Monday, March 30, 2009

HUYẾT TÂM THƯ (UBTV ĐẢNG TTVN)


ĐẢNG THĂNG TIẾN VIỆT NAM
VIETNAM PROGRESSION PARTY (VNPP)
Việt Nam, ngày 24 tháng 03 năm 2009
    HUYẾT TÂM THƯ
Kính gửi:
    - Toàn Thể Người Việt Nam trong và ngoài nước
    - Ban điều hành lâm thời Khối 8406
    - Các Tổ chức - Tôn Giáo- Đảng phái phi cộng sản
    - Các Cơ quan Truyền thông - Báo chí trong - ngoài nước
Mỗi năm vào những ngày này chúng tôi không tránh khỏi bùi ngùi nhớ đến ngày OAN NGHIỆT của Vị lãnh đạo tinh thần kính mến LM Nguyễn Văn Lý và các anh em ĐẢNG TTVN đã đấu tranh Tự Do -Dân Chủ cho ĐỒNG BÀO VN mà bị nhà cầm quyền csVN kết án OAN SAI!

Mối hận này không những riêng các thành viên Khối 8406 hay của đảng TTVN mà của cả Đồng bào và các Dân tộc yêu chuộng TỰ DO - DÂN CHỦ .

"NHẤT NHẬT TẠI TÙ- THIÊN THU TẠI NGOẠI", nhưng Cha Lý đã không ngần ngại đau khổ mà Ngài còn sẵn sàng tranh đấu trực diện và rằng: "TỰ DO HAY LÀ CHẾT" !

Gần cả cuộc đời, Ngài sống vì ĐẠO và luôn nghĩ đến việc cứu ĐỜI.

Bao nhiêu lần bị tù đày chỉ vì hai chữ TỰ DO.

Cộng sản coi TỰ DO là kẻ thù, có TỰ DO thì không thể ĐỘC TÀI, không thể ĐÈ ĐẦU - CƯỠI CỔ người dân lương thiện.

Chủ trương chính sách của cs là: "NGU DÂN & BẦN CÙNG HÓA NHÂN DÂN " !

Nghèo đói lấy đâu ăn học mà không ngu dốt, và đã dốt nát thì chỉ làm tay sai - nô lệ truyền kiếp.

Cộng sản luôn luôn dùng chiêu bài: ĐÁNH ĐỔ GIAI CẤP BÓC LỘT (Tư bản), ĐẤU TRANH GIAI CẤP ĐỂ GIẢI PHÓNG DÂN NGHÈO, nhưng chính bọn chúng không những bóc lột mà còn ăn cướp của dân một cách trắng trợn.

Tuy thế chưa thỏa mãn còn tiếp tục gây tội lỗi tày trời: CẮT ĐẤT - GIAO BIỂN ĐÔNG cho Trung cộng & CHUẨN BỊ BÁN NƯỚC nếu Đồng bào cứ im lặng cúi đầu khuất phục!
    Hỡi tất cả những Người Việt nam !
    Nước Việt Nam còn, là còn Người Việt !
    Nếu nước VN mất , thì chúng ta là người gì ???
    CHÚNG TA MỖI NGƯỜI VN THÀ CHẾT CÒN HƠN CHỨ KHÔNG THỂ CHẤP NHẬN LÀ NGƯỜI TÀU !!!
Mất nước đến nơi mà nhiều người vẫn chưa thức tỉnh, vẫn còn nhẹ dạ tin nghe những luận điệu tuyên truyền lừa gạt của csVN . Thậm chí một vài tổ chức do những tên BẮT CÁ HAI TAY cầm đầu vẫn còn hy vọng sẽ có Jelsin thứ II, rồi yên tâm chờ SUNG RỤNG .

Trước lễ Giáng sinh, công an nói với anh Nguyễn Bình Thành (Đảng TTVN) rằng anh sẽ được thả trong dịp Tết Nguyên Đán.

Mặt khác cũng chính công an csVN tung tin là trong tháng 3 năm 2009 này Cha Lý và LS LTCN sẽ được thả về.

Dĩ nhiên chúng tôi mừng khi nghe tin, nhưng chúng tôi không tin !

Chúng tôi không bao giờ quên câu nói bất hủ của Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu "ĐỪNG NGHE NHỮNG GÌ CS NÓI - MÀ HÃY NHÌN KỸ NHỮNG GÌ CS LÀM " !

Chúng ta đã thấy tất cả SỰ THẬT những gì csVN đã và đang làm, chúng ta không thể thơ ngây tin tưởng bất cứ một luận điệu nào của csVN, cũng như không ỷ lại trông chờ thế lực của ngoại bang, mà chính mỗi một người dân VN phải tự đứng lên giải phóng ÁP BỨC cho chính mình dưới sự lãnh đạo của các tổ chức đấu tranh TD-DC chân chính trong nước.

Cha Lý đã nhắn nhủ: "ĐẤU TRANH PHẢI QUYẾT LIỆT, ....."

Mới đây Cha Lý đã nhắn lời ra thăm tất cả các anh em, bạn bè thân thiết và cho biết: "NGÀI LÚC NÀO CŨNG KIÊN VỮNG , CŨNG ... DÙ Ở ĐÂU"!

Vì sự nghiệp đấu tranh chung cho TD-DC Việt Nam Uỷ Ban Thường Vụ Đảng TTVN đề nghị :

Thứ nhất:

- Yêu cầu các Vị điều hành lâm thời Khối 8406 (LM Phan Văn Lợi, Kỹ sư Đỗ nam Hải, Anh Trần Anh Kim, GS Nguyễn Chính Kết) không vì bất cứ lý do gì mà bỏ tên Cha Lý trong danh sách Ban Lãnh Đạo Khối 8406, bởi Cha Lý là Người sáng lập Khối 8406 không những người Việt mà cả Thế giới ngưỡng mộ và kính trọng.

Chúng tôi cảm thấy việc bỏ tên Cha Lý ra khỏi danh sách NHƯ MỘT HÀNH ĐỘNG KÉO CỜ ĐẦU HÀNG.

Trong khi Cha Lý vẫn sống, vẫn kiên vững đấu tranh dù ở đâu. Đó là chưa nói đến việc xúc phạm DANH DỰ của Cha Lý và UY TÍN của cả phong trào đấu tranh Tự D0-Dân Chủ cho VN.

Ngay sau khi Cha Lý bị bọn csVN kết án OAN SAI theo luật rừng, Quý Vị đã bỏ tên Cha Lý trong danh sách Lãnh đạo Khối 8406, chúng tôi đã viết thư 2 lần cho LM Phan Văn Lợi đề nghị ghi tên Cha Lý vào, nhưng LM Lợi không trả lời.

Vì vậy UBTV ĐẢNG TTVN yêu cầu các Vị Lãnh đạo lâm thời Khối 8406 nói trên ghi tên Cha Lý vào danh sách BAN LÃNH ĐẠO Khối 8406 như ban đầu.

Thứ hai:

Khối 8406 là một tập hợp QUẦN CHÚNG RỘNG RÃI bao gồm các Tổ chức, Đảng phái không cs và toàn dân, trong đó Đảng TTVN là một trong những thành viên nòng cốt. Chúng tôi luôn mong muốn góp sức cùng Quý Vị để đấu tranh Tự Do-Dân Chủ một cách hữu hiệu cho đồng bào VN.

Kinh nghiệm qua các cuộc Cách mạng Tự Do-Dân Chủ tại Đông Âu và Nam Tư (Yugoslavia), họ vận động đồng bào xuống đường với sự dẩn đầu của các nhà Lãnh đạo Dân chủ cho đến ngày thành công, họ bất chấp thời gian và khí hậu lạnh. Cuộc xuống đường của đồng bào Nam Tư kéo dài hai tháng trường dưới sự DẨN ĐẦU của Vị Lãnh tụ phong trào đấu tranh TD-DC và họ đã thành công.

Vẫn biết: "Viết 10 pho triết không khó bằng thực hiện một phương châm", nhưng không có nghĩa khó không làm được. Các nước Đông Âu và Nam Tư họ làm được thì dân tộc VN cũng làm được !

Vấn đề là các Vị lãnh đạo Khối 8406 hiện nay có sẵn sàng hy sinh và can đảm như lãnh tụ của các nước nói trên hay không ?

Đảng TTVN sẵn sàng chung sức cùng Quý Vị và đồng bào khi tình huống xảy ra, trong điều kiện bảo mật vì csVN lúc nào cũng tìm kiếm Thành viên Đảng TTVN để bắt.

CSVN đã và đang sẵn sàng bán nước cho Trung cộng.

CHÚNG TA THÀ CHẾT CHỨ KHÔNG LÀM NÔ LỆ, KHÔNG ĐỘI TRỜI CHUNG !!!

Kính mong tất cả các Tổ chức - Tôn Giáo - Đảng phái và Đồng bào trong - ngoài nước cùng đồng tâm - nhất trí đứng lên CỨU NGUY DÂN TỘC & BẢO VỆ TỔ QUỐC VN !

Trân trọng kính chào

UBTV ĐẢNG TTVN

Chủ tịch
- Nguyễn Phước

Phó Chủ tịch
- Võ Đình Chương



Friday, March 27, 2009

HUYỀN SỬ TIÊN RỒNG: MINH TRIẾT UYÊN NGUYÊN CỦA DÂN TỘC - Đông Lan

Đông Lan

Huyền Thoại là tự truyện của một dân tộc được kể lại trong cái lung linh sử mệnh của dân tộc. Sử mệnh của một dân tộc là con đường tiền nhân mặc khải qua những thăng trầm, của phút nội tỉnh, những phút trổi vượt về miền tâm linh siêu việt, của những ước vọng hừng hực LỬA SINH SINH không mất đi trong hành trình sinh tử.

Do đó, Huyền sử là Tiềm Thức Cộng Thông của Dân Tộc, nơi đó tiền nhân gửi gấm linh hồn vượt không gian và thời gian qua huyền thoại.

Thật thế, Huyền sử là di bảo thiêng liêng, là giá trị tinh thần của dân tộc do bao đời kết tinh, là linh hồn của lịch sử. Huyền sử là ý nghĩa của sử, là đạo lý của sử, là mạch sống đời đời của sử. Nếu sử ký là Sử Hàng Ngang, nhằm ghi lại sự kiện bám sát vào không gian và thời gian, thì Huyền Sử là Sử Hàng Dọc, vượt lên, bao trùm không thời, đi vào cội nguồn của hồn sử. Những biến cố của sử ký có tính cách cá thể, chỉ xẩy ra một lần, trong một không gian và thời gian nhất định. Vì thế, địa danh và niên đại phải được ghi chép rõ rệt và trở thành quan trọng. Nhưng trái lại, ý nghĩa của Huyền sử nhắm tới cái gì phổ quát, vượt lý trí phân minh, đi vào miền thâm sâu của tiềm thức, tiếp cận miền vi tế của tâm linh. Vì thế những địa danh, niên đại, cũng như các nhân vật phải được hiểu một cách co dãn, trừu tượng, vì Huyền sử là đạo lý của dân tộc được gửi gấm qua những mảnh vụn lịch sử. Do đó, nếu sử ký là Sử Vòng Ngoài của những biến cố Ngoại Diện, thì Huyền Sử là Sử Vòng Trong của Tâm Linh Dân Tộc.

Hay nói cách khác, nếu sử ký là câu chuyện của Tử Sinh, thì Huyền sử là cõi Sinh Sinh Bất Tuyệt.

Do đó, muốn tiếp cận Ánh Sáng Tâm Linh của Huyền Sử, con người cần phải thả lỏng các ràng buộc của quy luật sử ký, cần dọn tâm hồn cho trống rỗng, tâm không nghiêng lệch, ô nhiễm từ bất cứ ý niệm nào. Cùng nhau, chúng ta, những người con Việt muôn phương, mở lòng ra, lòng Hư Không, và bắt đầu cung kính mở trang đầu tiên Huyền Sử Việt. Cuộc hội thoại với Tâm Linh Dân Tộc chỉ cần một hành trang duy nhất là không một hành trang gì được mang theo – Đọc Huyền Sử với Tâm Vô Tư, Vô Nhiễm, Vô Cầu.

* ( Chính Văn) Truyện Hồng Bàng

Cháu ba đời Viêm Đế họ Thần Nông tên là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi, rồi đi tuần đến núi Ngũ Lĩnh, gặp được nàng con gái Vụ Tiên đem lòng yêu mến mới cưới về, sinh ra Lộc Tục, dung mạo đoan chính, thông minh túc thành; Đế Minh lấy làm lạ, cho nối ngôi vua; Lộc Tục cố nhường cho anh, Đế Minh lập Đế Nghi làm tự quận cai trị phương Bắc, phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị phương Nam, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ Quốc.

Kinh Dương Vương xuống thủy phủ, cưới con gái vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm tức là Lạc Long Quân; Lạc Long Quân thay cha để trị nước, còn Kinh Dương Vương thì không biết đi đâu. Lạc Long Quân dậy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về quân thần, tôn ty, có luân thường về phụ tử, phu phụ; hoặc có lúc đi về thủy phủ nhưng trăm họ vẫn được yên ổn. Dân lúc nào có việc cần thời kêu Lạc Long Quân: “Bố đi đằng nào, không đến mà cứu chúng ta”, thì Lạc Long Quân lập tức đến ngay, uy linh cảm ứng không ai có thể trắc lượng được.

Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc; nhân khi thiên hạ vô sự, sực nhớ đến chuyện ông nội là Đế Minh nam tuần gặp được tiên nữ Đế Lai bèn khiến Xi Vưu tác chủ quốc sự mà nam tuần qua nước Xích Quỷ thấy Long Quân đã về thủy phủ, trong nước không vua, mới lưu ái thê la Âu Cơ cùng với bộ chúng thị thiếp ở lại hành tại. Đế Lai chu du khắp thiên hạ, trải xem tất cả hình thể, trông thấy kỳ hoa, dị thảo, trân cam dị thú, tê tượng, đồi mồi, kim ngân, châu ngọc, hồ tiêu, nhũ hương, trầm đàn, các loại sơn hào hải vị, không thứ nào là không có; khí hậu bốn mùa lại không nóng không lạnh, Đế Lai ái mộ quá, quên cả ngày về.

Nhân sẵn về nên mới đem nhau kêu rằng: “Bố ở phương nào nước nam khổ về sự phiền nhiễu, không yên ổn như xưa, đêm ngày mong đợi Long Quân, nên mau về cứu nhân dân”.

Lạc Long Quân bỗng nhiên lại về, thấy nàng Âu Cơ ở một mình dung mạo đẹp lạ lùng, yêu quá mới hóa ra một chàng trai nhi lang phong tú mỹ lệ, tả hữu thị tùng đông đảo, tiếng đàn ca vang đến hành tại. Âu Cơ trông thấy mà lòng cũng ưng theo; Long Quân bèn rước nàng về núi Long Trang. Đế Lai về không thấy Âu Cơ bèn sai quân thần tìm khắp thiên hạ. Long Quân có thần thuật, biến hiện trăm cách, nào là yêu tinh quỷ mị, nào là long xà hổ tượng, kẻ đi tìm úy cụ, không dám lục đảo tận cùng. Đế Lai trở về Bắc lại truyền ngôi cho Đế Du Võng. Du Võng truyền lại cho Xi Vưu cùng với Hoàng Đế đánh nhau ở Bản Truyền và Trác Lộc không hơn nên tử trận. Họ Thần Nông biến mất.Âu Cơ ở với Lạc Long Quân, sinh ra một bọc trứng, cho là điềm không hay nên bỏ ra ngoài đồng nội; hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai, bà đem về nuôi nấng, không phải cho ăn, cho bú mà tự nhiên trường đại, trí dũng song toàn, ai cũng uy phục, bảo nhau đó là những anh em phi thường.

Long Quân ở lâu dưới Thủy Phủ; mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc quốc liền đi lên biên cảnh; Hoàng Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân binh ngày đêm trấn ngự quan tái; mẹ con không về Bắc được, đêm ngày gọi Long Quân “Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ!” Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp mẹ con ở Tương Dã. Âu Cơ nói:

-Thiếp vốn người Bắc, cùng ở một nơi với quân, sinh được một trăm trai mà không có gì cúc dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng không vợ, một mình vò võ.Lạc Long Quân bảo:

-Ta là loài rồng, sinh trưởng ở thủy tộc; nàng là giống Tiên, người ở trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm dương hợp lại mà có con, nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi trai về thủy phủ phân trị các xứ, năm mươi trai theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc gì thì cùng nghe, không được bỏ nhau.

