Saturday, January 31, 2009

Trò bịp mới của đám dân chủ cuội bát nháo - Trần Thanh


Trần Thanh

Tùng xèng, tùng xèng; tùng xèng tùng xèng, lùng tùng xèng!!! Mại dzô, mại dzô, quán thịt dê THỨ THIỆT mới khai trương bà con ơi. Bảo đảm thịt dê thứ thiệt! Có cả huyết dương tửu, ông lão tám mươi tuổi mà uống vô là "dựng cờ" tại chỗ! Có em út miệt vườn phục vụ tới bến. Giá cả phải chăng. Quán ăn chúng tôi do các đầu bếp có trên ba mươi năm kinh nghiệm phụ trách, lừng danh khắp năm châu bốn bể. Sau đây chúng tôi xin xướng danh "đại hội đồng" đầu bếp để đồng bào biết rõ mà ủng hộ:

- Bếp trưởng Nguyễn Ðan Quế & Trần Khuê và các phó đầu bếp Ðỗ Nam Hải, Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Chính Kết, Phan Văn Lợi!!!

Vừa bước vào năm mới Kỷ Sửu 2009, đám dân chủ cuội trong và ngoài nước đã tưng bừng khai trương cửa tiệm "THỊT DÊ", quảng cáo tưng bừng hoa lá, mời gọi khách hàng đến thưởng thức. Một cái đầu dê to tổ bố, quay vàng khè, bay mùi ngũ vị hương thơm phức treo ngay trước tiệm, trông thật là hấp dẫn. Bảng quảng cáo ghi rất rõ: "Ðây là thịt dê THỨ THIỆT" do các đầu bếp trứ danh đảm nhiệm như: Toàn, Quế, Khuê, Hải, Lợi, Kết. Giá cả rất "mềm", bất cứ người bình dân nào cũng có thể đến nhậu; đặc biệt khi nhậu xong, nếu khách hàng muốn có tiết mục "mát xa", sẽ được các em thôn nữ miệt vườn "THỨ THIỆT" đấm bóp cho tới bến!

Quán thịt dê hấp dẫn quá phải không các bạn! Vậy chúng ta thử tìm hiểu nó một cách cặn kẽ xem đó là thịt dê hay là ... THỊT CHÓ!

Trước hết cái thực đơn mà các đầu bếp dọn cho chúng ta có một cái tên nghe dài thoòng như khúc .... buồi pín: - "Tuyên bố chung đầu năm Kỷ Sửu đưa đất nước thoát vòng nô lệ cộng sản" (Có đăng trên báo điện tử VietNam Exodus, số thứ ba, ngày 27 tháng Giêng, 2009)

Nhìn chung, bản tuyên bố này không có gì là mới. Nó chỉ là những điệp khúc lừa bịp cũ rích mà trước đây đám dân chủ cuội thường tung ra để đánh lạc hướng, lèo lái phong trào đấu tranh của người Việt trong và ngoài nước đi ... xuống hố, vô hiệu hóa cuộc đấu tranh của chúng ta. Nó chính là viên thuốc độc bọc đường, mang tên "CÁCH MẠNG NHUNG", không cần đổ máu mà vẫn .... thắng lợi! Trước đây, chủ nghĩa "Cách Mạng Nhung" đã từng được những con rắn chúa như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Dương Thu Hương, Alibaba Nguyễn Chí Thiện tích cực quảng bá. Bây giờ lại đến cái đám phường chèo bát nháo, toàn những tên điếm lác, ma cô cò mồi chính trị mà thiên hạ đã nhẵn mặt, lại nhảy lên sân khấu, múa may quay cuồng vở tuồng cũ, mang tên mới!

TỰ DO PHẢI TRẢ BẰNG MÁU CHỚ KHÔNG THỂ TRẢ BẰNG NƯỚC BỌT!

Câu này thoạt nghe có vẻ cực đoan nhưng sự thật nó là như vậy. Ðừng vội bàn chi đến những việc cao xa như tự do, dân chủ, nhân quyền, hiến pháp hay tam quyền phân lập,chúng ta cứ lấy một ví dụ thật đơn giản như sau:

- Giả sử một gia đình đang sống hạnh phúc trong một căn nhà. Một hôm họ bị bọn cướp đến cướp nhà và tống cổ họ ra ngoài đường. Bây giờ gia đình ấy muốn đòi lại căn nhà đã bị cướp thì họ phải làm cách nào? Có những cách sau đây:

1. Quỳ lạy, năn nỉ bọn cướp, xin bọn chúng động lòng từ bi hỷ xả mà trả lại căn nhà cho họ.

2. Dùng biện pháp "thương lượng", đến để thuyết phục, khuyên nhủ bọn cướp trả lại nhà cho họ.

3. Vận động hàng xóm lên tiếng nói, gây áp lực khiến bọn cướp phải trả lại nhà.

4. Ðấu tranh bằng những hành động cụ thể, mạnh hay yếu tùy thời cơ, tùy trường hợp để lấn chiếm, giành lại căn nhà từng phần rồi tiến đến giành lại toàn bộ tài sản đã bị cướp.

Phương pháp 1 và 2 là cạm bẫy của bọn việt gian cộng sản, thông qua các tổ chức đấu tranh cuội trong và ngoài nước để lèo lái phong trào đấu tranh của chúng ta đi xuống hố. Những cạm bẫy này thường mang những mỹ từ nghe rất kêu, rất cao đẹp, chẳng hạn như: - cách mạng nhung; đấu tranh ôn hòa, bất bạo động trong khuôn khổ tôn trọng luật pháp ..v..v..

Ðấu tranh mà quỳ lạy, năn nỉ, van xin hay thương lượng là đấu tranh ngu! Không thể gọi đó là "đấu tranh" được! Bên cạnh củ cà rốt, chúng ta phải có cây gậy. Nếu nói lời phải trái không nghe thì chúng ta đập! Ðã gọi là bọn cướp rồi thì chúng làm gì có lương tâm, có lòng từ bi hỷ xả mà van xin, năn nỉ? Ðặc biệt đây là băng đảng cướp có tầm vóc quốc tế gồm hơn ba triệu tên chớ không phải là một vài tên cướp cạn, chuyên đi giựt bóp, giựt đồng hồ ở ngoài chợ! Bọn chúng là bọn cướp nước, đã cướp hàng chục triệu căn nhà của chúng ta và bắt cầm tù hơn 80 triệu dân từ hơn 60 năm nay. Với số tài sản đã cướp, với tài nguyên thiên nhiên sẵn có và với hơn 80 triệu nô lệ thì đây là một cái mỏ vàng có thể khai thác hầu như vô tận, không bao giờ cạn! Từ thế hệ ông cố nội năm 1945 cho đến thế hệ cháu chắt sau này đều phải được sinh ra để làm nô lệ, nuôi báo cô bọn cướp! Cứ thế mà đảng cướp bóp cổ, khai thác "mỏ vàng"! Tài nguyên thiên nhiên thì cũng có thể gọi là vô tận vì cây rừng chặt phá đem bán thì lứa cây khác lại mọc lên, dầu thô dưới biển có thể khai thác cho đến khi trái đất đến ngày tận thế!

Có khi nào bọn cướp tình nguyện trả lại tài sản cho chúng ta không? Ðây là điều hoang tưởng, chỉ có những người bị bệnh tâm thần mới tin tưởng như vậy! Cái đám dân chủ cuội ma trơi đang cấy con chíp điện tử HOANG TƯỞNG đó vào đầu óc của những người ngây thơ về chính trị!

Ðấu tranh chính trị, trong hoàn cảnh đất nước ta, không thể là hình thức đấu tranh "con khóc mẹ cho bú". Ðứa bé nó khóc, nó giận lẫy, nó áp lực người mẹ phải chiều nó vì nó biết chắc người mẹ thương nó. Trong khi đó, mối quan hệ giữa 85 triệu dân và đảng việt gian cộng sản là mối quan hệ giữa CHỦ NÔ và NÔ LỆ. Hai mối quan hệ này rất khác xa. Và xin đừng nhầm lẫn với mối quan hệ giữa người dân và chính quyền ở các nước dân chủ, ví dụ như tại nước Mỹ hoặc Canada. Người dân tại hai quốc gia này là những người có thực quyền. Một khi họ bất mãn, lên tiếng nói thì BẮT BUỘC chính quyền phải lắng nghe. Nếu không nghe thì a lê hấp, họ sẽ dùng lá phiếu của họ để truất phế!

Do đó, trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay, muốn giành lại tự do thì phải đổ mồ hôi và xương máu. Ðổ máu nhiều hay ít thì tùy tình hình và thời cơ nhưng chắc chắn là phải có đổ máu. TỰ DO không bao giờ khơi khơi từ trên trời rớt xuống cho chúng ta được hưởng. Và chắc chắn là không bao giờ chúng ta giành được tự do nhờ ... nước bọt, hơặc nhờ họp hội nghị Tiểu Diên Hồng như tên dân chủ cuội lưu manh Hoàng Minh Chính đã đề xướng. Tự do cũng không bao giờ có nhờ những bản Tuyên ngôn hay Tuyên cáo. Bọn việt gian cộng sản không sợ những thứ đó. Bọn chúng chỉ sợ những hành động cụ thể của chúng ta đánh đúng điểm, đúng huyệt và sợ những phong trào hành động nhất loạt của quần chúng, đấu tranh một cách có hiệu quả và đúng phương pháp. Ví dụ như những cuộc đấu tranh của giáo dân Hà Nội, Thái Hà, đòi lại đất, đòi lại tòa Khâm Sứ. Tuy bọn cướp tạm thời "chiến thắng" nhưng không có nghĩa là phong trào đấu tranh sẽ dừng lại tại đó mà nó sẽ tiếp tục bùng lên vào những dịp khác dưới nhiều hình thức khác nhau. Từng người trong chúng ta phải tích cực xắn tay áo mà có những HÀNH ÐỘNG cụ thể, đánh đổi máu của chúng ta lấy hai chữ TỰ DO. Một khi có tự do thì chúng ta sẽ có tất cả, cũng ví như khi chúng ta đã lấy lại được căn nhà thì chúng ta có thể tân trang, sửa chữa lại tất cả theo ý chúng ta mong muốn.

Chúng ta hãy nhìn tấm gương của những người dân oan đấu tranh đòi lại nhà đất. Hàng núi đơn từ đã được gởi đi, kể cả gởi ra nước ngoài để nhờ quốc tế can thiệp. Ðó là đấu tranh về mặt pháp lý. Mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn, trong sự uất ức tột cùng, nhiều người đã dám đổ xăng lên người để tự thiêu, nhiều người đã dám chửi thẳng vào mặt bọn công an ngay trước họng súng của bọn chúng, và có những người đã dám tụt quần, cởi truồng 100% trước những trụ sở trung ương của bọn việt gian cộng sản, kêu réo tên những thằng lãnh đạo cao nhất ra mà chửi. Họ có sợ chết đâu và nhiều người đã bị công an đánh đổ máu và đi tù! Họ đã đấu tranh bằng những hành động cụ thể, bằng máu và nước mắt. Vậy mà bọn cướp vẫn chưa hề nhân nhượng một chút xíu nào thì thử hỏi cái đường lối đấu tranh bằng nước bọt, đấu tranh bằng "tiểu diên hồng", đấu tranh "hòa bình, bất bạo động"; nói tóm gọn là đấu tranh bằng "VAN XIN" thì sẽ làm được cơm cháo gì?

TREO ÐẦU DÊ NHƯNG BÁN THỊT CHÓ!!!

Cái trò lập lờ đánh lận con đen này tuy đã xưa nhưng nó vẫn lừa bịp được rất nhiều người!

Xin đưa ra một vài ví dụ cụ thể trong đời sống:

- Chúng ta thường thấy những cửa tiệm treo bảng "Sale 50%" (đại hạ giá 50%) Ví dụ một cái quần jean giá 80 đô, bây giờ đại hạ giá 50%, chỉ còn có 40 đô, ai mà không ham! Nhưng nếu ta để ý nhìn cho kỹ cái bảng quảng cáo thì thấy bọn lưu manh ghi là "Sale up to 50%" Hai chữ "up to" in nhỏ xíu, còn hai chữ "Sale 50%" thì in thật lớn! Như vậy có nghĩa là không phải bất cứ món hàng nào cũng tự động được giảm giá 50%. Mọi món hàng có thể được giảm giá từ 5% cho đến 15%, thỉnh thoảng mới có một vài món đồ rất cổ lổ xỉ, mà bọn gian thương biết chắc chắn không ai mua, ví dụ như con gấu nhồi bông lớn bằng cái bàn, thì được giảm giá 50%!

- Những tờ flyer gởi đến nhà chúng ta với những quảng cáo hết sức béo bở tựa như những món quà của thượng đế ban cho hoặc quà của ông già Noel gởi tặng, với chữ FREE in to tướng! Tuy nhiên, nếu chúng ta đọc kỹ thì có một giòng chữ in nhỏ xíu với dấu hoa thị, tới mức phải rọi kiếng lúp mới thấy, đó là "with some conditions applied", nghĩa là quà "tặng" nhưng phải .... CÓ ÐIỀU KIỆN!!! (toàn những điều kiện chết người!)

- Một tờ flyer của ngân hàng gởi đến nhà chúng ta, quảng cáo lãi xuất chỉ có 1.99% và đặc biệt chỉ đại hạ giá trong vòng 30 ngày, nếu không điền đơn ngay thì hết hạn, bị mất cơ hội bằng vàng. Tờ flyer còn dặn dò: -nên nhớ, ngân hàng chỉ "làm phước" có một lần duy nhất này mà thôi! Tuy nhiên, nếu chúng ta đọc cho kỹ tờ flyer thì thấy rằng lãi xuất 1.99% là lãi xuất trong MỘT THÁNG, tức gần tương đương 24% một năm, một lãi xuất cắt cổ mà kẻ nào dại dột đút đầu vào là từ chết tới bị thương!!! Những trò lươn lẹo về chữ nghĩa, treo đầu dê bán thịt chó như vầy đã xảy ra rất nhiều mà trong chúng ta hầu như ai cũng bị lừa bịp ít nhất một vài lần. Chính vì vậy mà chúng ta thường rất cảnh giác về những tờ flyer quảng cáo thương mại. Con chim bị tên rồi thì thấy cành cây cong cũng phải sợ.

Trong lãnh vực chính trị cũng có những sự lừa bịp treo đầu dê bán thịt chó y hệt như trong lãnh vực thương mại và có thể nói là sự lừa bịp còn lớn hơn gấp triệu lần. Ví dụ như toàn dân ta đã bị tên Hồ tặc và bè đảng của hắn lừa bịp từ năm 1945, cho đến nay đã hơn 60 năm mà vẫn chưa thoát ra khỏi gông cùm nô lệ! Vì ngây thơ mà bị mất nước và cũng vì ngây thơ mà bị mua nhầm cái quần jean "đại hạ giá", cái mất mát nào to lớn hơn? Nhưng thật đáng tiếc, nhiều người chỉ cảnh giác trong lãnh vực thương mại mà không cảnh giác trong lãnh vực chính trị. Bản chất lừa bịp của bọn lưu manh trong hai lãnh vực giống hệt nhau!

