Wednesday, March 11, 2009

Tướng Bùi Thế Lân, Cuộc Đổ Bộ Tqlc Ở Hải Lăng Hè 1972 - Vương Hồng Anh

Vương Hồng Anh

Tướng Bùi Thế Lân và Sư đoàn Thủy quân Lục chiến VNCH ở phòng tuyến bờ Nam Mỹ Chánh, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, Hè 1972.

Trong loạt bài “Chiến trường Việt Nam, 30 năm nhìn lại”, trong phần trình bày tình hình chiến sự từng ngày tại mặt trận Quảng Trị mùa Hè 1972, chúng tôi đã lược trình một số cuộc hành quân của các đơn vị thuộc Sư đoàn Thủy quân Lục chiến (TQLC). Như đã trình bày, sau khi Sư đoàn 3 Bộ binh và các đơn vị tăng phái rút khỏi Quảng Trị vào đầu tháng 5/1972, Lữ đoàn 369 TQLC đã lập ngay tuyến chận địch ở bờ Nam sông Mỹ Chánh trong khi chờ đợi bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 và bộ Tư lệnh Sư đoàn TQLC tái phối trí lực lượng để giữ khu vực gần địa giới hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên.

Ngày 4 tháng 5/1972, tiếp theo sự bổ nhiệm trung tướng Ngô Quang Trưởng, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 4, giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 1 thay trung tướng Hoàng Xuân Lãm, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đă quyết định bổ nhiệm đại tá Bùi Thế Lân, lúc đó đang là Tư lệnh phó Sư đoàn TQLC, giữ chức Tư lệnh đại đơn vị tổng trừ bị này thay thế trung tướng Lê Nguyên Khang. Theo tài liệu của trung tướng Ngô Quang Trưởng, thì ban đầu trung tướng Lê Nguyên Khang được đề nghị giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 2 thay trung tướng Ngô Du xin từ nhiệm, thế nhưng tướng Khang đã từ chối, sau đó, ông được bổ nhiệm làm Phụ tá Hành quân Tổng tham mưu trưởng.

Đại tá Bùi Thế Lân xuất thân khóa 4 trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, bạn đồng khóa với trung tướng Ngô Quang Trưởng và các chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng (Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù), Nguyễn Văn Điềm (Tư lệnh Sư đoàn 1 BB), Hồ Trung Hậu (nguyên Tư lệnh Sư đoàn 21 BB). Trước khi giữ chức Tư lệnh phó rồi cuối cùng là Tư lệnh TQLC, đại tá Lân là tham mưu trưởng Thủy quân Lục chiến từ những năm đầu của thập niên 60 khi binh chủng này còn ở cấp Lữ đoàn, ông được thăng đại tá vào năm 1966. Sau khi đảm nhận chức Tư lệnh TQLC được hơn 3 tuần, ngày 28-5-1972, ông đã được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gắn một sao lên cổ áo ngay tại bản doanh bộ Tư lệnh TQLC đặt trong Đại Nội Huế. Tân chuẩn tướng Bùi Thế Lân đã tuyên hứa với Tổng thống VNCH là ông và Sư đoàn TQLC sẽ quyết tái chiếm Cổ Thành trong tay quân thù. Sau gần 3 năm chỉ huy Sư đoàn TQLC, ông được vinh thăng thiếu tướng.

Trở lại với mặt trận phía Nam tỉnh Quảng Trị, ngày 4 tháng 5/1972, trung tướng Ngô Quang Trưởng đã họp với tân Tư lệnh Sư đoàn TQLC Bùi Thế Lân để duyệt xét tình hình. Trung tướng Trưởng đã giao trách nhiệm cho Sư đoàn TQLC chịu trách nhiệm phòng thủ phía Nam Quảng Trị và vùng Bắc Thừa Thiên. Sau đây là một số cuộc hành quân của TQLC tại khu vực cận duyên quận Hải Lăng tỉnh Quảng Trị trong tháng 5 và thượng tuần tháng 6/1972. Phần này được biên soạn dựa theo tài liệu của Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, bài viết của cựu trung tá Trần Văn Hiển, nguyên Trưởng phòng 3 Sư đoàn TQLC và tài liệu riêng của VB.

* Tướng Bùi Thế Lân, Sư đoàn TQLC và cuộc các đổ bộ tấn công CQ

Hạ tuần tháng 5/1972, phòng tuyến Mỹ Chánh đã trở nên sôi động khi Cộng quân tập trung lực lượng tấn công vào các vị trí phòng ngự của các Tiểu đoàn 3,8 và 9 TQLC, bộ chỉ huy Lữ đoàn 369 TQLC và các pháo đội của Tiểu đoàn 3 Pháo binh TQLC vào hai ngày 21 và 22 tháng 5/1972. Những ngày kế tiếp, Cộng quân chuyển mũi dùi tấn công sang phía Tây-vùng trách nhiệm của Lữ đoàn 258 TQLC. Trong ba ngày liền, CQ dàn trận tấn công giữa ban ngày nhưng đã trở thành mục tiêu cho Pháo binh và Không quân Việt Mỹ tiêu diệt bằng hỏa lực hùng hậu.

Trong khi trận chiến ở phía Tây thuộc khu vực trách nhiệm của Lữ đoàn 258 TQLC còn đang sôi động, để tạo yếu tố bất ngờ nhằm triệt hạ lực lượng đối phương ở hướng Đông, tướng Bùi Thế Lân và bộ Tư lệnh Sư đoàn TQLC đã mở tiếp cuộc hành quân tại khu vực duyên hải quận Hải Lăng. Lực lượng chính là 3 Tiểu đoàn 4,6,7 TQLC thống thuộc quyền điều động của Lữ đoàn 147 TQLC. Theo kế hoạch, ngày 23 tháng 5/1972, toàn bộ Tiểu đoàn 7/TQLC đã từ phòng tuyến Mỹ Chánh di chuyển bằng quân xa đi về phía Nam để đến bến Tàu Tân Mỹ, cách Huế 5km đường chim bay về hướng Đông, từ đó được chở hải vận ra Hạm đội 7 ở ngoài khơi để chuẩn bị cuộc đổ bộ bằng đường biển. Theo phân nhiệm, Tiểu đoàn này sẽ phụ trách tuyến ven biển, trong khi đó hai Tiểu đoàn 4 và 6 TQLC được trực thăng vận đổ vào vùng có địa danh chiến sử “Dãy phố buồn thiu”.

Đúng 7 giờ 30 ngày 24 tháng 5/1972, cuộc hành quân khai diễn. Mở đầu, các pháo đội pháo binh, hải pháo và phi tuần không quân chiến thuật đã oanh kích với hỏa lực tối đa vào các mục tiêu tại các bãi đổ bộ, trong khi đoàn tàu chở Tiểu đoàn 7 TQLC còn cách bờ 3 cây số. Cùng thời gian này, hai Tiểu đoàn 4 và 6 TQLC và các phi đoàn trực thăng Hoa Kỳ đã sẵn sàng tại bãi bốc chuẩn bị nhập trận sau đó. Để dọn sạch các chướng ngại vật và triệt hạ hỏa lực phòng không của Cộng quân quanh các khu vực đổ quân của TQLC, theo sự điều hướng của Ủy ban liên bộ Tham mưu Sư đoàn TQLC và Hạm đội 7 đặt trên chiến hạm chỉ huy USS Blue Ridge, phi vụ B-52 bay tới trải những thảm lửa xuống các bãi đáp, lúc đó đoàn tàu đổ bộ còn cách bờ chưa đến 2 km.

Khi B-52 vừa chấm dứt đợt oanh tạc, hai đợt tàu đổ bộ, mỗi đợt 40 chiếc cập bãi đổ Tiểu đoàn 7 TQLC lên các bãi ấn định. Vừa đặt chân lên bờ, các Cọp Biển xung phong tiến chiếm các đồi cát cao, nhanh chóng tấn công các mục tiêu. Cộng quân bị tấn công bất ngờ nhưng vẫn cố bám giữ các công sự tác chiến chính để cầm chân tiểu đoàn 7 TQLC, kịch chiến đã diễn ra quanh các đồi cát khi các trung đội TQLC tràn lên tiến chiếm các cao địa. Với lối đánh tốc chiến, hơn 1 giờ sau, Tiểu đoàn 7 TQLC đã làm chủ trận địa, đánh bật CQ ra khỏi vùng đồi cát ở phía Đông khu vực hành quân, hạ sát tại chỗ hơn 50 CQ, bắt sống 10 tù binh.

Cùng lúc đó, Tiểu đoàn 4 và 6 TQLC được trực thăng vận xuống khu vực giao điểm của hai hương lộ 555 và 602, một địa danh đã đi vào chiến sử với cái tên gọi “Dãy phố buồn thiu”. Tại đây, trong thời gian từ 1965 đến 1972 đã xảy nhiều trận giao tranh ác liệt giữa lực lượng VNCH, đồng minh và các đại đơn vị CSBV. Trước tháng 7 năm 1954, tại địa danh chiến sử này đã xảy ra trận chiến kéo dài hơn 1 tuần lễ giữa lực lượng Nhảy Dù Pháp và trung đoàn 95 Việt Minh (CSVN).

Trở lại với cuộc đổ quân ngày 24 tháng 5/1972, ngay khi vào vùng hành quân, TQLC đã đụng độ ngay với 1 đơn vị của trung đoàn 18 thuộc sư đoàn 325 CSBV, mà thành phần chủ lực đã rút trước đó. Do Cộng quân đã chiếm giữ khu vực này hơn một tháng nên đã tổ chức được hệ thống phòng sự kiên cố với các cụm giao thông hào liên hòa và các chốt chận đặt ở những vị trí yết hầu.

Để triệt hạ được các cụm kháng cự của địch quân, các đại đội Thủy quân Lục chiến đã phải di chuyển và lưu động chiến, rồi tấn công bất ngờ theo mô thức dương Đông kích Tây. Đến ngày 30 tháng 5/1972, Thủy quân Lục chiến đã làm chủ nhiều vị trí trọng yếu tại khu vực giao điểm nói trên. Cuộc hành quân Sóng Thần 6-72 chấm dứt ngày 31/5/1972 sau khi 3 Tiểu đoàn 4, 6 và 7 TQLC trở lại phòng thủ tuyến Mỹ Chánh.

* Cuộc đổ bộ ngày 6 tháng 6

Trong chiến sử của Sư đoàn Thủy quân Lục chiến VNCH, ngày 6 tháng 6/1972 đã trở thành ngày lịch sử khi 4 Tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến vượt sông Mỹ Chánh để mở đầu cho một cuộc hành quân quy mô tái chiếm Quảng Trị.

Mục tiêu đầu tiên của kế hoạch tái chiếm Quảng Trị do bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 vạch ra là các lực lượng VNCH phải kiểm soát được khu vực phía Bắc sông Mỹ Chánh cách bờ Nam sông Mỹ Chánh ít nhất là 5 km. Để thực hiện giai đoạn này, trung tướng Ngô Quang Trưởng đã giao trọng trách cho Sư đoàn Thủy quân Lục chiến làm lực lượng tiên phong. Khai triển kế hoạch của Quân đoàn 1, chuẩn tướng Bùi Thế Lân đã cho tổ chức cuộc hành quân vượt sông Mỹ Chánh. Ngày 6 tháng 6/1972, 4 Tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến đã mở đầu cuộc hành quân Sóng Thần 8-72 bằng cuộc vượt sông Mỹ Chánh dưới sự yểm trợ của Không quân Việt Mỹ và pháo binh.

Từ rạng sáng ngày 6 tháng 6/1972, oanh tạc cơ của Không quân Việt Mỹ đã dội bom vào các vị trí bắc Mỹ Chánh mà Thủy quân Lục chiến sẽ tiến đánh, sau đó Pháo binh VNCH đã bắn dồn dập vào các khu vực có dấu hiệu là Cộng quân đang trú đóng. Sau đợt oanh tạc của Không quân và đợt pháo dọn đường của Pháo binh VNCH, 4 Tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến đồng loạt tiến quân vượt sông Mỹ Chánh. Qua khỏi tuyến xuất phát, các đơn vị tiên phong đã đụng độ các toán tiền tiêu của Cộng quân.

Giao tranh diễn ra quyết liệt. Các đại đội Thủy quân Lục chiến đi đầu đã tràn lên chiếm các vị trí trọng điểm để làm đầu cầu cho toàn đơn vị tiến lên. Gần trưa ngày 6/6/1972, cuộc tiến quân của Thủy quân Lục chiến đã gặp sự kháng cự mạnh của các trung đoàn Cộng quân, nhất là cánh quân tiến theo trục hương lộ 555 về phía Đông của Mỹ Chánh, thuộc địa phận quận Hải Lăng. Theo kế hoạch, tiến sau Thủy quân Lục chiến là các đơn vị Công binh, có nhiệm vụ thiết lập và sửa chữa cầu cống, để các chiến xa của các chi đoàn Thiết giáp tiến lên yểm trợ. Đến 18 giờ chiều ngày 6 tháng 6/1972, các cánh quân TQLC đã chiếm được các mục tiêu trọng điểm của cuộc hành quân.

Vương Hồng Anh
---------------------------

Tướng Bùi Thế Lân Được Trao Huy Chương Legion Of Merit

WASHINGTON -- Cựu Tướng Bùi Thế Lân vừa được Tổng Thống Hoa Kỳ trao tặng Huân Chương Legion of Merit (Degree of Commander) qua một văn bản ký bởi Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ Robert M. Gates.

Bản văn viết bằng Anh ngữ, ghi là trao tặng huân chương này cho:
“Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân, Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam,

Do tài lãnh đạo được đặc biệt ca ngợi trong khi thi hành xuất sắc nhiệm vụ từ ngày 30 tháng 3-1972 đến ngày 16 tháng 9 năm 1972 khi liên tục đảm trách chức vụ Tư Lệnh Phó và kế tiếp là Tư Lệnh TQLC Việt Nam.

Thời gian này mang tính cách quyết định cho cuộc chiến đấu mất còn của VNCH, gây ra bởi các cuộc tiến chiếm ồ ạt của nhiều sư đoàn chính quy quân đội Bắc Việt tràn qua khu phi quân sự, Chuẩn Tướng Lân đã giữ vai trò chủ yếu trong những chiến thắng vẻ vang của TQLC/VN mà đỉnh cao là giải phóng hoàn toàn thị xã Quảng Trị.

Nhờ tài chỉ huy lỗi lạc, kinh nghiệm chiến trường và lòng dũng cảm vượt bậc khi đối đầu với một địch quân thiện chiến, Chuẩn Tướng Lân đã tạo cho toaà thể quân sĩ TQLC thêm những cố gắng quả cảm trong nỗ lực đầy hào hùng và chiến thắng được một kẻ thù kiên cường.