Trăm trai đều nghe mệnh, rồi mới từ giã ra đi. Âu Cơ cùng với năm mươi người con trai ở tại Phong Châu (bây giờ là huyện Bạch Hạc), tự suy tôn người hùng trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn Lang; về bờ cõi của nước thì Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc giáp Động Đình Hồ, Nam đến nước Hồ Tồn (bây giờ là nước Chiêm Thành), chia trong nuớc làm mười lăm bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Vũ Định, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quận, sai các em phân trị, đặt em thứ là tướng võ, tướng văn; tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng; con trai vua gọi là Quan Lang, con gái gọi là Mỵ Nương, quan Hữu Ty gọi là Bố Chính, thân bộc nô lệ gọi là nô tỳ, xưng thần là khởi, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo, thay đời truyền cho nhau đều hiệu là Hùng Vương không đổi.

Dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá, thường bị giao long làm hại nên bạch với vua. Vua bảo rằng:

- Ở núi là loài rồng cùng với thủy tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm hại.
Bèn khiến lấy mực châm hình trạng thủy quái ở thân thể, từ đó tránh được nạn giao long cắn hại; cái tục văn thân của Bách Việt thực khởi thủy từ đấy.

Ban đầu quốc dân ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm; lấy gạo cất làm rượu, lấy cây quang lang, cây soa đồng làm bánh; lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối; lấy dao cầy, lấy nước cấy đất trồng gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm, lấy cây làm nhà để tránh nạn hổ lang; cắt ngắn đầu tóc để tiện việc vào rừng núi, con đẻ ra lót lá chuối cho nằm; nhà có người chết thì giã cối gạo cho hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp; trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu để làm lễ thành hôn, đem cơm nếp vào trong phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới tương thông; lúc bấy giờ chưa có trầu cau nên phải thế.

Bách Nam là thủy tổ của Bách Việt vậy.

* Ý Nghĩa

Qua Huyền Sử Hồng Bàng, dân tộc ta có truyền thuyết về nguồn gốc Người Việt là Con Rồng Cháu Tiên.

Như đã trình bầy ở trên, huyền thoại dân tộc là lời gửi gấm sâu xa về ý nghĩa nhiều hơn sự kiện. Tiên và Rồng là hai biểu tượng chỉ Hai Linh Lực của cuộc sống. Hai sức sống ngược chiều nhau như Tiên và Rồng trong huyền thoại, ví von như Tiên ở trên núi, Rồng gốc dưới nước. Hai sức đối nghịch không giống nhau được, như Hữu -Vô, Tán- Tụ, Tử- Sinh, Tâm-Vật, Lý-Tình v.v…Sự mâu thuẫn phải gây ra ly biệt, cho nên sự chia tay của Lạc Long Quân và Âu Cơ là sự chia tay tất yếu của lý trí khi nhìn ở sự cách ly của vạn hữu. Vì, Lý Trí là Phân Biệt.

Thật thế, nếu ta thử ngắm nhìn ngoại giới với giác quan thông thường ta sẽ thấy vạn vật rõ ràng phân biệt với hai khuynh hướng cực kỳ khác biệt: Thế giới cụ thể này quả thực là có; có xác thân với bao là nhu cầu cần thỏa mãn, có cảm xúc mừng giận buồn vui với tất cả chấn động của thân tâm; có mùa trăng hạ huyền, có hương táo nồng nàn…Nhưng rồi tất cả những đọng ngừng tưởng chừng như có thật ấy rồi cũng trôi qua. Không níu giữ được mãi, nên con người mới vỡ lẽ ra cái hư vô đã ẩn tàng nơi sự vật , nơi kết tụ mong manh đã ngầm chứa sự biệt ly, trong sự sinh tồn đã có lưỡi hái huỷ diệt. Ý thức về hai sức mâu thuẫn trong bản thể vạn vật làm con người - dù mặc nhiên hay minh nhiên - xác nhận bản tính cho nó nơi chọn lựa cách thái sinh hoạt: Nếu nhận rằng bản chất đời sống là những gì hữu hạn, cụ thể, thoả mãn những giá trị mà giác quan có thể kiểm nhận được, người ta đi theo khuynh hướng duy vật hữu vi một cách tích cực. Ngược lại, con người cũng có thể chọn lựa thái độ tích cực với vô vi. Hoặc một chọn lựa dung hợp, như An Vi chẳng hạn. Nghĩa tích cực ở đây có nghĩa là coi trọng, nghiêng về một giá trị này và coi nhẹ giá trị khác, là đặt nổi yếu tố đối kháng và chọn lựa dứt khoát.

Sự việc Lạc Long Quân đề cập với Âu Cơ về các sự khác biệt, nào là: Thủy hỏa tương khắc, phương viên bất đồng chính là ý nghĩa của cái nhìn của Lý trí trên hiện tượng vạn vật. Lý trí là một khả năng hữu hiệu của con người trên bứơc đường phân tán. Nó có tính sắc bén của một con dao nên khi xử dụng lý trí trên bất cứ sự vật, sự việc gì, việc đầu tiên của lý trí là chia cắt, chẻ nhỏ, cô lập sự vật, sự việc ấy lại, nên thấy nước là nước, lửa là lửa, làm sao không bất đồng. Chỉ đặt nổi sự khác biệt, là đặt nặng đối kháng, tất phải chia lìa.

Trong đời sống, chúng ta đã biết bao lần để cho lý trí làm chủ các quyết định, chỉ nhìn thấy sự việc một chiều. Hoặc chọn cái lợi thì phải bỏ nghĩa, hoặc chọn ích kỷ thì phải dứt tình người, hoặc chọn sắc đẹp thì phải quên đi phần đức hạnh, hoặc chọn danh vọng thì phải hy sinh chính nghĩa, hoặc chọn tâm bỏ vật, chọn vô bỏ hữu… Như thế, có nghĩa là ta đã đi vào cái vấn nạn của câu chuyện mở đầu huyền sử: Câu chuyện của Lý Trí, câu chuyện của Phân Biệt, câu chuyện của sự Chia Ly, và dĩ nhiên là câu chuyện của sự Bất An, có nước mắt, hoạn nạn, khổ đau.
Nhưng câu chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ không dừng lại ở đây.

Quan trọng nhất là đoạn Giải Kết cái mâu thuẫn của đời sống phân chia bởi lý trí. Minh Triết Việt cho sự việc Âu Cơ và Lạc Long Quân cùng đồng ý với nhau, nếu có việc cần vẫn phải gặp nhau trên Cánh Ðồng Tương, và nghe lời nhau, không được bỏ nhau, lại là một Hóa giải mâu thuẫn từ nền tảng của Tâm Vô Phân Biệt. Chữ Tình được kết thúc nơi đây thay cho Lý phải là từ giác ngộ Tâm, vì nơi đáy nội tâm sâu xa thăm thẳm ấy mới dung chứa được mọi sự khác biệt, mới nhìn thấy được cái phân chia của lý trí là giả tạo, hẹp hòi, thiển cận. Trầm tư, tâm tư, thả lỏng ý thức bén nhậy đi, con người mới bắt được cái Hư Không, mới trực nhận được Hư Không ấy mới là Lẽ Thật, mới không chỉ thấy đời chỉ là phân ly, dị biệt của từng vạn vật, mới Hội Tụ về Nhất Thể, mới tìm được suối nguồn Bình An, Hạnh Phúc miên viễn giữa lòng đời.

Trong ý nghĩa đó, Huyền thoại Tiên Rồng đã muốn nói một sự Tương Quan giữa hai đối nghịch đều phải Kết Hợp làm một ở đích điểm của mâu thuẫn.

Tiên Rồng là nguồn gốc của người Việt, hay nói chính xác hơn, Tiên Rồng là Bản Thể của vũ trụ, vạn vật và con người muôn nơi muôn thuở. Thật thế, chúng ta thử quan sát và chiêm nghiệm mọi lẽ vận hành trong tự nhiên hay mỗi sinh hoạt của con người đều phản ánh nguyên lý hòa hợp trong mâu thuẫn, tương quan trong đối lập. Vạn sự vạn vật tự bản thể đều có rồi không, không rồi lại có. Nhưng làm sao ta biết được là Thực Tại là có hay không. Vạn vật nương nhau tồn tại và phân định danh phận cho nhau xuất lộ nơi từng cặp mâu thuẫn tịnh hành: Nam-Nữ, Thiện-Ác, Tiểu-Đại, Động-Tịnh, Ngày-Đêm…Trong sự tương đối ấy, mọi sự mâu thuẫn đều là điều kiện của nhau. Có xác định người nam thì mới có tiêu chuẩn y cứ mà cho rằng người kia là nữ. Vì cho rằng có điều gọi là thiện thì mới gọi điều ngược lại là ác. Có vật cho là nhỏ thì mới có vật lớn. Không có biến động thì làm sao có ý thức về thường tịnh. Không có ánh sáng ban ngày thì làm sao có bóng tối để gọi là đêm…Cho nên, chính trong mâu thuẫn, vạn vật tự xác định cái danh và phận của nhau, tự giúp nhau tồn tại, tự sinh ra nhau, và cũng sẽ tự diệt với nhau. Bản chất ấy gọi là mối tương quan nền tảng. Nếu Chân Lý là Sự Thật, thì Mâu Thuẫn là Chân Lý, Tương Quan Mâu Thuẫn là Chân Lý Tối Cao, Kết Hợp Mâu Thuẫn là Chân Lý Nền Tảng. Khi Kết Giải Mâu Thuẫn cho Tiên và Rồng không được bỏ nhau, vẫn gặp nhau ở Cánh Đồng Tương, có nghĩa là Huyền Sử Việt đã xác tín nhận thức về Chân Lý Toàn Diện ấy. Chân lý là nơi lưu thông những bế tắc. Chân lý là sự tương quan giữa hai chiều đối nghịch. Chân lý là nơi giao hòa của mâu thuẫn. Tiên tổ truyền lại bài học về Bản Tính của vạn vật tiêu biểu trên cánh đồng Tương, nơi gặp gỡ của hai lực đối nghịch Tiên Rồng. Cánh đồng Tương cũng chính làCánh đồng Tâm.

Như thế, ta có thể gọi Rồng Tiên là Âm Dương, Sắc Không cũng cùng một ý nghĩa như vậy. Rồng Tiên, Âm Dương , Sắc Không chính là Bản Thể Mâu Thuẫn bất Khả Phân Ly qua ý nghĩa của Mùa Tiên Rồng Hội Ngộ nơi Tương Dã trong Huyền Sử Việt.

Ngày nay khoa học minh chứng trong điện, cũng có hai dòng điện tiêu, tích. Phân tích một nguyên tử cho biết đó chỉ là sự cấu tạo của âm điện tử và dương điện tử. Với thuyết tương đối của Einstein thì hai thực thể cơ bản làm nên mọi hiện tượng vạn vật là Thời gian và Không gian không phải là hai thực thể độc lập không có chi liên hệ. Mà không gian và thời gian tương quan, liên kết, có thể nói vũ trụ này chỉ là một khối Không-Thời-Liên. Trong lãnh vực y khoa, cơ thể luôn sinh ra chất đề kháng với các chất có hại cho nó (bệnh chỉ là sự bất quân giữa các liều lượng của chất thuận và nghịch). Hệ thống điện toán ngày nay chỉ dựa trên sự áp dụng của hai tình trạng 0 và 1.

Như vậy theo kiểu nói của ngôn ngữ nào, biểu tượng trong huyền sử, mạch lạc trong triết lý, hay cụ thể trong khoa học, cũng đi đến những ý nghĩa như nhau về bản thể của vạn vật, và cũng là bản chất của con người: HÒA điệu giữa hai đối nghịch, Một mà Hai, Hai mà Một, Mâu Thuẫn nhưng không hủy diệt, Tương khắc Tương sinh, Sắc Sắc Không Không.

Trên chiều hướng đó, Huyền Sử Con Rồng Cháu Tiên được hiểu như hai cột trụ chống đỡ khung Tâm Thức con người của Minh Triết Việt. Khi Rồng Tiên còn chia cách, thì Rồng có thể biểu hiệu cho bản chất hướng ngoại, phân chia, suy luận, lý trí, ý thức, hiển nhiên như Tâm còn ở trong chốn đầm lầy tù hãm có tính chất vật thể giới hạn, tức Rồng mới ở giai đoạn khởi đầu của tiến trình Cá thể hóa của cõi Hiện tượng, còn nặng phần tiểu tâm, tiểu trí của cái “ta” nhỏ bé ở đợt hiện hình, ngoại diện. Còn Tiên có thể biểu hiệu cho bản chất hướng nội, tổng quát, trực giác, tâm tư, tiềm thức, nhưng Tâm vẫn còn ở trong trạng thái mông lung, hàm hồ, đồng nhất với cõi Vô thức.

Muốn thoát khỏi “gọng kềm” nhị nguyên đối kháng nêu trên, là tình cảnh phải “chọn một bỏ một”, hoặc một bên Ý Thức phân ly, tính toán sắc cạnh, hoặc bên kia, Tiềm Thức hàm hồ, âm u, tăm tối, như phải chọn hoặc Lý hoặc Tình, một vấn nạn khó khăn, mà muốn giải quyết, Hành giả phải tạo điều kiện cho Rồng Tiên Hội Ngộ. Được như vậy thì Rồng mới vùng vẫy, uốn khúc được để trở thành Rồng Thiêng, vì Rồng không còn biểu hiệu cho lý trí của ý thức cá nhân hữu hạn nữa, mà nhờ tiếp cận với Tiên, tức nội dung của Tiềm Thức thâm sâu nên Rồng đã trở thành Biểu Tượng của Ý Thức Sáng Láng Về Toàn Thể Thực Tại mang tính Vô Biên. Còn Tiên dưới ánh sáng của Ý Thức Toàn Diện của Rồng, đã vượt qua được trạng thái “vô phân biệt” Nguyên thủy của trạm Quỳnh Hư của cõi Tiềm Thức mông lung để bước vào điện GIAO QUANG của miền TÂM LINH SIÊU TUYỆT.

Rồng Phải Hội Ngộ cùng Tiên trong Ý Nghĩa con người với cái “ta” Ngoại Diện thuộc về Lý Trí Hiện Tượng có khuynh hướng liên hợp với cái “TA” uyên áo của Nội Tâm sâu thẳm. Rồng không còn là Rồng nữa với xác thân hữu hạn, mà đã “Siêu Việt” để trở thành Rồng Thiêng khi tiếp cận Giấc Mơ Tiên. Cũng tương tự, Tiên cũng rộn ràng đam mê nhiệt đới, cũng không thể khước từ trái Táo địa đàng. Tâm Thức Rồng Tiên là Tâm Thức Toàn Diện của Cơ Cấu Uyên Nguyên. Cá nhân chỉ Trọn Vẹn Hóa trong Tương Quan, Thống Nhất với Toàn Diện Tính của Bản Thể Rồng Tiên. Trong tất cả những đa đoan của đời sống chẳng qua chỉ là một trường thử nghiệm của khuynh hướng tìm về chính Mình, Bản Tính Liên Hợp, có nước mắt của chia xa và niềm hân hoan hạnh ngộ. Nói một cách khác, Chân Lý Rồng Tiên ẩn tàng nơi Tương Dã chính là Lời Hẹn của Tình Yêu giữa Đạo với Đời. Cho nên Đạo Mới Không Xa Đời.

Huyền Sử Tiên Rồng còn gửi lại ý nghĩa thêm nữa trong việc Mẹ Âu Cơ sinh được 100 trứng trong một bọc, sau này 50 con ở lại với mẹ và 50 con theo cha xuống biển. Bọc đây phải là Bọc Tâm Linh . Bọc Tâm Linh nên ôm ấp chân lý tròn đầy, chân lý kết hợp, hòa tan mọi mâu thuẫn của thế giới hiện tượng phân biệt, Chân lý Hòa Hợp, bất khả phân ly của Đạo Thể Viên Dung. Một trăm ở đây cũng là biểu tượng cho sự toàn vẹn của mỗi khả thể, 100 là cái toàn thể, toàn thiện của chân lý. Chân lý không để phần tử nào phải lẻ loi cô độc. Chân lý là tròn đầy. Chân lý như là tổng số 100.