CÁI ÐẦU DÊ, MÓN QUÀ TẶNG ÐỒNG BÀO NĂM 2009 CỦA HAI TÊN BỊP NGUYỄN ÐAN QUẾ VÀ TRẦN KHUÊ:

Trong danh sách đầu bếp, Quế và Khuê được xếp vào loại "đại ca" vì bề dày thành tích lừa bịp trong hơn 20 năm nay. Trước đây, Hoàng Minh Chính là trùm sò nhưng từ khi Chính đi "thăm bác" thì Quế và Khuê đương nhiên trở thành hai vì .... "sao khuê" trong giới xã hội đen lừa bịp chính trị!!! Sau đây chúng ta hãy nhận xét những điểm chính mà bọn chúng đã nêu ra trong bản Tuyên Bố Chung (cái đầu dê):

1. Bản Tuyên Bố Chung viết: -Muốn thoát khỏi tình trạng nô lệ thì chỉ có một con đường DUY NHẤT, đó là DÂN CHỦ HÓA đất nước. Và muốn dân chủ hóa thì phải dựa vào ba nguyên tắc:

- Dân chủ hiến định

- Tự do và nhân quyền

- Thăng bằng và kiểm soát

Nhận xét điểm 1:

Trước hết chúng ta thấy nhóm chữ (việt cộng gọi là "cụm từ"!) "dân chủ hóa đất nước" là không ổn. Sự lừa bịp, trí trá, lươn lẹo về chữ nghĩa nằm ngay ở đây!

Trong tiếng Việt của chúng ta, khi chúng ta dùng chữ "hóa", một dạng như một tiếp vĩ ngữ (suffix) thì có nghĩa là một vấn đề gì đó được nâng lên một bình diện cao hơn, tổng quát hơn. Ví dụ như:

- Việt Nam hóa chiến tranh: Khối đồng minh gồm các nước như Mỹ, Úc, Nam Triều Tiên, Tân Tây Lan, Thái Lan cùng với Việt Nam Cộng Hòa chống cộng nhưng sau này thì khối đồng minh rút lui để một mình VNCH đảm nhận cuộc chiến, tất cả đều do người Việt Nam.

- Khái quát hóa vấn đề: một vấn đề gì đó chỉ được mô tả trong một phạm vi hạn hẹp, ví dụ những hòa đồng giữa những cá nhân trong một gia đình, bây giờ chúng ta khái quát hóa vấn đề, nâng lên ở một phạm vi lớn hơn là sự hòa đồng giữa những cá nhân hay những nhóm người trong xã hội.

Như vậy, khi chúng ta dùng tiếp vĩ ngữ "hóa" là chúng ta nâng một vấn đề gì lên một bình diện ở mức độ cao hơn, tổng quát hơn, trên căn bản một vấn đề gì ÐÃ CÓ SẴN. Nhóm chữ "dân chủ hóa" đất nước có nghĩa là trong đất nước đã có sẵn một phần nào "dân chủ", bây giờ cần phải thực hiện dân chủ toàn diện trên toàn đất nước! Tức là cái chế độ của bọn việt gian cộng sản nó đã có sẵn cái mầm mống "tốt" rồi,(ví dụ là 5%) bây giờ chỉ cần phát huy cái hạt nhân tốt đó lên 100% cho toàn dân được nhờ! Ðiều này có nghĩa là không cần phải hủy diệt cái chế độ cộng sản mà chỉ cần canh tân, tân trang và sửa ... sắc đẹp thì Thị Nở sẽ biến thành .... hoa hậu thế giới! Ðiều này có nghĩa là vẫn cứ duy trì đảng cộng sản, cứ để cho nó được tiếp tục sinh hoạt và tồn tại! Và điều này cũng có nghĩa là tất cả bọn cướp và những tài sản của bọn cướp vẫn phải được duy trì và tồn tại!

Cái điểm lưu manh, lừa bịp mấu chốt nó nằm ngay trong ba chữ "DÂN CHỦ HÓA"!

Ðây là một hình thức kêu gọi "hòa hợp hòa giải" trá hình, nghĩa là cả hai phe quốc gia và cộng sản cùng tồn tại, cùng chia nhau quyền hành để cùng lãnh đạo đất nước! Nếu chúng ta nhốt chung hai con rắn hổ mang và con thỏ vào chung một chuồng để cả hai cùng "sống chung hòa bình" thì kết quả sẽ ra sao nhỉ!!!???

Thực tế cho chúng ta thấy rằng cái chế độ cộng sản hoàn toàn không có một chút xíu dân chủ nào hết và cũng không có bất cứ một điểm tốt nào! Chế độ của bọn chúng như vậy và cái đảng cướp của chúng cũng như vậy, và từng thằng đảng viên trong đảng cướp cũng như vậy! Dùng nhóm chữ "dân chủ hóa" tức là gián tiếp khen ngợi, nâng bi và "thổi kèn" cho bọn việt gian cộng sản! Có khác gì nhóm chữ "Việt Nam canh tân cách mạng đảng", ý muốn nói rằng: cái chế độ cộng sản tự bản thân nó đã tốt rồi, bây giờ chỉ cần ... canh tân cho nó tốt hơn mà thôi! Tuy nhiên, "canh tân" và "cách mạng" lại chỏi nhau về bản chất, vừa tân trang lại vừa đập phá toàn diện. Chỉ có những thằng đại ngu mới đặt ra cái tên đảng quái gỡ như vậy!!!

Thêm một trò lưu manh nữa là nhóm chữ "con đường DUY NHẤT là Dân Chủ Hóa đất nước". Nghĩa là, chỉ có ... hòa hợp hòa giải là number one mà thôi, không chấp nhận làm cách mạng lật đổ chế độ cộng sản! Nếu chúng ta đổ rất nhiều xương máu và công lao để đấu tranh, để rồi cuối cùng đạt được kết quả là biến thành con thỏ sống chung trong chuồng với con rắn hổ mang (hòa hợp hòa giải) thì đấu tranh làm quái gì! Ðó là hình thức tự sát!

Mục tiêu đấu tranh của chúng ta là đòi hai chữ TỰ DO. Có tự do là chúng ta sẽ có tất cả, chẳng hạn như có:

- nhân quyền, hiến pháp, dân chủ, tam quyền phân lập và nhiều quyền tự do khác dành cho công dân trong một quốc gia. Thậm chí, ... cẩu quyền cũng có nữa!

Hai chữ "tự do" là một đề mục lớn, trong đó bao gồm nhiều đề mục nhỏ. Có tự do thì sẽ có nhân quyền. Không có tự do thì không thể có nhân quyền. Chúng ta không thể nói ngược ngạo rằng có nhân quyền nhưng không có tự do!

Tự Do đẻ ra nhân/dân quyền.

Nhân/dân quyền đẻ ra Dân chủ hiến định (Hiến pháp)

Dân chủ hiến định đẻ ra Thăng bằng và kiểm soát (Tam quyền phân lập)

Những cái đầu dân chủ cuội ngu dốt soạn thảo ra cái bản Tuyên Bố Chung, xếp Tự do và Nhân quyền vào nguyên tắc số 2, chẳng khác gì đem trói voi bỏ rọ, đem con trâu nhét vào cái bao bố đựng cỏ, lòi cái dốt của mình ra!

2. Bản Tuyên Bố Chung viết: -Ðấu tranh đòi tự do ngôn luận, bao gồm đòi tự do báo chí, thông tin, internet và xuất bản. Tư nhân phải được tự do ra báo, được làm chủ các cơ sở phát thanh, truyền hình ..v..v..

Nhận xét điểm 2:

Tên thủ tướng việt cộng Nguyễn Tấn Dũng đã công khai tuyên bố: KHÔNG BAO GIỜ cho phép tư nhân ra báo. Tự do ra báo đã bị cấm nghiêm ngặt thì các phương tiện truyền thông quan trọng khác như truyền thanh và truyền hình làm sao được bọn chúng cho phép?

Do đó, không thể nào "ÐÒI" mà có được những quyền này! Ðảng việt gian cộng sản đâu phải là người mẹ hiền mà chúng ta có thể chơi trò "con khóc mẹ cho bú"? Chỉ còn cách là tiến hành ra báo và làm những đài phát thanh bất hợp pháp, đồng thời tiến hành làm cách mạng lật đổ bạo quyền để chiếm lấy chính quyền, đem lại tự do cho 80 triệu nô lệ!

Ðấu tranh bằng cách "đòi" là không khá rồi. Người dân đã "đòi" những cái quyền rất sơ đẳng của con người cách đây đã 60 năm rồi mà còn chưa được, ví dụ như đòi lại căn nhà hương hỏa đã bị trưng dụng làm kho chứa lúa cho hợp tác xã ..v..v.. Nói tóm tắt, tự do của chúng ta là vấn đề sống chết, người Mỹ gọi là life-and-death. Ngày nào bọn việt gian cộng sản còn nắm quyền thì ngày đó toàn dân ta còn làm nô lệ. Phải đào lỗ chôn toàn bộ bọn chúng chứ không phải loại bỏ bọn chúng ra khỏi guồng máy chính quyền là đủ. Phải đập chết con rắn hổ mang chớ không phải đuổi nó đi, lỡ có ngày nó sẽ quay lại cắn chúng ta chết!

3. Bản Tuyên Bố Chung viết: -Dùng quyền tự do ngôn luận để vận động, đòi hỏi tổ chức bầu cử quốc hội mới dưới sự giám sát của quốc tế để bảo đảm tính tự do và công bằng.

Nhận xét điểm 3:

Truyền thông tư nhân đã bị cấm thì quyền tự do ngôn luận trở nên vô dụng. Giả sử có quyền tự do ngôn luận thì bất quá người dân chỉ được ngồi đấu láo, tán phét và "đòi" ở các quán cà phê mà thôi, làm sao chuyển đạt nguyện vọng của mình đến toàn dân trong nước, để vận động toàn dân trong nước cùng lên tiếng đòi dân chủ, nhân quyền?

Ðiểm A không làm được thì hệ quả tất yếu điểm là B và điểm C cũng không được. (bầu cử quốc hội mới và quốc tế giám sát)

Nếu bọn việt gian cộng sản đã bị tiêu diệt và những tên đầu sỏ bị đưa ra tòa xét xử và bị treo cổ như tên độc tài Sadam Hussein, nghĩa là con rắn độc đã bị đập nát đầu rồi thì chúng ta không cần phải mời quốc tế tới giám sát! Những tên dân chủ cuội bày ra cái trò "quốc tế giám sát", nghĩa là bọn chúng muốn hàm ý rằng đảng cộng sản vẫn còn đang nắm quyền!

Giả sử có quốc tế tới giám sát việc bầu cử quốc hội mới thì bọn việt gian cộng sản, KHÔNG CẦN GIAN LẬN, vẫn thừa sức thắng trong cuộc bầu cử! Ðảng Cộng sản là đảng có trên ba triệu đảng viên. Chỉ cần một tên đảng viên cộng sản vận động được hai hoặc ba người bỏ phiếu cho đảng của chúng thì bọn chúng sẽ có cả thảy mười triệu phiếu bầu! Chúng ta ước lượng rằng có khoảng 30 triệu cử tri trong lứa tuổi từ 18 đến 99 tuổi! Như vậy sơ sơ bọn chúng đã chiếm được một tỷ lệ khoảng 30% trong tổng số cử tri! Trong khi đó những đảng khác có được bao nhiêu đảng viên? Ðảng Thăng Tiến? Khối 8406? Còn những đảng mới được thành lập, không có phương tiện truyền thông trong tay để tự quảng cáo cho mình thì toàn dân làm sao biết mà bỏ phiếu ủng hộ?

Bọn giặc không cần gian lận vẫn thừa sức thắng trong cuộc bầu cử quốc hội mới, huống chi từ trước đến nay bọn chúng luôn luôn ma giáo, dùng đủ mọi thủ đoạn để lừa bịp! Một trăm phái đoàn quốc tế tới giám sát cũng vô ích. Chúng ta biết đã có nhiều phái đoàn quốc tế tới điều tra những vụ tham nhũng, để rồi cuối cùng đi đến kết luận là "không có tham nhũng"!!!

Do đó, bày ra cái trò bầu cử quốc hội mới với sự giám sát của quốc tế chỉ là một trò hề, một khi bọn việt gian cộng sản vẫn còn đang nắm quyền! Không lẽ súng đạn, nhà tù nó đang có sẵn trong tay mà nó lại chịu ngoan ngoãn nằm im để cho người dân đến trói tay, trói chân và tước khí giới của nó?

4. Bản Tuyên Bố Chung viết: - Khi hiến pháp mới có hiệu lực, vai trò độc quyền lãnh đạo của đảng Cộng sản và tổ chức phụ thuộc như Mặt trận Tổ quốc đương nhiên chấm dứt. Ðảng Cộng sản sẽ tự định đoạt số phận của mình: giải tán hay sinh hoạt như một trong các chính đảng khác. Ðảng phái chính trị được tự do thành lập.

Nhận xét điểm 4:

Như đã trình bày ở các điểm nêu trên, ngay cả những điều nhỏ nhặt nhất là một cái nhà, một miếng đất của người dân oan mà bọn cướp còn không nhượng bộ, không chịu trả thì làm sao chúng cho phép tư nhân ra báo, làm chủ các đài phát thanh và truyền hình? Những điều kiện quan trọng nhất cần phải có để làm thay đổi chế độ đều bị ngăn cấm thì việc "đòi bú" trở nên vô ích! Ví dụ, muốn làm bánh mì thì tối thiểu trước tiên chúng ta PHẢI CÓ BỘT MÌ. Nếu chỉ có nước lã, có củi, có lò nướng, có nhân công mà không có BỘT MÌ thì chỉ ngồi trơ mắt ếch!

Vậy thì cái gọi là "hiến pháp mới" chỉ là một trò hề, có nằm mơ cũng không bao giờ có! Nó chỉ là một cái bánh vẽ do những tên dân chủ cuội lưu manh, cò mồi như Nguyễn Ðan Quế và Trần Khuê nặn ra để lèo lái cuộc đấu tranh của chúng ta đi xuống hố thẳm!

Bọn cò mồi còn viết tiếp rằng: -đảng Cộng sản sẽ tự định đoạt số phận của mình bằng cách tự giải tán hay sinh hoạt như một trong những chính đảng khác. Ðây là cái trò gỡ tội cho bọn việt gian cộng sản. Ðảng việt gian Cộng sản và toàn bộ bọn đảng viên của chúng là một tập đoàn tội phạm có tội với dân tộc và lịch sử. Bọn chúng phải bị đưa ra trước pháp luật để xét xử. Những tên đầu sỏ phải bị tử hình hoặc tù khổ sai chung thân. Toàn bộ tài sản ăn cướp của bọn chúng phải bị tịch thu và trao trả lại cho người dân và các tôn giáo. Những tên đảng viên tội nhẹ thì cũng phải bị xét xử theo pháp luật và bị tước quyền công dân, vĩnh viễn không bao giờ được hoạt động chính trị nữa. Cái đảng Cộng sản phải bị xóa sổ vĩnh viễn, không bao giờ được tái thành lập dù dưới bất cứ hình thức nào. Nó còn tệ hại gấp triệu lần những đảng phái của bọn khủng bố hoặc những đảng cướp "đầu lâu máu" trong truyện trinh thám mà chúng ta từng đọc!