Thành tích gương mẫu của ông đã tạo đươc danh tiếng cho cá nhân ông, cũng như cho toàn thể Quân Lực VNCH.

Huân chương naỳ đính kèm Biểu Chương Chiến Công Xuất Sắc.
Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng

Robert M. Gates

Ấn Ký”


ÔNG ĐẠI SỨ ... ZIỆT CỘNG - Lê Phàm Nhân

Lê Phàm Nhân

(Trích đăng từ Nguyệt San Con Ong Việt số 102 tháng 3,2009)

Cuộc tranh cử tại Hoa kỳ năm 2008 đã trôi qua, kết quả đang mang lại rất nhiều thay đổi trong mọi lãnh vực sinh hoạt tại nội địa Mỹ, và đồng thời cũng ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều quốc gia khác trên toàn cầu.

Cử tri da mầu, hậu duệ của những người gốc Phi châu đến tây bán cầu này khoảng trên dưới ba trăm năm về trước, hoan hỉ chào mừng chiến thắng chính trị, vì đã dồn phiếu đẩy được một ứng viên gốc Phi vào tòa nhà trắng: ông Barack Hussein Obama. Cộng đồng người Việt Nam chối bỏ cộng sản, đến định cư tại Hoa Kỳ trong vòng mới ba mươi năm trở lại đây, cũng mừng vui vì lần đầu tiên có được một em cháu thuộc “thế hệ tị nạn 2” vừa đắc cử vào Hạ Nghị Viện Quốc Hội Liên Bang Hoa Kỳ tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn: Dân Biểu Joseph Cao, đơn vị 2 Louisiana.

Cho đến nay, Tổng Thống Barack Hussein Obama vừa nhậm chức được hơn một tháng. Và Dân Biểu Joseph Cao cũng đang làm việc khóa đầu tiên, tại Hạ Viện trên Capitol Hill. Để tìm hiểu rõ hơn về đường lối và chủ trương hoạt động của hai tên tuổi này tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, phải kiên nhẫn theo dõi lâu hơn tí nữa, để ghi nhận những triển khai rõ ràng cụ thể hơn. Trong giai đoạn tiên khởi này, giới quan sát thời cuộc cũng chỉ ghi nhận được công việc đầu tay của mỗi nhân vật vừa nêu trên. Quyết định đầu tiên của Barack Obama, là ký sắc lệnh đóng cửa căn cứ Gitmo (Guantanamo Bay) trong vòng một năm. Chuyện này không đơn giản, chưa chi đã hứa hẹn nhiều lẩm cẩm

nhiêu khê. Chúng tôi sẽ trở lại câu chuyện Gitmo này hầu quý vị sau.

Được báo chí tiếp xúc ngay sau khi tuyên thệ nhậm chức, Dân biểu Mỹ gốc Việt Nam Joseph Cao đã nói lên mối ưu tư hàng đầu của ông ta, đó là việc vi phạm nhân quyền trầm trọng của nhà cầm quyền cộng sản tại nội địa Việt Nam. Và ông Joseph Cao cho biết, sẽ thúc đẩy việc đề nghị Hạ Viện Hoa Kỳ đưa tên nước Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, tức Việt cộng, trở lại danh sách các quốc gia cần được đặc biệt quan tâm (CPC – Countries of Particular Concern) của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ.

Nước Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam bị cho tên vào danh sách các “Countries of Particular Concern” năm 2004, vì các vi phạm nhân quyền trầm trọng và liên tục. Để chạy chọt được vào làm thành viên của Tổ chức Mậu dịch Thế Giới “World Trade Organization” (WTO), Hà Nội đã làm một vài hành động tiểu xảo, cho giới quan sát quốc tế thấy như là họ đang thực tâm cố gắng cải thiện sinh hoạt dân chủ, như là họ đang cố gắng tôn trọng nhân quyền tại Việt Nam. Họ cho thăm viếng tù nhân chính trị, họ thả một vài nhân vật có tên trong danh sách do Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ yêu cầu v.v... Do đó, tháng 11 năm 2006, Việt cộng được rút tên ra khỏi danh sách các nước bất hảo này.

Nhưng liền ngay sau khi được vào làm thành viên của Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới WTO rồi, thì Việt cộng vẫn thói nào tật đó. Nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội lại lập tức trở về với thói rừng rú cũ, đàn áp, bắt bớ, giam cầm ... Điển hình nhất, là việc công khai cho công an bịt mồm Linh Mục Nguyễn Văn Lý trước tòa án Thừa Thiên, mà tin tức hình ảnh đã nhanh chóng loan truyền đi khắp đó đây ... Do đó, năm 2007, nước Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam lại bị đề nghị cho tên trở vào lại danh sách các xứ cô hồn. Việc làm đầu tiên của Dân Biểu Joseph Cao, là thúc đẩy tiến trình nhốt Việt cộng trở lại trong “cũi” CPC.

Dân Biểu Joseph Cao, tức Cao Quang Ánh, năm nay 41 tuổi, là người con thứ năm trong tám người con của một gia đình người Việt Nam, đã cùng với mẹ chạy bỏ cộng sản, đến định cư tại Texas Hoa Kỳ năm 1975, khi Ánh vừa mới lên 8. Thân phụ Cao Quang Ánh là một sĩ quan trong Quân Lực miền Nam Việt Nam, đã bị Việt cộng đưa ra Bắc Việt cầm tù. Cao Quang Ánh mở mắt chào đời năm 1967 tại Saigon, Hòn Ngọc Viễn Đông một thời, bây giờ đang ... tạm thời mắc nạn! Mắc nạn, vì đang bị bọn cầm quyền phi văn hóa bắt Saigon phải thay tên. Tên của một quốc tặc, một tội đồ thiên thu của lịch sử nòi giống Việt. Tên của một việt gian bán nước. Tên của một đứa gian dâm vô đạo, bịp bợm tham tàn. Mạn phép mở một dấu ngoặc, về câu chuyện thành phố thay tên, thành phố chôn nhau cắt rốn của chàng trai trẻ Joseph Cao Quang Ánh.

Gọi Hồ Chí Minh là tên Việt gian bán nước, trước đây còn có kẻ tranh cãi. Nhưng sau 30 năm lịch sử phơi bày, những chuyện giải mật ở bên Mỹ, bên Tầu, đã cho thấy rõ ràng là Hồ Chí Minh và bè lũ đã bán nước từ khi chúng chưa là chủ nhân ông của cơ đồ. Vì cuồng vọng quyền hành, chúng đã quỳ gối lạy lục Nga Tầu, ngầm ký kết để vay mượn quân lương, vũ khí đạn dược, nhiên liệu tiền nong, hầu đẩy mạnh việc thôn tính miền nam nước Việt. Và khi đã cưỡng chiếm được trọn dải đất hình chữ S rồi, bây giờ chúng đang trả nợ quan thầy. Công khai trả nợ bán nước, trước mắt thế giới, không dấu diếm. Trả nợ bằng đất nước Việt Nam, trả nợ bằng nhân dân Việt Nam. Trả nợ bằng đất Bản Dốc, đất Cao Bằng, đất Thục Lãm. Trả nợ bằng nước Hoàng Sa, nước Trường Sa, nước Cửu Long. Trả nợ bằng cách đưa nhiều trăm ngàn lao nô đi khắp Nga và đông âu, trả nợ bằng cách “xuất cảng” phụ nữ Việt ra quốc ngoại ... Với “thành tích” vô tiền khoáng hậu này, Hồ Chí Minh và bè lũ là những tên tội đồ thiên thu trong lịch sử nhiều nghìn năm dựng nước của dân tộc Việt.

Tên Saigon đã có trong địa dư nước Việt từ lâu. Địa danh Saigon đã nổi trôi, thăng trầm cùng với vận mệnh nước nhà trong nhiều thế kỷ lịch sử cận đại. Tên gọi Saigon, hay là tên của bất cứ phố thị nào khác, tự nó không thân không sơ gì với bất cứ phe phái đối nghịch chính trị nào. Tên gọi Saigon, tự nó chỉ là nhân chứng lịch sử. Bắt Saigon phải thay tên, dù có là tên gì, tên ai đi chăng nữa, chỉ có thể là việc làm của một lũ đầu óc hẹp hòi nhỏ mọn, thiển cận, dốt nát, phi văn hóa.

Hãy thử cùng quay ngược lại đoạn phim lịch sử của thế giới trong thế kỷ thứ 20 vừa qua. Trong tiền bán thế kỷ thứ 20, thế lực bạo tàn nhất là Đức Quốc Xã và Quân phiệt Nhật. Và trong hậu bán thế kỷ thứ 20, khối chính trị sắt máu bạo ngược nhất, là Liên Bang Sô Viết. Với những kho vũ khí hạt nhân đầy ắp, thế giới nghẹt thở từ sau thế chiến thứ hai cho đến cuối thập niên 1980. Tiền đồn của khối quân sự Varsovie ở đông Bá Linh bị rạn nứt năm 1989, làm sụp đổ Đông Đức, khiến cơn thác lũ lan tràn khắp đông âu, kéo theo sự tan rã nhanh chóng của khối Liên Bang Sô Viết khổng lồ năm 1991.

Nếu những lãnh tụ sừng sỏ của điện Cẩm Linh như Nikita Krushchev hay Leonid Breznev có thể “ngửi thấy” trước được “thiên cơ” tan rã đó, chắc chắn một trong hai ngài lựu đạn sét này đã phải nhả Đông Dương ra, để quay về tử thủ cửa ngõ đông Bá Linh và hành lang đông âu bằng mọi giá. Và thế cờ đã xoay chuyển về hướng khác: chính cộng sản Bắc Việt đã bị cạn nhiên liệu đạn dược tiếp vận, rốt cuộc đã rơi vào tay các đơn vị tinh nhuệ của Quân Lực Miền Nam. Từ Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, cho đến Bùi Tín đều đã được Quân cảnh hộ tống về quân lao Gò Vấp. Và những Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Lê đức Thọ ... cũng đã được Cảnh sát Dã chiến cho xộ khám Chí Hòa, chờ ngày ra trước vành móng ngựa để được xét xử tội phạm chiến tranh, chứ không có chuyện đày ải đi rừng thiêng nước độc, như kiểu cu li cu leo của việt cộng. Riêng Hà Nội, vẫn là đất Hà Thành nghìn năm văn vật của Việt Nam. Không thể có chuyện ngu xuẩn, là bắt thành Thăng Long phải bỏ đi cái tên lịch sử của nó, để thay vào bằng tên cúng cơm của một ông Tổng Thống hay Tướng Tá nào của Miền Nam Việt Nam. Nói đến non nước Việt, người ta nhắc đến Hà Nội, Huế và Saigon, chứ không ai ăn nói quái đản ngược ngạo là Hà Nội, Huế và thành phố ... già mắc dịch!

Nhiều người thở than rằng, dù biết vậy, nhưng ván đã đóng hòm rồi, biết chừng nào mới gỡ ra được. Chúng tôi không tin như vậy. Từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, lịch sử loài người đã minh chứng rằng, điều gì gượng ép, ngược ngạo, không thật, điều đó sẽ không thể trường tồn. Sihanoukville đã trở về với cái tên cúng cơm Kompong Som. Thế “mạnh” của mũi AK đàn áp nhân dân tại Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, so với thế mạnh của Liên Bang Sô Viết ngày trước, như thế nào? Vậy mà Stalingrad và Leningrad cũng đã tan biến theo mây khói phù du của thế sự. Chuyện trả lại tên cho Saigon, nơi Joseph Cao mở mắt chào đời, chỉ là chuyện thời gian. Địa danh Saigon chỉ đang tạm thời ... mắc nạn.

Chinh chiến điêu linh đẩy đưa trôi dạt đến Texas, cậu bé 8 tuổi Cao Quang Ánh học 4 năm tiểu học, rồi sau đó đỗ trung học tại Jersey Village High School, Houston. Năm 1990, Cao Ánh đỗ Cử nhân Vật Lý tại Baylor University, Waco, Texas. Năm 1995, lấy được bằng Cao Học Triết tại Fordham University ở New York. Trong thời gian theo học tại vùng đông bắc Hoa Kỳ, Cao Ánh tình nguyện vào làm việc cho tổ chức Boat People S.O.S., Inc. (BPSOS), tích cực giúp đỡ giải quyết hồ sơ của các trường hợp vượt biển tìm tự do còn chưa ngả ngũ rải rác tại nhiều trại khắp đông nam á.

Năm 1997, Cao Ánh trở về New Orleans dạy học, và năm 2000, lấy được bằng Tiến Sĩ Luật Khoa tại Loyola University. Ngày 28 tháng 8 năm 2005, Joseph Cao và gia đình (vợ Kathy Hoàng và hai con gái Sophia và Betsy) đã chạy đi lánh nạn, vì bão Kathrina tàn phá nặng nề vùng New Orleans tiểu bang Louisiana. Tháng 9 năm đó, Joseph Cao đã trở lại New Orleans, quyết định ở lại để vừa nỗ lực xây dựng lại nhà cửa và văn phòng của gia đình mình, vừa tích cực hoạt động xã hội, để giúp xây dựng lại cộng đồng Người Việt tị nạn cộng sản tại đây. Năm 2006, Thống đốc Louisiana Bobby Jindal, thuộc đảng Cộng Hòa, đã mời Joseph Cao Ánh vào Ủy Ban Bầu Cử hạt New Orleans. Tháng 11 năm 2008, Joseph Cao Ánh đắc cử vào Hạ Viện trong Quốc Hội Liên Bang Hoa Kỳ ở Hoa Thịnh Đốn, đánh bại một Dân Biểu đương nhiệm thuộc đảng Dân Chủ, đã ngồi ghế này liên tục suốt 9 nhiệm kỳ tại đơn vị 2 New Orleans Louisiana.

Với tiểu sử và thân thế như vừa tóm lược trên đây, Joseph Cao Ánh và gia đình, rất thông thạo am tường về thảm trạng cộng sản, bởi chính họ đã từng là nạn nhân của những hành động man ri của lũ người rừng về thành tại Việt Nam. Cho nên, không ai lấy làm lạ về ưu tư số một của Dân Biểu Joseph Cao: chuyện vi phạm nhân quyền trầm trọng của nhà cầm quyền việt cộng trên đất Việt. Không ai lấy làm lạ về đề nghị đầu tiên của Dân Biểu Joseph Cao: đưa tên nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa trở vào danh sách các nước cần được đặc biệt quan tâm CPC. Chỉ trừ có một người. Một người Việt duy nhất tại Hoa Kỳ. Một người, mà anh bạn tôi ở Virginia khi điện thoại cho tin, đã gọi là ông ... đại sứ ziệt cộng. Lê công Phụng, đại sứ của cộng sản Hà Nội tại Mỹ. Ông này rất bất bình về chuyện Dân Biểu Joseph Cao. Và ông đại sứ ziệt cộng giận quá, nên ông đại sứ ziệt cộng mất khôn, hiện nguyên hình.