Đi vào thể dụng của chân lý, Tiên Rồng với bọc trăm trứng giúp cho người Việt cảm thấy gần gũi nhau hơn trong ý nghĩa đều là cùng một bụng mẹ Âu Cơ, cùng phải thân yêu, đùm bọc lẫn nhau, kết quả là ta có chữ đồng bào (cùng một bọc) để gọi nhau. Và, gọi người cai quản sinh hoạt xã hội bằng “bố”, một từ mà sau này người Việt dùng để gọi cha ruột thịt của mình. Một hình ảnh thân yêu và gần gũi giữa người một nước coi nhau là con một bọc của mẹ, dân gọi vua âu yếm và tin tưởng như cha, ta thấy một dân tộc có trình độ văn hóa cao siêu và nhân bản đã biểu hiện qua Huyền sử Tiên Rồng một cách thơ mộng mà thiết thực như thế là cùng! Còn có một nền nhân bản nào cao siêu hơn?

Chúng ta hãy tìm hiểu các nền văn minh trên thế giới. Tây phương khởi nguồn từ văn minh Hy Lạp, mà theo đó, con người là con cháu của các thần thánh hung dữ và độc ác, đầy đủ thói hư tật xấu của trần gian. Con người vì vậy rất sợ hãi sự thịnh nộ và trừng phạt của các thần, nên giới thống trị dựa vào sự tin tưởng ấy để đưa đến một xã hội phi nhân bản, phân chia giai cấp, điển hình là chế độ nô lệ. Tổ sư triết học Tây phương là Socrate, Platon, Aristote đã chấp nhận và bênh vực cho chế độ nô lệ. Rồi sau đó kỹ thuật tiến dần thì chế độ nô lệ bãi bỏ, chứ không do một lý tưởng cao đẹp nhân chủ bình đẳng nào hô hào bãi bỏ. Ấn Độ cũng không hơn gì. Niềm tin vào thần thánh khiến sự phân chia giai cấp vì lý do sanh bởi chân tay của thần thánh thì phải làm nô bộc cho giai cấp sanh từ đầu của thần thánh, rốt cuộc đại đa số dân chúng làm nô bộc cho một thiểu số tư tế và quý tộc. Ta thử xem bảng thống kê về sự bãi bỏ nô lệ, mới chỉ xẩy ra chưa bao lâu: Hoa Kỳ bãi bỏ nô lệ năm 1808, Anh 1833, Pháp 1845, Bồ Đào Nha 1856.

Trở lại Ý Nghĩa Huyền Sử trên, Tiên Rồng còn mãi mãi ly biệt, khi đời còn theo quan niệm chia cắt Thực Tại Toàn Diện bằng cái nhìn của Lý Trí, như những thuyết Duy vật, Duy tâm, Duy Một Chiều Kích. Tiên Rồng chỉ được Hội Ngộ khi con người nhận thức Chân Lý Hai Chiều Toàn Diện của cuộc Nhân Sinh. Hay nói cách khác, Huyền Sử Tiên Rồng đã đưa ra 3 mệnh đề : Chính Đề là Hiện Tượng Mâu Thuẫn, Phản Đề là Lý Trí Phân Ly, Tổng Đề là Tâm Linh Vô Phân Biệt, qua sự việc Tiên Rồng chia tay rồi hội ngộ nơi Cánh Đồng Tương .

Tóm lại, qua Huyền sử Con Rồng Cháu Tiên của Việt Đạo, bài học đơn giản mà ta có thể nhận ra ngay là: “Ngoài thì là Lý, nhưng trong là Tình”. Sâu xa hơn nữa, đây là một Biện Chứng Tâm Linh Tổng Hợp Chân Thực Hiện Tượng và Bản Chất của nền MINH TRIẾT UYÊN NGUYÊN của Dân Tộc.

(Trích trong Yêu Mến An Vi, cùng tác giả)


Đông Lan


Cảm Nghĩ: LỄ GIỖ QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG - Phùng Ngọc Sa

Phùng Ngọc Sa

Từ ngàn xưa trên giải giang sơn gấm vóc Việt Nam, mỗi năm cứ đến độ xuân về, khi trăm hoa khoe sắc và chim muông ca hót thì tất cả con dân đất Việt khắp nơi, từ thành thị đến thôn quê, ai nấy đều quây quần với nhau tại những nơi trang nghiêm như đình chùa và nhà làng để làm lễ Giỗ Tổ. Quốc lịch gọi là lễ Hùng Vương. Lễ được ấn định vào ngày mồng l0 tháng 3 âm lịch. Đây là nghi lễ truyền thống để nhắc nhở con cháu nhớ đến cội nguồn dân tộc, tưởng nhớ đến công ơn các vị vua Hùng thuộc họ Hồng Bàng dựng nước. Chính nhờ các Ngài mà ngày nay con cháu mới có được một mảnh đất dung thân.

Xin nhắc lại, hai vị Khởi Tổ của dân tộcViệt đã sống vào thời khuyết sử nên các nhà sử học chỉ ghi chép lại đôi dòng về các vị Thủy tổ, trong đó có Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ sinh ra một bọc một trăm trứng và nở thành một trăm con; ngoài ra không nói rõ chi tiết sinh hoạt của các vị như thế nào. Với đà phát triển, lòng kính mến và biết ơn sâu xa đối với hai vị Khởi Tổ nên từ mấy ngàn năm trước, Tổ Tiên ta đã tôn hai Ngài thành Biểu Tượng Linh Thiêng là Tiên và Rồng. Dân Việt âu yếm gọi hai Ngài là Mẹ Tiên, Cha Rồng. Cho tới nay hồn thiêng của hai Ngài vẫn linh hiển và với sứ mệnh sinh sản cả một dân tộc đông đúc siêu vượt, hai Ngài là Tổ trên hết các Tổ của Tộc Việt.

Cùng với hai vị Khởi Tổ, nguồn gốc tộc Việt cũng được truyền thống văn hóa thăng hoa kết tinh thành chuyện Tiên Rồng và đã được truyền miệng một cách phổ quát cho toàn thể dân chúng suốt mấy ngàn năm qua: giống dân Việt khởi nguồn từ một ông Rồng nói với bà Tiên:”Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, nàng đem 50 con lên núi, ta đem 50 con xuống biển khi cần thì gọi nhau về.”-Từ đó dòng giống Việt mỗi ngày một phát triển, và theo đặc tính địa phương, chia thành nhiều nhánh.

Theo biễu tượng Bọc Trăm Con, các nhánh của Tộc Việt thường được gọi chung là Bách Việt. Một trong các nhánh đó là Lạc Việt. Với thời gian, một phần các nhánh Lạc Việt ở cực Nam thành lập quốc gia, nay là Việt Nam.

Theo quan niệm chung của dân tộc Việt, nước Việt Nam được thành lập do nhiều vị Quốc Tổ. Quốc Tổ không phải chỉ là vua đầu tiên, mà gồm có mười tám vị gọi là vua Hùng. Như vậy, quan niệm lập quốc của dân Việt nhấn mạnh đến sự thành hình của một dân tộc, một nền văn hóa hơn là thành lập một quốc gia theo nghĩa chính trị hiện nay.

Theo truyền thống cao quý nói trên nên không những trong nước, mà tại hải ngoại, giữa nơi đất khách quê người, bất cứ ở đâu, hàng năm chúng ta đều tổ chức lễ Giỗ Quốc Tổ để nhắc nhở và hướng dẫn con cháu luôn hướng về cội nguồn dân tộc.

Trước bàn thờ Tổ Quốc có linh vị của Quốc Tổ, trong không khí trang nghiêm cùng khói hương nghi ngút do con cháu thắp lên để tưởng nhớ đến các Ngài. Có thể nói đây là cơ hội thuận tiện và quý báu cho chúng ta dành đôi phút suy tư để nghĩ đến Quốc Gia Dân Tộc; tự xét lại trong cuộc đời mình đã làm, hay đóng góp được thêm gì cho gia tài quý giá của tiền nhân để lại. Bằng biết bao công lao khó nhọc, các Ngài đã kiến quốc, cứu quốc, mở mang bờ cỏi để lại cho con cháu hậu thế một giải giang sơn gấm vóc cùng với một nền đạo lý và văn hóa vững vàng mang tính chất của giòng giống Lạc Việt; chính nhờ vậy mà l0 thế kỷ dưới ách nô lệ của kẻ thù phương Bắc và gần non một thế kỷ bị thực dân Tây phương đàn áp, nhưng ngoại bang không thể làm sao đồng hóa nổi và cũng không thể phá hủy được truyền thống quý báu của giòng giống Lạc Việt.

Hãy tự hỏi, tất cả chúng ta đã làm được những gì để đóng góp thêm cho di sản thiêng liêng của tổ tiên để lại? Hay chúng ta chẳng những không bồi đắp mà còn nở lòng phá hoại?

Xét lại những trang sử cận đại, trong hơn nửa thế kỷ qua, trên mảnh đất Việt thân yêu mà các vị Quốc Tổ từng tốn bao công sức xây dựng đã trở thành bãi chiến trường loang máu do chính con cháu gây ra. Hãy đọc lại một vài câu thơ được lưu truyền trong dân gian mô tả nổi thống khổ của người dân bị đọa đầy bởi các thế lực đối kháng, kẹp giữa hai lằn đạn:

Chốn thành thị An ninh Bảo vệ
Miền thôn quê Tự vệ Công an
Bốn bề Vệ Bảo Ninh An
Dân càng chết kẹt, chết oan, chết phiền.

Hoặc:

Nhiều gia quyến hai bên mắc nghẹt
Kẻ bên nầy người kẹt bên kia
Anh em cha chú phân ly
Chồng xa vợ mọn mẹ lìa con thơ.

Miệng lưởi của người cộng sản thường rêu rao “Tình ruột thịt nghĩa đồng bào”nhưng khi có được lợi thế nhờ mưu mô xảo quyệt, nhờ được sự hổ trợ của Cộng Sản Quốc Tế thì bọn chúng lại đưa dân tộc vào cảnh hủy diệt tương tàn và bọn chúng đã thẳng tay đàn áp đồng bào bằng những thủ đoạn độc ác nhứt trong lịch sử dân tộc cũng như lịch sử nhân loại.

Bạo quyền Hà Nội sẽ nói thế nào trước vong linh của Quốc Tổ về những thủ đoạn đê hèn mà chúng đã dùng để thủ tiêu và tận diệt những tinh hoa của đất nước; những người đã từng đồng lao cộng khổ với chúng trong cuộc đấu tranh dành lại độc lập cho quê hương từ tay thực dân Pháp? Thử hỏi, biết đến mấy thế hệ nữa Việt Nam mới có được những nhân tài đầy lòng ái quốc, biết dùng mối đạo để phục vụ quốc gia như Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ; một lãnh tụ Lê Ninh (tự Lê Khang ) của Việt Nam Quốc Dân Đảng tài ba thao lược, nhiều kinh nghiệm chiến đấu và tài tổ chức, kế thừa truyền thống của người anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học; hoặc như lãnh tụ Lý Đông A ( tức Nguyễn Hữu Thanh) của Đại Việt Duy Dân, tuổi trẻ tài cao, uyên thâm bác học. Với tư chất thông minh thiên phú, ông ta đã lý giải sự việc một cách rất nhanh chóng chỉ một khoản khắc ngắn, trong khi mà các nhà khoa bảng thời danh khác phải mất hàng tháng mới làm nồi. Sau cùng là sự kiện của ông Trương Tửû Anh, Đảng Trưởng Đại Việt Quốc Dân Đảng, từ 22 tuồi, ông đã nghiên cứu tạo lập chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn thích hợp cho dân Việt và đã trở thành sấm ngữ khi thực tế chứng minh cho lời tiên đoán về sự sụp đổ của chủ nghĩa Duy Vật Biện Chứng Pháp của Cộng Sản Quốc Tế. Chính chủ thuyết của ông là kim chỉ nam của Đại Việt Quốc Dân Đảng trong sự nghiệp đấu tranh dành độc lập cho quốc gia. Khi mới được 25 tuổi, nhà lãnh tụ tài ba nầy đã được hai đảng cách mạng tiền phong là Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng bầu làm chủ tịch của Mặt Trận Quốc Dân Đảng để chống lại Mặt Trận Việt Minh Cộng Sản.

Tất cả những thiên tài ái quốc và lổi lạc nói trên đã bị bọn Cộng Sản Việt Nam ám hại chỉ vì quyền lợi của Cộng Sản quốc tế.

Sau khi nhờ được yểm trợ tối đa của cộng sản quốc tế chiếm được nửa nước, bọn CSVN đã tiến sâu vào con đường tội ác. Với chủ trương cải cách ruộng đất, bọn chúng đã làm đảo lộn luân thường đạo lý, và truyền thống của dân tộc Việt; chúng bày ra cảnh đấu tố, dậy con tố cha, vợ tố chồng, chỉ đạo giai cấp đấu tranh, chia để trị và dể bề bóc lột. Tới khi lợi dụng được thời cơ đánh chiếm được miền Nam, người cộng sản lại tiến hành hủy diệt văn hóa và trí thức bằng chính sách cải tạo, tịch thu sách vở, biến những người làm văn hóa trở thành những lợi khí nô dịch.. Do đó, chỉ mới hơn vài thập niên đàn áp, cộng sản đã làm thoái hoá cả một thế hệ con dân của Mẹ Việt Nam.

Hiện những người cộng sản đang tiếp tục phá hoại sự nghiệp của Tiền Nhân bằng cách bán đất nhường biển cho kẻ thù phương Bắc; khốn nạn hơn, buôn bán đàn bà và trẻ em cho ngoại nhân để làm nô lệ tình dục. Bọn người man rợ cộng sản sau khi bị đồng bào trong nước và hãi ngoại đồng loạt lên án về tội ác bán nước buôn dân, bèn tìm cách đánh lận con đen bằng cách nâng ngày Giỗ Quốc Tổ lên hàng “quốc lễ”, ngụ ý là bọn họ vẫn tôn thờ Quốc Tổ. Qủa thật đây là một lối phỉnh gạt trắng trợn. Lý do, CSVN làm gì có tổ quốc. Với họ, tổ quốc đồng nghĩa với xã hội chủ nghĩa. Vì “yêu Tổ Quốc là yêu Xả Hội Chủ Nghĩa”Tổ quốc của Cộâng Sản Việt Nam là Liên Xô. Và tổ tiên của bọn họ là Mác, Lê Nin và Mao. Nay Liên xô đã không còn thì CSVN quay sang sùng bái Trung Cộng và những tay đầu sỏ tại Trung-Nam-Hải.

Người cộng sản thì phá hoại như thế thế còn người Việt Quốc gia đã đóng góp gì cho đất nước? Cộng đồng người Việt hải ngoại trên ba triệu người, kẻ trước người sau bỏ nước ra đi sau ngày 30 tháng 4 đã cống hiến được gì cho quê hương ?

Hãy trung thực, và can đảm kiểm điểm lại, chúng ta chỉ thấy được một ít kết quả quá ư là khiêm nhượng. Có nhiều người cho rằng 30-4 là ngày Quốc Hận để ghi nhớ biến cố tang thương khiến người dân Việt miền Nam phải từ bỏ quê cha đất tổ ra đi lánh nạn cộng sản. Những cũng từ sự bất hạnh nầy, đã có biết bao kẻ may mắn được công thành danh toại ở xứ người. Đã có biết bao thanh niênViệt đã may mắn học được cái hay và những kỷ thuật tân tiến của ngoại quốc, đổ đạt hiển hách, thành công vược bực trên hai phương diện kiến thức cũng như tài chánh. Họ thích được đánh bóng là người vẻ vang dân Việt . Nhưng trong đó chẳng ai nghe nói đến những gì họ đóng góp cho quê hương về các thành quả mà họ đã gặt hái được.

Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Trước sau một phần lỗi lớn cũng bởi tại chúng ta gây nên. Cho đến giờ phút nầy, vẫn chưa thấy người Việt hải ngoại cụ thể đóng góp được gì khả dĩ cùng nhân dân trong nước sớm hóa giải được quyền lực cộng sản để tái thiết quốc gia. Nguyên nhân và lý do chính, là chúng ta chỉ thích đóng kịch, làm giả nhiều hơn thiệt. Ngoài ra còn cái nạn phân hóa trầm trọng. Có thể nói chính đây là căn bệnh trầm kha của người Việt quốc gia, và chính nó là nguyên nhân làm cho miền Nam bị sụp đổ và chính đó là một trở ngại lớn trong việc phục hưng đất nước.

Phải hãnh diện mà nói là trong lịch sử ngôn ngữ của văn minh nhân loại, chỉ có dân Việt Nam mới tự hào dùng chữ Đồng Bào để gọi nhau,(vì chung một bào thai của mẹ Việt) tượng trưng cho tinh thần Đoàn Kết. Quốc Tổ vì sự nghiệp mở mang bờ cõi mới phải chia nhau, người lên núi kẻ xuống biển, ra đi khắp bốn phương tám hướng nhưng Ngài quyết định để người Trưởng Nam ở lại làm vua, tiếp tục nắm giữ giếng mối quốc gia tượng trưng cho việc thống nhất đất nước. Quốc Tổ vì sự nghiệp quốc gia đã hành động như thế, trong khi đó con cháu của Ngài thì làm trái ngược lại.

