhưng rất tiếc là chủ cũ (ex-owner) còn bây giờ hàng đã trao tay (có giấy tờ hẳn hoi) thì làm gì được các chú ba Tàu?!

Chẳng khác nào đảng mafia CS đã ký giấy bán nhà cho ngoại bang rồi mà bây giờ lại hô hoán lên là đã tìm thấy cái giấy chủ quyền căn nhà của mình. Vậy thì có giá trị gì và được ích lợi gì? Nếu có chăng thì hãy giữ lấy cái sắc chỉ ấy làm bảo vật hay đem ra bán đấu giá đồ cổ may ra kiếm được vài đô để nhét thêm vào cái túi tham của mình. Hơn nữa nếu Hoàng Sa, Trường Sa, Bản Giốc, Nam Quan, Biển Đông, ... không phải là của Việt Nam thì chú ba đâu có cần gì phải nhọc công dụ dỗ cái đảng mafia CS của các anh ký giấy nhượng bán cho họ. Nếu các quần đảo, những vùng biển, dải đất đó là vô chủ thì các chú cứ tự tiện, ngang nhiên chiếm giữ chứ cần gì phải trả giá, mua bán, dành giựt với Việt Nam.

Cấp lãnh đạo to đầu của các anh có cái bộ óc của "đỉnh cao trí tuệ" cho nên ăn nói "nhố nhăng" không có "lô-gích", hành xử cứ như bọn du đãng, du thủ du thực thì làm sao thuyết phục được ai. Hơn nữa các anh cũng phải biết rằng trong mọi "con người" cộng sản (Việt Cộng, Trung Cộng, Bắc Hàn, Cuba) đều có cái máu ăn cướp cho nên nếu lấy lý lẽ, luật lệ ra nói chuyện để mong rằng chúng sẽ biết phải trái mà hành xử đúng đắn thì e rằng đây là một chuyện khó tin nhưng không bao giờ có thật!

Bây giờ các anh cứ nghĩ lại trường hợp của chính các anh vào ngày 30/04/1975, lúc đó chúng tôi đâu có ký giấy tờ gì mua bán, đổi chác Miền Nam với các anh đâu. Bên cạnh đó lại còn có cái Hiệp Định Paris được các chóp bu đảng mafia CS của các anh vừa mới ký chưa ráo mực vậy mà các anh vẫn cứ điên cuồng, hung hãn đánh chiếm Miền Nam của chúng tôi; rồi còn đày đọa, bắt bớ, tù đày hàng triệu người dân Miền Nam và ra tay thủ tiêu hàng trăm ngàn Quân Dân Cán Chính VNCH bằng đủ mọi thủ đoạn đê hèn. Theo công pháp quốc tế thì đây là một sự cưỡng chiếm phi pháp, vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris. Vậy bây giờ chúng tôi lôi cái Hiệp Định Paris ra đập vào mặt các anh, thì các anh có bằng lòng rút hết trở về Miền Bắc để trả lại Tư Do cho Miền Nam chúng tôi không (và nhớ mang theo cả cái đám MTGPMN hết thời, đặc công, nằm vùng, tập kết cùng cái bọn ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản - trí thức nửa mùa, thành phần thứ ba và dĩ nhiên là luôn cả bà con dòng họ của các anh đã ào ạt, đổ xô vào Miền Nam "bị áp bức, đói khổ" sau nằm 1975, kể cả cái lũ "con cháu bác" mới được sinh sôi nẩy nở sau này trên vùng đất chiếm đóng). Dĩ nhiên là không! Huống chi bây giờ các chú có trong tay những giấy tờ nhượng bán (dầu chỉ là một mớ giấy lộn không có giá trị pháp lý) đã được cái đảng mafia CS của các anh thoả thuận ký kết. Vậy thì thử hỏi làm sao mà chú ba có thể trả lại những gì mà các chú đã nắm giữ được bấy lâu nay.

Còn khuya!

Lâu nay cứ ngỡ rằng, dầu là thuộc thành phần đầu trộm đuôi cướp, đâm cha chém chú , … nhưng để trở thành đảng viên, cán bộ lãnh đạo của đảng mafia CS thì ít ra cái đám này cũng phải được học qua các trường lớp chính trị Mác-Lê cao cấp ai dè lại toàn được cấp tốc đào tạo từ các trường kịch nghệ chuyên về môn hài. Nhưng khả năng diễn hài thối quá ngửi không nổi!

Còn riêng các anh, hởi các anh Quân Đội Nhân Dân “Anh Hùng”, đứng trước cảnh nước mất nhà tan thì các anh đã và đang làm được gì để bảo vệ giang sơn của Tô Tiên Cha Ông để lại?!

Các anh đã bỏ ra không biết bao nhiêu công sức, tiền bạc, của cải để tô son trét phấn cho chính các anh - những “anh hùng” đã từng đánh thắng hai đế quốc Pháp và Mỹ. Cái trò láo khoét, bịp bợm ấy nhằm vào hai mục đích: vừa (tự) bơm các anh lên tận mây xanh lại vừa dùng để tuyên truyền, nhồi nhét vào những người có đầu óc đặc sệt. Nhưng giờ đây chính các xảo ngôn, gian trá đó lại có những phản ứng ngược làm ô uế đến "danh dự" của các anh mà không thể nào che dấu hoặc cứu vãn được. Các anh vì lỡ mang giòng máu “anh hùng” của “đỉnh cao trí tuệ” cho nên cứ sẵn đà cương ẩu, thừa thắng nổ sảng làm văng miểng tùm lum, mà lại văng hết vào người của các anh, văng luôn cả bùn nhơ vào mặt các anh.

Vì ngày nay với sự lan rộng sâu mạnh của internet cùng với sự bạch hoá dần dần tài liệu về chiến tranh Việt Nam của Mỹ, Nga, Trung Cộng, ... thì bao nhiêu kho sách (trong nước và ở các thư viện ở ngoại quốc) ca tụng bác, ca tụng đảng, ca tụng cách mạng, ca tụng quân đội nhân dân anh hùng, chiến tích Điện Biên, đại thắng mùa xuân, ... nay đã trở thành là những câu chuyện tiểu thuyết kiếm hiệp, phong thần, là những chứng cớ rõ ràng và hiển nhiên nhất để nhận chìm bác, đảng, cách mạng và các anh trở xuống vũng bùn tanh hôi mà các anh đã xuất thân từ đó.

Gậy ông đập lưng ông!

Sau những cơn mưa sự thật cùng với những sự kiện đang diễn ra, bao nhiêu son phấn lòe loẹt bên ngoài của những kẻ tự xưng là Anh Hùng đã bị trôi đi mất đất chỉ còn trơ ra cái bản mặt của một đám Anh Hèn.

Chẳng lẽ bây giờ các anh phải chia nhau ra đi thu hồi lại tất cả những đống sách ấy về để liền vào sọt rác hay cân ký bán giấy vụn, để phi tang, để che dấu sự thật. Bây giờ các anh ăn nói làm sao, trả lời như thế nào với các thế hệ trẻ, với cái đám "con cháu của bác" về cái truyền thống anh hùng đã từng đánh thắng hai đế quốc nhưng sao nay lại hèn hạ cúi đầu trước sự xâm chiếm công khai của Tàu cộng. Xin các anh đừng đế chính con cháu của các anh phải khinh khi, kinh tởm các anh như cùi hủi.

Tàu cộng đã công khai lấn chiếm biển Đông, đánh chìm ngư thuyền, bắn giết ngư dân mà các anh đành làm ngơ, Tàu cộng đã ngang nhiên chiếm lấy Hoàng Sa, Trường Sa, Bản Giốc, Nam Quan mà các anh lại cúi đầu im thin thít. Rồi bây giờ cái đảng mafia CS của các anh lại rước voi về dày mả tổ trên Tây Nguyên với hàng ngàn (con số này sẽ lên đến số triệu trong nay mai) quân dân Tàu cộng đã tràn vào đây chiếm đóng để xây dựng căn cứ, làng mạc mà các anh lại nhắm mắt, quay lưng thì sớm muộn gì số phận của các anh cũng bị Tàu cộng tàn sát như chính các anh đã tàn sát lương dân của thành phố Huế trong dịp Tết Mậu Thân, trên Đại Lộ Kinh Hoàng trong Mùa Hè Đỏ Lửa. Quả báo sẽ đến với các anh chăng?!

Anh Hèn - anh Hùng rơm (CSVN)

Có một số trong các anh lại nhút nhát (tự xưng “Anh Hùng” mà lại nhát như thỏ đế?!) cho rằng tương quan lực lượng giữa Việt Nam và Tàu cộng là 1 chọi 100, 1 chọi 1000, như trứng chọi đá thì làm sao mà đánh thắng?! Khi thốt ra những lời này thì một lần nữa các anh đã tự vỗ ngực tự nhận mình là Anh Hèn chứ không phải là Anh Hùng. Hỡi các anh Quân Đội Nhân Dân “Anh Hùng” có nghe chăng -

Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến?
Quyết chiến!

Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh?
Hy sinh!

(Hội Nghị Diên Hồng - Lưu Hữu Phước)


Anh Hùng nước Việt

Nói đến tương quan lực lượng và sự quyết tâm chống ngoại xâm, đánh giặc thù thì các anh có cần đọc lại những bài viết và tài liệu [*] về trận hải chiến Hoàng Sa của chúng tôi không ?! Hay là vì tự ái và tự ti mặc cảm mà Quân Đội Nhân Dân "Anh Hùng" của các anh không dám đọc ?!

Hơn nữa đây là vấn đề sinh tử, bảo vệ non sông, đất nước chứ đâu có phải chuyện cờ bạc, cá độ mà các anh lại cứ đặt vấn đề thắng với thua. Nhưng nếu các anh là dân cờ bạc đang ngồi đánh xì phé với một tay chơi có vốn thật lớn thì các anh sẽ làm gì? Chẳng lẽ các anh cứ để nó lấy thịt đè người, gậm nhấm, tỉa lần hồi, cho đến khi cạo sạch túi của các anh ?! Nếu có thua thì phải thua cho xứng đáng. Do đó khi các anh có một tay bài tốt là "ta-pi" ngay (tố hết tiền). Phải tố cho đối thủ choáng váng mặt mày, đổ mồ hôi hột. Các anh phải chụp lấy thời cơ đánh một ván bài sinh tử, một ăn hai thua! Chắc các anh sẽ hùng hổ nói ngay rằng: "Nếu đánh như vậy thì trước sau gì cũng thua, mà thua thì chắc chắn là mất nước". Vậy thì xin thưa cùng các anh - bây giờ các anh không đánh Tàu cộng thì có giữ được nước hay không?

Thà một phút anh hùng để giữ nước
Còn hơn là chịu nhục đến bao năm!

Bây giờ các anh còn có thời cơ ra tay trước chứ cứ đợi cho đến lúc quân dân Tàu cộng tràn ngập đất nước Việt Nam thì khi đó các anh chỉ cần nhúc nhích vươn vai thở mạnh là đã bị siết cổ chết ngay, vậy thì còn đánh đấm cái đếch gì được.

Nhưng nếu đánh thì đánh như thế nào và đánh làm sao đây? Vấn đề ở đây là bất ngờ đánh cho thằng Tàu cộng một cái bạt tai nẩy lửa để buộc nó phải công khai và chính thức lên võ đài quyết đấu tay đôi với các anh.

Chắc các anh cũng đã quá rõ là tàu bè của bọn Hán gian cứ thản nhiên ra vào lãnh hải Việt Nam như chỗ không người. Không những thế chúng còn đuổi bắt và bắn giết các ngư dân như là một trò tiêu khiển giải khuây. Đã đến lúc các anh phải dạy cho chúng một bài học - cứ đế cho tàu chúng đi sâu vào (xâm phạm) lãnh hải Việt Nam rồi các anh chỉ việc cùng lúc bất ngờ khai hỏa đánh chìm tàu chúng. Nhưng phải nhắm vào một chiến hạm quan trọng để gây tiếng vang - đó chính là cái bạt tai nẩy lửa!

Rồi chuyện gì sẽ xảy ra?! Dĩ nhiên Tàu cộng sẽ lồng lộn, gầm lên đem hải, lục, không quân đánh trả - đó là các anh đã buộc nó phải công khai và chính thức lên võ đài quyết đấu tay đôi với các anh.

Và sự việc sẽ diễn tiến ra sao? Khi chiến tranh xảy ra thì quyền quyết định nằm trong tay của các anh chứ không phải là cái đáng mafia CS. Và lúc đó các anh đã đưa Việt Nam vào cái thế thượng phong, chủ động, vào cái thế chỉ có tiến chứ không có lui (no point of return). Nhưng quan trọng hơn hết, các anh là niềm tự hào, là niềm hãnh diện của dân tộc, là sức mạnh đã giúp toàn dân đứng thẳng người, ngẫn cao mặt, đồng lòng quyết tâm đối diện kẽ thù thay vì cứ mãi cúi đầu, lầm lũi bước đi, làm thân trâu mọi một cách nhục nhã. Các anh sẽ đánh những trận thư hùng với quân Tàu cộng để bảo vệ đất nước, để bao vệ nhân dân và cũng chính là để bảo vệ các anh và gia đình của các anh. Còn chuyện bảo vệ đảng mafia CS ư? Các anh lo xa quá - khi chiến tránh xảy ra là bọn chúng đã khăn gói cao bay xa chạy rồi chẳng còn có ma nào để các anh bảo vệ nữa đâu.

Bây giờ thì các anh sẽ thở dài than rằng: "Như vậy thì đất Việt sẽ tan hoang, dân Việt sẽ bị tàn sát (trong đó có các anh), nước Việt sẽ bị Tàu cộng xâm chiếm". Một lần xin thưa với các anh là: Nếu các anh không ra tay đánh Tàu cộng ngay bây giờ thì đất Việt cũng đã, đang, và sẽ tan hoang, dân Việt cũng đã, đang, và sẽ bị tàn sát (trong đó có các anh), nước Việt cũng đã, đang, và sẽ bị Tàu cộng xâm chiếm.

Nhưng trong trận chiến này các anh sẽ có những lợi thế mà trước đây chúng tôi (QLVNCH) không có:

- lúc trước chúng tôi vừa chống ngoại xâm lại vừa đánh nội thù (là các anh) do đó lực lượng của chúng tôi bị phân tán. Không những thế chúng tôi vừa phải chống trả lại vừa phải đưa thân ra hứng đạn (của các anh) để bảo vệ dân lành. Còn bây giờ thì các anh rảnh tay không lo gì nội thù và toàn bộ lực lượng hải, lục, không quân có thể kết hợp để sẵn sàng cùng lúc tung ra đánh ngoại xâm bất cứ khi nào;

- lúc trước chúng tôi bị cái đám ăn cơm quốc gia thờ ma CS cùng với các tổ đặc công nằm vùng của các anh ngày đêm quậy phá hậu phương của chúng tôi làm chúng tôi luôn bị phân tâm, chia trí, lo lắng không yên lòng để chiến đấu ngoài tiền tuyến. Còn nay thì các anh hoàn toàn được sự hậu thuẫn vững mạnh của hậu phươfng, điều này sẽ giúp cho các anh yên tâm và hăng say chiến đấu đánh quân thù ngoài trận tuyến;

- lúc trước chúng tôi bị “đồng minh” phản thùng buộc tay trói chân để cho các anh tha hồ đánh đấm chúng tôi, họ lại còn tiếp tay cho các anh bằng cách chơi cho chúng tôi một nhát dao vào ngay sau lưng đau nhói (cho đến bây giờ vẫn còn đang rỉ máu). Còn nay thì các anh không bị lệ thuộc vào một thằng đồng minh nào cả. Đó là một điều may mắn vì qua những bài học lịch sử đầy máu và nước mắt của cả hai miền Nam Bắc thì "Dựa vào chủ thuyết, thế lực ngoại bang dưới bất cứ hình thức nào cũng chỉ đưa Đất nước đến Điêu tàn và Dân tộc đến Bất hạnh mà thôi." (Việt Nam Điêu Tàn Bất Hạnh - Nguyễn Thuyên).

Tuy nhiên bên cạnh các anh luôn luôn có một đồng minh KHÔNG BAO GIỜ PHẢN BỘI đó là toàn dân Việt Nam. Một khi các anh nhắm mũi súng vào kẻ thù khai hỏa, và ở ngay phát súng đầu tiên là 85 triệu người dân trong nước sẽ đứng lên chung vai sát cánh cùng các anh, và hơn 3 triệu Người Việt Tự Do ở hái ngoại sẽ hết lòng hỗ trợ các anh bằng mọi cách, mọi giá và mọi phương tiện sẵn có.