Được đài BBC phỏng vấn về chuyện Dân Biểu Joseph Cao, Đại sứ Cộng sản Hà nội Lê Công Phụng đã trả lời như sau: “Chắc có nhiều người mừng khi ông Joseph Cao trở thành nghị sĩ người Việt đầu tiên. Chúng tôi chưa tiếp xúc với ông ấy, cũng chưa phê phán. Nhưng tôi nghĩ thế này, đến ông Obama làm đến tổng thống thì ông ấy vẫn là người gốc Kenya. Bà con người Việt ở đây muốn làm đến tổng thống, thủ tướng, thì vẫn là người Việt. Mà lại đi nói xấu Việt Nam, người nghe cũng cảm thấy mình không đứng đắn lắm ...” !!!

Lời lẽ bình dân giáo dục, lỉnh ka lỉnh kỉnh, câu sau ... chửi cha vế trước. Vì vừa nói chưa tiếp xúc, chưa phê phán, nhưng rồi lại phạng ngay. Chuyện một người làm chính trị ưu tư về tình trạng vi phạm nhân quyền tại cố quốc, được ông đại sứ ziệt cộng gọi là ... đi nói xấu Việt Nam, và như vậy là không đứng đắn! Nghe cứ như là chuyện mari sến đôi chối ngoài máy nước công cộng!

Ông đại sứ ziệt cộng còn nghêu ngao tiếp về chuyện đồng bào: “Chúng tôi mong muốn tất cả những người Việt có gì thì góp ý thẳng thắn với đồng bào trong nước, có gì chỉ trích thì cứ chỉ trích, nhưng không nên chống lại đồng bào mình”! Dân Biểu Joseph Cao chống ai? Người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại chống ai? Vạch mặt chỉ tên, kể tội lũ thiểu số ác ôn đang ngồi trên đầu trên cổ đồng bào Việt Nam, đang bạo ngược cai trị đồng bào, đang bán rẻ đất nước và nhân dân cho tầu cộng, là chống lại đồng bào của mình?

Nếu nói theo chính chữ nghĩa của việt cộng, thì lập luận của ông đại sứ chỉ lòng vòng “tranh thủ” cù nhầy, hạ cấp, chỉ sặc mùi “tuyên truyền phản động”, chống lại hơn ba triệu người Việt Nam tự do tị nạn cộng sản đang sống khắp nơi ở hải ngoại. Và nham nhở ở chỗ là, bọn cán ngố cứ tự đồng hóa chúng với đất nước Việt Nam, với đồng bào Việt Nam. Tại các quốc gia có quá trình sinh hoạt dân chủ lâu đời, nhóm cầm quyền được định nghĩa là những công bộc được chọn lựa để phục vụ quốc gia và đồng bào. Trong khi đó, cộng sản Việt Nam tự cho chúng là tổ quốc, chúng là đồng bào. Lên tiếng về những tệ trạng đang xảy ra ở Việt Nam, dưới sự cai trị của việt cộng, tức là đi nói xấu Việt Nam, tức là đi chống lại đồng bào! Quan niệm từ trong cội nguồn đã như vầy, thì chừng nào lũ cầm quyền hiện nay mới “thực thi dân chủ”?

Lê công Phụng đang là đại sứ toàn quyền của Việt cộng tại Hoa Kỳ. Nơi đây, người dân chỉ trích đường lối của các ông George Bush, ông Barack Obama hằng ngày, họ có bao giờ bị ai tố cáo là nói xấu nước Mỹ, hay chống đối dân Mỹ hay chưa? Vậy Lê công Phụng là ai, đang sống ở thế giới nào đây? Hãy nhìn vào tiểu sử của Lê Công Phụng, đã được chính tòa đại sứ Việt cộng ở Hoa thịnh Đốn trau chuốt, đánh bóng và trình làng. Phụng sinh ngày 20 tháng 2 năm 1948 tại Thanh Hóa, một vợ hai con, được chủ tịch nhà nước Nguyễn Minh Triết bổ nhậm làm đại sứ toàn quyền cho nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa tại Hoa Thịnh Đốn Hoa Kỳ tháng 10 năm 2007. Không hề thấy nói Phụng học trường tiểu học, trung học hay đại học nào. Chỉ thấy ghi rằng Phụng tốt nghiệp lớp ngoại giao năm 1971 tại Bộ Ngoại vụ cộng sản tại Hà nội. Thời bấy giờ, tất cả thanh niên trai trẻ ngoài bắc đều phải trình diện thi hành nghĩa vụ quân sự. Phải tình nguyện lên đuờng “đi B”. Nếu không xung phong tình nguyện lên đường sinh bắc tử nam, thì gia đình bị cúp hộ khẩu v.v... và v.v. ... Năm 1971, chàng trai tuổi vừa ngoài đôi mươi Lê Công Phụng là ai, lại được miễn “đi B”, mà còn được tuyển chọn vào học “lớp ngoại giao”?. Hồ Chí Minh vừa về chầu Diêm Vương năm 1969, Lê Duẩn lên thay. Lê công Phụng là con rơi của Lê Duẩn, hay cháu rớt của Lê đức Thọ? “Giáo sư” nào dạy “ngoại giao”?. Dạy ngoại giao kiểu gì?.

Năm 1971, Võ Nguyên Giáp vừa cho nướng xong toàn bộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vào hai trận “tiến công” Mậu Thân 1 và 2. Năm 1971, Henry Kissinger sang thăm Cấm Thành, nghéo tay với Chu Ân Lai, rồi bay sang Paris, bắt tay cười toe toét với Lê Đức Thọ, bật đèn xanh cho các đơn vị chính quy cộng sản Bắc Việt ào ạt xâm nhập vào Nam, qua đèo Mụ Giạ. Năm 1971, Nguyễn Chí Thanh được Lê Duẩn phái vào Kratié Căm Bốt, điều động cục “R”, thay thế Mặt Trận Giải Phóng bằng các đơn vị chính quy Bắc Việt. Được Mỹ và Trung cộng cùng bật đèn xanh, năm 1971 đánh dấu thời điểm cao tột đỉnh của tiến trình chuẩn bị xâm lăng miền Nam. Con ông cháu cha Lê Công Phụng được tuyển chọn và nhồi sọ cho một mớ giáo điều đỏ của đảng cộng sản, trong bối cảnh hừng hực xâm lược này. Cho nên, đến vài chục năm sau, hễ mở mồm ra, là Phụng tự động đồng hóa nhóm thiểu số cầm quyền với tổ quốc, với đồng bào.

Bây giờ, nếu có mổ óc Lê Công Phụng ra mà giảo nghiệm, cũng không thể nào tìm thấy được một tế bào dân chủ, theo nghĩa mà nhân loại tiến bộ đã học hỏi được từ hai thế kỷ nay. Hậu quả của việc tuyển chọn, đào tạo và xử dụng nhân viên “ngoại giao” kiểu này là, sau hơn một phần ba thế kỷ trôi qua, lá cờ đỏ sao vàng vẫn không ngóc đầu nổi được dưới mắt Người Việt tự do, tại bất cứ nơi nào có ánh mặt trời, trên khắp hải ngoại bao la ...

Lê Phàm Nhân
Tháng 2/2009


CHUYỆN TỪ TRONG HỌ RA NGOÀI LÀNG - Phạm Đình Thừa

Phạm Đình Thừa -
(Trích đăng từ Nguyệt San Con Ong Việt số 102, tháng3,2009)





Họ đây là họ Cùi, danh từ mà một vị Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (TVBQGVN) trìu mến gọi các sinh viên sĩ quan (SVSQ) đang thụ huấn. Danh từ “Cùi” khởi đi từ Khóa 16 Võ Bị và một cách bất thành văn, tiếng “cùi” đã trở thành ngôn ngữ truyền thống của trường cùng với các danh xưng Niên trưởng, Đàn Em. (Khác với Huynh trưởng và Niên đệ của Trường Võ Khoa Thủ Đức). Từ một thư sinh với mái tóc bồng “theo chiều gió”, bỗng một phút bị húi đi nhẵn bóng như các vị sư khổ hạnh, túi hành trang dân sự (trong đó chứa đầy dấu tích mộng mơ của tuổi mới lớn) đành gửi lại trước cổng trường. Nhìn nhau – đúng là một bọn cùi hủi! Với bên ngoài, danh từ khiêm tốn này có vẻ kỳ quặc để chỉ người SVSQ, nhưng với những ai xuất thân từ TVBQGVN, nó đã trở thành dấu yêu để gọi nhau khi gặp lại, để nhận diện nhau trên chiến địa, trong trại tù cộng sản. Bởi vì, danh từ ngắn gọn kia là biểu tượng của một kết tinh bất hoại cái lý tưởng đầu đời cưu mang từ trường Mẹ: LÝ TƯỞNG PHỤC VỤ QUỐC GIA và DÂN TỘC. Người SVSQ vẫn giữ vẹn cho đến lúc tàn hơi gục ngã (“Chí tuy còn mong tiến bước, nhưng sức không kham nổi đoạn đường”) và “Cùi”, một cách bất quy ước, đã trở thành họ thứ hai bên cạnh cái họ gia tộc. Khi kiếm cung, súng đạn không còn cầm tay, trong cảnh đời lưu vong tỵ nạn, những người cựu SVSQ/TVBQGVN đã cố gắng tìm đến với nhau, họp đoàn bảo vệ lý tưởng xưa, truyền thống cũ và một tổ chức được chào đời tại hải ngoại, Tổng Hội Cựu SVSQ/TVBQGVN. Đặc san Đa Hiệu (tờ báo từ trường Mẹ) được qui định như một cơ quan ngôn luận chính thức của tập thể cựu SVSQ/TVBQGVN.

Tôi cũng được hân hạnh mang họ “Cùi” (cùi hủi là đằng khác!) và vì vậy, hôm nay, viết bài này, một cách chính danh, với tên cúng cơm do cha mẹ đặt cho mà không dùng bút hiệu. Tôi muốn góp ý và đưa ra nhận xét, phán đoán cá nhân, bởi vì gần đây, dầu muốn hay không, chuyện trong họ Cùi đã được một số vị “ngoài làng” (tôi quen, tôi biết) đem ra làm phiền tôi không ít! Đó là chuyện đặc san Đa Hiệu số 85 Xuân Đinh Sửu. Câu hỏi:

- “Sao đặc san Đa Hiệu của trường cậu lại đăng bài ca tụng thằng Hồ Chí Minh?”.
Đầu tiên, tôi đã lên tiếng át giọng người hỏi:
- “Ông muốn chửi cha tôi thì ông cứ chửi nhưng xin đừng xuyên tạc, bạn già!”.
Một đám lao nhao:
- “Chắc ông không đọc báo trường ông hả? Cứ về lật Đa Hiệu số Xuân ra, trang ... thì biết ngay là tụi này có xuyên tạc, bôi bác hay không.”.

Quả vậy, từ lâu tôi ít đọc sách, đọc báo (nhất là báo Xuân), một phần vì nó quá dày, phần khác vì chuyện áo cơm chiếm một khoảng thời gian thật dài trong sinh hoạt hằng ngày. Mờ sáng ra đi, tối mịt trở về, trong công việc bán tim óc để nuôi xác thân. Có ai đó đã thơ thẩn:

- “Áo cơm tưởng nhẹ mà không nhẹ!”.

Đúng quá! nếu “nhẹ” thì đã không có kẻ bán cả thể xác lẫn linh hồn cho quỷ. May cho tôi, trời còn độ mạng Cùi nên tôi chỉ bán mớ kiến thức thu thập được lúc trẻ để kiếm cơm nuôi cái xác thân còm cõi chờ ngày lãnh sự vụ lệnh về trình diện Quân khu IX.
Cũng may, từ khi anh Đinh văn Nguyên Khóa 20 đảm nhận vai trò Tổng Hội Trưởng cho đến khi anh vĩnh viễn ra đi và sau này nữa, tôi nhận được đặc san Đa Hiệu (ĐH) có vẻ thường xuyên, có cả số ĐH 85. Trước khi dò tìm trang báo, tôi lật bìa trước, bìa sau để xem và những dòng chữ trên bìa sau quảng cáo cho chủ đề số kế tiếp 86 đã làm tôi thất vọng!

Bìa trước với những dòng chữ:

ĐA HIỆU
CƠ QUAN NGÔN LUẬN CỦA TỔNG HỘI CỰU SINH VIÊN SĨ QUAN TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM

Bìa sau, quảng cáo cho chủ đề số kế tiếp ĐH 86:
“Chủ Đề Đa Hiệu 86:
LÝ TƯỞNG TRƯỜNG VÕ BỊ ĐÀ LẠT
Đất trời đâu có chi còn mất
Đời lên lại mãi tựa bình minh”

Tên của trường đã tiền hậu bất nhất chỉ trong cái lật từ trước ra sau! Đành rằng dân chúng bên ngoài và ngay cả anh em cựu SVSQ đôi khi cũng nôm na gọi tên Trường VBQGVN là Trường Đà Lạt, nhưng lỗi lầm nhỏ nhặt này lẽ ra không nên phạm phải đối với một cơ quan ngôn luận có tầm vóc. Ngoài ra, Lý Tưởng là một tiêu đề quan trọng và tế nhị, hai câu thơ (hay văn?) đi kèm chẳng những không nói lên được cái lý tưởng truyền chuyển từ Khóa này đến Khóa khác mà có thể gây điều ngộ nhận không cần thiết.

Tôi bắt đầu lật từng trang báo dò tìm số trang ... Đây rồi, trang 48, bài viết mang tựa NHỮNG CHUYỆN DỐI TRÁ TRONG XÃ HỘI CỘNG SẢN (NCDTTXHCS) của tác giả Võ Biền K24. Bài viết dài 21 trang (từ trang 48 đến 68) với phần mở đầu nói lên “thiện ý” của tác giả, muốn độc giả có vài nụ cười đón Xuân, vì theo tác giả “Những vị đốc tơ trên thế giới ngày nay đều công nhận “Cười” là thang thuốc bổ không tốn tiền của loài người, nên để quý độc giả thiết thực giữ được sức khỏe dồi dào, Biền mỗ cũng xin nhân dịp đầu năm kể một vài câu chuyện khôi hài làm quà đầu năm.”. (Trích nguyên văn không thiếu một dấu phẩy, ĐH 85, trang 49, đoạn mở đầu, và xin không bình phẩm).