Trong nước thì bọn CSVN càng ngày càng gian ác, nhất quyết trị dân bằng bạo lực; hàng ngũ đối kháng đã thấy được họa diệt vong những chưa có khả năng kết tụ được. Kẻ ra đi, khi đã may mắn đến bờ tự do thì chia năm xẻ bảy, phân hóa trầm trọng chỉ vì không san bằng được dị biệt. Thật ra dị biệt đâu có gì là sai quấy, trong sinh hoạt, sai quấy là thái độ tương quan của dị biệt. Thay vì phải coi dị biệt như là những yếu tố làm thêm phong phú cho văn hóa, thêm vị tươi và sống động cho cuộc sống mà không gây trở ngại cho sự thuần nhất quốc gia. Oái ăm thay, ở đây đồng bào chúng ta lại xem dị biệt như là bức tường kiên cố ngăn chận cá nhân nầy với cá nhân khác, tập thể nầy với tập thể khác để đến nổi đưa đến tình trạng rả rời và tan nát. Cũng vì nguyên nhân nói trên mà từ trước đến nay, hải ngoại chưa bao giờ kết tụ nổi thành một khối khả dĩ tạo thành được một cái lực đáng kể và cần thiết trong việc tranh đấu cho mục tiêu chung. Tất cả mọi người ai cũng biết đến điều đó, từ trước đến nay đã có biết bao cố gắng và biết bao nhiêu lần tìm cách tập họp nhưng cũng đã bấy nhiêu tan vở, và mỉa mai thay, những nơi tập họp lại chính là những chốn mà hiện tượng phân hóa dể dàng xuất hiện nhất. Và, ai cũng kêu gọi đoàn kết, nhưng là đoàn kết sau lưng họ chứ không phải để có sức mạnh.

Tại sao, vì nguyên nhân nào? Xin thưa là tại cái tôi trong chúng ta quá lớn, đó là chưa kể những yếu tố khác làm trì trệ, như đầu óc kiêu căng đố kỵ, lòng vị kỷ và tệ hơn nữa là tinh thần ganh tỵ với những ai tỏ ra có khả năng hơn mình, chỉ vì bản tính tự cho mình là cái rốn của vũ trụ. Lý do đó mới dẫn đến việc lạm phát hội đoàn, đảng phái. Trong cộng đồng chẳng ai bảo được ai vì thế mới có tình trạng thừa lãnh tụ nhưng lại thiếu lãnh đạo. Hãy can đảm để nhìn nhận sự thật, đừng nghĩ chi đến việc so sánh với những cộng đồng dân tộc nổi tiếng như Do Thái, Cuba, ngay đến những cộng đồng nhỏ của các nước lân bang với Việt Nam như Lào, Cam Bốt, trong sinh hoạt người Việt hải ngoại chưa có sự gắn bó như họ đã làm được. Với tình trạng yếu kém nầy, hải ngoại làm sao có thể áp lực để Cộng Sản Việt Nam từ bỏ quyền lực.

Lịch sử là một tấn kịch được tái diễn không ngừng. Chúng ta mấy ai ngờ đế quốc cộng sản lại sụp đổ mau chóng như vậy. Giả dụ một ngày nào đó, CSVN thấy là không thể nào tiếp tục đường lối độc tài đảng trị được bèn nghĩ đến chuyện mời những người trong nước cũng như hải ngoại cùng chung lo việc tái thiết quốc gia. (Đây chỉ là giả thiết, vì VC có bao giờ chia quyền cho ai; ngược lại hải ngoại biết đến khi nào mới đủ lực để nói chuyện với nó). Thử hỏi, liệu những ai và đoàn thể nào dám nhận trọng trách lịch sử đó? Dám hỏi những vị khoa bảng đã từng được đào tạo trong nếp sống văn minh, hưởng thụ vật chất Tây phương, có thể hy sinh trở về phục vụ quốc gia trong một tình trạng bán khai như Việt Nam hiện nay hay không? Hay cũng chỉ tình nguyện làm tay sai cho chúng?

Trên đây chỉ là một vài sự kiện cụ thể trong muôn vàn khó khăn mà những ai còn nặng lòng với quê hương phãi nghĩ đến khi muốn bắt tay nhau thực hiện cho được việc gì đó, khả dĩ đem lại lợi ích cho nước nhà. Quả thật là phức tạp, nhưng không phải vì trở ngại mà bỏ cuộc thì biết đến bao giờ mới có thể cùng nhau góp sức để tái thiết quê hương. Và làm sao để giải thích với con cháu về ý nghĩa của việc làm chúng ta, là hàng năm cứ họp nhau Giổ Quốc Tổ Hùng Vương. Chẳng lẽ chỉ đến lễ bái cho có lệ rồi lại buông tay ra về như những kẻ mê tín không hơn không kém.

Qua tổng hợp ý kiến của nhiều tầng lớp nhân sĩ và các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như các đoàn thể chính trị, chúng tôi nhận thấy con đường khả dĩ kết hợp được nhau để tái thiết quốc gia là con đường Trở về nguồn, phục hồi văn hóa Việt. Muốn phục Việt, trước hết phải là người Việt. Tiên quyết chúng ta phải cố tìm cách gìn giữ tinh túy của giòng Lạc Việt trước khi tiếp nhận và tinh lọc văn minh cùng những đổi mới của thời đại. Là người Việt mang huyết thống Rồng Tiên. Rồng thì uy vũ. “Phong Thái Uy Vũ Bất Năng Khuất”. Tiên lại hiền lành xinh đẹp.Với tinh thần đó thì dù đất nước có hưng thịnh hay suy vi, lòng chúng ta vẫn vững như bàn thạch, tâm vẫn không sờn, kiên trì hãy cùng nhau gạt đi những tị hiềm nhỏ nhặt, không chùn bước trước những khó khăn hiện tại, vì đây chỉ là những trở ngại nhỏ và tạm thời; với trạng huống khi đã cùng thì tất biến và biến tất thông. Chúng ta sẽû rút ra những kinh nghiệm quý giá để sử dụng trong tương lai. Hãy nhìn lại lịch sử, xem gương mười năm kháng chiến gian lao đưa đến thành công của vị anh hùng đất Lam Sơn cũng chỉ vì mục tiêu và chủ trương :

Đem đạo nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân mà thay cường bạo.

Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi đã xác định rõ ràng: Dùng đạo nghĩa là căn bản của nền văn hóa của giống Lạc Việt để xóa bỏ cái hung tàn và cường bạo của kẻ thù xâm lược phương Bắc. Người anh hùng áo vải đất Tây Sơn cũng đã phất mgọn cờ đào. Chỉ kiếm về phương Bắc mà xuất chinh. Cuộc chiến thắng thần tốc đại phá quân Thanh trong mùa Xuân Kỷ Dậu đã nói lên mục đích là đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi để phục hồi văn hóa Việt, vua Quang Trung nói:

Đánh cho để tóc dài
Đánh cho để đen răng
Đánh cho sử tri Nam quốc
Anh hùng chi hữu chủ

Với di chúc cách mạng của Nguyễn Trãi, và mục tiêu giải phóng đất nước để phục hồi văn hóa của Quang Trung thì con cháu các ngài không thể đi ngược lại bằng cách lấy cường bạo nầy để thay thế cho việc hung tàn khác. Do đó, không thể chấp nhận độc tài đảng trị của miền Bắc thay thế tư bản miền Nam, cũng như ngày nay khó có thể nói đến việc dùng bạo lực vũ khí để lật đổ chế độ CSVN hiện đang thống trị đất nước. Như vậy chỉ còn kế sách là phục hồi văn hóa Lạc Việt, may ra nhờ cùng chung truyền thống văn hoá chúng ta hy vọng xóa bỏ những dị biệt đang là bức tường kiên cố ngăn cách dân tộc.

Hiện nay tại hải ngoại đã có nhiều dấu chỉ đáng khen. Các cộng đồng các nơi đang cố gắng bằng cách phổ biến tinh thần dân tộc; với những lễ tổ chức long trọng các nghi thức truyền thống như Tết Nguyên Đán, lễ Giỗ Quốc Tổ, kỷ niệm Hai Bà Trưng, giỗ Hưng Đạo Vương, Lê Lợi, Quang Trung v.v.Ngoài ra còn các buổi ra mắt sách, bình thơ, trình diển áo dài . Những việc đó một phần nào hướng dẫn con em nhớ đến ccäi nguồn Lạc Việt. Với đà phát triển thế hệ trẻ, nhu cầu cung ứng của tuổi thanh xuân cần tìm hiểu cội nguồn văn hóa mỗi ngày một gia tăng. Ước mong các nhà lãnh đạo tinh thần, những đoàn thể chính trị và chính đảng quốc gia đấu tranh hãy cố gáng tích cực hơn trong công cuộc đóng góp cho sự nghiệp văn hóa dân tộc. Tất cả cho văn hóa Việt và để cùng nhau về nguồn, chúng ta xác nhận rằng:

Mất nước còn có cách lấy lại
Mất dân rất khó, nhưng cũng có cách thu phục
Nhưng một khi văn hóa đã mất, tức dân tộc tính không còn thì vô phương cứu chữa.
Văn Hóa Còn Dân Tộc Còn.

Phùng Ngọc Sa


Ý nghĩa của ngày Quốc Hận 30 tháng 4 - Trần Thanh

Trần Thanh

Năm nào cũng vậy, cứ gần đến ngày 30 tháng 4 là băng đảng cướp Việt Tân lại hô hào "hướng về tương lai, xóa bỏ hận thù", hoặc "chúng ta đấu tranh vì chính nghĩa chứ không phải đấu tranh vì lòng thù hận"* Theo ý của những con chó săn Việt Tân, "xóa bỏ hận thù" tức là phải xóa bỏ ngày 30 tháng 4! Bố của chúng nó (việt gian cộng sản) dạy chúng phải sủa như thế thì chúng phải sủa như thế, không thể nào khác được! Mỗi lần sủa đúng những "bài bản" do chủ dạy, con chó săn được thưởng cho một ít đô la, đủ để đi làm "một dù" (chơi đĩ), một chầu phở và một chầu cà phê. Như vậy cũng là quá "vinh quang, hoành tráng" cho cuộc đời làm chó săn rồi!

Ðể nhìn vấn đề thật đơn giản, đừng bị những cái vỏ danh từ làm rối trí, chúng ta hãy suy luận về những điểm sau đây:

1. Giữa THIỆN và ÁC, bạn chọn cái nào?

Dĩ nhiên, khi được hỏi về điều này thì hầu như ai cũng nói:

- Tôi chọn cái thiện, tôi yêu cái thiện; tôi thù ghét cái ác, tôi quyết tâm chống lại cái ác, tiêu diệt cái ác.

Cái thiện tựa như ánh sáng, cái ác tựa như bóng tối. Ví dụ chúng ta đang sống trong một căn nhà tối tăm, không đủ ánh sáng cho con cái chúng ta học. Muốn có ánh sáng, chúng ta phải đốt lên một ngọn nến để xua bóng tối đi. Nhưng một ngọn nến chưa đủ sáng, thằng cu Tí, cu Tèo, cái Hĩm đồng kêu lên:" Bố ơi, đèn mờ quá, tụi con nhìn không rõ!" Thế là ông bố, bà mẹ phải thắp thêm ngọn nến thứ hai, rồi thứ ba, thứ tư, thứ năm ..v..v.. Và khi có điều kiện, họ xài bóng đèn điện neon, ánh sáng chan hòa trong khắp căn nhà, bóng tối đã bị đẩy lùi đi và biến mất.

Trong lãnh vực nông nghiệp, chúng ta có thể ví cây lúa tượng trưng cho cái thiện; và các loài sâu rầy, cỏ dại tượng trưng cho cái ác. Muốn có gạo ăn, bắt buộc chúng ta phải diệt sâu rầy. Hoặc khi trồng khoai, trồng bắp, chúng ta phải diệt cỏ dại.

Thực hành điều thiện (trồng lúa, trồng bắp) phải luôn luôn đi đôi với việc tiêu diệt sâu rầy và cỏ dại (diệt cái ác) Hai việc làm này phải được thực hành cùng một lúc. Nếu chúng ta không tiêu diệt sâu rầy thì những cây lúa sẽ bị chúng phá hại hết, chúng ta sẽ đói. Không bao giờ có nhà nông nào ngu tới mức, chủ trương "hòa hợp hòa giải", vừa trồng lúa và đồng thời cứ dung dưỡng cho các loại sâu rầy sống chung với lúa để tự do phá hoại mùa màng!

Chỉ có đảng cướp Việt Tân là muốn nuôi sâu rầy và cỏ dại vì chính bản thân bọn chúng là sâu rầy và cỏ dại. Bọn chúng chính là hiện thân của cái ÁC, là những kẻ phá hại xã hội, ăn bám xã hội, lười biếng không chịu làm việc, chỉ muốn đi làm việc "từ thiện", móc túi đồng bào!

2. Tự đặt câu hỏi và tự trả lời:

Xin các bạn tự hỏi và tự trả lời những câu hỏi sau đây:

- Ðảng việt gian cộng sản là tượng trưng cho THIỆN hay ÁC?

- Ðảng cướp Việt Tân là tượng trưng cho THIỆN hay ÁC?

3. Vậy phe THIỆN gồm những ai?

Xin thưa đó chính là toàn dân nô lệ trong và ngoài nước đang khao khát được tự do và đang nổ lực đấu tranh cho hai chữ TỰ DO.

Những người Việt đang sống tại hải ngoại vẫn đang bị những vòi bạch tuộc của bọn việt gian cộng sản chi phối chứ chưa phải đã được tự do hoàn toàn đâu. Chúng ta cần ý thức rõ điều này để cùng phối hợp với đồng bào trong nước đấu tranh tiêu diệt những kẻ ÁC.

4. Ngụy biện của đảng cướp Việt Tân:

Ðảng cướp Việt Tân tự nhận: " ... chúng ta đấu tranh vì chính nghĩa chớ không phải vì hận thù"*.

"chúng ta" là ai? Ðây là hành động quơ đũa cả nắm. Cái gọi là "chúng ta" của băng đảng Việt Tân chỉ là những tên chó săn đi làm tay sai cho bọn việt gian cộng sản. Những người dân lương thiện không bao giờ là thành viên trong cái đảng cướp đó.

Chính nghĩa tượng trưng cho điều THIỆN. Chính nghĩa là những hành động như đốt lên những ngọn nến xua tan bóng đêm, trồng lúa và trồng bắp. Chính nghĩa tượng trưng cho luật pháp công minh, không dung dưỡng tội ác. Những kẻ phạm tội trộm cướp, giết người, lừa đảo thì phải bị trừng phạt, bị tống cổ vào tù hoặc bị treo cổ.

Ðảng cướp Việt Tân không có tư cách gì tự xưng chúng là đại diện cho "chính nghĩa". Ai đời cái thằng chuyên đi ăn cướp mà tự xưng mình là đại diện cho công lý! Cái gọi là "chính nghĩa" của bọn chúng chính là sự lừa bịp đồng bào, quyên được vài chục triệu Mỹ kim để nuôi một sư đoàn kháng chiến .... ma gồm 10 ngàn tay súng ở biên giới Thái Lan! Cái gọi là "chính nghĩa" của bọn chúng chính là chủ tịch Hoàng Cơ Minh có phép thần thông tựa như Tề Thiên Ðại Thánh, bị việt cộng bắn vỡ sọ rồi mà vẫn tiếp tục sống tới 14 năm sau mới chết!!! Cái gọi là "chính nghĩa" của bọn chúng chính là đi ám sát những ký giả, đi gieo rắc khủng bố trong cộng đồng, gây chia rẽ, phá hoại sự đoàn kết của những người quốc gia. Cái gọi là "chính nghĩa" của bọn chúng chính là đòi xóa bỏ ngày Quốc Hận 30 tháng 4, đòi hủy bỏ lá cờ vàng ba sọc của người quốc gia ..v..v...