Vây thì xin thưa cùng các anh là giữa hai cái chết - một cái chết ANH HÙNG được toàn dân tưởng nhớ tiếc thương và một cái chết ANH HÈN bị sử sách nguyền rủa đời đời - các anh chọn cái nào ?!

N Nguyen
(Tháng Tư Đen 2009)


[*] Một số bài viết về Trận Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974:

http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=45&nid=122143,
http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=115&nid=121584,
http://motgocpho.com/forums/showthread.php?t=3037,
http://phanchautrinhdanang.com/DATNUOCTA/YnghiahaichienHoangSa.htm,
http://thangtien.de/index.php?option=com_content&task=view&id=1098&Itemid=274,
http://www.calitoday.com/news/view_article.html?article_id=a5ba2df6a19cf5de74462e2e6c10291a

Tài liệu "Kịch bản" tham khảo:

[1] http://tuanvietnam.net/vn/nghexemdoc/sachhaynendoc/6394/index.aspx
[2]
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=307537&ChannelID=3
[3]
http://www.vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2009/03/3BA0D771/
[4]
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=309363&ChannelID=3



Wednesday, April 15, 2009

Lễ Công Bố Bạch Thư về Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông

Diễn giả Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Văn Canh

Hơn 500 đồng hương Sydney đến tham dự Buổi Lễ Công Bố Bạch Thư về Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông tại Trung Tâm Văn Hoá và Sinh Hoạt Cộng Đồng Người Việt Tự Do NSW ngày Chủ Nhật 12.04.2009.

Hình ảnh Dang955

Trích từ: http://lyhuong.net/viet/index.php?option=com_content&view=article&id=884:884&catid=39:sinhhoatcongdong&Itemid=58



ĐỪNG QUÊN THÂN PHẬN MÌNH !



Watch CBS Videos Online

THỦ ĐOẠN LY GIÁN KẾ CỦA BĂNG ĐẢNG MAFIA VIỆT TÂN - Trương Minh Hòa

Trương Minh Hòa

Một sự kiện được coi là qui luật là: xây dựng khó, mất nhiều thời giờ, trong khi phá hoại rất dể, nên mới có câu tục ngữ: "đốn củi ba năm thiêu rụi một giờ". Con người cũng thế, tạo uy tín rất lâu, nhưng bị tai tiếng chỉ một lần thôi, cũng lan nhanh hơn cả dịch bịnh, do đó một số người có tiếng tốt là chống Cộng như thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, chỉ trở về đón gió là coi như thân bại danh liệt, ngay cả những bậc tu hành "công đức rầm rộ" chùa to, tượng Phật lớn, đi đâu cũng có đệ tử đón rước chẳng khác nào "thế gian là Phật sắp thành" như Thích Như Huệ, Thích Phước Huệ, sư về nguồn .... nhất là có tên trong bản phong thần "3 quyển giặc thầy chùa" của Đăng Văn Nhâm; hay bên Công Giáo, Hồng y Phạm Minh Mẫn, chỉ sau lần lạm dụng tín ngưỡng để hạ cờ vàng ba sọc đỏ trong kỳ đại hội thanh niên thế giới tổ chức tại Sydney (Úc Đại Lợi) nên bị ngay chính tín đồ phản đối, tẩy chay. Đảng Cộng Sản Việt Nam và băng đảng Việt Tân là một, dù sông Hồng có thể cạn do đảng Cộng Sản Việt Nam cho phép quan thầy Trung Cộng bế đập ở thượng nguồn, dải núi Hoàng Liên Sơn lọt vào tay Trung Cộng, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi. Do hai tổ chức tuy hai mà một, nên thủ đoạn của cả hai đều là:

"Gian manh, ma giáo y chang.
Lập lờ, thủ đoạn, mười phân vẹn mười"

Từ thời đảng Cộng Sản còn suy yếu, lập lời ban đầu và sau khuynh đảo trong Mặt Trận Việt Minh, cho người lòn vào 25 đơn vị chống Pháp tự phát ở miền nam, dùng thủ đoạn lọc lừa, khủng bố, chiếm các chức chính trị viên biến nhiều đơn thành công cụ Cộng Sản núp dưới bình phong "đánh Tây giành độc lập"; con sâu Cộng Sản nằm vùng trong các đơn vị quân sự, phá nát lập trường yêu nước, gây phân hóa các tổ chức, đảng phái quốc gia qua thủ đoạn ly gián: như thời 1945, sau khi Nhật đầu hàng đồng minh, thời kỳ tranh tối tranh sáng, Hồ Chí Minh giả vờ mời Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần trong chính phủ liên hiệp, chính nhờ những người nầy mà lực lượng Việt Minh có điều kiện thuận lợi chiếm nhiều địa bàn hoạt động Đại Việt Quốc Dân Đảng, ngay cả Việt Nam Quốc Dân đảng sau nầy, bị đánh úp một số chiến khu. Sau 1954, cũng thủ đoạn ly gián cũ, tại miền Nam, đảng Cộng Sản dùng những người tập kết để phân hóa ngay trong gia tộc, dùng thành phần chức sắc Phật giáo cao cấp như Thích Trí Quang để xé Phật giáo thành hai phe, ngay cả thiếu tướng Nguyễn Cao kỳ, vì ngây ngô, mồm to mép giải, hữu võng vô mưu nên bị ngay cả đám sinh viên Cộng Sản là Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi .... khai thác mâu thuẫn tranh giành quyền lực với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong kỳ bầu cử 1971, nên Kỳ ủng hộ đám sinh viên Cộng Sản làm loạn, cho mượn cơ sở hoạt động chống chính phủ VNCH ngay trong khuôn viên của Phó Tổng Thống, cung cấp 2 ngàn quả lựu đạn M.K 3 để đám sinh viên nầy ném vào các phòng phiếu, làm kinh động cả thủ đô Saigon.

Câu chuyện của một sĩ quan tiếp liệu miền Nam, vì ham mê săn bắn chim nên bị đám em vợ gốc Việt Cộng nằm vùng, lợi dụng, giả vờ xin một số đạn dược để bắn chim, nhưng không ngờ chúng gian manh, ghi vào giấy mực; nên trong cuộc hành quân, quân lực VNCH tịch thu tài liệu và biết là sĩ quan nầy cung cấp đạn cho Việt Cộng, thế là bị An Ninh Quân Đội điều tra, thân bại danh liệt. Trong một gia đình, nếu các anh chị em hay có thói quen nghe lời người ngoài, xác xuất rất cao khi gặp những kẻ "đâm bị thóc, thọt bị gạo" làm anh em ly tán, thù nghich với nhau như kẻ thù, thường thấy nhiều gia tộc.

Tại hải ngoại cũng thế, băng đảng Việt Tân là công cụ của đảng Cộng Sản, là thứ "Mặt Trận Giải Phóng Hải Ngoại", đồng dạng với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam trước 1975, nên hoạt động của Việt Tân rất nguy hiểm, len lõi xâm nhập, có khi xuất hiện, trà trộn nào các tổ chức, nằm mai phục và khuynh đảo. Tổ chức Việt Tân lấy nguyên tắc "đa số phục tùng thiểu số" làm hành động, nên trong bất cứ tổ chức, kể cả tôn giáo, hể có đảng viên hay cảm tình viên Việt Tân nằm trong ban chấp hành, ban đại diện là coi chừng bị lộn xộn, tệ hơn là bị lái sang những hoạt động có lợi cho đảng:

"Việt Tân chánh hiệu Việt gian.
Xâm nhập, khuynh đảo, tiêu tan hội đoàn"

Một điều đau lòng là: trong băng đảng Việt Tân lại có cả một số quân nhân, công chức Việt Nam Cộng Hòa, bài học lập lại thời chính phủ Liên hiệp 1945, trong thành phần chính phủ do Hồ Chí Minh lãnh đạo, có cả những người quốc gia nổi tiếng như Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần, Huỳnh Thúc Kháng ... giống như đảng Cộng Sản, băng đảng Việt Tân có hai thành phần:

1. Đảng viên nổi: gồm các cơ sở Mặt Trận, nay thành cơ sở Việt Tân, hoạt động lộ mặt, lập đài phát thanh, báo chí ... những tổ chức râu ria như Hội Chuyên Gia, Liên Minh Việt Nam Tự Do; ngoài ra Việt Tân còn "đánh mùi" đón gió thính như "chó" nên tùy theo "triều cường chính trị" mà đẻ thêm nhiều tổ chức như: ủy ban bảo vệ người lao động, ủy ban vẹn toàn lãnh thổ. Cơ sở Việt Tân mặt nổi không đủ mạnh để lái quần chúng vào các hoạt động ĐẤU TRANH hình thức nhằm hùa theo chính sách "hòa hợp hỏa giải" của đảng ĐÁNH TRÂU tung ra hải ngoại, nên băng đảng Việt Tân dùng những mưu mẹp như tổ chức chống Cộng có kèm chương trình văn nghệ, một số ca sĩ giúp vui nhằm thu hút quần chúng, mời một số diễn giả có bằng cấp cao hay được quần chúng biết nhiều để lôi kéo cho đông. Lý do là nếu cơ sở Việt Tân đứng ra tự tổ chức những hoạt động của đảng, thì số người tham dự lèo tèo. Chính nhờ biết khai thác yếu tố "ham vui" của quần chúng, nên đó là một trong những lý do mà chính phủ sở tại các nước lầm tưởng Việt Tân là tổ chức bao trùm cả cộng đồng, nên chính phủ Hoa Kỳ thời George.W.Bush đã lầm lẫn khi mời Đổ Hoàng Điềm đến tòa Bạch Cung để tham khảo ý kiến về tình hình Việt Nam, trong khi họ không đếm xỉa gì đến những tổ chức cộng đồng dân cử và các chánh đảng chân chính khác.

2. Thành phần chìm: thuộc loại đảng viên "chiến lược" nằm vùng, trong sách lược "trèo cao lặn sâu", thành phần nầy gồm một số khoa bảng, nhà văn, thi sĩ và những nhân vật có tiếng, được uy tín trong cộng đồng. Dân chúng và nhiều người nhìn thành phần nầy, không nghi ngờ là Việt Tân, họ ngụy trang rất khéo và luôn luôn phủ nhận "tôi không phải là Việt Tân" như nhân vật Tám Khỏe trong tuồng cải lương "Người Ven Đô" do Út Trà Ôn đóng, có câu: "Tôi là Tám Khỏe, tuyên bố ly khai với Việt Cộng", nhưng thật ra Tám Khỏe áp dụng ngụy trang kế, khổ nhục kế, là cán bộ Việt Cộng, hoạt động ngay trong hậu phương quốc gia.

Cũng giống như trước 1975, mụ Nguyễn Thị Bình, bộ trưởng giáo dục trong quái thai "chính phủ lâm thời Miền Nam Việt Nam" là đứa con dị dạng của Cộng Sản Bắc Việt, lột xác từ Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam của Nguyễn Hữu Thọ, nặn ra để có bình phong trong hội đàm Paris, lúc đó mụ Bình chối dài: "không phải là Cộng Sản", nhưng sau 1975, thì đám nầy là Cộng Sản chánh hiệu "cờ đỏ sao vàng".

Thành phần Việt Tân chìm cứ len lõi, xâm nhập và khuynh đảo vào các hội đoàn, đỉnh cao và cũng là mục tiêu "chiến lược thời thượng" là lợi dụng dân chủ trong các cuộc bầu cử để vào trong các ban Chấp hành Cộng Đồng Người Việt tự Do, đoạn lợi dụng chức vụ, để phối hợp với các "cơ sở Việt Tân nổi" với chiêu bài cũng: chống Cộng, đấu tranh dân chủ, đa nguyên nhưng thật ra thì ru ngũ bằng "đấu tranh ôn hòa, bất bạo động". Do đó, có nhiều cộng đồng đã bị Việt Tân xỏ mũi, để dắt tay nhau đi theo "tấm bản chỉ đường: hòa hợp hòa giải theo định hướng xã hội chủ nghĩa" mà không hay.

Cho nên qua những thủ đoạn "cực kỳ xảo trá, đá cá lăn dưa" của băng đảng Việt Tân, người ta có cảm tưởng "khắp nơi nơi đều là Việt Tân", tình trạng nầy giống như miền Nam trước 1975, trong làng, quận ... chỉ có vài tên Việt Cộng khủng bố, thế mà dân chúng sợ, phập phòng, cứ ngỡ là: "khắp nơi nơi đều là Việt Cộng, Có những đoàn quân từ trong lòng đất ...", sau 1975, mới biết Việt Cộng không đông như người ta hiểu lầm, khi các đơn vị quốc gia cấp tiểu đoàn, bàn giao trong vòng trật tự cho một tiểu đội Việt Cộng, tuân hành lịnh của Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh.

Tại hải ngoại, qua các hoạt động của băng đảng Việt Tân, người ta có cảm tưởng "khắp nơi nơi đều là Việt Tân" nhưng thực ra thì "đám giặc cỏ Việt Tân" hải ngoại không đông, hãy nhìn những cuộc họp hành, có cộng đồng hổ trợ để nghe những nhà "cách miệng" mồm to mép giải, giải, với tài lếu láo từ trung ương như Lý Thái Hùng, Đỗ Hoàng Điềm .... đến các địa phương, số người tham dự, trong đó tính luôn ban tổ chức, vợ con, thân hữu "như buổi chợ chiều mùa đông" chừng vài chục (nếu nơi có dân số hơn 10 ngàn dân Việt) hay dưới 100 (nếu dân số khoản 60 ngàn trở lên) tại Úc Châu là bằng chứng, người ta nhìn thực lực nầy mà đánh giá Việt Tân "mạnh như thế nào".

Chẳng những Việt Tân nhi nhô "lấy thiểu số chế ngự đa số" qua cuộc "giành dân chiếm đất" với một trận chiến "không qui ước" như trước 1975 ở miền Nam. Những hoạt động Việt Tân, dù ngụy trang, cũng khó thành công như thời Việt Minh qua: xâm nhập, khuynh đảo, đưa tổ chức vào quỹ đạo đấu tranh "ôn hòa" ru ngủ và biến hải ngoại thành đất "giải phóng" đoạn chờ ngày bàn giao trong vòng trật tự cho Việt Cộng, là hoàn thành công tác xuất sắc. Băng đảng Việt Tân áp dụng những "mũi giáp công" trong trường kỳ, được nhìn thấy là Ly gián kế, sách lược có mục đích làm giảm khả năng đối phương, mục đích chính là tạo nghi ngờ và từ đó châm thêm những mâu thuẫn để làm tan rả cả tổ chức thành nhiều mảnh vụn và từ đó khai thác, tạo rối ren khi các hội đoàn kình chống nhau quyết liệt, thay vì chống kẻ thù chung là Việt Cộng, Việt Tân, Việt Gian, rồi sau khi làm tiêu tán, đoạn "cải tạo" các mảnh vỡ và gom lại, lái sang phục vụ cho Việt Tân qua những kẻ lãnh đạo ham danh, trở thành sứ quân tại các nơi có nhiều người Việt định cư. Hiện tượng có nhiều hội đoàn chia hai và trong một cánh đương nhiên là có Việt Tân công khai hay ngấm ngầm giựt dây; giai đoạn nầy kéo dài từ nhiều năm qua và sau nầy khi cánh không Việt Tân suy yếu, là cái màng "tiếp quản trong vòng trật tự" với chiêu bài đoàn kết được đưa ra và dàn dựng một cách khéo léo.

Trong một số tổ chức, kể cả cộng đồng Người Việt tự Do, băng đảng Việt Tân "điều nghiên" thành phần trong các ban chấp hành, rồi khai thác những người có đầu óc tiêu cực, cầu an, ham danh, thích "phô trương mà không muốn đấu tranh", thành phần nầy được ngấm ngầm móc nối bằng nhiều phương thức, phù hợp với đường lối đấu tranh "ôn hòa" ru ngủ, nên tạo xung đột giữa các thành viên khác; chưa nói đến những hậu quả khác, chỉ cần các hội đoàn mâu thuẫn giữa các thành viên, là kẻ hưởng lợi là Việt Cộng và Việt Tân, rồi dần dần ảnh hưởng, đưa những công tác của Việt Tân qua các thành viên tiêu cực, mù mờ, nên trong thời gian qua, nhiều cộng đồng có hiện tượng xuất phát một số việc làm như thắp nến, cầu nguyện, biểu tình trật mục tiêu, xin chữ ký .... là do bị uống phải thuốc mê của Việt Tân mà không hay, đinh ninh là "đấu tranh đúng hướng" là phù hợp với đấu tranh chánh trị, dân chủ hóa toàn cầu. Đấu tranh kiểu nầy là Cộng Sản không bao giờ sụp đổ, gián điệp nằm vùng, Việt gian vui mừng, nhưng người tham gia đấu tranh chỉ làm mất thời giờ, hao tốn đèn cầy, công sức. Nhưng nên đề phòng là biết đâu băng đảng Việt Tân xin chữ ký để nộp cho cục tình báo hải ngoại để đảng đánh giá tình hình mà có những sách lược thích hợp trong các giai đoạn?.