Chúng ta cứ nhìn trong xã hội mà chúng ta đang sống: - ví dụ một bác sĩ vô ý làm chết bệnh nhân (dù là vô ý), có thể bị kỷ luật treo bằng bác sĩ vĩnh viễn! Huống chi là bọn tội phạm đảng viên việt gian cộng sản đã giết hại hàng mười triệu người thì vẫn tiếp tục nhởn nhơ sống trên núi tiền, núi vàng mà chúng đã ăn cướp, và vẫn tiếp tục được sinh hoạt đảng bình thường như các đảng phái chính trị khác! Người dân có thể chấp nhận được điều này hay sao? Công bằng ở đâu và công lý ở đâu? Ðó là chưa kể đến yếu tố BẢN CHẤT của bọn tội phạm là VIỆT GIAN. Ai trong chúng ta cũng hiểu rằng VIỆT GIAN tức là đi LÀM TAY SAI CHO NGOẠI BANG, cụ thể là làm tay sai cho bọn đế quốc Nga và Tàu và nhiều thế lực khác trên thế giới. Bọn chúng không phải là người Việt Nam. Bọn chúng ăn cơm gạo của Việt Nam, hít thở không khí, uống nước nguồn của đất nước chúng ta nhưng lại chính là những kẻ đem toàn bộ đất nước chúng ta và dân tộc chúng ta dâng cho ngoại bang!

Ðã là việt gian rồi thì làm gì có quyền công dân? Ðã không có quyền công dân thì đương nhiên không được quyền bầu cử và ứng cử. Ðảng việt gian cộng sản đương nhiên sẽ bị xóa sổ, vĩnh viễn không bao giờ được tham gia vào bất cứ một sinh hoạt chính trị nào nữa. Chưa bị toàn dân treo cổ là may rồi!

Do đó, không thể nào chúng ta cho phép bọn việt gian cộng sản được tiếp tục sinh hoạt đảng cộng sản, một khi chính quyền của bọn chúng bị sụp đổ. Những kẻ có tội phải bị trừng phạt chớ không phải vẫn tiếp tục nhởn nhơ sống phè phỡn trên đống vàng ăn cướp! Nước Mỹ là một nước tự do, cho phép người dân được tự do thành lập đảng phái chính trị. Nhưng liệu luật pháp nước Mỹ có chấp nhận cho phép thành lập một đảng phái chính trị mà mục tiêu của đảng này là ... khủng bố, chuyên đi ám sát hoặc đặt bom, giết hại thường dân?

Những tên tội phạm việt gian cộng sản gộc, sau khi chế độ cộng sản bị sụp đổ, cho dù bọn chúng có trốn ở bất cứ nước nào trên thế giới, cũng sẽ bị dẫn độ về nước để xét xử, kể cả khi chúng đã được nhập quốc tịch, ví dụ như Mỹ, Canada, Úc. Trước đây báo chí đã loan tin, có một vài trường hợp những tên tội phạm Ðức Quốc Xã thay đổi danh tánh, nhập quốc tịch Canada, Hoa Kỳ và một vài nước ở Nam Mỹ nhưng đã bị phát hiện. Những tên này lập tức bị tước bỏ quốc tịch và bị tống cổ ra khỏi nước, mặc dù lúc ấy bọn chúng đã trên 80 tuổi! Một trường hợp điển hình nhất là tên Bùi Ðình Thi, tội phạm giết người, làm tay sai cho cộng sản, đã bị tòa án Mỹ tước bỏ quốc tịch và tống cổ về Việt Nam!

Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng lưới trời lồng lộng, bọn gian ác không thể nào chạy đâu cho thoát! Hễ ai đã gây ra nghiệp chướng thì phải lãnh nhận lấy hậu quả. Bọn việt gian cộng sản nên nhớ: - không phải bọn chúng bay tự định đoạt số phận của chúng bay đâu, mà toàn dân sẽ định đoạt!

5. Bản Tuyên Bố Chung viết: Quốc hội mới sẽ ban hành hai đạo luật giải quyết oan ức và nghiêm cấm trả thù.

5.1: - Giải quyết những oan ức được tính ngược thời gian kể từ vụ Cải cách ruộng đất cho đến ngày đảng Cộng sản bị giải tán. Nhà nước sẽ phục hồi danh dự và bồi thường cho các nạn nhân.

Nhận xét điểm 5.1:

Giải quyết những oan ức thì tốt nhưng cái vụ bồi thường cho các nạn nhân thì lấy cái gì để bồi thường? Cho dù có gom hết ngân sách quốc gia của tất cả các nước trên thế giới cũng không đủ để bồi thường! Trong suốt 60 năm tai họa, số người bị bọn việt gian cộng sản giết chết khoảng 10 triệu người. Số nạn nhân còn đang sống, thân tàn ma dại, sống như những con chó đói khoảng 20 triệu! Và hầu như trong thành phần dân nghèo khố rách áo ôm, khoảng 70% dân số, ai cũng là nạn nhân của cái chế độ hung tàn, bạo ngược, không bị hút máu thì cũng bị hút xương tủy!

Cho nên mấy tên dân chủ cuội chỉ viết Bản Tuyên Bố Chung để lòe bịp và mị dân. Bản thân bọn chúng cũng là thành phần tội phạm. Những kẻ ủng hộ, bao che cho bọn cướp đôi khi tội ác còn lớn hơn cả bọn cướp!

5.2: - Nghiêm cấm việc trả thù vì lý do chính trị.

Nhận xét điểm 5.2:

Chúng ta không trả thù hèn hạ như bọn việt gian cộng sản đã từng làm nhưng chúng ta phải đưa ra tòa xét xử những thành phần tội phạm chiến tranh, những kẻ tội đồ của dân tộc và nhất là những kẻ đi làm tay sai cho bọn việt gian cộng sản. Những tên dân chủ cuội đi bưng bô cho giặc, luôn luôn tìm cách bao che, chạy tội cho giặc cũng phải được xem như thành phần tội phạm.

NHỮNG CÂU VĂN SÁO RỖNG, DỐT NÁT, MỊ DÂN:

Bản Tuyên Bố Chung viết: - Ðồng bào hải ngoại .... vận động dư luận quốc tế lên án và làm áp lực buộc cộng sản phải tôn trọng dân chủ và nhân quyền của nhân dân Việt Nam.

Nhận xét:

Giả sử bọn giặc có thành tâm hối cãi và thật sự muốn tôn trọng dân chủ và nhân quyền của người dân thì bọn chúng cũng không thể nào làm được! Vì sao? Bởi vì bộ máy cai trị của bọn chúng do chế độ cộng sản và tên Hồ tặc thiết kế ra nhằm để bóc lột người dân chớ không phải để phục vụ dân. Cái cơ chế đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân "làm chủ" cũng tương tự như cái máy chém đầu tội nhân. Nó được thiết kế ra để chém đầu người. Bây giờ nếu quốc tế muốn nó "đấm bóp" để phục vụ người dân thì nó chịu chết! Chỉ có nước quăng nó vào sọt rác để thiết kế cái máy mới. Thậm chí cũng không thể "canh tân" hay tân trang nó thành cái máy đấm bóp được!

Ở Mỹ và Canada, khi người dân quan tâm đến một vấn đề gì, họ có rất nhiều phương cách để nêu lên tiếng nói của họ. Cách phổ biến nhất là họ trực tiếp gọi điện thoại đến các đài phát thanh hoặc truyền hình, thông qua chương trình "Tiếng nói của dân", sau đó đài truyền hình sẽ chuyển đạt ý kiến của người dân đến chính quyền. Tôi nhớ, có lần khi giá xăng bỗng nhiên tăng cao, trong chương trình tin tức hàng ngày, mục "Tiếng nói người dân", có nhiều mụ đàn bà Mỹ đã giận dữ gọi vào đài xỉ vả, nguyền rủa chính quyền Mỹ, chửi từ ông bộ trưởng chửi xuống! Thậm chí, nhiều mụ còn ... văng tục xả láng! Bằng chứng là giọng nói của mụ thường xuyên bị tiếng "bleep"* ngắt quãng! Giá xăng tăng cao, túi tiền của dân nghèo bị hao hụt nhiều thì người dân trút hết tất cả những sự tức giận của họ lên chính quyền, chửi thẳng từ .... tổng thống Mỹ chửi xuống! Tôi không thể nào quên được những giọng gầm giận dữ như sư tử Hà Ðông của những mụ đàn bà Mỹ qua điện thoại:

- Good-for-nothing guys! Resign! You'll never get my vote next time!

(Những thằng ăn hại. Từ chức đi! Lần tới đừng hòng bà bỏ phiếu cho mày nữa!)

- I don't want my tax-money spent for the wrong guys!

(Bà không muốn đem tiền thuế của bà trả lương cho mấy thằng ăn hại!)

Ðiều làm tôi ngạc nhiên là số phụ nữ tham gia vào chương trình "Tiếng nói người dân" có vẻ nhiều hơn nam giới, và họ góp ý trong nhiều mục từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục ..v..v.. Ðặc biệt là trong mục thể thao, số nữ giới cũng tham gia rất nhiều, gần ngang ngửa với nam giới. Mấy mụ cũng tham gia bình luận búa xua về các môn thể thao "hạng nặng" như đô vật, quyền anh, cho đến các môn thể thao như bóng chày, bóng rổ, hockey ..v..v..

Người dân Mỹ không những chỉ trích chính quyền, chửi thẳng những "đầy tớ của nhân dân" mà còn đe dọa cho "đầy tớ" về vườn bằng lá phiếu của họ! Những vị dân cử như thị trưởng hay nghị viên khi nghe những lời đe dọa "bất tín nhiệm" của người dân là họ lo sợ thật sự, sợ đến ... vãi đái chớ không phải chuyện đùa! Dân nó không tín nhiệm, nó không bỏ phiếu cho mình nữa thì sẽ mất chức, mất job; như vậy là thấy cái viễn ảnh ... đói tới nơi rồi! Ðâu dễ gì kiếm được một cái job béo bở làm ..."đầy tớ cho nhân dân"!

Trong khi đó thì tại nước Cộng Hòa Xã Nghĩa Việt Nam, người dân có uy quyền như dân Mỹ hay không? Chắc chắn là không thể có cái màn cho phép dân đen gọi điện thoại vào đài truyền hình "lói xấu đảng và nhà lước" rồi! Giả sử như có thì chỉ là một màn hài kịch rẻ tiền, bởi vì toàn bộ những góp ý của dân đen sẽ bị đảng ném vào sọt rác! Những con khỉ đột "đầy tớ của nhân dân" vẫn cứ tiếp tục ngồi lì ra đó như tên Phạm Văn Ðồng, làm thủ tướng liên tiếp hơn 30 năm! Người nô lệ Việt Nam không thể dùng lá phiếu của họ để truất phế những thằng "dân cử" bất tài, tham nhũng. Tất cả những cuộc bầu cử bỏ phiếu trong chế độ cộng sản đều chỉ là những trò lừa bịp rất trơ trẽn, đáng ghê tởm! Và người dân phải chịu cái cảnh này trong suốt hơn 60 năm qua, không biết đến khi nào họ mới được quyền đàng hoàng sống như một con người??????

Nói tóm tắt, khi đấu tranh, chúng ta vận động quốc tế gây áp lực với bọn giặc là để làm bọn chúng bối rối và suy yếu. Ðây chỉ là chiến thuật để chuẩn bị dẫn đến chiến lược thanh toán dứt điểm kẻ địch. Chiến lược của chúng ta là phải xóa bỏ vĩnh viễn cái chế độ cộng sản hung tàn, bạo ngược. Trong khi đó, mục tiêu chính của Bản Tuyên Bố Chung chỉ là "vận động", "kêu gọi", "đòi hỏi", theo đúng như công thức đấu tranh "tiểu diên hồng" của tên bịp Hoàng Minh Chính hoặc của Ðỗ Nam Hải, thuộc đảng Việt Tân!

Bản Tuyên Bố Chung viết: - Khi vai trò của Bộ chính trị bị tê liệt, là lúc toàn dân có thể sử dụng tự do ngôn luận để đòi tách mọi hoạt động của đảng ra khỏi chính quyền, quốc hội và tòa án.

Nhận xét:

Một khi đảng cộng sản vẫn còn đang nắm giữ quyền lực thì không bao giờ người dân có thể "đòi" được bọn chúng phải tách ra khỏi chính quyền, quốc hội và tòa án. Cái bộ máy cai trị của nó đã được thiết kế như vậy thì chỉ có nước đập nát bộ máy đó đi và thay vào một máy hoàn toàn mới. Ví dụ như chúng ta muốn chiếc xe đạp chạy nhanh bằng xe Honda thì chúng ta không thể .... đổ xăng vào chiếc xe đạp! Chỉ còn cách vứt chiếc xe đạp đi và mua chiếc xe gắn máy hoàn toàn mới!

Muốn diệt cộng sản hoặc bắt chúng phải nghe theo chúng ta thì chúng ta phải có sức mạnh. Sức mạnh bằng đình công, sức mạnh bằng áp lực kinh tế, sức mạnh bằng áp lực quốc tế, sức mạnh của truyền thông ..v..v.. Nếu chỉ "đòi" bằng lời nói hoặc thỉnh nguyện thư thì vô dụng.

Cái trò hề "đòi tách đảng ra khỏi chính quyền" của gã đối lập cuội Nguyễn Ðan Quế rất rẻ tiền và kém thông minh vô cùng!

KẾT LUẬN:

Vở tuồng "Tuyên bố chung đầu năm Kỷ Sửu" do hai kép chánh già nua là Nguyễn Ðan Quế và Trần Khuê cùng một số đào kép rẻ tiền đồng diễu nhưng diễu quá dở, không lôi cuốn được ai. Nhìn sơ qua danh sách, chúng ta thấy toàn là những tên hề chính trị rẻ tiền mà đồng bào trong và ngoài nước đã nhẵn mặt. Nội dung vở tuồng cũng chỉ là trò hề lươn lẹo chữ nghĩa, nói vòng vo Tam Quốc cho ra vẻ có bay mùi đấu tranh chính trị nhưng thực ra chỉ nhằm một mục đích duy nhất: -BƯNG BÔ CHO VIỆT CỘNG và KHÔNG MUỐN CHO CHẾ ÐỘ VIỆT GIAN CỘNG SẢN BỊ SỤP ÐỔ!!!