NHỮNG ÐIỀU CẦN DẠY CHO THẾ HỆ TRẺ:

Nếu chúng ta dạy cho thế hệ trẻ cách trồng lúa, trồng bắp thì đồng thời phải dạy cho chúng biết cách diệt trừ sâu rầy và cỏ dại. Muốn hiểu rõ điều thiện, trân quý điều thiện thì ta phải biết rõ những sự tai hại của điều ác. Một người chỉ biết quý trọng giá trị của cây nến khi người đó đã từng bị sống trong bóng đêm hãi hùng. Chúng ta dạy cho thế hệ trẻ hiểu rõ chính nghĩa quốc gia thì đồng thời phải dạy cho chúng biết rõ thế nào là những núi tội ác của cộng sản và thế nào là những tội ác cùng những trò lưu manh, điếm đàng của đảng cướp Việt Tân.

Gây dựng điều thiện và chống lại điều ác là hai hành động phải được thực hiện cùng một lúc. Chống lại điều ác chính là bảo vệ điều thiện. Hiểu rõ điều ác và thù ghét nó cũng là điều rất tốt. Có thù ghét mới có yêu thương và ngược lại. Không hận thù bọn cướp việt gian cộng sản và Việt Tân thì chúng ta không thể nào đấu tranh thành công, giải thoát được 85 triệu nô lệ. Bọn chúng là sâu bọ, là cỏ dại thì phải bị diệt bỏ. Giết một con rắn hổ mang để cứu hàng trăm con thỏ, con gà là điều rất nên làm. Nếu chúng ta sợ mang tiếng là "hận thù" mà không dám giết con rắn thì sinh mạng của bầy thỏ và bầy gà sẽ đi về đâu?

Giả sử chúng ta thấy một băng cướp có súng, cướp tiền trong nhà băng xong rồi tẩu thoát. Chúng ta có thể gọi điện thoại tới sở cảnh sát, mô tả tỉ mỉ những gì đã chứng kiến để giúp nhà chức trách lùng bắt những tên tội phạm. Hành động đó của chúng ta chính là bảo vệ điều thiện, chống lại điều ác. Nếu không dám chống lại điều ác thì một ngày nào đó xã hội sẽ bị những thế lực đen cai trị thì chúng ta sẽ hết đường sống. Kẻ nào thấy những điều ác xảy ra ngay trước mắt mà vẫn dửng dưng, không dám hận thù thì kẻ đó là đồng lõa với tội ác.

Ý NGHĨA CỦA NGÀY 30 THÁNG 4:

Ngày 30 tháng 4 là điểm mốc thời gian có giá trị lịch sử, nhắc nhở chúng ta ý thức rõ tại sao cho đến giờ phút này, hơn 60 năm đã trôi qua mà 85 triệu người vẫn phải tiếp tục làm nô lệ? Và muốn thoát khỏi cảnh nô lệ thì chúng ta phải làm gì? Phải chăng là đi theo lá cờ "chính nghĩa" của đảng cướp Việt Tân, quên đi quá khứ, hướng về tương lai, xóa bỏ hận thù, chỉ biết yêu bác Hồ và yêu đảng việt gian cộng sản mà thôi!?

Không, trăm ngàn lần không phải như vậy. Ngày 30 tháng 4 nhắc cho chúng ta phải nhớ những điều quan trọng sau đây:

1. Phải tiêu diệt bọn việt gian cộng sản và băng đảng cướp Việt Tân vì bọn chúng là hiện thân của TỘI ÁC.

2. Một khi điều (1) đã được thực hiện thì 85 triệu nô lệ mới được tự do.

3. THIỆN luôn luôn chiến thắng ÁC. Trong một thời điểm nào đó cái ác có thể thắng thế nhưng đó chỉ là tạm thời. Chung cuộc THIỆN sẽ chiến thắng ÁC. Ðây là chân lý vĩnh hằng.

4. Chúng ta dạy cho thế hệ trẻ hiểu rõ những điều 1, 2 và 3 để cùng góp sức với thế hệ cha anh gieo trồng điều thiện, tiêu diệt điều ác.

Ý nghĩa ngày Quốc Hận 30 tháng 4 quan trọng như vậy mà bầy chó săn Việt Tân cứ đòi xóa bỏ và còn ngoác mồm ra sủa ông ổng, ca ngợi chủ của bọn chúng là những kẻ "chiến thắng"! Bọn chúng không hề biết rằng toàn dân đã làm xong hai sợi giây thòng lọng trên giá treo cổ. Một cái dành cho đảng cướp việt gian cộng sản và một cái dành cho con chó săn Việt Tân. Ngày đó chắc chắn sẽ đến! Và ngày treo cổ bọn chúng cũng sẽ rơi đúng vào ngày 30 tháng 4!!!

Trần Thanh
Ngày 25 tháng 4 năm 2009


Thursday, March 26, 2009

ĂN VÀ ÔM - Đinh Lâm Thanh


Đinh Lâm Thanh

Ầm thực là một ngành nghệ thuật thuộc văn hóa cổ truyền của từng dân tộc, trong đó, từ cách chế biến, trình bày cho đến thưởng thức đều mang một sắc thái riêng. Mỗi xứ, mỗi vùng đều có tục lệ ăn uống riêng và những món ăn đặc biệt được giữ bí mật, có thể nói, là gia truyền từ nguyên vật liệu, phương thức pha chế cho đến kỹ thuật nấu nướng. Nói về phương diện hưởng thụ thì vùng nào, tùy theo thời gian và không gian, cũng đều có những phong tục tập quán riêng biệt về ăn uống. Nói một cách chung chung về hình thức, vua quan quý tộc La Mã ngày xưa thì ăn nằm, có người đẹp dâng đến tận miệng. Người Châu Âu (nhất là Pháp) từ xưa đến nay vẫn thường nặng phần trình diễn ly, chén dĩa, muỗng nĩa với bình hoa và đèn cầy để bàn, bữa ăn có thể kéo dài đến ba bốn tiếng đồng hồ. Dân Mỹ thì thực tế, vừa làm việc vừa ăn hay vừa đi vừa nhai một cách thoải mái tự nhiên. Đôi khi trong các buổi tiệc, vừa qua vài mục ca hát thì thực khách đã chấm dứt các món ăn trong thực đơn ! Người Tàu "xực phàn" với tất cả tâm tình, vừa ăn vừa húp sùm xụp, vừa "xí xô xí xà" trước hàng chục món lí nhí trên bàn ! Ngược lại đối với một số dân tộc người Phi Châu thì thật đơn giản, chỉ cần miếng lá chuối và năm ngón tay là giải quyết xong chuyện !

Hình thức ăn uống biểu lộ tác phong và nhân cách của từng cá nhân một, do đó bài học đầu tiên của các nhà ngoại giao hoặc chính khách là cách thức ăn uống trong các buổi hội họp, giao tế, tiếp tân. Như vậy, vấn đế ăn uống không đơn giản như đa số người bình dân thường nghĩ, mà chính là một nghệ thuật, vì ăn làm sao cho ra vẻ văn minh, đẹp mắt và có giáo dục !

Trở lại vần đế ẩm thực của người Việt Nam ngày trước cũng lắm phong cách theo tập tục cổ truyền và đây cũng là một vấn đề quan trọng mà các cụ rất chú trọng chương trình giáo dục con người ngay từ lúc vừa khôn lớn theo câu "Học ăn, học nói, học gói, học đùm". Như vậy việc ăn uống ngày xưa được đưa lên hàng đầu trước những chuyện khác như dạy nói và làm việc (gói, đùm)… Ngoài ra việc ăn uống trong các gia đình trước kia còn phải tuân theo tôn ty trật tự mà bậc cha mẹ bắt buộc dạy cho con cháu như "ăn xem nồi ngồi xem hướng". Nhưng khi ra ngoài dự đám cỗ thì các cụ dạy phải nhanh tay lẹ mắt để ăn "một miếng giữa đàng bằng một sàng trong bếp", đừng giả vờ e lệ rồi ôm bụng đói ra về !

Phong cách ăn, bậc cha mẹ ngày xưa còn dạy con cái về hình thức lễ phép khi có dịp ngồi chung với người lớn. Vào bàn thì phải biết lựa chỗ thích hợp với vai vế tuổi tác và phải đọc một bài thuộc lòng mời đủ mọi người có mặt như (đa số ở những gia đình người Băc) "Mời ông, mời bà, mời cha, mời mẹ, mời chú, mời bác mời cô mời dì, mời anh, mời chị xơi cơm", rồi phải đợi tất cả nâng chén lên xong xuôi mới đến lượt trẻ nhỏ. Trong lúc ăn phải ngậm miệng để nhai, không được chắp lớn tiếng, không được nhìn ngang liếc dọc hay chen vào chuyện người lớn (khuôn phép của các gia đình người Trung). Ngoài ta cũng không được ăn nhanh và phải nhắm chừng thức ăn trong mâm, tránh vượt quá số lượng khẩu phần dự trù những người có mặt. Ngồi vào bàn, con cháu không được lựa miếng ngon gắp hết vào chén mình ! Và cuối cùng một điều quan trọng là phải canh chừng thế nào để cùng chấm dứt bữa ăn một lượt với người lớn, nếu bỏ đũa bước ra thì xem như thái độ vô lễ !

Khác với trong Nam, ngày trước việc ăn ngoài đường đối với người Huế là một điều tối kỵ. Muốn ăn sang thì vào tiệm (rất hiếm tiệm ăn ở Huế, cả thành phố chỉ có vài ba nhà hàng gì đó), bình dân thì vào chợ Đông Ba… Nhưng đàn ông ăn tiệm thường bị thiên hạ xem như một hiện tượng "quái đản" và bà nào ăn chợ thì bị gán cho danh từ "mất nết" ! Con trai ăn ngoài đường chắc chắn ế vợ, con gái ăn hàng thì sẽ ế chồng ! Về vấn đề kinh tế, đối với đồng bào miền Bắc cũng như Trung, việc ăn uống của những gia đình bình dân có vẻ đơn giản. Làm ra mười chỉ ăn một hai, còn bao nhiêu chắt chiu dành dụm để phòng khi trở mùa giông bão lụt lội. Trái lại dân miền Nam thì ăn uống thoải mái, làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu, vì họ sống trên các vùng đất tài nguyên phong phú. Chẳng cần lo lắng, hôm nay có gì ăn hết ngày mai ra đồng bắt cua, xuống ao mò ốc, ra đồng mót lúa, quăng mẻ lưới dưới sông thì tôm cá ăn cả tuần chưa hết…

Theo quan niệm của giới bình dân, ăn được xếp vào hàng đầu trong những cái khoái của con người. Ở đâu cũng vậy, miếng ăn rất quan trọng, người nghèo đói không ăn thì chết nhưng đối với kẻ giàu, ngoài việc hưởng thụ còn là một hình thức phô trương và nặng phần trình diễn. Nếu hỏi một người nghèo đói rằng họ muốn ăn gì thì được trả lời ngay rằng "cái gì cũng thèm cả". Nhưng một khi trở nên giàu có thì họ thường trả lời câu hỏi một cách trịch trượng rằng "Chán quá ! Chẳng còn biết ăn cái gì cho vừa miệng nữa !"

Động từ "ăn" nếu đứng một mình thì chỉ hành động đưa thức ăn vào miệng, nhai và nuốt xuống dạ dày. Nhưng kèm theo với một động từ, danh từ hay tỉnh từ khác thì chữ ăn được hiểu qua một hướng khác như : ăn lời, ăn chia, ăn quỵt, ăn có, ăn tạp, ăn bám, ăn xài, ăn năn, ăn gian, ăn hiếp, ăn hại (đồ ăn hại !) ăn bận (ăn mặc), ăn sương (gái điếm), ăn nhằm (ăn nhằm gì !), ăn nằm (giữa hai người khác phái), ăn không ngồi rồi, muốn ăn thì lăn vô bếp, ăn nên làm ra, ăn đi trước lội nước đi sau, cha ăn mặn con khát nước, ăn xem nồi ngồi xem hướng, học ăn học nói học gói học đùm….. trong nhân gian còn nhiều từ khác và các nhà nghiên cứu ngữ học chắc chăn còn cả một kho tàng về chữ ăn nữa…

Có nhiều cách dùng tiếng ăn: Tôn trọng thì mời ngài thỉnh, mời cụ thỉnh. Lịch sự thì mời ông bà xơi cơm, mời anh chị tạm dùng bữa. Bình dân thì mời ăn cơm, "đánh chén một chầu", "nhậu" một bữa cho vui, hoặc "làm láng sáng về sớm", "vô đi kẻo phí của Trời". Miệt thị ai thì dùng chữ xực, đớp, giộng, táp (ám chỉ heo và chó) và tứa. Viết đến đây, tôi còn nhớ câu chuyện do cụ Nguyễn Văn Hanh, là người cầm lọng chạy theo hầu vua từ thời Khải Định cho đến Bảo Đại, kể lại cho nghe từ hồi còn nhỏ: Một vị quan có nhiệm vụ hầu Vua Khải Đinh về việc trầu cau, điếu đóm và ăn uống trong cung, rất ghét thực dân Tây. Một hôm vua Khải Định tiếp và đãi quan toàn quyền tại cung An Định, đến giờ cơm, vị quan trình mời vua dùng bữa và quay qua kính cẩn nói xỏ quan toàn quyền: Mời ngài vào "táp" ! Quan toàn quyền bằng lòng vì vị quan nầy biết nói một chữ tiếng Tây là "táp"! (à table, có nghĩa là vào ăn, theo lối nói bình dân).

Ngày nay "nhờ" văn hóa đỏ của cộng sản, ngành ẩm thực đã tiến nhanh tiến mạnh lên đến "đỉnh cao dạ dày". Từ hang cùng ngõ hẻm ra đến đường cái, từ giới bình dân lao động đến quan chức cán bộ, cũng như từ trong Nam ra Trung đến tận ngoài Bắc… đi đâu cũng thấy ăn và nghe nói đến chuyện ăn ! Vậy trong tình trạng kinh tế đình trệ, thất nghiệp đói kém nhưng tại sao lúc nầy người ta ăn nhiều ? Đây là một điều nghịch lý nhưng thử tìm hiểu lý do qua ba hình thức xếp thực khách vào các loại sau :

1. Dân lao động thì nghèo đói, bất mãn. Công nhân viên nhà nước mất niềm tin, không ai còn nghĩ đến cuộc sống ngày mai, tương lai gia đình và con cái… Kiếm được đồng nào, dù không đủ tiền mua ký gạo, nhưng trước khi về nhà cũng ghé vào quán, chén cháo, củ khoai, trái cóc, con ốc, miếng cá… là miếng mồi cần thiết để mượn hơi men quên hôm nay, quên ngày mai và quên luôn cuộc đời… Đối với thành phần nầy, sau một ngày làm việc khổ cực, họ cần phải say để ngủ lấy sức và ngày mai còn hơi kéo cày trả nợ ! Thành phần thất nghiệp, học sinh cũng như sinh viên là khách hằng ngày của các gánh hàng rong. Việc làm không có, tiền cũng không thì các quán bình dân ngoài đường là nơi mà bất cứ ai chỉ cần có một số tiền nhỏ cũng có thể ngồi tán gẫu hàng giờ. Sinh viên học sinh dưới chế độ "ưu việt" cộng sản đều mất niềm tin, con đường học vấn của họ chưa biết đi về đâu ? Nếu không phải thuộc thành phần COCC (con ông cháu cha) , tỷ phú đỏ, gia đình Việt Kiều thì dù phải thắt lưng buộc bụng để đeo đuổi vài năm đại học, nhưng rồi trước sau gì cũng trở thành thợ vịn (thợ phụ bất đắc dĩ) hay phải đóng tiền cho nhà nước để được ra nước ngoài làm nô lệ hay tự bán thân để nuôi miệng mình !

2. Giới trung lưu tập trung vào các nhà hàng. Họ là những người kiếm tiền khá dễ dàng, đa số nhờ bám vào chế độ, nhất là thành phần thương mãi và trung gian. Hai nghề nầy đang thịnh hành, thành công tiền bạc nếu biết núp bóng ác quỷ, ăn chia đồng đều với tham nhũng, ma giáo và bọn vô lương tâm để lừa lọc, bóc lột những người cô đơn thất thế… Nhất là bọn trung gian biết mánh lới, xảo quyệt, bịp bợm, biết ăn nói lưu loát, dụ dỗ hay, có thể kiếm hàng triệu, hàng chục triệu không mất một giọt mồ hôi. Thành phần nầy ngồi đầy cả trong các nhà hàng tiệm ăn…. vì nơi đây là văn phòng làm việc, nơi môi giới trả giá thương lượng. Ngoài ra cũng không quên trong giới ăn chơi nầy còn có Việt kiều áo gấm, trở về Việt Nam là phải vào các nhà hàng sang trọng, ăn để trả thù tại những nơi mà trước kia đã có lần nhịn thèm đứng bên ngoài nhìn vào ! Cuối cùng cũng nên để ý sẽ thấy một số thân nhân của Việt kiều nước ngoài, ăn uống tại những nơi nầy rất thoải mái vì họ đã có người bà con ở hải ngoại hằng ngày kéo cày để thanh toán hóa đơn nhà hàng giùm cho họ!