Nhằm tung hỏa mù về những "thành quả" hoạt động "chất lượng cao" trong nước, vì ở hải ngoại, băng đảng Việt Tân không đủ khả năng để lôi cuốn, thuyết phục quần chúng sau khi bị bể từ: chiến khu dỏm, kháng chiến quân ma với 10 ngàn quân, thu tiền, hành vi chẳng khác nào thảo khấu như giết người trong chiến khu; ma cô du đảng, thanh toán những người không đồng ý, lột mặt giả Mật Trận Hoàng Cơ Minh ở hải ngoại ..... nên băng đảng Việt Tân tung ra hỏa mù về một số tổ chức "phản tỉnh giả" trong nước, nổi bật với cái gọi là KHỐI 8406, qui tụ một số thành phần giả, gài bẫy bắt những nhà dân chủ thật, nằm tù dài hạn, trong khi phản tỉnh giả cứ tiếp tục "la làng chống đảng" như nhà dân chủ phòng lạnh Nguyễn Khắc Toàn, Trung tá Trần Anh Kim .... Việt Tân vừa có tiếng là có tổ chức liên hệ trong nước để "tháo gỡ độc tài" để gỡ gạc phần nào uy tín bị tiêu tán từ lâu, vừa thu tiền ủng hộ và vừa làm cho người Việt hải ngoại phân hóa thêm; vì có một số người u mê ủng hộ khối 8406, nhưng cũng có nhiều người nhìn ra sự thật, gây tranh cãi, là lọt vào ly gián kế của Việt Tân, thủ đoạn thâm độc vô cùng. Nên trong bất cứ hội đoàn nào, kể cả hội quân nhân, gia đình quân đội, binh chủng .... hễ có người nào đó ủng hộ khối 8406 là có tranh cải và những kẻ ủng hộ hay lợi dụng thu tiền, làm hội đoàn rạn nứt tình cảm với nhau.

Trong các tổ chức, tôn giáo, từ hình thức đến nội dung, băng đảng Việt Tân "điều nghiên" và khai thác những "mắc xích yếu nhất" để xâm nhập, bẻ gảy, lủng đoạn, nên ngoài vấn đề nhân sự kể trên, họ còn lợi dụng cả triết lý tôn giáo để len lõi, lái sang mục tiêu "hòa hợp hòa giải theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Như trong Phật Giáo với "đại hùng-đại lực-đại từ bi" luôn áp dụng cả ba trong vấn đề hành đạo lẫn cư xử ngoài đời; thì băng đảng Việt Tân xé lẻ ra và áp dụng cái nào có lợi cho họ, nên "đại từ bi" mà mắc xích yếu nhất và dễ bị lạm dụng nhất trong Phật Giáo, chính cái đại từ bi áp dụng riêng rẽ mà trong Phật Giáo xuất hiện rất nhiều: "gian, tham, ác, dâm" tăng, làm hoen ố đạo pháp, thanh danh đức Phật, mức độ phạm giới trầm trọng đến nỗi "khắp chùa am đều là sư hổ mang", nên có người nói đùa là: "Phật giáo mà hết dâm tăng, thì lấy ai mà hành đạo nữa" nên trong cái "đạo Phật ngày nay", trong hàng ngũ tăng ni, dù "không làm động tới móng tay" mà đa số là "triệu phú Phật Giáo", thời MẠT PHÁP là cơ hội biến những kẻ gian giả vờ đi tu thành MẬP PHÁT. Ý nghĩa Từ Bi được lái sang "sống chung hòa bình" không hận thù, dù Cộng Sản tàn sát hàng chục triệu người, đàn áp tôn giáo dã man, ý nghĩa từ bi trở thành "hòa hợp hòa giải" bao dung nên phù hợp với chủ trương "đấu tranh bất bạo động để lật đổ chế độ độc tài Cộng Sản", là cách mà giúp cho đảng Cộng Sản được bền vững, vì người dân "đại từ bi" mà bao dung, khoan hồng quỷ vương, quỷ đỏ vô điều kiện là tạo thêm cơ hội cho quỷ đỏ tiếp tục lộng hành.

Cho nên người ta không ngạc nhiên khi thấy một số tu sĩ, cư sĩ, nổi tiếng chống sự đàn áp tôn giáo ngây thơ hay cố tình ủng hộ và "nhất trí" đường lối của Việt Tân qua các bản TUYÊN CÁO, TUYÊN BỐ .... đứng chung với cái nhân vật đại diện đảng phái xé lẻ, chủ trương "hòa hợp hòa giải" với Việt Cộng trong các chánh đảng khác; ngoài ra còn có đám tu sĩ về nguồn, tu sĩ công an giả dạng hỗ trợ mạnh, ra sức "thuyết pháp" có thu vào DVD để ru ngủ và khuyên đừng "bạo động" cứ yên tâm, vái Đức Phật, cầu nguyện rầm rộ tại chùa lờn, nhờ Phật trời ra tay diệt dùm Việt Cộng ... thì chờ tới ngày tận thế, Việt Cộng vẫn "thanh tâm trường cai trị" đất nước Việt Nam, là một huyện phía "cực nam" của Trung Cộng, đợi đến khi cả nước nói và viết tiếng Quan Thoại, thì coi như quá trễ. Trong Phật Giáo, câu chuyện ngụ ngôn Tây Du Ký, là một lối hành đạo tiêu biểu qua nhân vật Tôn Ngộ Không, áp dung một cách đúng đắn "đại hùng, đại lực, đại từ bi" trên đường thỉnh kinh, đủ thấy cái tinh túy Phật Giáo cũng có hàm chứa "gặp ma quỷ thì đánh, đến chùa thì tu" trong tinh thần "diệt gian trừ bạo" để bảo vệ chánh pháp; do đó sau khi đến Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, Tôn Ngộ Không đắc quả "chiến thắng Phật". Như vậy Phật Giáo không phải chỉ đưa cái bụng ra "từ bi", mà phải có lý trí phán đoàn xem đúng hay sai và khi gặp kẻ ác, cũng phải ra tay trừng trị kẻ ác, cứu nhân độ thế. Câu chuyện giai thoại về Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi Ngài đắc đạo, ma quái tới phá ngài dùng phép thần thông làm rung chuyển cả đất, khiến ma quái phải bỏ chạy. Tuy nhiên chính cái lối hành đạo" phản ứng thụ động" của Phật Giáo, được giới Phật tử áp dụng một cách sai lạc, cũng là một trong nhiều nguyên nhân đưa đến pháp nạn sau 1975. Trái lại, Cộng Sản vô thần đã dùng lối "chủ động" để đánh phá chính quyền miền Nam trước 1975, qua những tên "tu hành ở quốc gia, thờ ma Cộng Sản" thuộc khối Phật Giáo Ấn Quang trước 1975. Khai thác lối tu thụ động, nên băng đảng Việt Tân lợi dụng, thành ly gián kế, làm phân hóa hàng ngũ Phật Tử khi thấy có những người mà trước đây có thành tích "bảo vệ đạo pháp" đấu tranh trường lỳ để đòi tự do tôn giáo, bỗng thấy có tên trong bản tuyên cáo, có nhiều thành viên băng đảng Việt Tân ... làm cho dân chúng hoang mang, nghi ngờ.

Công Giáo cũng bị khai thác yếu tố "nhân ái" là tiền đề, bị lái sang khoan dung, BAO DUNG, tha thứ kẻ thù Cộng Sản, trong khi đảng cướp vẫn luôn BUNG DAO sẵn sàng đâm sau lưng, trước mặt để tận diệt Công Giáo. Cho nên, trong Công Giáo vẫn không tránh khỏi những tín đồ của Chúa mà chấp nhận sống "hòa hợp hòa giải" với quỷ đỏ, hành động quyên góp xây dựng nhà thờ thêm cho giáo hội quốc doanh, từ thiện giúp đảng đỡ gánh nặng khó khăn kinh tế.

Do thế lực của băng đảng Việt Tân không đông, nên chúng tìm mọi cách xâm nhập vào các tổ chức nêu trên, ngoài ra còn vói bàn tay lông lá và những tổ chức đấu tranh như: biểu tình chống văn hóa vận, 30 tháng 4 hàng năm và thỉnh thoảng có nhiều vấn đề thời sự như biểu tình các chuyến công du của những tên đầu sỏ Việt Cộng .... đây là những CƠ HỘI rất tốt để băng đảng Việt Tân nhào vào ăn có, họ cũng trương mặt ra, giả vờ tham gia, hợp tác trong công việc chung nhưng lúc mọi người không đề cao cảnh giác, thì họ lái sang cuộc đấu tranh theo hướng Việt Tân như: mặc áo thun "diễn hành cho tự do" các thành viên mặc đồng phục, dùng dấu hiệu riêng và các cơ quan truyền thông của họ chụp hình, đăng tải những gì mà họ tham gia, nên dân chúng ở xa, đọc báo, xem đài nghe radio, tưởng do đảng Việt Tân chủ xướng.

Đó là thủ đoạn gian manh mà Việt Minh đã mang cờ đỏ vào năm 1945, với vài ba tên, rồi bắn vài phát súng và sau đó tuyên truyền là do lực lượng của Hồ Chí Minh. Đương nhiên là trong các cuộc chống Cộng chung nầy, bán tổ chức hay đăng báo các hội đoàn tham dự, thì trong đó có đại diện của băng đảng Việt Tân, là vô tình chấp nhận tổ chức tay sai công cụ của Việt Cộng trong cộng đồng. Sự kiện nầy xảy ra từ nhiều năm nay, cần phải chấm dứt, nên các tổ chức cộng đồng, nên loại bỏ Việt Tân ra khỏi các cuộc đấu tranh, vì sự có mặt của Việt Tân mang đến những hệ quả sau đây:

- Vô tình công nhận tổ chức tay sai Cộng Sản nầy trong cộng đồng, cũng như băng đảng nầy chủ trương công nhận đảng Cộng Sản "là thành phần dân tộc, Hồ Chí Minh có công với đất nước" rõ ràng hơn cả "đêm giữa ban ngày".

- Những hoạt động trong các cuộc đấu tranh cộng đồng bị lợi dụng và từ phương tiện truyền thông của chúng, làm cho người ta hiểu sai lạc và tưởng Việt Tân bao trùm cả cộng đồng.

- Những phá hoại ngầm ngầm mà băng đảng Việt Tân đứng chung, nguy hiểm vô cùng.

- Những người quốc gia, tổ chức chính trị nghi ngờ nên có thể không tích cực tham gia, khi thấy có Việt Tân trong đó.

Ngoài ra, thủ đoạn tạo nghi ngờ, ly gián qua các TUYÊN CÁO từ cộng đồng, đảng phái khái, tôn giáo đều được băng đảng Việt Tân nhắm tới, lơi dụng hai chữ "ĐOÀN KẾT" chống kẻ thù chung, băng đảng Việt Tân cho người chen vào, đại diện, ký tên và bản tuyên bố chung thật là "hòa hợp hòa giải" là vô tình giúp cho bộ máy tuyên truyền của Việt Tân thổi phồng, gây hoang mang trong dân chúng nên khi đọc những tuyên cáo thấy bên cạnh các đảng phái như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, đại diện hải ngoại Phật Giáo của huề thượng Quảng Độ lãnh đạo, Hòa Hảo, Cao Đài, Thiên Chúa, Tin Lành, nhân sĩ, nhà văn, nhà thơ có đại diện Việt Tân, là coi như bị DÍNH DẦU NHỚT, tạo cho dân chúng, tín đồ nghi ngờ, là lọt vào Ly gián kế của băng đảng Việt Tân. Do đó, những cuộc tập hợp đảng phái, ra ra tuyên cáo, hảy loại ngay đại diện băng đảng Việt Tân, vì đây là tổ chức "giải phóng hải ngoại" để tiến tới bàn giao trong vòng trật tự cho Việt Cộng.

Câu chuyện ở vùng khai hoang đất đai ở những vùng rừng, khi một số gia đình lập nghiệp, trồng khoai, lúa bị đám khỉ trong rừng ùa ra ăn, phá dùng nhiều biện pháp như bẫy sập, bắn cũng không đảo ngược tình hình. Rồi có một sáng kiế thật hay, có kết quả ngay, là bắt một con khỉ trong bầy, đe, cạo đầu, sơn màu toàn thân và thả ra. Khi con khỉ nầy chạy theo bầy, thì cả bầy thấy lạ, bèn hoảng sợ bỏ trốn sâu vào rừng, chỉ mẹo vặt mà tránh được nạn khỉ phá. Tại hại ngoại, băng đảng Việt Tân không còn uy tín, gây nhiều tai tiếng, nên khi người của Việt Tân đứng chung là coi như dính bùn và từ đó cộng đồng, các tổ chức nhìn thấy Việt Tân trong đó là tránh xa, tức là lọt vào ly gián kế.

Trương Minh Hòa
15.4.2009


Monday, April 13, 2009

34 năm nhìn lại cuộc chiến chống CSVN - Phạm Bá Hoa


Phạm Bá Hoa

1. Cuộc chiến sau cuộc chiến 1954-1975.

Việt Nam Cộng Hòa chúng ta bị quân cộng sản nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây chiến tranh từ năm 1954. Sau 21 năm với khoảng 10.000.000 thanh niên “sinh Bắc tử Nam”, họ đã chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng ta vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 (con số này trích đoạn bà Lê Duẫn trả lời phỏng vấn của phóng viên Xuân Hồng đài BBC ngày 23/12/2008). Từ đó, chúng ta mất tự do! Mất tự do là mất tất cả trên quê hương Việt Nam!

Từ những đợt di tản đầu tiên (1975) đặt chân trên những xứ sở đón nhận chúng ta tị nạn cộng sản, lần lượt 20 năm kế tiếp (1976-1995) với làn sóng ào ạt vượt biên vượt biển và các chương trình đoàn tụ gia đình, HO, con lai, nhân đạo, đến nay (2009) ước tính Cộng Đồng chúng ta trên khắp thế giới vào khoảng 3.000.000 người mà đa số đã trở thành công dân bản xứ. Ngoài bổn phận với quê hương thứ hai, chúng ta còn bổn phận với quê hương Việt Nam cội nguồn. Đó là bổn phận góp phần dân chủ hóa chế độ trên quê hương Việt Nam để giành lại quyền làm người cho 86 triệu đồng bào. Đây là cuộc chiến có tính cách toàn diện, một cuộc chiến mà mọi sinh hoạt xã hội đều là “vũ khí” trong cuộc chiến này và “truyền thông và vận động chính trị tại các quê hương thứ hai ” là vũ khí quan trọng nhất.