Cái bọn hàng thần lơ láo này mà đấu tranh cái gì? Bọn chúng không bao giờ muốn chế độ việt gian cộng sản bị sụp đổ, bởi vì chúng là những con ký sinh trùng chuyên sống bám vào những đống rác. Nếu cái đống rác chủ nghĩa cộng sản bị dẹp bỏ thì chúng sẽ chết đói! Ðó là lý do vì sao bọn chúng luôn tìm cách bào chữa rất khéo léo cho chế độ việt gian cộng sản: - nào là canh tân, nào là hiến pháp mới, nào là quốc hội mới, nào là tam quyền phân lập, nào là "đòi", nào là "hỏi", nào là "bất bạo động" ..v..v..

Chúng ta hãy nhìn kỹ, kể từ năm 1990, Cao Trào Nhân Bản của ông Quế được thành lập thì ông đã đấu tranh được cái gì có lợi cho dân, cho nước? Ông đã kêu gọi việt kiều đổ tiền về nước thật nhiều, đầu tư để đánh bại nền kinh tế quốc doanh của việt cộng! Ðúng là lời kêu gọi chết người! Trong khi các tổ chức đấu tranh đang kêu gọi làm cách mạng lật đổ chế độ cộng sản thì ông lại kêu gọi làm ... cách mạng giáo dục! Ông luôn luôn đóng vai Lê Lai cứu chúa, tìm cách kéo dài sự sống cho cái chế độ tàn ác nhất trong lịch sử loài người! Ông đã viết nhiều bài "chửi" cộng sản nhưng đọc kỹ thì bay mùi ... bưng bô nồng nặc!

Nói tóm lại, bọn chúng là một gánh phường tuồng diễu dở. Nếu nhìn qua khía cạnh tiệm ăn, bán thịt dê thì xin quý đồng bào nên coi chừng: - chỉ có cái đầu dê treo lủng lẳng quảng cáo trước tiệm là thật thôi, còn thịt bán trong tiệm là thịt chó ... điên! Ai mua nhầm về ăn sẽ phải vô nhà thương điên Biên Hòa rất sớm!

Trần Thanh

Ngày 28 tháng Giêng năm 2009

Chú thích: *Tiếng "bleep" dùng để kiểm duyệt, xóa bỏ những tiếng chửi thề.


THÀNH KÍNH PHÂN ƯU


THÀNH KÍNH PHÂN ƯU


Vô cùng thương tiếc:
Anh Thomas Trần Văn Trọng
(Thi Sĩ Trần Việt Yên)
Một chiến sĩ dân chủ kiên cường
đã được Chúa gọi về
ngày 26 tháng 1 năm 2009
(tức mồng 1 năm Kỷ Sửu)

Thành kính phân ưu cùng tang quyến, và nguyện cầu cho linh hồn chiến hữu Thomas sớm về cõi Thiên Đàng trong nước Chúa.


http://www.blogger.com/profile/04107701539821903195

Tiểu sử:
Trần Việt Yên.
Sinh quán: làng Trung Lai, Huyện Việt Yên, Tỉnh Bắc Giang. * Lấy sinh quán Việt Yên làm bút danh. Cựu giáo chức. * Cựu Sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị /QLVNCH. * Tù Cộng sản 6 năm rưỡi. * Định cư Hoa Kỳ năm 1995 . * Sáng lập mục “Thơ Đâm” trên tuần báo Quê Hương, San Jose. Hoa Kỳ (1997 - 1999). * Sáng lập, biên tập viên chương trình phát thanh Lương Tâm Công Giáo. Hoa kỳ (2001 - 2006 ). * Thành viên uỷ nhiệm điều hành trang mạng: Http://www.tdngonluan.com * Biên tập Viên Chương trình phát thanh Tự Do dân Chủ, yểm trợ khối 8406 ( 7/2007 đến nay) * Tổng thư Ký Thi Văn Đoàn Bốn Phương.



Sunday, January 25, 2009

Trận Chiến Khe Sanh - Linh Vũ


Linh Vũ

Trong một tuần qua trên các báo chí cũng như những diễn đàn đều có post bài dịễn văn nhậm chức của Tổng Thống Barack Hussein Obama thứ 44 của Hoa Kỳ trong đó ông đã nhắc đến điạ danh "Khe Sanh" vùng cực Bắc Nam Việt. Địa danh Khe Sanh không chỉ có những người lính của hai miền Nam Bắc Việt Nam biết đến mà hầu như những cựu chiến binh Hoa Kỳ đã từng tham chiến ở VN đều không thể quên được trong suốt hơn 42 năm qua. Trận chiến Khe Sanh một trong những trận chiến lớn nhất thế giới ngang tầm vóc với các trận như Concord, Gettyburg và Normandy. Một điạ danh nơi đèo heo hút gió đã viết đậm nét trong trang quân sử Hoa Kỳ và Quân Lực VNCH.

Khe Sanh như thế nào mà bài diễn văn nhậm chức của Tổng Thống Hoa kỳ phải nhắc đến và người Việt chúng ta khi nghe đến điạ danh đó đều bùi ngùi xúc động. Và trong những bài dịch, một số dịch gỉa không biết vô tình hay cố ý đã bỏ sót điạ danh ‘ Khe Sanh’ đã làm cho nhiều người trong cộng đồng bất mãn. Sau đây tôi xin mượn bài viết của Phạm Cường Lễ ‘ Khe Sanh 77 ngày trong năm 1968’ để chúng ta nhìn lại trang sử Việt và cho những ai chưa từng biết Khe Sanh là gì có cơ hội tìm hiểu Khe Sanh như thế nào?

1. Khe Sanh Bẩy Mươi Bẩy Ngày Trong Một Nghìn Chín Trăm Sáu Mươi Tám

KHE SANH ... một địa danh đèo heo hút gió ở vùng cực bắc Nam Việt Nam cách vùng Phi Quân Sự 14 miles (23 km) về phía Nam, và 6 miles (10 km) về phía Đông của vương quốc Làọ Nếu không có chiến tranh, nét yên tĩnh và phong cảnh nơi đây có thể sẽ được kể là một trong những gì đẹp nhất trên lãnh thổ Việt Nam. Nhưng kể từ tháng 5 năm 1959, nét an lành của thiên nhiên tại nơi này bắt đầu bị giao động. Năm đó, bộ đội Bắc Việt thiết lập hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh để khởi động công cuộc xâm lăng miền Nam . Lúc ấy, Khe Sanh chưa phải là căn cứ hay tiền đồn. Nhưng vì nằm gần biên giới và giáp ranh Đường Số 9 --trục lộ giao điểm của ba quốc gia Nam Việt, Bắc Việt, Lào-- nên Khe Sanh đã nghiễm nhiên trở thành một trong những cứ điểm quan trọng nhất trên bản đồ của cuộc chiến Việt Nam.

Đến 1967, các hoạt động của Cộng quân quanh vùng này bắt đầu gặp nhiều khó khăn. Quân đội Hoa Kỳ tăng cường quân số ở vùng nàỵ Họ tu bổ để Khe Sanh để trở thành một tiền đồn kiên cố. Khe Sanh nằm sát biên giới Việt-Lào, cạnh bên Quốc Lộ 9, án ngữ cửa ngõ xâm nhập của Bắc Việt vào Nam Việt Nam ở tỉnh Quảng Trị. Khi Hoa Kỳ tăng cường lực lượng quân sự để giữ Khe Sanh, tướng Võ Nguyên Giáp của Bắc Việt đã có kế hoạch bao vây để biến nơi này thành Điện Biên Phủ của người Mỹ.

Năm 1968, Khe Sanh trở thành một địa danh nổi tiếng nhất nhì thế giới. Nhưng đó chẳng phải vì nổi tiếng qua phong cảnh đẹp nhất, khí hậu trong lành nhất, hoặc có du khách ngoại quốc đến thăm nhiều nhất. Khe Sanh thật sự đã nổi tiếng vì có nhiều trận đánh lớn xảy ra tại vùng này trong hai năm 1967 và 1968.

Một Nghìn Chín Trăm Sáu Mươi Tám là thời điểm mà Khe Sanh được nhắc nhở đến nhiều nhất. Đó là thời điểm của Trận Chiến Tết Mậu Thân khi Việt Cộng mở chiến dịch tổng tấn công trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòạ Trong chiến dịch này, 20,000 bộ đội Bắc Việt đã được huy động để bao vây 6,000 Thủy Quân Lục Chiến cùng khoảng 200 tay súng Biệt Đong Quân miền Nam. Nhưng Khe Sanh đã chẳng thất thủ. Trận chiến trận kéo dài 77 ngày với Cộng quân hứng chịu hơn 10,000 tổn thất.

Nằm trên một vùng cao nguyên rộng lớn, bao quanh bởi núi đồi và cây rừng trùng điệp, Khe Sanh là một căn cứ quân sự vô cùng quan trọng ở tỉnh Quảng Trị. Năm 1962, căn cứ này được Lực Lượng Đặc Biệt Mũ Xanh (Green Berets) Hoa Kỳ xử dụng đầu tiên làm nơi xuất phát các phi vụ thám thính đi sâu vào vùng đất Lào. Vị trí chiến lược của Khe Sanh do đó đã gây nhiều trở ngại lớn lao cho công cuộc xâm lăng miền Nam của Cộng Sản Bắc Việt.

Năm 1966, Bắc Việt phản ứng mạnh mẽ bằng cách dùng trọng pháo bắn vào Khe Sanh. Cũng trong năm này, Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ có mặt tại Khe Sanh để canh gác và ngăn chận các cu ộc xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) từ bên Làọ Giữa năm 1967, nhiều vụ chạm súng lẻ tẻ xảy ra quanh khu vực. Rồi sau đó là các trận chiến lớn dành giật những ngọn đồi được kéo dài đến gần cuối tháng 1 năm 1968 thì chiến trường bùng nổ dữ dộị Ba sư đoàn chính quy Bắc Việt bao vây, pháo kích, và dùng chiến thuật xa-luân-chiến đánh Khe Sanh trong 77 ngàỵ Như đã nhắc đến ở phần trên, quân Bắc Việt bị đại bại với từ 10,000 đến 13,000 cán binh tử thương (Tom Carhart: Batles And Campaigns In Vietnam, tr.130). Trong khi đó, lực lượng trú phòng Khe Sanh chỉ bị thiệt hại nhẹ. Hoa Kỳ có 199 binh sĩ Mỹ chết và 1,600 bị thương. Về phía Việt Nam Cộng Hòa, tổn thất gồm 34 quân nhân tử trận và 184 thương binh (Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-75, tr.175).

MẶT TRẬN VÙNG KHE SANH NĂM 1967

Vào tháng 3 năm 1967, căn cứ Khe Sanh được phòng thủ vỏn vẹn chỉ bởi một đại đội Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Lúc đầu, hỏa lực tại đây chỉ gồm một pháo đội 105 ly, 2 khẩu 155 ly, cùng 2 súng cối loại 4.2 inch. Lực lượng yểm trợ gồm một đại đội Địa Phương Quân (ĐPQ) và một toán TQLC Hoa Kỳ đóng ở làng Khe Sanh (ngôi làng này cũng tên là Khe Sanh) cách căn cứ chỉ hơn 2 miles (3.5 km). Và tất cả đều được yểm trợ bởi các khẩu pháo binh 155 ly và 175 ly ở hai căn cứ hỏa lực Carroll và Rock Pile gần đó.

Ngày 24 tháng 4 năm 1967, một toán Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ bất ngờ đụng độ với bộ đội Bắc Việt ở một địa điểm về phía Bắc của Đồi 861. Sau đó tinh tình báo cho biết quân chính quy Bắc Việt đã tập trung đông đảo quân số về vùng này. Các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến lập tức được lệnh tăng cường cho Khe Sanh.

Ngày 25 tháng 4, Tiểu Đoàn 3/3 (đọc là "Tiểu Đoàn 3 thuộc Trung Đoàn 3") TQLC Hoa Kỳ đến Khe Sanh. Sang ngày hôm sau, Tiểu Đoàn 2/3 TQLC lập tức tăng cường. Sang đến ngày 27, Pháo Đội B thuộc Tiểu Đoàn 1/12 Pháo Binh có mặt tại căn cứ.

Ngày 28 tháng 4 năm 1967, sau khi được pháo binh yểm trợ, Tiểu Đoàn 2/3 TQLC Hoa Kỳ tiến chiếm Đồi 861. Cùng lúc đó, Tiểu Đoàn 3/3 cũng mở cuộc tấn công lên Đồi 881. Đây là những cụm đồi nằm gần Khe Sanh, và đã được quân đội Hoa Kỳ chọn làm những tiền đồn bảo vệ căn cứ. Trong những ngày tiếp đến, lực lượng Cọp Biển Hoa Kỳ lần lượt chiếm hết những cao điểm lân cận: đó là các ngon đồi 861, 881-Bắc, và 881-Nam.

Ngày 13 tháng 5/1967, Đại Tá J.J. Padley nhậm chức chỉ huy trưởng căn cứ Khe Sanh, thay thế Đại Tá J.P. Lanigan. Lúc đó, lực lượng phòng thủ được tăng cường thêm 3 tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 26 TQLC để thay thế cho Trung Đoàn 3. Trong khi ấy, từ 24 tháng 4/1967 đến 12 tháng 5/1967, bộ đội Bắc Việt tiếp tục công kích với nhiều màn chạm súng lẻ tẻ. Các vụ đụng độ này đã gây tử thương cho 155 binh sĩ Hoa Kỳ, nhưng quân Bắc Việt bị thiệt hại nặng hơn với 940 cán binh bỏ mạng.

Mùa Hè 1967, sau khi bị thiệt hại nặng trong một thời gian ngắn (từ cuối tháng 4 đến giữa tháng 5), quân Cộng Sản phải tạm ngưng các hoạt động. Áp lực quân sự quanh vùng Khe Sanh giảm sút khá nhiềụ Ngày 12 tháng 8/1967, Đại Tá ẸẸ Lownds được chỉ định thay thế Đại Tá J.J. Padley trong chức vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 26 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tại Khe Sanh. Vì tình hình lúc đó đang lắng diệu, hai trong ba tiểu đoàn TQLC của Trung Đoàn 26 Hoa Kỳ được phép rút khỏi căn cứ. Nhưng tháng 12, Tiểu Đoàn 3/26 nhận lệnh tăng cường cho Khe Sanh. Tinh tình báo cho biết hoạt động của các lực lượng Cộng Sản đã bắt đầu gia tăng quanh vùng nàỵ

TRẬN CHIẾN KHE SANH TRONG NĂM 1968

Đêm 2 tháng 1/1968, gần hàng rào phòng thủ phía Tây Khe Sanh, một toán Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã phục kích và bắn hạ 5 cán bộ Cộng Sản. Giấy tờ tịch thu cho biết họ là những sĩ quan cao cấp Bắc Việt, trong đó có cả một người giữ chức trung đoàn trưởng. Còn hai người kia là cán bộ cao cấp về ngành truyền tin và hành quân. Tình báo Hoa Kỳ lo ngại một lực lượng hùng hậu của Bắc Việt đã có mặt tại vùng này. Khi ấy, Trung Đoàn 26 TQLC tại Khe Sanh lập tức được lệnh phải bổ sung quân số.