3. Giới thứ ba là thành phần đảng viên, cán bộ, COCC và dòng họ của "nón cối dép râu", hay "bọn giòi bọ" (tên để đời do người Nhật đặt cho bọn Cộng Sản Việt Nam), ăn chơi trả thù cho những ngày đói rách trong rừng với cơm độn khai sắn chấm muối vừng. Tiền của của dân thì tội gì chúng không ăn tiêu phí phạm. Khách của nhà hàng khách sạn từ 4 đến 5 sao là toàn những bộ mặt ngu đần, mặt mo, mặt mẹt dòng họ bọn chúng. Chúng "giộng", chúng "táp" hết đồ ngon của lạ đến độ mỗi ngày phải uống thuốc xổ tống đồ chưa tiêu hóa ra đàng sau, ói ra bằng miệng trước các món vừa nuốt vào để còn chỗ trống ăn tiếp tục... trong lúc người dân thấp cổ bé miệng, nghèo đói không đủ ngay hai bữa khoai, sắn, cháo, cơm ! Bọn nầy ăn no rồi rửng mỡ mà "bộ máy ái tình" của tên nào cũng trở thành "liệt sĩ" nằm yên bất động. Chúng phải tìm cách vực "bộ máy ái tình" đứng dậy, do đó chúng không chừa bất cứ một thứ gì và mua với bất cứ giá nào miễn là kéo lại sức lực để hưởng thụ. Xã hội Việt Nam bây giờ cái gì bổ thận cường dương, phục vụ tốt chuyện phòng the thì tự nhiên trở thành đắt giá. Các ông chẳng cần kiêng cử gì, cái gì cũng ăn, con gì cũng xực để phục vụ những ngày hồi xuân… từ ngọc dương, cóc nhái, rùa rắn, khỉ, hổ, chồm, báo, cá sấu, ong kiến, bò cạp, các kè, mật gấu, sừng tê giác, bửa củi đến "của quý " thú vật đều không tha… Khốn nạn nhất là nghe lời mấy thằng Tàu cộng, uống máu trinh, ăn thai nhi còn trong bụng mẹ để được "đêm bảy ngày ba vô ra không kể ". Đối với bọn nầy cuộc đời của chúng chỉ có cái mồm để "giộng" vào, lỗ sau "nhả" ra và ngày đêm trau chuốt "bộ máy ái tình" thật tốt để thỏa mãn thú tính.

Người có giáo dục thường xem bữa ăn rất thiêng liêng và phải được tôn trọng. Ăn phải lên mâm lên chén, không bốc hốt ăn vụng trên bếp hoặc trong nồi, ăn mặc tươm tất trước khi vào bàn, ăn từ tốn để thưởng thức hương vị. Có những tôn giáo dạy giáo dân đọc kinh cảm tạ Thượng Đế trước khi cầm đũa, hoặc phải rửa tay cẩn thận và chỉ được dùng mấy ngón của bàn tay trái để bốc thức ăn ! Người có lỗi dù nặng đến đâu cũng phải tôn trọng miếng ăn và để yên cho họ xong bữa ăn trước khi la rầy phân xử theo châm ngôn "Trời đánh tránh bữa ăn". Tử tội xứ nào cũng vậy, đều được đãi một bữa ăn thịnh soạn trước khi ra pháp trường lãnh lát dao hay viên đạn cuối cùng. Đó là nề nếp của một nền văn hóa nhân bản, buộc mọi người xem miếng ăn và bữa ăn là ân huệ thiêng liêng của Trời, nhưng đối với cộng sản, chúng lại dùng miếng ăn để chỉ huy và sai khiến con người ! Đó là chủ trương văn hóa đỏ của cộng sản. Người ta không ngạc nhiên khi khám phá ra cấp chỉ huy cộng sản giam đói quân lính bộ đội, buộc những con thiêu thân nầy phải tiến chiếm mục tiêu trước để được nhận lãnh khẩu phần hằng ngày. Do đó nhiều bộ đội trẻ phải liều chết chiếm đồn (thời Pháp cũng như Việt Nam Cọng Hòa) để được miếng ăn còn hơn phải chết đói ngoài mặt trận. Một chứng minh cho đồng bào miền Nam sau ngày mất nước, cộng sản cắt hộ khẩu, cúp phần thực phẩm bán theo đầu người, nếu gia đình nào vắng mặt nhiều lần họp tổ dân phố, hoặc trốn tránh lao động nghĩa vụ hay chống việc khăn gói lên đường đi vùng kinh tế. Đỉnh cao trí tuệ của chế độ ưu việt cộng sản là dùng bao tử để cai trị con người là một vết nhơ phải ghi vào lịch sử của nhân loại.

Ăn xong rồi bây giờ đến Ôm ! Ôm là một bộ môn văn hóa độc đáo và ưu việt của "thiên đường" cộng sản. Không biết thú vui nầy được sắp vào thứ bậc nào nhưng giới mày râu mỗi khi nghe đến chữ "ôm" thì hai mắt sáng rực lên ! Như vậy đối với đàn ông ôm sẽ chiếm ngôi vị đầu trong ngũ khoái (tứ khoái cọng thêm ôm là ngũ khoái)

Ở Việt Nam ôm có nhiều hình thức:

Bia ôm: Đàn ông nhân danh đi uống bia nhưng vào bar rồi lại uống ít mà tay chân thì làm việc nhiều. Các em chiêu đãi tự nhiên như người Hà Nội, mở bia lia lịa, giấu dưới bàn, đổ ra sàn gạch… rồi khổ chủ cứ tự nhiên trả tiền trước đứng dậy ra về mà... vẫn sướng !

- Cà-phê ôm: Hình thức gần giống như bia ôm, nhưng một ly cà phê có thể lên hàng chục ngàn đồng nếu biết lợi dụng câu giờ ôm và tận tình thám hiểm thì không đến nỗi phí tiền phí bạc !

- Karaokê ôm: Chưa có thú tiêu khiển nào thanh lịch và văn minh hơn hình thức ôm nầy. Khách vào mở nhạc, miệng hát mà tay chân thì làm việc thoải mái… đến một lúc nào đó chẳng biết mình đang hát cái gì và hát đến đâu nữa thì, một là ra về, hai tiếp tục dẫn em lên thiên thai hay đi xuống địa ngục !.

- Tắm ôm: Hình thức độc đáo này phát xuất trước kia tại các vùng biển. Khách được mời xuống biển vừa tắm, vừa ôm, vừa làm những chuyện khác rất sạch sẽ ở dưới nước. Tắm ôm có giá cả và giờ giấc đàng hoàng. Chỉ ôm không thì "giá mềm", nhưng mấy ai đã ôm nhau như sam mà không tới luôn bác tài !

Trường hợp nầy thì chủ tính tiền theo "giá cứng". Do vừa tiện lợi vừa kiếm nhiều tiền, nghề tắm ôm được phát triển mạnh mẽ thêm ở trên cạn ! Hình thức tắm ôm trên bờ cũng thuận lợi đủ điều, chẳng cần phòng ốc, giường chiếu, khăn màn và công an gác cửa. Vì không có biển có sông thì tắm ở trong bồn ! Ôm được "tối đa" mà chẳng sợ ai dòm ngó !

- Võng ôm: Một số nhà trong các quận ven đô Sài Gòn lợi dụng vườn cây ăn trái để tổ chức võng ôm. Chủ nhà treo những chiếc võng khuất trong các lùm cây và đặc biệt dành cho học sinh, sinh viên trốn học dẫn nhau vào đây du hí từ sáng đến tối. Chỉ cần đóng tiền thuê võng rồi tha hồ ăn trái cây và vui chơi thoải mái không thầy cô nào kiểm soát, quấy rầy ! Cha mẹ thì yên chí con đến trường, lên lớp và vào thư viện làm bài từ sáng đến tối, ngày nào cũng như ngày nào cho đến lúc nào kết quả trông thấy… thì mới ngưng ôm võng !

- Đấm bóp ôm: Việt Nam là học trò của Thái Lan nhưng lại vượt qua mặt thầy không kèn không trống ! Đấm bóp ở Việt Nam là hình thức nói chơi cho vui vì khách vừa nằm lên giường, đấm bóp viên đã bỏ hết lớp áo quần, ngồi ngay trên bụng khách mà xoa bóp thì ông già bảy mươi cũng hồi xuân huống gì trai trẻ hay các ông đang độ sồn sồn ! Cứ việc ra giá tiền bạc thì đấm ngồi, đấm nằm, đấm nghiêng đấm ngửa gì cũng được !

- Hớt tóc ôm: Một người đi Việt Nam về kể cho nghe, có ông già tại Việt Nam cứ vài ba ngày đi hớt tóc một lần. Tóc thì chỉ còn lơ thơ vài sợi mà cứ hớt đi hớt lại mãi, đến nỗi đầu chằng còn thấy sợi nào nữa. Thế mà vẫn khoái đi hớt cái đầu trọc ! Cứ ngồi, mở lớn mắt ra mà thưởng thức của (còn) non, của lạ đang vờn qua vờn lại trước mặt. Các tay thợ muốn dụ khách kiếm thêm tiền "boa" thì cứ việc kéo đầu mấy ông già vào ngay bộ ngực nửa hở nửa kín kia là ăn tiền ! Thế nào ngoài tiền hớt của chủ, thợ cũng kiếm được "boa" gấp đôi, nhất là khi gặp được vài ông Việt kiều già mất nết !

- Ráy tai ôm: Đây là kiểu ôm mấy ông Việt kiều thích nhất. Cô thợ ngồi bên trái nhưng lại ráy tai phải của khách hoặc ngược lại, mặc dù ngồi kiểu nầy cô thợ trẻ chẳng thấy gì trong lỗ tai khách hàng. Khách cũng không cần thắc mắc, cứ nhắm mắt đê mê cho đến lúc đứng dậy móc ví trả tiền !

- Câu ôm: Đóng tiền, nhận mồi và cần câu rồi kiếm một túp lều trống hay đi ra xa một chút, thả cần xuống câu rồi… tự do ôm, có công an canh chừng khu vực ! Chẳng cần biết có cá hay không, cá căn câu hay mồi còn hay hết làm gì, cứ việc say sưa ôm cho đến hết giờ, xong trả cần ra về thoải mái…

- Du lịch ôm : Chắc chắn cộng sản đã tổ chức những cuộc du lịch ôm cho những Việt kiều có máu mặt, những ông già khoa bảng về nghiên cứu hợp tác và kinh doanh buôn bán làm ăn tại Việt Nam, nhưng chưa thấy báo chí khui ra những vụ nầy. Tôi lấy chuyện xảy ra tại Châu Âu các đây vài năm để dẫn chứng vấn đề du lịch ôm. Một tổ chức địch-vận-kiều-vận của Cộng Sản nước ngoài nghiên cứu từng cá nhân một mà chúng nhắm vào để tổ chức một cuộc du ngoại, học hỏi, tìm hiểu văn hóa ở nước ngoài và cuộc du ngoạn nghiên cứu chỉ dành riêng cho các vị trí thức khoa bản đàn ông… Dĩ nhiên là đoàn du lịch không có đàn bà (đa số các bà ít tham dự vào các sinh hoạt chính trị của các ông, nhất là nghe đi quan sát nghiên cứu). Chương trình kéo dài một tuần tại thủ đô ở một nước Đông Âu (một quốc gia định cư của nhiều người lao động được Cộng Sản gài lại và cũng là cái ổ "nô lệ chui" do nhà nước tổ chức gởi qua). Đoàn người chừng khoảng gần 20 người, khi qua đến nơi, những người nầy được giới thiệu những cô gái trẻ, đẹp sẽ cùng đi tháp tùng với đoàn trong thời gian du ngoạn, nghiên cứu… Thế là mỗi ông được một cô làm bạn hầu hạ tới bến của cuộc du lịch nằm cho đến lúc chia tay. Nhưng sau đó các ông đều tá hỏa tam tinh vì những cuộc du lịch "nằm" đã được tận tình thu hình, các ông muốn yên thân thì nghe lời đừng chống đối chế độ và hãy tích cực tham gia chương trình hoà giải hòa hợp…

- Ôm tới bến: Hay còn nói ôm từ A đến Z. Kinh nghiệm ôm không cho phép người đàn ông bỏ ngang giữa chừng, dù ôm dưới hình thức nào, giờ giấc nào nhưng khi đã "tiến nhanh tiến mạnh" lên tột đỉnh đê mê khoái cảm thì phải đi tới bến. Các em bé thì rủ rê mời mọc "tới luôn đi bác tài" thì chuyện gì xảy ra sau đó chỉ có trời biết nếu không ôm phải một đống vi khuẩn HIV thì đã thành công qua mặt được bà xã !

Ôm cũng có nhiều kiểu:

- Ôm đứng: Ôm kiểu "dã chiến" nầy ở Việt Nam thường xảy ra trong các bụi cây, vách tường, trụ đèn, nhà vệ sinh cửa hàng, quán ăn, tiệm cà-phê, kẹt lắm thì trong toilette công sở, phi trường, trên phi cơ… hay ngay trong "bureau" của cán bộ cao cấp… Đây chỉ là "ôm khai vị" của hai người kẹt giờ, kẹt tiền, kẹt chỗ, mới quen nhau, hoặc giữa thư ký với chủ trong giờ làm việc…

- Ôm ngồi: Hình thức nầy thấy nhiều trong các bar, quán cà-phê, phòng trà… là giai đoạn đầu của "ôm nằm" nhưng thật đắt khách. Tại các thành phố lớn với hàng ngàn bar, tiệm, quán mỗi đêm đều đông nghẹt khách hàng. Đây là hình ảnh thành công đậm nét qua việc giáo dục theo chủ nghĩa văn hóa đỏ cũng như mưu đồ ru ngủ thế hệ trẻ của chế độ cộng sản.

- Ôm nằm: Là giai đoạn chót của các hình thức ôm để kết thức việc mua bán giữa hai người khác phái.

- Ôm bay: Hiện giờ thì chưa xuất hiện tại Việt Nam nhưng tôi cam đoan chỉ một thời gian ngắn nữa sẽ được nhà nước khai trương. Các cô các cậu muốn làm nhân viên phi hành, dù là rót trà bưng cà-phê nhưng muốn được thu dụng mỗi người phải đóng từ năm, bảy đến cả chục cây vàng. Khi được thu nhận thì phải làm thêm để kiếm tiền như chuyển tiền lậu, buôn bạch phiến (xảy ra tại Úc), giao áo quần may sẵn, buôn thịt chó tươi (giao cho khách hàng tại Pháp), ăn cắp hàng trong các siêu thị, chở hàng lậu về Việt Nam (xảy ra tại Nhật) đã bị khám phá thì đồng lương lương thiện đâu đủ để đóng hụi chết. Hơn nữa, Việt kiều tẩy chay Air Việt Nam, chắc chắn công ty nầy sập tiệm. Chỉ cón một cách mở "dịch vụ bay ôm" để móc tiền khách trên các đoạn đường bay suốt hàng chục tiếng đồng hồ. Các ông thường đi về Việt Nam chuẩn bị để hưởng của lạ đắt giá nầy vì "đối tượng ôm" được tuyển chọn gắt gao bằng cả chục cây vàng ! Nhưng khuyên các ông mất nết về hưu ăn tiền già, đừng hòng rớ vào của quý nầy, phỏng tay đấy ! Giá không rẽ như ôm "mari-sến" ở Việt Nam đâu ! Coi chừng chúng đập thẳng tay để đủ tiền đóng hụi chết !

Một xã hội mà chuyện "ăn" và "ôm" được người dân đưa lên hàng đầu, những tệ trạng xấu xa nầy nếu không phải là chủ trương của nhà cầm quyền thì cũng là con đẻ của cái văn hóa đỏ. Vậy tương lai đất nước và dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu khi chỉ biết "ăn" và "ôm" !

Đinh Lâm Thanh


Tuesday, March 24, 2009

Trao đổi ngỏ gửi Ông Dương Trung Quốc - Phạm Hồng Sơn

Trao đổi ngỏ gửi Ông Dương Trung Quốc, tác giả bài viết «Những người đi theo cách mạng ».