Sau 34 năm (1975-2009) nhìn lại những gì Cộng Đồng chúng ta trên khắp thế giới có hay không có kết quả trong cuộc chiến tiếp tục chống CSVN. Tôi nói “tiếp tục chống cộng sản” vì sau khi bị cộng sản Việt Nam cai trị (1975) với chế độ độc tài, tôi quan niệm những hành động:

  1. Không chấp nhận giao nhà cửa tài sản cho chúng để đi khu kinh tế mới là hành động chống cộng sản.
  2. Vượt biên vượt biển để chạy trốn chế độ độc tài tàn bạo là hành động chống cộng sản.
  3. Với những cách phản kháng quân đội và công an trong những trại tập trung (họ gọi là trại cải tạo) là hành động chống cộng sản.
  4. Những người ra đi trong các chương trình “đoàn tụ gia đình, con lai, nhân đạo, H.O. là hành động chống cộng sản. Nói chung bất cứ những hành động nào thể hiện ý thức chính trị không chấp nhận chế độ độc tài cho dù hiểu theo nghĩa thụ động hay chủ động, đều là hành động chống cộng sản.
Tại hải ngoại, phương thức đấu tranh thông thường của Cộng Đồng chúng ta để phản đối hay ủng hộ một vấn đề nào đó, như mít tinh biểu tình, thư phản kháng, thư thỉnh nguyện, điện thoại, điện thư (fax), vi thư (e-mail), … . Đó là hành động bày tỏ ý thức chính trị chớ chưa phải làm chính trị như không ít người cho rằng “tôi không làm chính trị nên tôi không tham gia” như cái cớ để đứng bên ngoài, trong khi tự cho mình cái quyền phê phán người khác. Trong sinh hoạt Cộng Đồng, chúng ta đến với nhau là do tinh thần trách nhiệm, không một ai hưởng bất cứ một quyền lợi vật chất nào từ tổ chức mà người đó tham gia, trái lại thường bị những mẫu người nói trên chỉ trích lắm khi nặng lời. Một câu nói tưởng như đùa nhưng là kinh nghiệm thực tế với chút đắng cay: “Sinh hoạt Cộng Đồng mà không bị chửi là chưa có kinh nghiệm” Nghĩ cho cùng, câu ấy rất thực. Dĩ nhiên, với quyền tự do ngôn luận tại các quê hương thứ hai, mọi người đều có quyền khen hay chê những cá nhân khác, nhưng không phải vì vậy mà tự chà đạp liêm sỉ chính mình.

Trong những năm gần đây có dư luận cho rằng: “Mấy chục năm nay các anh đấu tranh gì mà chẳng thằng cộng sản nào rụng cái lông chân, vậy mà các anh cứ nhắm mắt đấu tranh cho mất thì giờ vô ích”. Riêng bản thân tôi khi đến dự đại hội của Hội Thủ Đức Houston kỷ niệm 25 năm thành lập vào cuối tháng 12 năm 2008, ngay lối vào cửa nhà hàng Ocean Palace tôi gặp người bạn “thích nói nhưng không thích làm”. Trong khi bắt tay nhau, anh ấy “phang” tôi một câu: “Già rồi sao không nghỉ cho khỏe, dính líu hội hè chi cho mệt. Tôi mới từ Việt Nam về lại Mỹ, cộng sản nó giàu nó mạnh lắm, 50 năm nữa mấy anh chẳng làm gì nó được đâu”. Nói xong, anh ấy ra xe với dáng “hiên ngang” như thể vừa dạy tôi bài học. Vâng, tôi vừa học bài học, nhưng là “bài học để tránh anh ấy chớ không phải bài học để làm theo anh ấy”. Tôi nghĩ, quí vị đã và đang tham gia sinh hoạt Cộng Đồng, thể nào cũng có lần nghe những câu đại loại vừa châm biếm vừa chê bai như vậy! Xin quí vị hãy kiên nhẫn nếu quí vị tin rằng “con đường” quí vị đã chọn và đang đi là đúng.

Tôi có nét nhìn khác với anh bạn vừa “dạy tôi bài học” nói trên, anh ấy thuộc mẫu người thích “xênh xang áo gấm về làng hưởng thụ trên sự đau khổ của người con gái Việt Nam”, và càng khác những ai cho rằng cuộc đấu tranh của Cộng Đồng chúng ta không làm rụng sợi lông chân nào của cộng sản. Xin hiểu rằng, mục đích cuối cùng trong cuộc đấu tranh của chúng ta là góp phần triệt tiêu chế độ độc tài giành lại quyền làm người cho dân tộc, và vá lại mảnh giang sơn đã bị CSVN xé lởm chởm trên đầu (biên giới phía Bắc), nham nhở một bên vai (vịnh Bắc Việt), và loang lỗ một phần bên hông phải (Biển Đông)!

2. Chúng ta có đạt được gì không?

Vậy, 34 năm qua Cộng Đồng chúng ta có đạt được gì không? Xin trả lời ngay là CÓ, và đây là những gì đạt được:

a. Được sống tại các quốc gia tự do.

Trong số khoảng 3.000.000 người Việt chúng ta tại hải ngoại, có thành phần cựu quân nhân sau hơn 20 năm chiến đấu bảo vệ tổ quốc với những trận chiến vang danh trên thế giới và vô số trận chiến âm thầm đơn lẻ trên khắp miền đất nước, thành phần tù chính trị bị quân cộng sản giam giữ đọa đày trong hơn 200 trại tập trung từ 1975 đến 1992, thành phần gia đình cựu quân nhân viên chức cán bộ, và các thành phần kinh tế tài chánh bị áp bức trong xã hội chẳng khác tình cảnh “lưu vong ngay trên quê hương Việt Nam”, nay được sống tại các quốc gia mà nền dân chủ pháp trị được nhà cầm quyền và người dân tôn trọng. Đây chính là điều đạt được lớn nhất, và là hạnh phúc lớn nhất của Cộng Đồng chúng ta tị nạn cộng sản. Từ căn bản đó, chúng ta đạt được những lãnh vực khác.

b. Được học hỏi tổ chức & quản trị xã hội.

Sống trên các quê hương thứ hai, chúng ta học hỏi nhiều về tổ chức và quản trị xã hội. Thêm nữa, chúng ta có nhiều cơ hội du lịch đó đây trên thế gới, nhờ đó mà kiến thức tổng quát được trang bị thêm phần phong phú, tầm nhìn được trải rộng trên các sinh hoạt quốc gia, nhất là hiểu biết những nền văn hoá khác nhau. Nhờ vậy mà chúng ta hình thành khái niệm căn bản về tổ chức và quản trị một xã hội cho quê hương Việt Nam ngày mai, khả dĩ dung hợp hài hòa giữa nếp sống văn hoá Việt Nam với nền khoa học kỹ thuật tân tiến trong bối cảnh một thế giới phát triển.

c. Được một Cộng Đồng hải ngoại.

Theo tác giả Đỗ Tăng Bí với bài “Nghiên Cứu Dòng Nhập Cư Vào Hoa Kỳ” và tác giả Hồng Châu với bài “Sự Phân Tán & Tập Trung Của Người Việt Tại Hoa Kỳ”, người Việt Nam tại Hoa Kỳ từ trước cho đến năm 1950 -cách nay 59 năm- vào khoảng 500 người. Con số đó đến năm 1970, tăng lên khoảng 5.000 người. Từ đó đến năm 1974, Việt Nam chúng ta trên đất Mỹ gộp chung vào khoảng 20.000 người, sống rải rác các tiểu bang miền Đông Bắc và miền Tây Hoa Kỳ. Lúc bấy giờ cũng chưa hình thành tổ chức Cộng Đồng. Mãi đến đợt di tản cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 1975 khoảng 150.000. Theo tài liệu của Cao Ủy Tị Nạn/Liên Hiệp Quốc, thành phần vượt biên vượt biển từ năm 1976 đến 1995 có 839.200 người nhập cư khoảng 94 quốc gia trên thế giới, mà Hoa Kỳ là quốc gia tiếp nhận nhiều nhất. Theo tài liệu của US Census Bureau năm 2000, Cộng Đồng Việt Nam là 1.122.528 người, qui tụ trong 293.621 gia cư với số nhân khẩu từ 3 người trở lên (chiếm 80.5% trong tổng số). Cũng theo US Census Bureau, đến 1/6/2008 Cộng Đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ khoảng 1.500.000 người. Sau những năm ổn định cuộc sống từ khi nhập cư, lần lượt những tổ chức Hội Đoàn và Cộng Đồng được thành lập theo nhu cầu sinh hoạt chung để hỗ trợ lẫn nhau. Đây là “cái được mà tôi xếp vào loại quan trọng bậc nhất”.

Bởi từ nét nhìn lạc quan khi nhìn vào tổ chức Cộng Đồng tại Orange County, các thành phố San Jose, Houston, Dallas-Fort Worth, ..v..v.. , mỗi nơi nhu thể một quốc gia thu nhỏ tại hải ngoại. Đứng đầu là tổ chức Cộng Đồng điều hợp sinh hoạt chung gồm: Các Hội đoàn đồng hương cấp tỉnh , Hội đoàn quân đội với màu áo các quân binh chủng. Hội đoàn văn hoá, Hội đoàn khoa học kỹ thuật, Hội đoàn ngành nghề chuyên môn, Hội đoàn trường hay liên trường trung học, đại học, các tổ chức bảo tàng lịch sử, các cơ sở giảng dạy Việt ngữ, ..v..v... Bên cạnh đó còn có các tổ chức tôn giáo: Phật Giáo, Thiên Chúa, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo, với các cơ sở thờ phượng. Và Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản ngày càng lớn mạnh:

(1) Với khối nhân lực quí giá.

Một phần thế hệ chúng ta trong cuộc chiến 1954-1975, và liên tục những thế hệ sau chúng ta được đào tạo trong những nền giáo dục tân tiến trên thế giới, với số lượng học sinh sinh viên “du học tại chỗ” không một quốc gia nào sánh được. Tuổi trẻ hải ngoại trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản đã hình thành khối tài nguyên nhân lực quí giá, sẽ là lực lượng nòng cốt cùng với tuổi trẻ trong nước, thúc đẩy quê hương Việt Nam phát triển theo hình tượng chiếc phản lực cơ thương mại vừa cất cánh khỏi đường băng vươn mình lên bầu trời xanh thẳm khi cộng sản độc tài sụp đổ.

Khối nhân lực quí giá này là sự mơ ước của CSVN qua đoạn ngắn dưới đây trong bài “Cộng Đồng Việt Nam Ở Nước Ngoài, Khơi Dậy Nguồn Lực Chất Xám” ngày 11/08/2005 của Thứ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Phú Bình: “Trong số gần 3.000.000 người Việt Nam sinh sống định cư ở nước ngoài, ước tính có khoảng 300.000 người được đào tạo ở trình độ đại học và công nhân kỹ thuật cao, có kiến thức cập nhật về văn hoá, về khoa học, công nghệ, về quản lý kinh tế. Trong đó có nhiều người đạt vị trí quan trọng trong các viện nghiên cứu, trường đại học, bệnh viện, công ty kinh doanh của các nước, và các tổ chức quốc tế. Tiềm lực khoa học và công nghệ của các thế hệ người Việt Nam ở nước ngoài không ngừng phát triển. Trong đó, một thế hệ trí thức mới người nước ngoài gốc Việt đang hình thành và phát triển, nhất là ở các nước Bắc Mỹ, Tây Âu, và Châu Đại Dương. Đội ngũ này tập trung ở nhiều lãnh vực khoa học chuyên ngành và kinh tế như tin học, viễn thông, điện tử, vật liệu mới, chế tạo máy, điều khiển học, sinh học, quản lý kinh tế, ngân hàng, chứng khoán, ..v..v.. Theo ước tính, chỉ số học vấn đại học và trên đại học của người Việt Nam tại các nước công nghiệp phát triển gần ở mức trung bình của người dân sở tại. Thế hệ trẻ này đang trở thành một thành phần quan trọng của công tác vận động nhằm động viên khuyến khích sự hợp tác, đóng góp của họ vào công cuộc xây dựng quê hương đất nước. Thế mạnh của đội ngũ trí thức người Việt Nam ở nước ngoài là được đào luyện, tiếp cận môi trường khoa học công nghệ tiên tiến, và nắm bắt được phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô và chuyên ngành. Họ có khả năng phát kiến sáng tạo, có năng lực tổng hợp thông tin, tư vấn, và tạo dựng mối quan hệ với các cơ sở khoa học, cơ sở kinh tế ở nước sở tại. Từ trước đến nay, đội ngũ trí thức kiều bào vẫn được các cơ quan chức năng trong nước đánh giá là thế mạnh của người Việt ở nước ngoài, là một nguồn lực có thể góp phần tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”.

Trong những năm gần đây có dư luận cho rằng “tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại về xây dựng quê hương chỉ là giấc mơ không thể có”. Tôi xin phép thưa rằng, tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại chịu ảnh hưởng văn hoá tại các quốc gia bản xứ nhất là Hoa Kỳ, điều này đúng, nhưng không phải vì vậy mà xem thường ý thức trách nhiệm của tuổi trẻ đối với quê hương Việt Nam cội nguồn. Tôi có nhiều dịp tiếp xúc với tuổi trẻ khi tham gia “Ban Phát Thưởng Học Sinh Giỏi” (lớp 5 đến lớp 12) tại Houston từ năm học 1998-1999 đến 2003-2004. Sau khi các cháu vào đại học, hằng năm các cháu đều đến tham gia Ban Phát Thưởng và các cháu không từ chối bất cứ công tác nào nhờ đến. Đúng là tuổi trẻ thừa nhận trong những năm tiểu học trung học, con cháu chúng ta tự nghĩ mình là người Mỹ (tôi nghĩ những nơi khác cũng vậy). Nhưng từ lớp 11 lớp 12, sau đó vào đại học, tuổi trẻ bắt đầu tham gia sinh hoạt văn hoá xã hội, những sinh hoạt này cũng là cách mà nhà trường giúp sinh viên trang bị ý thức trách nhiệm cộng đồng trong hành trang vào đời. Qua tiếp xúc với sinh viên nhiều chủng tộc khác nhau trong công tác cũng như trong sinh hoạt học đường, những va chạm giữa những nền văn hoá khác nhau, chính là cơ hội giúp tuổi trẻ nhận ra mình vẫn là người Việt Nam dù quốc tịch bản xứ, vì nhìn lại từ vóc dáng màu da tóc tai mặt mũi đến ánh mắt nụ cười của mình không phải người bản xứ. Từ đó, tuổi trẻ Việt Nam tìm về quê hương cội nguồn.

Cũng trong những năm gần đây, với phương tiện truyền thông vừa nhanh chóng vừa chính xác -đài truyền hình SBTN và Hồn Việt là một phương tiện- cung ứng những bài viết, những hội luận, cùng với những hình ảnh cho thấy tuổi trẻ nhập cuộc trong các sinh hoạt văn hoá xã hội cũng như trong sinh hoạt bày tỏ ý thức chính trị ngày càng đông trên các quê hương thứ hai, chứng tỏ khả năng và tinh thần trách nhiệm của tuổi trẻ hải ngoại. Với vị trí ông bà cha mẹ, xin quí vị cố gắng giúp các con các cháu nói chung là tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại học hỏi văn hoá Việt Nam, ngoài những giải thích hướng dẫn bằng lời, nếu được, nên đưa tuổi trẻ đến với các lễ hội văn hoá như Tết Nguyên Đán, trung thu, picnic, mà các Hội Đoàn tổ chức. Nếu tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại không hiểu chút gì về quê hương Việt Nam cội nguồn, tôi nghĩ, một phần trách nhiệm thuộc về thế hệ chúng ta. Và xin quí vị thật lòng tin tưởng con cháu chúng ta, những thế hệ tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại đối với quê hương Việt Nam cội nguồn tự do dân chủ và nhân quyền.

(2) Với kinh nghiệm vận động chính trị.

Tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại nhất là tại Hoa Kỳ, Germany, Canada, Australia, ..v..v.., đã góp mặt trong các cơ quan Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp, trong các trường đại học, trong các tổ chức khoa học kỹ thuật cũng như trong các tổ chức chính trị bản xứ, và đã góp phần vào các thành tựu quan trọng. Tiến sĩ Philipp Roesler Bộ Trưởng Kinh Tế tiểu bang Niedersachsen, Germany. Cô Eve Mary Thái Thị Lạc, đắc cử Dân Biểu Canada năm 2007. Tại Hoa Kỳ, có Dân Biểu liên bang Cao Quang Ánh, Dân Biểu tiểu bang Trần Thái Văn và Hubert Võ. Tuổi trẻ đã có mặt trong Cơ Quan Quản Trị Hàng Không & Không Gian (NASA), đặc biệt là khoa học gia Nguyễn Xuân Vinh, và ít nhất có một phi hành gia Eugene Trịnh Hữu Châu. Trong NASA còn có nhiều chuyên gia gốc Việt Nam, như: Ông Bà Hữu Trịnh -tiến sĩ kỹ thuật- và Diệp Trịnh -tiến sĩ hóa học- cùng làm việc trong cơ quan này, tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tiến, tiến sĩ Jonathan Lee Điền Lê, tiến sĩ Bruce Vũ Thanh, tiến sĩ Bùi Trí Trọng, tiến sĩ Nguyễn Quang Việt, tiến sĩ Đinh Bá Tiến, và nhiều nhiều nữa. Trong ngành vũ khí, đặc biệt nữ khoa gia Dương Nguyệt Ánh nổi danh trong giới quân sự quốc tế về vũ khí. Tiến sĩ hóa lý sinh Võ Đình Tuấn, Viện Trưởng Viện Fitzpatrick/Đại học Duke, được Creator Synectics chọn là 1 trong 100 thiên tài thế giới. Tiến sĩ Huỳnh Mỹ Hằng là một trong 24 người nhận giải MacArthur Fellowship năm 2007 được gọi là “Genius Grants” (giải Thiên Tài) về các ngành khoa học, xã hội, nhân văn, nghệ thuật. ..v..v.. Trong quân đội Hoa Kỳ, nhiều sĩ quan giữ những chức vụ quan trọng như: Hạm trưởng hàng không mẫu hạm, Hạm trưởng tàu ngầm, Hạm Trưởng khu trục hạm, Tư lệnh Sư Đoàn và Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, phi công phản lực cơ chiến đấu Elizabeth Phạm, ..v..v... Nhìn chung, khối tài nguyên quí giá này tiếp tục được bổ sung trong dài lâu.