Đến ngày 20 tháng 1/1968, một trận đánh dữ dội đã xảy ra trên Đồi 881-Nam (Ghi Chú: Có hai ngọn đồi mang tên "881", một ngọn nằm về hướng Bắc của Khe Sanh, và ngọn kia nằm về hướng Nam. Xem bản đồ). Ngọn đồi này được phòng thủ bởi một cánh quân của Tiểu Đoàn 1/3 TQLC Hoa Kỳ, gồm Bộ Chỉ Huy của Đại Đội M, hai trung đội bảo vệ, và toàn thể lực lượng của Đại Đội K. Trong tài liệu Nam, Vietnam 1965-75, Đại Úy William H. Dabney (đại đội trưởng Đại Đội I) cho biết đại đội của ông chỉ huy có vài khẩu bích kích pháo 81 ly, 3 đại bác 105 ly, và hai súng không-giật 106 ly.

Lúc trời vừa sáng còn dầy đặc sương mù, một toán quân của Đại Đội I lục soát vòng quanh khu vực. Mọi vật trong không gian và thời gian đang lắng đọng yên lành. Nhưng đến trưa khi sương mù tan biến. Nét lặn yên của buổi sáng bị giao động giữ dộị Hai trung đội đi đầu lọt vào ổ phục kích của địch quân. Một rừng đạn đủ loại từ súng cá nhân cho đến vũ khí cộng đồng bay veo véọ Trong vòng chưa đến một phút mà đã có 20 binh sĩ Hoa Kỳ ngã gục. Những người còn lại nằm rạp xuống tránh đạn. Họ vừa bắn trả, vừa gọi máy truyền tin xin hỏa lực pháo binh tiếp cứu.

Các căn cứ hỏa lực quanh vùng lập tức đáp lờị Những khẩu đại bác được quay nòng về hướng Đồi 881-Nam rồi ì ầm tác xạ. Một rừng đạn pháo bay đến cày nát chiến trường. Bom Napalm từ phi cơ không-yểm ném xuống cản được đợt xung phong của Cộng quân. Toán Cọp Biển bị thiệt hại nặng. Họ lui về vị trí cũ trên Đồi 881-Nam.

Trong khi ấy, hai trung đội Thủy Quân Lục Chiến của Đại Đội M/3/26 (đọc là "Đại Đội M thuộc Tiểu Đoàn 3 của Trung Đoàn 26") được trực thăng vận đến Đồi 881-Nam. Toán quân này chuẩn bị hợp sức với Đại Đội I/3/26 để ngày hôm sau mở cuộc lục soát về hướng Đồi 881-Bắc. Theo tài liệu của Khe Sanh Veterans Home Page, cuộc hành quân này đưa đến một vụ đụng độ ác liệt dưới chân Đồi 881-Bắc. Lúc ấy, nương vào hỏa lực phi pháo và không yểm, Đại Đội I/3/26 của Đại Úy Dabney đã đánh cho một tiểu đoàn Cộng quân tan tành manh giáp. Trong trận này, Hoa Kỳ mất 7 người, Bắc quân mất 103 (Khe Sanh Veterans Home Page, Time Line).

Ngày 20 tháng 1/1968, một biến chuyển quan trọng bất ngờ xảy rạ Lúc 2 giờ chiều, một viên trung úy Bắc Việt tên Lã Thanh Tòng thuộc Sư Đoàn 325C đột nhiên ra đầu thú. Trung Úy Tòng cho biết đêm nay Bắc quân sẽ mở cuộc tấn công lên các ngọn Đồi 861 và 881-Bắc. Ngoài ra, người tù binh cũng tiết lộ rằng hai sư đoàn 304 và 325C của Bắc Việt đã vạch sẵn kế hoạch đánh chiếm căn cứ Khe Sanh.

Đúng như lời khai của Trung Úy Tòng, lúc 12 giờ 30 rạng ngày 21 tháng 1/1968, Cộng quân dùng đại bác bắn vào Đồi 861. Trước hết, kho chứa đạn của Thủy Quân Lục Chiến ở trên đồi trúng đạn pháo kích rồi nổ tan. Kế đến, lực lượng Cộng Sản gớm 300 cán binh chuẩn bị xung phong lên đồị Nhưng Đại Đội K/3/26蠄уàbiết trước. Họ gờm súng c hờ đợị Trận đánh kéo dài đến 5 giờ 30 sáng, Cộng quân rút lui để lại 47 xác. Phía bên Đại Đội K/3/26 có một binh sĩ tử trận.

Trong khi ấy ở căn cứ Khe Sanh, quân trú phòng luôn chú tâm theo dõi các diễn biến trên Đồi 861. Khi trận đánh kết thúc gần 6 giờ sáng, họ nghe nhiều tiếng "depart" từ xa vọng lạị Bầu trời đột nhiên đổ cơn mưạ Những hạt mưa to bằng sắt thép với đường kính từ 81 đến 130 lỵ

Khi quả đạnh đầu tiên lao vào căn cứ, những người lính tại Khe Sanh lập tức xuống hầm. Một số khác co lại trong giao thông hàọ Tay họ ôm nón sắt, và miệng đếm theo tiếng nổ của đạn pháo binh. Trong phút chốc, kho chứa đạn khổng lo trong căn cứ với 1,500 tấn đã phát nổ tan tành. Phi đạo ở Khe Sanh với chiều dài 3,900 feet (1,188 m) bị cày xới lung tung, bị rút ngắn lại chỉ còn 2,000 feet (609 m). Thế mà ngày hôm đó một vài chiếc vận-tải cơ của Hoa Kỳ cũng xuống phi đạo để mang các kiện hàng cho binh sĩ ở Khe Sanh.

Ngày 22 tháng 1/1968, tình hình nguy ngập. Tiểu Đoàn 1 TQLC Hoa Kỳ đến tăng cường Khe Sanh. Đây là một đơn vị thuộc Trung Đoàn 9. Họ đã nổi danh trong trận đánh tại Côn Thiện (Cồn Tiên) gần vùng phi quân sự vào năm 1967 vừa qua.

Ngày 26, một lực lượng tăng viện khác được không vận vào Khe Sanh. Đó là Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân của Đại Úy Hoàng Phổ. Đây là một đơn vị bộ chiến già dặn, đầy gan lì và kinh nghiệm của Việt Nam Cộng Hòa. Trách nhiệm của họ là tạo vòng đai phòng thủ tại khu vực ở hướng Đông ở căn cứ Khe Sanh.

CÁC DIỄN BIẾN CHÁNH YẾU TRONG TRẬN CHIẾN TẠI KHE SANH

20 tháng 1 Đụng độ mạnh giữa Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và bộ đội Bắc Việt trên Đồi 881-Nam. Hai bên đều thiệt hại nặng. Trong ngày này, một Trung Úy Bắc Việt ra đầu thú và đã cho biết kế hoạch tấn công của Cộng quân vào căn cứ Khe Sanh.

21 tháng 1 Cộng quân pháo kích vào Khe Sanh. Kho đạn trong căn cứ nổ tung, phi đạo bị hư hạị Đồi 861 bị pháo kích, nhưng các binh sĩ Hoa Kỳ trên đồi đẩy lưi cuộc tấn công của bộ đội Bắc Việt.

22 tháng 1 Căn cứ Khe Sanh được tăng viện bởi Tiểu Đoàn 1/9 TQLC Hoa Kỳ.

26 tháng 1 Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân VNCH của Đại Úy Hoàng Phổ đến Khe Sanh. Đây là lực lượng tăng viện sau cùng trong khoảng thời gian căn cứ bị bao vâỵ

30 tháng 1 Cộng Sản mở chiến dịch "Tổng Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa" trên toàn lãnh thổ Nam Việt Nam. Nhiều thị xã bị tấn công, trong đó có Huế và Saigon là hai thành phố xảy ra những vụ đụng độ lớn nhất.

6 tháng 2 Đêm 6 tháng 1/1968, bộ đội và chiến xa Bắc Việt tấn công Trại Lực Lượng Đặc Biệt ở Làng Vei, cách Khe Sanh 6 miles (10 km) về hướng Tâỵ Ngày hôm sau, Làng Vei thất thủ.

9 tháng 2 Một trận kịch chiến xảy ra trên Đồi 64, quân Cộng Sản để lại 134 xác chết. Phía bên Hoa Kỳ có 26 binh sĩ TQLC tử thương.

11 tháng 2 Hai vận tải cơ C-130 đáp xuống Khe Sanh. Một chiếc nổ tung vì trúng đạn pháo kích. Chiếc còn lại gấp rút được sửa chữa rồi bay "khập khễnh" về phi trường Đ à Nẵng bình an.

21 tháng 2 Bắc Việt tấn công vào vòng đai phòng thủ tại khu vực hướng Đông ở Khe Sanh. Nhưng không chọc thủng được bức tường phòng thủ kiên cố của Biệt Động Quân VNCH.

Tháng 2-3 Từ tháng 2 đến cuối tháng 3, cường độ pháo kích của Cộng quân tại Khe Sanh quá ác liệt. Phương pháp tiếp tế duy nhất là móc các kiện hàng vào những cánh dù rồi thả xuống từ các vận tải cơ trên vòm trờị

23 tháng 2 Cộng quân bắn 1,300 quả đạn đại bác vào Khe Sanh. Trận địa pháo kéo dài 8 tiếng đồng hồ. Mười (10) quân nhân Hoa Kỳ bị thiệt mạng, 51 người khác bị thương.

29 tháng 2 Bộ đội Bắc Việt mở cuộc tấn công ác liệt vào vòng đai phòng thủ ở phía Đông căn cứ, nhưng gặp phải mức kháng cự mãnh liệt của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quâ n. Cả ba đợt xung phong của Cộng quân bị đẩy luị Họ để lại 70 xác chết trên trận địạ

1 đến 15 tháng 4 Ngày 1 tháng 4/1968, cuộc hành quân PEGASUS (của quân đội Mỹ) và LAM SƠN 207 (của quân đội VNCH) được tiến hành. Chiến dịch kết thúc vào ngày 15 tháng 4/1968. Căn cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải tỏa.

Tổn Thất: Hoa Kỳ: 199 tử thương, 1,600 bị thương, Việt Nam Cộng Hòa: 34 tử thương, 184 bị thương, Cộng Sản Bắc Việt: 10,000 đến 13,000 tử thương.

Lúc ấy, ngoài 6,000 TQLC Hoa Kỳ và một tiểu đoàn thiện chiến Biệt Động Quân Việt Nam, Khe Sanh lại được phòng thủ bởi hỏa lực pháo binh riêng biệt gồm một pháo đội súng cối 106 ly, 3 pháo đội đại bác 105 ly, và một pháo đội đại bác 155 ly. Về thiết giáp, Khe Sanh có 5 xe tăng loại M-48 và 2 chi đoi chiến xa M-50 Ontos với 6 khẩu đại bác 106 ly trên mỗi chiếc. Về hỏa lực yểm trợ quanh vùng, Khe Sanh nằm trong tầm tác xạ của 4 pháo đội đại bác 175 ly từ căn cứ Rock Pile và 3 pháo đội 175 ly từ căn cứ Carroll.

Phía bên kia, lực lượng Cộng Sản cũng hùng hậu không kém. Tướng Võ Nguyên Giáp lúc ấy nắm trong tay ít nhất 3 sư đoàn. Ngoài ra, ông còn có thêm một số đơn vị biệt lập hỗ trợ khác. Các đơn vị Cộng Sản được ghi nhận như sau:

Sư Đoàn 325C CSBV đóng quân về phía Bắc của Đồi 881 Bắc
Sư Đoàn 304 CSBV (xuất phát từ bên Lào) đóng quân về phía Tây Nam của Khe Sanh
Một trung đoàn thuộc Sư Đoàn 324 CSBV đang có mặt ở gần vùng phi quân sự, cách Khe Sanh 15 miles (24 km) về hướng Tây Bắc
Sư Đoàn 320 CSBV giữ vị trí về phía Bắc của căn cứ hỏ a lực Rock Pile
Ngoài ra, Cộng Sản huy động thêm một đơn vị Thiết Giáp với chiến xa T-54 cùng hai trung đoàn 68 và 164 Pháo Binh
Ngày 30 tháng 1/1968, Cộng Sản phát động chiến dịch Tổng Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa (thường được gọi là cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân) trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Tại những thành phố lớn, các đơn vị Việt Cộng cố các trận đánh lớn để gây tiếng vang. Nhưng gần Khe Sanh, tình hình tương đối yên tĩnh. Nhưng sự yên tĩnh chỉ kéo dài được 6 ngày.

Hôm 5 tháng 2/1968, tiếng súng khởi sự nổ trên đồi 861A. Một tiểu đoàn Việt Cộng (thuộc Sư Đoàn 325) mở cuộc tấn công. Địch quân chiếm một phần tại vòng đai phía Bắc trong khu vực trách nhiệm của Đại Đội E/2/26. Nhưng sau đó, Bắc quân bị đánh bật trở ra trong một cuộ c phản công quyết liệt của các binh sĩ Cọp Biển. Tổng kết trận đánh có 7 quân nhân Mỹ tử trận, phía bên kia Cộng quân thiệt mất 109 cán binh (Khe Sanh Veterans Home Page: Time Line).

Ngày 6 tháng 2/1968, quân Cộng Sản đánh vào trại Lực Lượng Đặc Biệt ở Làng Vei, nằm gần Khe Sanh chừng 6 miles (10 km) về hướng Tâỵ Quân Bắc Việt có cả chiến xa PT-76. Và đó cũng là lần đầu tiên Thiết Giáp Bắc Việt trực tiếp lâm chiến tại miền Nam . Do Nga Sô chế tạo và cung cấp cho Cộng Sản miền Bắc, các xe PT-76 chạy trên xích sắt, được trang bị nòng súng 76 ly, và có khả năng lội nước. Tuy vỏ bọc bên ngoài tương đối mỏng, nhưng độ cứng của thép cũng đủ để ngăn chận các loại đạn trung liên từ 7.62 ly trở xuốn g.

Trong trận Làng Vei, 11 chiến xa PT-76 của Cộng quân dẫn đầu. Theo sau là một tiểu đoàn bộ đội yểm trợ. Đây là một đơn vị thuộc Trung Đoàn 66 dưới quyền điều động của Sư Đoàn 304. Trận đánh tại Làng Vei kéo dài chỉ một ngày. Chín (9) trong số 11 chiếc PT-76 bị tiêu diệt, nhưng quân trú phòng không ngăn nổi trận biển người của đối phương. Chết trong trận này gồm hơn 200 binh sĩ Dân Sự Chiến Đấu Việt Nam cùng 10 trong số 24 sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ.