Chuyện chọc cười đầu tiên là trò dối trá ghép hình Kim Jung IL của bọn gia nô Bắc Hàn để chứng tỏ “ngài” lãnh tụ vẫn còn xí quách, được báo chí nước Anh phanh phui - Cũng xin được miễn bàn. Chuyện chọc cười thứ hai cũng là đầu mối tranh cãi và là vấn nạn cho chính tôi với câu hỏi của những người đã đặt ra. Hãy đọc phần mở màn cho “chuyện cười” thứ hai này do tác giả Võ Biền K24 viết ra, vì theo tôi, đây là căn nguyên cội nguồn của một âm mưu: đưa hình ảnh già Hồ với hào quang bao quanh hầu đánh lừa một số người nhẹ dạ, chưa hiểu rõ về cộng sản:

- “Mới đây nhà văn Nguyễn Đăng Mạnh tại Hà nội có viết một quyển hồi ký như nhà văn Nguyễn Khải. Có lẽ ông định bắt chước ông bạn văn Nguyễn Khải “để dành khi đến lúc ‘ra đi’ khỏi cái thiên đường xã hội chủ nghĩa” thì nhắn cho con cháu đưa ra cho người dân Việt có được tài liệu về cộng sản Việt Nam mà các “đồng chí” của ông đã giấu kỹ. Không hiểu sao bản thảo của quyển hồi ký này được đưa lên mạng và truyền đi khắp nơi khi ông vẫn còn sống nhăn răng trên cái “thiên đàng” này. Sợ đang sống ở “thiên đường giả” mà bỗng chốc “đi tàu bay suốt” về “địa ngục thật” khi ông liên tưởng đến những vụ thủ tiêu các nhà văn hay nhà viết kịch chống chế độ, ông bèn chối béng là có ai đó đã phổ biến những trang hồi ký này lên mạng internet mà không đợi ông “đi vào cõi thiên thu” trước đã.
Thế thì trong quyển hồi ký này ông đã nói lên những sự thật gì?

Ta hãy đọc một chương mà nhà văn Nguyễn Đăng Mạnh, một nhà văn sống gần ông Hồ khi còn sinh tiền, đã nói về cuộc đời thật của ông Hồ Chí Minh để so sánh với những lời tuyên truyền dối trá của đảng Cộng sản Việt Nam khi họ cố đưa lãnh tụ Hồ Chí Minh của đảng này lên hàng thánh sống.”. (Trích nguyên văn, cột 2 trang 52 đến cột đầu trang 53 – và cũng xin được miễn lạm bàn về cú pháp).

Không biết các chương khác của quyển hồi ký này thế nào, chứ một chương do Võ Biền K24 trích đăng, khi đọc xong, theo nhận xét của người viết bài này, Nguyễn Đăng Mạnh là loại văn nô ngoại hạng! Ngoại hạng vì trước (và có thể sau) Nguyễn Đăng Mạnh (NĐM) không có tài liệu nào của “đảng ta” đưa ra mà cường độ đánh bóng Hồ Chí Minh dữ dội bằng một chương được trích dẫn trong ĐH 85. Phải nói rằng NĐM đã phủ một vòng hào quang chói lọi quanh cuộc đời Hồ Chí Minh (HCM). Tôi không hiểu, Võ Biền lấy tài liệu ở đâu để cho rằng NĐM là “một nhà văn sống gần ông Hồ” vì đọc những dòng hồi ký được trích, tên này tự thú chỉ có hai lần “thấy” HCM. Lần đầu tiên tại Bắc Ninh, ở vai trò học sinh đứng làm cảnh từ xa, đón “bác”. Thế nhưng, “bác” chỉ “đứng lại một lát, liếc nhìn chung quanh một chút, mặt đầy cảnh giác, rồi ông đi rất nhanh vào phòng thông tin”. Thái độ và hành động này được NĐM biện hộ:

- “bác” chạy nhanh vì quá rét với nguồn tin Việt Nam Quốc Dân Đảng đang hoạt động mạnh trong vùng! (ĐH 85 trang 53). Lần thứ hai tại Vinh là cuộc nói chuyện với đồng bào của HCM và theo NĐM, mặc dầu “không hề tỏ ra là người hùng biện” và “nói chậm, ngắn, không lưu loát”, khi nói hớ hay có cử chỉ thô bỉ (tự giơ tay hoan hô chính mình) thì HCM mau chóng đánh trống lảng sang đề tài khác. Đây là sự đánh bóng tuyệt hảo để nói lên rằng cáo Hồ là người của quần chúng, không mầu mè, mê hoặc, đôi khi cũng nhầm lẫn một cách “đáng yêu!” Ngoài hai lần được “thấy” và kể lại, kỳ dư, tài liệu viết về Hồ đều tham khảo từ những tên cáo già như Hoàng văn Hoan, Lê Quang Ba, Diệp Minh Châu, Vũ Kỳ. Những tên này dầu có biết được sự thật về cuộc đời HCM chăng nữa, bố bảo cũng không dám hé răng, ngoại trừ những chuyện vinh danh “bác”. Thêm vào đó, tài liệu tham khảo của NĐM còn lấy từ Nhật Ký Trong Tù và Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện của chính tác giả HCM! Cái điêu ngoa của NĐM là trình bày lại một vài sự kiện tàn ác của Hồ như câu chuyện “chơi hoa rồi lại bẻ cành bán cho Trần Quốc Hoàn” mà cả làng, cả nước, cả thế giới đều biết như việc thủ tiêu Nông thị Xuân và 3 người em gái họ để chứng tỏ mình viết lên sự thật. Như vậy, cái gọi là hồi ký NĐM có phản ảnh trung thực cuộc đời HCM chăng? Nếu không vậy, việc đưa tập hồi ký NĐM lên mạng lưới toàn cầu là một âm mưu lừa đảo, một trò tiểu xảo xưa như trái đất mà những con cáo lão thành trong ngành tuyên vận cộng sản đem ra áp dụng với hy vọng đánh lừa người nhẹ dạ, ngây thơ. Số người này sẽ trở thành những chiếc loa thổi cho tập hồi ký được bay xa và lan rộng! Nếu nó thật sự phản ảnh về cuộc đời của con qủy họ Hồ với hai bàn tay vấy đầy máu đồng loại, thủ tiêu những nhà cách mạng chân chính, với những màn hiếp dâm thanh nữ thì NĐM dầu có “chối béng” (như Võ Biền cho biết) cũng không thể nào tránh khỏi tội “tru di tam tộc”. Bởi vì, chỉ dịch một bài viết nhân quyền mà phải lãnh án tù mục xác, thì việc đụng chạm đến “thần tượng” của “đảng ta”, xử tử vẫn được xem là còn quá nhẹ đối với người cộng sản Việt Nam!

Để kết thúc nhận xét về hồi ký NĐM, xin tóm lược một đoạn nói lên trò biện hộ lố lăng đối với thái độ dâm đãng của “bác”. Năm 1965, có hai nữ dân quân Nam Ngạn, Hàm Rồng đạt thành tích “xịt” máy bay Mỹ, được tuyên dương, Ngô Thị Tuyến và Nguyễn Thị Hằng. Theo NĐM, Nguyễn thị Hằng “là một cô gái quê mà rất trắng trẻo, cao ráo”, chính vì vậy mới được triệu ra Bắc. Và dĩ nhiên, vưu vật như vậy phải được đưa đi trình diện “bác” ngay. Khi gặp em, “bác” chẳng hỏi han gì về thành tích “xịt” máy bay Mỹ của dân quân Hằng mà “Câu đầu tiên của vị Chủ tịch nước là: “Cháu có buồn đi tiểu, bác chỉ chỗ cho mà đi.”. (Trích ĐH 85, trang 60). Đọc đến đây thì ai cũng thấy được cái bản chất dê xồm và già dịch của con quỷ dâm dục họ Hồ; thế nhưng, NĐM lại bào chữa và cho đó là thái độ chăm lo, săn sóc của “bác”:

- “Ông Hồ một mặt yêu nhân loại rộng lớn, mặt khác, quan tâm rất cụ thể thiết thực đến những con người cụ thể quanh mình.” (ĐH 85, trang 60).

Tôi thì không có cái nhận xét “siêu việt” đầy chất “đỉnh cao trí tuệ” này như NĐM nhưng nhìn sự việc trên bình diện thực tế. Đây là một tác động tâm-sinh-lý. Khi nhìn thấy mặt “bác”, cô dân quân Hằng lại cứ tưởng là máy bay “lên thẳng” của Mỹ nên có thể cô đã quá “cảm động” đến nỗi muốn “són” ra quần, định “xịt” ngay vào mặt “Chủ tịch nước”. Là người kinh nghiệm đầy mình trên hành trình “cách miệng”, bôn ba tìm của lạ, nhìn mặt em Hằng là “bác” biết ngay em đang ở giai đoạn nào! Vì vậy, mới gặp, “bác” đã vội vàng tình nguyện dẫn đường cho em vào nhà tiểu! Kinh nghiệm lâu ngày biến thành tập quán trên con đường “Chủ tịch nước” đi gieo tóc tang cho những mảnh đời trinh nữ Việt! Đội đít lãnh tụ “tầm cỡ” này thì Tố Hữu có đạp mồ sống lại cũng phải chào thua mà chết trở lại, sau khi thốt lên lời tự thán: Trời đã sinh Hữu sao còn sinh Mạnh!.

Tác giả Võ Biền K24 cũng có ý định so sánh sự dối trá tuyên truyền từ trước đến nay của tập đoàn cộng sản Việt Nam về cuộc đời thần tượng HCM của chúng với “sự thật” trong hồi ký NĐM. Tuy nhiên, sự so sánh này đã không xảy ra trong bài viết. Phải chăng sự dối trá của hồi ký NĐM đã chiếm quán quân, vượt trên tất cả mọi tài liệu dối trá mà đảng CSVN đang có và điều này đã khiến độc giả chúng ta không đọc được sự so sánh của tác giả Võ Biền? Công trình dàn dựng để đưa hồi ký NĐM ra khắp thế giới qua mạng lưới điện toán của hệ thống tuyên truyền CSVN đã thất bại ê chề. Đã không có một cơ quan truyền thông nào của người Việt hải ngoại mắc mưu cáo vì chưa có ai, chưa một tờ báo nào sao chép, trích lại và phổ biến - chỉ có tác giả Võ Biền K24 và Đa Hiệu 85, đáng buồn thay! Đúng như ngôn ngữ anh Võ Biền K24: chuyện cười... ra nước mắt (ĐH 85, đầu trang 52).

Trở lại cái vấn nạn cho cá nhân tôi về câu hỏi đặt ra của vài người tôi quen, tôi biết – xin được nói lên lời tạ lỗi vì thái độ thiếu cẩn trọng trong câu chuyện đối đáp ban đầu. Riêng trong nội bộ Võ Bị, hai anh Chủ nhiệm Đa Hiệu, anh Tổng Hội Phó đặc trách truyền thông, chắc chắn các anh đã đọc, đã thấy, và đã hiểu bài viết của tác giả Võ Biền K24 như cá nhân tôi, được trình bày ở phần trên. Các anh đã nhận lãnh trách nhiệm về việc “vi phạm một sai lầm lớn lao” và ngỏ lời từ nhiệm trong một điện thư phổ biến trên mạng lưới Tổng hội. Cũng trong điện thư này, tôi được biết ĐH 85 đã được chuyển đi rộng rãi đến cá nhân, đoàn thể, tổ chức bên ngoài Võ Bị. Tôi xin được nói lên lời hoan hô tinh thần trách nhiệm của quý anh. Tuy nhiên, với kinh nghiệm của vài năm ra đời trước các anh, tôi nhận thấy đoạn điện thư sau đây chẳng những không giải quyết được thực trạng gây phiền nhiễu trước mắt mà còn có thể tạo nhiều tranh cãi đưa đến lũng đoạn:

- “Việc tranh nhau từ nhiệm trong biến cố này hoàn toàn không phải vì lòng phục vụ Trường Mẹ của chúng tôi đã khô cạn, không phải vì thân xác, sức khoẻ chúng tôi đã mỏi mệt trước những chuỗi sinh hoạt dồn dập trong việc phục vụ cộng đồng người Việt hải ngoại, phục vụ Quê hương và Tổ Quốc Việt Nam, lại càng không phải chí vẫn còn nhưng lòng nản, trước những ngọn giáo vô tình đôi khi làm đau xót con tim những kẻ đang dấn thân làm việc cho tập thể, những ngọn giáo được phóng ra, không phải từ phía địch quân cộng sản mà từ một hướng vu vơ nào đó, đôi khi ngay chính trong nội bộ chúng ta.”. (Trích Điện thư vobivietnam@yahơgroups.com, Mimosa Dalat alphamimosa@...)



Tập cận chiến
Tân Sĩ Quan K 19

Một tác phẩm đưa ra trình làng là mặc nhiên trở thành nàng dâu trăm họ. Khen chê, bình phẩm là cái quyền của người đọc. Là cha đẻ của một đứa con tinh thần, dĩ nhiên, ai cũng đều mong ước đón nhận nhiều lời khen hơn tiếng chê, nhưng họ cũng hiểu được rằng không kỳ vọng gì bắt gặp được một vườn hoa lý tưởng đầy hoa Hồng ngát hương. Chỉ có một nơi tạo ra được khu vườn toàn một giống hoa đua nở – hoa cứt lợn. Nơi ấy là khu vườn văn hóa cộng sản. Anh đã phán xét đúng “không phải từ phía địch quân cộng sản”; bởi vì, sự phổ biến hồi ký NĐM từ tác giả Võ Biền K24 là điều mà CSVN mong ước, nhất là trên diễn đàn ngôn luận của tập thể cựu SVSQ/TVBQGVN. Chúng còn muốn gửi lời chân thành cám ơn đến các anh là đằng khác! Không có lửa thì chẳng bao giờ có khói. Không có chuyện trích đăng hồi ký NĐM thì sẽ không có phản ứng và nhận xét của độc giả trong và ngoài tập thể Võ Bị. Hướng xuất phát ý kiến và nhận xét là từ khối độc giả to lớn của qúy anh, của tờ Đa Hiệu chứ không phải như anh nêu lên “từ một hướng vu vơ nào đó, đôi khi ngay chính trong nội bộ chúng ta.”. Chẳng lẽ, độc giả Đa Hiệu, trong và ngoài tập thể, đều là một bọn vu vơ, trong đó có cá nhân tôi?! Một độc giả bên ngoài, ông Hoàng công Chính (HCC), đã gửi tới tờ báo Con Ong Việt một điện thư (vì không có địa chỉ điện thư của ĐH?) nói lên sự bất mãn của ông ta đối với hai bài viết trong ĐH 85, xin được trích đoạn:

- “Đa Hiệu 85, từ trang 53 đến trang 67, tác giả Võ Biền K24 đã trích đăng bài của một tên cán bộ CS, ca tụng Hồ chí Minh một cách khôn ngoan kín đáo và tế nhị.
Cũng trong số này, đặc san Đa Hiệu 85 đã trích đăng bài của Đào Hiếu, Cán Bộ CS, nói đến lý tưởng của một SQ xuất thân từ TVBQGVN Dalat “Trung úy SQ Ngụy nhưng ghét Mỹ vào đây (vào bưng)… và chỉ muốn làm một anh du kích.