Khối cử tri chúng ta tại các quê hương thứ hai ngày càng nhân lên, tùy thời gian không gian hoàn cảnh, lá phiếu chúng ta có ảnh hưởng vào chính trường, tuy chưa hoàn toàn như ý muốn nhưng chắc rằng sẽ trở thành nhân tố quan trọng trong chính trường. Thêm nữa, trong những năm gần đây, những giới chức gốc Việt trong cơ quan chánh quyền và các lãnh vực kinh doanh thương mãi, có khả năng trong vận động chính trị ủng hộ Cộng Đồng chúng ta về quyền lợi của Cộng Đồng, và ảnh hưởng phần nào trong chính sách đối với CSVN, nhất là tại cơ quan Lập Pháp từ trung ương xuống đến tiểu bang và thành phố. Nhìn chung, quyền lợi và cái “thế chính trị” của Cộng Đồng từng bước sẽ được bảo đảm hơn, và từ vị trí công dân các quê hương thứ hai giúp cho cuộc đấu tranh của chúng ta sẽ hiệu quả hơn.

(3) Với khối tài chánh quan trọng.

Từ những bàn tay trắng khi chạy trốn khỏi chế độ độc tài tàn bạo trên quê hương, ngày nay khả năng kinh tế tài chánh của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn tại hải ngoại ngày càng lớn mạnh thể hiện bởi:
Khối mỹ kim do bà con gởi về Việt Nam giúp thân nhân hằng năm như sau: Năm 1991; 35 triệu. Năm 1995; 285 triệu. Năm 2000; 1 tỷ 700 triệu. Năm 2002; 2 tỷ 100 triệu. Năm 2004; 3 tỷ mỹ kim. Năm 2007; 7 tỷ 800 triệu. Những con số trên đây là của từng năm chớ không phải gộp lại của các năm trước. Theo tài liệu thì khoảng 70% lượng tiền trên đây chuyển qua hệ thống ngân hàng, tỷ lệ này có khuynh hướng ngày càng giảm, trong khi lượng tiền chuyển về Việt Nam qua các công ty có khuynh hướng ngày càng tăng. Với lại còn một khối lượng mỹ kim khác do khoảng 250.000 đến 300.000 người hằng năm mang theo khi về Việt Nam thăm thân nhân. Nếu tạm chấp nhận trung bình mỗi người về Việt Nam chi tiêu 300 mỹ kim, thì con số đó sẽ là 90 triệu mỹ kim. Nhìn chung qua những con số mà tôi có được từng năm kể từ năm 1991 đến cuối năm 2007, thì lượng tiền mà bà con trong Cộng Đồng tị nạn tại hải ngoại gởi về Việt Nam lên đến 25 tỷ 431 triệu mỹ kim.

Sự lớn mạnh về kinh tế của riêng Cộng Đồng Việt Nam tị nạn tại Hoa Kỳ theo thống kê năm 2000 như sau: Về cơ sở kinh doanh sản xuất và dịch vụ do người Việt Nam làm chủ: Năm 1982, trên toàn liên bang có 4.989 cơ sở với doanh thu hằng năm là 215 triệu mỹ kim. Năm 1987, Việt Nam làm chủ 25.671 cơ sở với doanh thu hằng năm là 1 tỷ 361 triệu mỹ kim. Năm 2000, Việt Nam làm chủ 97.784 cơ sở với doanh thu 6 tỷ 768 triệu mỹ kim. Và cũng tiêu biểu sự lớn mạnh của Cộng Đồng tị nạn tại Hoa Kỳ, theo thống kê năm 2000 lợi tức của 293.621 gia đình có 3 người trở lên vào khoảng 18.641.000.000 (18 tỷ 641 triệu) mỹ kim, bao gồm: (1) 27.4% hay là 89.452 gia đình có lợi tức dưới 25.000 mỹ kim. Nếu chấp nhận trung bình 20.000 mỹ kim, thì 89.452 gia đình có lợi tức chung là 1 tỷ 789 triệu. (2) 27.2% hay là 79.864 gia đình có lợi tức từ 25.000 đến dưới 50.000 MK. Nếu chấp nhận trung bình 35.000 mỹ kim, thì 79.864 gia đình có lợi tức chung là 2 tỷ 795 triệu. (3) 31.3% hay là 91.903 gia đình có lợi tức từ 50.000 đến dưới 100.000 MK. Nếu chấp nhận trung bình 75.000 MK, thì 91.903 gia đình có lợi tức chung là 6 tỷ 892 triệu. (4) 12.3% hay là 36.115 gia đình có lợi tức từ 100.000 đến dưới 200.00 MK. Nếu chấp nhận trung bình 150.000 MK, thì 36.115 gia đình có lợi tức chung là 5 tỷ 417 triệu. (5) 1.8% hay là 5.825 gia đình có lợi tức từ 200.000 MK trở lên. Nếu chấp nhận trung bình 300.000 MK, thì 5.825 gia đình có lợi tức chung là 1 tỷ 747 triệu.

Trên đây chỉ ước tính 80.5% trong tổng số 1.122.528 người sống trong 293.621 đơn vị gia cư từ 3 người trở lên, như vậy còn lại 19.5% hay là 218.892 người sống trong chung cư hoặc trong những căn phòng hay thuê phòng trong những nhà riêng, tạm gọi là “tiểu gia cư” một người hay hai người. Nếu sử dụng lợi tức tối thiểu “đầu người hằng năm” ngang bằng số trợ cấp an sinh xã hội của chánh phủ liên bang tính tròn 6,000 mỹ kim, chúng ta có lợi tức chung của 218.892 người là 1 tỷ 313 triệu mỹ kim. Một cách tổng quát, nếu chúng ta gộp chung lợi tức của gần 300 ngàn gia đình (18 tỷ 641 triệu), và lợi tức của những người sống riêng lẽ hoặc trong gia đình 2 người (1 tỷ 313 triệu), thì lợi tức của Cộng Đồng Việt Nam chúng ta tại Hoa Kỳ trong năm 2000 vào khoảng 20 tỷ mỹ kim (tính theo số tròn). Từ con số này, ước tính một cách tổng quát về tổng lợi tức của Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn tại Hải Ngoại trong năm 2008 có thể lên đến hơn 30 tỷ mỹ kim. Khối tài chánh tuy chưa phải lớn lao so với các Cộng Đồng Trung Hoa, Do Thái, Ấn Độ, hay Phi Luật Tân, nhưng so với nhu cầu trong nước, chúng ta có khả năng đóng góp quan trọng vào mục tiêu phát triển quốc gia sau khi cộng sản độc tài sụp đổ.

(4) Với trận chiến dựng lại quốc kỳ.

Tại Hoa Kỳ, bắt đầu ngày 19/2/2003 với thành phố Westminster (California) , từ đó đến ngày 15/3/2009, đã được 112 cơ quan hành chánh ban hành văn kiện công nhận quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ là biểu tượng tự do của Cộng Đồng chúng ta, gồm: 15 tiểu bang + 7 Quận Hạt (Counties) + 90 Thành Phố. (Danh sách các tiểu bang theo mẫu tự: California, Colorado, Florida, Georgia, Louisiana, Michigan, Minnesota, New Jersey, Nebraska, Ohio, Oklahoma, Oregon, Texas, Utah, và Virginia. Riêng tiểu bang Louisiana và Ohio công nhận bằng Luật. Cộng Đồng chúng ta còn non trẻ so với các cộng đồng bạn dài lâu trên đất Mỹ, nhưng đặc biệt là Cộng Đồng chúng ta có quốc kỳ riêng sử dụng thích hợp trong từng trường hợp. Trên thế giới, hầu như chưa có trường hợp chế độ nào sụp đổ mà quốc kỳ đó vẫn tồn tại trên các quê hương thứ hai như trường hợp Cộng Đồng chúng ta.

(5) Với bia và đài tưởng niệm.

Song song với nỗ lực vận động cho “Trận Chiến Dựng Lại Quốc Kỳ”, đến đầu năm 2009, Cộng Đồng chúng ta khắp nơi đã đặt Bia Tưởng Niệm và dựng Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ, Tưởng Niệm Thuyền Nhân, sau đây:
  1. Australia, tại các thành phố Fairfield (NSW), Perth (West Australia), Melbourne và Dandenong (Victoria), Brisbane (Queensland) , và Adelaide (S. Australia).
  2. Bỉ, tại thành phố Liège.
  3. Canada, tại thủ đô Otttawa và thành phố Montréal.
  4. Germany, tại thành phố Hamburg và Troisdorf.
  5. Hoa Kỳ, tại các thành phố Westminster (California) , Houston (Texas), West Valley (Utah), Saint Cloud (Minnesota), Honolulu (Hawaii), Fayetteville (North Carolina).
  6. Indonesia, trênđảo Galang.
  7. Malaysia, trên đảo Bidon.
  8. Và Thụy Sĩ, tại Genève.
(6) Với hỗ trợ lực lượng dân chủ trong nước.

Từ bản chất độc tài tàn bạo, những chính sách cai trị của CSVN tạo cho mọi người trong xã hội xã hội chủ nghĩa thường xuyên sống trong nỗi sợ hãi để phục tùng họ, nhưng sự lớn mạnh của Cộng Đồng chúng ta về các mặt kể cả những hình thức chống đối CSVN đến mức lãnh đạo cao cấp nhất của họ cũng không dám đối mặt với Cộng Đồng, đã góp phần quan trọng cho lực lượng dân chủ trong nước từng bước hình thành, và thật sự có ý nghĩa khi lực lượng này chánh thức tuyên bố thành lập tại Hà Nội và Sài Gòn ngày 8 tháng 4 năm 2006, gọi tắt là “Khối 8406”.

Đồng hành với “Khối 8406” là “Khối Dân Oan” cũng đứng lên từ các địa phương bị lãnh đạo của họ sử dụng mọi hình thức gian trá trấn lột cướp đoạt đất đai vườn ruộng, đã từng đoàn từng đoàn kéo đến các cơ quan ở Sài Gòn và Hà Nội vì bị cấp tỉnh cấp thành phố trấn áp. Nhưng rồi các cơ quan cao cấp ở Sài Gòn và Hà Nội giải quyết bằng cách giao cho Công An lùa, đẩy, và khiêng dân oan lên từng đoàn xe đưa về các địa phương sau khi bắt những người mà họ cho là “cầm đầu chống đối”. Không có gì phải ngạc nhiên cách hành sử của lãnh đạo CSVN, vì tất cả họ trong một hệ thống tham nhũng từ trên “đỉnh cao trí tuệ” len vào mọi ngóc ngách sinh hoạt xã hội xuống đến tận cùng hàng hàng lớp lớp “viên chức đầy tớ” của dân.

Chưa hết, CSVN gần như thẳng tay đàn áp bắt giam, bỏ tù, quản chề các vị lãnh đạo và tín đồ của Phật Giáo Thống Nhất, Thiên Chúa, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo. Tuy các giáo hội không cùng lúc cùng nơi cũng không cùng phương cách phản kháng, nhưng sức phản kháng CSVN mạnh mẽ không kém gì nhau.

Với thế mạnh của Cộng Đồng đối với CSVN, chúng ta đã và đang hỗ trợ lực lượng dân chủ trong nước bằng những cách khác nhau:

1. Chuyển các tin tức quốc nội và quốc tế về Việt Nam cho lực lượng dân chủ, các cá nhân, cho các lãnh đạo CSVN trong đảng, nhà nước, quân đội, công an, nhất là những tin liên quan đến tội ác của CSVN trên quê hương, vì truyền thông trong nước bị cấm loan các loại tin mà CSVN gọi là “phương hại đến ổn định xã hội” hoặc loại tin “gây mất đoàn kết nội bộ”.

2. Ủng hộ lực lượng dân chủ, ủng hộ các giáo hội ngoài quốc doanh, ủng hộ dân oan, và ủng hộ bất cứ ai kể cả đảng viên cộng sản, có lời nói hay hành động phản kháng CSVN trong mọi hành động đàn áp các công dân thực hiện những quyền mà Hiến Pháp (CSVN) qui định.

3. Vận động Liên Hiệp Châu Âu, Hoa Kỳ, Canada, Australia, ..v..v.., lên án CSVN vi phạm nhân quyền kể cả buôn bán thanh niên nam nữ ra ngoại quốc làm nô lệ dưới dạng “môi giới lao động”, vi phạm Hiến Pháp của chính họ.

4. Và các cách ủng hộ khác.

3. Sự thất bại của lãnh đạo CSVN.

Nhớ lại, từ sau ngày 30/4/1975, người dân Việt Nam Cộng Hòa cũ bị khủng bố đàn áp bằng mọi cách khác nhau đến mức không thể sống nổi, nên tự động lần lượt rồi ào ạt vượt lên cái chết đi tìm tự do bằng vượt biên vượt biển, lúc ấy CSVN gọi chúng ta là bọn ngụy quân ngụy quyền, bọn phản quốc vong quốc, bọn đĩ điếm, bọn lưu manh rác rưởi xã hội, ..v..v.. Nghĩa là CSVN dùng bất chữ nghĩa nào tồi tệ hơn hết trong ngôn ngữ hàng tôm hàng cá để chửi rủa nhục mạ chúng ta. Từ giữa thập niên 80 khi lãnh đạo CSVN thấy Cộng Đồng chúng ta tạo dựng được những cơ sở kinh doanh thương mại, có tiền gởi về giúp thân nhân bạn bè bằng hữu trên quê hương. Lúc ấy CSVN tìm cách khai thác nguồn tài chánh từ Cộng Đồng Tị Nạn Hải Ngoại nên hạ giọng gọi chúng ta là Việt kiều yêu nước. Kế tiếp, CSVN nâng công tác Kiều Vận lên thành chính sách và trực thuộc trung ương với hai tổ chức:

(2) Ủy Ban Về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài do Thứ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Đình Bin làm Chủ Nhiệm, nhắm vào Cộng Đồng Tị Nạn chúng ta. (2) Và Ủy Ban Vận Động Thành Lập Hội Liên Lạc Người Việt Nam Ở Nước Ngoài do tiến sĩ Nguyễn Văn Đạo, Giám Đốc trường đại học tổng hợp Hà Nội làm Trưởng Ban, nhắm vào thân nhân của Cộng Đồng Tị Nạn đang sống trên quê hương, để áp lực chúng ta. Cùng lúc, CSVN lại hạ giọng thêm nữa để gọi chúng ta là “khúc ruột ly hương ngàn dặm”. Nhưng chính sách đó vẫn thất bại.

Theo thời gian, CSVN thấy Cộng Đồng chúng ta ngày càng lớn mạnh các mặt, đồng thời với những hoạt động chính trị chống chế độ độc tài của họ ngày càng phát triển, một lần nữa họ nâng chính sách Kiều Vận lên hàng quốc sách với Nghị Quyết 36 ngày 26/3/2004, qui định một chính sách toàn diện nhắm vào Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn tại hải ngoại mà họ gọi là những người Việt Nam ở nước ngoài. Quốc sách này được hỗ trợ tài chánh do “Quỹ Hỗ Trợ & Vận Động Người Việt Nam Ở Nước Ngoài” thành lập trước đó một năm (ngày 25/4/2003) tại Bộ Ngoại Giao ở Hà Nội. Vậy là CSVN chánh thức mở “mặt trận chính qui”, vừa đánh vào Cộng Đồng chúng ta trên toàn thế giới mà mục tiêu chính là Cộng Đồng tại Hoa Kỳ, vừa tìm mọi phương cách lôi cuốn những cá nhân trong Cộng Đồng chúng ta mang tiền và kỹ thuật về Việt Nam kinh doanh giúp họ giàu sang và tồn tại. Lúc này nhóm “đỉnh cao trí tuệ” lại hạ giọng thấp xuống nữa để gọi chúng ta là “bộ phận không thể tách rời cộng đồng dân tộc”.