Ngày 9 tháng 2/1968, một tiểu đoàn Bắc Việt tấn công (tiểu đoàn này thuộc Trung Đoàn 101D của Sư Đoàn 325) Đồi 64 do Đại Đội A/1/9 Cọp Biển trấn giữ. Các vị trí phòng thủ trên đồi bị Bắc quân tràn ngập. Trong tình huống nguy cập, các binh sĩ TQLC liên lạc xin phi pháo yểm trợ. Không chút chậm trễ, các khau đại bác quanh vùng đều nhắm hướng Đồi 64 và tác xạ. Khi ấy, một lực lượng TQLC khác được lệnh phải đến tiếp viện Đồi 64. Trong 3 tiếng đồng hồ máu lửa này, có 150 bộ đội Bắc Việt chết và 26 binh sĩ Hoa Kỳ tử thương.

Sau trận đánh ở Đồi 64, quân Bắc Việt tạm ngưng các hoạt động để bổ sung quân số. Chiến trường lắng dịu trong hai tuần. Đến 21 tháng 2/1968, căn cứ Khe Sanh lại bị tấn công. Lần này, một đại đội địch quân gây áp lực tại phòng tuyến của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân. Nhưng các binh sĩ Mũ Nâu VNCH đã vững vàng cố thủ. Trận này kết thúc mau lẹ. Đợt tấn công của đối phương đã bị Biệt Động Quân bẻ gảỵ

Hai ngày sau, 23 tháng 2/1968, Bắc quân tập trung pháo binh để phục hận. Một nghìn ba trăm (1,300) quả đạn đủ loai đã được bắn vào Khe Sanh (Tom Carhart: Battles And Campaigns In Vietnam, tr.129). Trận địa pháo 8 tiếng đồng hồ này đã làm nổ tung một kho tồn trữ đạn trong căn cứ, gây thiệt mạng cho 10 quân nhân Hoa Kỳ và 51 người khác bị thương.

Đêm 29 tháng 2, mặt trận vây-hãm Khe Sanh chợt bùng nổ với một trận bộ chiến sau cùng. Chín giờ 30 tối, một tiểu đoàn Cộng quân (thuộc Sư Đoàn 304 CSBV) đánh thẳng vào mặt Đông của Khe Sanh. Đây là khu vực trách nhiệm của các binh sĩ Biệt Động Quân VNCH.

Nhưng sau một màn pháo kích dọn đường, và sau ba lần trận biển-người xung phong, tiểu đoàn Bắc Việt cũng không phá được phòng tuyến thép của lính "rằn ri". Đêm hôm đó, các binh sĩ Biệt Động Quân bình tĩnh chiến đấu. Họ đợi đối phương xung phong đến thật gần rồi mới kha i hỏa.

Lúc đó trong giao thông hào khói lửa mịt mù. Nón sắt, áo giáp, cài kỹ lưỡng. Súng trường M-16 được gắn lưỡi lê (bayonet). Lựu đạn đeo ở bụng, trước ngực, hoặc choàng vai. Băng đạn sát bên người, ở hông và đầy trong túi. Khi Bắc quân tấn công, tiểu đoàn Biệt Động Quân chống trã mãnh liệt. Kinh nghiệm chiến đấu và sự gan dạ của họ chính là một trong các yếu tố quan trọng giúp đẩy lui cả 3 lần xung phong của Bắc quân. Ngày hôm sau, một toán Biệt Động Quân vượt hàng rào kiểm điểm tình hình. Họ đếm được 70 xác chết địch quân trên trận địa.

Trong tác phẩm Battles And Campaigns In Vietnam, Tom Carhart có ghi lại một cách ngắn gọn về trận đánh của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân như sau: "Rạng sáng ngày 29 tháng 2/1968, mũi tấn công duy nhất đưoc nhắm vào vòng đai trách nhiệm của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân. Khi Cộng quân xung phong đến gần hàng rào, họ bị lính Mũ Nâu chào đón họ bằng một rừng Claymore (mìn chống cá nhân), lựu đạn và súng cá nhân. Địch quân chẳng qua được hàng rào kẽm gai chằng chịt bên ngoài. Bảy mươi (70) xác chết của họ vì vậy đã được xem như như một công cuộc bại thảm nặng nề."

Trong các tài liệu Anh ngữ nói về trận chiến tại Khe Sanh, hầu như các tác giả và ký giả Hoa Kỳ chỉ ghi nhận mức chịu đựng bền bỉ của người lính Thủy Quân Lục Chiến. Nhưng ít ai biết đến hoặc nhắc nhở gì về sứ mạng phòng thủ của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân. May mắn thay, công trạng của họ đã được Trung Tướng Phillip Davison nhắc đến trong tài liệu Vietnam At War, The History 1946-75": ".. .[Tướng] Giáp tưởng tấn công vào tuyến phòng thủ của Biệt Động Quân VNCH sẽ dễ dàng hơn là đánh vào những nơi có Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ trấn giữ, nhưng đây không thể gọi là dễ dàng được bởi vì đơn vị Biệt Động Quân VNCH này chính là một đơn vị thiện chiến rất giỏi".

Trận tấn công vào đêm 29 tháng 2 (cho đến rạng ngày 1 tháng 3) là trận tấn công cuối cùng của quân Bắc Việt vào căn cứ. Ngày 1 tháng 4/1968, chiến dịch giải tỏa Khe Sanh bắt đầu. Cuộc hành quân mệnh danh "PEGASUS" (của Mỹ) và Lam Sơn 207 (của Việt Nam Cộng Hòa) được khởi động với sự tham dự của nhiều đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ và Nhảy Dù Nam Việt Nam. Trục tiến quân giải tỏa Khe Sanh được thiết lập dọc theo Quốc Lộ 9.

Vài ngày sau, 8 tháng 4, căn cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải tỏa. Giấc mộng tạo dựng một Điện Biên Phủ thứ hai của Võ Nguyên Giáp kể như không thành. Các binh đoàn dưới quyền chỉ huy của ông bị mất từ 10 đến 13,000 bộ đội. Nhiều đơn vị bị xóa tên dưới hỏa lực hùng hậu của pháo binh và không yểm.

Sau này, các sách vở về chiến tranh Việt Nam đều có nhiều nhận xét khác nhau về chiến thuật của đôi bên. Một lập luận cho rằng tướng Giáp muốn dụ Hoa Kỳ dồn quân vào Khe Sanh để quân Cộng Sản có thể rãnh tay tấn công các vùng khác. Một lập luận khác lại cho rằng ông Giáp bao vây Khe Sanh với lý do muốn tạo dựng một chiến thắng như Điện Biên để buộc Hoa K ỳ phải nhượng bộ rồi đầu hàng. Trong khi đó, một số tài liệu chiến sử Hoa Kỳ lại nghĩ rằng tướng Westmoreland đã "tương kế tựu kế." Ông mong Cộng quân sẽ tập trung nhiều binh đoàn gần Khe Sanh để ông có thể dùng hỏa lực pháo binh và phi cơ tiêu diệt.

Nhưng lịch sử đã không theo vết xe lăn của Điện Biên Phủ 14 năm về trước. Năm 1968, Hoa Kỳ có đầy đủ phương tiện để phòng thủ, yểm trợ, và tiếp tế Khe Sanh trong 77 ngày, hoặc lâu dài hơn nếu cần thiết. Phía bên kia, Cộng quân đã không chiếm nổi Khe Sanh, mà lại còn bị thiệt mất từ 10 đến 13,000 bộ đội. Đó là chưa kể thiệt hại trên các phương diện khác như quân cụ, chiến thuật, cùng hàng ngàn thương binh.

Linh Vũ Jan 24, 2009

Nhà thơ TRẦN VIỆT YÊN bị “stroke” và rơi vào hôn mê

    Tin buồn văn nghệ cuối năm:
    Nhà thơ TRẦN VIỆT YÊN bị “stroke” và rơi vào hôn mê
Cali Today News Jan 23, 2009 - Anh Trần văn Trọng (tức nhà thơ Trần Việt Yên) hiện là Tổng Thư Ký Thi Văn Đoàn Bốn Phương, bị tai biến mạch máu não từ 9 giờ đêm 18-1-2009. Hiện anh Yên đang được điều trị tại REGIONAL MEDICAL CENTER OF SAN JOSE, 225 N. Jackson Avenue, San Jose , CA 95116 .

Bệnh tình rất trầm trọng vì bị đứt mạch máu não. Máu chảy tràn trong óc, phải khoan sọ hút máu ra, dung tích đến 3 bịch nylon IV. Anh Yên đã bị hôn mê 6 ngày kể từ lúc 9 giờ đêm 18-1 đến hôm nay 23-1-2009.

Anh Trần Việt Yên nguyên là Sỹ Quan Tâm Lý Chiến QLVNCH, với 6 năm rưỡi bị Việt Cộng cầm tù trong các Trại Tù Cải tạo. Hoàn cảnh của anh Yên cũng như tuyệt đại đa số các tù nhân cải tạo khác, đã chịu nhiều thống khổ, lắm nhục hình. Thân xác tiều tụy, sức khỏe hao mòn vì bị bỏ đói triền miên. Nhiều loại bệnh tật đã phát sinh và tồn tại trong cơ thể bị tàn phá cho đến ngày được trả tự do.

Một năm sau đó, vợ chính thức của anh đã từ trần để lại cho anh 2 con trai vị thành niên còn đang đi học. Theo chương trình HO, cha con anh đã tới Hoa Kỳ năm 1993. Chỉ 2 tháng sau, anh đã vừa đi học, vừa đi làm để kiếm tiền lo cho 2 đứa con nhỏ dại được tiếp tục học hành. Đồng thời anh cũng tích cực tự nguyện:

- Tham gia vào mọi công tác Cộng Đồng Bắc Cali.
- Vừa phải đi làm trong các hãng xưởng ban ngày, vừa phải thức đêm tự nguyện phụ trách phần kỹ thuật cho 2 Chương Trình Phát Thanh Lương Tâm Công Giáo và Tự Do Dân Chủ yểm trợ Khối 8406.
http://tranvietyen-website.blogspot.com/
- Thường xuyên tham gia các công tác văn học nghệ thuật trong vùng, sáng tác thơ văn tranh đấu không ngừng nghỉ.

Theo dư luận thì suốt ngày đêm, Anh Yên đã đầu tư quá nhiều sức lực vào công việc. Do đó, sức khỏe suy giảm nhanh, đưa đến việc bị tai biến mạch máu não trầm trọng như vậy.

Hiện nay, Anh Yên chỉ mới 63 tuổi, không có bất cứ một loại bảo hiểm nào. Mọi chi phí hàng tháng đều trông nhờ vào đồng lương khiêm tốn của một công nhân viên không chuyên nghiệp. Hoàn cảnh của anh Yên hiện quá neo đơn, bi đát, anh chỉ có :

- 1 bà vợ kế, thường xuyên bệnh hoạn.
- 2 con trai vị thành niên:
a. Một học ở Đại học bên Texas,
b. Một học ở Đại học ở San Diego
- 1 chị gái ở với gia đình chồng bên Texas.

Những thân nhân kể trên đã về San Jose thăm viếng anh Yên, nhưng đến Thứ Hai, ngày 26-01-2009, sẽ phải về nơi cư ngụ của họ để lo việc học hành và đi làm kiếm sống, chỉ còn người vợ bệnh hoạn duy nhất ở bên anh. Tình cảm thân thương đối với anh Việt Yên chỉ còn vài ngày nữa kể như là cạn kiệt. Ngoại trừ một số Thi Văn hữu và thân hữu hàng ngày đến bệnh viện thăm anh, thì việc chăm sóc sức khỏe cho anh, hoàn toàn phó thác cho Bệnh Viện lo liệu.

Trong tình huống vô cùng bi thương này, với tư cách là một trong những thi hữu rất gần gũi với Anh Yên, tôi chân thành ngỏ lời xin tất cả mọi Thi Văn Hũu và thân hữu khắp nơi hiệp thông dâng lời cầu nguyện, xin ơn trên phù hộ cho anh Việt Yên sớm bình phục để anh lại phục vụ tha nhân như hàng chục năm trước đây anh đã thực hiện.

Mong lắm thay !!!
TRƯỜNG GIANG

Đôi dòng về Trần Việt Yên

Tiểu sử: Trần Việt Yên. * Sinh quán: làng Trung Lai, Huyện Việt Yên, Tỉnh Bắc Giang. * Lấy sinh quán Việt Yên làm bút danh. * Cựu giáo chức. * Cựu Sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị /QLVNCH. * Tù Cộng sản 6 năm rưỡi. * Định cư Hoa Kỳ năm 1995 . * Sáng lập mục “Thơ Đâm” trên tuần báo Quê Hương, San Jose. Hoa Kỳ (1997 - 1999). * Sáng lập, biên tập viên chương trình phát thanh Lương Tâm Công Giáo. Hoa kỳ (2001 - 2006 ). * Thành viên uỷ nhiệm điều hành trang mạng: http://www.tdngonluan.com/ * Biên tập Viên Chương trình phát thanh Tự Do dân Chủ, yểm trợ khối 8406 ( 7/2007 đến nay) * Tổng thư Ký Thi Văn Đoàn Bốn Phương

Friday, January 23, 2009

Nhận định của báo Mỹ về việc TT Obama nhắc đến trận Khe Sanh


Trích từ: VOANEWS
23/01/2009

Sau đây là một vài nhận định về ý nghĩa của việc ông Barack Obama nhắc đến trận Khe Sanh trong bài diễn văn nhậm chức của ông hôm thứ ba.

Tờ Chicago Truibune số hôm 22 tháng Giêng nêu bật sự kiện trận Khe Sanh của Việt Nam đã được đặt ngay bên cạnh các trận chiến oai hùng mà người Mỹ từng tham dự, đó là trận Concord thời kỳ cách mạng Mỹ, trận Gettysburg thời nội chiến Mỹ và trận Normandy thời Thế chiến Thứ hai.

Vụ bộ đội cộng sản bao vây Khe Sanh trong những tháng đầu năm 1968 là một trong những trận chiến đẫm máu nhất trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Theo con số chính thức của chính phủ Hoa Kỳ công bố, trận chiến kéo dài 77 ngày và khoảng 200 binh sỹ Hoa Kỳ đã tử trận tại đây. Trận chiến này xảy ra hầu như đồng thời với vụ tổng tấn công Tết Mậu thân năm 1968 ở miền nam đã khiến cho dư luận Mỹ về cuộc chiến đổi chiều.

Ông Obama chỉ nhắc tới Khe Sanh trong một tích tắc ngắn ngủi, nhưng có lẽ được cả hàng triệu người Mỹ chú ý.

Trong số những người Mỹ này có một số từng tham chiến tại Việt Nam, một số từng chống đối cuộc chiến đó, và một số chỉ là những người nhớ lại một thời kỳ đau thương trong lịch sử Hoa Kỳ.

Trong việc nhắc đến trận Khe Sanh cùng với 3 trận chiến oai hùng khác cho tự do của người Mỹ, ông Obama hẳn muốn gửi gấm cái ý nghĩ rằng "Cuộc chiến gây chia rẽ chính trị cho người Mỹ đã qua từ hơn một thế hệ rồi. Điều mà nhân dân Mỹ nhớ đến, và trân trọng, là sự hy sinh của hơn 58.000 quân nhân Mỹ đã bỏ mình và hàng chục ngàn người lính đã mang thương tích".