Khi nói đến TH/CSVSQ/TVBQGVN, người ta thường kính nể, Vì nơi đây tập trung những SQ xuất sắc của QLVNCH, có lý tưởng quốc gia và tinh thần chống cộng tuyệt đối. Cả một tập thể VB, không còn nhân tài nào nữa hay sao? Chôm bài từ trên internet đem xuống “cơ quan ngôn luận” của TH/CSVSQ/TVBQGVN làm quan điểm và đường lối của mình.”.

Quả tình, nồng độ uất ức của ông HCC đã bốc lên quá cao trong lời văn. Tuy nhiên, cá nhân tôi xin cảm ơn những tình cảm ông dành cho tập thể cựu SVSQ/TVBQGVN được che dấu đằng sau sự uất hận trong trạng thái mất bình tĩnh. Chính vì vậy, mong rằng bài viết này đến tay ông để ông có thể chiết trung được một nhận định đứng đắn và trong sáng hơn về tập thể cựu SVSQ chúng tôi.

Tờ ĐH 85 cũng đã tạo ra hệ lụy kéo dài trên mạng lưới điện thư Tổng Hội. Ý kiến và nhận xét cá nhân của cựu SVSQ đưa ra, dĩ nhiên, không ai giống ai. Đồng ý, khuyến khích và bất đồng, chống đối đối với hai bài viết trên ĐH 85 đều có cả. Đây là một hình thức cần được khích lệ. Tuy nhiên, điều đáng phiền trách là anh Tổng Hội Phó đặc trách truyền thông và phần hành liên quan thiếu kiểm soát để một số điện thư, thay vì đưa ra ý kiến và nhận định xoay quanh nội dung các bài viết, lại đâm ra châm chọc, rồi cuối cùng đưa đến tranh cãi, chụp mũ ý kiến của nhau (ngay cả động chạm đến cá nhân) với những lời lẽ nặng mùi! Có một vị trẻ người, khóa nhỏ đã biến diễn đàn thành nơi “chửi mất gà” kéo dài với hàng chục điện thư vì một vài vị đàn anh, một độc giả bên ngoài không cùng quan điểm “bảo hoàng hơn vua” của mình! Một ông đàn anh khóa lớn lại đi quá đà đối với những ý kiến nêu lên ngược với suy nghĩ cá nhân mình (không bao che cho “lỗi lầm” -từ ngữ điện thư của anh Tổng Hội Trưởng):

- “Chuyện không đáng bận tâm mà làm cho to chuyện là phải suy nghĩ tại sao? Ai giựt dây? Có bàn tay CS nào trong này không?”.

- “Chúng ta là những người Cựu SVSQ của Trường Võ Bị Quốc Gia VN mà còn bị lôi cuốn vào trong các móc ngoặc của nghị quyết 36 thì làm sao tranh đấu cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền cho dân tộc VN chúng ta được?”.

Thật hùng tráng và đầy tính chất “chính trị”! Khi sự việc đã trở thành “chuyện” thì việc bận tâm hay không là do suy xét cá nhân. Ông niên trưởng này có thể cho đây là việc không đáng bận tâm nhưng với người khác, khi soi rọi vấn đề bằng kính chiếu yêu, họ thấy những khía cạnh khác hơn và họ có quyền đưa ra ý kiến, phê bình. Chẳng lẽ niên trưởng muốn biến mảnh đất Tổng Hội CSVSQ thành khu vườn chỉ rặc một loài hoa – hoa mõm chó?! Hơn thế nữa, chuyện đâu còn có đó, sao lại quá vội vàng chụp mũ cộng sản cho nhau?! Mạnh dạn đưa lên dấu hỏi này, bởi vì, thưa đàn anh, gần 34 năm lưu vong, kẻ viết bài này, đàn em của niên trưởng, chưa một lần trở lại quê hương để cúi đầu đi dưới bóng cờ máu mà chúng mình đã có lần thề hủy diệt. Cũng cám ơn đàn anh đã đụng chạm đến Nghị quyết 36 của CSVN. Không hiểu đàn anh có đọc nghị quyết này chưa để biết rằng “giao lưu văn hóa” là một ưu tiên hàng đầu của nghị quyết?. “Giao lưu văn hoá” theo “định hướng xã hội chủ nghĩa” là “xuất khẩu” tài liệu tuyên truyền ca tụng lãnh tụ và chế độ để cấy vào đầu óc trong veo của con cháu chúng ta; “xuất khẩu” đám văn nghệ sĩ gia nô ra nước ngoài hầu lung lạc tinh thần đấu tranh của quần chúng bằng lời ca, tiếng nhạc. Và tuyệt đối cấm nhặt sự giao lưu ngược chiều về trong nước! Xin hãy đặt trách nhiệm và tinh thần tự giác lên trên tình cảm cá nhân và liên hệ gia tộc để có một cái nhìn khách quan hơn, mong vậy thay!

Cũng xin được nêu lên vài ý kiến đối với bức điện thư của anh Đinh Tiến Đạo Khóa 24, Chủ bút đặc san Đa Hiệu, trần tình về các bài vở của ĐH 85. Theo tinh thần điện thư này thì công việc anh làm hoàn toàn đúng, không có gì sai trái, lầm lỗi như hai anh Tổng Hội Trưởng và Tổng Hội Phó đặc trách truyền thông đã thừa nhận. Đúng là thái độ “chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ” (ngôn ngữ chuyện kiếm hiệp Tàu)!. Lý do viện dẫn: anh đã thi hành đúng mức chỉ thị của hai kỳ Đại hội CSVSQ 15 và 16 là phải có những “bài viết về chính trị để cùng người dân Việt trong và ngoài nước đấu tranh cho một nước Việt Nam Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền”.

Thú thật, tôi không hiểu được sự liên quan thế nào giữa việc đăng tải “những bài viết về chính trị” và việc “để cùng người dân Việt trong và ngoài nước đấu tranh cho một nước Việt nam Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền”. Nhưng thôi, xin đề cập đến điểm anh Đạo nêu lên: sở dĩ đăng “nguyên con” một chương hồi ký của NĐM là vì:

- “Thể hiện tinh thần ấy (Phải có những bài viết về chính trị -chú thích của người viết), ngay trong ĐH 79, chúng tôi đã trích dẫn bài “Vietnam Revisited: The Myths of the War” trong đó có một cuộc phỏng vấn của đài PBS vối hai tác giả Mỹ, một chê bai một khen ngợi QLVNCH mà không cắt xén những quan điểm chê bai QLVNCH của một trong hai tác giả trên để cho chúng ta có được một cái nhìn đúng đắn khi đọc được sự tranh luận của hai tác giả trên. Và ngay cả từ ĐH79, chúng tôi cũng đã cho xuất hiện những bài viết của những tác giả trong nước như: TKTT, PHS, DTH v.v... cho đến hết nhiệm kỳ mà không nhận một lời phàn nàn nào của các CSVSQ/TVBQGVN”.

- “Do đó theo quan điểm của tôi bài viết “Những Chuyện Dối Trá Trong Xã Hội CS của tác giả Võ Biền vẫn nằm trong đường hướng tôn trọng sự trung thực vẫn có từ những số Đa Hiệu trước. Ngoài ra, độc giả của Đa Hiệu là những CSVSQ hay thân hữu là những bậc trí giả có tầm hiểu biết cao và rộng và có lập trường quốc gia vững chắc nên độc giả của Đa Hiệu không phải là đối tượng để Đa Hiệu phải làm công việc “tuyên truyền” tức cắt xén những bài viết gửi đến và chỉ để lại những tin “có lợi” mà thôi. Theo tôi, làm điều đó (tức cắt xén – chú thích của người viết) là ĐH đã coi thường độc giả. Vả lại chính sự không “cắt xén” này sẽ đem đến những tin tức trong nước một cách trung thực theo lối nghĩ của một số bài viết của những tác giả sống dưới chế độ CS hầu độc giả của Đa Hiệu có một nhận xét chính xác về tình hình trong nước mà không rơi vào tình trạng “lạc quan tếu”.

Việc đăng tải cuộc phỏng vấn của PBS, bài vở của TKTT, PHS, DTH v.v... và ngay cả đoạn hồi ký của NĐM, trên phương diện hình thức đều giống nhau -TRÍCH ĐĂNG. Nhưng trên phương diện nội dung và quan điểm, sự khác biệt rất xa và rất sâu. Hai tác giả Mỹ trong cuộc phỏng vấn đã đưa ra hai cái nhìn, hai quan niệm khác nhau về chiến tranh Việt Nam, căn cứ vào diễn biến có thật. Như hai người cùng nhìn một bức họa Picasso, một người có thể khen đó là tuyệt tác, người thứ hai có thể cho đó là vẽ bậy, vẽ bạ. Những bài viết của TKTT, PHS đã vạch trần (sự thật) lối cai trị tàn ác, độc tài với mớ luật rừng của chế độ cộng sản trong nước. Tất cả thật khác xa với mớ giấy lộn được gọi là hồi ký NĐM mà nội dung chất chứa đầy rẫy những lời ca tụng tên tội đồ dân tộc HCM với những bằng chứng vay mượn, láo khoét, dối như vẹm, kèm theo một chuỗi biện hộ, tâng bốc trơ trẽn! Vì vậy mà độc giả đã không có phản ứng trước những bài vở trích đăng trong ĐH 79, nhưng ĐH 85 với hai bài trích đăng thì thật khác xa. Không biết anh Đạo có thấy được cái kích thước khác biệt này không nhỉ?.

“Nhân vô thập toàn”, ông bà ta dạy vậy. Có lỗi biết nhận lỗi, không cãi chày, cãi cối là điều đáng quý, là thái độ tự trọng. Còn nếu chưa thấy được lầm lỗi của chính mình thì có thể tham khảo ý kiến những người có nhiều kinh nghiệm hơn, trước khi đưa ra lời biện minh.

Tội quá! Đâu có ai bắt ép anh phải cắt xén bài vở gửi đến để trở thành người thiếu vô tư. Anh đã đưa độc giả chúng tôi lên tận mây xanh “có tầm hiểu biết cao” và rồi cho chúng tôi đo ván một cách đường đột trong cùng một đoạn thư, “hầu độc giả ĐH không rơi vào tình trạng lạc quan tếu”! Điều muốn nói và đã nói ở đây là anh đưa lên một đoạn hồi ký chất chứa toàn dối trá, gian manh, xảo quyệt mà anh cứ cho là “sự thật”! Là người cầm bút, chẳng những chỉ đọc tựa bài mà còn phải đọc kỹ giữa hai dòng chữ. Ông bà ta thường răn, “bút sa, gà chết”. Dĩ nhiên chết một con gà thì không nhằm nhò gì ở xứ này, tuy nhiên “bút sa” đưa đến tình trạng “chết trong lòng một ít” mới là điều đáng nói. Tôi cũng không nghĩ là anh Đạo có ý định làm truyền thông “hai chiều ly biệt” như ông Vũ Bình Nghi tại Bắc Cali và tờ Người Việt tại Nam Cali. Mong là một hôm nào đó anh thức ngộ được những giòng chữ đơn sơ này.

Bài viết này tôi sẽ gửi đến tờ báo của một vị đàn em để phổ biến, vì đó là nơi xuất phát ý kiến một bạn đọc về Đa Hiệu 85. Rồi theo số phận của nàng dâu trăm họ, tôi biết, cũng sẽ phát sinh tiếng bấc, tiếng chì, sẽ có lời khen, tiếng chê, khuyến khích hoặc than phiền. Cũng sẽ có phản ứng từ một vài vị trong tập thể “Cùi”: nhẹ nhàng thì trách phiền, khuyến cáo, nặng nề hơn -chửi bới, nguyền rủa- với luận điểm, “tại sao vạch áo cho người xem lưng?”! Tôi rất ghét câu nói “vạch áo cho người xem lưng” vì đó là quái thai ngôn ngữ của những đầu óc nô lệ, phong kiến -những tên Đốc Phủ Sứ thời Tây thuộc. Hành vi “Phủ bênh phủ, huyện bệnh huyện” một thời đã làm cho dân ta khốn khổ không ít, chẳng những thế nó còn làm trì trệ bước tiến hóa của dân tộc. Sở dĩ tôi đưa bài viết này ra bên ngoài mà không gửi về tòa soạn Đa Hiệu vì theo một Thông cáo mới nhất của Tổng hội (ngày 4 tháng 3 năm 2009), đặc san đã “tạm thời đình chỉ phát hành cho đến khi có thông cáo mới”, và cũng vì như tựa bài: chuyện trong họ đã ra ngoài làng. Đa Hiệu 85 đã cởi trần đi vào quần chúng (phổ biến sâu rộng ra bên ngoài qua lời thông báo trong điện thư của anh Tổng Hội Trưởng –đã dẫn ở phần trên) thì không cách chi có thể lấy thúng mà úp voi. Một điều cầu mong xuất phát tự đáy lòng tôi là tất cả chúng ta, những tên Cùi còn tại thế, biết dẹp bỏ tự ái cá nhân, phe nhóm và Khóa xuất thân để gìn giữ, bồi đắp thanh danh ngôi trường thân yêu xưa bằng hành động, ngôn ngữ và phong thái. Được như vậy, chúng ta sẽ không làm tủi hổ vong linh của bao người, Niên trưởng, Đàn em, đã anh dũng, kiêu hùng nằm xuống trong cuộc chiến Quốc, Cộng.

Chuyện lầm lỗi trên phương diện phát ngôn, truyền thông không những xảy ra với đặc san ĐH mà còn là chuyện thường xuyên trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Đối với một vài tổ chức, hội đoàn chống cộng, đã có cảnh cười ra nước mắt khi ông chủ tịch được mời lên phát biểu, bỗng bị “bà nhập”, tuyên bố trật đường rày, thay vì lên án, lại ca tụng giặc thù! Điều này dĩ nhiên làm nản lòng hội viên, đoàn viên, tổ viên... không ít. Tức khí đi tìm xuất thân thằng “khốn nạn” mới bật ngửa ra, ngài chủ tịch là kẻ thường xuyên đi du hí, có tiền nổi, bạc chìm đầu tư tại Việt Nam! Trách ai bây giờ? Trách ông Trời chăng? Ngài ngự quá cao! Chỉ còn có trách mình tiêu cực a dua theo chân bè phái và cảm tình để dồn phiếu cho kẻ bất xứng. Tuy nhiên, tình cảm sám hối này chỉ xảy ra trong chốc lát, trái đất vẫn quay và năm tới... lại tái cử thằng “khốn lịn”.