Nghị Quyết 36 chẳng khác một một lệnh tổng tấn công Cộng Đồng chúng ta với 3 điểm căn bản sau đây:
  1. Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời, và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước.
  2. Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và của toàn dân. Các tổ chức đảng, nhà nước, và các đoàn thể nhân dân, các ngành các cấp từ trung ương đến địa phương, ở trong nước và ngoài nước, và toàn dân ta cần coi đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
  3. Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, cần mang tính đồng bộ, kết hợp việc xây dựng cơ chế chính sách với công tác vận động, kết hợp các hoạt động trong nước với các hoạt động ở ngoài nước, và phải được tiến hành thông qua nhiều loại hình hoạt động và biện pháp phù hợp với các đối tượng và địa bàn khác nhau, trên cơ sở tự nguyện và không trái pháp luật, phong tục, tập quán của nước sở tại. Từ 3 điểm đó, nội dung NQ 36 vạch ra 7 mục tiêu tấn công Cộng Đồng chúng ta, và 2 mục tiêu sau cùng ra lệnh cho đảng, tình báo, ngoại giao, công an, quân đội, tới toàn dân thi hành. Nhưng thật ra CSVN không dám xuất hiện mà họ dùng đồng tiền, cũng có thể có cả nquyền lợi ảo về chính trị, để thúc đẫy những tên tay sai của họ trong Cộng Đồng chúng ta thực hiện.
Đúng. Trong những năm gần đây, một số tổ chức trong Cộng Đồng đã xảy ra những xáo trộn dẫn đến một số Hội Đoàn thành hai tổ chức. Điều dễ nhận ra là bàn tay của những tên tay sai CSVN và đồng tiến cũng từ CSVN, cộng với đám tuyên truyền xám Công An CSVN tung hỏa mù trên hệ thống thông tin toàn cầu (NET) nhắm vào những cá nhân những tổ chức chống cộng quyết liệt, dẫn đến trường hợp một số cá nhân và tổ chức chống cộng sản chống lại cá nhân và tổ chức chống cộng sản.

Cũng đúng. Đúng là CSVN vẫn thất bại. Tuy Cộng Đồng chúng ta tùy nơi tùy hoàn cảnh có tình trạng nêu trên, nhưng rõ ràng là lãnh đạo trong “nhóm đỉnh cao trí tuệ” CSVN mỗi khi đặt chân đến Hoa Kỳ, đến Australia, đến Pháp, đến Đức, họ không thấy cờ máu nào của họ mà chỉ thấy rừng cờ vàng giữa rừng người với biểu ngữ phản đối họ vi phạm nhân quyền, nên rất sợ đối mặt với Cộng Đồng chúng ta. Điển hình tại Hoa Kỳ:

- Ngày 22/6/2007, Nguyễn Minh Triết, Chủ Tịch nước Việt Nam cộng sản khi vào dinh Tổng Thống Hoa Kỳ, chẳng những không có đội quân danh dự, không một phát súng chào mừng, cũng không một âm thanh quân nhạc chào đón, chỉ được viên chức tòa Bạch Ốc lặng lẽ hướng dẫn vào cửa sau để gặp Tổng Thống Bush, vì công viên phía trước tràn ngập bởi bà con trong Cộng Đồng chúng ta từ các tiểu bang đổ về đây với rừng cờ vàng và rừng biểu ngữ phản đối CSVN vi phạm nhân quyền. Ông ta không dám đối mặt với Cộng Đồng chúng ta nên chịu nhục vào cửa hậu. Ngày hôm sau (23/6/2007), ông Triết cùng đoàn tùy tùng đến khách sạn Saint Regis Resort ở thành phố Dana Point, nhưng xe chở ông Triết không dám cắm cờ CSVN theo nghi thức ngoại giao, vì sợ rừng người tị nạn cộng sản “dàn chào” trước khách sạn biết ông ngồi trong xe đó mà phản ứng mạnh hơn.

- Ngày 22/6/2008, Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng đảng CSVN đến Hoa Kỳ nhưng không dám xuống phi trường quốc tế vì Cộng Đồng chúng ta đã chuẩn bị “dàn chào” phản đối, mà đáp phi trường quân sự chỉ có nhóm người từ tòa đại sứ của họ đón. Ngày 26/6/2008, khi đến Houston dự hội thảo với nhóm doanh gia Hoa Kỳ trong khách sạn “The Westin Oaks” trên đường Westheimer, không thể vào cửa chánh vì Cộng Đồng chúng ta dày đặc với rừng cờ vàng và biểu ngữ phản đối, đoàn xe phải vòng qua đường S. Post Oaks vào khách sạn.

Ngang qua hai đảng viên lãnh đạo trong Bộ Chính Trị nói trên đã chứng tỏ sự thất bại của lãnh đạo CSVN dù Nghị Quyết 36 do những tên tay sai len lõi đánh phá Cộng Đồng chúng ta. Rõ ràng là cấp lãnh đạo cao nhất của nhà nước VNCS đã không dám đối mặt với Cộng Đồng chúng ta thì làm gì khống chế được chúng ta.

4. Kết luận.

Với tội ác trong 10 năm gần đây của lãnh đạo VNCS không thể phủ nhận:
  1. Năm 1999, bán 789 cây số vuông trên bộ cho THCS từ nợ vũ khí đạn dược xâm lăng VNCH.
  2. Năm 2000, bán 11.362 cây số vuông trong vịnh Bắc Việt cho THCS với giá 2 tỷ mỹ kim.
  3. Đầu tháng 12/2007, thỏa hiệp cho THCS sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vào quận Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam.
  4. Ngày 9 & 16/12/2007 tại Sài Gòn và Hà Nội, học sinh sinh viên mít tinh biểu tình phản đối THCS chiếm hai quần đảo nói trên của Việt Nam, bị hung thần Công An ngăn chận đe dọa.
  5. Ngay trước ngày 14/9/2008, các thành phần xã hội phẫn uất hành động của THCS cũng như phản ứng nhẹ nhàng của VNCS, chuẩn bị mít tinh trước tòa đại sứ THCS ở Hà Nội phản đối THCS trưng dẫn văn kiện của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi THCS vào ngày này 50 năm trước, lại bị đám “hung thần” Công An tại Hà Nội cũng như tại các địa phương thẳng tay ngăn chận bắt giữ những ai mà họ nghi sẽ tham gia mít tinh biểu tình.
  6. Tháng 12/2008, do thỏa hiệp trước, THCS đưa hằng ngàn công nhân và lực lượng bảo vệ an ninh đến Dak Nong khai thác quặng bauxite, gây tác hại môi trường khu vực rộng lớn trên Cao Nguyên miền Trung, đã gây phẫn uất trong giới tướng lãnh về hưu cũng như tại chức ngang qua các thư gởi đến các cấp lãnh đạo của họ trong Bộ Chính Trị.
  7. Theo tờ Tuổi Trẻ ngày 27/3/2009 tại Hà Nội, ký giả Cam Văn Kình với bài “Hằng vạn công nhân Trung Hoa đã vào Việt Nam”, dẫn lời ông Trần Ngọc Hùng, Chủ Tịch Tổng Hội Xây Dựng Việt Nam, thực tế hiện nay hầu hết các cuộc đấu thầu thực hiện các dự án lớn về điện, xi măng, hóa chất, đều vào tay nhà thầu Trung Hoa vì họ được chánh phủ họ nâng đỡ nhiều mặt nên giá thầu giảm. Nhà thầu Trung Hoa đưa sang Việt Nam hằng mấy ngàn công nhân với các loại máy móc và thực phẩm mà họ không mua bất cứ thứ gì Việt Nam có. Ngoài tai hại về môi trường và kinh tế, liệu rồi đây sẽ có những làng mạc của Trung Hoa ngay bên trong lãnh thổ Việt Nam, và phải chăng đây là chiến lược cài người của lãnh đạo CSTH, rồi theo vết dầu loang tiến đến đồng hóa dân tộc Việt Nam vào Trung Hoa mà không tốn một viên đạn, không tốn một mạng người, cũng chẳng nhỏ một giọt mồ hôi, chỉ cần họ nhép miệng ra lệnh cho lãnh đạo CSVN thi hành, và nhón tay ký vào thỏa ước hợp pháp hóa là xong?
Dù thế nào đi nữa, chỉ riêng 7 tội ác trên đây đang gây phẫn uất trong các thành phần xã hội, người dân “lương cũng như giáo”, sinh viên học sinh, lực lượng đấu tranh dân chủ trong nước, thành phần đảng viên về hưu và cả tại chức, qua những cách khác nhau đã cho thấy người dân không còn sợ hãi đảng với nhà nước như trước kia nữa. Thoạt nghe có chút tàn nhẫn, nhưng thật sự khi lãnh đạo CSVN càng lún sâu vào tội ác với dân với nước, nhất là càng lệ thuộc vào CSTH, chế độ độc tài này càng sớm đến ngày sụp đổ vì khi nỗi phẫn uât đến tột cùng chính là lúc người dân đứng dậy lật đổ chúng. Không loại trừ một thành phần quân đội cộng sản sẽ cùng hàng ngũ với người dân, vì lãnh đạo của họ lệ thuộc cộng sản Trung Hoa đến mức cắt đất xén biểncho CSTH mà họ là thành phần có trách nhiệm bảo vệ.

Vì vậy, Cộng Đồng chúng ta hãy nhiệt tình hơn nữa trong nỗ lực chống CSVN và những tên tay sai của chúng ngay trong Cộng Đồng, cùng lúc tiếp tục hỗ trợ các lực lượng dân chủ trong nước và hỗ trợ tinh thần dân oan khiếu nại giành lại tài sản của họ bị các lãnh đạo địa phương cướp đoạt. Đặc biệt liên tục chuyển những tin về tội ác của CSVN nhất là tình trạng lệ thuộc CSTH về trong nước gồm các thành phần trong xã hội, và những tin tức thế giới liên quan đến Việt Nam vi phạm nhân quyền, giúp các thành phần này hiểu được những sự thật mà truyền thông của CSVN che giấu. Đây là cách góp phần quan trọng vào công cuộc lật đổ chế độ độc tài toàn trị CSVN, vì lịch sử đã chứng minh người dân không được sử dụng lá phiếu với đầy đủ quyền chính trị của mình để chuyển hóa chế độ này, vì lãnh đạo CSVN không có người nào tử tế cả. Trong khi bối cảnh chính trị quốc tế ngày nay, không một chế độ độc tài nào lường trước được những đột biến đối với họ, điển hình rõ nhất là các quốc gia cộng sản đàn anh lớn và đàn anh nhỏ của CSVN vào đầu những năm 90 là Liên Bang Sô Viết sụp đổ, khối Đông Âu Ba Lan, Tiệp Khắc, Rumani, Hungary sụp đổ, bức tường Bá Linh sụp đổ, ..v..v... Và chế độ cộng sản tan rã do chính đồng bào của họ với hỗ trợ của thế giới tự do.

Tôi nghĩ, mỗi người chúng ta tùy khả năng, hoàn cảnh, thời gian, không gian, đều có thể tham gia vào cuộc chiến này, như: Tham gia sinh hoạt trong tổ chức Cộng Đồng, sinh hoạt Hội Đoàn nào đó hay tổ chức đấu tranh, nhẹ nhàng và thuận tiện hơn hết là giúp các cháu nói tiếng Việt, giải thích cho con cháu biết về quê hương Việt Nam, một cách tồng quát về lịch sử Việt Nam, nguyên nhân ông bà cha mẹ các cháu có mặt tại hải ngoại, giúp các cháu tham gia lễ hội Việt Nam để các cháu có cơ hội nhìn thấy, nhận biết một hình ảnh văn hoá Việt, cùng lúc làm quen với các bạn trang lứa. Nếu được, khuyến khích các cháu tham gia sinh hoạt Hướng Đạo, sinh hoạt trong tổ chức tôn giáo dành cho tuổi trẻ. Xa chút nữa, khuyến khích các cháu tham gia sinh hoạt trong tổ chức sinh viên khi các cháu vào đại học dù chỉ sinh hoạt trong phạm vi văn hoá xã hội. Vì tất cả đều là góp phần vào cuộc chiến chống cộng sản Việt Nam độc tài.

Tôi nghĩ, chúng ta có đủ lý lẽ để vững tin vào mục đích cùng hướng đi, để tiếp tục phát triển cuộc đấu tranh của Cộng Đồng chúng ta hơn nữa, đó là cách hỗ trợ mạnh mẽ lực lượng dân chủ trong nước góp phần quan trọng vào sự sụp đổ của cộng sản Việt Nam độc tài toàn trị, khi mà sự phẫn uất của người dân đến mức tột cùng, đó là lúc mục tiêu góp phần dân chủ hóa chế độ chính trị trên quê hương Việt Nam của Cộng Đồng chúng ta đạt được, rồi cùng nhau vá lại quê hương gấm vóc đã bị lãnh đạo CSVN “xé rách lởm chởm!”

Houston, tháng 4 năm 2009
Phạm Bá Hoa



Nguyễn-hữu Chánh là ai ? - Khải Chính Phạm Anh Thư

(Hãy xem cuốn Bạch Thư về Con Người và Những Hoạt Động của Nguyễn Hữu Chánh zo Luật Sư Hoàng Duy Hùng va Nhóm Sự Thật biên soạn)

Khải Chính Phạm Kim Thư

I. Lý Do


Tôi thấy có nhiều người trong đó có cả một số các cựu tướng lãnh QLVNCH ngay thơ, một số nhà văn ngây thơ, và một số các người tu hành ngây thơ đều bị bọn NHC lừa bịp. Có người cho là bọn CSVN đã giả vờ nói rằng: “Chúng tôi sẽ bỏ Điều 4 của Hiến Pháp và từ bỏ chế độ Cộng Sản để đem tư do, dân chủ, và nhân quyền lại cho toàn dân, nhưng hiện nay chưa làm được vì còn phải chờ thời cơ thuận tiện hầu tránh việc gây rối loạn nơi quê nhà. Xin quý bạn hãy tham gia vào các tổ chức hội đoàn “chống Cộng” của chúng tôi để có cơ hội thành lập các đảng phái đối lập hầu chúng ta loại bỏ chế độ CSVN một cách yên lành. Chúng tôi sẽ cung cấp cho quý vị chức tước, đầy đủ nhà cửa, xe cộ, và lương bổng để quý vị hợp tác xây dựng đất nước.”

Có lẽ chính vì những lời dụ dỗ trên đây mà những người có tên sau đây đã tham gia ban chủ tọa buổi “Tâm Đàm” của tên NHC và chính phủ ma của hắn ta: Chu Tấn, Lâm Ngương Tánh, Linh Quang Viên, Nguyễn Khắc Chính, Nguyễn Huy Đẩu, và Cao Thế Dung. Buổi “Tâm Đàm” đã được tổ chức vào ngày 10-5-2003 tại Arlington, Texas.

Chính vì lý do này mà tôi xin phổ biến phần viết dưới đây để giúp mọi người hiểu rõ bản chất cùng thủ đoạn gian manh, lường đảo, và làm tay sai cho CSVN của Nguyễn Hữu Chánh.

II. Thủ Đoạn Gian Manh, Lường Đảo, và Làm Tay Sai cho CSVN của Nguyễn Hữu Chánh

Trong phần “Tóm Lược Tiểu Sử và Những Hoạt Động Bịp Bợm của Nguyễn Hữu Chánh” dài 18 trang của cuốn Bạch Thư về Con Người và Những Hoạt Động của Nguyễn Hữu Chánh của Luật Sư Hoàng Duy Hùng va Nhóm Sự Thật biên soạn ( Sách do nhà xuất bản Việt Long tại Houston, Texas, Hoa Kỳ, xuất bản vào tháng 6 năm 2001), Nhóm Sự Thật đã kể rõ bản chất cùng thủ đoạn gian manh, lường đảo, và làm tay sai cho CSVN của Nguyễn Hữu Chánh như sau:

- Vào ngày 30- 4-1975, Nguyễn Hữu Chánh dẫn Việt Cộng vào tiếp thu chính quyền tỉnh Bình Định.

- Sau năm 1975, Nguyễn Hữu Chánh trở về tỉnh Khánh Hòa và được Cộng Sản cho làm đội trưởng đội phục hồi thi công cơ giới ở Diên Khánh.