Phạm Hồng Sơn

Kính gửi Ông Dương Trung Quốc,

Vừa rồi tôi có đọc bài viết «Những người đi theo cách mạng » của ông đăng trên Lao Động cuối tuần số 12 năm 2009. Tôi xin được trao đổi với ông một số chi tiết sau:

1. Ông có viết: «Lịch sử hiện đại nước ta luôn được quan niệm là lịch sử cách mạng. Vì xuyên suốt thế kỷ XX vừa qua là cả một trường kỳ, một chuyển đổi chính trị to lớn làm thay đổi một cách căn bản diện mạo của đất nước từ xã hội truyền thống sang hiện đại, từ khép kín trong thế giới Trung Hoa sang đối chọi với chủ nghĩa thực dân phương Tây, rồi hội nhập với những trào lưu chính trị thế giới và cuối cùng là xây dựng một thể chế cộng hòa, xác lập nền độc lập và thống nhất quốc gia bằng cách mạng và chiến tranh cách mạng...Cách mạng Tháng Tám 1945 hiện diện trong lịch sử dân tộc như một cái mốc quyết định của sự chuyển đổi, như một cái bản lề mở ra một cánh cửa mới, như một động thái « bẻ ghi » hướng con tàu của đất nước sang một hướng đi hoàn toàn khác trước. Cuộc cách mạng ấy không chỉ gạt bỏ cái ách thống trị của ngoại bang, giành độc lập như tổ tiên đã từng làm trong lịch sử, mà quan trọng hơn hết là nó đã chấm dứt vĩnh viễn chế độ quân chủ đã tồn tại cả ngàn năm, mở ra một sự lựa chọn mới cho dân tộc trên nền tảng của một thể chế Dân chủ-Cộng hòa. » (tôi xin nhấn mạnh bằng những chữ in đậm)

- Tôi không nghĩ cái « xã hội hiện đại » được xây dựng sau Cách mạng Tháng Tám 1945 là đáng ca ngợi hơn cái « xã hội truyền thống » của ông cha ta trước đây. Chỉ căn cứ vào một tiêu chí có tính nền tảng của mọi xã hội là tính trung thực, thì cái « xã hội hiện đại » đó đã không vượt qua được cái « xã hội truyền thống » trước đó. Vì nếu như trong « xã hội truyền thống » trước đó, các thư lại, quan quân của triều đình phải phục tùng vua một cách tuyệt đối thì trong cái « xã hội hiện đại » sau năm 1945 đó, các cán bộ nhà nước cũng phải phục tùng tuyệt đối mọi chỉ đạo của Đảng (Lao động hay Cộng sản Việt Nam). Và trong « xã hội truyền thống » trước đó, sự tiết tháo giữ gìn liêm sỉ của các công chức nhà nước (nói theo ngôn ngữ hiện đại ngày nay) trước sự hách dịch, suy đồi, hủ bại của kẻ có quyền vẫn còn là một truyền thống. Cuộc sống phú quí thì con người ở thời nào cũng muốn, nhưng trong « xã hội truyền thống » vẫn có nhiều công chức sẵn sàng dứt bỏ phú quí, rũ áo từ quan chịu cảnh nghèo hèn để giữ lấy liêm sỉ như Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Khuyến,... hay giữ thái độ cương trực của kẻ sĩ như Lê Sĩ Nghị, Ông Ích Khiêm, Nguyễn Hữu Huân,...Thử hỏi hệ thống cầm quyền trong cái « xã hội hiện đại » sau năm 1945 của chúng ta có liệu có ít sai lầm, hách dịch hay độc đoán hơn triều đình trước năm 1945 không và cái « xã hội hội hiện đại » đó đã có được bao nhiêu công chức nhà nước tiết tháo như trong «xã hội truyền thống » vừa kể ? Có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam, người trí thức phải than thở rằng « bệnh giả dối đang trở thành thành nỗi nhục lớn » (lời của một giáo sư khả kính đương thời) của xã hội Việt Nam như ngày hôm nay (sự tiếp nối của cái « xã hội hiện đại » sau năm 1945 như ông viết). Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là cái xã hội sau năm 1945 không có những tiến bộ so với xã hội trước đó, nhưng có thể khẳng định rằng một nền tảng quan trọng cho sự tiến bộ của xã hội đã bị hủy hoại đi sau năm 1945.

- Tôi không nghĩ là sau Cách mạng Tháng Tám 1945, nước ta đã xây dựng được một « thể chế cộng hòa » ( ở đây xin tạm chưa nói tới chính thể Việt Nam Cộng Hòa tại miền nam trước 1975). Theo các lý thuyết chính trị hiện đại, định nghĩa tối giản của một chính thể Cộng hòa có thể khái quát là một chính thể trong đó quyền lực tối cao thuộc về nhân dân, được thực thi thông qua các đại diện do nhân nhân bầu chọn. Dựa trên định nghĩa này ta sẽ thấy chính thể của Việt Nam chúng ta tại miền bắc từ năm 1954 – 1975 và trên toàn Việt Nam từ 1975 cho đến nay (thời kỳ chính quyền 1946-1954 là thời kỳ kháng chiến, xin được không xét ở đây) không thể gọi được là chính thể cộng hòa theo đúng bản chất chính trị. Chỉ cần xét trên cách tổ chức các cuộc bầu cử quốc hội từ năm 1954 cho đến nay và xét thực quyền của những người đại diện do dân trực tiếp bầu ra (đại biểu quốc hội) có thể thấy rõ hệ thống quyền lực công tồn tại từ năm 1954 cho đến nay không phải do người dân quyết định. Và quyền lực hình thức của đại biểu quốc hội Việt Nam đã bị coi thường đến mức nào thì tôi xin không dám lạm bàn vì chính quí ông là người đang trải nghiệm.

- Về vấn đề độc lập: cái chính thể của chúng ta vừa nhắc tới, tôi cũng không nghĩ, là đã thoát được sự khống chế, ràng buộc với « thế giới Trung Hoa ». Trường lịch sử của Việt Nam chúng ta luôn ghi đậm nét ảnh hưởng và đã nhiều lần bị mất độc lập bởi « Thế giới Trung Hoa », nhưng có lẽ chưa có một chính thể nào tại Việt Nam lại phải thuần phục đến mức áp dụng những tư vấn tai họa từ người Trung Hoa như «cải cách ruộng đất », phải chịu sự áp đặt của Trung Hoa trong hiệp định Geneve như chính thể sau năm 1945 trên miền Bắc Việt Nam. Và chả nhẽ thái độ của chính quyền hiện nay về các vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa, Hiệp định biên giới Việt-Trung, dự án khai thác Bauxit tại Tây Nguyên lại chứng tỏ chính thể Việt Nam hiện nay đã có tinh thần độc lập, thoát khỏi sự khống chế, điều khiển của « Thế giới Trung Hoa » ? Trong khi đó nhiều quốc gia tương tự với Việt Nam không những đã thoát hoàn toàn khỏi sự khống chế của «Thế giới Trung Hoa » mà còn vượt lên đi trước cả « Thế giới Trung Hoa » như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản.

2. Trong bài ông có viết : «...công dân Vĩnh Thụy chỉ «đi theo cách mạng» một thời gian ngắn sau đó lại sa vào vũng bùn phản bội và nhận cái kết cục bi thảm của một cựu hoàng bị phế truất phải lưu vong (tôi xin nhấn mạnh bằng những chữ in đậm)

- Thưa ông Dương Trung Quốc, ca ngợi hay không ca ngợi một chế độ là quyền của mỗi con người, cũng như việc có tán thành hay không một cải biến xã hội (cách mạng) cũng là quyền của mỗi con người. Theo tôi, chúng ta không nên và không có quyền kết tội những người khác chỉ vì họ có quan điểm khác mình. Nhất là trong giai đoạn hiện nay việc đánh giá cuộc Cách mạng Tháng Tám vẫn là một việc khó khách quan. Theo tôi, có thể công dân Vĩnh Thụy không quá say mê đi theo « cách mạng » như những công dân khác, nhưng không thể viết là ông «lại sa vào vũng bùn phản bội ». Trong khi khả năng nhận thức lại và quyết định lại là một trong những đặc tính quan trọng của động vật có tư duy (nhiều nghiên cứu hiện nay cho thấy có lẽ không chỉ là đặc tính duy nhất có ở loài người). Những người đã bị công dân Vĩnh Thụy từ chối tiếp tục hợp tác có thể dùng từ « phản bội » để chỉ trích ông theo lối thóa mạ. Nhưng đối với người nghiên cứu lịch sử một cách khách quan thì không thể dùng thứ ngôn ngữ đó. Phẩm chất tối thiểu của một công dân yêu nước, theo tôi, là cần phải dứt bỏ mọi cam kết, ràng buộc và cả những tuyên thệ nếu những cam kết, ràng buộc, tuyên thệ đó trở nên (hoặc được phát hiện là) nguy hại cho lợi ích chung của cộng đồng, xã hội, đất nước. Tôi chưa thấy một nhà sử học nào chứng minh được công dân Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại) đã phản bội đất nước, nhưng điều chắc chắn là lịch sử sẽ không thể ghi tên công dân Vĩnh Thụy vào danh sách những người có trách nhiệm trong những thảm họa đối với dân tộc như « Cải cách ruộng đất », vụ án «Nhân văn giai phẩm », vụ án « Xét lại chống đảng », « Công hàm của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Hoa », « Cải tạo công thương nghiệp », v.v.Và trong tình hình đất nước hiện nay, vấn đề ai đang phản bội lại đất nước, ai đang đi ngược lại quyền lợi của nhân dân cũng đang được xã hội bàn luận gay gắt, trong đó có rất nhiều người đã đi trọn cuộc « cách mạng » năm 1945 đó. Và tôi thiển nghĩ, một người « chép sử » chỉ có thể chép lại đúng lời phán xét của nhân dân đương thời nếu thoát được bàn tay của người cầm quyền nhất thời, thưa ông.

- Đúng là chả có gì vinh quang khi một ông vua cuối cùng của một đất nước lại phải từ giã cuộc đời nơi đất khách quê người. Nhưng không thể lấy sự « lưu vong » để hạ phẩm giá một con người, nhất là khi người đó đã không còn khả năng lên tiếng. Theo tôi, tư cách, trách nhiệm của công dân Vĩnh Thụy hay của ông Vua Bảo Đại có nhiều điều đáng bàn. Nhưng với tư cách là người hậu thế, chúng ta không nên soi xét lịch sử bằng phương pháp « hạ gục » nhân vật lịch sử này để tô điểm cho nhân vật lịch sử khác. Nói như thế không có nghĩa là tôi ca ngợi hoàn toàn công dân Vĩnh Thụy. Cũng như, theo tôi, những người chuyên viết bài để ca tụng chế độ chính trị hiện nay không có nghĩa là họ đã hoàn toàn tán đồng với chế độ này.

Thưa ông Dương Trung Quốc, đó là mấy lời trao đổi xin được trân trọng gửi tới ông. Vì ngôn từ có thể còn sự thô kệch, rất mong được ông lượng thứ và chỉ bảo.

Trân trọng,

Phạm Hồng Sơn
Nhà 21 Ngõ 72 B – Thụy Khuê – Hà Nội.


Monday, March 23, 2009

Bí Ẩn Cuộc Đời Lê Duẩn - Hứa Hoành

Hứa Hoành

Người CS nào cũng có cuộc đời ly kỳ, do họ cố tình che dấu, ngụy trang để hoạt động. Lê Duẩn (1907-1986) từng là Bí thư của đảng CSVN, nhưng là 1 trong những nhân vật lãnh đạo có trình độ học thức kém nhất, chỉ ở bậc Tiểu học. Do đó, ông ta tàn ác đối với đồng bào còn hơn kẻ thù ngoại nhân. Ông là người có tính tình cục mịch như nông dân, tính cọc cằn.

Sau năm 1975, 1 cán bộ cao cấp hỏi ông về chính sách đối đãi với những sĩ quan miền Nam thì Duẩn trả lời bằng cách ra dấu lấy tay quẹt ngang cổ (có nghĩa là giết).

Chủ trương tàn bạo, có tính thiếu nhân tính của người lãnh đạo CS, làm cho hàng trăm ngàn sĩ quan cao cấp của QLVNCH phải chết trong các trại cải tạo, phơi thây trong rừng thiêng nước độc, gieo tang tóc đau thương cho gia đình họ. Cuộc đời của Lê Duẩn có nhiều bí ẩn ít ai biết rõ. Tài liệu này được viết dựa theo những lời kể của người trong cuộc cũng như dựa theo 1 vài tài liệu khác, nhất là do sự giúp đỡ của Xuân Vũ và Dương Đình Lôi, họ đã cho biết những chi tiết sống thực mà chính họ đã chứng kiến.

Lê Duẩn, còn được biết là Lê Văn Duẩn, Lê Văn Nhuận hay anh Ba, người thôn Bích La, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, sinh ngày 7/4/1907 trong 1 gia đình sống bằng nghề đóng quan tài. Chỉ được theo học hết cấp Tiểu học ở Triệu Phong. Năm 18 tuổi, Lê Duẩn xin vào làm cho Sở Hỏa xa Quảng Trị. Theo nhiều người biết thì ban đầu Duẩn làm người "bẻ ghi", cầm cờ hiệu cho xe lửa mỗi khi vào sân ga. Năm 21 tuổi, Duẩn tham gia hoạt động chính trị bí mật chống Pháp, gia nhập "Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội", là tiền thân của đảng CSVN.

1 năm sau, khi đảng CSVN được thành lập ở Hong Kong, 3/2/1930, Duẩn được cử làm Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ. Sau cuộc khởi nghĩa thất bại "Sô Viết Nghệ Tỉnh", Duẩn bị Pháp bắt giam ở Hỏa Lò rồi đày lên nhà tù Sơn La (1931-1936).

Năm 1936, Mặt Trận Bình Dân lên cầm quyền ở Pháp, nới lỏng chế dộ cai trị thuộc địa. Tại Đông Dương, Pháp phóng thích 1 số chính trị phạm. Lê Duẩn được tha trong dịp này. Về Trung Kỳ, Duẩn lại tiếp tục hoạt động. 1 năm sau, Duẩn được cử làm Ủy viên Xứ ủy Trung Kỳ (1937-1939). Sở dĩ Duẩn được tiếp tục tiến cử vào chức vụ cao hơn là nhờ xuất thân từ giai cấp nghèo khổ, ít học, trung kiên. Năm 1939, Duẩn được vào Ban chấp hành Trung ương đảng (Ủy Viên Thường Vụ Lâm Thời Trung ương đảng, 1939-1940), và được phái vào Saigon hoạt động. Bấy giờ đảng viên CS ở miền Nam chỉ có 1 nhúm người. Lúc đó ở Nam Kỳ có Nguy­n Văn Cừ là Tổng bí thư, và Duẩn dưới quyền của Cừ.

Tháng 8/1939, Đảng CS Liên xô ký hiệp ước thân thiện với kẻ thù Đức Quốc Xã, và coi Pháp không còn là đồng minh nữa. Phản ứng lại, ở Đông Dương, Toàn quyền George de Catroux ra lịnh thanh trừng tất cả đảng viên CS. Ngày 17/1/1940, mật thám bắt được tại trận Nguy­n Văn Cừ (Tổng bí thư đảng đương thời), Võ Đình Hiệu, Vũ Thiên Tân và Duẩn đang hội họp tại con hẻm số 19 đường Nguy­n Tấn Nghiệm, nay là Trần Đình Xu. 2 hôm sau, Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập (Uy viên Trung ương đảng) cũng bị tóm ở Phan Thiết. Tuy nhiên, trong dịp này, số người hoạt động chính trị bị bắt, không chỉ CS mà thôi mà còn gồm đủ mọi thành phần, đủ khuynh hướng chính trị và số lượng bị bắt ngày càng đông. Thống đốc Nam Kỳ Veber có lập trại giam mới ở Tà Lài, nằm sâu trong rừng gần Định Quán, khoảng cây số 123 để chứa thêm, sau khi các nhà tù khác đã "quá tải". Đây là chiến dịch "tổng ruồng, vét sạch" của thực dân, đề phòng cuộc khởi nghĩa của người dân bản xứ.

Lúc ấy, Nguy­ên Thị Minh Khai (tức Nguye­n Thị Vịnh) cũng bị sa lưới mật thám Pháp (30/7/1940) tại Hóc Môn. Lúc này, Thường vụ Trung ương đảng đang đóng ở miền Nam với Phan Đăng Lưu, Tạ Uyên,...chưa bị bắt. 30/9/1940, họ đồng thanh quyết nghị khởi nghĩa chứ không chịu ngồi yên chờ chết. Kế hoạch nổi dậy nhiều tỉnh cùng 1 lúc gọi là Nam Kỳ Khởi Nghĩa vào cuối năm 1940 (22/11/1940) . Phan Đăng Lưu được cử ra Bắc xin chỉ thị, tuy nhiên cuộc họp lần thứ 7 của Trung ương đảng ở Bắc Ninh (có Hoàng văn Thụ, Trần Đăng Ninh, Hạ Bá Cang tức Hoàng Quốc Việt...) đã không tán thành.