Phạm Đình Thừa

Sunday, March 8, 2009

HẢI NGOẠI VỚI VIỆC LÀM TỪ THIỆN - Hữu-Tâm

Hữu Tâm

Độ bảy tám năm trở lại đây, câu chuyện từ thiện từ hải ngoại về VN nhằm cứu giúp bà con ta ở quê nhà đang gặp cảnh khốn khó, đói nghèo tàn tật v.v... một ngày một rộ lên. Đặc biệt là kể từ khi có "Quỹ Hỗ Trợ Cộng Đồng" rồi tiếp theo "Nghị Quyết 36" của VC tung ra hải ngoại, thì các tổ chức từ thiện bịp bợm bỗng nhiên mọc lên như nấm.

Ở đâu cũng nghe tới từ thiện. Từ các tổ chức nhân danh tôn giáo, thánh đường, nhà thờ, chùa chiền, rồi đến các tổ chức tư nhân; ở đây tổ chức dạ tiệc gây quỹ cứu mù, cứu đói, giúp trẻ mồ côi khuyết tật, cứu Làng Nổi bán máu. Ở đàng kia tổ chức đại nhạc hội cứu thương phế binh, giúp nạn nhân bão lụt, giúp nạn nhân phong cùi, cứu người già neo đơn v.v... Có nhóm lại còn tổ chức cứu đồng bào Tết Mậu Thân. Cứ cái đà này có lẽ nay mai lại có nhóm đòi gây quỹ giúp các ma tăng bỏ chùa đi ... cưới vợ nữa !?

Dư luận trong cộng đồng người Việt hải ngoại ở khắp nơi, nhứt là các cơ quan truyền thông báo chí NVQG đã đặt thành vấn đề thật quan trọng cần phải được nêu lên để làm sáng tỏ một sự thật rõ ràng cái bí mật ở đàng sau bức màn "từ thiện". Bao nhiêu là bài bình luận của những tờ báo tên tuổi với những cây viết có giá trị đã đưa đến một kết luận thật dứt khoát :

* Hầu hết các tổ chức từ thiện do người Việt hải ngoại chủ trương đều là thi hành NQ-36 VC lừa bịp mị dân, lợi dụng lòng từ tâm của mọi người để moi tiền bỏ túi hay ăn chia với VC. (Đỗ Vẫn Trọn gây quỹ cứu Mù; Vũ Thành An gây quỹ Từ Thiện Teresa; Cô Tim, Ngôi nhà May mắn; Mục sư Nguyễn Xuân Bảo cứu đói; Trúc Giang, nhóm Sưỡi Ấm; Quốc Nam cứu Làng Nổi bán máu; Võ Thành Đông, cứu trợ thương phế binh v.v...).

* Điều đơn giản rất dễ hiểu là vì chánh sách bất di bất dịch của VC là tuyệt đối cấm không cho bất cứ tổ chức từ thiện nào, kể cả của người nước ngoài, không được tự do vào VN để làm công tác từ thiện. Điều này có nghĩa là, tất cả mọi công tác từ thiện, dù bằng tiền mặt hay bằng phẩm vật ... đều phải qua tay "nhà nước" làm trung gian. CS Hànội còn từ chối cả tàu Hồng Thập Tự của Hải Quân Mỹ tới Sàigòn và Đà Nẳng giúp giải phẩu bệnh tật miễn phí cho đồng bào ta. Không bao giờ VC cho phép các tổ chức người Việt hải ngoại trực tiếp cứu giúp người dân.

Hãy nhớ lại trận bão lụt đồng bằng sông cửu long năm 2004. Lúc đó quý Thầy trong Giáo hội PGVNTN đã lạc quyên được mấy mươi tấn phẩm vật đem đến phân phát cho các nạn nhân, thì bị VC điều công an ập tới tịch thu toàn bộ phẩm vật, giải tán hết đồng bào và bắt hết các Thầy, nói rằng: Tụ tập đông người bất hợp pháp, vi phạm luật nhà nước. Các phẩm vật tịch thu chúng lấy đem chia nhau xài coi như "chiến lợi phẩm" !

Rồi đến trận bão lụt miền Trung năm 2005. Một phái đoàn nhân đạo của các quốc gia Liên Âu đến phân phát phẩm vật, tiền bạc cho các nạn nhân. Vì là phái đoàn ngoại quốc nên VC không dám ngang nhiên trắng trợn tịch thu, bắt bớ. Chúng đợi khi phái đoàn đã quay về Sài Gòn rồi, thì lập tức ngay trong đêm đó, công an VC đã đến từng nhà đồng bào tịch thu vơ vét sạch sành sanh hết ... rồi cũng chia nhau xài tỉnh bơ ! Bởi vậy chúng không ham "tịch thu" sao được ?

Một số lớn các nhóm nhân danh từ thiện bịp bợm ở hải ngoại này thừa biết cái chánh sách ác ôn của VC là như vậy, nên họ không dại gì mà đem tiền về để cho VC chơi cha cướp sạch của họ nên đành phải bỏ vô túi riêng của mình cho chắc ăn. Còn đối với các "tổ chức từ thiện" tay sai thì chúng đã có quy định "ăn chia" kiểu phần thịt béo bở là của tao, xương xẩu là của mày. Lòng nhân đạo và từ thiện thì trong chúng ta ai cũng có nhưng chúng ta cần phải cân nhắc cho thật kỹ, lòng nhân đạo của ta phải đặt có đúng chỗ không ? Hay rồi chẳng những tiền mất mà còn bị coi là ngây thơ khờ khạo !?

Kiểm điểm lại chỉ ngay ở Hoa Kỳ này thôi cũng có đến mấy chục tổ chức từ thiện tạm phân chia ra hai loại. Một loại gọi là thường trực, trường kỳ; Còn loại kia thì được gọi là "cơ hội chủ nghĩa".

* Loại thường trực trường kỳ là loại từ thiện có tổ chức, có danh xưng hẳn hoi, làm việc liên tục 24/24/ngày, 7 ngày/tuần, 30 ngày/tháng, 365 ngày/năm. Loại này "nổi cộm" nhứt hiện nay thì có tổ chức Thánh Đường Sài Gòn ở Cali của ông mục sư Nguyễn Xuân Bảo; Thứ nhì là Quỹ Từ Thiện Teresa của phó tế Vũ Thành An ở Oregon (VTA nguyên là một tù nhân chánh trị HO, làm an-ten nổi tiếng trong tù trù dập anh em); Thứ ba nhóm Sưởi Ấm của nhạc sĩ Trúc Giang; Thứ tư là nhóm Cứu Mù của Đỗ Văn Trọn.

* Loại cơ hội chủ nghĩa còn có biệt danh là "từ thiện du kích" hay "nhảy dù", lâu lâu hễ rình thấy có cơ hội nào đó liền nhảy ra làm một vố rồi ôm tiền lặn mất. Loại này đông như kiến làm sao đếm cho xuể !? Ví dụ như ở Seattle có mụ Nguyễn Thị Nguyệt "cứu mù"; Quốc Nam "cứu Làng Nổi bán máu"; Võ Thành Đông "cứu Thương phế Binh VNCH ... Các nhóm này đôi khi yểm trợ cho các nhóm ở nơi khác tới (Đỗ Vẫn Trọn, cứu mù; Tim Rebeau, ngôi nhà may mắn; Nhà văn Văn Quang ở thành Hồ, cứu trợ TPB ... Đàng sau các nhóm này luôn luôn được sự hỗ trợ mạnh mẽ của thương gia Trần Đức ... bao chót).

Chúng ta có thể khẳng định rằng: Hầu hết các tổ chức từ thiện cho dù là nhân danh cái gì đi nữa cũng đều là lừa bịp hết. Xin hãy nhìn cho kỹ :

* * Thứ nhứt, do chánh sách ác ôn của VC có bao giờ để cho vật gì bên ngoài lọt khỏi bàn tay chúng đâu, dù là một vật nhỏ li ti như sợi chỉ cây kim ?

* * Có bao giờ chúng ta thấy có tổ chức từ thiện nào đã CÔNG KHAI MINH BẠCH về vấn đề TÀI CHÁNH, về các khoản thu, chi của họ không ? Ví dụ như nhóm mục sư Nguyễn Xuân Bảo, Đỗ Vẫn Trọn, Vũ Thành An ... Bọn VC đã "hợp tác" với các nhóm này, cho phép dàn dựng vài màn "đóng phim" cứu trợ ... rồi đem về chiếu trên TV để lừa bịp bà con ta. Những màn kịch rẻ tiền này cũng đã làm cho nhiều người ngây thơ bị lừa một cách dễ dàng.

Đây là bằng chứng:

- Như nhóm mục sư Nguyễn Xuân Bảo, trên màn ảnh truyền hình hàng tuần của hai đài truyền hình VN là SBTN và VHN, ông Bảo thường thông báo số chuyến xe của ông đã chở phẩm vật đi cứu trợ đồng bào mắc bịnh phong cùi. Khi chúng tôi viết bài này thì trên màn hình ông Bảo thông báo là đến chuyến thứ 67 rồi. Có một điều lạ là số chuyến xe thì mỗi tuần đều tăng lên, nhưng trên màn hình thì tuần nào cũng như tuần nấy, cũng đều là hình ảnh cũ từ mấy năm qua được chiếu đi chiếu lại : vẫn hình một đoàn xe năm chiếc đó mà thôi !

Thế mà lúc nào ông Bảo cũng oang oang kêu gọi gởi tiền về cho Thánh Đường Sài Gòn ở Cali cho ông để cứu giúp nạn nhân phong cùi trong những chuyến sắp tới (sic). Không bao giờ nghe ông nói tới chuyện công khai tài chánh cả.

- Như nhóm Đỗ Vẫn Trọn dùng đài truyền hình Viên Thao cũa ông ta, cũng cho chiếu đi chiếu lại từ năm này qua năm khác, cảnh một pha mổ mắt ở Sàigòn, với sự có mặt của ông ta mặc đồ y sĩ trắng trùm mũi miệng, đứng chứng kiến tại chỗ.

- Như Vũ Thành An, chụp hình cái mắt kiếng có một cái bóng mờ trong đó, rồi ông ta đăng lên báo, đọc trên đài phát thanh ở Portland/OR bịp bợm rằng "Đức Mẹ" đã hiện trong mắt kính của ông ta ! Rồi bịp bợm mời bà con tới dự tiệc gây quỹ cho bà con chứng kiếng tận mắt. Nhưng chẳng bao giờ y cho ai xem cả !?

Trở lại vụ mục sư Nguyễn Xuân Bảo. Ông ta không bao giờ công khai công bố tài chánh và danh sách các đối tượng được cứu giúp. Chúng ta cứ tưởng tượng chỉ vỏn vẹn có vài ba năm mà ông ta đã thực hiện được 67 chuyến đi đi, về về Việt Nam dễ dàng như đi chợ. Mỗi chuyến như vậy đều có đoàn xe cả chục chiếc chở đầy phẩm vật cứu trợ ... Phét lác có hàng trăm đồng bào sắp hàng, rần rộ tấp nập tới nhận lãnh phẩm vật. Phải thành thật khen ông Bảo là người tu hành, lại khéo hợp tác với VC dàn cảnh đóng phim bịp bợm còn hay hơn cả tài tử gạo cội.

Nhưng cho dù ông ta có đóng phim hay đến đâu đi chăng nữa thì cũng lòi cái đuôi bịp của ông ra. Mỗi lần lên truyền hình, ông đều quảng cáo, đây là chuyến đi thứ 60, 61, 62 ... nhưng vẫn là hình ảnh cũ được chiếu đi chiếu lại mà thôi !

Rõ ràng những hình này ông Bảo và bọn VC dùng để "bịp" cả thế giới và người Việt hải ngoại thấy rằng: Xã hội VN bây giờ là một thiên đường đầy lòng nhân ái, cảnh tương thân tương trợ giữa người hải ngoại và người trong nước thật gắn bó với nhau, và lũ cán bộ ác ôn VC bây giờ đã trở thành ma sơ, dì phước hết rồi.

Thôi xin can ông mục sư Bảo, phét lác vừa phải thôi, còn để đức lại cho con cháu nó nhờ. Không biết ông được thụ huấn, tẩy não bao nhiêu năm trong cái lò rèn CS ? Ông đã được thay tim đổi óc mấy lần bởi lũ phù thủy VC ? Có một điều ông cần khắc cốt ghi tâm: Người Việt Quốc Gia ở hải ngoại cùng đồng bào ở trong nước theo chiều dài của lịch sử hơn nửa thế kỷ đấu tranh một mất một còn với CS đã có quá nhiều kinh nghiệm với lũ vô thần CS, không dễ gì ngây thơ tin theo cái trò lừa bịp dối trá qua cái khúc phim "cứu trợ" nạn nhân phong cùi bịp bợm của ông. Xin ông hãy nhớ cho kỹ. Trên đây chúng tôi chỉ nêu lên vài cái tổ chức từ thiện để làm điển hình hầu trong chúng ta cùng có chung một nhận định thật rõ ràng dứt khoát.

* Tất cả các tổ chức từ thiện của người Việt ở hải ngoại này lạc quyên đem tiền về nước cứu trợ đều là LỪA BỊP, nếu không bỏ túi riêng thì cũng ăn chia, hoặc làm kinh tài cho VC. Ngoài ra, còn có các tổ chức từ trong nước ra như tổ chức của cán cái Tim Ruồi Bu, hay một số quý Cha, quý Thầy "quốc doanh" v.v... Nói chung là chúng ta phải có thái độ thật dứt khoát KHÔNG CHO MỘT CẮC cho bất cứ tổ chức từ thiện ở trong hay ngoài nước như đã nói trên. Lòng từ tâm của chúng ta phải đặt cho đúng chỗ đừng để vô tình lại trở thành việc làm NỐI GIÁO CHO GIẶC.