- Tháng 6/1982, Nguyễn Hữu Chánh dụ dỗ bao người góp vốn lập xưởng chế tạo đường kết tinh ở Bình Định. Sau đó, hắn lường gạt họ để lấy trọn số vốn này rồi cùng với vợ con vượt biên đến Phi Luật Tân. Ở trại Palawan tại Phi Luật Tân, Nguyễn Hữu Chánh ăn cắp thư từ của các người tỵ nạn để lấy tiền của họ từ ngoại quốc gửi sang.

- Vào năm 1983, Nguyễn Hữu Chánh lường gạt mười mấy ngàn Mỹ Kim của Thượng Tọa Thích Giác Nhiên về việc làm hàng rào cho ngôi chùa.

- Rất nhiều hồ sơ tại tòa án ở Cali xác nhận rằng Nguyễn Hữu Chánh quỵt nợ nhiều người.

Nhóm Sự Thật đã đưa ra 6 bằng cớ rất cụ thể với đầy đủ số hồ sơ, tên tòa án, tên người bị quỵt nợ, và số tiền mà Nguyễn Hữu Chánh đã quỵt nợ của người ta (xin xem trang 6 của cuốn bạch thư này).

- Vào những năm từ 1992 đến 1994, Nguyễn Hữu Chánh về nước làm ăn với chính quyền Cộng Sản Việt Nam (xin xem phóng ảnh các văn thư liên lạc giữa CSVN và Nguyễn Hữu Chánh từ trang 9 đến trang 11). Đã làm tên Cộng nô như thế thì làm sao hắn chống Cộng được? Rõ tức cười!

- Năm 1994, Nguyễn Hữu Chánh đến Căm Bốt giả mạo danh nghĩa đại diện cho cơ quan Bravo của Tướng Westmoreland để làm thủ tục đưa tất cả những quân nhân QLVNCH và những ai đủ tiêu chuẩn đến định cư ở Hoa Kỳ. Những ai muốn đi định cư đều phải nộp đơn và đóng cho Nguyễn Hữu Chánh $50 Mỹ Kim. Đây là việc làm hoàn toàn gian manh của tên Nguyễn Hữu Chánh để lường gạt những người nhẹ dạ cả tin. Chỉ việc này không thôi, Nguyễn Hữu Chánh đã lường gạt khoảng hơn 10 ngàn người Việt ở Phnom Penh để lấy số tiền vào khoảng nửa triệu Mỹ Kim.

Được thông báo về trường hợp này, Tướng Westmoreland đã ra thông tư nói rõ là ông ta không hề biết Nguyễn Hữu Chánh là ai và không bao giờ nhờ Nguyễn Hữu Chánh làm bất cứ việc gì cho cơ quan Bravo (xin xem nguyên văn lá thư của Tướng Westmoreland ở trang 262).

Nguyễn Hữu Chánh dùng danh sách của hơn 10 ngàn người này để tuyên bố là hắn ta có 17 ngàn quân ở Biên Thùy. Mặt khác Nguyễn Hữu Chánh lại nộp danh sách này cho tên thiếu tá tình báo CS là Trần Văn Hùng (Hùng Biên Thùy, hay Quang Minh). Dựa vào danh sách này, bọn CSVN đã tìm cách theo dõi và hãm hại các thành phần người Quốc Gia ở Phnom Penh.

Trong thời gian này ở Phnom Penh, Nguyễn Hữu Chánh còn lừa cả bà Kun Darachan, vợ Trung Tướng Căm Bốt, để lấy khoảng 180 ngàn Mỹ Kim. Vào năm 1997, bà Kun Darachan đã sang Hoa Kỳ để kiếm Nguyễn Hữu Chánh đòi nợ. Về vụ lường gạt này, các báo chí ở California hồi đó đã đăng tải đầy đủ và mọi người đều biết rõ.

Sau khi về Hoa Kỳ, Nguyễn Hữu Chánh dụ dỗ cụ Đỗ Vạn Lý (Cao Đài) để lấy 70 ngàn Mỹ Kim dùng vào việc mua thuốc Tây gửi qua Căm Bốt để bán rồi sau đó tìm cách ăn quỵt luôn.

Trong khi đi lường gạt những người ở Căm Bốt, Nguyễn Hữu Chánh nói là đi vận động để thành lập Liên Quân Kháng Chiến Đông Dương. Sự thực thì trong cái gọi là “Liên Quân Kháng Chiến” này chỉ gồm những tay tình báo CSVN đội lốt người Việt Quốc Gia để giúp đỡ Nguyễn Hữu Chánh dụ người Việt Quốc Gia yêu nước rồi lùa họ về Việt Nam để CS bắt họ bỏ tù.

- Vào tháng 4/1995, Nguyễn Hữu Chánh công bố thành lập cái gọi là Chính Phủ Cách Mạng Việt Nam Tự Do (CPCMVNTD) rồi dùng các thủ đoạn giả vờ chống Cộng để dụ dỗ những nhân vật có tiếng yêu nước và chống Cộng theo hắn.

Nguyễn Hữu Chánh còn dùng chức tước cùng tiền bạc do bọn CSVN cung cấp và tiền lường gạt được để mua chuộc những người ham danh lợi. Nguyễn Hữu Chánh phong cho những người này giữ các chức vụ như Bộ Trưởng Ngoại Giao, Tổng Trưởng Kinh Tế, Tổng Trưởng Thanh Niên, Thứ Trưởng Bộ Thanh Niên, Bộ Trưởng Quốc Phòng, Chủ Tịch Ban Tài Chánh, Tổng Tưởng Tổng Vụ Hải Ngoại, Đại Biểu Chính Phủ, hay Phụ Tá Tổng Thư Ký, v.v. Nhờ thế hắn ta mới lường gạt mọi người một cách dễ dàng để tập họp những người chống Cộng rồi giả vờ thu xếp đưa họ về nước hoạt động để hắn ta báo cho bọn CSVN bắt họ.

- Vào năm 1997, Nguyễn Hữu Chánh tung ra thị trường các công trái phiếu. Những công trái phiếu này đều là đồ giả thế mà Nguyễn Hữu Chánh cũng đã lường gạt được vài chục ngàn Mỹ Kim.

Cũng trong thời gian này, có những đoàn viên cao cấp của tổ chức Nguyễn Hữu Chánh nhận thấy bộ mặt thật của gã nên đã rời bỏ tổ chức của hắn.

- Vào cuối năm 1997, Nguyễn Hữu Chánh tung tin ra là tổ chức của hắn sẽ về Việt Nam để “tiếp thu” chính quyền vì những đảng viên cao cấp của CSVN đã hỗ trợ cho hắn để lật đổ chế độ CSVN. Đây hoàn toàn là trò bịp bợm do hắn ta toa rập với bọn CSVN ở trong nước gây ra để lường gạt mọi người.

- Nguyễn Hữu Chánh còn tổ chức các căn cứ kháng chiến (KC) giả hiệu ở Thái Lan để quay phim làm thành bộ video với tên là “Con Đường Cứu Quốc” đem đi lường gạt mọi người.

- Nguyễn Hữu Chánh đã tung tin là ông Gary J. Pierce, một nhà tỷ phú Mỹ mà hắn ta mập mờ giới thiệu là tình báo (CIA) thứ dữ ở Hoa Kỳ, đã nhượng chủ quyền đảo Vanatua tại Thái Bình Dương cho tổ chức của hắn để tuyên truyền bịp bợm mọi người. Thủ đoạn tuyên truyền bịp bợm này của Nguyễn Hữu Chánh đã bị phanh phui và ông Gary J. Pierce đã bị tòa án ở Florida tuyên án giam tù vì tội lường gạt.

- Vào ngày 2/6/98, Thiếu Tá tình báo của Hoa Kỳ là ông Mark A. Smith đã viết trên tờ báo quốc tế Bangkok Post bài “Mr. Tony Is Acting on Hanoi’s Behalf” với nhận định là Nguyễn Hữu Chánh hoạt động cho CSVN để thành lập tổ chức kháng chiến giả với mục đích gây phân hóa trong cộng đồng người Việt hải ngoại cũng như làm mất uy tín của các nhân vật và các tổ chức chân chính chống

Cộng (xin xem nguyên văn các bài báo của tờ Bangkok Post và bài dịch ra tiếng Việt liên quan tới vụ này ở trang 34, 35, 294, và 295) .

- Vào năm 1998, Nguyễn Hữu Chánh đưa tin là hắn ta đã được trường đại học Harvard cấp bằng tiến sĩ danh dự. Việc dối trá này đã bị lòi đuôi vì trong danh sách các tiến sĩ danh dự của đại học Harvard từ năm 1753 đến năm 2000 không hề có tên Nguyễn Hữu Chánh trong đó (xin xem danh sách ở trang 101và 102).

- Trong số báo Tiếng Dân (báo của tổ chức Nguyễn Hữu Chánh), số 133 ra ngày 18/ 12/98, Nguyễn Hữu Chánh công bố là đã ký văn kiện hoàn tất việc mua đảo Clairview tại Úc Châu để xây “Phủ Thủ Tướng.” Đây lại hoàn toàn là một vụ bịp bơm để mua danh.

- Cũng trong năm 1998, Nguyễn Hữu Chánh thành lập “Biệt Đoàn Thiên Nga” với mục đích đưa các chị em phụ nữ “xâm nhập quốc nội để hoạt động” chống Cộng. Sự thật thì “Biệt Đoàn” này không có một hoạt động nào gọi là chống Cộng cả. Đây chỉ là thủ đoạn lừa đảo tình ái của Nguyễn Hữu Chánh. Nguyễn Hữu Chánh đã lợi dụng lòng yêu nước và tinh thần chống Cộng của họ để có quan hệ tình ái và ăn nằm với hầu hết các nữ cán bộ trong “Biệt Đoàn Thiên Nga” này.

- Vào năm 1999, Nguyễn Hữu Chánh đến Thái Lan liên lạc với Trần Văn Hùng, thiếu tá tình báo CSVN tại Căm Bốt, để thu xếp gửi khoảng hơn 30 người Việt yêu nước và chống Cộng về Việt Nam hoạt động. Nhưng theo thông tấn xã Reuters, tất cả những người này đều bị CSVN bắt ngay ở biên giới Miên Việt. Điều này hiển nhiên chứng tỏ rằng Nguyễn Hữu Chánh là một tên Cộng nô hoạt động cho CSVN để giúp bọn Cộng Sản Việt Nam thủ tiêu những người chân chính chống Cộng.

Qua những bằng chứng và nhân chứng cụ thể rất đáng tin cậy về những hoạt động của Nguyễn Hữu Chánh đã được trình bày một cách đầy đủ trong tác phẩm Bạch Thư về Con Người và Những Hoạt Động của Nguyễn Hữu Chánh do Luật Sư Hoàng Duy Hùng biên soạn, chúng tôi có thể đưa ra kết luận một cách chắc chắn rằng:

- Nguyễn Hữu Chánh là một tên Cộng nô đội lốt người Việt Quốc Gia chống Cộng với mục đích phá nát niềm tin của người Việt Quốc Gia để họ không còn biết rõ tổ chức nào của người Việt hải ngoại là tổ chức chân chính chống Cộng. Do đó, nếu sau này có một tổ chức chân chính chống Cộng hay phục quốc nào ra đời, người Việt hải ngoại cũng đâm ra nghi ngờ.

Thật là tai hại cho đại nghĩa chống Cộng vậy!

- Tất cả những gì Nguyễn Hữu Chánh đã và đang làm đều do một ban tham mưu bí mật được CSVN thành lập để hoạch định và thi hành nhưng ngoài mặt thì bọn CS lại giao cho Nguyễn Hữu Chánh đóng vai người Việt Quốc Gia chống Cộng để chạy lòng vòng giả vờ thi hành những kế hoạch đã được chính bọn CSVN thi hành một cách bí mật hầu che mắt thế gian.

Hiện nay bọn CSVN rất giầu do chúng tham nhũng và bóc lột của cải của toàn dân mà có. Chúng thuê những bọn Cộng nô, phản phúc, và phản quốc như Nguyễn Hữu Chánh để đội lốt người Việt Quốc Gia hầu dụ dỗ và mua chuộc những người Việt hải ngoại có tiếng tăm, có lòng yêu nước, và có tinh thần chống Cộng vào làm việc trong những tổ chức của CSVN mà bề ngoài đội lốt tổ chức của người Việt Quốc Gia. Tổ chức của Nguyễn Hữu Chánh với ngụy danh “Chính Phủ Cách Mạng Việt Nam Tự Do” là một trường hợp điển hình. Chúng dùng những tổ chức mà bề ngoài có vẻ đấu tranh chống Cộng như tổ chức này để dễ dàng lường gạt người Việt chống Cộng ở hải ngoại và cầm chân cùng vô hiệu hóa những hoạt động của người Việt yêu nước chân chính muốn giải thể chế độ Cộng Sản Việt Nam, một chế độ độc tài đảng trị. Trong trường hợp này, chúng ta có thể mượn lời của ông Nguyễn Văn Thiệu để nói rằng: “Đừng nghe những gì Nguyễn Hữu Chánh nói mà hãy nhìn những gì Nguyễn Hữu Chánh làm!”

Trên báo Saigon Nhỏ ngày 6-7-2001, trong bài “Còn Nỗi Đau Nào Bằng,” ông Tú Gàn đã xếp Nguyễn Hữu Chánh vào loại người “vô liêm sỉ, có thái độ côn đồ, dốt đặc cán mai, và dấu đầu hở đuôi.” Theo tôi nghĩ, ông Tú Gàn nói rất đúng vì Nguyễn Hữu Chánh đã là tên Cộng nô thì đương nhiên hắn ta vô liêm sỉ, dốt đặc cán mai, và côn đồ rồi.

Đến giờ phút này mà vẫn có những kẻ chưa nhận ra Nguyễn Hữu Chánh là một tên Cộng nô đang hoạt động tích cực cho bọn CSVN để phá hoại việc làm của những cá nhân và những tổ chức chân chính chống Cộng ở hải ngoại thì quả thật là một điều bất thường. Họ có thể là những người thiếu óc phán đoán, nhẹ dạ cả tin, và thiếu kiến văn, tức là chưa hiểu những đòn gian manh phản phúc phản quốc của bọn CS và lũ Cộng nô; họ có thể không theo dõi kỹ những bài tố cáo đầy bằng chứng hiển nhiên về hành động bịp bợm và con người gian manh của Nguyễn Hữu Chánh do Luật Sư Hoàng Duy Hùng và Nhóm Sự Thật viết; họ cũng có thể đã và đang bị bọn CSVN đưa vào bẫy và dùng danh quyền lợi bất chính để mua chuộc nên họ đã quên đi liêm sỉ mà cam tâm nói hay viết ra những điều trái với lương tâm của họ

III. Tổ Chức của Nguyễn Hữu Chánh, Chính Phủ Cách Mạng Việt Nam Tự Do (CPCMVNTD)

Tổ chức của Nguyễn Hữu Chánh, CPCMVNTD, là một tổ chức bất chính đối với người Việt hải ngoại nhưng là một cơ cấu của bọn CSVN. Ngay việc lấy cái tên “Chính Phủ Cách Mạng...” để đặt tên cho tổ chức của hắn đã chứng tỏ đây là một việc bất chính vì chính phủ này không do người Việt Quốc Gia chân chính thành lập mà do bọn CSVN giả vờ dựng lên. Chính phủ của Nguyễn Hữu Chánh cũng giống như cái chính phủ ma có tên là “Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” trước đây do CSVN thành lập ở Miền Nam vào ngày 6/6/1969. Hai thứ “chính phủ” ma này đều có cùng tên là “Chính Phủ Cách Mạng.” Đúng là trò bịp bợm cũ rích của bọn CSVN bày ra đề lừa những người có lòng yêu nước nhưng thiếu kiến văn mà lại nhẹ dạ và cả tin. Những người nhẹ dạ cả tin ở Miền Nam trước đây đã đi theo cái gọi là “Chính Phủ Cách Mạng...” và họ cũng đã sáng mắt ra khi cái chính phủ ma ấy biến mất vào sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 lúc bọn CSVN chiếm được Miền Nam.