Theo lịch sử công khai của Đảng thì như thế. Tuy nhiên, có người trong cuộc, biết cái bí ẩn của Nam Kỳ Khởi Nghĩa (22/11/1940) . Không phải bỗng nhiên nhóm Thường vụ Trung ương đảng lẫn trốn ở Hóc Môn, Bà Điểm mà Pháp biết được và bắt trọn ổ. Đó chính là miền Bắc "chỉ điểm cho Pháp", vì muốn "đảo chính" Trung ương đảng miền Nam để đem Trung ương đảng ra Bắc Kỳ cho người Bắc lãnh đạo. Họ mượn tay người Pháp để diệt nguội Nam Kỳ. Chính vì lẽ đó, Phan Đăng Lưu bị bắt. Lần lượt, các nhân vật lãnh đạo ở Nam Kỳ bị đưa ra tòa kêu án tử hình. Nguye­n Thị Minh Khai bị bắt trước, cũng bị hành quyết chung (28/8/1941) với Nguy­en Văn Cừ (Tổng bí thư năm 1938), Võ Văn Tần (người Đức Hòa, Tân An, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ), Hà Huy Tập (Ủy viên Trung ương đảng).

Từ đó, ở Bắc, vào đầu tháng 11/1940, tại Hội nghị thứ 7 Ban chấp hành Trung ương đảng CS Đông Dương, Trường Chinh lên làm "Tổng Bí thư Lâm Thời" (thay cho Nguye­n Văn Cừ đã bị bắt cùng Lê Duẩn, Võ Đình Hiệu và Vũ Thiên Tân ngày 17/1/1940 tại Saigon), và đầu não CS dĩ nhiên nằm tại Bắc Kỳ. Các đảng viên Bắc và Trung Kỳ chia nhau nắm giữ các chức vụ then chốt trong kháng chiến cũng như sau khi hòa bình. Đó là chủ trương thầm kín của Hồ Chí Minh. Sau khi Nhật đầu hàng, ở Nam Kỳ, các phần tử trí thức Nam Bộ như Trần Văn Giàu, Nguy­en Văn Trấn, Dương Bạch Mai, Nguy­en Văn Tạo, Huỳnh Văn Tiểng, Ngô Tấn Nhơn, Phạm Ngọc Thạch,...mặc tình thao túng. Họ lập ra Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ, có đầu óc địa phương, manh nha muốn tách ra khỏi sự khống chế của nhóm đảng viên Trung và Bắc Kỳ để thành lập 1 quốc gia CS Nam Kỳ. Không ngờ HCM biết thâm ý này nên sai Cao Hồng Lĩnh (tham gia Cách Mạng Thanh Niên Hội từ năm 1926), Hoàng Quốc Việt vào Nam bắt cóc Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai đem về giam lỏng ở Hà Nội.

Trong khi đó, vào tháng 9/1945, sau khi Nhật đầu hàng, thì Duẩn rời khỏi Côn Đảo (bị giam từ 1940-1945). Kế đó ít tháng, Duẩn được HCM gọi ra Hà Nội nhận chỉ thị. Khi cuộc chiến tranh Việt - Pháp lan rộng ở Nam Kỳ, Hồ cử Lê Duẩn với chức vụ Bí Thư Xứ Bộ Nam Kỳ (1946) đi vào Nam. Đi theo Duẩn có Lê Đức Thọ. Hồ muốn Duẩn vào Nam để lãnh đạo cuộc kháng chiến. Những người Trung và Bắc từ trước đến nay sống ở miền Nam như Trần Văn Trà, Võ Quang Anh, Phan Trọng Tuệ, Nguye­n Kim Cương... được Hồ cất nhắc lên cấp chỉ huy. 5 năm sau, 1951, khi Trung Ương Cục Miền Nam (bao gồm Nam Bộ và Cao Miên) được thành lập, Duẩn được cân nhắc lên làm Bí Thư Trung Ương Cục Miền Nam. Từ đó, Duẩn vào Nam ra Bắc như con thoi : nào là "rèn quân, chỉnh cán", nào kiểm thảo,...

Năm 1954, sau khi Hà Nội và Pháp ký Hiệp định Geneva, thì Duẩn được cài ở lại miền Nam, nằm vùng tại 1 căn nhà đường Phan Đình Phùng thuộc khu Bàn Cờ. Duẩn có cấp tốc ra Bắc để nhận chỉ thị lo việc tập kết, ém người và cán bộ ở lại miền Nam, để phát động cuộc chiến tranh mới. Duẩn sử dụng thông hành của 1 thương gia Tàu, do người vợ tên là LKD giới thiệu. Bà này là vợ hờ, theo kiểu già nhân ngải non vợ chồng. Duẩn lợi dụng bà này vì bà là vợ 1 thương gia giàu có, vừa làm cán bộ kinh tài cho CS, mà lại được cảnh "cơm no bò cỡi". Với thông hành hợp pháp, Duẩn đi đường bộ qua Phnom Penh, rồi đáp máy bay của Hàng không Pháp đi Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Tới đây, Duẩn đổi máy bay về Hà Nộị Lãnh chỉ thị xong, Duẩn lại đội lốt 1 sĩ quan liên lạc của Bắc Việt, tháp tùng máy bay của Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến, trở về Saigon. Sau đó, Duẩn lén về Phụng Hiệp, rồi bí mật trốn ra mật khu ở Cà Mau. Tại nhà thờ Huyện Sử, Duẩn chủ trì 1 phiên họp cán bộ cao cấp của Trung Ương Cục Miền Nam và ra lịnh :

- Phân tán, chôn vũ khí, máy móc.
- Moi móc những súng đạn phế thải của các công binh xưởng phát ra cho các cán binh CS tập kết cầm theo "làm cảnh", để chứng tỏ cho mọi người và Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến rằng họ nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Geneva.

Chuyến tàu cuối cùng chậm chạp rời cửa sông Ông Đốc. 2 bên bờ, dân chúng tụ tập để ti­n chân thân nhân tập kết. Mọi người nhìn thấy rõ ràng Bí Thư Lê Duẩn đứng trên bong tàu Bilixki, đưa tay vẫy đồng bào... Khuya hôm đó, khi tàu Bilixki vừa ra khơi, Lê Duẩn xuống 1 chiếc ca nô trở lại bờ. Người tổ chức bí mật việc này là Võ Văn Kiệt, lúc đó làm Bí Thư Tỉnh Ủy Bạc Liêu. Duẩn được cài vào 1 gia đình ở Cà Mau để chờ đợi. Mấy tháng sau, Duẩn lại lén lút về Saigon ăn ở với người vợ hờ vừa kể trên. Đây là 1 người đàn bà lẳng lơ, vóc cao lớn, thân hình hấp dẫn, là đàn em của Mã Thị Chu (dược sĩ, có nhà thuốc Tây ở Cần Thơ), là 1 đại gian thương Chợ Lớn. Bà này có với Lê Duẩn 1 đứa con. Khi Lê Duẩn có lịnh ra Bắc (đầu năm 1957, sau khi Trường Chinh bị thất sủng, và chính phủ VNCH từ chối tổng tuyển cử), chính bà này lái xe đưa Duẩn qua Phnom Penh, để đáp phi cơ ra Hà Nội. Nhưng thực ra, từ đây Duẩn đi thẳng qua Hong Kong, Quảng Châu, rồi đổi máy bay khác về Hà Nội.

Nói thêm về tuyến đường này. Kể từ năm 1960, cán bộ cao cấp CS từ Nam VN muốn ra Bắc, họ sử dụng đường bay Phnom Penh - Quảng Châu do hãng Hàng không Air Azur của Pháp khai thác. Trước khi ra mắt Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời ở miền Nam, đại diện CS là Trần Bửu Kiếm cũng qua Phnom Penh rồi đáp máy bay đi Algeria, Cuba, báo tin trước. Khi VC vừa công bố làm l­ ra mắt Chính Phủ trên thì trên đài phát thanh của Algeria, Cuba, người ta nghe tiếng 2 chính phủ này "nhìn nhận" tân chính phủ ấy tức thì. Chuyến về, Trần Bửu Kiếm về thẳng Quảng Châu, qua Hà Nội để đánh lạc hướng tình báo Mỹ. Lần đó, Kiếm về Cục R (Trung Ương Cục Miền Nam) báo cáo di­n tiến Hoà đàm Paris. Khi cuộc chiến miền Nam trở nên ác liệt, Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết (Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc, Dân Chủ và Hoà Bình) từ Cục R được đưa ra Bắc lánh nạn, cũng sử dụng đường bay nói trên. Sau đó họ được đưa về Đồ Sơn "nghỉ dưỡng".

Trở lại năm 1948. Duẩn và Thọ tới chủ trì 1 phiên họp của đại biểu Phụ Nữ Cứu Quốc Nam Bộ, họp tại mật khu ở Cà Mau. Duẩn gặp 1 cô gái xinh đẹp, có học thức, đang giữ chức Chủ tịch Ban chấp hành Phụ nữ tỉnh Cần Thơ, thì Duẩn mê ngay. Cần nhắc lại, lúc đó Duẩn đã 42 tuổi và có mấy đời vợ ở ngoài Bắc. Người vợ thứ nhứt được Duẩn cưới hồi 20 tuổi, ở quê nhà Quảng Trị, tên Cao Thị Khê. Vì bà vợ này mà Duẩn cất nhắc em ruột bà ta là Cao Xuân Diệm (bí danh Dương Thông), làm Cục trưởng Cục An ninh Nội chính, lúc đó mới cấp Đại tá, sau này lên Trung tướng. 1 người vợ khác của Lê Duẩn là Võ Thị Sảnh, con ông Võ Văn Kính, người Quảng Nam. Ông Kính là công nhân hỏa xa, đồng nghiệp với Duẩn ở Quang Trị. Bà Sảnh gia nhập đảng CS năm 1948, xâm nhập vào hàng ngũ Việt Nam Quốc Dân Đảng để báo cáo cho Trần Văn Trà, lúc đó làm Tư lịnh Quân khu 4.

Khi vào Nam, Duẩn tuyên bố là minh chưa vợ vì còn "mãi lo làm cách mạng". Thương hại đồng chí Duẩn, tới tuổi này (42) mà chưa vợ, nhiều cán bộ muốn kiếm vợ cho Lê Duẩn để ông ta an tâm lo việc nước. Cô Đỗ Thị Thúy Nga là con 1 đại điền chủ quê ở Thác Lác, cháu gọi Đỗ Hữu Vị bằng chú ruột, và gọi Đỗ Hữu Phương, người giàu nhất Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ 20, bằng ông nội. Số là năm 1900, Toàn quyền Doumer có dịp vào Saigon, không biết Phương nịnh hót thế nào mà Doumer đã cấp cho Phương cả ngàn mẫu ruộng ở Thác Lác.

Đến năm 1945, số đất ấy chỉ còn vài trăm mẫu, do 1 người con của Phương quản lý. Như vậy cô Nga xuất thân từ giai cấp địa chủ, kẻ thù không đội trời chung với CS.

Nhắc lại, lúc đó Nguy­en Văn Trấn (tác giả "Viết cho Mẹ và Quốc hội") vừa đổi xuống miền Tây, mới hơn 30 tuổi. Trấn sanh vào ngày 21/3/1914 tại Chợ Đệm (làng Tân Kiên), huyện Bình Chánh, tỉnh Long An, đang giữ 2 chức vụ quan trọng : Bí Thư Khu Ủy, Chính Ủy Kiêm Tư Lịnh Khu 9, uy quyền tột bực. Trấn lại có học (Trường Tiểu học Phú Lâm, Trung học Petrus Ký, tốt nghiệp Trung học, làm báo), khá điển trai, là đối tượng của các cô gái đẹp ở Saigon mới vô khu kháng chiến. Trấn bắt tình với cô Đỗ Thị Thúy Nga, 1 mối tình qua đường vì Trấn đã có vợ con hẳn hoi. Mối tình vụng trộm này không kéo dài được vì bà vợ của Trấn ghen.

Để cứu vãn danh dự và để lấy lòng anh Ba Duẩn, Trấn liền giới thiệu cô Nga cho Duẩn. Thấy Nga, Duẩn rất thích. Nhưng, Duẩn vóc dáng cục mịch, ăn nói cộc lốc như "dùi đục chấm mắm nêm", lại già hơn, gấp đôi tuổi cô Nga, nên Nga từ chối thẳng thừng. Duẩn kêu vài cán bộ thân tín giữ những chức vụ quan trọng tới họp mật. Bà Lê Đoàn, Chủ tịch Ban chấp hành Hộ Phụ Nữ Cứu Quốc Nam Bộ, được lịnh anh Ba tới "động viên" cô Nga ưng anh Ba. Anh Ba tuy lớn tuổi nhưng chưa vợ con vì mãi lo việc cách mạng. Rồi Hà Huy Tập (Ủy viên Trung ương đảng), cũng được Duẩn giao nhiệm vụ vận động Thúy Nga. Chưa hết, giáo sư Đặng Minh Trứ, Chủ tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến tỉnh Cần Thơ, nhận lịnh Duẩn đến thẳng tư gia của cô Nga để "vận động" song thân của cô. Tất cả đều là công dã tràng, vì cô Nga từng là nữ sinh tường đầm, nói tiếng Pháp như gió, không chịu làm vợ 1 anh nhà quê thất học.

1 người từng ở trong hàng ngũ kháng chiến kể lại rằng, khi mọi cuộc "vận động" bế tắc, Duẩn liền dùng bạo lực. Duẩn cho lịnh mời cô Nga với tư cách đại biểu Cứu Quốc Cần Thơ, đến họp tại 1 ngôi nhà giữa rừng, bên bờ sông Trẹm, chỗ giáp ranh U Minh Thượng và U Minh Hạ. Đêm ấy trời mưa, chuyện gì xảy ra không rõ, sáng chỉ thấy cô Nga mặt mày sưng húp vì khóc suốt đêm qua. Ván đã đóng thuyền, cô Nga mi­n cưỡng làm vợ bé của Lê Duẩn.

Từ đó, đảng ra lịnh cấm bất cứ ai bàn tán về việc "đồng chí Ba Duẩn cưới vợ". Năm 1955, cô Nga theo đoàn quân tập kết ra Bắc. Duẩn cho dấu cô Nga với 2 con trong 1 biệt thự trên đường Hùng Vương. Không hiểu do ai báo cáo, bà vợ cả Đỗ Thị Khê tìm tới đánh ghen. Cô Nga chỉ biết ôm mặt khóc. Duẩn dàn xếp dấu Nga ở Hải Phòng, cũng bị vợ lớn tìm tới chửi bới, khiến Nga đòi tự tử. Duẩn báo cáo việc lem nhem với Hồ. Hồ gợi ý đưa Nga qua Trung Quốc tỵ nạn vợ lớn, với danh nghĩa theo học chính trị tại Thiên Tân. Mỗi năm, Hồ cho Duẩn mượn chiếc máy bay riêng, ẩn số BH 195 (có nghĩa là Bác Hồ 19/5) qua Thiên Tân thăm vợ. Mỗi lần đi, Duẩn có đem theo đứa con gái lớn con bà vợ cả là Lê Thị Hồng, để cô này thăm tình nhân là 1 Thiếu úy đẹp trai, quê ở Cái Tàu, Bạc Liêu. Viên Thiếu úy này đang học trường quân sự Cáp Nhĩ Tân. Về sau, nghe đâu cô này học bên Liên Xô và lấy chồng người Liên Xô.

Xưa nay, lấy vợ lấy chồng là chuyện bình thường, nhưng có vợ rồi mà còn muốn có vợ bé...lại còn làm việc bất chính để chiếm đoạt. Hồ Chí Minh luôn luôn răn đe đảng viên phải có "đạo đức cách mạng, đời công, đời tư phải trong sáng..." Thật ra, lời giáo dục ấy chỉ là tuyên truyền, áp dụng cho đảng viên cắc ké. Các Ủy viên Trung ương đảng, Bộ chính trị, ai cũng lấy vợ hai, vợ ba, dựa vào quyền lực để ép duyên, hoặc dùng thủ đoạn để lấy gái tơ cỡ tuổi con mình, như Lê Đức Thọ, Võ Quang Anh (Tham mưu trưởng Khu 9), Trần Văn Trà, Hà Huy Giáp, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Hoan,...

Hứa Hoành