Hữu-Tâm


Thursday, March 5, 2009

Tiếng Việt Và Tiếng Vẹm - Trương Minh Hòa

Trương Minh Hòa

Con rắn hổ đất và hổ hành giống nhau về hình dạng, màu sắc, nhưng khác là hổ hành có mùi thơm như hành hương, thịt mềm hơn nên dân nhậu rượu đế vùng quê miền Nam thích đánh chén; nhưng cũng phải cẩn thận với loại rắn hổ lông cũng giống y như hổ đất và hành, phải tinh ý và có kinh nghiệm miệt vườn, khi nhìn thấy những lông đen mọc xen kẻ những vẩy ở đầu là không nên ăn, nếu không biết, ăn vào bị trúng độc, lăn đùng ra chết, không kịp ngáp, ở vùng nông thôn, có một số gia đình bị chết cả nhà, chỉ vì ăn phải thịt nó. Con trăn và nưa giống nhau như "hại giọt nước", nhưng nưa cắn chết và trăn thì không có nọc độc, một số người không biết, bắt con nưa về nuôi, có khi bị chết vì nó. Người tỵ nạn chính trị và kinh tế giống nhau: "đều bỏ nước ra đi" nhưng

- Người tỵ nạn chính trị (Political refugee) với những lý do như xung đột tư tưởng, bất đồng chánh kiến, tôn giáo ..... bị bắt buộc phải ra đi, nếu không thì tánh mạng nguy hiểm và sau khi ra đi, không thể trở về, do nhà cầm quyền vẫn còn cai trị, có thể bắt bớ, tù đày, ám hại bất cứ lúc nào.

- Người tỵ nạn kinh tế (Asylum seeker) là muốn ra đi ở nơi khác như câu của Hồng Y Phạm Minh Mẫn thấy một số người Việt hải ngoại trở về mà quơ đũa cả nắm: "tha hương cầu thực", những người nầy mong có được đời sống khá hơn và họ có thể quay về nơi mà mình bỏ đi mà không hề hấn gì.

Chính những kẻ tỵ nạn kinh tế nầy đã làm tổn hại trường kỳ đến hàng ngũ những người tỵ nạn chính trị, trong chiến tranh chống giặc Cộng thì không có mặt nhưng khi vượt biển là họ đi trước, khi Việt Cộng mở cửa, họ là những người "tiên phong đóng vai áo gấm về làng" về trước, nên sau nầy chính phủ các nước Dân Chủ không còn chào đón, khi đến nước họ đều bị nhốt trong các trại tạm giam, bị coi là tỵ nạn kinh tế, cá mè một lứa, sau chờ thanh lọc mới biết thật giả. Thành phần tỵ nạn kinh tế đã trở mặt, buôn bán, làm ăn với Việt Cộng, trở về theo diện TAM DU: "du lịch, du dâm, du hý" và cũng chính họ đã và đang mang những "hạt giống đỏ" sang theo diện bảo lãnh hôn phối, ăn tiền, nên đây là những kẻ: "rước giặc Cộng vào nhà", ăn cơm tự do, đội mo Cộng Sản, núp bóng tỵ nạn kết bạn với Cộng Sản.

Chùa Phật, Tiệm Phật hay Nhà Thờ và Cửa Hàng Chúa đều giống nhau về hình thức, cũng có tượng Phật, Chúa, đọc kinh, tu sĩ .... nhưng khác nhau là những người hành đạo, khiến cho nhiều tín đồ Tam Tạng Thời đại, con chiên mù quáng đến đóng góp, nuôi dưỡng những kẻ "mượn đạo tạo tiền" làm hại uy tín đạo không nhỏ. Tiếng Việt và tiếng Vẹm cũng giống nhau là có cùng mẫu tự La Tinh, 24 chữ cái, ghép vần, phát âm .... nhưng khác nhau, nếu không phân biệt rõ ràng thì lầm tiếng Vẹm là tiếng Việt.

Tiếng Việt trở thành quốc ngữ là do một linh mục Công Giáo, Alexander Rhode, trong lúc sang truyền bá đạo giáo, phiên âm từ tiếng Nôm thành vần, viết theo mẫu tự La Tinh để cho các tín đồ hiểu thánh kinh và từ đó phổ biến trong dân chúng, do lối viết dễ, học. Nếu không có sự đóng góp nầy, thì dù Hàn Thuyên có chữ viết khác với Trung Hoa, với bài thơ nôm "thần kỳ" đuổi được cá sấu ở sông Hồng, nhưng cũng không tránh khỏi ảnh hưởng nét viết, tượng hình rập khuôn theo chữ viết của giặc Tàu xâm lăng đô hộ, mang sang với mục đích đồng hóa. Tiếng Việt là nét độc đáo của dân Việt, thế mà thằng Trường Chinh, tên Cộng Sản dã man, đã muốn cho dân Việt bỏ tiếng quốc ngữ, và dùng tiếng Tàu làm ngôn ngữ, đúng là tên vong bản. Nhờ những người khai phá tiếng Việt như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Hoàng Đạo, Nhất Linh, Khái Hưng .... nên tiếng Việt càng phong phú.

Tại miền Nam sau 1954, với chính quyền quốc gia, tiếng Việt được phát triển như những loài hoa được trồng nơi phong thổ thích hợp, phân, nước đầy đủ với các trường đại học văn khoa ở Saigon, Huế, Cần Thơ ... nhiều giáo sư đại học có kiến thức, khả năng, những bộ tự điển tiếng Việt, làm cho nền văn hóa càng thăng tiến; tiếng Việt trở thành linh hồn của dân tộc, là tiếng được bập bẹ ngay trên đầu môi trẻ thơ, trong trường từ mẫu giáo đến đại học và ngày nay, dù cho đất nước bị giặc Cộng "cướp chính quyền", nhưng người Việt tha hương vẫn cố gắng duy trì tiếng nói, viết ở các quốc gia tạm dung.

Trái lại ở miền Bắc sau 1954, dưới chế độ cai trị tàn độc của băng đảng siêu cướp Cộng Sản Việt Nam, do tên đại Việt gian Hồ Chí Minh lãnh đạo, áp dụng nền văn hóa ngoại lai, chế độ cai trị rập khuôn quan thầy Nga Tàu, nên chữ nghĩa cũng bị thay đổi từ ý nghĩa đến cách dùng từ, trong chế độ Cộng Sản, cái gì cũng phải gắng liền với cái đuôi khỉ "xã hội chủ nghĩa" nên tiếng nói cũng phải phù hợp với chế độ, cũng giống như phụ tùng xe từng loại được lấp ráp, nếu không đúng, thì xe bị trở ngại máy móc, và các thứ khác. Ngoài Bắc, tiếng Việt thuần túy, văn hóa, văn chương ... bị thay thế dần bởi Tiếng Vẹm, là ngôn ngữ dành riêng cho chế độ Cộng Sản, do đảng Cộng Sản đưa vào. Cũng giống như các ngành nghề chuyên môn, mỗi giới thợ thầy đều có nhũng ngôn từ chuyên môn để gọi, viết, nên mới có những quyển tự điển như "khoa học, kỹ thuật, y khoa ... ;". Ngay cả trong giới "anh chị" giang hồ, xã hội đen, cũng có ngôn từ riêng, để đồng bọn dùng trong những việc bất chánh, đó là tiếng lóng, hay mã tự .... đảng Cộng Sản là băng đảng siêu cướp, cướp có chính sách, bài bản, có triết học, luận lý dạy ăn cướp, nên bọn bất lương nầy cũng có tiếng nói riêng, hệ thống hóa thành thứ ngôn ngữ Cộng Sản.

Khi ngôn ngữ của giới ăn cướp quốc tế Cộng Sản, có chính sách, chiêu bài chuyền sang Việt Nam, trở thành tiếng Vẹm, được dựa theo trong kinh điển vô thần của Karl Marx, trích ra từ ba bộ "tà kinh": Duy Vật Biện Chứng, Duy Vật sử quan và Tư Bản Luận.

Những ngôn từ Vẹm được áp dụng trong "mục đích yêu cầu" là làm cách nào để cướp của, giết người có bài bản: "cướp nhanh, giết mạnh, vét sạch, quơ hết ..." nên đây là thứ "ngôn từ khủng bố" của băng đảng cướp, lũ bất lương, mà những kẻ dốt nát hay ít học, sau khi được nhồi sọ nằm lòng, rồi phát ra thành tiếng, không cần phải hiểu ý nghĩa, được đảng Cộng Sản chỉ đạo, thêm quyền hành, quyền lợi, trở thành "robot" giết người, cướp của hàng loạt, giống như những môn sinh phái võ "thần quyền", bình thường không biết võ, nhưng sau khi đọc thần chú, thì bỗng biến thành "cao thủ võ lâm", múa quyền y như võ sư vậy.

Những từ Vẹm được rút ra từ kinh điển Karl Marx như : cách mạng, vô sản chuyên chính, giai cấp tiên tiến, giai cấp tiến bộ, cao trào cách mạng, thoái trào cách mạng, hạ tầng cơ sở, thượng tầng kiến trúc, trung ương đảng, bộ chính trị, tổng bí thư, nhà nước, đấu tranh giai cấp, nhà nước vô sản chuyên chính, xã hội chủ nghĩa, thiên đàng Cộng Sản ... được "bổ sung" với những từ ngữ có "nghiệp chuyên" dùng để kích động hận thù giữa con người trong xã hội, đấu tố, tịch thu tài sản, bắt dân làm nô lệ; từ Vẹm được nhồi nhét từ học đường, xã hội, trong tổ chức bộ đội, công an, xí nghiệp quốc doanh, nông trường, lâm trường .... đâu đâu cũng có những "học tập chính trị", phổ biến chính sách, thảo luận theo kiểu Cộng Sản với lý luận một chiều thường trực, bằng tiếng Vẹm, lối cấu trúc câu của vẹm và ý nghĩa cũng theo "chính sách Vẹm", là cách mà đảng Cộng Sản Việt Nam thực thi đúng theo lời sư phụ Lenin: "tuyên truyền là nói láo, nói láo và tiếp tục nói láo"; khác với truyền thông trung thực: "nói thật, nói hết và nói có sách mách có chứng" nên các cơ quan truyền thông Tây Phương thường được tín nhiệm.

Do đó, người dân sống dưới chế độ Cộng Sản, hay những người có tiếp xúc, quan hệ với người Cộng Sản, về du lịch, gia đình có thân nhân, du học, thường bị lây lan, tiêm nhiễm thứ tiếng Vẹm phổ biến như : động viên, xử lý, chế độ, thời thượng, tình huống, phát hiện, sự cố, cơ sở, cơ bản, cự ly, phản động, phản cách mạng, dân chủ nhân dân, dân chủ tập trung, tư bản phản động, tư duy, chất lượng .... nói đúng hơn là tiếng Vẹm, từ Vẹm, cách dùng từ Vẹm, ý nghĩa chữ Vẹm ... là thứ làm "ô nhiễm tiếng Việt", không khác gì loại khí độc "Dioxine" làm dơ bầu khí quyển, mà các nhà bảo vệ môi sinh lưu tâm đặc biệt trong việc bảo vệ khí thải nhà kín, nhằm ngăn chận trái đất bị hâm nóng dần; nên việc bảo vệ tiếng Việt, chống lại "ô nhiễm" do tiếng Vẹm, là công tác hàng đầu của tất cả những người Việt Nam nào còn tấm lòng: "tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời ..."

Người Cộng Sản vốn là băng đảng cướp, nên tiếng Vẹm được coi là "chất xúc tác" mở đường cho những hành vi bạo ác, gian manh; từ ngữ chính là "lực lượng đặc công văn hóa" mở đường cho những chính sách tuyên truyền của đảng Cộng Sản nhắm vào các đối tượng trong và ngoài nước, được coi là mục tiêu phải lôi cuống, thuyết phục, hù dọa, khủng bố. Khi những nông dân dốt, bọn đầu trộm đuôi cướp thất học, được học thuộc lòng ngôn ngữ Vẹm, trở thành những con vẹt, nói năng ào ào mà không hiểu gì cả, rồi từ đó, ra tay giết người, cướp của, không từ chối gia đình, cha mẹ .... tác động từ Vẹm thật kinh hoàng.

"A.K, mã tấu kẻ kè.
Nói quấy nói quá, chúng nghe rầm rầm"

Người Cộng Sản tự hào ngôn ngữ đặc thù của băng đảng, họ cho tiếng Việt mà dân Việt đang dùng, nhất là hải ngoại, lếu láo là "tiếng Việt cổ, tiếng Việt chết", còn tiếng của đảng cướp là hiện đại, phổ biến, ăn nói ngược ngạo là bản chất của người Cộng Sản. Thật ra thì tiếng Vẹm là ngôn từ riêng của những kẻ bất lương sử dụng với mục đích bất chánh, còn tiếng Việt thể hiện nền văn hóa, phục vụ con người, nhân bản, là chất xúc tác văn học, khoa học, đưa đất nước tiến lên. Tuy nhiên, tiếng Vẹm núp bóng tiếng Việt, cũng như đảng cướp Cộng Sản núp bóng Việt Minh, các nhà "đầu tư Phật giáo, Thiên Chúa Giáo" từ các tiệm Phật, cửa hàng chúa, núp bóng chùa, nhà thờ để làm giàu, thu tiền, phục vụ cho bè cánh, nhất là các "công an, cán bộ" đội lớp tu sĩ nhiều đẳng cấp của các tôn giáo ngày nay. Tiếng Vẹm núp bóng từ tiếng Việt mà lại muốn khống chế, biến tiếng Việt thành công cụ, phục vụ tiếng Vẹm, quả là tai hại lâu dài cho ngôn ngữ quốc gia.

Tiếng Vẹm du nhập từ tà kinh Cộng Sản và ảnh hưởng các nước Cộng Sản đàn anh nên mục đích của thứ ngôn ngữ Vẹm cũng nhằm phục vụ cho một băng đảng, đây không phải là thứ ngôn ngữ phục vụ con người, dân tộc, văn hóa. Tại Việt Nam, sau khi Mao Trạch Đông giúp, "chỉ đạo" cho Cộng Sản Việt Nam đánh thắng trận Điện Biên Phủ, thì tình hữu nghị ban đầu trở nên khắn khít như "răng với môi", nên Hồ Chí Minh không ngần ngại dùng tiếng Vẹm được phiên dịch từ tiếng Tàu, để làm dịu tình hình, đổi tên Ải Nam Quan thành Hữu Nghị Quan, do đó ngay cả y phục, phổ biến là bộ đồ "đại cán" của bọn "đểu cán" Trung Cộng trở thành cái mode "thời trang thời thượng", thế là từ Hồ Chủ tặc đến trung ương, hạ tầng cơ sở, cán ngố, cán dốt .... thi đua may mặc loại y phục "đặc trưng" của loài vượn thành người; ngày nay bộ đại cán vẫn còn được cán ngố, cán ngáo, cán đần, cán ác ... yêu chuộng. Tiếng Vẹm cũng phải "chuyên chở tình hữu nghị răng môi" mới "đời đời bền vững". Rồi vì thấy quan thầy Liên Sô hùng mạnh, nên Hồ lơ là với Trung Cộng, từ tình "hữu nghị Việt Trung đời đời bền vững, môi hở ranh lạnh" được kinh qua sang thời kỳ "quá độ": "tình hữu nghị Việt Trung như dùi đục chấm nước mắm"; thế là Hồ Chí Minh ra lịnh toàn đảng học tập sáng tạo ra tiếng Vẹm "đặc thù" của bọn "đặc đầu bùn", nhằm tạo cho đảng cướp tiếng nói riêng. Thời đó xuất hiện những tiếng lạ như : bộ đội trai, bộ đôi gái, kịch nói, múa rối .....