Giả sử như tổ chức “chính phủ” của Nguyễn Hữu Chánh là một “Chính Phủ Lưu Vong” thật sự thì vị Thủ Tướng phải là người nằm trong thành phần Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam trước đây, tức là có tư cách chính thống. Chính phủ này phải có căn cứ hoạt động cùng quân đội chiến đấu thực sự ngay ở trong nước. Đằng này vị Thủ Tướng Nguyễn Hoàng Dân của cái gọi là “chính phủ” của Nguyễn Hữu Chánh lại là một kẻ vô danh tiểu tốt không một ai biết tên và biết mặt do Nguyễn Hữu Chánh dựng lên để toàn quyền khuynh loát. Ngay chính bản thân Nguyễn Hữu Chánh cũng là một kẻ Cộng nô, gian manh đểu cáng, và vô liêm sỉ. Hắn ta chuyên môn lường gạt mọi người cả ở trong nước lẫn hải ngoại từ trước tới nay.

Trên báo Tiếng Dân của tổ chức Nguyễn Hữu Chánh, số 229 ngày 22 tháng 5 năm 2001, cột A1 trang 33, phát ngôn viên của tổ chức này, Lê Chí Thức, đã tuyên bố rằng “Thủ Tướng Nguyễn Hoàng Dân đang hoạt động trong quốc nội và được CSVN xác nhận.” Ngay điều này đã chứng tỏ rằng cái gọi là CPCMVNTD là thứ chính phủ ma và thủ tướng cũng là một thủ tường ma do bọn CSVN dựng lên. Không những thế, những âm mưu cùng kế hoạch của Nguyễn Hữu Chánh đều do bọn CSVN hoạch định, thi hành, và hỗ trợ. Nếu thực sự có tên Thủ Tướng của CPCMVNTD đang hoạt động chống Cộng ở trong nước thì bọn CSVN đã tìm cách diệt hắn ta chứ đời nào lại để yên và đi xác nhận như vậy. Tóm lại tổ chức “CPCMVNTD” của Nguyễn Hữu Chánh là một tổ chức của bọn CSVN dựng lên với mục đích để triệt tiêu các hoạt động chống Cộng của người Việt hải ngoại.

IV. Đừng Mong Thay Đổi Chế Độ Cộng Sản Việt Nam mà Phải Giải Thể Chế Độ CSVN Cho Bằng Được

Chủ thuyết Cộng Sản là tà thuyết và là ma đạo; con người Cộng Sản là yêu tinh và là ma quái. Thực tế và lịch sử đã chứng tỏ điều này. Dân Việt đã biết điều này bằng kinh nghiệm xương máu. Nếu muốn đem lại tự do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân Việt và muốn cứu giúp cô nhi quả phụ, thương phế binh, bảo trợ các trẻ em nghèo đói, những người cùi hủi, và những người già bệnh hoạn và tật nguỵền ở VN, chúng ta phải tìm mọi cách để cấp tốc giải thể chế độ CSVN càng sớm càng tốt.

Những sự kiện về bọn Cộng Sản trên thế giới đã xảy ra cho chúng ta thấy rằng tất cả các đảng Cộng Sản đều chủ trương độc tài đảng trị cho đến khi chúng bị tan rã. Chỉ khi nào bị yếu thế và gặp nguy nan, chúng mới chịu ngồi vào bàn hội nghị để thương lượng. Nếu chúng chịu nhượng bộ hay “hòa hợp hòa giải” thì đó là kế hoạch để chúng tìm cách thoát khỏi hiểm nguy và để tìm cách củng cố thế lực hầu tiêu diệt các lực lượng chống lại chúng.

Đảng CSVN sẽ không bao giờ chấp nhận cho Việt Nam có tự do dân chủ và nhân quyền kể cả quyền tự do tôn giáo vì đó là điều trái với bản chất của bọn CSVN. Bọn CSVN chủ trương độc quyền lãnh đạo và cai trị đất nước để cướp tài sản của toàn dân và đầy ải toàn dân xuống hàng chó ngựa. Nếu bọn CSVN mà chấp nhận cho Việt Nam có tự do dân chủ và nhân quyền tức là chúng tự giết mình, đảng CSVN sẽ bị tiêu tan, và chế độ CSVN sẽ bị giải thể toàn bộ.

Chúng tôi hy vọng rằng, sau khi đọc bài này, những người ngây thơ sẽ tỉnh táo hầu tránh bị bọn CSVN dùng danh quyền lợi bất chính để dụ dỗ. Về việc làm sao để người Việt hải ngoại có thể đoàn kết và có phương thức đấu tanh hữu hiệu để giải thể chế độ CSVN, xin quý vị xem bài “Yếu Tố Tạo Đoàn Kết Trong Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản Hải Ngoại Và Phương Thức Đấu Tranh Hữu Hiệu để Giải Thế Chế Độ Cộng Sản Việt Nam” mà chúng tôi đã phổ biến trên các diễn đán trước đây.

Khải Chính Phạm Anh Thư
Canada, 2003

MẶT TRỜI KHÔNG BAO GIỜ LẶN BÊN TRÊN LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ - Trần Gia Phụng



Trần Gia Phụng

Hiện nay, người Việt hải ngoại sống rải rác khắp các nơi trên thế giới. Không kể dân số trong nước, người Việt hải ngoại ít nhất cũng gần 3 triệu người. Riêng tại thành phố Toronto và vùng phụ cận khoảng 80,000 người. Ở khắp mọi nơi, người Việt họp thành những cộng đồng đang càng ngày càng lớn mạnh. Mỗi cộng đồng đều có một biểu tượng riêng. Nhìn vào biểu tượng đó, người ta biết nguồn gốc, văn hóa, căn tính của mỗi cộng đồng. Ngược lại, từ nguồn gốc, văn hóa của cộng đồng, người ta cần tìm một mẫu số chung để chọn biểu tượng cho cộng đồng. Vậy mẫu số chung để có thể trở thành biểu tượng của cộng đồng người Việt hải ngoại hiện nay là gì?

Trước hết, cộng đồng người Việt hải ngoại gồm có các thành phần sau đây:

1. Những người ra đi trước biến cố 30-4-1975.
2. Những người vượt biên sau biến cố 30-4-1975.
3. Những người được bảo lãnh.
4. Những người xuất khẩu lao động.

Trước năm 1975, hai đợt người ra đi chính: Đợt thứ nhất gồm những người do nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương tuyển mộ và đưa sang Pháp từ năm 1915 đến năm 1919, khoảng 100,000 người trong đó khoảng một nửa là lính chiến đấu, một nửa là lính thợ (ouvrier non spécialisé gọi tắt là ONS). (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận tập 3, Paris: Nxb. Tân Á, 2002, tr. 1673.) Sau thế chiến thứ nhất, một số trở về và đa số ở lại Pháp. Đợt thứ hai là những du học sinh từ năm 1949 đến năm 1975, không phải chỉ đi Pháp mà còn đến các nước khác trên thế giới như Hoa Kỳ, Canada, Anh, Úc, New Zealand. Khi xảy ra biến cố 30-4-1975, hầu hết đều ở lại nước ngoài.

Sau biến cố 30-4-1975, nhiều người vượt biên tỵ nạn cộng sản bằng đường biển hay bằng đường bộ. Cuộc vượt biên kéo dài từ 1975 đến 1995, có thể chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất từ 1975 đến 1989 là năm Cao uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) ra lệnh khóa sổ các trại tỵ nạn. Giai đoạn thứ hai từ 1989 đến 1995. Từ năm 1996, CUTNLHQ đóng cửa vĩnh viễn các trại tỵ nạn. Cuộc vượt biên trong giai đoạn thứ hai khó khăn hơn vì phải trải qua “thanh lọc” tư cách tỵ nạn, mới được nhận đi định cư. Tổng số người vượt biên đến định cư được ở nước ngoài lên đến gần 1 triệu người và số người tử nạn trên đường vượt biên, không đến được miền đất tự do, khoảng 500,000 người. (Các số liệu nầy theo Người Việt Online ngày 28-10-2004.)

Những người vượt biên, một khi đã ổn định cuộc sống ở một nước khác, bắt đầu bảo lãnh thân nhân ra nước ngoài. Đó là những người ra đi theo chương trình O.D.P. (Orderly Departure Program). Ngoài ra, còn có một số khá lớn những người đi theo chương trình HO là chữ mà người Việt thường dùng để gọi chương trình The Special Released Reeducation Center Detainee Resettlement Program (Chương trình đặc biệt tái định cư cựu tù cải tạo được phóng thích), bắt đầu từ năm 1989, do chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận cho các nhân viên và quân nhân chính phủ Việt Nam Cộng Hòa bị ba năm tù cộng sản trở lên và gia đình, tái định cư tại Hoa Kỳ.

Cuối cùng, cộng đồng người Việt hải ngoại còn có những sinh viên du học hay công nhân xuất khẩu lao động qua Liên Xô và Đông Âu, xin tỵ nạn ở các nước ngoài khi chế độ cộng sản sụp đổ tại Liên Xô và các nước Đông Âu năm 1991. Số liệu trong nước cho biết số nầy lên đến 300,000 người. Sau đó, nhiều người trong số nầy tìm cách chuyển qua sinh sống ở Tây Âu và Bắc Mỹ.

Như vậy, dù ra đi trước năm 1975, dù vượt biên sau năm 1975, dù bảo lãnh, HO hay xuất khẩu lao động, người Việt ở hải ngoại nói chung đều là những người không muốn sống dưới chế độ cộng sản Việt Nam, ra nước ngoài để tìm một đời sống tự do mới ở nước ngoài, có thể nói chung là những người tỵ nạn cộng sản hoặc bất đồng với chế độ cộng sản. Nếu không bất đồng với chế độ cộng sản, thì người ta đã về nước sinh sống sau năm 1975, khi đất nước do chế độ cộng sản kiểm soát. Có một điểm cần lưu ý là sau năm 1975, nếu có người nào nói rằng vượt biên hay ra nước ngoài vì lý do kinh tế, thì chắc chắn Cao uỷ tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đã trả người đó về Việt Nam, hoặc chính các nước bảo trợ cũng không chấp nhận cho đến tỵ nạn kinh tế.

Tuy nhiên, giả thiết như, xin nhấn mạnh chỉ giả thiết mà thôi, có một người can đảm tự nhận ra đi vì lý do kinh tế, có nghĩa là chế độ cộng sản ở trong nước không tạo được điều kiện để cho người đó sinh sống, hay nói cách khác người đó hoặc bất đồng với chế độ cộng sản, hoặc là nạn nhân kinh tế của chế độ cộng sản, nên mới kiếm cách bỏ ra nước ngoài sinh sống. Vậy người đó không phải là nạn nhân chính trị, thì cũng có thể xem là nạn nhân kinh tế của chế độ cộng sản.

Như thế, có thể nói tính chất chung của người Việt hải ngoại là những người tỵ nạn cộng sản, dù ra đi từ Bắc hay Nam Việt Nam, dù trước hay sau năm 1975, dù vượt biên hay bảo lãnh, dù là vì lý do chính trị hay lý do kinh tế. Vậy biểu tượng chung cho người Việt hải ngoại, dầu ra nước ngoài vì bất cứ lý do nào, chắc chắn không phải là lá Cờ đỏ sao vàng, biểu tượng của chế độ đã gây ra cảnh tỵ nạn.

Trên thế giới, lá Cờ đỏ sao vàng chỉ được treo trong các tòa đại sứ hay lãnh sự Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN). Các tòa đại sứ hay lãnh sự CHXHCNVN ở hải ngoại nói cho cùng chỉ đại diện cho nhà cầm quyền Hà Nội, phụ trách công việc giao dịch của chế độ cộng sản, chứ chẳng phải là đại diện cho người Việt ở hải ngoại. Hiện nay chế độ CHXHCNVN hầu như không có hay có rất ít công dân ở hải ngoại. Đồng bào Việt Nam ở hải ngoại đều là những người tỵ nạn cộng sản, trốn tránh cộng sản như trốn tránh ác quỷ, và người Việt hải ngoại đều đã nhập quốc tịch các nước sở tại, tức là công dân các nước ngoài, chẳng cần gì đến sự giúp đỡ của các tòa đại sứ hay lãnh sự CHXHCNVN.

Ví dụ một người gốc Việt, có quốc tịch Canada hay Hoa Kỳ, tức công dân của hai nước nầy, đi du lịch, làm ăn buôn bán tại các nước trên thế giới, nếu có vấn đề gì trở ngại hay tai nạn nào, thì tòa đại sứ các nước nầy sẽ can thiệp, giúp đỡ hay bênh vực cho công dân của mình, chứ đâu cần đến tòa đại sứ cộng sản Việt Nam.

Tại tòa đại sứ CSVN, thỉnh thoảng có người đến làm giấy tờ xin đi Việt Nam, không phải với tư cách công dân Việt xin về nước, mà với tư cách công dân nước ngoài đến liên lạc với tòa đại sứ của nước mà người đó muốn đi du lịch mà thôi. Cũng giống như chúng ta muốn du lịch các nước Âu Châu hay Nam Mỹ, chúng ta phải đến liên lạc với tòa đại sứ các nước nầy.

Lá cờ tượng trưng cho những người tỵ nạn cộng sản, dù là tỵ nạn chính trị hay tỵ nạn kinh tế, không gì khác hơn là biểu tượng của những nạn nhân cộng sản. Thích hợp nhất cho biểu tượng nầy chính là lá Cờ vàng ba sọc đỏ, vì lá cờ nầy đã từng là lá cờ trên toàn cõi Việt Nam, cả Bắc và Nam Việt Nam từ năm 1948, chứ không phải riêng của miền Nam sau năm 1954, và lá cờ nầy cũng là nạn nhân của chế độ cộng sản Việt Nam.

Hiện nay, nơi nào có cộng đồng người Việt, thì nơi đó có lá Cờ vàng ba sọc đỏ tung bay. Cộng đồng người Việt sinh sống khắp nơi trên thế giới, bao quanh quả địa cầu. Suốt ngày (24/24), không chỗ nầy thì chỗ khác, vòng quanh quả đất, khi nào cũng có lá Cờ vàng ba sọc đỏ phất phới dưới ánh mặt trời. Như thế, thực tế cho thấy rằng mặt trời tỏa sáng quanh năm trên lá Cờ vàng ba sọc đỏ, nếu chúng ta không quá hãnh tiến để nói rằng MẶT TRỜI KHÔNG BAO GIỜ LẶN BÊN TRÊN LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ.

Trần Gia Phụng
(Toronto, 24-3-2009)



Biểu tình Ngày Quốc Hận CĐNVTD/NSW

CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO ÚC CHÂU
PO Box 2115 Footscray VIC 3011
ĐT: 0411 7565 552 Email: bch@cdnvtd.com
Chủ Tịch: Ông Nguyễn Thế Phong




Biểu tình Ngày Quốc Hận CĐNVTD/NSW

Thay mặt BTC Biểu Tình ngày Quốc Hận, chúng tôi xin trân trọng thông báo và kính mời toàn thể quý hội đoàn, đoàn thể và quý đồng hương tham dự cuộc biểu tình được tổ chức theo những chi tiết như sau:

Thời gian và địa điểm:
  • Ngày Chủ Nhật 26/04/2009 trước tòa đại sứ Việt Cộng tại Canberra, Timbarra Cres O’Malley ACT.
Tại NSW xe buýt khởi hành ở ba địa điểm như sau:
  • Marrickville, trước Marrickville RSL club, trên đường Illawarra Rd, vào lúc 6:00 sáng
  • Bankstown, đối diện văn phòng Cộng Đồng, đường Olympic Pde, vào lúc 6:30 sáng
  • Cabramatta, tại Cabra Vale Park trên đường Railway Parade, vào lúc 7:00 sáng
Chương trình gồm những tiết mục như sau:
  • Lễ Thượng Kỳ tại công viên Cabra Vale Park, góc đường Railway Parade và đường Bartley Street, vào lúc 6:30 sáng
  • Tập trung biểu tình trước Tòa Đại Sứ Việt Cộng tại Canberra, Timbarra Cres O’Malley ACT, vào lúc 12:00 trưa.
  • Đặt vòng hoa tại đài chiến sĩ trận vong tại Canberra, Anzac Parade Reid ACT.
Để tiếp tục đấu tranh tự do, dân chủ, và nhân quyền cho dân tộc Việt Nam, và cực lực lên án chế độ độc tài phi nhân bản CSVN, chúng tôi mời gọi toàn thể quý vị tham dự đông đủ cuộc biểu tình theo chi tiết được nêu trên.

Xin trân trọng thông báo và kính mời,

Sydney ngày 13 tháng 04 năm 2009
TM.BTC
Chủ tịch BCH/CĐNVTD/UC/NSW