Đây là một nét chấm phá rất đẹp cho một bài diễn văn tinh tế kêu gọi người dân Mỹ hãy can đảm mà đối phó với những ngày, và những trận chiến đang chờ đợi trước mặt.

Có lẽ ông Obama nhắc tới địa danh Khe Sanh để tỏ lòng tôn kính người mà ông đã đánh bại trong cuộc tranh cử tổng thống, Thượng nghị sỹ John McCain, một tù binh trong chiến tranh Việt Nam với lòng can trường và khả năng chịu đựng khó có thể tưởng tượng, đã làm cho nhiều người dân Mỹ cảm phục.

Trong một bài báo khác trên tờ New York Times hôm thứ ba, thì trận Khe Sanh đã được ông Obama nhắc tới trong bài diễn văn nhậm chức là để vinh danh lòng can trường và sự hy sinh của các quân nhân Mỹ trong khi phục vụ cho lý tưởng tự do.


Bài diễn văn nhậm chức của Tổng thống Barack Obama

Lê Bích Sơn lược dịch

Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đọc bài diễn văn nhậm chức tại Trụ Sở Quốc Hội ở thủ đô Washington ngày 20/1/2009.

Thưa quốc dân đồng bào,

Hôm nay tôi đứng đây với sự khiêm cung trước nhiệm vụ mà chúng ta phải đối phó, với lòng biết ơn về sự tin tưởng mà đồng bào đã dành cho tôi, và nghĩ đến những hy sinh mà các bậc tiền bối của chúng ta đã chịu đựng. Tôi cảm ơn Tổng thống Bush về sự phục vụ của ông cho đất nước chúng ta, cũng như lòng hào hiệp và tinh thần hợp tác mà ông đã chứng tỏ trong suốt quá trình chuyển tiếp.

Cho đến nay, đã có 44 người Mỹ đọc lời tuyên thệ nhậm chức Tổng thống. Những lời tuyên thệ này đã được đọc lên vào những thời kỳ đầy thịnh vượng và trong những thời hòa bình yên ổn. Tuy vậy, lời tuyên thệ này cũng vẫn thường được đọc lên trong những lúc thời gian đầy u ám và sóng gió. Vào những thời điểm như thế, nước Mỹ vẫn tiếp tục tiến bước không phải đơn giản chỉ vì tài năng và viễn kiến của những người nắm giữa các chức vụ cao, mà còn bởi vì Nhân dân Chúng ta tiếp tục trung thành với những lý tưởng của các bậc tiền bối, và trung thành với các văn kiện lập quốc.

Sự việc đã diễn ra như vậy. Và nó phải diễn ra như vậy với thế hệ người Mỹ hiện nay.

Sự kiện chúng ta đang lâm vào một cuộc khủng hoảng là điều ai cũng hiểu rõ. Quốc gia chúng ta đang có chiến tranh, chống lại một mạng lưới rộng lớn của bạo lực và lòng thù hận. Nền kinh tế của chúng ta bị suy yếu trầm trọng, do hậu quả của lòng tham và sự thiếu trách nhiệm của một số người, nhưng cũng vì sự thất bại chung của chúng ta phải có những lựa chọn khó khăn và chuẩn bị đất nước cho một thời đại mới. Nhà cửa đã bị mất mát; công việc bị cắt giảm; cơ sở kinh doanh bị đóng cửa. Công tác chăm sóc sức khỏe quá tốn kém; trường học chúng ta làm nhiều người thất bại; và mỗi ngày lại có thêm bằng chứng cho thấy rằng cách thức sử dụng năng lượng của chúng ta làm cho kẻ địch của chúng ta mạnh thêm và đe dọa đến hành tinh của chúng ta.

Đây là những chỉ dấu của khủng hoảng, bằng vào số liệu thống kê. Có những chỉ dấu không đo lường nhưng cũng không kém phần sâu sắc là sự hủy hoại lòng tin trên khắp đất nước. Đó là mối sợ hãi canh cánh rằng sự suy thoái của nước Mỹ là không thể tránh khỏi và rằng thế hệ kế tiếp phải hạ thấp kỳ vọng của mình.

Hôm nay, tôi xin nói với đồng bào rằng những thách thức mà chúng ta đang đối mặt là có thực. Những thách thức này rất nhiều và nghiêm trọng. Những thách thức không thể được giải quyết một cách dễ dàng và nhanh chóng. Nhưng nước Mỹ phải biết rằng, chúng sẽ được giải quyết.

Ngày hôm nay, chúng ta tề tựu ở đây bởi vì chúng ta đã chọn hy vọng thay vì sợ hãi, thống nhất về mục đích thay vì sự xung đột và bất hòa.

Ngày hôm nay, chúng ta đến đây để tuyên bố sự cáo chung của những lời than phiền nhỏ nhặt và những lời hứa hão huyền, những lời trách cứ và những giáo điều đã lỗi thời, đã bóp nghẹt nền chính trị của chúng ta quá lâu.

Chúng ta vẫn là một đất nước trẻ trung nhưng như lời Thánh Kinh đã nói, đã đến lúc ta phải gạt qua một bên những điều ấu trĩ. Đã đến lúc chúng ta phải tái khẳng định tinh thần kiên trì; để chọn cho chúng ta một lịch sử tốt đẹp hơn; để tiếp tục phát huy tặng phẩm quý giá đó; tư tưởng cao cả đó, đã được truyền lại cho chúng ta từ thế hệ này sang thế hệ khác: đó là lời hứa được Thượng Đế mặc khải là mọi người đều bình đẳng, mọi người đều tự do, đều xứng đáng có cơ hội mưu cầu hạnh phúc đầy đủ.

Trong khi tái khẳng định tính chất vĩ đại của đất nước chúng ta, chúng ta hiểu rằng sự vĩ đại đó không bao giờ là một điều đương nhiên mà có được. Phải có công phu mới xây dựng được sự vĩ đại đó. Cuộc hành trình của chúng ta không hề là những lối đi tắt hay sự chấp nhận những điều bất cập. Đó không phải là một con đường cho những người thiếu can đảm, cho những người thích nhàn nhã hơn là lao động, hay những người mưu tìm sự vui thú của giầu sang và danh vọng. Thay vào đó, ấy là con đường của sự chấp nhận rủi ro, những người hành động, những người tạo ra thời thế, một số những người đó là những người nổi tiếng nhưng thường hơn đó những người, nam cũng như nữ, mà việc làm không được ai biết đến, những người đã đưa chúng ta tiến lên con đường dài, gập ghềnh tiến đến phồn vinh và tự do.

Đối với chúng ta, họ là những người đã gói ghém một ít của cải trần thế của và vượt qua những đại dương để đi tìm một cuộc sống mới.

Đối với chúng ta, họ đã lao động cực nhọc trong những cơ xưởng tối tăm và chinh phục miền Tây; chịu đựng roi vọt và cầy xới đất đai khô cứng.

Đối với chúng ta, họ đã chiến đấu và hy sinh, ở những nơi như Concord và Gettysburg; ở Normandy và Khe Sanh. (*)

Những người đàn ông và phụ nữ này đã không ngừng tranh đấu và hy sinh và làm việc cho tới khi đôi tay của họ rướm máu để cho chúng ta có được một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Họ đã nhận ra rằng nước Mỹ lớn hơn con số gộp chung của những tham vọng cá nhân, lớn hơn mọi sự khác biệt bắt nguồn từ bối cảnh gia đình, của cải hoặc phe nhóm.

Đây là hành trình mà ngày nay chúng ta tiếp tục theo đuổi. Đất nước chúng ta tiếp tục là quốc gia thịnh vượng và hùng mạnh nhất trên Trái đất. Sức sản xuất của công nhân của chúng ta không hề sút giảm so với thời kỳ trước khi vụ khủng hoảng này bắt đầu. Sự sáng tạo của trí óc của chúng ta không hề sút giảm, và hàng hóa và dịch vụ của chúng ta vẫn tiếp tục được cần tới in hệt như tuần trước, tháng trước, hoặc năm trước. Khả năng của chúng ta vẫn không hề suy giảm. Nhưng thời đại mà chúng ta đứng yên trong tự mãn, bảo vệ những quyền lợi hẹp hòi và trì hoãn việc làm ra những quyết định khó khăn – thời đại đó quả thật đã qua rồi. Bắt đầu từ hôm nay, chúng ta phải tự mình đứng lên, phủi bụi trên người, và bắt đầu làm việc lại để xây dựng lại nước Mỹ.

Bất cứ chỗ nào chúng ta nhìn tới đều có những việc cần phải làm. Tình trạng của nền kinh tế đòi hỏi chúng ta hành động, hành động một cách quả quyết và nhanh chóng, và chúng ta sẽ hành động – không những để tạo ra công ăn việc làm mới, nhưng còn để xây dựng một nền tảng mới cho sự tăng trưởng. Chúng ta sẽ xây dựng đường sá, cầu cống, mạng lưới tải điện và đường giây chuyển tải dữ liệu số để hỗ trợ cho công cuộc thương mại và nối kết chúng ta với nhau. Chúng ta sẽ khôi phục vị thế xứng đáng của khoa học, và áp dụng những điều kỳ diệu của kỹ thuật để nâng cao phẩm chất của công tác chăm sóc sức khỏe và giảm thiểu chi phí của công tác này. Chúng ta sẽ biến ánh sáng mặt trời, sức gió và đất đai thành năng lượng để chạy xe và vận hành nhà máy. Và chúng ta sẽ chuyển hóa trường học các cấp của mình để đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Chúng ta có thể làm được tất cả những việc này. Và những việc này là tất cả những gì mà chúng ta sẽ làm.

Giờ đây, có một số người đặt nghi vấn về tầm vóc của những tham vọng của chúng ta, những người cho rằng hệ thống của chúng ta không có khả năng để thực hiện nhiều kế hoạch to lớn như vậy. Nhưng những người đó là những người có trí nhớ không mấy tốt. Vì họ đã quên mất những gì mà đất nước này đã làm; những gì mà những người đàn ông và phụ nữ tự do có thể đạt được khi óc tưởng tượng được kết hợp với một mục đích chung và nhu cầu của lòng dũng cảm.

Những gì mà những người có thái độ hoài nghi quá độ không thể hiểu được là mặt đất dưới chân họ đã chuyển dịch, là những sự tranh cãi chính trị vô bổ đã phí phạm năng lực của chúng ta quá lâu giờ đây không còn áp dụng nữa. Câu hỏi mà chúng ta nêu lên hôm nay không phải là chính phủ của chúng ta quá lớn hay quá nhỏ, mà là chính phủ hoạt động có hiệu quả hay không, phải chăng chính phủ giúp đỡ các gia đình tìm được công ăn việc làm với mức lương khả quan, giúp họ có được sự chăm sóc sức khỏe với phí tổn phải chăng, giúp họ có được một cuộc sống về hưu tử tế. Nếu câu trả lời là "phải", chúng ta nhất định sẽ xúc tiến. Nếu câu trả lời là ‘không’, chúng ta sẽ chấm dứt các chương trình đó. Và những người quản lý tiền bạc của công chúng như chúng tôi sẽ phải chịu trách nhiệm, phải chi tiêu một cách khôn ngoan, sửa đổi những thói quen không tốt, và làm việc dưới ánh sáng ban ngày, bởi vì chỉ có như vậy chúng ta mới có thể khôi phục niềm tin của dân chúng đối với chính phủ.

Câu hỏi trước mắt chúng ta cũng không phải là thị trường là một sức mạnh tốt hay xấu. Sức mạnh của thị trường trong việc tạo ra của cải và nới rộng tự do là vô địch, nhưng vụ khủng hoảng này nhắc nhở chúng ta rằng nếu không có một cặp mắt chăm chú theo dõi, thị trường có thể vượt khỏi tầm kiểm soát, và đất nước không giàu mạnh trong lâu dài khi thị trường chỉ mang lại lợi ích cho những người giàu có. Sự thành công của nền kinh tế của chúng ta lúc nào cũng không thể chỉ tùy thuộc vào Tổng Sản Lượng Nội Địa, mà tùy thuộc vào việc sự thịnh vượng lan tỏa đến đâu; tùy thuộc vào khả năng của chúng ta trong việc nới rộng cơ hội cho những người có lòng – không phải vì đó là một việc từ thiện, mà vì đó con đường chắc chắn nhất để đạt được mục tiêu chung.

Đối với các quốc gia Hồi giáo, chúng ta tìm một hướng mới phía trước, dựa trên ích lợi hỗ tương và kính trọng lẫn nhau. Đối với các lãnh đạo trên khắp quả địa cầu muốn gieo rắc tranh chấp, hoặc đổ lỗi cho những tệ nạn xã hội của họ vào phương Tây, hãy biết rằng nhân dân quí vị sẽ phán xét quí vị về những gì quí vị có thể xây dựng, không vì những gì quí vị hủy đi. Đối với những ai bám víu quyền lực bằng tham nhũng, gian lận, và bằng cách bịt miệng những người bất đồng, hãy biết rằng quí vị đang đứng ở phía trái của lịch sử; nhưng chúng tôi sẵn sàn đưa tay cho quí vị nếu quí vị sẵn sàng nới lỏng nắm tay của quí vị.

Đối với các quốc gia nghèo, chúng tôi hứa làm việc với quí vị để các đồng ruộng của quí vị này nở, và để cho nước sạch được tuôn chảy; để nuôi dưỡng những tấm thân đói khát và đem thức ăn cho những đầu óc đói kém. Và đối với các quốc gia giống như đất nước chúng ta, đang có của cải tương đối dồi dào, chúng ta xin nói rằng chúng ta không thể nào vô cảm trước những đau khổ bên ngoài biên giới của chúng ta, và chúng ta cũng không thể tiêu dùng các nguồn lực của thế giới mà không chú ý đến hậu quả. Vì thế giới đã thay đổi, chúng ta phải thay đổi với thế giới.

Trong lúc xét đến con đường mở ra phía trước, chúng ta tưởng nhớ với tấm lòng biết ơn sâu sắc đến những người Mỹ dũng cảm, đã từng ngày từng giờ, tuần tra các sa mạc xa xôi và các rặng núi hẻo lánh. Họ có điều gì dạy chúng ta hôm nay, giống như những anh hùng đã gục ngã tại nghĩa trang quốc gia Arlington đã thì thầm cho chúng ta từ nhiều thời gian đã qua. Chúng ta vinh danh họ, không phải vì họ là những người bảo vệ tự do của chúng ta, nhưng vì họ mang tình thần phục vụ; sẵn sàng tìm lý tưởng nơi một điều gì lớn hơn bản thân họ. Thật vậy, trong lúc này, lúc sẽ định hình cho cả một thế hệ, quả thực tinh thần này cần phải hiện hữu trong tất cả mọi người chúng ta.