Tuy nhiên tiếng Vẹm chưa phát huy đúng mức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nên chưa gọi "lính đực, lính cái" là rất hợp với "duy vật biện chứng" của tổ sư Karl Marx. Thủy Quân Lục Chiến là tiếng của "phản động" được đổi thành "NÍNH Thủy đánh bộ", trực thăng là "máy bay NÊN thẳng", hàng không mẫu hạm thành TÀU MẸ CHỞ TÀU CON (chắc là từ cái tư tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh, nên sau nầy cán ngố gọi cà phê phin là CÁI NỒI NGỒI TRÊN CÁI CỐC), văn sĩ thành nhà văn, thi sĩ thành nhà thơ; còn họa sĩ thì chưa có "chế độ thay đổi" thành "nhà vẽ", cũng là thiếu sót lớn; còn ca sĩ cũng chưa được Vẹm hóa thành NGƯỜI HÁT, nhạc sĩ là NGƯỜI VIẾT NHẠC, NGƯỜI ĐỜN. Trong tiến trình xây dựng và phát triển tiếng Vẹm "theo định hướng xã hội chủ nghĩa", Hồ Chí Minh chỉ thị cho gã môi Vẩu Phạm Văn Đồng, là "thủ tướng không người lái", nặn óc khỉ, động cu, động dái, viết ra quyển sách tựa đề: "Hãy giữ gìn và phát huy sự trong sáng của tiếng Việt"; đúng ra là tiếng Vẹm, vì tên Đồng Vẩu muốn núp bóng tiếng Việt để làm bình phong "giải phóng" tiếng Việt thành tiếng Vẹm, mượn tiếng Việt để phát triển tiếng Vẹm, song hành với việc tiêu diệt tiếng Việt, thật là thâm độc; không khác gì đảng vô thần đã và đang sử dụng đám tu sĩ quốc doanh, tiếm danh, bề nguồn qua việc thành lập các giáo hội thân nhà nước để tiêu diệt các tôn giáo trong và ngoài nước.

Tiếng Vẹm chính là kẻ nội thù nguy hiểm nằm trong tiếng Việt, hàng ngày đụt khoét như thứ sâu mọt, không khác gì "chùm khế ngọt đang bị sâu mọt ăn bên trong" làm khế bị hư và không ăn được. Nhưng chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hòa thì đảng Cộng Sản Việt Nam chưa "Vẹm hóa", rập khuôn theo tiếng Tàu là: "ngụy quyền, ngụy quân", thật là bậy bạ, không theo đúng chính sách, nhất là "tư tưởng Hồ Chí Minh dạy đĩ". Ngay cả tên gian ác như Hồ Chí Minh, khi nhắc đến quân lực VNCH là rét, kính trọng, không dám kêu "ngụy quân", chính hắn nói với đàn em, cùng các đồng chí cật ruột rằng: "Mỹ thua về Mỹ, anh em Binh Sĩ về đâu ?", chớ nào dám kêu ngụy như đám đàn em, đệ tử sau nầy. Thế mà sau nầy, khi cướp chính quyền miền Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975, đàn em của Hồ lại hỗn láo, dám kêu là "ngụy quân", tức là không "nàm theo nời Bác dạy", vậy mà còn lếu láo hô hào học tập cái gọi là : "tư tưởng Hồ Chí Minh". Ngày nay, đảng Cộng Sản cử một số linh mọp gốc công an, sang các cộng đồng Công Giáo hải ngoại để thu tiền bằng các chiêu bài như: từ thiện, xây nhà thờ, dựng thánh giá, làm tượng chúa .... đã bị bể mánh khi gọi những con chiên đóng tiền là "Ngụy", như vậy là các linh mọp nầy chưa "quán triệt tư tưởng và lời dạy của chủ tịt Hồ Chí Minh" để làm công tác tôn giáo vận. Dù một số từ ngữ "bành trướng Bắc Kinh" được Vẹm hóa, nhưng các "đỉnh cao trí tệ nòi người" vẫn còn giữ một số tinh hoa của quan thầy: người Việt nói cái nhà, thì tiếng Vẹm gọi là HỘ, CĂN HỘ, từ đó có HỘ KHẨU là lý do mà công an, cán bộ địa phương vin vào đó để đòi vàng, tiền, nếu muốn có hộ khẩu hợp lệ; khi sinh đẻ gọi là HỘ SẢN, nhưng bịnh Viện Bảo Sanh gọi là XƯỞNG ĐẺ, khi ai muốn đi ra nước ngoài có Hộ Chiếu.

Tiếng Vẹm ngoài những "đỉnh cao trí tệ" ngôn từ, còn có lối diễn đạt ý nghĩa, đúng như bản chất của thứ tiếng dành riêng cho bọn cướp: đi ăn chực gọi là ĐOÀN KẾT, tịch thu tài sản nhân dân gọi là HIẾN, giết người cướp đất gọi là CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT, ăn cướp gọi là làm CÁCH MẠNG, người giàu gọi là TƯ SẢN, nên từ đó mới có chiến dịch ăn cướp ở thành thị, gọi là ĐÁNH TƯ SẢN, nhà tù gọi là CẢI TẠO, biểu tình gọi là PHẢN ĐỐI TẬP THỂ, phạm tội tham ô bị đưa làm vật tế thần để bao che gọi là VI PHẠM HÀNH CHÁNH, LỢI DỤNG CHỨC VỤ (như vụ chìm xuống PUM18 và mới đây vụ PCI), cướp tiền gọi là XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, kích động hận thù trong xã hội cho là ĐẤU TRANH GIAI CẤP, làm đĩ không công gọi là LÀM HỘ LÝ, đi ăn cắp là CẢI HOẠT, chôm chĩa là CẢI THIỆN, tham nhũng gọi là QUAN HỆ XẤU..... còn rất nhiều tiếng Vẹm khác, như gọi Radio là ĐÀI, cái bao đựng Radio là VỎ ĐÀI (từng làm nhiều người dân miền nam không hiểu khi những cán ngố mới từ rưng núi vào). Ở các trại tù, cán ngố quản giáo lần đầu vào Nam làm việc, khi nhìn thấy tù thăm nuôi, có lạp xưởng, thì "nấy nàm nạ nắm" hỏi: "con gì đỏ choét, không đầu không đuôi ?". Khi nhìn thấy phim Tây có màn "thương nhau lắm, cắn lưỡi nhau lâu", được những nhà "văn hóa tiếng Vẹm" gọi là "BÚ MỒM" cũng giống như trẻ bú vú, heo bò con bú vú mẹ nhưng hình như họ chưa có từ ngữ "trong sáng tiếng Vẹm" để gọi "Bốn Lù" cũng là dạng ngôn ngữ thuộc loại bình dân học vụ hay xài để "phản ánh" cái "sự cố" gây nhiều tranh cãi nhất thế gian.

Ngày nay, tiếng Vẹm đang bước sang giai đoạn "tạp nhạp", tức là những nhà "đỉnh cao cháy rụi" văn hóa, thuộc hàng: "dốt như chuyên tu, ngu như tại chức" trong đội ngũ "tiến sĩ Cầu Muối" hay là "khoa bảng bến xe, kỷ thuật chuyên gia bến tàu" và các "nhà báo tiên tiến của hơn 600 tờ báo" với công thức : "nhà nước quản lý, đảng lãnh đạo, nói láo để lập công", đã và đang biến chế thành Vẹm từ mới. Như động thái, đặc tình, đạo cụ, lao cải, giao hợp, điều kinh, điều phối, cơ chế khiến cho tiếng Vẹm càng khó hiểu, nên những người từng học tiếng Việt, khi nghe tiếng Vẹm, cũng cần phải có "thông ngôn" kế bên để nắm vững; chớ tiếng Vẹm có nhiều "cạm bẫy" nên cũng gạt được nhiều người ngây thơ.

Tiếng Vẹm là "đỉnh cao trí tệ" nên chỉ có giới bất lương, đầu trộm đuôi cướp xài, dần dà lan ra dân chúng, làm "ung thối" một số tiếng Việt. Một số người tỵ nạn, tình cờ hay cố ý (gián điệp) mang theo hành trang tha hương những thứ tiếng Vẹm và một số cơ quan truyền thông do người Việt tỵ nạn chủ trương, cũng quảng bá tiếng Vẹm một cách rộng rãi trong các bài báo, đài phát thanh, truyền hình ngay trong sinh hoạt, những người về du lịch, du học sinh, gia đình thăm viếng đã và đang nói tiếng Vẹm, là thứ nọc độc cần phải bỏ càng sớm càng tốt, để tiếng Việt được bảo tồn. Gần mực thì đen, nói tiếng Vẹm dễ bị ảnh hưởng thành "con vẹt", nên các cơ quan truyền thông nên bỏ loại ngôn từ có "nghiệp chuyên" lừa đảo, khủng bố, hầu cho tiếng Việt được sạch sẽ, để mai nầy mang về rửa loại tiếng Vẹm, làm cho xã hội rối loạn, ung thối nền tảng đạo lý. Phạm Quỳnh nói một câu chí lý: "Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn", thi ngày nay: "đảng cướp Việt Cộng còn là còn tiếng Vẹm". Nguyễn Văn Vĩnh cho là: "An Nam ta cái gì cũng cười, hay cũng hì, dở cũng hì ..." và tiếng Vẹm cũng có sự kiện: "Tiếng Vẹm cái gì cũng CHẾ ĐỘ, chính trị cũng chế độ, ăn uống cũng chế độ, giá biểu hàng hóa cũng chế độ ..." đây là thứ CHẾ ĐỘ lạm phát trong một chế độ phi nhân.

Tiếng Vẹm là thứ ngôn ngữ của băng đảng bất lương, có "nghiệp chuyên" cướp của, giết người, kích động thù hận, chém giết nhau ... nên tốt nhất là đưng nên đọc bất cứ sách báo nào xuất bản tại nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nghe, xem truyền hình Việt Cộng và các cơ quan truyền thông tỵ nạn hãy cố gắng gạn lọc những "cặn bã" của tiếng Vẹm trước khi phổ biến với quần chúng, là một trong những cách để bảo tồn văn hóa dân tộc, ngăn chận nọc độc ngôn ngữ Vẹm. Nếu các cơ quan nào vẫn cố tình dùng tiếng Vẹm thay tiếng Vẹm trong công tác truyền thông, thì rõ ràng đây là "cơ sở" của Vẹm được cài sang hải ngoại để làm công tác đầu độc ngôn ngữ, hầu dọn đường cho tiếng Vẹm nhuộm đỏ cộng đồng, đánh tan tiếng Việt trong sáng.

Trương Minh Hòa


Tuesday, March 3, 2009

Thông Báo biểu tình chống văn hóa vận của việt gian csVN - CĐNVTD NSW Australia

THÔNG BÁO
BIỂU TÌNH CHỐNG VĂN HÓA VẬN CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM

Nghị quyết số 36 của Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN ban hành ngày 26/3/2004, đã ghi rõ là nhà nước CSVN chủ trương tổ chức cho các đoàn nghệ thuật ra nước ngoài biểu diễn phục vụ cộng đồng.

Chương trình văn nghệ “Mr Dam & Friends” nằm trong âm mưu văn hóa vận của nhà nước CSVN, nhằm lôi kéo và đồng hoá những người đi xem trình diễn là chấp nhận chế độ CSVN, hầu gây chia rẽ và làm xáo trộn cộng đồng của chúng ta.

Chiếu theo quyết định cuộc họp mở rộng của CĐNVTDUC/NSW vào ngày 21 tháng 2, tại Trung Tâm Văn Hoá và Sinh Hoạt Cộng Đồng; thay mặt Ban Tổ Chức Biểu Tình chống văn hóa vận của Cộng Sản Việt Nam, chúng tôi xin trân trọng thông báo và kính mời quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, quý vị đại diện các hội đoàn, đoàn thể và toàn thể quý đồng hương cùng nhau tham dự cuộc biểu tình với những chi tiết như sau:
    Địa điểm:
    Pyrmont Bay Park
    Đối diện Star City Casino
    Góc đường Pirrama Rd và Jones Bay Rd
    Gần ga xe lửa: Central Station và Townhall Station

    Ngày giờ: Chủ Nhật ngày 15, tháng 3, 2009
    Từ 1:00 giờ chiều đến 4:00 giờ chiều
Chúng ta nhất quyết tẩy chay các buổi trình diễn này, và cùng nhau tham dự biểu tình thật đông đủ chống lại âm mưu văn hoá vận, qua nghị quyết 36; để nêu cao lý tưởng của Cộng Đồng Người Việt Tự Do , và chứng tỏ chúng ta không chấp nhận chế độ CSVN.

Xin lưu ý chúng ta tập trung tại Pyrmont Bay Park đối diện Star City Casino, và sẽ không đi vào Casino để tỏ thái độ dứt khoát là chúng ta tuyệt đối không chấp nhận quyết định của Star City Casino cho đoàn văn công tuyên truyền cho chế độ CSVN trình diễn ngay trong Star City Casino.

Xin trân trọng thông báo và kính mời

Sydney ngày 23 tháng 02 năm 2009
TM/BCH/CĐNVTD/NSW
Chủ Tịch

LS Võ Trí Dũng

Monday, March 2, 2009

Xài ghế của Tàu sản xuất, có ngày ghế nổ ... lủng dzít !!

Boy Killed Anally When Office Chair Explodes

IN China, a fourteen-year- old boy was killed when chair he was sitting on exploded.

Parts of the chair entered the boy’s rectum. The result was extensive bleeding. And it killed him.

The killer chair is a gas cylinder type, of the type seen at computer work stations. In blue.

The height is altered by an adjustable cylinder containing highly pressurised gas. It is this that exploded.

In 2007 another chair exploded, propelling a 20cm part into the backside of a 68-year-old man. He lived.

Made in China. Buyer beware…



http://i.gizmodo.com/5157354/boy-killed-anally-when-office-chair-explodes