Khi nói đến chuyện chính phủ có thể làm gì và phải làm gì, quốc gia này cuối cùng được dựa trên sự tin tưởng và quyết tâm của toàn dân. Chính vì sự tử tế mà người Mỹ sẵn sàng giúp đỡ một người lạ mặt khi có những con đê bị vỡ, nhờ lòng vị tha mà các công nhân sẵn sàng làm bớt giờ thay vì để cho một người bạn của mình mất việc; mỗi khi chúng ta ở vào tình huống đen tối nhất. Chính nhờ sự dũng cảm của người nhân viên chữa cháy xông qua một cầu thang đầy khói, và cũng nhờ bậc cha mẹ biết chăm sóc cho con cái, mà cuối cùng số phận của chúng ta được quyết định.

Các thách thức của chúng ta có thể là mới mẻ. Các công cụ mà chúng ta đối phó với thách thức có thể là mới mẻ. Nhưng các giá trị đã dẫn đến thành công của chúng ta tùy thuộc vào sự chịu khó, lương thiện, can đảm, sòng phẳng, khoan dung, tò mò, trung thành và yêu nước; những chuyện đó không phải là mới mẻ. Đó là những chuyện có thật. Chúng là động lực âm thầm cho tiến bộ xuyên suốt lịch sử của nước Mỹ. Điều đang đòi hỏi chúng ta là quay về với những sự thật đó. Điều đòi hỏi chúng ta hiện nay là một kỷ nguyên mới của trách nhiệm; một sự thừa nhận của mỗi người Mỹ rằng chúng ta có nghĩa vụ với chính chúng ta, quốc gia chúng ta, và cả thế giới; những nghĩa vụ mà chúng ta không miễn cưỡng chấp nhận nhưng sẵn sàng nắm lấy, với ý thức chắc chắn rằng không có điều gì làm thỏa mãn tinh thần, không phản ảnh tư cách của chúng ta, cho bằng cống hiến mọi năng lực cho một sự nghiệp khó khăn.

Đây là phần thưởng và sự hứa hẹn của quyền công dân.

Đây là nguồn gốc của sự tin cậy của chúng ta, sự hiểu biết rằng Thượng Đế trông cậy vào chúng ta để hìnhthành một số định mạng không chắc chắn.

Đây lày nghĩa của tự do của chúng ta và tôn giáo của chúng ta - Tại sao mọi người, nam, nữ, trẻ em thuộc mọi chủng tộc và mọi tín ngưỡng có thể cùng nhau vui mừng kỷ niệm tại quản trường quốc gia vĩ đại này và tại sao một người mà cha của ông cách đây gần 60 năm không thể làm việc tại một nhà hàng địa phương mà nay đứng trước mặt quý vị để đọc một lời thề thiêng liêng nhất.

Do đó, chúng ta hãy đánh dấu ngày này bằng sự tưởng niệm là chúng ta là ai và chúng ta đã đi qua những chặng đường dài như thế nào. Vào năm khai sanh quốc gia Hoa Kỳ, trong những tháng lạnh nhất, một nhóm nhỏ những người ái quốc xúm lại với nhau bên cạnh đống lửa gần tàn bên bờ một dòng sông băng giá. Thủ đô đã bị bỏ. Kẻ thù đang tiến tới. Tuyết loang lỗ vết máu. Vào thời điểm mà cuộc cách mạng của chúng ta bị hoang mang nhất, thì vị cha già của quốc gia ra lệnh đọc cho mọi người những lời này: “Hãy nói cho thế giới tương lai...là trong mùa Đông giá lạnh nhất, không có gì ngoài hy vọng và đức tính có thể sống còn - rằng thành phố và xứ sở, được báo động vì mối nguy hiểm chung, tiến tới và gặp được”.

Hoa Kỳ. Đối mặt với những mối nguy hiểm chung, trong mùa đông của gian khổ của chúng ta, chúng ta hãy nhớ lại những lời lẻ vượt thời gian này. Với hy vọng và đức tính, chúng ta hãy một lần nữa công an đảm vượt qua dòng nước băng giá và chịu đựng bất cứ cơn bão nào sẽ đến. Hãy để cho con cháu chúng ta nhắc lại là khi chúng ta bị thử thách, chúng ta đã chối từ không để cuộc hành trình của chúng ta phải chấm dứt, rằng chúng ta không quay lui trở lại hay là chúng ta ngập ngừng, và với con mắt chăm chú nhìn vào chân trời và với ân phước của Thượng Đế ban cho chúng ta, chúng ta mang ân tứ về tự do và chuyển lại một cách bình an cho thế hệ mai sau.

Lê Bích Sơn lược dịch

(*)
_ Trận Concord (1775) là trận đầu tiên quân Mỹ đánh thắng quân Anh.
_ Trận Gettysburg (1863) là trận đánh đẫm máu cuối cùng của cuộc nội chiến Nam Bắc.
_ Trận Normandy (1944) xẩy ra ở bờ biển Normandy, Pháp khi quân Hoa Kỳ và đồng minh đổ bộ lên Pháp để đuổi quân Ðức ra khỏi Pháp và giải phóng châu Âu.
_ Trận Khe Sanh xảy ra trong cuộc chiến tranh Việt Nam, ông Obama lúc này còn nhỏ, chưa đến tuổi đi lính. Nhưng đề cập đến Khe Sanh, cùng với những trận chiến Concord, Gettysburg và Normandy, rõ ràng ông Obama muốn đề cao vai trò của người lính Mỹ đã tham gia cuộc chiến ở Việt Nam để bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam trước làn sóng xâm lăng của chủ nghĩa cộng sản.

*
* *



President Barack Obama's inauguration speech

My fellow citizens:

I stand here today humbled by the task before us, grateful for the trust you have bestowed, mindful of the sacrifices borne by our ancestors. I thank President Bush for his service to our nation, as well as the generosity and cooperation he has shown throughout this transition.

Forty-four Americans have now taken the presidential oath. The words have been spoken during rising tides of prosperity and the still waters of peace. Yet, every so often the oath is taken amidst gathering clouds and raging storms. At these moments, America has carried on not simply because of the skill or vision of those in high office, but because we the people have remained faithful to the ideals of our forebears, and true to our founding documents.

So it has been. So it must be with this generation of Americans.

That we are in the midst of crisis is now well understood. Our nation is at war, against a far-reaching network of violence and hatred. Our economy is badly weakened, a consequence of greed and irresponsibility on the part of some, but also our collective failure to make hard choices and prepare the nation for a new age. Homes have been lost; jobs shed; businesses shuttered. Our health care is too costly; our schools fail too many; and each day brings further evidence that the ways we use energy strengthen our adversaries and threaten our planet.

These are the indicators of crisis, subject to data and statistics. Less measurable but no less profound is a sapping of confidence across our land — a nagging fear that America's decline is inevitable, and that the next generation must lower its sights.

Today I say to you that the challenges we face are real. They are serious and they are many. They will not be met easily or in a short span of time. But know this, America — they will be met.

On this day, we gather because we have chosen hope over fear, unity of purpose over conflict and discord.

On this day, we come to proclaim an end to the petty grievances and false promises, the recriminations and worn out dogmas, that for far too long have strangled our politics.

We remain a young nation, but in the words of Scripture, the time has come to set aside childish things. The time has come to reaffirm our enduring spirit; to choose our better history; to carry forward that precious gift, that noble idea, passed on from generation to generation: the God-given promise that all are equal, all are free and all deserve a chance to pursue their full measure of happiness.

In reaffirming the greatness of our nation, we understand that greatness is never a given. It must be earned. Our journey has never been one of shortcuts or settling for less. It has not been the path for the faint-hearted — for those who prefer leisure over work, or seek only the pleasures of riches and fame. Rather, it has been the risk-takers, the doers, the makers of things — some celebrated but more often men and women obscure in their labor, who have carried us up the long, rugged path towards prosperity and freedom.

For us, they packed up their few worldly possessions and traveled across oceans in search of a new life.

For us, they toiled in sweatshops and settled the West; endured the lash of the whip and plowed the hard earth.

For us, they fought and died, in places like Concord and Gettysburg; Normandy and Khe Sanh.

Time and again these men and women struggled and sacrificed and worked till their hands were raw so that we might live a better life. They saw America as bigger than the sum of our individual ambitions; greater than all the differences of birth or wealth or faction.

This is the journey we continue today. We remain the most prosperous, powerful nation on Earth. Our workers are no less productive than when this crisis began. Our minds are no less inventive, our goods and services no less needed than they were last week or last month or last year. Our capacity remains undiminished. But our time of standing pat, of protecting narrow interests and putting off unpleasant decisions — that time has surely passed. Starting today, we must pick ourselves up, dust ourselves off, and begin again the work of remaking America.

For everywhere we look, there is work to be done. The state of the economy calls for action, bold and swift, and we will act — not only to create new jobs, but to lay a new foundation for growth. We will build the roads and bridges, the electric grids and digital lines that feed our commerce and bind us together. We will restore science to its rightful place, and wield technology's wonders to raise health care's quality and lower its cost. We will harness the sun and the winds and the soil to fuel our cars and run our factories. And we will transform our schools and colleges and universities to meet the demands of a new age. All this we can do. All this we will do.

Now, there are some who question the scale of our ambitions — who suggest that our system cannot tolerate too many big plans. Their memories are short. For they have forgotten what this country has already done; what free men and women can achieve when imagination is joined to common purpose, and necessity to courage.

What the cynics fail to understand is that the ground has shifted beneath them — that the stale political arguments that have consumed us for so long no longer apply. The question we ask today is not whether our government is too big or too small, but whether it works — whether it helps families find jobs at a decent wage, care they can afford, a retirement that is dignified. Where the answer is yes, we intend to move forward. Where the answer is no, programs will end. Those of us who manage the public's dollars will be held to account — to spend wisely, reform bad habits, and do our business in the light of day — because only then can we restore the vital trust between a people and their government.

Nor is the question before us whether the market is a force for good or ill. Its power to generate wealth and expand freedom is unmatched, but this crisis has reminded us that without a watchful eye, the market can spin out of control — and that a nation cannot prosper long when it favors only the prosperous. The success of our economy has always depended not just on the size of our gross domestic product, but on the reach of our prosperity; on our ability to extend opportunity to every willing heart — not out of charity, but because it is the surest route to our common good.

As for our common defense, we reject as false the choice between our safety and our ideals. Our founding fathers ... our founding fathers, faced with perils we can scarcely imagine, drafted a charter to assure the rule of law and the rights of man, a charter expanded by the blood of generations. Those ideals still light the world, and we will not give them up for expedience's sake. And so to all the other peoples and governments who are watching today, from the grandest capitals to the small village where my father was born: know that America is a friend of each nation and every man, woman, and child who seeks a future of peace and dignity, and that we are ready to lead once more.

Recall that earlier generations faced down fascism and communism not just with missiles and tanks, but with sturdy alliances and enduring convictions. They understood that our power alone cannot protect us, nor does it entitle us to do as we please. Instead, they knew that our power grows through its prudent use; our security emanates from the justness of our cause, the force of our example, the tempering qualities of humility and restraint.

We are the keepers of this legacy. Guided by these principles once more, we can meet those new threats that demand even greater effort — even greater cooperation and understanding between nations. We will begin to responsibly leave Iraq to its people, and forge a hard-earned peace in Afghanistan. With old friends and former foes, we will work tirelessly to lessen the nuclear threat, and roll back the specter of a warming planet. We will not apologize for our way of life, nor will we waver in its defense, and for those who seek to advance their aims by inducing terror and slaughtering innocents, we say to you now that our spirit is stronger and cannot be broken; you cannot outlast us, and we will defeat you.

For we know that our patchwork heritage is a strength, not a weakness. We are a nation of Christians and Muslims, Jews and Hindus — and non-believers. We are shaped by every language and culture, drawn from every end of this Earth; and because we have tasted the bitter swill of civil war and segregation, and emerged from that dark chapter stronger and more united, we cannot help but believe that the old hatreds shall someday pass; that the lines of tribe shall soon dissolve; that as the world grows smaller, our common humanity shall reveal itself; and that America must play its role in ushering in a new era of peace.

To the Muslim world, we seek a new way forward, based on mutual interest and mutual respect. To those leaders around the globe who seek to sow conflict, or blame their society's ills on the West — know that your people will judge you on what you can build, not what you destroy. To those who cling to power through corruption and deceit and the silencing of dissent, know that you are on the wrong side of history; but that we will extend a hand if you are willing to unclench your fist.

To the people of poor nations, we pledge to work alongside you to make your farms flourish and let clean waters flow; to nourish starved bodies and feed hungry minds. And to those nations like ours that enjoy relative plenty, we say we can no longer afford indifference to the suffering outside our borders; nor can we consume the world's resources without regard to effect. For the world has changed, and we must change with it.

As we consider the road that unfolds before us, we remember with humble gratitude those brave Americans who, at this very hour, patrol far-off deserts and distant mountains. They have something to tell us, just as the fallen heroes who lie in Arlington whisper through the ages. We honor them not only because they are guardians of our liberty, but because they embody the spirit of service; a willingness to find meaning in something greater than themselves. And yet, at this moment — a moment that will define a generation — it is precisely this spirit that must inhabit us all.

For as much as government can do and must do, it is ultimately the faith and determination of the American people upon which this nation relies. It is the kindness to take in a stranger when the levees break, the selflessness of workers who would rather cut their hours than see a friend lose their job which sees us through our darkest hours. It is the firefighter's courage to storm a stairway filled with smoke, but also a parent's willingness to nurture a child, that finally decides our fate.

Our challenges may be new. The instruments with which we meet them may be new. But those values upon which our success depends — hard work and honesty, courage and fair play, tolerance and curiosity, loyalty and patriotism — these things are old. These things are true. They have been the quiet force of progress throughout our history. What is demanded then is a return to these truths. What is required of us now is a new era of responsibility — a recognition, on the part of every American, that we have duties to ourselves, our nation, and the world, duties that we do not grudgingly accept but rather seize gladly, firm in the knowledge that there is nothing so satisfying to the spirit, so defining of our character, than giving our all to a difficult task.

This is the price and the promise of citizenship.

This is the source of our confidence — the knowledge that God calls on us to shape an uncertain destiny.

This is the meaning of our liberty and our creed — why men and women and children of every race and every faith can join in celebration across this magnificent Mall, and why a man whose father less than sixty years ago might not have been served at a local restaurant can now stand before you to take a most sacred oath.

So let us mark this day with remembrance, of who we are and how far we have traveled. In the year of America's birth, in the coldest of months, a small band of patriots huddled by dying campfires on the shores of an icy river. The capital was abandoned. The enemy was advancing. The snow was stained with blood. At a moment when the outcome of our revolution was most in doubt, the father of our nation ordered these words be read to the people:

"Let it be told to the future world ... that in the depth of winter, when nothing but hope and virtue could survive ... that the city and the country, alarmed at one common danger, came forth to meet (it)."

America, in the face of our common dangers, in this winter of our hardship, let us remember these timeless words. With hope and virtue, let us brave once more the icy currents, and endure what storms may come. Let it be said by our children's children that when we were tested we refused to let this journey end, that we did not turn back nor did we falter; and with eyes fixed on the horizon and God's grace upon us, we carried forth that great gift of freedom and delivered it safely to future generations.

Thank you. God bless you. And God bless the United States of America.